GÓP NHẶT HOA THƠM.
Thời mạt pháp dâm tâm hừng thịnh, mọi người đều xúm nhau quảng bá dâm dục.

Trong Kinh Lăng Nghiêm phần: “Tứ chủng thanh tịnh minh hối”, Phật Thích Ca có nói: “Thời mạt pháp dâm tâm hừng thịnh, mọi người đều xúm nhau quảng bá dâm dục, ngày ngày tán dương dâm”… bạn xem có phải là thời này chăng?
Hiện nay, ở đâu cũng thấy quảng cáo, từ ngoài đường, phố xá đến báo đài, truyền hình… gì cũng quảng cáo. Nhưng người quảng cáo thường ăn mặc rất hở hang!
Hôm kia đi trên đường, tôi đang chờ đèn đỏ thì thấy bốn cô gái bên cạnh, mặc y phục hở cả lưng, eo… Model bây giờ là mặc hở rốn, hở eo, phơi hết bụng ra. Quần hay váy gì cũng cực ngắn, còn mặc tụt xuống thật thấp. Không phải kiểu ăn mặc ít vải như thế chỉ có tại địa phương này, mà khắp nơi. Đa số các vị mặc như muốn phơi thân hết ra ngoài, y phục càng lúc càng mỏng, ngắn cực kỳ!


Người thời nay quá chú trọng chuyện phòng the, còn ca ngợi, hướng dẫn, chỉ bày dâm tà. Thậm chí khuyến khích cả việc thủ dâm và cho đó là bình thường vô hại! Làm vậy tương lai đều sẽ xuống địa ngục. Vì thế người tu phải thanh tâm quả dục, dốc sức đoạn trừ dâm dục.
Vì chúng ta là phàm phu nên vẫn còn dâm tâm, nhưng phải lo trừ khử vọng niệm này. Quý vị có thể làm được chăng?
Nhiều độc giả xem sách tôi, họ chỉ là những cặp vợ chồng trẻ độ khoảng 20, 30 tuổi, đã có con viên mãn, song hiện nay đều rất thích tu và quyết tâm đoạn dục.


Đa số người thời nay ưa săn lùng thuốc tráng dương, cường âm… vì họ muốn làm tân lang tân nương mỗi ngày, nên xúm nhau lo kiếm thuốc săn ngực, chắc chắn… bổ chổ này, bồi chỗ kia, nữ nhân thì khoái ăn diện hở hang đến mức “Muốn nam nhân nhìn các cô là khởi dục”, bạn có biết làm vậy là tạo nghiệp ác, sẽ chiêu khổ báo đến cho bản thân mình hay không?


Lần này khi đến phi trường Thượng Hải, chuẩn bị lên phi cơ, tôi nhìn thấy tấm hình cô gái quảng cáo treo trên vách một tòa lầu. Hình cô được phóng to, lớn hơn nhiều so với người thật. Đó là một cô gái tóc vàng mặc bikini, các ông vừa nhìn thì mắt liền dán chặt vào thân thể cô, chẳng muốn bước đi. Họ đều nghĩ: “Chà! Sao mà bốc lửa, bắt mắt quá!”.
Đúng là cô gái này trời cho có body đẹp, tôi vừa nhìn, thì cảm giác đầu tiên là cô ta rất đẹp, nhưng cảm giác tiếp theo là: Tôi thấy rõ mồn một cô hiện đang mắc bệnh phụ khoa rất nặng.


Nghĩa là sao đây? Bởi vì rất nhiều nam nhân vừa nhìn thấy cô, thảy đều dừng chân ngó chăm chăm, thân thể cô quả nhiên mỹ lệ và quyến rũ.
Tại phi trường này, ngày nào cũng có đông người đến đây, các ông vừa nhìn cô thì đa số đều khởi ý nghĩ xằng bậy, dục phát ào ào… bởi cô ăn vận quá hở hang, khêu gợi. Chưa hết, sau khi các nam nhân này về đến nhà rồi, thì trong óc họ luôn tơ tưởng đến hình dáng bốc lửa của cô, kèm theo là ý tà dâm mãnh liệt. Như vậy rất không tốt.


Tôi quán sát tiếp, thấy cô gái này vẫn chưa chết, nhưng hiện đang nằm liệt trên giường không thể cử động, bởi cô bị bệnh phụ khoa quá nặng. Có lẽ cô sống cũng không làm việc gì bậy, lỗi… chỉ có chụp quảng cáo thôi. Nhưng chính vì cô mặc hai mảnh quảng cáo như thế, vô tình làm hại vô lượng vô biên người, cô đã phạm lỗi: Âm thầm gợi dục, kích khởi dâm tâm người bộc phát.
Vì vậy, các cô tuyệt đối không nên ăn mặc hở hang. Bạn muốn hở hang để lộ hàng, khoe thân? Thì chính là đang khiêu gợi lòng dâm, mà kích thích làm một người sinh tâm dâm thôi, thì tội đã vô biên rồi!


Chúng ta hiện tại đều ca ngợi tình ái yêu đương. Nhiều tình lắm dục để làm chi? Bạn muốn nam nhân nhìn bạn phải nổi dục, phát tình ư? Như vậy là muốn khơi gợi dâm tâm của người khác giới, đây chính là tội lỗi của bạn. Đối với bản thân bạn rất có hại, vì tội này do bạn tạo ra! Giống như cô gái trong hình quảng cáo kia, cô chẳng có làm gì bậy, nhưng chính tấm hình hở hang của cô đã gợi dục, làm loạn tâm nhiều ông, thúc đẩy tâm dâm họ bùng phát.
Hiện nay ta thường thấy những hình ảnh hay các cảnh quay quảng cáo, trong đó người mẫu hở hang tận mạng. Những loại quảng cáo dạng này rất có hại và mang tội nghiêm trọng, vì cố ý gợi dục khơi dâm! Cho nên, đã là đệ tử Phật, thực tâm muốn tu, thì sát, đạo, dâm, vọng… chúng ta nhất định phải đoạn trừ.
Cũng xin nhắn nhủ phái nữ: Khi đến chùa nên ăn vận kín đáo, không nên hở hang.


"
trích Báo
 ứng hiện đời (Ni sư Hạnh Đoan)

[Image: facebook.png] 
Reply
“DÙ CẢ ĐỜI CHẲNG SÁT SANH, NHƯNG HẰNG NGÀY ĂN THỊT, TỨC LÀ HẰNG NGÀY SÁT SANH !”


“Trong các ác nghiệp, chỉ có sát nghiệp là nặng nhất. Khắp dưới gầm trời, không một ai chẳng tạo sát nghiệp. Dù cả đời chẳng sát sanh, nhưng hằng ngày ăn thịt, tức là hằng ngày sát sanh! Bởi chẳng giết, chắc chắn chẳng có thịt! Kẻ mổ thịt, kẻ săn bắt, kẻ đánh cá đều là để cung cấp cho nhu cầu của người ăn thịt, họ giết hại thay cho mình.”

• Trích từ: ẤN QUANG ÐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC.
Mục lục: (4). Giảng những điểm trọng yếu về việc giới sát.
Reply
NGÀY NAY THANH NIÊN NAM NỮ BỊ TÂY HÓA RỒI, ĐANG HỌC CÁI GÌ? HỌC GỢI CẢM, HỌC THEO TRONG TIVI, ĐỀU HỌC THEO CÁCH ĂN MẶC NHỮNG QUẦN ÁO THẤT ĐỨC, ĐOẢN MẠNG! KHI RA ĐƯỜNG, NGƯỜI KHÁC VỪA NHÌN THẤY Y PHỤC CỦA BẠN, NGHĨ ĐẾN ĐỀU LÀ HẠ LƯU, KHÔNG CÓ VĂN HÓA, ĐI ĐẾN ĐÂU CŨNG PHẢI TRANG ĐIỂM...

Bạn thấy Hồng Kông có một ca sỹ nổi tiếng, là nam ca sỹ, đến bệnh viện khám bệnh, mới 28 tuổi mà đã bị teo não, là teo não, đến cuối cùng là 28 tuổi đã chết rồi, là nguyên nhân gì vậy? Là phóng túng tình dục, quan hệ tình dục bừa bãi, 28 tuổi đã chết vì teo não, dịch tủy não không còn nữa.

Vì sao rất nhiều người trẻ tuổi mà trí nhớ lại không tốt, là do bị mất đi rất nhiều tủy não và tủy sống, thân thể không tốt là có nguyên nhân. Có rất nhiều người bị cảm cúm, độ tuổi vẫn còn rất trẻ là nguyên nhân gì vậy? Là do mất đi rất nhiều số lượng thận tinh, tủy sống trống rỗng rồi thì bệnh gì cũng tìm đến. Cho nên người dân chúng ta coi trọng đạo đức nhất, không sinh bệnh, ít sinh bệnh.

 Ngày nay, chúng ta bị Tây hóa rồi, người nam và người nữ đều đang học gì vậy? Học gợi cảm, phải không? Mặc quần áo cũng không biết mặc, chưa cần nói đến ăn cơm, quần áo cũng không biết mặc, đi đến đâu cũng phải trang điểm, bạn thấy cô gái này trang điểm nhất định phải gợi cảm, học theo trong tivi, chẳng phải là dạy điều này hay sao?
Tôi nhớ có một lần, tôi đến cửa hàng bán quần áo nữ, có một bộ y phục giá là 1.080 đồng, lại còn là hàng hiệu. Tôi nói bộ y phục này có gì hay, cô chủ nói bộ y phục này gợi cảm. Tôi vừa nhìn bộ y phục này treo trên tường, tôi hỏi đây có phải là một bó dây đang treo ở đây không? Cô chủ nói, không phải, bộ này mặc vào sẽ rất gợi cảm, âyda!

 Tôi nói, đây đều là học theo phương Tây rồi, thứ này không tốt, cô chủ nói, anh xem tôi mặc thử cho anh nhé, cô chủ bán hàng nói, rồi mặc vào giống như trò ảo thuật vậy, mặc đống dây đó vào người, tôi vừa xem liền nói, đây chẳng phải là túi lưới hay sao, đều hở hang ra hết. Người miền bắc chúng tôi gọi đó là túi lưới, tôi nói đây chẳng phải là hở hang hết rồi sao? Cô ta liền nói, anh lỗi thời quá, anh lạc hậu rồi, bộ này là gợi cảm nhất, tôi nói bộ này của cô là thất đức nhất, bộ này của cô là bộ quần áo đoản mạng, bạn mặc vào rồi đi ra đường, mọi người thử nghĩ xem?

Bạn nói con gái này sau khi ra đường rồi thì nói cái gì vậy? Nói tỷ lệ quay đầu nhìn, mọi người đều quay đầu nhìn, bạn xem đây là giá trị quan của phương Tây, đều nhìn tôi, tỷ lệ quay đầu nhìn, điều này có gì kỳ lạ cơ chứ?

Nếu như bạn không mặc quần áo ra đường thì người ta sẽ càng nhìn bạn, tỷ lệ quay đầu nhìn càng cao, điều này có gì kỳ lạ đâu. Cho nên bạn thấy không, cô ta mặc quần áo để phơi bày thân thể ra như vậy, mặc mà không giống như mặc quần áo của con người, vậy thì người ta chẳng phải xem bạn giống như xem khỉ hay sao?
Động vật mới không mặc quần áo, bạn xem bộ y phục này có cái tên rất đẹp gọi là gợi cảm, tôi nói cô đang muốn lấy mạng người, người đi trên đường vừa nhìn thấy cô thì thần hồn điên đảo, bộ quần áo này của cô chẳng phải là đoản mạng hay sao? Thật sự là như vậy.

Cô ta nhìn tôi, cô nói, bộ quần áo này của anh tốt hay sao, tôi nói bộ quần áo này của tôi là văn hóa truyền thống, là bộ quần áo mà lão tổ tông phát minh cho chúng ta, bạn thấy thân áo rộng tay áo dài. Chiếc áo này của tôi là áo mà các vị thầy giáo của chúng tôi mặc, thân áo rộng tay áo dài. Cô ấy nói, vậy thì có gì hay cơ chứ. Tôi nói, chiếc áo này không thất đức, nó không gợi cảm, sau khi mặc chiếc áo này vào, người khác nhìn thấy, đầu tiên là thường xuyên hỏi tôi, này anh bạn, có phải anh bán trà xanh phải không? 
Tôi nói, không phải, họ lại hỏi tiếp là vậy thì anh có phải là bác sỹ không? Có phải anh bán thuốc đông y không? Tôi trả lời là cũng không phải, anh ta lại nói tiếp vậy có phải anh là thầy giáo dạy học không, dạy sách xưa, tôi nói cũng không phải. Thế nhưng ngược lại bạn nghe xem, người khác vừa nhìn thấy chúng tôi mặc chiếc áo như thế này thì họ nghĩ đến là gì vậy? Trà xanh, thuốc đông y, sách xưa, đều là những thứ tốt, đều là những thứ mạnh khỏe trường thọ, đúng hay không? Là tốt, là đạo đức.

Ngày nay thanh niên nam nữ học theo trong tivi, đều học theo cách ăn mặc những quần áo thất đức đoản mạng, khi ra đường, người khác vừa nhìn thấy y phục của bạn, nghĩ đến đều là hạ lưu, là mất mạng. Cho nên tôi thường xuyên nói với họ, bạn mặc quần áo cũng không biết cách mặc, người dân nước ta có đạo đức, thật sự có đạo đức. Cho nên chúng ta thường xuyên hỏi một câu, bạn có biết làm người nữ không, có biết làm người nam hay không? Câu nói này ý nghĩa rất thâm sâu!

Nếu như không biết làm một người vợ thì là chết rồi, ngày ngày trang điểm lòe loẹt, trang điểm thật gợi cảm, lại còn khoe khoang với chồng của mình, ông chồng này cũng rất hồ đồ, vì sao em không trang điểm để gợi cảm hơn chút nữa, em xem những người nổi tiếng kia rồi học làm theo họ, vì vậy trong nhà bạn có một người vợ gợi cảm, bạn quan hệ tình dục tám lần trong một ngày thì bạn sẽ chết sớm, thật sự là như vậy!

Trích: Tác Hại Của Việc Phóng Túng Tình Dục Đối Với Sức Khỏe Con Người.

Chủ Giảng thầy Trần Đại Huệ.
Xin Thường Niệm Nam Mô A Di Đà Phật [Image: 1f64f.png][Image: 1f647_200d_2640.png]
Reply
ĂN UỐNG & TÍNH CÁCH

🍖🥩Trong giới động vật thì những loài ăn thịt (như hổ, cầy, cáo...) lúc ăn thì gầm gừ, tranh giành cấu xé là vì chúng thường không thể sống chung thành đàn đông đúc, quây quần bên nhau được. Con đực thường ăn thịt con non. Những chó sói con trong cùng một ổ có thể cắn chết nhau mà vẫn thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra.

🥬🥦Trái lại, những loài ăn thực vật (như trâu, bò, hươu, nai ...) thì bình tĩnh, thư thái trong khi ăn, chúng thường sống hòa thuận, yêu thương, cùng chăm sóc, che chở, bảo vệ lẫn nhau, nhất là đối với những con non.
📖Người ta tiến hành thí nghiệm và những kết quả chứng minh ảnh hưởng của thức ăn đối với tính loài vật:


🎯Cho chim bồ câu ăn những viên thịt, thì chỉ sau gian ngắn, những con bồ câu hiền lành tượng trưng cho hòa bình ấy đã trở thành ác điểu: móc ruột moi gan nhau để ăn.
🎯Hai con chó cùng một ổ, một con cho ăn thảo mộc, Con kia cho ăn thịt. Sau một thời gian con thứ nhất trở nên hiền lành, trung thành, ngoan ngoãn dễ bảo, lại nhẫn nại và chịu đựng mệt nhọc rất dẻo dai. Con thứ hai trở nên hung dữ, ích kỷ, lười biếng, kém chịu đựng... rõ rệt.
Nếu cho hai con chạy đua thì lúc đầu con ăn thịt sẽ dẫn trước, nhưng càng về sau con ăn thảo mộc càng ưu thế và thắng cuộc.
Cho hai con cắn nhau thì Con ăn thảo mộc thường bỏ chạy, nhưng kích động cho cả hai cùng “quyết chiến” thì Con ăn thảo mộc sẽ thắng tuyệt đối.


🎯 Hai con sư tử cùng một ổ, Con thứ nhất cho ăn hoàn toàn thảo mộc chỉ bơm mùi thịt nhân tạo, con thứ hai cho ăn thịt như bình thường. Khi lớn lên con thứ nhất hiền lành như cừu non, Con thứ hai là sự tử thứ thiệt.
🎯Quan sát, Có thể dễ dàng thấy: Trẻ con ăn nhiều thịt thường ngỗ ngược, không vâng lời, rất ích kỷ, lười biếng... Trẻ ăn Cơm rau là chính thường thùy mị, ngoan ngoãn, chăm chỉ, khỏe mạnh và dẻo dai hơn nhiều.


Người lớn ăn nhiều thịt thường hay nóng nảy, cục cằn, ích kỷ, thiếu kiên trì, nhiều khi thô lỗ, độc ác... Người ăn thuần chay thì bình thản, điềm tĩnh, kiên nhẫn, vị tha...
Nhìn chung, người thuộc Âm tính thường mập, do tích nhiều nước, da ẩm ướt, yếu đuối lười nhác, hay kêu ca than văn, giận hờn, do dự, khả năng chịu nóng lạnh kém, kém nghị lực, kém trí nhớ, thiên về lý thuyết, thích viết ngại nói, ngại giao tiếp, tính tình hay thay đổi. Thái quá thì thường ích kỷ và hiểm độc.
Trái lại người thuộc Dương tính cơ thể vững chắc, nhanh nhẹn, dẻo dai, thích hoạt động, trí nhớ tốt, quả quyết, kiên định, thích sinh hoạt tập thể, thích nói ngai viết, thiên về thực hành. Trường hợp quá Dương tính thường trở nên cực đoan, hung dữ, tàn bạo.


💁‍♀️Ăn uống theo nguyên lý Âm - Dương (theo Thực dưỡng) sẽ trung hòa được các đức tính trên, loại bỏ những khía cạnh thái quá để trở về quân bình, hiền hòa, khiêm tốn, khoan dung, nhường nhịn, rộng lượng với người khác (Âm bên ngoài) nhưng đối với bản thân lại rất nghiêm khắc, kỷ luật, trọng nguyên tắc, cương nghị... (Dương bên trong).
💁‍♀️Vì vậy, “Tâm địa xấu xa đáng ghét chẳng phải là cố tật của con người, mà chỉ là kết quả của cách ăn ở sai lầm. Bằng phương pháp thực dưỡng đúng đắn, chúng ta có thể chuyển hóa hận thù thành yêu thương, ghen ghét thành cảm mến, phiền não thành an lạc... Nếu muốn mọi người yêu thương, bạn phải Dương bên trong, Âm bên ngoài, bấy giờ tất cả những kẻ Âm hay Dương đều bị bạn lôi cuốn." (Ohsawa)
🙋‍♀️Hơn nữa, người ăn chay theo nguyên lý Âm - Dương lâu dài, do ăn nhiều thức ăn tri giác nên thông minh, tính từ bi, hỷ xả, tình thương bao la... ngày càng phát triển.
🙋‍♀️Ăn uống đúng sẽ tạo cơ sở cho những ý nghĩ, việc làm đúng. Ăn uống sai dễ khiến cuộc đời trở nên rắc rối, phức tạp. Bởi vậy cổ ngữ Đông phương có câu: “Cái bụng khống chế cái đầu”.


🙋‍♀️Khi đã “ngộ” được quy luật tự nhiên, thấu hiểu rằng ăn thanh đạm đem lại sức khỏe và tình cảm tốt đẹp, thì người ăn chay trường, đúng quy luật Âm - Dương không những không ghét bỏ những kẻ làm ăn bất chính, gây tội ác để được ăn sung mặc sướng, trái lại họ thấy thương những kẻ đó vì mê mờ, mù quáng, mà làm việc bất nhân, hại người, nhưng lại là tự đầu độc, hủy hoại thể chất, tinh thần, nhân cách... của chính mình.


Trích Minh Triết Trong Ăn Uống Phương Đông- Ngô Đức Vượng

[Image: modify_inline.gif]
Reply
GIẢM THỌ HAI KỈ LÀ 24 NĂM.
Bây giờ tôi kể chuyện của mình: Tôi có người bạn , tính hiền lành, rộng rãi, tốt bụng, khả ái, chỉ có điều là nó quan niệm “vật dưỡng nhân” nên sát sinh mạnh tay, thêm phần nó có tài nấu bếp, nêm nếm ngon, nên ai cũng thích, ai cũng mê. Vì vậy mà nhà ai có đám tiệc giỗ chạp, cưới hỏi v.v… đều xúm nhau đặt nó nấu.

Cô bạn tôi mới năm mươi, bỗng bị bịnh tiểu đường nặng, chẳng mấy chốc mà lìa trần.

Tôi băn khoăn, thắc mắc mãi, thầm nghĩ: Bạn tôi hiền, tính tốt như vậy, vì sao lại yểu mạng? Tối đó, tôi nằm mơ nghe văng vẳng bên tai lời giải thích: Bạn tôi do sát sinh nhiều nên bị giảm hai kỷ! Tôi giật mình.

Sáng ra tôi nhẩm tính: Một kỷ là mười hai năm, giảm thọ hai kỷ là hết hai mươi bốn năm! Như vậy, đúng ra bạn tôi được sống tới 74 tuổi, nhưng do sát sinh quá nhiều nên nó bị yểu mạng, chỉ sống tới năm mươi tuổi. Tôi ngậm ngùi… Buồn thầm. Rất buồn! Dẫu tôi có nói ra điều này, người thân nó chắc chắn chẳng ai tin, mà quý độc giả của tôi, liệu có mấy người tin?

Tôi chợt nhớ đến các bài dịch của mình. Phùng phùng là vị có thiên nhãn, từng tiếp xúc với một vong linh vất vưởng. Ông nhìn ra vong linh này tốt tính, tuổi thọ đúng ra được sống đến 80, nhưng do ông ta ăn thịt nhiều, cả đời vùi đầu trong ăn uống, hưởng thụ thịt súc vật quá nhiều, nên mới năm mấy ông đã bịnh tiểu đường rồi chết.


LỢI ÍCH CỦA VIỆC ĂN CHAY:

Tôi nhớ Ngài Tuyên Hóa cũng từng nói một câu đại ý như sau: “Lúc sống ăn chay xem như bị thiệt thòi, nhưng sau khi chết lại được lợi ích.Lúc sống ăn mặn thấy như là hạnh phúc, nhưng sau khi chết phải chịu khổ đau”.


Ăn chay đem lại lợi ích cho chúng ta thực lớn: Không bị chết dữ, không bị yểu mạng, ít bịnh, có gặp tai nạn chi cũng được che chở chuyển dữ hóa lành. Ăn chay mà kèm theo giữ giới nghiêm minh, thì giống như cọp có cánh, rồng gặp mây, vạn sự hanh thông, trì chú gì cũng linh, mọi điều mong cầu đều dễ thành.

Nếu bạn thấy người sống lành ăn chay mà đoản mạng, chết dữ… là do quá khứ họ từng tạo ác nghiệp nên phải đền trả. Nếu bạn vững tin nhân quả thì cứ gieo nhân lành, chắc chắn sẽ gặt quả thiện.
Câu chuyện này viết ra mong bạn đọc được lợi ích. Vì vậy, tin hay không, quyết định sống thế nào, là tùy bạn.


Hạnh Đoan – Viết xong 29/6/2019 7:34

[Image: modify_inline.gif]
Reply
Lời người dịch:

KHI BẠN NGHE NHỮNG NGÔI MỘ CỔ ĐƯỢC KHAI QUẬT CÓ NHIỀU VÀNG BẠC, CÁC BÁU VẬT CŨNG ĐƯỢC TÌM THẤY TRONG CÁC LĂNG MỘ NÀY NHIỀU VÔ KỂ, BẠN TÒ MÒ THÍCH THÚ MUỐN THAM QUAN, MUỐN TẬN MẮT XEM XÁC ƯỚP, XEM TẤT CẢ MỌI THỨ LẠ LÙNG TRONG CỔ MỘ Ư?

Nếu hết dịch covid bạn có thể tung tăng đi thoải mái, bạn cũng đừng tò mò đi xem khai quật hay triển lãm cổ mộ, xác ướp… nhé. Dù có xem qua ti vi thì hãy nhớ nín khe, chớ dại dột thốt lời bình phẩm nào nhé.
XIn mời bạn xem câu chuyện dưới đây:


[b]KHÔNG NÊN XEM TRIỂN LÃM CỔ MỘ
[/b].

Hán Văn: Phùng Phùng
Hạnh Đoan tuyển dịch


Có một vị là Khương thái thái, đến nhờ tôi thấu thị.
Tôi nhìn thấy con gái bà khoảng mười ba - mười bốn tuổi, đứng cùng với nhiều người trước một ngôi đền thờ thần (trông rất lạ) để tham quan. Tượng thần là nam nhân ở trần để lộ ngực, ông mặc quần ngắn màu hoàng kim, phơi bày đôi chân. Hai tay ông có hai con kim xà quấn quanh, diện mạo ông thanh tú, đẹp như mỹ nữ. Đôi mắt kẻ viền màu đen với cái đuôi mắt vẽ rất dài, đôi môi sơn đỏ chót. Đầu đội vương miện vàng, phía trên có những con rắn mắt kính ngậm và nhả các đồ trang sức bằng vàng, hai bên khoác màn vàng rủ xuống… Bức tượng này nhìn không phải nam không phải nữ; đôi mắt sáng quắc, mạnh mẽ và rất sắc, bên cạnh còn có các tượng thần khác…


Tôi nói: Đây không phải tượng Phật giáo, không phải tượng thần Bà la môn, có thể là tượng thần Ai Cập! Nhưng cô bé con bà cứ đưa tay chỉ trỏ vào tượng thần và đang bị tượng thần phóng ra những lời nguyền rủa nhắm vào cô bé!  Những lời nguyền này đã có  từ hàng ngàn năm trước, hàm chứa uy lực rất lớn! Do vậy nó đã tỏa ác lực khiến con gái bà kể từ giây phút đó tinh thần trở nên thất thường, vì thần kinh bị rối loạn...

Tôi mô tả các chi tiết về tình hình bất thường của cô con gái, tất cả đều phù hợp với sự thật. Nhưng bà Khương nói:
-Thật vô lý quá đi! Rõ ràng là tôi không hề dẫn con bé đi tham quan bất kỳ tượng thần Ai Cập nào!
Ở Canada không có các đền thờ này, dù một số nơi cũng có có thờ tượng thần Ấn của người da đỏ. Tôi nói:
-Tượng tôi nhìn thấy đa phần giống các tượng thần thờ trong những ngôi đền hoàng đế Ai Cập!
Bà Khương bỗng nhớ lại và kêu lên:
- Đúng rồi, bốn năm trước, tôi có dẫn con gái đi tham quan tượng thờ vua Ai Cập, tượng mà ông mô tả chính là tướng mạo của vua Tutt
Vua Tutt Ai Cập Cổ đại (chết lúc mười chín tuổi và được ướp xác  trong quan tài vàng,  bức tượng vàng của ông bị khai quật, chở đến phòng triển lãm Mỹ-Ca (Hoa Kỳ và Canada), rất nhiều người nghe danh tìm đến tham quan (nhưng họ chẳng hề biết là những Hoàng lăng của kim tự tháp Ai Cập cổ đại đều luôn được các thầy phù thủy dùng bùa chú phong bế). Nên hễ ai dám nói lời hay tỏ vẻ mạo phạm các kim tự tháp và người quá cố trong đây, đều sẽ bị uy lực của phù chú tấn công, làm hại.


Nhóm các nhà khảo cổ và các trợ lý từng khai quật lăng mộ vua Tut trước sau đều đã chết không toàn mạng. Còn những người tiếp xúc với các di tích này, cũng đã gánh họa tới tấp! Những điều này là thực, có hồ sơ ghi chép chứng minh.

Bà Khương lẽ ra không nên đưa con gái mình đi xem xác ướp vua Ai Cập và các tượng thần trong nhà triển lãm, vì lúc đó con bà thiếu hiểu biết, nên nó cứ đưa tay chỉ vào tượng thần của vua Tut, miệng không ngừng chê bai, miệt thị: “Đúng là nam chẳng ra nam, nữ chẳng ra nữ!”… Do vậy mà nó đắc tội với ông, nên đã bị bùa chú kia trừng phạt, ám hại.


Lúc những gì khai quật trong kim tự tháp được mang đến triễn lãm ở Seattle, tôi đều không dám đi xem! Bởi tôi thừa biết uy lực phù chú của Ai Cập cổ đại rất kinh khủng! Pháp thuật của các phù thủy Ai Cập cổ đại rất mạnh! Hơn nữa, bên trong kim tự tháp đều có thây độc chứa đầy các vi khuẩn đáng sợ, ngay cả các kiện vật được chôn theo người chết đều có kèm xác vi khuẩn cực độc, mà những khuẩn này có thể gọi là loài virus vô cùng độc, sống ngàn năm bất tử). Các nhà khoa học Anh cũng phát hiện bên trong chiếc quan tài cổ chứa đầy xác vi khuẩn độc hại, trải qua hơn hai ngàn năm rồi mà chúng vẫn còn sống rất mạnh mẽ và tiếp tục sinh sôi phồn thịnh).


Khi đi tham quan kim tự tháp Ai Cập, cổ mộ và xác ướp… cho dù bạn không tin vào uy lực phù chú của họ, thì ít nhất phải đề phòng cái thi thể đầy vi khuẩn độc. Thêm nữa, các thầy phù thủy Ai Cập cổ rất giỏi về việc chế tạo virus độc, nên trong lúc họ niêm phong ngôi mộ, đã cho các vi khuẩn độc này được an trí cùng các bảo vật lẫn hoàng kim. Họ dùng thứ này để sát hại bất cứ ai dám cả gan mạo phạm đến hoàng lăng và trộm mộ !

Rất nhiều người không biết rõ những điều này. Do tò mò mà họ kéo nhau đi xem cổ mộ, xác ướp, nhìn ngắm các bảo vật được chôn theo v.v… Vì vậy mà họ bị nhiễm khuẩn độc vào cơ thể mà không hề hay biết!


Ngay cả lăng mộ của Tần Thủy Hoàng và Võ Tắc Thiên cũng đều có bùa chú niêm phong và cũng chứa vô số khuẩn độc gây bịnh. Các nhà khảo cổ Trung Quốc và rất nhiều người khai quật lăng mộ này hoàn toàn không biết nên họ còn lấy đất và các đồ vật chôn theo đem về triễn lãm.

Tôi cho rằng, về nghiên cứu học thuật, tuy không phải vô nghĩa, nhưng về mặt đạo đức thì việc xâm phạm lăng mộ người chết, đã làm cho vong hồn bất an. Việc khai quật cổ mộ lại vô tình phóng thích và tạo cơ hội cho các vi khuẩn độc phát tán, hành vi này vừa không hợp vệ sinh lại rất ngu khờ thiếu trí tuệ! Xin đừng cho là tôi đặt điều nói nhảm để dọa mọi người sợ, xin quý vị hãy đợi mà xem!


Chuyện con gái bà Khương, không ai biết rõ. Nhưng sao tôi lại biết bà đã dẫn con gái đi xem triễn lãm cổ mộ tượng thần Ai Cập? Đứa con gái nhỏ của bà lúc này không có mặt tại nhà tôi, nhưng tôi vẫn nhìn thấy ngực con bé đang bị hình ảnh âm u của tượng thần đeo theo ám rất sâu, lúc nào ông cũng hướng về cô, hung dữ nguyền rủa…


Sau đó cô bé có đến thăm tôi, cô thú nhận là luôn bị đôi mắt hung dữ của tượng thần “bất nam bất nữ” trong ngôi đền cổ liên tục đeo theo ám ảnh và thịnh nộ gào thét gọi tên cô!

Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa tìm ra phương thuốc trị cho cô bé ấy!


Qua câu chuyện này, tôi muốn khuyên độc giả: Tuyệt đối chớ có dại dột đi xem triển lãm các ngôi cổ mộ, tượng thần hay xác ướp giống như thế này. Cũng đừng đến xúc phạm mộ.

NẾU BẠN KHÔNG TIN TÀ THUẬT BÙA CHÚ, THÌ CŨNG PHẢI TIN LÀ CÓ VI KHUẨN CỰC ĐỘC NƠI XÁC CHẾT SẼ PHÁT TÁN GÂY HẠI.

Trích dịch phẩm BÍ ẨN NHỮNG VÌ SAO
Reply
CHUYỆN KỂ VỀ ĐỊA NGỤC KHỦNG KHIẾP .

Ni sư Diệu Hân hiện tu tại am Bát Nhã ở 365b/1, đại lộ Nguyễn Văn Linh nối dài, xã An Phú Tây, huyện Bình Chánh, TP – HCM.
Cô là một Sa Di Ni hết sức đặc biệt, từ nhỏ đã có thể khai mở mắt âm dương, thấy được rất nhiều loại ma quỷ, từ những vong linh vất vưởng, đến những loại quỷ hình thù kinh dị, dữ tợn, đặc biệt, cô còn được phúc lành diện kiến với các vị Bồ Tát trong siêu hình. Chính nhờ điều đó, cô được học rất nhiều đạo lí quý báu, do chính các vị Bồ Tát chỉ dạy, làm hành trang quan trọng trên con đường tu hành sau này.


Cô trải qua một tuổi thơ hết sức dữ dội. Lớn lên lấy chồng sinh con, nhưng cuộc sống cũng đầy những đau thương. Sau nhiều năm nếm trải đủ mùi vị cay đắng của thế gian, cuối cùng, cô xuất gia, nương nhờ cửa Phật để tìm một con đường giải thoát khỏi những bi ai của nhân thế.
Tuy nhiên, con đường tu hành cũng chẳng hề bằng phẳng, cô gặp phải nhiều thử thách, nhiều sự khinh chê, dè bỉu. Sau này, cô rời khỏi đại chúng trong chùa, về nhà tự cất một cái am nhỏ tu một mình. Và câu truyện đặc biệt li kì, rùng rợn của cuộc đời cô, đã xảy ra trong khoảng thời gian này.
Ngày 1/11/2002 lúc hai giờ sáng, tại am nhỏ của mình, cô đang nằm trên võng thì chợt thấy linh ảnh Đức Phật hiện ra, hào quang rực rỡ, Phật chỉ thẳng tay về phía cô, rồi linh ảnh Phật dần mờ đi. Cô mừng rỡ bật dậy thắp nhang cúng Phật, thì cô nhận thấy mắt mình có chút vấn đề. Hai mắt sụp xuống, mở lên như mọi khi không được, chỉ he hé được một chút.


Qua hôm sau vẫn không khá hơn chút nào, cô đành lần mò ra tiệm thuốc Tây gần đó, cô vẫn nhớ rõ, tiệm thuốc đó tên là Thái Hòa. Dược sĩ khám thì thấy mắt không có bệnh gì. Cô bèn nài nỉ ông bán cho ít thuốc ngủ, về ngủ thật nhiều may ra mắt sẽ trở lại bình thường. Van nài mãi, cuối cùng cô cũng mua được hai viên thuốc ngủ.
Về nhà, cô dặn mọi người để yên để cô ngủ một giấc thật dài, rồi uống thuốc và nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, khi đó khoảng mười giờ sáng.
Cô thấy mình lạc vào một khung cảnh đẹp đẽ, cây cối xanh tươi. Có một chiếc cầu rất dài, cô bước lên cầu đi được một lúc, thì cầu đổ sụp xuống, cô té nhào xuống sông.
Cô thấy dòng sông rất đẹp, cô muốn bơi vào bờ, nhưng bơi mãi không vào được. Thật lạ, bờ sông ở ngay đó nhưng bơi mãi không thể tới. Lúc đó,cô cảm thấy chới với, hốt hoảng, và sợ hãi …


Dần dần, dòng nước đó đưa cô ra cửa biển, nước trở nên rất lạnh, buốt thấu tim gan. Cô nhìn quanh thấy không chỉ có mỗi mình mình, mà có đến vô số người khác cũng trôi dạt theo dòng nước vào biển lạnh này, người Tây có, người ta có, Âu có, Á có, già trẻ nam nữ … đều có.
Người cô bị lạnh quá, trở nên cứng đờ ra. Quá sợ hãi, cô nghe thấy một giọng từ trên cao nhắc hãy niệm Phật, cô nghe theo cố hết sức niệm Phật, mãi mới phát âm được chữ “…Phật !… Phật”. Dần dần, niệm được “…A Di Đà Phật!”, rồi đầy đủ câu “ Nam Mô A Di Đà Phật!”, nhờ đó, cô cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Và cô quay sang chụp lấy hai người xung quanh, niệm Phật giúp họ. Lát sau, họ hết lạnh, và một người quay sang nói: “ Cô ơi, con chết đã được mười mấy ngày rồi”, người còn lại cũng nói đã chết hai mấy ngày rồi, và đây chính là biển ngâm người chết trong vòng 49 ngày.


Nghe đến đây, Ni Diệu Hân rụng rời vì nghĩ rằng mình đã chết, cô thấy hết sức đau khổ. Nhưng sau này, cô mới biết thực ra cô xuống đây để chứng kiến cảnh địa ngục, để trở lại nhân gian tường thuật cho người đời biết, chứ cô chưa có chết.
Cứ thế, dòng nước cuối cùng đưa cô tới một cửa biển, người người lớp lớp chìm nổi, dày đặc, đông vô số kể. Nơi đó xuất hiện một tòa thành to lớn, phía sau là núi cao vời vợi không nhìn thấy trời đâu ( trong kinh gọi là núi Thiết Vi)


Cô dạt vào bờ, bước lên tòa thành đó, và kinh hoàng nhận thấy các vị đầu trâu mặt ngựa, các vị quỷ vương… đủ mọi hình thù kinh dị, dữ tợn, vị nào vị đó to lớn khủng khiếp, số lượng đông đảo vô cùng.
Một vị quỷ vương dẫn cô đến một cánh cửa, cánh cửa ấy tự động mở ra, ánh hào quang bừng sáng, và cô nhận thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, và Chuẩn Đề Bồ Tát, uy nghi ngự trên đài. Lập tức cô cúi đầu quỳ lạy ba vị Bồ Tát.


Sau đó, cô được ba vị Bồ Tát hướng dẫn phát lồ, sám hối các ác nghiệp. Sám hối xong, hai vị quỷ vương dẫn cô vào các địa ngục, bắt đầu chuyến du hành khủng khiếp có một không hai. Cô được biết, mỗi bước chân mà hai vị ấy dẫn mình đi, tương đương với hai ngàn dặm chứ không phải như bước chân bình thường, nghĩa là địa ngục thực sự vô cùng khổng lồ, không dựa vào thần thông của các vị quỷ vương, không thể đi hết.
Cửa ngục đầu tiên mở ra, trên cửa ghi chữ tàu gì đó cô không hiểu, hỏi ra mới biết đó là ngục bất hiếu. Đập vào mắt cô là những chông sắt ghê rợn trên một bàn trông khổng lồ, có hình tròn, số lượng người trên bàn chông đó đông không thể tính kể.


Các quỷ vương đẩy những tội hồn lơ lửng trên không trung, rồi bị các tảng đá từ trên cao đè xuống, cắm phập vào chông sắt to như ngón tay, máu tuôn ra xối xả. Hình phạt đó, cũng như mọi hình phạt khác, cứ lập đi lập lại nối nhau không ngừng.
Chỗ khác, có những bàn băng lạnh, tội hồn nằm, ngồi ngổn ngang trên đó, lạnh thấu xương tủy. Hai vị quỷ vương nói, đó là quả báo do bỏ cha mẹ chịu đói, chịu lạnh. Còn chung toàn ngục này là do 12 loại tội bất hiếu, khi còn sống đã phạm khiến tội hồn phải vào đây chịu khổ, như hỗn xược cha mẹ, phá tiền của cha mẹ, đánh đập, giết cha mẹ, bỏ mặc cha mẹ đói lạnh…


Tiếp theo, Ni Diệu Hân được dẫn vào địa ngục thứ hai, tên là Vô Gián. Ngục này do phạm 80 tội danh khác nhau mà tội hồn phải vào đây, như mua gian bán lận, cướp đoạt hại người, cho vay nặng lãi, bóc lột người làm công, anh em tranh giành gia tài v.v…
Các hình phạt ở đây rất đa dạng, như đổ nước đồng sôi vào mồm, móc lưỡi kéo ra chặt, hay chặt tay, chặt chân, cho rắn, bò cạp cắn xé, bị quỷ địa ngục đâm lòi ruột kéo ra.v.v… Các tội hồn gào thét kinh hồn. Giả sử mà có máy quay ghi lại, thì không bộ phim kinh dị nào có thể so sánh được, đảm bảo ai xem rồi thì thà chết cũng không dám phạm tội.
Tiếp đến, cô được dẫn vào ngục Đại Thập Ác, các hình cụ rất nhiều, cối xay, đinh đâm, cột đồng lửa.v.v.. Có một vạc dầu cực kì khổng lồ, như một cái hồ lớn, bên trong người người lúc nhúc chìm nổi, gào thét. Tội hồn phải đọa vào đây vì các tội : giết vợ, giết chồng, giết con, phá thai, gian dâm, loạn luân, hành nghề mại dâm, khinh chê, phỉ báng người khác.v.v…


Cô đặc biệt ấn tượng với hình phạt Kim châm, dành cho những người phạm tội châm chích, kích bác, khinh chê lườm nguýt người khác, ăn xén ăn bớt.v.v.. Các tội hồn bị trăm ngàn cây kim sáng loáng, dài khoảng một gang tay, từ hư không hiện ra phóng vào người, xuyên qua từng thớ thịt, cứ thế kim phóng không ngơi nghỉ, thật đáng sợ.
Tiếp đến là Địa ngục Hỏa Thiêu, đâu đâu cũng là lửa cháy rực, dành cho những người làm thầy giáo, cô giáo, học trò phạm tội, như thầy dạy dấu nghề, dạy sai giáo án, không có lương tri, hại trò, trò đánh thầy, giết thầy.v.v…


Tiếp nữa là ngục Thập Nhị Tội Ác, dành cho 12 đại tội gây nguy hiểm cho xã hội, gồm:
1- chạy xe cố ý đâm chết người
2- cai ngục thả tử tù
3- làm tiền giả
4- xây nhà không đúng chất lượng
5- xây cầu đường cẩu thả không đúng chất lượng
6- buôn bán chất nổ
7- buôn bán ma túy, chất gây nghiện
8- đầu cơ phá hoại nền kinh tế
9- quan tòa bao che tội phạm
10- bức hại, tàn sát nhân dân
11- thông đồng ngoại bang hại nước
12- mượn danh quốc gia ép, hại nhân dân.v.v..


Những tội hồn bị vào đây rất khó được thoát ra mà siêu sinh cõi khác. Trong ngục có một biển nước lạnh giá, dưới nước là các quái vật hung dữ, bên trên là đủ thứ hình cụ nhìn lạnh xương sống.
Và, ni sư Diệu Hân rụng rời khi nhận ra người dì họ của cô đang ở trong đó, trong biển người trùng trùng điệp điệp. Bà bị các đầu trâu mặt ngựa kéo thân xác, chặt chém liên tục, máu thịt vương vãi đầm đìa. Nếu cố vùng vẫy bỏ chạy thoát ra, lập tức sẽ bị các hình cụ, móc sắt bên trên ập tới, đâm nát thân. Cô cố gọi người dì, nhưng tội hồn ở đây giống như không có tai, không thể nghe thấy được.
Khi còn sống, vào thời trước giải phóng, người dì này hành nghề buôn bán ma túy từ Campuchia về bán trong nước. Cuộc sống giàu sang, tiền bạc, nhà cửa, xe cộ …thừa mứa, con cái ăn xài phung phí.


Sau Giải phóng 1975, báo ứng hiện tiền ập đến, gia sản tiêu tán không còn gì, con cái bất hiếu, lưu lạc mỗi đứa một nơi. Ngày bà lìa đời tiền mua cỗ quan tài cũng không có. Nhưng người đời chỉ nhìn được chút ít quả báo đó mà thôi, chứ đâu biết báo ứng còn gấp triệu tỉ lần thê thảm hơn thế ở dưới địa ngục này.
Cô cũng ngạc nhiên nhận ra một người quen khác, đó là ông hàng xóm cũ của cô trên đường Nhật Tảo, TP HCM. Khi còn sống, ông làm chủ một hãng in lớn, thời đó, cô thường chơi thân với con gái thứ hai của ông. Ông vào địa ngục này vì tội in tiền giả. Khi còn sống, ông đã bị bắt và tuyên án tử hình. Chết rồi vào địa ngục này đã hai mươi mấy năm, bị các tảng đá đập nát thân thể, máu me be bét, cực kì khốn khổ, cứ thế đến ngàn muôn kiếp.
Cô muốn ở lại thêm, nhưng các vị quỷ vương đã đẩy cô đi nhanh, đến các ngục khác.


Ngục tiếp theo là Hỏa Ốc ( Nhà lửa), dành cho các bậc tri thức không có lương tâm, như nhà văn viết truyện lệch lạc, y bác sĩ tha hóa, điều chế, buôn bán thuốc giả, in ấn kinh sách sai lệch… Các tội hồn bị quỷ đóng đinh vào đầu, óc máu tung tóe, chết rồi hoàn lại thân xác, tiếp tục đóng đinh. Hoặc bị cột đá rơi từ trên cao xuống giã xác thân tan nát, như người ta dùng chày giã cua vậy. Hoặc bị quỷ dữ móc ruột, móc họng rồi ăn nuốt một cách rùng rợn… cứ thế nối tiếp không biết đến khi nào thôi.


Tiếp đến, hai vị quỷ vương đưa cô đến ngục Hỏa Ưng, thuộc Đại địa ngục A Tỳ, dành cho những cư sĩ, những người hủy báng Tam Bảo, lạm dụng, trộm cướp của Thường Trụ, lấn quyền điều hành trong chùa, khinh chê, bức hại bậc chân tu, Tăng Ni, Phật tử; đánh đập, chửi rủa Bồ Tát hiện tiền, phá hủy tượng Phật, chùa chiền, hành dâm trong chùa, lợi dụng Tam Bảo để buôn bán cắt cổ.v.v… với những đủ thứ hình phạt như ăn giòi, sói lửa cắn xé, quả cầu lửa thiêu đốt, chim ưng mổ mắt.v.v…
Đặc biệt, có những con chim đại bàng khổng lồ, một cái móng vuốt cũng to gấp mấy lần cái bàn tay con người, nhìn thôi là lạnh xương sống, chúng bay xà xuống chụp đầu các tội hồn, móc mắt, xé xác… Rồi có những con quỷ to lớn, lông lá xồm xoàm, mắt to như quả cam, hung tợn xé xác tội hồn ăn thịt.


Hai vị quỷ vương chỉ một tội hồn cho cô xem, khi còn sống, bà tên là Diệu Tích, là Phật tử một chùa lớn ở Sài Gòn. Năm 1972, bà nắm được chút quyền lực trong chùa, thường chửi mắng Hòa thượng, đánh đập tăng ni, gây sự với các Phật tử công quả khiến ai ai cũng sợ khiếp vía. Vào ngục A Tỳ này rồi, bà bị chó xé xác, bị giòi đục khoét, bị lửa cháy thiêu đốt liên tục, gào thét đau đớn.


Ngục kế tiếp cô được dẫn tới, tên là Đại A Tỳ. Đúng như tên gọi, ngục này lớn hơn nhiều các ngục khác, mang một vẻ âm u, rùng rợn khó tả. Ngục này dành cho những thầy tu của các tôn giáo khác nhau, như Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, và nhiều các tôn giáo nhỏ, giáo phái tự xưng, các tà đạo, yêu mị của dân tộc thiểu số khác, do núp bóng Tôn giáo mà làm chuyện xằng bậy nên phải vào đây. Gồm hàng trăm thứ tội khác nhau, như đánh mắng bậc chân tu, lạm dụng tài vật của Tam Bảo, phá giới, tu không giới hạnh, đưa người nhà vào nắm quyền trong chùa, giả danh người xuất gia chuộc lợi, xây chùa giả chuộc lợi, giảng sai chánh pháp, mê hoặc người đời vào tà đạo.v.v…


Cô được các vị quỷ vương chỉ cho một ông sư đã lên chức Thượng tọa, khoảng hơn bảy chục tuổi, mặc áo màu vàng, đang ngồi trên bàn chông, bị chó cắn xé tay chân, trên đầu thì quạ mổ mắt, máu me đầm đìa, ghê sợ.
Ông này đi tu từ nhỏ. Lớn lên được bậc tiền nhiệm giao cho làm trụ trì một chùa ở Sài Gòn. Ông là người thông minh, có học thức về Phật Pháp, thông thạo kinh sách, được tín chúng Phật tử kính ngưỡng, cúng dường rất nhiều, khiến ông sinh tâm kiêu mạn. Ông khinh thường các bậc tu hành khác, thường lấy tiền cúng dường để tư lợi riêng khiến đại chúng trong chùa bị thiếu hụt. Sau này ông còn lấy tiền đó mua nhà cho họ hàng đứng tên. Vì tội như thế, ông bị giảm 15 năm tuổi thọ, bị Hành Bệnh quỷ vương dày vò bằng bệnh tật, liệt giường liệt chiếu cho đến khi chết. Chết rồi bị đưa vào đây muôn vàn thống khổ.


Các vị quỷ vương còn chỉ thêm hai chú cháu cùng nối tiếp nhau làm trụ trì một chùa khu Chợ Lớn, thường lấy tiền chùa tiêu xài việc tư, đưa cha mẹ vào chùa bắt tăng ni phục vụ, và nhiều tội khác. Bây giờ, họ có hình thù kì dị, cổ nhỏ bụng to, mang gông xiềng xích, bị quỷ sứ đổ nước đồng sôi lên người, đau đớn khôn xiết.


Chuẩn bị rời khỏi ngục này, chợt có năm vị quỷ vương hiện đến chặn ni sư Diệu Hân lại. Họ tuyên bố chính cô sẽ phải chịu hình phạt trong ngục này, vì những tội mà cô đã gây ra trước kia. Nghe tới đây, cô giật mình kinh sợ. Các tội danh của cô phải chịu hình phạt gồm: chê sư phụ không có đạo hạnh, phá thai, ăn trộm gà về giết thịt, làm chứng người khác gian dâm, khiến vợ chồng bỏ nhau, chê bai đại chúng xuất gia, không chịu về chùa nhập chúng tu hành.


Cô hết sức bất ngờ, không thể lường được chính mình cũng sẽ phải thọ hình nơi đây. Rất nhanh chóng, các vị quỷ vương đưa cô đến chảo dầu. Nó rất to lớn, chứa được muôn vạn người chứ không phải cái chảo nấu bếp ta thường thấy, dầu trong chảo sôi sùng sục, độ nóng khủng khiếp.
Các vị quỷ vương thảy cô vào chảo dầu. Vì đã chuẩn bị trước, cô lập tức niệm Phật liên tục. Thật vi diệu, dù xung quanh là dầu sôi sùng sục, nhưng cô không thấy đau đớn gì hết. Tưởng như thế là đã thoát nạn, nhưng không.


Một vị quỷ vương lôi cô ra, ấn tay vào cổ ni sư Diệu Hân, đọc thần chú khóa khẩu, không cho cô có thể niệm Phật được nữa. Có lẽ vì họ muốn cô nếm mùi đau đớn của cực hình, sau này mới nghiêm trì giới hạnh được. Đọc chú xong, họ thảy cô lại vào chảo dầu sôi với độ nóng ghê hồn.
Lần này thì không tài nào niệm Phật được nữa, cô phải hứng chịu cái đau đớn tột độ, nó nhức buốt tới tận xương tủy. Cái nóng khiếp đảm của chảo dầu sôi sùng sục, như kim châm vào từng thớ thịt, như xé tan thân xác, lời lẽ khó tài nào miêu tả được. Cứ như thế suốt hai canh giờ ( tức 4 tiếng đồng hồ), cô chìm nổi, giãy giụa trong chảo dầu kinh hồn ấy.
Xong xuôi, cô được đưa ra. Một vị tên Ác Độc quỷ vương với bàn tay to lớn, xương xẩu, ghê rợn bắt đầu thực thi hình phạt tiếp theo với cô. Vị đó tát vào mặt cô từng nhát, từng nhát một, tát đến đâu, máu thịt tuôn ra đến đó. Cứ thế kéo dài một canh giờ (tức 2 tiếng đồng hồ).
Tiếp đến, các vị quỷ vương đem ra một rổ đầu gà rất lớn, banh miệng ni sư Diệu Hân ra, nhồi từng cái, nhét từng cái đầu gà vào họng cô. Cảm giác đau đớn như rách toạc cổ họng. Cô trợn mắt hứng chịu cực hình ấy cho đến khi nuốt trọn hết thúng đầu gà. Rồi lại bị quỷ vương vỗ đầu cho ói ra hết, xương gà, mỏ gà móc vào họng. Lúc nhét vào thì đỡ đau hơn, nhưng khi ói ra thì đau đớn tăng gấp trăm lần, cô cảm thấy thống khổ ghê gớm, nước mắt đầm đìa.
Hình phạt này kéo dài khoảng một canh giờ (tức 2 tiếng đồng hồ), đây là do khi trước, cô hay mua đầu gà về cho con ăn.


Chịu xong các hình phạt đó rồi, cô lại được dẫn đi đến các ngục khác. Có một ngục tên là “ Sơn hà xã tắc” có lẽ dành cho những quan chức, những những lãnh đạo đất nước phạm tội phải vào đây. Nhưng cô không được cho vào xem, mà đi qua các ngục khác.
Có một ngục tên là ngục Ăn Giòi, dành cho người đổ bỏ thức ăn, khinh chê người phục vụ, ngang ngược, hống hách… tội hồn bị triệu triệu con giòi rúc rỉa, hoặc có người phải bốc những con giòi đó cho vào mồm ăn, nhìn nổi hết da gà.


Có một ngục tên là Tham Lợi, dành cho những người bóc lột sức lao động của cấp dưới, tham lam, ăn bớt tiền công.v.v… Họ vào đây bị bắt ăn toàn là sỏi đá, hoặc tệ hơn, bắt ăn những sắt nóng đỏ, đau đớn gào khóc.
Lại một ngục khác tên là Sát Sinh, tội hồn ở đây, khi còn sống, giết con vật bằng cách nào, thì bị quỷ hành hình bằng đúng cách đó. Ví như lấy búa đập đầu trâu, thì bị quỷ đập nát đầu bằng búa. Hay khi xưa dùng dao cắt cổ gà, thì giờ cũng bị quỷ dùng dao cắt cổ lại. Cứ thế nên trong ngục này hình cụ đủ muôn nghìn loại khác nhau.
Rồi có một ngục hành hình bằng cột đồng cháy rực, cùng chảo dầu sôi, dành cho những kẻ tà dâm, ngoại tình, mua bán dâm, buôn bán phụ nữ làm gái lầu xanh, truyền bá dâm dục.v.v…


Lại có ngục tội hồn bị quỷ xé miệng, cắt lưỡi, chọc sắt nóng vào mồm.v.v… vì tội khinh chê dè bỉu, ăn không nói có, thị phi nhiều chuyện, chửi mắng hỗn xược…
Ngoài ra còn rất nhiều ngục khác, dành cho đủ hạng người trong xã hội tạo ác, từ dân đầu đường xó chợ, đâm thuê chém mướn mạt hạng, đến tầng lớp tri thức như luật sư, giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ, nhà văn, diễn viên… Tội danh thì muôn trùng sai khác, tội tày trời có, tội tầm thường có, nặng có, nhẹ có, ứng với mỗi tội lại hiện ra các thứ hình phạt khác nhau, mỗi mỗi đều cực kì đau đớn, rùng rợn.


Tội hồn ngục nào cũng thế, đâu đâu cũng máu me đầm đìa, xương thịt vương vãi, gào thét kinh hồn, đau đớn khôn xiết… Cứ chết đi lại hoàn lại hình hài cũ, tiếp tục hình phạt nối nhau. Một ngày một đêm, chết đi sống lại nghìn muôn lần thống khổ.
Sau khi đi qua các Địa ngục rồi, cô được đưa đến một khu tập hợp vong linh rất đông đúc, người người lớp lớp đứng hồi hộp chờ đợi. Nếu vẫn còn dư báo, thì bị các quỷ vương đọc thần chú biến hình thành các loại súc sinh, như thành gà, trâu, chó, rắn, rết.v.v… cho vào bao đưa đi đầu thai làm kiếp súc sinh, tiếp tục đền trả nợ cũ.
Nếu nghiệp nhẹ hơn thì được tái sinh làm người nghèo đói, tàn tật, hèn hạ…Họ phải đi qua một cây cầu bằng trúc, gặp một người phụ nữ rất đẹp (có lẽ là Mạnh Bà). Bà cho từng vong linh uống một thứ nước gì đó, rồi mới đưa đi đầu thai làm người.


Cuối cùng, các quỷ vương đưa cô trở lại chỗ ban đầu, diện kiến, cung kính đảnh lễ ba vị Quán Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Chuẩn Đề Bồ Tát. Đảnh lễ xong, các vị Bồ Tát bảo cô hãy niệm Phật. Cô liền làm theo, thì thấy mình bay bổng lên không trung, trở lại thế gian, nhập vào xác, lúc đó là 12 giờ trưa, kết thúc chuyến đi với những trải nghiệm rùng rợn, kinh hoàng nơi Địa Ngục.�____________

___
Địa Ngục là một danh từ có mặt trong từ điển của mọi quốc gia Đông sang Tây, Âu đến Á. Từ những nền văn minh lớn, đến những lời truyền miệng của những dân tộc thiểu số khắp thế giới, từ những tôn giáo lớn như Phật giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, đến các tín ngưỡng nhỏ lẻ ở mọi đất nước, đâu đâu cũng đề cập đến địa ngục.
Nếu như địa ngục là một sản phẩm của trí tưởng tượng, một biểu tượng mang tính chất tượng trưng thôi, tại sao Đông Tây kim cổ, ngàn xưa tới giờ, ở khắp nơi trên thế giới, dù bị địa lí, bị các đại dương ngăn cách, con người lại có thể tưởng tưởng ra cùng một thứ giống nhau như vậy ?


Câu trả lời rất đơn giản, vì địa ngục là có thật. Vì đó là sự thật, nên ở mọi nơi đều xuất hiện những bằng chứng cho thấy sự tồn tại của địa ngục. Các bậc trí giả ở mọi nền Văn minh đều xác quyết đó là sự thật, thậm chí mô tả tỉ mỉ về địa ngục.


Ấy thế từ xưa đến nay, luôn có rất nhiều người cho rằng địa ngục là một sản phẩm của trí tưởng tượng, nhằm răn đe là chính, chứ không phải sự thật. Để rồi họ mặc sức xuôi theo dục vọng mà làm đủ thứ tội ác lớn nhỏ, vì cho rằng chết là hết, sẽ chẳng có hình phạt gì cho những tội lỗi của họ. Đâu biết được rằng, phía sau cái chết là địa ngục với quỷ dữ, với đao kiếm, với lửa cháy dầu sôi, cùng đủ thứ quả báo kinh khủng đang chờ đợi họ.
Nếu ngay từ đầu, họ thức tỉnh sớm, bằng trí tuệ hay bằng niềm tin cũng được, nhận ra một chân lí rằng, Địa ngục là sự thật, Báo ứng là sự thật, mà nói ‘không’ với các tội lỗi và sự sa đọa. Thế thì đâu đến mức phải có đến triệu triệu, tỉ tỉ vong linh bị đầy đọa trong dầu sôi, trong lửa cháy, trong núi dao, rừng kiếm, gào thét đau đớn, ngàn vạn năm không biết khi nào thoát ra.


Hi vọng câu chuyện này, không nhiều thì ít, sẽ giúp cho thế nhân thoát khỏi những tà kiến phủ nhận Báo ứng, chối bỏ Địa ngục, tìm lại được sự thực, sáng lên được một chút chân lí, mà sớm dập tắt được ngọn lửa đau khổ, đã và đang nhen nhúm trong từng hành vi của chính mình.
Quang Tử, biên tập từ bài giảng của ni sư Diệu Hân.



NGUỒN :NHÂN QUẢ (Quang Tử)
P/s Mọi người ơi, bài viết này tôi đã nghe chính miệng Ni sư Diệu Hân kể trên YouTube lâu lắm rồi,
câu chuyện viết và in thành sách này trước đây tôi có mua, và được đăng tải đi nhiều lắm khắp mọi nơi.  Chắc chắn nhiều người vẫn chưa đọc và không tin vào địa ngục. Tất cả đều có thật giống như trong kinh Địa Tạng mô tả đó.


Bởi vậy, chúng ta đang được làm thân Người, đó là điều quý giá vô cùng, nhưng nhiều người không biết “được làm thân người là quý giá”; Lại có nhiều người không biết đến Phật pháp, thật là tiếc thay; có người biết Phật pháp, nhưng lại lơ là không nhiệt tâm làm lành lánh ác, không chịu tu, thật là uổng thay. Đọc phần Kinh dưới đây mới thấy nỗi thống khổ của tội địa ngục biết nhường nào, và lúc vào địa ngục rồi thì đã quá trễ muộn để có thể làm những điều lành, chẳng thể làm gì được nữa; tất cả lúc ấy chỉ là buông xuôi chịu khổ trăm bề do nghiệp đưa đẩy, chúng ta hãy cùng đọc phần cảnh địa ngục dưới đây để biết địa ngục:

[Image: modify_inline.gif]
Reply
THÔI MIÊN HIỂN LỘ NHÂN QUẢ

Hạnh Đoan tuyển dịch.

1.NGUYÊN NHÂN BỆNH HEN SUYỄN
Ông Du, 68 tuổi, muốn chữa bệnh hen suyễn bằng phương pháp thôi miên.  Ông là người luyện Khí công. Khi rơi vào trạng thái thôi miên sâu theo hướng dẫn của nhà thôi miên. Đầu tiên ông nhìn thấy là một con rùa biển to trên bãi biển, có hàng chục đứa trẻ nghịch ngợm đang chơi đùa, lúc đó ông Du là một trong số đám trẻ này, đã xúm nhau kéo con rùa biển lên bãi cát và lật ngược nó lại, làm cho con rùa bị chết vì thiếu nước!
Vì sao bọn trẻ lại giết chết rùa biển? 


Theo nhân quả, thì đây là món nợ mà rùa biển đã thiếu đám trẻ. 
Khi được hướng dẫn để tìm ra nguyên nhân của sự việc này, ông Du liền quay về cuộc sống trước đó, kiếp này bọn họ gồm mười mấy người, cùng nhau vượt biển bằng thuyền, nhưng lúc đó họ bị một con rùa lớn làm lật thuyền, khiến hơn cả chục người đều bị chết đuối. Ông Du nhớ rất rõ cảm giác không thể thở được khi đó, nó giống hệt như bệnh hen suyễn mà ông đang mắc phải trong kiếp hiện tại và cảm giác này chính là nguyên nhân gốc rễ của bệnh hen suyễn.

2.LÝ DO VỢ CHỒNG BẤT HOÀ
 Chị E ngoài 40 tuổi có mối quan hệ không tốt với chồng. Chồng chị không những đã ngoại tình, mà còn thường xuyên đánh đập, mắng chửi chị.  Khi được  thôi miên, tổng cộng chị E đã quay về ba kiếp. 

Ở kiếp đầu tiên, chị là công tử X con nhà giàu thời cổ đại, còn chồng chị lúc đó là phụ thân công tử X kia. Trong thời gian này, công tử X thường xuyên ra ngoài tìm gái để tán tỉnh, chơi bời… và cậu thường xuyên bị cha đánh đập, mắng chửi, thậm chí đuổi ra khỏi nhà. 
Tiến về kiếp thứ hai xa hơn, thì chị E thấy mình là ông Z, rất ưa ăn chơi, gái gú… nghĩa là có thói trăng hoa… trong máu, ông Z thường xuyên đi chơi với phụ nữ, để vợ ở nhà khóc thầm đau khổ một mình. 


Quay về kiếp thứ ba trước đó nữa, chị E  là người xuất gia giỏi võ, tình cờ gặp bọn thổ phỉ cướp đồ, chị thấy bất bình liền đánh nhau với bọn cướp, (một người trong đám cướp từng bị chị đánh trọng thương chính là chồng chị  hiện tại trong kiếp này.

3. SỢ HANG TỐI
Anh F, 33 tuổi, thường xuyên thấy hoài một giấc mơ, trong mộng anh thấy mình cứ khoan một cái lỗ sâu nhưng không tài nào thoát ra khỏi hang sâu hun hút này, khiến anh rất sợ hãi. 

Khi được thôi miên, anh F quay về kiếp đầu tiên và nhìn thấy lúc còn nhỏ mình đã giết hơn 20 con chuột và 2 con rắn to. Tiến về kiếp trước nữa, anh nhìn thấy mình sống cô độc và chết trong căn nhà lớn. Vì sao anh lại sống thui thủi một mình, vậy người thân anh ở đâu? Hóa ra trong kiếp đó phụ thân anh là một vị quan trong triều bị Quan ác hãm hại (có hai ông quan dẫn hơn 20 binh lính đến giết sạch cả nhà anh, do cha mẹ anh đã nhanh tay giấu anh vào hang tối, nên anh mới còn sống sót. Kiếp vừa qua các binh lính và hai quan ác này đã đầu thai thành hơn 20 con chuột và 2 con rắn lớn,  tất cả đều bị anh giết chết.

4 NGUYÊN NHÂN BẤT HOÀ VỚI SONG THÂN VÀ HỌC ĐẠO BỊ CHƯỚNG

Anh G ngoài 30 tuổi, từ nhỏ đến lớn, đêm ngủ không ngon, hay thấy ác mộng. Lúc tuổi nhỏ luôn bị bố đánh đập, mắng chửi… khiến anh cảm thấy rất oan ức, tủi buồn và dễ xúc động.  Khi thôi miên truy về quá khứ, mới biết vào đời Tống, anh là cai ngục, thường đánh oan phạm nhân, thích thẩm vấn tra tấn tù nhân giữa đêm. Cha mẹ đời này của anh chính là hai tù nhân bị đòn oan trong kiếp trước. 
Khi anh G nhìn thấy cảnh này, anh rất xấu hổ và cảm thấy mình quá bất hiếu, nên anh đã khóc rất nhiều trong đau đớn. 


Khi nhà thôi miên hướng dẫn anh phát tâm sám hối, anh mới được nhìn thấy nụ cười đã mất từ lâu của phụ thân và cảm thấy trong lòng rất hạnh phúc! Phiền muộn trong tim ngay đây được tháo gỡ, khiến anh cực kỳ hân hoan! Anh G còn một trở ngại nữa là, khi anh tự học Phật trong kiếp này, dù rất muốn siêng năng tinh tấn, nhưng anh lại không có được tâm cung kính đối với chư Phật, chư Bồ tát, khiến trong lòng anh rất buồn và hổ thẹn. 
Khi được thôi miên quay về kiếp trước nữa, thì anh thấy mình từng là gái điếm, nhưng rất kênh kiệu kiêu căng. Một hôm đi ngang qua tịnh xá, ả này dòm thấy một cư sĩ đang lễ Phật, lúc đó trong lòng ả nổi lên niệm khinh rẻ xem thường và đã nói ra những lời ngạo mạn cũng như thể hiện những hành vi báng bổ cười chê.


Do nhân gieo bất hảo đó mà đời này dù biết tìm hiểu Phật pháp, nhưng anh luôn bị chướng nặng nề.
Vì vậy mà trong cuộc sống, những khi xử thế, nói năng, hành động… chúng ta cần phải hết sức thận trọng, nếu không giờ giờ phút phút đều sẽ vô tình tạo ra nghiệp chướng đáng tiếc, dẫn đến có hối cũng muộn.

  5 ÁC DUYÊN GIỮA MẸ CHỒNG NÀNG DÂU

Chị Hoa hiện nay đã 58 tuổi, kể từ khi xuất giá về nhà chồng rồi, chị thường xuyên gặp cảnh bị mẹ chồng đánh đập, mắng nhiếc vô cớ. Có lúc chị đi làm về thì bị mẹ chồng núp sẵn sau cửa nhào ra tát vào mặt đến nổ đom đóm mắt, bà còn túm chị để đánh đập, mắng chửi hết sức dã man. Đến bây giờ dù chị đã 58 tuổi rồi mà vẫn luôn bị bà đánh như thế. Khiến chị quá khổ đau và nảy ý muốn tự tử. 
Khi được nhà thôi miên hướng dẫn chị quay về kiếp trước, Hoa thấy lúc này mình là một phụ nữ khoảng 30 tuổi, trong nhà có nhiều người giúp việc và chị thường xuyên đánh đập, mắng chửi cấp dưới. Mẹ chồng chị lúc đó là Dung, một trong những người giúp việc. 


Khi ấy chị Hoa đối với Dung rất hung dữ, thường mắng chửi và đánh đập quá đáng.
Chị xem cách mình vừa đánh vừa mắng Dung trong kiếp xưa y chang hành vi mẹ chồng đối với chị bây giờ, không sai mảy may.
Đúng là nhân quả báo ứng chẳng lệch mảy tơ!


Đời này chị Hoa cũng được nghe Phật pháp nên hiểu rõ chuyện nhân quả báo ứng và biết đây là nghiệp báo của mình phải trả cho mẹ chồng. Nhưng lúc trả báo, trong lòng chị đã rất sân hận, nhưng sau khi được nhà thôi miên giải thích và chị thành tâm hướng về mẹ chồng âm thầm sám hối xong, thì trong lòng chị bỗng trở nên nhẹ nhàng vui vẻ. 


Có một điều rất lạ là sau khi chị Hoa đã khởi tâm chân  thành sám hối xong và quay về, thì thái độ của mẹ chồng đối với chị bỗng thay đổi hẳn, bà không còn đánh đập, mắng chửi nữa.
Có thể thấy việc hướng về đối phương sám hối chân thành dù âm thầm cũng  rất hiệu quả. Vì một trái tim chân thành biết lỗi sẽ được tha thứ cảm thông!

 6. NGÓN CHÂN SƯNG ĐAU.
Một thiếu niên 17 tuổi đến nhờ sự trợ giúp của phương pháp thôi miên vì ngón chân của em bị sưng đỏ không rõ nguyên nhân. Cả hai ngón chân em đều giống như chân gà, sau khi đi chữa trị một thời gian dài vẫn không cải thiện.
Khi được tôi hướng dẫn, em nhìn ra nguyên nhân thực sự. Lý do là mười mấy năm nay em ăn quá nhiều chân gà, đến khi em lớn lên món mà em thích ăn nhất vẫn là chân gà!


Bình:

Chúng ta đến thế gian này, thứ mình có thể mang đi không phải là vật ngoài thân, mà là nghiệp thiện ác.
Một khi báo ứng trổ rất khủng khiếp và khó kham. Vì vậy xin bạn hãy dứt ác hành thiện, ăn chay trường, thực hành Phật pháp để đời sống được hạnh phúc.

Hạnh Đoan 11/2/2021
Reply
BUỔI TU AN LẠC.

=AZU4UeDCqfynVQy4ByRswxIwG07gx7_u4Ffs7UtA4mbl6VUq4lhaWHGe2nZPIzinSd-5KP9shoXgb4b48m8oO-aErMofAE1lueyxP5-dtIbikBeklPD9Qy1g6IOg2gULPsLeUON1QqtwyrDIJhYDQ4RKXgPoSeQsxr0t73KxGheI7A&__tn__=-UK-R]https://www.facebook.com/tutapanlac/videos/6535820456487924/
Reply
TỤNG CHÚ BA NĂM, THAY TÂM ĐỔI TÍNH.


Có vị tăng ở Tân Chú Am, tính tình hung dữ lại ngu si, thường hay cải vã với mọi người. Do vậy mọi người trong chùa họp lại, quyết định trục xuất ông ra ngoài.
Khuya đêm đó, ông ngẫm nghĩ, thầm hối hận, tự nhủ chỉ còn cách chuộc lỗi là xin đóng cửa tu hành.
Sáng ra, ông xin trụ trì cho phép ông bế quan thanh tu. Vị thầy liền đáp ứng.


Vị tăng này trong thời gian bế quan nhập thất, nhất tâm tu hành, quyết sửa đổi, cải thiện mình. Ông nguyện giữ khẩu nghiệp thanh tịnh, chuyên trì chú Đại Bi. Tinh tấn niệm Quan Âm Bồ Tát, lễ Quan Âm Bồ Tát.


Sau ba năm ông ra khỏi thất, thành tựu đại trí huệ. Ông có thể giảng mọi diệu lý trong kinh điển, cả tứ thư ngũ kinh thế gian, không gì mà không am hiểu, ít ai bì kịp.
So với ngày xưa ông hiểu biết nông cạn, tính hung tợn hay cãi hay gây, thì giờ hoàn toàn trái ngược, giống như là hai người khác nhau.
Qua đây có thể thấy niệm thánh hiệu Quan Âm Bồ Tát và tụng chú Đại Bi có thể phá ngu si, khai mở trí huệ, cải sửa tính xấu.

Nguồn: Diệu Ngọc.
Reply
NGUYÊN NHÂN BẤT HẠNH.

Một ngày mùa thu năm 2001, một vị cư sĩ dẫn theo một cô con gái, khoảng chừng 30 tuổi, trông rất tiều tụy. Cô quỳ trước Hòa thượng Diệu Pháp khóc sướt mướt, không ngừng kể lể về những bất hạnh của mình, quên hẳn hiện trường đang có mấy mươi khách…

– Sư phụ, con khổ quá nên mới nhờ Hách cư sĩ dẫn đến đây cầu ngài chỉ giùm cho con con đường sống. Từ nhỏ con là một đứa bé ưa cô độc, không thích đám đông, thường chơi một mình, đi dạo một mình… Có thể nói con là một con bé sống rất có quy củ, trách nhiệm… Nhưng năm 19 tuổi con bị kẻ xấu cưỡng hiếp, lúc ấy con đau khổ muốn tự vẫn, nên đã nghỉ học một năm. Hai năm sau con lại bị cưỡng hiếp nữa… tuy kẻ ác cuối cùng cũng bị pháp luật trừng trị, nhưng tinh thần con hầu như suy sụp, chẳng còn học nổi.

Năm 25 tuổi cha mẹ cho con giao thiệp bạn bè, nhờ người giới thiệu cùng hết… Nhưng người bạn trai thứ nhất con quen gần một năm lại lừa gạt tình cảm con rồi bỏ đi. Năm sau con quen chàng khác, kết quả anh này cũng hành xử giống như người bạn trai trước. Con hầu như không còn niềm tin để sống nữa, khổ đến lúc nào cũng nước mắt đầm đìa. Xin sư phụ giải cho con hiểu, số con vì sao quá bất hạnh? Có cách nào chuyển đổi hay không?

Sư phụ mời cô ngồi. Ngài trầm ngâm một hồi rồi hỏi:
– Hôm nay vì sao con không trang điểm?
Nghe hỏi vậy cô có chút ngơ ngác, sau đó tỏ vẻ áy náy thưa:
– Dạ… Bà Hách dặn con… tới gặp ngài thì không nên trang điểm…


Sư phụ nghiêm túc nói:
– Không phải ta hỏi vậy là trách con không trang điểm, mà muốn cảnh báo với con rằng: đời này sở dĩ con gặp nhiều bất hạnh như thế, đầu tiên là do con quá chú trọng đến trang điểm! Bởi con luôn trau chuốt nhan sắc cho xinh đẹp, y phục lúc nào cũng phải đúng mode, còn ưa mặc khêu gợi hở hang… Cho dù tính con ưa cô độc lập dị, nhưng thích được mọi người ngưỡng mộ nhìn ngắm mình, rất ưa quyến rũ nhãn quan người khác phái!… Ta nói có đúng không?
Cô gật gật đầu.


Sư phụ nói tiếp:
– Dục vọng nam nữ, ai cũng có nên ta không trách. Nhưng mà, bản chất phái nữ vốn yếu đuối, vì vậy con phải cẩn trọng tự bảo hộ mình. Người Trung Quốc có câu: “Trau dung gợi dâm, khoe của mời cướp”.[1] 

Hàm ý thế này: Có của phải khéo giấu, chớ nên khoe! Đừng ham phô trương chứng tỏ mình giàu, làm vậy là tự biến minh thành mục tiêu cho kẻ cướp ra tay! Nếu quá chú tâm trau chuốt làm đẹp, trang điểm mình cho lộng lẫy hoặc ăn mặc hở hang khêu gợi quá mức, khiến người khác phái vừa nhìn là phát khởi niệm dâm, dục vọng hưng thịnh… thế thì họ sẽ không thể tự khống chế, tức nhiên khởi ý xâm hại con. Cho nên, nếu đã nhận mình là cô gái (tức là sống có quy củ trách nhiệm) thì đúng ra con nên biết cách khéo tự bảo vệ mình, không nên ăn mặc hở hang, kích khởi dâm tâm, ái niệm nơi người khác phái…

Còn về phu thê, tất cả đều có duyên số và tùy thuộc nguyên nhân, nghiệp lực đời trước nữa. Kiếp trước “ai thiếu ai, ai nợ ai”… nhất định đời này sẽ tìm đến (gặp nhau) đòi nợ… Con không thấy có những chàng trai anh tuấn cưới vợ dung nhan rất kém, hoặc có những mỹ nữ lấy chồng thiệt xấu hay sao? Cho nên, tất cả nam nữ thiện lương trên đời, tuyệt không nên học đòi chưng diện ăn mặc hở hang theo kiểu các ngôi sao điện ảnh, bởi vì: “Trau chuốt, hở hang sẽ gợi dâm, khoe của là mời cướp”.


Nếu con muốn trong tương lai của mình có được gia đình hạnh phúc, thì phải luôn giữ tâm ý đoan chính trong sạch và thường niệm Quan Thế Âm Bồ Tát, được vậy thì dù định mệnh an bài sẵn “phu thê ác duyên”, cũng có thề chuyển thành “phu thê thiện duyên”. Con nghe và hiểu rõ lời ta nói chứ?


– Dạ con hiểu rõ ạ!
– Được rồi! Cứ y theo đó mà làm! Chưa đầy một năm, sẽ gặp lang quân như ý. Còn vận mệnh trước đây con bất hạnh thế nào, việc này còn tùy thuộc vào nhân gieo tiền kiếp của con nữa. Bởi vậy mới có câu: “Muốn biết nhân đời trước, xem quả thọ đời này”… Nhưng kể từ nay về sau, con phải giữ gìn ngũ giới, hành thập thiện, xem kinh sách cho nhiều, rồi từ từ sẽ minh bạch.
Cô nọ vui vẻ vâng theo lời Hòa thượng dạy.

[Image: modify_inline.gif]
Reply
ÔNG CHA TẠO TỘI - CON CHÁU CÓ CHỊU QUẢ BÁO?
(Trích "Nhân Quả Tập Truyện" - Tác giả: Thiếu Tướng, Tiến Sĩ  Nguyễn Chu Phác).


Đây là câu chuyện về một căn bệnh kỳ lạ "bệnh hét" mà tác giả được mắt thấy, tai nghe năm 2010:
"Cháu Nguyễn Thị T (sinh năm 1994), đang học lớp 11, quê ở Nam Định, bố là giáo viên. Cháu bị bệnh "hét", ngày la hét bốn đến năm lần, vang cả nhà, cả xóm như có ai bóp cổ, rất rùng rợn!


Gia đình đưa cháu đi chữa ở nhiều bệnh viện, thậm chí cả những bệnh viện của Trung Ương nhưng vẫn không khỏi, đều bị trả về.
Cuối cùng gia đình đành đưa cháu đến nhà ngoại cảm Phạm Thị Phú (ở Thị xã Sông Công, Tỉnh Thái Nguyên), tại đây tác giả được gặp mẹ cháu cùng cháu T để tìm hiểu nguyên nhân của căn bệnh.


Nhà ngoại cảm Phạm Thị Phú quán sát và kết hợp với lời gia đình kể lại:
- Các đời trước Cụ và Ông đều làm lý trưởng, chánh tổng (một chức vụ của chính quyền tay sai cho giặc Pháp).
Mỗi khi bọn tay sai truy lùng bắt được bộ đội hoặc du kích (có sự tham gia của Cụ của cháu T) chúng liền thả bộ đội và du kích vào thùng "Phuy" tra tấn bằng cách: Cho người gõ liên tục vào thùng cả ngày lẫn đêm. Người bị tra tấn không chịu nổi la hét như "Lợn bị chọc tiết".


Vậy cho nên đời cụ gây nên tội ác, nay tới đời cháu vẫn phải nhận quả báo, đây gọi là "Cộng nghệp"!


NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT_()_
Nhân quả sâu xa khó biết, khó hiểu, nhưng lại là quy luật quan trọng nhất, chi phối toàn bộ cuộc sống của mọi người, mọi chúng sinh. Được làm người đã là khó, lại có thể đủ trí tuệ để thông hiểu luật Nhân quả sâu xa, thật vô cùng khó.
Chúc mừng cho những ai tin hiểu được nhân quả nghiệp báo, kinh sợ điều ác, khao khát điều lành, trưởng dưỡng trong Chánh Pháp. Cầu mong thế gian tất cả mọi người đều sẽ được như thế.

[Image: modify_inline.gif]
Reply
CHÚ LĂNG NGHIÊM CHỐNG ĐỠ BÙA ẾM, NGẢI ĐỘC ✨✨✨
(B
ài viết của ni sư Hạnh Đoan về Chú Thủ Lăng Nghiêm, nhân duyên với những lời giáo huấn của ngài Tuyên Hoá đối với cô và cận tử nghiệp của cố ni sư Như Thuỷ.)
TÂM TÌNH RIÊNG (1)
(Dành riêng cho tri âm)


Hồi đó tôi khoảng 20, đi tu được bốn năm, chưa học kinh LĂNG NGHIÊM, cũng không biết rành về công năng chú LĂNG NGHIÊM. Có lần ghé nhà bà Phật tử quen thì bà hàng xóm gần bên chạy qua, quýnh quáng nói con bà bị sốt, bà cầm chú Lăng Nghiêm (ép nhựa loại khoảng 10cm ngày xưa hay in cho người đeo) và nói bây giờ cho con bà đeo để cứu nó được không?
Lúc đó tôi bật cười bảo: Con sốt thì đưa đi bệnh viện khám chứ!


Bà vâng vâng dạ dạ rồi chạy về. Riêng tôi tự thấy mình thông minh thực tế vô kể. Còn thầm phê bình bà này sao mê tín dị đoan quá mức.
Có lần thấy tôi lẩm nhẩm học thuộc chú Lăng Nghiêm, chị Ba tôi ngăn cản, bảo:
 - Dẹp đi không cần học.


Vì thời khoá tụng tông môn tôi không có chú Lăng Nghiêm. Thế là tôi ngoan ngoãn vâng lời không buồn để mắt đến chú nữa.
Xem như từ 1974 đến cuối đời mình, chị Ba tôi không hề tụng chú Lăng Nghiêm. Còn tôi, từ 1975 đến 2016, tôi không hề để ý, quan tâm gì đến chú Lăng Nghiêm.
Năm 2000 tình cờ tôi đọc mấy cuốn khai thị của ngài Tuyên Hoá, thấy ngài ca ngợi chú và khuyên nên tụng chú Lăng Nghiêm, tôi cũng không quan tâm. Do người ta dịch về ngài tâng bốc nhiều và xài những câu vô tình khiến ngài biến thành tự khoe làm tôi nghi ngờ không mỹ cảm. Sau này tôi mới biết mình lầm. Khi nghe Phùng Phùng kể ngài không đích thân tự viết tác phẩm nào, chỉ là đệ tử ngài nghe giảng ghi chép lại. Bản thân ngài rất khiêm cung, không hay nói về mình và cũng không kể khoe chuyện lạ thần thông. Tôi nghĩ: Hoá ra do đám đệ tử tôn sùng thầy quá, khoe kể cho thầy nhiều quá thành ra vô tình hại thầy.


Vạn Phật thành có đoàn phiên dịch tiếng Việt hùng hậu, nhưng họ lại dịch Ma Đăng Già nữ thành là: Con gái Ma Đăng Già. Câu chuyện Ma đăng Già và A Nan ai cũng biết nhưng từ dịch nhầm lẫn của họ đã khiến tôi hoài nghi về các văn bản dịch.
Bên ngài Tịnh Không thì Trưởng giả tử họ dịch là trưởng giả. Ngài Tịnh không lý luận: “Tử” chỉ là tiếng đệm, giống như Khổng tử, Lão tử vậy thôi.
Còn  bên Vạn Phật thành dịch Trưởng giả tử là ‘con trưởng giả “, tôi không biết ai dịch đúng ai dịch sai. Vì họ đồng là dân Tàu hết mà dịch khác nhau quá, thì hạng dân Việt rặt như tôi biết đường đâu mà nắm cho chuẩn đây?


Do vậy tôi không hoàn toàn tin các bản dịch bên Vạn Phật Thành. Tôi có ái mộ ngài Tuyên Hoá, nhưng ngài vẫn còn bị nghi ngờ, tôi chưa thể hoàn toàn tin tưởng.
Cho đến khi tôi dịch các tác phẩm của Quả Khanh, Phùng Phùng ( Hai vị này đều có thiên nhãn, có thần thông).Phùng Phùng chỉ cần nhìn thoáng qua một người là biết họ tu thực giả, công phu ra sao, những gì họ hành xử sẽ hiện rõ trước mắt ông như cuộn phim đang trình chiếu.
Do vậy Phùng Phùng không dễ quy phục ai, không dễ quỳ hay khấu đầu trước ai.


Lần đầu tiên gặp ngài Tuyên Hoá, Phùng Phùng tuy có cao ngạo nhưng đã sớm thần phục và hết mực tôn kính ngài.
Phùng phùng không để ý chú Lăng Nghiêm, nhưng khi ngài Tuyên Hoá đưa chú bảo đem về trì, phùng phùng vì tôn kính ngài mà đón nhận và trì tụng. Tuy không thường xuyên, bữa tụng bữa không. Nhưng rồi Phùng Phùng đã nhận ra tầm quý giá của chú khi ông nhìn bằng thiên nhãn.
Quả Khanh có thần thông rất cao. Ông nhìn thấu các cõi và biết rõ tiền kiếp mỗi người khi gặp họ.


Khi gặp ngài Tuyên Hoá ông tôn kính ngài như Phật sống, thì đủ biết ngài Tuyên Hoá không phải nhân vật tầm thường. Ông biết ngài Tuyên Hoá là hoá thân Bồ tát Quan Âm, nhưng sau khi ngài Tuyên Hoá viên tịch rồi ông mới thố lộ trong các tác phẩm mình.
Nhờ Phùng Phùng và quả khanh mà tôi hết nghi ngài Tuyên Hoá. Nhưng tôi vẫn chưa đoái hoài gì đến chú Lăng Nghiêm, vẫn không thèm tụng.
Cho đến khi chị Ba tôi mất, tôi muốn biết giây phút kề cận cái chết, nhìn rõ hai cõi âm dương, chị sẽ nói câu gì? Và câu nói trước khi tắt hơi của chị làm tôi chấn động:


HÃY TỤNG CHÚ LĂNG NGHIÊM CHO CHỊ!
Lúc đó mọi người thường tụng kinh Địa Tạng, Kinh Đi Đà để hộ niệm cho chị. Những ngày cuối bệnh nặng chị vui vẻ đồng ý. Nhưng giây phút sắp tắt hơi chị thúc hối trong trạng thái quýnh quáng, gấp rút: HÃY TỤNG CHÚ LĂNG NGHIÊM CHO CHỊ!
Và đại chúng tụng tới biến thứ sáu, chị ra đi an lành.


Bình sinh chị giảng pháp hay thu hút, nên “ giựt “ khá nhiều đệ tử các môn phái!
Mà thế gian là cõi đầy hiểm ác. Vì tình, vì danh, vì tiền, vì lợi... người ta sẵn sàng thư yếm hại nhau.
Chị Ba tôi trước đây không tin chuyện thư yếm, chị nói đó là sản phẩm tưởng tượng của con người, không thực có.
Đến khi chị nói mình bị thư yếm, tôi không tin, tôi nghĩ đây là chị tưởng tượng thôi.


Nhưng chị nói đau thiệt, đau đứt ruột gan, ăn gì chị cũng sợ, cầm điện thoại nghe cũng bị sưng má, sưng mặt... chị sợ cả tôi và tất cả đồ dùng, thực phẩm... của tôi, vì e rằng người ta sẽ mượn tay tôi ám hại chị.
Cả một trời đau khổ ập tới, trùng trùng thống khổ bủa vây, những cái khổ không thể nói bằng lời mà chỉ có im lặng tự nếm.
Do chị không hề trì chú nên không có gì bảo vệ. Còn tôi, dù không trì Lăng Nghiêm nhưng từ nhỏ tôi luôn trì chú Uế Tích đủ số để tự bảo vệ mình. Tôi nghĩ đây là thói quen của kiếp trước lưu lại.


Khi chị Ba yêu cầu tụng Chú Lăng Nghiêm hộ niệm chị, tôi nhìn bầu trời cực kỳ đẹp đầy mây ngũ sắc kéo về lòng rất thích.
Tôi bắt đầu quan tâm và quyết định tụng Chú Lăng Nghiêm, nguyện lấy đây làm công phu tự hộ niệm, tự chuẩn bị cho mình trước khi cái chết đến.
Hồi xưa tôi nghĩ chú Lăng Nghiêm chỉ là mấy chữ viết trên giấy trắng, có gì lạ lẫm linh diệu đâu?
Nhưng khi nghe Phùng Phùng nhìn bằng thiên nhãn phân tích, tôi choáng người (tiếc rằng bản phân tích quý giá này tôi làm lạc mất nên không thể dịch cho quý vị đọc)


Phùng Phùng nói: “Mỗi câu mỗi chữ trong chú Lăng Nghiêm quý như châu ngọc, có công năng mạnh hơn ngàn tia laser, có thể quét sạch mọi tà ma lẫn độc khí uế trược, giúp làm sạch không khí , khiến thanh tịnh hoá bầu trời, năng lực chú Lăng Nghiêm vi diệu không thể nghĩ lường, yêu ma quỷ quái đều khiếp sợ... công đức vô cùng”


Sau này khi gặp các ca sĩ, doanh nhân, đại gia... kể là mình bị thư yếm, tôi thường khuyên họ trì Chú Lăng Nghiêm để tự chữa, kết quả rất khả quan.
Nhưng viết đến đây dài lắm rồi, tôi phải ngưng. Nếu bạn còn thích nghe, tôi sẽ viết tiếp vào dịp khác. Nếu bạn không thích, tôi sẽ không kể nữa.
Reply
KHUYÊN NHỮNG NGƯỜI MUỐN TRÁNH TAI NẠN CHIẾN TRANH

📖Người đời gặp phải thời ly loạn, trốn chạy vào những nơi núi sâu, đồng trống, nguy cấp đủ điều. Xa trông cờ chiến tung bay, ắt đến lúc mẹ con ly tán; vẳng nghe trống trận vang rền, ắt rụng rời kinh hồn táng đởm. Những cảnh lưu lạc chia lìa đảo điên như thế, tuy là vận mệnh chung của cả đất nước, nhưng cũng không ngoài sự chiêu cảm nghiệp riêng của mỗi người.

Thiền sư Từ Thọ có bài kệ rằng:
Người đời thường giết hại,
Nên thọ nghiệp chiến tranh.
Giết hại, phải đền mạng,
Cướp của, bị cháy nhà.
Nay vợ con ly tán,
Do đào hang, phá tổ.
Hãy lắng nghe Phật dạy,
Nhân quả đều tương ứng.


Theo đó mà xét thì bất kể là tự mình gặp họa sát thân hay nhà tan cửa nát, hết thảy đều do nghiệp đã tạo từ trước. Thậm chí những chuyện nhỏ nhặt như chảy máu ngón tay hay đánh mất một cây kim, cho đến phải chịu sự khiếp sợ trong giây lát, không một chuyện gì lại không do nhân đã tạo từ trước.


Nay rộng khuyên hết thảy người đời, khi gặp cảnh chiến tranh loạn lạc, nên hồi tâm tự xét lại rằng: “Ta nay còn chưa bị buộc trói mà đã hốt hoảng khiếp sợ thế này, thì những con vật lúc bị trói chặt [chờ đem giết thịt] sẽ hốt hoảng khiếp sợ đến mức nào? Ta nay gia đình thân quyến vẫn chưa bị chia cách mà đã thê lương thảm hại thế này, thì những con vật lúc bị phân cách, mẹ con ly tán sẽ thê lương thảm hại đến mức nào?

 Ta nay tay chân chưa bị cắt xẻ mà đã đau đớn khổ sở thế này, thì những con vật lúc bị chặt xương lóc thịt, cắt xẻ phân thây sẽ đau đớn khổ sở đến mức nào?”
Tự suy xét như vậy rồi thì đối với bao nhiêu nghiệp giết hại trong quá khứ đều thành tâm niệm Phật, cầu cho những con vật bị mình giết đều được siêu thoát, đối với sự giết hại trong tương lai thì quyết tâm dứt trừ không tái phạm.


Suy xét và phát tâm được như thế thì đời sau nhất định được sinh vào thời đại thái bình, không phải chịu cảnh tao loạn. Ví như có sinh vào thời loạn, cũng không phải sinh vào những vùng có chiến sự. Đó chẳng phải là phương cách tốt nhất để né tránh tai nạn đó sao? Nên biết rằng, dù trốn lên núi cao hay chạy xuống biển sâu, cũng đều không phải kế vẹn toàn. Cho nên, người xưa có dạy rằng:
Muốn cho thiên hạ thái bình,
Phải ngưng ăn thịt chúng sinh các loài.


* QUẢ BÁO GIẾT HẠI, GẶP NẠN BINH ĐAO

Vào đời vua Tống Huy Tông,158 giặc ngoại xâm từ phương bắc thường đánh vào Trung Nguyên,159 đi đến đâu cũng đốt phá, giết hại dân thường. Tuy nhiên, chỉ thấy riêng một trấn An Dương là bị giết hại tàn phá thê thảm nhất.
Về sau có một vị tăng tu tập định lực cao thâm, có thể quán chiếu rõ biết nguyên nhân sự việc. Dân chúng nhiều người thưa thỉnh, vị ấy liền nhập định quán chiếu rồi nói: “Dân vùng ấy trước đây tạo nghiệp giết hại rất nặng, nên nay chiêu cảm nghiệp báo phải bị giết hại thê thảm cũng chính tại nơi ấy. Nhưng nghiệp báo đến nay chưa dứt, e rằng toàn dân vùng ấy vẫn còn chưa được an ổn.
Sau đó liên tiếp nhiều năm binh lửa, người dân vùng ấy nhiều lần bị thảm sát, quả nhiên cuối cùng không một ai sống sót.
* Lời bàn:
Người đời thấy kẻ chài lưới bắt được con cá to thì vỗ tay tán thưởng, đâu biết rằng đang kết thêm một mối oán cừu. Nhìn thấy con vật bị bắt mà khởi lòng thương xót lập tức tìm cách giải cứu, e rằng vẫn còn không kịp, huống chi lại còn tán thưởng, ưa thích? Tán thưởng việc ấy là ngợi khen sự giết hại; ưa thích việc ấy là vui mừng với sự giết hại. Dùng trí tuệ mà quán xét thì đó đều là những hạt giống gây nạn binh đao về sau.


- Trích: An Sĩ Toàn Thư, quyển Hạ ( Khuyên Người Bỏ Giết Hại )
Reply
LINH XÀ CỨU NẠN DÂN

Đầu năm Dân Quốc, Hòa thượng Diệu Liên ở chùa Tử Vân thuộc huyện Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến, tuy tuổi hơn 80 nhưng vẫn rất khang kiện, ngài thường thuyết giảng Phật Pháp giáo hóa cư dân quanh đó. Ngài dạy họ giới không sát sanh, tin nhân quả báo ứng… Bất kể gái, trai, già, trẻ, hễ nghe đến lời ngài khai thị đều kính ngưỡng tin phục.

Mỗi tháng vào ngày Rằm, mồng Một, chùa Tử Vân luôn tổ chức pháp hội kéo dài ba ngày, do Hòa thượng đứng ra giảng pháp. Hễ đến mấy ngày này, cả rừng người đổ về tụ hội rất đông, ai cũng muốn được nghe ngài khai thị.
Thường ngày, mỗi sáng sớm Hòa thượng hay đi một mình lên núi, rảo một vòng khắp chung quanh, dù mưa gió cũng chẳng nghỉ ngơi.
Một hôm ngài lên núi, bắt gặp cách chỗ mình chừng trăm bước có con rắn dài hai thước bị bệnh nằm đó, đầu đuôi đều bị thương. Máu mủ xông tanh nồng, đang thở thoi thóp…


Ngài thấy tội nghiệp, bèn cứu chữa cho nó. Ngài nhai thảo dược, đắp lên vết thương cho rắn, chăm sóc nó xong rồi, mới quay về chùa.
Hôm sau, lúc Hòa thượng đi thăm con rắn thì không thấy nó nữa.
Nửa tháng sau chùa tổ chức giảng pháp, lúc Hòa thượng đang thuyết pháp, bỗng có con rắn bò vào chùa, thính chúng mặc dù có kinh khoảng, nhưng không ai làm hại nó.


Hòa thượng nhận ra đó là con rắn từng được mình cứu nửa tháng trước, bèn bảo: Mọi người chớ sợ, cứ để rắn vào nghe pháp!
Con rắn bây giờ vết thương đã lành, nó bò trước mặt Hòa thượng, ngoan ngoãn nằm cuộn tròn lại, đầu ngóc lên, ánh mắt biểu thị đầy niềm tri ân.
Khi Hòa thượng khai thị, con rắn giống như nghe hiểu hết, khóa giảng kinh kết thúc, nó bò đi. Từ đó, mỗi lần chùa có khóa giảng, con rắn đều vào nghe pháp rất đúng ngày, khi nghe giảng đến “giới sát”, thì nó lộ vẻ đã rất hiểu và lãnh hội.
Như thế trải qua hơn một năm, con rắn đã dài tới ba thước. Tăng chúng trong chùa và tín đồ đều gọi nó là: Linh xà Tử Vân Nhan (Rắn núi linh Tử Vân).
Năm nọ, xứ đó bỗng phát sinh dịch bệnh nhiều người bị sốt cao, thuốc men gì cũng vô hiệu nên đành mạng vong, ai cũng bó tay hết cách, chỉ biết buồn rầu giương mắt nhìn bao người lìa đời.


Hòa thượng thường dẫn đệ tử đi thăm người bệnh, nhưng không có cách chi chữa trị cho họ.
Ngày nọ, Hòa thượng thấy con rắn ngậm rất nhiều cỏ, chất thành đống trên núi. Rắn thấy Hòa thượng tới, thì quay đầu nhìn, ngài như muốn nói điều gì… Hòa thượng xem xét đống cỏ tỉ mỉ, phát hiện ra: Đây là thuốc trị lành bệnh dịch, có công năng hạ sốt… ngài lập tức ôm hết mớ thảo dược về chữa cho bệnh nhân, nhờ vậy mà họ khỏi bệnh.


Sau đó Hòa thượng đi tìm loại cỏ tương tự chế thành thuốc viên, gọi là “Phiến Tử Hoàn”, nhưng mọi người thường gọi là “Thuốc Hòa Thượng”… thuốc này cứu được vô số người.
Hòa thượng Diệu Liên thương yêu che chở chúng sinh, không những quan tâm con người, mà cả đến loài vật, tất cả chim, thú, côn trùng… ngài đều che chở.
Ban sơ nếu không phải ngài nhân từ cứu con rắn, khiến nó cảm động, thì làm sao có được thuốc hay để cứu mọi người?
Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có lòng đại từ như nhau, con rắn là bằng chứng rõ nhất. Hy vọng quý độc giả nếu đã biết yêu thương người thì cũng nên mở lòng xót thương đến loài vật. Dù là những sinh mạng nhỏ bé như côn trùng, chúng ta cũng nên che chở, tôn trọng.


Nam Mô A Di Đà Phật!
( Trích Báo Ứng Hiện Đời – Quả Khanh)
Reply