Krishnamurti Vấn Đáp: Bàn về Giáo dục ○ 20
#16
(2018-07-05, 06:12 PM)anatta Wrote: VỀ TÌNH YÊU
(ON LOVE)

HỎI : Đối với ngài, tình yêu có nghĩa là gì ?

KRISHNAMURTI : Chúng ta hãy khám phá bằng cách tìm hiểu những gì không phải tình yêu, vì khi tình yêu là sự thể xa lạ thì chúng ta phải đến tình yêu bằng cách tiêu trừ điều quen biết. Điều xa lạ không thể nào được khám phá bằng một tâm trí nhét đầy sự quen biết. Điều chúng ta sắp làm là tìm cho ra những giá trị của điều quen biết, nhìn vào điều quen biết, và khi điều quen biết ấy được nhìn một cách thuần khiết trong sạch, không có sự kết án, thì tâm trí trở nên tự do, giải phóng khỏi thế giới quen biết ; lúc ấy chúng ta sẽ biết được tình yêu là gì. Vì thế chúng ta phải đi đến tình yêu bằng đường lối tiêu cực phủ nhận, chứ không phải bằng đường lối tích cực khẳng định.

Đối với phần đông chúng ta, tình yêu là gì? Khi chúng ta nói rằng chúng ta yêu một người nào đó, chúng ta muốn nói gì ? Chúng ta muốn nói rằng chúng ta chiếm hữu người ấy. Từ sự chiếm hữu mới khởi phát lòng ghen tuông, bởi vì nếu tôi mất chàng ấy hay nàng ấy thì điều gì xảy ra? Tôi cảm thấy trống rỗng, mất mát ; vì thế tôi hợp lệ hóa sự chiếm hữu bằng luật pháp ; tôi ghì giữ chàng hoặc nàng. Vì sự ghì giữ, sự chiếm hữu ấy mới xuất hiện lòng ghen tuông, xuất hiện sự sợ hãi và vô số xung đột khởi phát từ sự chiếm hữu. Chắc chắn sự chiếm hữu ấy không phải là tình yêu, phải thế?

Dĩ nhiên tình yêu không phải là tình cảm. Giàu tình cảm, giàu cảm xúc không có nghĩa là có tình yêu đâu, vì tình cảm sướt mướt kia, cảm xúc kia chỉ là những cảm giác thôi. Một tu sĩ khóc thương Jesus hay Krishna, khóc thương thầy mình hoặc một người nào khác thì chỉ là một kẻ sướt mướt. Hắn thích thú chìm đắm trong cảm giác, tức là một tiến trình tư tưởng và tư tưởng không phải là tình yêu. Tư tưởng là kết quả của cảm giác, vì thế kẻ nào sướt mướt, dễ xúc động lải nhải thì không thể nào biết được tình yêu. Vậy phải chăng, chúng ta đều dễ sướt mướt, dễ xúc động lải nhải? Tình cảm sướt mướt, sự xúc động lải nhải chỉ là một hình thức bành trướng bản ngã. Giàu xúc động, cảm kích cố nhiên không phải là tình yêu, vì một người giàu tình cảm có thể rất tàn nhẫn hung dữ khi những tình cảm của hắn không được đáp ứng , khi những cảm xúc của hắn không có ngõ thoát. Một kẻ giàu xúc động cảm kích có thể bị sôi động đến việc thù hận, chiến tranh, tàn sát đẫm máu. Một kẻ giàu tình cảm, đầy lệ chảy chứa chan về tôn giáo của hắn nhất định không có tình yêu gì cả.

Có phải sự tha thứ là tình yêu? Cái gì nằm ẩn ý trong sự tha lỗi ? Ngài sỉ nhục tôi và tôi phẫn hận việc ấy, ghi nhớ việc ấy ; rồi hoặc vì sự trấn áp hoặc vì ăn năn hối hận, tôi nói, “tôi thứ lỗi ngài”. Thoạt đầu tôi ghi giữ lại, rồi tôi xua bỏ. Làm như vậy nghĩa là gì? Tôi vẫn là nhân vật quan trọng. Tôi vẫn còn quan trọng, chính tôi đang dung tha một người nào đó. Khi mà còn thái độ tha thứ, tha lỗi thì chính tôi vẫn là kẻ quan trọng, chứ không phải người đã sỉ nhục tôi. Vì thế khi tôi chồng chất tích trữ sự phẫn hận, rồi xua bỏ sự phẫn hận kia, mà tôi gọi là sự tha lỗi, đó vẫn không phải là tình yêu, tình thương.

Một người thương yêu cố nhiên không có lòng căm hờn và hắn lãnh đạm với tất cả mọi sự như vậy. Tương cảm, tha thứ, tương quan của lòng chiếm hữu, ghen tuông và sợ hãi – tất cả những thứ này không phải là tình thương. Tất cả những thứ này đều thuộc về tâm trí, phải thế không? Khi mà tâm trí vẫn còn làm trọng tài thì không có tình yêu, tình thương, bởi vì tâm trí chỉ phán xử, làm trọng tài qua tinh thần chiếm hữu và sự trọng tài kia chỉ là sự chiếm hữu qua những hình thức khác nhau. Tâm trí chỉ có thể làm hư đốn bại hoại tình yêu, tâm trí không thể khai sinh ra tình yêu, tâm trí không thể đem đến sự đẹp tuyệt vời trên đời. Ngài có thể viết một bài thơ về tình yêu, nhưng đó vẫn không phải là tình yêu. Dĩ nhiên không có tình yêu khi chẳng có sự kính trọng thực thụ, khi ngài không kính trọng kẻ khác, dù kẻ khác là người đầy tớ của ngài hoặc là bạn ngài.

Ngài có để ý rằng ngài không kính trọng , không tử tế, không rộng lượng đối với những người đầy tớ của ngài, đối với những người mà ngài gọi là “thấp hèn” hơn ngài? Ngài chỉ kính trọng những người ở địa vị trên, ngài kính trọng ông chủ của ngài, kính trọng người triệu phú, kẻ có ngôi nhà đồ sộ và chức tước cao, ngài kính trọng kẻ nào có thể cho ngài một địa vị tốt hơn, một việc làm khá hơn, kẻ nào ngài có thể trục lợi được. Nhưng ngài trở mặt với hạng người có địa vị thấp hơn ngài, dùng ngôn ngữ riêng biệt đối với họ. Vì thế nơi nào không có sự kính cẩn, nơi đó không thể nào có tình thương. Và vì hiện hữu chúng ta đều sống trong cảm thức này, cho nên chúng ta sống không tình thương. Chúng ta không kính cẩn, cũng không nhân từ, nhân ái, cũng không rộng lượng khoan dung. Chúng ta đều có tinh thần chiếm hữu, giàu tình cảm xúc động sướt mướt mà tình cảm xúc động sướt mướt này có thể xoay hướng về việc : hoặc chém giết, tàn sát, hoặc đoàn kết nhau về một chủ định âm mưu ngu si khờ dại. Vì thế làm thế nào có thể có tình yêu?

Ngài chỉ có thể biết tình yêu, tình thương, khi tất cả mọi sự vừa kể đã ngừng hết, chấm dứt hẳn, chỉ khi nào ngài không chiếm hữu , khi ngài không chỉ xúc động sùng bái phụng thờ một đối tượng nào đó. Sự sùng bái phụng thờ ấy chỉ là một sự thỉnh cầu van xin, tìm kiếm một cái gì đó trong một hình thức khác. Kẻ nào van xin, nguyện cầu thì kẻ ấy không biết tình thương. Vì ngài có tinh thần chiếm hữu, vì ngài tìm kiếm một cứu cánh , một kết quả bằng hình thức sùng bái, đọc kinh, những điều này làm ngài tràn đầy tình cảm xúc động, cho nên dĩ nhiên là không có tình thương; cố nhiên là không có tình thương khi không có lòng kính cẩn. Ngài có thể nói rằng ngài có lòng kính cẩn, nhưng sự kính cẩn của ngài là kính cẩn đối với người trên, đó chỉ là sự kính cẩn xuất phát từ việc muốn một cái gì đó, tức là sự kính cẩn của lòng sợ hãi. Nếu ngài thực sự cảm thấy kính cẩn, ngài sẽ kính cẩn đối với những gì thấp nhất cũng như đối với những gì gọi là “cao nhất” ; vì ngài không làm được như vậy, cho nên không có tình yêu, tình thương. Ít người trong chúng ta có lòng rộng lượng, khoan dung, nhân ái ! Ngài chỉ rộng lượng khi điều ấy đem lợi đến cho ngài, ngài nhân ái khi ngài có thể thấy mình được đáp trả lại. Khi những thứ này tiêu ma đi, khi những sự việc này không làm bận tâm trí ngài và khi những sự việc của tâm trí không lấp đầy tâm tư ngài, lúc ấy mới có tình thương, và chỉ có tình thương mới có thể biến chuyển cơn điên loạn, cuồng dại hiện nay ở thế giới – chứ không phải những hệ thống tư tưởng , chứ không phải những lý thuyết, dù lý thuyết của bên tả hay của bên hữu.

Ngài chỉ thực sự thực yêu thương khi ngài không chiếm hữu, khi ngài không đố kỵ, không gian tham, khi ngài kính cẩn, khi ngài có lòng nhân từ và từ bi, khi ngài kính trọng người vợ ngài, con ngài, người láng giềng của ngài, những người đầy tớ bất hạnh của ngài.

Không thể nghĩ về tình yêu, không thể đào luyện tình yêu, không thể thực hành tình yêu. Sự thực hành tập luyện về tình yêu, về tình huynh đệ là vẫn còn nằm trong lãnh vực của tâm trí, vì thế đó không phải là tình thương, tình yêu. Khi tất cả mọi sự đào luyện thực hành đều chấm dứt, lúc ấy tình thương tình yêu mới xuất hiện, lúc ấy các ngài sẽ biết được yêu thương là gì. Lúc ấy tình yêu thương không có tính cách số lượng mà chỉ có tính cách phẩm. Các ngài không nói, “tôi yêu thương cả thế giới, cả nhân loại” nhưng khi ngài biết yêu thương một thôi thì ngài biết yêu thương tất cả . Bởi vì chúng ta không biết yêu thương một thì tình thương yêu của chúng ta đối với nhân loại chỉ là ảo tưởng. Khi các ngài yêu thương thì không có một cũng không có nhiều ; chỉ có tình yêu thương thôi. Chỉ khi nào có tình yêu thương thì tất cả vấn đề của chúng ta mới có thể được giải quyết và lúc ấy chúng ta sẽ hưởng được sự diễm phúc tuyệt vời miên man.

Krishnamurit giảng về tình yêu hay quá đi!  Clap Thanks anh Anatta. Love it!  10_point
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
#17
VỀ NỖI ĐAU KHỔ
(On Suffering)

HỎI: Ý nghĩa của đau đớn và đau khổ là gì ?

KRISHNAMURTI: Khi ngài đau khổ , khi ngài đau đớn, ý nghĩa của đau khổ và đau đớn ấy là gì ? Sự đau đớn thể xác có một ý nghĩa nhất định, nhưng có lẽ ngài muốn nói đến sự đau đớn và đau khổ thuộc phạm vi tâm lý , và sự đau đớn đau khổ tâm lý này có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn trong những bình diện khác nhau. Ý nghĩa của đau khổ là gì ? Tại sao ngài lại muốn tìm thấy ý nghĩa của đau khổ ? Nói thế không có nghĩa là đau khổ không có ý nghĩa ; chúng ta đang tìm hiểu đây. Nhưng tại sao ngài lại muốn tìm hiểu ý nghĩa của đau khổ ? Tại sao ngài lại muốn tìm hiểu lý do đau khổ của mình ? Khi ngài tự hỏi như vậy, “tại sao tôi đau khổ ?”, và tìm hiểu lý do đau khổ , thì ngài có thoát được đau khổ không ? Khi tôi tìm kiếm ý nghĩa của đau khổ, có phải tôi trốn tránh, thoát ly, chạy trốn nó không ? Sự kiện là : tôi đang đau khổ nhưng vừa lúc tôi dùng tâm trí để tác động trên sự đau khổ và nói “ tại sao vậy ?”, thì lúc ấy tôi đã làm loãng cường độ của sự đau khổ . Nói khác đi, chúng ta muốn nỗi đau khổ loãng tan đi, vơi bớt đi, tiêu ma đi ; chúng ta muốn giải thích cho qua đi nỗi khổ ấy. Hiển nhiên làm thế thì không thể nào hiểu được sự đau khổ. Nếu tôi thoát được lòng ham muốn chạy trốn sự đau khổ, lúc ấy tôi mới bắt đầu hiểu bản chất nội dung của đau khổ.

Đau khổ là gì ? Phải chăng đó là sự phiền não quấy rối trên nhiều cấp độ khác nhau – ở cấp độ thể chất và ở những cấp độ khác nhau của tiềm thức. Đó là một hình thức phiền não sắc sảo mà tôi không ưa thích. Con tôi chết, chẳng hạn. Tôi đã xây dựng bao nhiêu hy vọng chung quanh đứa con trai tôi hay chung quanh đứa con gái tôi, chồng tôi, hay bất cứ ai, bất cứ cái gì. Tôi đã xây bao nhiêu mộng ảo, bao nhiêu đền điện tôn quí chung quanh đứa con ấy, tôi coi nó như người bạn đường, vân vân. Thế rồi bỗng nhiên nó chết đi. Thế là sự phiền não xuất hiện, phải thế không ? Và tôi gọi sự phiền não ấy là sự đau khổ.

Nếu tôi không thích sự đau khổ ấy, tôi liền nói đại khái như vầy “ tại sao tôi đau khổ ?”, “tôi yêu thương nó quá sức”, “Nó là thế này”. “tôi có thế kia”. Tôi cố gắng tìm cách chạy trốn trong những lời tiếng, trong những nhãn hiệu, trong những tín ngưỡng, như phần đông mọi người đều làm thế. Những thứ ấy tác động trên tâm thức tôi như là những thuốc mê. Nếu tôi không làm thế thì cái gì xảy ra ? Tôi chỉ ý thức về sự đau khổ. Tôi không kết án nó, tôi không biện minh nó – tôi chỉ đau khổ. Rồi lúc ấy tôi có thể theo dõi sự vận hành của nỗi đau khổ ấy, phải thế không ? Rồi tôi có thể theo dõi trọn vẹn nội dung ý nghĩa của sự đau khổ - “Tôi theo dõi” ở đây có nghĩa là cố gắng tìm hiểu một sự thể gì đó.

Đau khổ có nghĩa là gì ? Cái gì đang đau khổ ? Không nên hỏi tại sao có đau khổ, không nên hỏi lý do của sự đau khổ, mà phải hỏi cái gì thực sự đang xảy ra ? Tôi chẳng rõ các ngài có phân biệt được không. Lúc ấy, tôi chỉ ý thức về sự đau khổ không phải ý thức về một sự thể tách lìa cách biệt với tôi, không phải ý thức như một người quan sát đang ngó nhìn sự đau khổ - tôi ý thức về sự đau khổ ý thức rằng sự đau khổ là thành phần của tôi, nghĩa là toàn thể người tôi đang đau khổ. Lúc ấy tôi có thể theo dõi sự vận hành của nỗi đau khổ, tìm xem sự đau khổ sẽ dẫn mình đi đến đâu. Hiển nhiên nếu tôi làm thế thì sự đau khổ sẽ mở bật ra, phải thế không? Lúc ấy tôi thấy rằng tôi đã đặt sự quan trọng vào bản ngã, chứ không phải đứa con tôi yêu thương. Đứa con ấy chỉ được dùng để che đậy khuất lấp tôi để tôi trốn thoát khỏi nỗi khốn khổ, nỗi cô đơn, nỗi bất hạnh vô phúc. Vì tôi không là gì cả, cho nên tôi muốn đứa con tôi phải là gì đó. Nhưng điều ấy không còn thực hiện được, vì đứa con đã mất đi và chỉ còn tôi ở lại, tôi cảm thấy mất mát, tôi cảm thấy cô đơn hiu quạnh. Không còn đứa con của tôi nữa thì tôi không là gì hết. Thế là tôi khóc. Không phải khóc vì đứa con đã đi mất mà vì tôi phải ở lại. Tôi cô độc. Đạt tới được điểm này là một điều rất khó, phải thế không ? Thực ra rất khó tri nhận điều ấy mà không phải nói, “tôi cô độc và làm thế nào để diệt mất sự cô đơn này ?”, khi nói như vậy thì đó cũng đã là một hình thức chạy trốn ; khi tri nhận điều ấy, thay vì nói như vậy, mình phải ý thức về nó, lưu trú trong nó, nhìn thấy sự vận hành của nó. Tôi chỉ lấy trường hợp vừa nêu như một thí dụ. Lần hồi, nếu tôi cứ để cho sự đau khổ phơi bày ra, mở ra, thì tôi thấy rằng tôi đau khổ . Bởi vì tôi mất mát ; tôi bị ép buộc để ý vào một sự việc mà tôi không muốn nhìn tới, tôi bị cưỡng ép lưu ý đến sự việc mà tôi không muốn hiểu. Biết bao nhiêu người trên đời này giúp đỡ tôi chạy trốn, hàng ngàn những kẻ tu hành với những tín ngưỡng, tín điều của họ, những hy vọng và ảo giác kỳ quặc của họ, họ có thể nói như vầy : đó là nghiệp, là karma, là thiên ý, vân vân, họ đều có sẵn lối thoát cho tôi. Nhưng nếu tôi có thể lưu trú với nỗi đau khổ của tôi và không xua đuổi nó, không tìm cách giới hạn hay phủ nhận nó thì lúc ấy cái gì xảy ra ? Tâm trạng của tôi là gì, khi tâm trí tôi dõi theo sự vận hành của đau khổ ?

Phải chăng đau khổ chỉ là một danh từ hay là một thực thể, một sự kiện ? Nếu đau khổ là một thực thể, chứ không phải chỉ là một danh từ, thì danh từ chẳng có ý nghĩa gì cả, và lúc ấy, chỉ còn lại cảm giác đau đớn dữ dội. Đau đớn đối với cái gì ? Đau đớn đối với một hình ảnh, đối với một kinh nghiệm đối với một sự thể mà ngài có hay không có. Nếu ngài có sự thể ấy, ngài gọi đó là sung sướng, nếu ngài không có nó, ngài cho là đau đớn. Do đó, sự đau đớn, sự phiền muộn chỉ là tương quan với một sự thể nào đó. Phải chăng sự thể ấy chỉ là một ngôn thức hay là một thực thể ? Sự đau buồn chỉ hiện hữu khi có tương giao với một sự thể nào đó. Sự đau buồn không thể hiện hữu đơn phương một mình, cũng như sự sợ hãi cũng không thể hiện hữu đơn phương, nhưng chỉ hiện hữu trong tương giao với một sự thể nào đó : với một cá thể, cá nhân, với một sự việc xảy ra, với một cảm giác. Ngài đã ý thức trọn vẹn về sự đau khổ rồi. Phải chăng sự đau khổ ấy tách lìa ly cách với ngài và ngài chỉ là kẻ quan sát trực nhận sự đau khổ, hay sự đau khổ kia chính là ngài.

Khi không còn kẻ quan sát đang đau khổ thì sự đau khổ có còn khác biệt với ngài ? Chính ngài là sự đau khổ, phải thế không ? Ngài không phải tách lìa với sự đau đớn – ngài chính là sự đau đớn . Cái gì xảy ra ? Lúc ấy, không còn nhãn hiệu nữa, không còn đặt tên cho sự đau khổ, rồi xua đuổi nó đi, và chính ngài chỉ là sự đau đớn kia, cảm giác kia, cảm thức về nỗi quằn quại kia. Khi ngài chính là những thứ ấy thì cái gì xảy ra ? Khi ngài không còn đặt tên cho sự đau khổ, khi không còn sự sợ hãi nào đối với nỗi đau khổ ấy thì tâm điểm của cảm thức có còn liên hệ với nỗi khổ ấy ? Nếu tâm điểm của cảm thức còn liên hệ với nỗi khổ ấy thì lúc ấy cảm thức vẫn còn sợ hãi đau khổ. Thế là cảm thức phải tác động và làm một việc gì đó để đối phó sự việc. Nhưng nếu tâm điểm của cảm thức là nỗi đau khổ ấy thì lúc ấy ngài làm gì ? Không làm gì cả, phải thế không ? Nếu ngài chính là sự đau khổ và ngài không chấp nhận nó, không đặt nhãn hiệu cho nó, không xua đuổi nó, nếu ngài là nó, thì cái gì xảy đến ? Ngài còn nói rằng ngài đau khổ nữa thôi ? Cố nhiên là một sự chuyển hóa toàn triệt xảy ra. Lúc ấy không còn ai nói, “tôi đau khổ”, bởi vì không còn tâm điểm nào của cảm thức để mà đau khổ ; tâm điểm của cảm thức chỉ đau khổ bởi vì chúng ta không bao giờ khảo sát bản chất của tâm điểm ấy. Chúng ta chỉ sống từ danh từ này sang đến danh từ khác, từ phản ứng này đến phản ứng khác. Chúng ta không bao giờ nói, “Hãy để cho tôi nhìn thấy sự thể đau khổ kia là sự thể gì”. Ngài không thể nhìn thấy bằng sự cưỡng ép, bằng kỷ luật. Ngài phải nhìn một cách chú tâm, với sự thông cảm tự nhiên. Lúc ấy, ngài sẽ thấy rằng điều mình gọi là đau khổ, đau đớn, điều mình trốn tránh, và kỷ luật giới luật, tất cả những thứ này tiêu ma đi mất. Khi nào tôi không còn dính líu liên hệ với một sự thể như là một thực thể tách biệt bên ngoài thì vấn đề không còn đó nữa ; lúc nào tôi lại có có thể hệ liên quan với sự thể như là thực thể bên ngoài tôi thì lúc ấy vấn đề lại xuất hiện. Khi nào tôi còn coi sự đau khổ như là một cái gì ở bên ngoài, như tôi đau khổ vì tôi mất người anh, vì tôi không có tiền, vì thế này hay thế kia, khi tôi còn coi sự đau khổ như thực thể bên ngoài như vậy thì tôi đã đặt liên quan giao hệ với nó và chính liên hệ ấy chỉ là giả tưởng. Nhưng nếu tôi chính là nó, nếu tôi nhìn thấy sự kiện ấy, lúc ấy mọi sự sẽ được chuyển hóa, mọi sự mang một ý nghĩa khác biệt. Lúc ấy mình chú tâm trọn vẹn, chú tâm nguyên vẹn và điều được chú ý hoàn toàn thì được hiểu và được giải tan, lúc ấy mình không còn sợ hãi nữa ; do đó, chữ “đau khổ sầu muộn” cũng không hiện hữu nữa.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
#18
Về Sự Căm Hờn và Oán Ghét
(On Hate)


HI: Nếu tôi thực hoàn toàn chính trực, tôi phải nhận rằng tôi phẫn hận và đôi khi thù ghét gần hết mọi người. Điều ấy làm cho đời sống tôi vô cùng khổ sở và đau đớn. Đứng về mặt trí thức, tôi hiểu lòng phẫn hận và sự căm hờn thù ghét này ; nhưng tôi không thể nào đương đầu với nó. Ngài có thể chỉ đường dẫn lối cho tôi để đối đầu với sự căm hờn oán ghét này ?

KRISHNAMURTI : Đối với chúng ta, từ ngữ “đứng về mặt trí thức” có nghĩa là gì ? Khi chúng ta nói rằng chúng ta hiểu một điều gì đó trên bình diện trí thức, nói như thế, chúng ta muốn ngụ ý gì ? Có cái gì có thể gọi là sự hiểu biết trí thức ? Hoặc phải chăng chỉ có tâm trí mới hiểu ngôn từ , bởi vì đó là cách duy nhất của chúng ta để truyền đạt với nhau ? Tuy nhiên, chúng ta có thể nào thực sự hiểu bất cứ điều gì mà chỉ đứng trên bình diện ngôn từ, tâm trí ? Đó là điều đầu tiên chúng ta cn phi minh bch : tìm xem phải chăng sự hiểu biết gọi là trí thức kia chỉ là chướng ngại của sự hiểu biết . Điều không thể chối cãi là sự hiểu biết có tính cách nguyên vẹn, không phân chia, không thiên vị ? Hoặc tôi hiểu hoặc tôi không hiểu, chỉ có thế thôi. Còn việc tự nhủ như vầy, “tôi hiểu điều ấy trên bình diện trí thức” tự nhủ như vậy, chắc chắn là một hàng rào ngăn chận lại sự giao cảm hiểu biết. Sự hiểu biết trí thức chỉ là một tiến trình có tính cách cục bộ và không phải thực sự là hiểu biết gì cả.

Vấn đề là thế này : “Tôi là kẻ căm hờn, lòng đầy phẫn hận oán ghét, làm thế nào tôi có thể thoát khỏi lòng căm hờn oán ghét, hoặc làm thế nào tôi có thể đương đầu với vấn đề ấy ? Làm thế nào chúng ta đối đầu với một vấn đề ? Một vấn đề là gì ? Nhất định một vấn đề là một sự việc phiền rầy, phiền não.

Tôi cảm thấy phẫn hận, tôi thù ghét người đời và điều ấy đã khiến tôi đau khổ . Và tôi ý thức trực tiếp về điều ấy. Tôi phải làm gì ? Điều ấy quả là một yếu tố phiền não trong đời sống tôi. Tôi phải làm gì, tôi phải làm thế nào để thực sự tự do, để thoát khỏi lòng phẫn hận căm thù – không phải chỉ lột vỏ trong giây phút nhất thời mà thoát khỏi, giải thoát khỏi lòng căm thù tận căn rễ ? Tôi phải làm thế nào ?

Đó là một vấn đề đối với tôi, bởi vì điều ấy làm phiền rầy tôi. Nếu điều ấy không làm phiền rầy tôi thì nó sẽ không là một vấn đề đối với tôi, phải thế không ? Bởi vì điều ấy gây ra đau khổ, phiền bực, xao xuyến, cho nên tôi muốn giải trừ nó. Do đó, điều tôi chống đối chính là điều phiền bực, phải thế không ? Tôi gọi tên nó, gọi nhiều tên khác nhau vào những lúc khác nhau, trong những cảm trạng khác nhau : hôm nay, tôi gọi nó như thế này, ngày mai, tôi gọi nó như thế kia, nhưng tận thâm tâm thì vẫn là lòng khát khao không muốn bị phiền rầy. Phải thế không ? Bởi vì sự vui sướng khoái lạc không bao giờ làm phiền rầy mình, cho nên tôi chấp nhận nó. Tôi không muốn giải trừ sự khoái lạc, bởi vì không có gì rầy rà – ít ra, sự khoái lạc cũng không làm mình cảm thấy phiền rầy trong giây phút hiện thời, nhưng trái lại, lòng thù ghét căm hờn là những yếu tố phiền rầy, rất phiền rầy trong đời sống tôi và tôi muốn giải trừ những yếu tố phiền rầy ấy.

Mối quan tâm của tôi là không muốn bị phiền rầy và tôi cố tìm biết cách để mình đừng bị phiền rầy. Tại sao tôi không phải chịu phiền rầy ? Đáng lẽ tôi phải chịu phiền rầy thì mới hiểu nổi sự đời, phải thế không ? Tôi phải chịu trải qua những chấn động hỗn loạn xao xuyến kinh hoàng để cho mọi sự vỡ lẽ ra, phải thế không ? Nếu tôi không bị phiền rầy thì tôi vẫn sẽ còn ngây ngủ, và có lẽ phần đông chúng ta đều muốn say ngủ - muốn được an toàn, muốn được ru ngủ, muốn tránh mọi sự phiền rầy, muốn tìm vỗ về an ủi, ẩn kín, an ninh. Nếu thực sự tôi không ngại bị phiền rầy, không sợ phiền rầy thực sự , chứ không phải một cách hời hợt thôi, nếu thực lòng tôi không ngại phiền rầy vì tôi muốn mọi sự vỡ lẽ ra – thì lúc ấy thái độ của tôi đối với lòng thù ghét căm hờn sẽ được chuyển hóa ngay lập tức , phải thế không ? Nếu tôi không ngại chuyện phiền rầy lúc ấy danh từ, danh hiệu không còn quan trọng, phải thế không ? Danh từ “sự thù ghét” không quan trọng, phải thế ? Hoặc danh từ “sự căm hờn” đối với người đời, danh từ “sự căm hờn” này cũng không còn quan trọng, phải thế ? Bởi vì lúc ấy tôi được trực tiếp thể nghiệm trạng thái mà tôi gọi là “sự căm hờn” mà không diễn đạt kinh nghiệm ấy thành ra ngôn từ.

Sự giận dữ là một yếu tố phiền rầy , như lòng thù hận và căm hờn và ít người có kinh nghiệm trực tiếp về sự giận dữ mà không phải diễn đạt nó thành ra ngôn từ. Nếu tôi không dùng danh từ ngôn tự để diễn đạt sự giận dữ, nếu tôi không gọi nó là giận dữ, nhất định kinh nghiệm sẽ đổi khác đi, phải thế không ? Bởi vì tôi gọi tên nó, tôi đã giản lược mt kinh nghim mi hoặc đóng chặt nó trong nhng phm trù cũ kỹ, trái li ; nếu tôi không gọi tên, đặt tên cho kinh nghiệm ấy, lúc ấy, một kinh nghiệm mới được trực tiếp thể nhận và sự thể nhận này đem đến một cuộc chuyển hóa trong sự thể nghiệm ấy.

Hãy lấy thí dụ về lòng bủn xỉn hèn mọn, chẳng hạn. Phần đông chúng ta đều không biết rằng mình bủn xỉn hèn mọn đê tiện – đê tiện về vấn đề tiền bạc, đê tiện trong việc khoan dung với người đời, nói chung là đê tiện, bần tiện. Tôi chắc chắn là chúng ta đều biết rõ quen thuộc với lòng đê tiện hèn mọn này. Vậy, lúc ý thức trực tiếp về sự bần tiện này thì ngài làm thế nào để giải trừ nó ? – không phải trở thành kẻ quảng đại rộng lượng, điều này không quan trọng, giải trừ được sự bần tiện có nghĩa là sự rộng lượng, do đó, ngài không phải trở nên rộng lượng. Cố nhiên, mình phải có ý thức trực tiếp về điều ấy. Các ngài có thể rất rộng lượng trong việc trao tặng nhiều tiền của to tát cho xã hội, cho bạn bè, nhưng vô cùng bần tiện , đê tiện trong khi đưa tiền “típ” kha khá cho một anh bồi bàn – các ngài chắc đã hiểu tôi muốn nói “bần tiện” có nghĩa là gì rồi. Mình thường hay vô ý về việc ấy. Khi mình để ý việc ấy thì cái gì xảy đến ? Chúng ta cố gắng áp dụng ýchí, ý lực mình để có lòng rộng lượng ; chúng ta cố gắng khắc phục ý chí ; chúng ta cố công tự chế phục mình để làm kẻ rộng lượng, vân vân. Nhưng tựu chung, cố sức trì chí để trở nên một cái gì đó thì vẫn là còn vướng trong lòng đê tiện, bần tiện, vướng trong một vòng tròn lẩn quẩn khác lớn hơn nữa, vì thế nếu chúng ta không làm những việc trên mà chỉ có ý thức trực tiếp về tất cả những ẩn ý, thâm ý của lòng bần tiện, và không đặt tên, gọi tên cho lòng bần tiện, nghĩa là không gọi trạng thái ấy là “bần tiện” thì lúc ấy chúng ta sẽ thấy một sự chuyển hóa toàn triệt được thực hiện.

Xin hãy thể nghiệm sự việc này. Trước hết mình phải chịu phiền rầy , và điều dễ thấy là phần đông chúng ta không thích bị phiền rầy . Chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã tìm được một mẫu sống, một khuôn mẫu nào đó trong cuộc hiện hữu này – như theo bậc đạo sư, tín ngưỡng hay bất cứ cái gì khác – rồi chúng ta định cư luôn trong khuôn mẫu đời sống ấy. Việc ấy không khác gì tìm một công việc cạo giấy cao cấp , rồi sinh hoạt trong công việc ấy suốt đời mình. Cũng y hệt tâm thức như vậy, chúng ta phải đối phó với một số yếu tố mà chúng ta muốn giải trừ. Chúng ta không thấy sự quan trọng của việc phải chịu phiền rầy , phải chịu sự bất an trong tâm hồn, phải chịu độc lập. Nhất định chỉ có trong sự bất an, mình mới khám phá ; mình mới nhìn thấy, mình mới hiểu sự đời ? Chúng ta muốn được giống một kẻ giàu sang phú quí, sống thảnh thơi, không bị phiền rầy ; kẻ ấy không muốn bị phiền rầy.

Sự phiền rầy, quấy rầy là điều cần thiết cho việc hiểu biết giao cảm, và bất cứ sự nỗ lực nào trong việc tìm kiếm an ninh, an toàn đều làm trở ngại cho sự giao cảm hiểu biết. Khi chúng ta muốn giải trừ một điều gì phiền rầy , quấy rối thì đó chính là sự chướng ngại. Nếu chúng ta có thể có kinh nghiệm trực tiếp về một cảm giác và không gọi tên cảm giác ấy, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ tìm được nhiều việc mới lạ trong cảm giác ấy ; lúc ấy, sẽ không còn sự tranh chấp với cảm giác ấy, bởi vì người thể nghiệm và điều được thể nghiệm đều là một, và đây mới là điều chính yếu. Khi mà người thể nghiệm lại còn diễn đạt cảm giác thành ra ngôn từ, diễn đạt kinh nghiệm thành ra chữ nghĩa thì lúc ấy người thể nghiệm đã tự ly khai mình với kinh nghiệm và tác động trên kinh nghiệm ấy ; hành động như thế chỉ là một hành động giả tạo, ảo tưởng. Nhưng nếu mình không để cho tiến trình ngôn từ tác động vào kinh nghiệm, lúc ấy, người thể nghiệm và điều sở nghiệm đều là một, đồng nhất, bất nhị. Sự nguyên nhất vẹn toàn ấy rất cần thiết và mình phải đối mặt vi snguyên toàn này trong tn cùng căn để.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
#19
VỀ SỰ SỢ HÃI
(On Fear)


HỎI : Làm thế nào tôi giải trừ được sợ hãi đang tác động trên mọi sinh hoạt của tôi ?

KRISHNAMURTI : Đối với chúng ta, sợ hãi có nghĩa là gì ? Sợ cái gì ? Có nhiều loại sợ hãi và chúng ta không cần phải phân tách đủ mọi loại sợ hãi. Tuy nhiên chúng ta có thể thấy rằng nỗi sợ hãi chỉ xuất hiện , mỗi khi sự lý hội của chúng ta về mối tương quan ở đời sống không được trọn vẹn toàn diện. Sự tương quan không phải chỉ là giữa người đời mà còn là giữa chúng ta và thiên nhiên, giữa chúng ta và tài sản, giữa chúng ta và những ý tưởng ; khi mà tương quan kia không được hiểu trọn vẹn thì sự sợ hãi phải xuất hiện. Đời sống là tương quan. Hiện thể là liên thể, không có tương quan thì không có đời sống. Không có gì có thể hiện hữu trong sự biệt lập ; khi mà tâm trí vẫn tìm kiếm sự cô lập thì sự sợ hãi phải xuất hiện. Sự sợ hãi không phải là một điều trừu tượng ; sự sợ hãi chỉ hiện hữu trong liên hệ với một sự thể.

Vấn đề là làm thế nào để tiêu trừ sự sợ hãi ? Trước tiên, mình phải hiểu rằng bất cứ điều gì đã được chế ngự rồi thì lại phải được khắc phục, chinh phục thường xuyên lý tưởng. Không có vấn đề nào có thể được chế ngự, khắc phục rốt ráo ! Mình có thể hiểu vấn đề, chứ không thể khắc phục vấn đề. Đó là hai tiến trình hoàn toàn khác nhau, và tiến trình chinh phục, khắc phục chỉ đưa dẫn đến cơn hỗn loạn, nỗi sợ hãi trầm trọng hơn nữa. Muốn chống chế, thống ngự, tranh chấp với một vấn đề, hoặc muốn xây tường thành phòng thủ đối trị vấn đề chỉ là tạo thêm xung đột trầm trọng hơn nữa, trái lại, nếu chúng ta có thể hiểu được sự sợ hãi, đi sâu vào sự sợ hãi từng bước một, thám hiểm khai phá trọn vẹn nội dung của sự sợ hãi thì lúc ấy sự sợ hãi sẽ không trở về dưới bất cứ hình thức nào.

Như tôi đã trình bày, sự sợ hãi không phải là một điều trừu tượng ; sự sợ hãi chỉ hiện hữu trong tương giao. Đối với chúng ta, sự sợ hãi có nghĩa là gì? Rốt ráo rồi chúng ta đều sợ hãi, phải thế không ? Sợ hãi rằng mình không là gì cả, sợ hãi rằng mình không trở thành cái gì hết. Vậy, mỗi khi xuất hiện nỗi sợ hãi về việc không là gì cả, về việc không tiến thân, hoặc sợ hãi về thế giới xa lạ, về sự chết thì mình có thể nào khắc phục được nỗi sợ hãi kia bằng lòng quyết đoán , bằng một sự kết luận, bằng bất cứ sự lựa chọn nào ? Cố nhiên là không. Sự đàn áp, sự cao thượng hóa, hoặc sự tráo trở đổi thay chỉ tạo ra thêm nhiều sự chống đối, phải thế không ? Do đó, mình không bao giờ có thể chiến thắng sự sợ hãi bằng bất cứ hình thức kỷ luật nào, bằng bất cứ hình thức chống đối cầm cự nào. Mình phải nhìn suốt sự kiện, cảm nhận và thể nghiệm sự kiện một cách minh bạch ; sự sợ hãi không thể nào được khắc phục qua bất cứ hình thức phòng vệ hoặc đối kháng nào, cũng không thể nào giải thoát khỏi sự sợ hãi bằng cách tìm kiếm câu trả lời hoặc bằng lối giải thích có tính cách trí thức hoặc ngôn từ.

Vậy thì chúng ta sợ cái gì ? Có phải chúng ta sợ một sự kiện hoặc sợ một ý tưởng về sự kiện? Có phải chúng ta sợ sự thể như là thế, hoặc có phải chúng ta sợ về những gì chúng ta nghĩ về sự thể ấy? Lấy thí dụ về cái chết chẳng hạn. Có phải chúng ta sợ sự chết hoặc sợ ý tưởng về cái chết. Sự kiện là một việc và ý tưởng về sự kiện lại là một việc khác. Có phải tôi sợ chữ “chết” hoặc sợ chính sự chết ? Bởi vì tôi sợ tiếng, sợ chữ, sợ ý tưởng, cho nên tôi không bao giờ hiểu được sự kiện, hiểu được sự chết, tôi không bao giờ nhìn thẳng vào sự kiện, tôi không bao giờ trực tiếp liên hệ với sự kiện. Chỉ khi nào tôi được hoàn toàn cảm thông với sự kiện thì mới không có sự sợ hãi. Nếu tôi không cảm thông với sự kiện, lúc ấy sự sợ hãi mới hiện hữu, và tôi không thể nào có giao cảm tiếp thông với sự kiện khi mà tôi vẫn có một ý tưởng, một ý kiến, một lý thuyết về sự kiện, vì thế tôi phải minh bạch sáng suốt tìm hiểu xem có phải tôi sợ tiếng, sợ chữ, sợ ý tưởng hay là tôi sợ sự kiện. Nếu tôi đối mặt với sự kiện thì không có gì cần phải hiểu về sự kiện ấy : sự kiện hiện ra ở đó và tôi có thể tiếp xúc đối đầu với sự kiện. Đàng này, nếu tôi sợ chữ, sợ tiếng, tôi phải hiểu tiếng, hiểu chữ, đi vào trọn vẹn tiến trình ẩn nghĩa của tiếng chữ, danh tự. Chẳng hạn, mình sợ nỗi cô đơn hiu quạnh, sợ đau đớn, sợ cơn quằn quại da diết của nỗi cô đơn. Nhất định là sự sợ hãi hiện hữu bởi vì mình chưa bao giờ thực sự ngó thẳng vào nỗi cô đơn, mình chưa bao giờ giao cảm tiếp thông trọn vẹn với sự cô đơn. Lúc nào mình thực sự cởi mở lộ bày đón tiếp trọn vẹn sự cô đơn kia thì mình có thể hiểu được thực chất của sự cô đơn ấy, tuy nhiên, mình vẫn luôn luôn có một ý tưởng , một ý kiến nào đó về sự cô đơn kia, ý kiến hoặc ý tưởng ấy được đặt trên kiến thức có sẵn trước ; và chính ý tưởng này, ý kiến này, kiến thức có sẵn trước về sự kiện , chính những thứ này đã tạo ra sự sợ hãi. Sự sợ hãi hiển nhiên là kết quả của sự định danh, gọi tên, của sự phóng hiện một biểu tượng để diễn đạt sự kiện ; nghĩa là sự sợ hãi không phải biệt lập với ngôn từ, chữ, tiếng, danh tự.

Giả thử tôi có một phản ứng nào đó với sự cô đơn ; nghĩa là tôi cho rằng tôi sợ mình không là gì cả. Có phải tôi sợ chính sự kiện hay là sự sợ hãi ấy được khơi dậy là bởi tôi đã có sẵn trước kiến thức về sự kiện, kiến thức chính là tiếng, chữ, biểu tượng, hình ảnh ? Làm thế nào có sự sợ hãi về một sự kiện ? Khi tôi đối mặt với một sự kiện, giao cảm trực tiếp với sự kiện thì tôi có thể nhìn thẳng sự kiện, quan sát nó, do đó, không còn sự sợ hãi nào về sự kiện cả. Lý do của sự sợ hãi là sự lo sợ của tôi về sự kiện , về những gì mà sự kiện có thể là thế nào đó hoặc làm sao đó.

Chính ý kiến của tôi, ý tưởng của tôi, kinh nghiệm của tôi, kiến thức của tôi về sự kiện đã tạo ra sự sợ hãi. Khi nào hãy còn sự diễn đạt sự kiện thành ra ngôn từ, đặt tên cho sự kiện , rồi đồng hóa hoặc kết án sự kiện, khi nào tư tưởng hãy còn là phán đoán sự kiện với tư cách là quan sát viên thì lúc đó nhất định phải có sự sợ hãi. Tư tưởng là sản phẩm của quá khứ, tư tưởng chỉ có thể hiện hữu qua sự diễn đạt ngôn từ, qua những biểu tượng, qua những hình ảnh ; khi nào tư tưởng hãy còn đối phó hoặc diễn dịch sự kiện thì lúc ấy sự sợ hãi vẫn phải còn đó.

Đấy, chính tâm trí đã tạo ra sự sợ hãi, vì tâm trí là tiến trình của tư duy. Tư duy là ngôn hóa sự thể. Các ngài không thể suy tư mà không dùng đến chữ, tiếng, biểu tượng, hình ảnh ; những hình ảnh này, tức là những thành kiến, kiến thức có sẵn trước, mối lo sợ của tâm trí, tất cả những thứ này đã được phóng ảnh trên sự kiện, và từ đó mới phát khởi sự sợ hãi. Chỉ được tự do thoát khỏi sự sợ hãi khi nào tâm trí có khả năng nhìn thẳng vào sự kiện mà không phải diễn dịch sự kiện , mà không phải gọi tên, đặt một nhãn hiệu cho sự kiện. Điều này thực vô cùng khó khăn, bởi vì những cảm giác, những phản ứng, những mối lo âu xao xuyến của chúng ta đều bị tâm trí đồng hóa và đặt tên ngay lập tức. Mình đồng hóa cảm giác ghen tuông bằng ngôn từ gọi tên cho cảm giác. Có thể nào không đồng hóa một cảm giác , không gọi danh một cảm giác, mà nhìn thẳng vào cảm giác và không gọi tên đặt danh cho cảm giác ấy ? Chính sự đặt tên cho cảm giác đã làm thành sự liên tục tiếp diễn cho cảm giác, tăng trưởng cường độ của cảm giác. Lúc mình đặt tên, gọi tên cho cái mà mình gọi là sợ hãi thì ngay lúc ấy mình đã tăng trưởng cảm giác, nhưng nếu ngài có thể nhìn thẳng vào cảm giác ấy, mà không đặt tên nó, ngài sẽ thấy rằng cảm giác ấy sẽ tan đi. Do đó , nếu mình muốn hoàn toàn thoát khỏi sợ hãi , điều quan yếu là hiểu được trọn vẹn tiến trình gọi danh, tiến trình phóng ngoại những biểu tượng, những hình ảnh, tiến trình đặt tên cho những sự kiện. Chỉ có thể thoát được sợ hãi khi nào mình tự hiểu mình. Sự tự hiểu bản thân là sự bắt đầu của minh đức, tức là chấm dứt sự sợ hãi.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
#20
VỀ SỰ BUỒN CHÁN VÀ SỰ HỨNG KHỞI
(On Boredom and Interest)


HỎI : Tôi không thiết tha làm việc gì cả, nhưng phần đông mọi người đều có vẻ bận rộn hăng hái với nhiều công việc. Tôi không phải đi làm để sinh nhai, vì thế tôi không có việc để làm. Tôi có nên bắt đầu làm một việc gì hữu ích hay không ?

KRISHNAMURTI : Trở thành một người làm việc xã hội hoặc một người làm việc chính trị hoặc làm việc tôn giáo – phải thế không ? Vì ngài không có việc gì khác để làm, cho nên ngài trở thành một người lo việc cải thiện xã hội ! Nếu ngài không có việc gì để làm, nếu ngài cảm thấy buồn chán ủ ê, vậy tại sao ngài không chịu sống với cảm giác uồn chán ủ ê ấy ? Tại sao không là thế ? Nếu ngài cảm thấy sầu muộn ủ rũ thì cứ sầu muộn ủ rũ. Đừng tìm cách tìm đường trốn tránh cảm trạng ấy, bởi vì cảm giác ủ rũ chán chường của ngài chứa đựng một sự quan trọng bao la vô cùng , nếu ngài có thể hiểu cảm giác ấy, sống với cảm giác ấy. Nếu ngài nói, “tôi cảm thấy buồn chán, vậy tôi phải một việc gì khác”, nói như vậy chỉ là tìm cách chạy trốn sự buồn tẻ và vì phần lớn sinh hoạt của chúng ta đều là những sự thoát ly, những cách đào ngũ, chạy trốn ; khi chạy trốn lấp lững như vậy, ngài tác hại nhiều hơn là gây lợi, nhất là về phương diện xã hội cũng như trong những phương diện khác. Tai hại trở nên nặng nề hơn mỗi khi ngài chạy trốn, thay vì ở yên nơi chỗ mình, ở lại với cảm giác của mình, vấn đề khó khăn là làm cách nào để ở yên với cảm trạng mình và không chạy trốn nó, vì phần lớn sinh hoạt của chúng ta đều là một tiến trình thoát ly, chạy trốn ; do đó thực là một điều thiên nan vạn nan đối với ngài khi ngài đình chỉ mọi sự trốn thoát và đối mặt với sự thật. Vì thế tôi cảm thấy sung sướng nếu được biết rằng ngài thực sự cảm thấy buồn chán, và tôi xin nói ngay, “ Tốt lắm, ngừng lại nơi đây, chúng ta hãy dừng nơi đây, chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự buồn chán .

Tại sao ngài phải cần làm gì khác làm chi ?”

Nếu ngài cảm thấy buồn chán thì tại sao ngài cảm thấy buồn chán ? Cái gì gọi là sự buồn chán, cái đó là cái gì mới được chứ? Tại sao ngài lại không cảm thấy hứng khởi với bất cứ cái gì nữa?

Phải có những lý do, lý lẽ khiến cho ngài cảm thấy buồn tẻ chán chường, ủ rũ ; sự đau đớn , những sự thoát ly chạy trốn, những tín ngưỡng, sinh hoạt liên miên, tất cả những thứ này đã làm cho tâm trí trở thành đần độn, khô cạn, chán chường, và làm cho lòng mình trở nên chai đá, không còn biết uyển chuyển. Nếu ngài có thể tìm được lý do tại sao ngài cảm thấy buồn chán, tại sao ngài không còn cảm thấy hứng khởi , lúc ấy, chắc chắn ngài mới giải quyết được vấn đề, ngài có làm được như thế không ? Chỉ làm được như thế thì hứng khởi mới được đánh thức hoạt động lại. Nếu ngài không cảm thấy hứng khởi trong việc tìm lý do tại sao ngài cảm thấy buồn chán thì ngài không thể nào tự cưỡng bức ngài để có được hứng khởi trong việc làm, để chỉ mà làm một cái gì – như một con sóc chạy quanh trong lồng. Tôi thấy đó lại là sinh hoạt mà hiện nay phần đông mọi người đều lao thân vào. Tuy nhiên chúng ta vẫn có thể tìm hiểu nội tâm mình, tìm hiểu lý do tâm lý cắt nghĩa lý do tại sao chúng ta lại bị rơi vào cảm trạng buồn chán chết được đó ; chúng ta có thể hiểu tại sao phần đông chúng ta bị rơi vào trạng thái này; chúng ta đã khiến cho thân xác mình phải kiệt lực, khiến cho khánh tận tất cả tình cảm và tinh thần ; chúng ta đã thử nếm quá nhiều công việc, quá nhiều cảm giác, quá nhiều trò giải trí tiêu khiển, quá nhiều sự thí nghiệm, cho đến nỗi chúng ta trở nên đần độn chán mứa, chán ngán, mệt mỏi. Chúng ta gia nhập một đoàn thể nào đó, làm tất cả những việc phải làm, rồi lại lìa bỏ đoàn thể ấy, rồi chúng ta lại gia nhập một đoàn thể khác và nếm thử mọi sự khác trong đoàn thể ấy. Nếu một nhà tâm lý học không giải quyết được uẩn khúc của chúng ta , chúng ta lại đi đến một nhà tâm lý học khác hoặc đi đến một ông mục sư, linh mục ; nếu ta không được thỏa mãn ở đó thì ta lại chạy đi tìm một bậc đạo sư khác nữa, vân vân ; cứ thế ta cứ tiếp tục quanh quẩn từ nơi này đến nơi khác. Tiến trình quanh quẩn duỗi co , buông bỏ này thực là mệt nhọc, phải thế không ? Giống như tất cả mọi cảm giác, chẳng mấy chốc tiến trình ấy chỉ làm ủ ê đần độn tâm trí.

Chúng ta vẫn làm thế, chúng ta vẫn đi từ cảm giác này đến cảm giác khác, đi từ sự kích thích này đến sự kích thích khác cho đến độ cảm thấy khánh kiệt hoàn toàn. Thế là khi ý thức được sự việc như thế, xin đừng tiếp tục bước tới xa hơn nữa ; xin hãy dừng lại nghỉ ngơi. Xin hãy trầm lặng thanh thản. Hãy để tâm trí tự hồi phục sức lực lại ; đừng cưỡng bức tâm trí. Không khác gì đất đai tự hồi sinh lại giữa mùa đông, cũng thế khi mình để cho tâm trí được yên lặng thì tâm trí sẽ tự phục hồi lại một cách tươi tắn mới mẻ. Nhưng thực là khó mà để cho tâm trí được yên lặng, để cho tâm trí được bỏ trống thảnh thơi sau bao nhiêu cơ sự phiền nhiễu, vì tâm trí vẫn muốn hoạt động luôn luôn, không chịu ngừng nghỉ. Khi ngài đạt tới mức độ mà ngài thực sự để cho tâm thần mình được như thường lệ - được buồn chán, xấu xa, bỉ ổi, hoặc thế nào đi nữa – thì lúc ấy mới mong có thể đối đầu với tâm thái hiện tại của mình.

Cái gì xảy ra mỗi khi ngài chấp nhận một sự việc, mỗi khi ngài chấp nhận tâm thái hiện tại của ngài ? Khi ngài chấp nhận rằng ngài là tâm thái hiện tại của ngài thì vấn đề ở đâu nữa ? Chỉ có vấn đề là mỗi khi chúng ta không chấp nhận một sự thể như là thế và muốn biến đổi nó – điều này không có nghĩa là tôi đề cao bênh vực sự tự mãn ; trái lại thì đúng hơn. Nếu chúng ta chấp nhận hiện thể của chúng ta , lúc ấy chúng ta thấy rằng điều chúng ta sợ, điều chúng ta gọi là sự buồn chán, điều mà chúng ta gọi là thất vọng, điều mà chúng ta gọi là sự sợ hãi , tất cả những điều ấy đều biến chuyển toàn triệt. Điều chúng ta sợ đã được chuyển hóa hoàn toàn.

Như tôi đã trình bày rồi, đó là lý do cắt nghĩa tại sao điều quan trọng vẫn là hiểu được tiến trình, những đường lối tư tưởng của chính chúng ta. Mình không thể tự hiểu mình qua trung gian của bất cứ người nào, qua bất cứ quyển sách nào, qua bất cứ sự thú tội, giải tội nào, qua tâm lý học, hoặc qua nhà phân tâm học. Chính ngài phải tự tìm hiểu mình, bởi vì chính cuộc đời này là cuộc đời của ngài ; nếu không đào sâu mở rộng việc tìm hiểu bản thân thì dù ngài có làm gì đi nữa, có thay đổi bất cứ hoàn cảnh nào bên ngoài hoặc bên trong, , bất cứ ảnh hưởng nào, dù có làm gì đi nữa thì cũng đều phù phiếm, vì đó vẫn luôn luôn sẽ là đất đai nuôi dưỡng thất vọng, đau đớn dày vò, sầu muộn.

Muốn vượt qua những sinh hoạt bưng bít vị ngã của tâm trí, ngài phải hiểu những sinh hoạt ấy; và muốn hiểu những sinh hoạt ấy thì phải ý thức trực tiếp về hành động trong tương giao, tương giao đối với những sự vật, đối với người đời và đối với những ý tưởng. Trong sự tương giao ấy, tức là lăng kính chiếu rọi, chúng ta mới bắt đầu thấy được chính mình, không còn bất cứ sự biện minh hoặc bất cứ sự kết án nào ; và nhờ vào sự hiểu biết sâu rộng về những đường lối vận hành của tâm trí chúng ta, chúng ta mới có thể đi sâu xa hơn nữa, chúng ta mới có thể có được tâm trí trầm lặng và đón nhận thực tại.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
#21
Về TÌNH DỤC
(On Sex)


HỎI: Chúng ta biết rằng dục tình là một nhu cầu sinh lý và tâm lý không thể nào tránh được và điều ấy dường như là nguyên nhân cội rễ của sự hỗn loạn trong đời sống cá nhân của thế hệ chúng tôi. Làm thế nào chúng tôi có thể đối phó với vấn đề này?

KRISHNAMURTI: Tại sao bất cứ điều gì chúng ta chạm đến chúng ta đều làm điều ấy trở thành một vấn đề cả ? Chúng ta đã làm Thượng đế trở thành một vấn đề, chúng ta đã làm sự tương quan và cuộc sống trở thành một vấn đề, và bây giờ chúng ta lại làm tình dục trở thành một vấn đề nữa. Tại sao vậy ? Tại sao tất cả mọi sự đều bị chúng ta làm trở thành một vấn đề , một sự khủng bố hoang mang ? Tại sao chúng ta đau đớn khổ sở ? Tại sao tình dục lại trở thành một vấn đề ? Tại sao chúng ta chịu sống với những vấn đề, tại sao chúng ta không chấm dứt tất cả những vấn đề ấy đi ? Tại sao chúng ta không chịu chết đi với những vấn đề thay vì phải mang những vấn đề ấy từ ngày này đến ngày khác, từ năm này đến năm khác ? Tình dục quả là một câu hỏi hợp tình hợp lý nhưng có một câu hỏi khác căn nguyên hơn, đó là: tại sao chúng ta làm đời sống trở thành một vấn đề?

Làm việc, tình dục, mưu sinh, suy nghĩ, cảm xúc, kinh nghiệm – nói gọn là toàn thể việc sinh sống ở đời – tại sao sự sống ấy phải là một vấn đề chứ ? Phải chăng như vậy là nhất thiết bởi vì chúng ta cứ luôn luôn suy tư trên một quan điểm nào đó, trên một lập trường cố định nào đó ? Chúng ta luôn luôn suy tư từ tâm điểm hướng về ngoại điểm, nhưng ngoại điểm chính là trung điểm đối với phần đông chúng ta và vì thế bất cứ điều gì chúng ta chạm đến đều trở nên hời hợt thiển bạc. Nhưng đời sống không quá nông cạn đâu ; đời sống đòi hỏi chúng ta phải sống một cách trọn vẹn, mà bởi vì chúng ta đang sống quá nông cạn, cho nên chúng ta chỉ biết phản ứng nông cạn thôi. Những gì chúng ta làm ở ngoại điểm, ở mặt ngoài của trung tâm điểm, đều nhất định phải tạo ra vấn đề và điều đó lại là đời sống của chúng ta : chúng ta sống hời hợt trên mặt ngoài thiển bạc và chúng ta lại hài lòng với cuộc sống nông cạn như vậy cùng với tất cả những vấn đề thiển cận lềnh bềnh ở mặt ngoài. Những vấn đề chỉ hiện hữu khi mà chúng ta vẫn sống ở mặt ngoài thiển cận, ở ngoại diện, ngoại diện ấy chính là cái “tôi” và những cảm giác của nó, những cảm giác ấy có thể được ngoại hóa hoặc chủ quan hóa, có thể được đồng hóa với vũ trụ, với đất nước hoặc với một sự thể gì khác làm thành do tâm trí.

Khi mà chúng ta còn sống trong lãnh vực của tâm trí thì nhất định phải có những sự rắc rối phức tạp, nhất định phải có những vấn đề, đó là tất cả những gì chúng ta biết được. Tâm trí là cảm giác, tâm trí là kết quả của những cảm giác tích trữ, của những phản ứng ; và bất cứ cái gì tâm trí chạm tới đều nhất định tạo ra sự thống khổ, hỗn loạn, một vấn đề bất tận. Tâm trí là nguyên nhân thực sự của những vấn đề chúng ta , tâm trí vẫn luôn luôn làm việc một cách máy móc suốt ngày đêm, một cách ý thức và mộc cách vô thức. Tâm trí là một sự thể nông cạn hời hợt nhất và chúng ta đã trải qua bao nhiêu thế hệ, trải qua bao nhiêu thời gian suốt trọn đời mình để rèn luyện tâm trí, làm tâm trí càng lúc càng trở nên tinh ranh hơn, càng lúc càng trở nên điêu luyện tinh vi, càng lúc càng trở nên bất thiện và bất chánh ; tất cả những chuyện ấy dễ thấy lộ liễu trong tất cả sinh hoạt của đời sống chúng ta . Chính bản chất của tâm trí chúng ta là bất lương bất chánh, không có khả năng đối mặt với những sự kiện và tâm trí chính là tác giả của những vấn đề ; tâm trí chính là vấn đề đấy.

Đối với chúng ta, chúng ta hiểu vấn đề tình dục như thế nào ? Có phải đó là hành vi , hoặc đó là một tư tưởng chung quanh hành vi? Cố nhiên đó không phải là hành vi. Hành vi tình dục không phải là một vấn đề đối với ngài, cũng như việc ăn uống không phải là một vấn đề đối với ngài, nhưng nếu ngài nghĩ về chuyện ăn uống hoặc bất cứ chuyện gì khác suốt ngày bởi vì ngài không có gì khác để nghĩ tới thì tất nhiên nó trở thành một vấn đề đối với ngài. Hành vi dục tình có phải là vấn đề hoặc có phải đó là tư tưởng , ý nghĩ về hành vi kia ? Tại sao ngài nghĩ về hành vi ấy? Tại sao ngài xây dựng chuyện ấy cho thành vấn đề ; điều mà ngài đang làm lộ liễu ? Tại sao ngài lại dựng chuyện ấy ? Những rạp chiếu bóng, những tạp chí, những chuyện ngắn, chuyện dài, những mốt ăn mặc của đàn bà, tất cả mọi sự đều dựng tư tưởng ý nghĩ của ngài về tình dục. Tại sao tâm trí lại dựng lên chuyện ấy, tại sao tâm trí lại nghĩ về tình dục nhỉ? Tại sao? Tại sao việc ấy lại trở thành một vấn nạn trọng tâm của đời sống ngài? Khi còn quá nhiều việc kêu gọi đòi hỏi chú ý của ngài mà ngài vẫn để trọng tâm trí vào ý nghĩ về dục tình. Cái gì xảy ra vậy, tại sao tâm trí của các ngài lại gia tâm với tình dục như vậy ? Bởi vì đó là con đường đào thoát tối thượng, phải thế không ? Đó là cách để tự quên mình một cách toàn triệt. Ít nhất trong một thời gian ngắn, tạm thời, ngài có thể quên ngài – và không có đường lối nào khác để quên mình như vậy. Tất cả mọi việc làm khác của ngài đều nhấn mạnh tăng trưởng cái "tôi" bản ngã. Việc làm ăn của ngài, tôn giáo ngài, những thần thánh của ngài, những lãnh tụ của ngài, những hành vi chính trị và kinh tế của ngài, những sự đáo thoát của ngài, những hoạt động xã hội của ngài, việc ngài gia nhập một đảng phái và từ bỏ một đảng phái khác – tất cả những việc ấy đều nhấn mạnh, tăng trưởng, củng cố cái "tôi".

Nghĩa là chỉ có một hành vi duy nhất mà không tăng trưởng cái "tôi" , do đó, hành vi ấy trở thành một vấn đề, phải thế không ? Khi chỉ có một điều duy nhất trong đời sống ngài làm cửa ngõ để đào thoát triệt để, để tự quên mình, dù là chỉ quên trong đôi ba giây phút thì ngài bám níu vào nó bởi vì đó là giây phút duy nhất mà ngài cảm thấy hạnh phúc. Tất cả những cửa ngõ khác mà ngài chạm đến đều trở thành một ác mộng, nguồn gốc của đau khổ quằn quại, vì thế ngài liền đeo bám vào một sự việc duy nhất khả dĩ mang đến sự quên lãng bản thân trọn vẹn, mà ngài gọi là sự hạnh phúc. Nhưng khi ngài đeo bám vào nó, nó cũng trở thành một ác mộng nữa, vì lúc ấy ngài muốn tự do thoát khỏi nó, ngài không muốn là nô lệ cho nó. Thế là ngài bày đặt bằng tâm trí, bày đặt nào là chuyện trinh bạch, sự độc thân, và ngài cố gắng sống độc thân, sống thuần khiết trinh tân, bằng sự đàn áp cưỡng ép ; tất cả những thứ này đều là những tác động của tâm trí để tự cắt lìa ra ngoài sự kiện. Điều này lại vẫn tăng trưởng cái "tôi", bản ngã kia cố gắng trở nên một sự thể nào đó, thế rồi ngài lại bị kẹt trong khổ nhọc vất vả, trong phiền bực nỗ lực, đau đớn dày vò.

Tình dục trở nên một vấn đề khó khăn và phức tạp lạ thường khi mà ngài không hiểu tâm trí , tức là sự thể nghĩ về vấn đề. Chính hành vi không bao giờ có thể là một vấn đề, mà ý nghĩ về hành vi mới là cái tạo ra vấn đề. Hành vi là điều ngài gìn giữ lại ; ngài sống buông lung, hoặc đắm mình trong hôn phối, làm người vợ mình trở thành một gái đĩ, điều ấy đã được sơn phết bên ngoài cho có vẻ khả kính, và ngài thỏa mãn để yên mọi sự như thế. Chắc chắn vấn đề chỉ có thể giải quyết khi nào ngài hiểu trọn vẹn tiến trình và cơ cấu của cái "tôi" và cái “của tôi” : vợ tôi, con tôi, tài sản của tôi, xe ô tô của tôi, sự thành đạt của tôi, sự thành công của tôi, chỉ khi nào ngài hiểu được và giải quyết được tất cả những thứ ấy thì tình dục mới không còn là một vấn đề nữa. Khi mà ngài còn tham vọng về mặt chính trị , về mặt tôn giáo hoặc về bất cứ mặt nào khác, khi mà ngài còn nhấn mạnh củng cố bản ngã, thực thể tư duy, thực thể kinh nghiệm, bằng cách nuôi dưỡng mình với tham vọng dù tham vọng nhân danh chính cá thể ngài hoặc nhân danh đất nước, đảng phái hoặc một ý tưởng mà ngài gọi là tôn giáo – khi mà hãy còn sinh hoạt bành trướng tự ngã thì ngài sẽ còn vấn đề tình dục. Ngài đang tạo tác, nuôi dưỡng, bành trướng bản ngã ở mặt này, và ở mặt khác, ngài đang tự quên lãng, tự đánh mất mình dù là chỉ một khoảnh khắc. Làm thế nào cả hai mặt có thể hiện hữu chung nhau được ? Đời sống của ngài là một sự mâu thuẫn ; vừa tăng trưởng củng cố cái "tôi" , vừa quên lãng cái "tôi". Tình dục không phải là một vấn đề, vấn đề là sự mâu thuẫn này trong đời sống của ngài, và sự mâu thuẫn ấy không thể nào giải quyết được bằng tâm trí, vì tâm trí chính là một nỗi mâu thuẫn. Sự mâu thuẫn chỉ có thể hiểu được khi nào ngài hiểu trọn vẹn toàn thể tiến trình trong đời sống thường nhật của ngài. Việc đi xem chiếu bóng, ngắm nhìn đàn bà trên màn ảnh, đọc sách để kích thích tư tưởng , đọc tạp chí với những hình ảnh bán thân lõa thể , cách ngài nhìn đàn bà, những con mắt tình tự giấu giếm bắt gặp đôi mắt ngài – tất cả những thứ này đều khích lệ tâm trí ngài bằng những đường lối quanh co bất chánh để tăng trưởng nhấn mạnh bản ngã và đồng thời ngài lại cố gắng tử tế, dễ thương, dịu dàng.

Cả hai cảm trạng này không thể đi đôi với nhau – Kẻ nào tham vọng dù là tham vọng tâm linh hay bất cứ tham vọng gì cũng không bao giờ có thể không vướng với một vấn đề, những vấn đề chỉ dứt lúc nào bản ngã đã được bỏ quên, lúc nào cái "tôi" không hiện hữu, và cảm trạng không có bản ngã kia không phải là một hành vi của ý chí, đó chỉ là một phản ứng. Tình dục trở thành một phản ứng : khi tâm trí cố gắng giải quyết vấn đề, tâm trí chỉ làm vấn đề trở nên hỗn độn hơn lên, phiền phức hơn nữa, đau đớn hơn nữa. Hành vi không phải là vấn đề mà tâm trí chính là vấn đề , tâm trí nào cho rằng nó phải trinh khiết, chính tâm trí ấy mới là vấn đề. Sự trinh khiết tình dục, sự ly dục, không thuộc về tâm trí. Tâm trí chỉ có thể đàn áp chính những sinh hoạt của nó và sự đàn áp kia không phải là sự ly dục, không phải là sự thuần khiết. Sự ly dục không phải là một đức tính, mình không thể rèn luyện sự ly dục. Kẻ nào rèn luyện sự khiêm tốn thì nhất định không phải là một người khiêm tốn; hắn có thể gọi sự kiêu ngạo của hắn là sự khiêm tốn; hắn vẫn là một người kiêu ngạo, và đó là lý do cắt nghĩa tại sao hắn tìm cách trở nên khiêm tốn. Kiêu ngạo không bao giờ có thể trở nên khiêm tốn và sự ly dục không phải là một sự thể của tâm trí – ngài không bao giờ có thể trở nên thuần khiết, ly dục. Ngài chỉ có thể hiểu biết được sự thuần khiết , sự ly dục, khi nào ngài có tình yêu, và tình yêu không thuộc vào tâm trí, cũng không phải là một sự thể của tâm trí.

Vì thế, vấn đề tình dục hành hạ quá nhiều người hiện nay ở khắp thế giới không thể nào giải trừ được, chỉ trừ ra khi nào mình hiểu được tâm trí. Chúng ta không thể chấm dứt tư duy hiện tại, nhưng tư tưởng chấm dứt lúc nào chủ thể tư tưởng chấm dứt và chủ thể tư tưởng chỉ chấm dứt lúc nào có sự lãnh hội về toàn thể tiến trình ấy. Sự sợ hãi xuất hiện khi nào có sự phân chia giữa người tư tưởng và tư tưởng của hắn ; khi không có người tư tưởng, chỉ lúc ấy mới không có sự xung đột trong tư tưởng. Những gì tiềm mặc không cần nỗ lực mới hiểu nổi. Chủ thể tư tưởng xuất hiện là do tư tưởng ; lúc ấy chủ thể tư tưởng tự vận dụng để rèn đúc uốn nắn , để kiềm chế tư tưởng của hắn hoặc chấm dứt những tư tưởng ấy. Chủ thể tư tưởng là một thực thể giả tưởng, một ảo giác của tâm trí.

Khi có sự ý thức về tư tưởng như là một sự kiện thì lúc ấy không cần phải nghĩ về sự kiện nữa. Nếu có sự trực thức đơn giản , không chọn lựa thì lúc ấy điều tiềm ẩn trong sự kiện mới bắt đầu tự hé lộ. Do đó, tư tưởng như là sự kiện được chấm dứt. Lúc ấy, các ngài sẽ thấy rằng những vấn đề đang gặm nhắm tâm trí các ngài , những vấn đề về cơ cấu xã hội của chúng ta, có thể giải tan được. Lúc ấy, tình dục không còn là một vấn đề, tình dục có vị thế riêng của nó, tình dục không phải là một việc dơ nhớp mà cũng không phải là một việc trong sạch thuần khiết. Tình dục có vị trí của nó ; nhưng lúc tâm trí đặt một vị trí cao nhất cho nó thì lúc ấy tình dục lại trở thành một vấn đề. Tâm trí đặt một vị trí ưu thế cho tình dục bởi vì tâm trí không thể sống mà không được một sự hạnh phúc nào đó, và vì thế tình dục trở thành một vấn đề ; khi tâm trí hiểu được trọn vẹn tiến trình của nó và chấm dứt, nghĩa là lúc tư duy hiện tại ngừng lại thì lúc ấy mới có sự sáng tạo và chính tinh thần sáng tạo làm cho chúng ta được hạnh phúc. Được sống trong trạng thái sáng tạo chính là được diễm phúc tuyệt trần, vì đó là sự quên lãng bản thân mà trong đó không còn phản ứng nào khởi phát từ bản ngã; đó là sự thoại ứng độc nhất. Tâm trí phủ nhận tình yêu và không có tình yêu thì không có sự ly dục thuần khiết được; chính bởi vì không có tình yêu cho nên các ngài mới làm tình dục trở thành một vấn đề.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
#22
VỀ CHIẾN TRANH
(On War)


HỎI: Làm thế nào chúng ta có thể giải quyết sự hỗn loạn chính trị hiện nay và cơn khủng hoảng trên thế giới bây giờ? Có điều gì một cá nhân có thể làm được để chấm dứt trận chiến tranh đang đe dọa hiện nay?

KRISHNAMURTI: Chiến tranh là sự phóng hiện ngoạn mục và đẫm máu, phóng hiện ra bên ngoài những gì chứa đựng trong đời sống thường nhật của chúng ta, phải thế không? Chiến tranh chỉ là sự phát biểu bên ngoài của trạng thái nội tại trong tâm hồn chúng ta, sự phóng đại của đời sống thường nhật chúng ta. Chiến tranh phát hiện ngoạn mục hơn, đẫm máu hơn, tàn khốc hơn mọi sự, bởi vì đó là kết quả tập thể của những sinh hoạt cá thể. Do đó ngài và tôi là kẻ chịu trách nhiệm cho trận chiến tranh hiện nay, và chúng ta làm gì để chấm dứt chiến tranh? Cố nhiên, các ngài và tôi không thể nào ngăn chận được trận chiến tranh vẫn luôn luôn đe dọa khắp nơi, vì trận chiến tranh đã diễn tiến lan tràn rồi, chiến tranh đã xảy ra rồi, dù hiện tại chỉ rõ rệt nhất là trên bình diện tâm lý, trận chiến lại dễ thấy có ảnh hưởng khốc hại hơn hết. Vì chiến tranh đã diễn biến vận hành rồi, không ai có thể ngăn chận chiến tranh được nữa – những vấn sự quá to tát, quá nhiều, quá dan díu và mọi sự đã bị đưa vào cuộc rồi. Tuy nhiên, các ngài và tôi, lúc thấy rằng ngôi nhà đang cháy, có thể hiểu được những lý do gây ra hỏa hoạn, chúng ta có thể dời đi nơi khác để tránh lửa và xây dựng ở một nơi khác với những vật liệu khác, những vật liệu không dẫn hỏa, những vật liệu nào khả dĩ không gây ra những trận chiến tranh khác. Đó là tất cả những gì chúng ta có thể làm được. Các ngài và tôi, có thể nhìn thấy những gì tạo ra chiến tranh và nếu chúng ta thực sự để tâm muốn ngăn chận chiến tranh, lúc ấy, chúng ta có thể bắt đầu tự chuyển hóa bản thân, vì bản thân chúng ta chính là nguyên nhân của chiến tranh.

Một bà thiếu phụ người Mỹ đến thăm tôi cách đây vài năm vào thời chiến tranh. Bà nói rằng, bà đã mất đứa con trai bà ở trận chiến tại Ý đại lợi và bà còn một đứa con trai kế được mười sáu tuổi mà bà muốn đứa con trai này không phải chết như anh nó vì thế bà muốn bàn bạc với tôi về vấn đề này. Tôi đưa ý rằng nếu bà muốn cứu sống đứa con trai thứ của bà thì phải bỏ quốc tịch của bà đi; bà phải bỏ gian tham, bỏ việc tích trữ chồng chất tài sản tìm kiếm quyền thế, thống trị và phải có tinh thần đơn giản – chẳng phải chỉ đơn giản trong cách ăn mặc, không phải chỉ đơn giản ở hình thức bên ngoài, mà phải đơn giản trong tư tưởng của bà, trong cảm giác và trong tương giao. Bà ấy trả lời, “Như thế thì quá sức tôi. Ngài đòi hỏi nhiều quá. Tôi không thể làm được như vậy, bởi vì tôi không đủ sức để biến chuyển những hoàn cảnh”. Thế là chính bà ấy đã chịu trách nhiệm về sự hủy diệt của đứa con bà.

Chúng ta có thể chế ngự những hoàn cảnh bởi vì chúng ta đã tạo ra những hoàn cảnh. Xã hội là sản phẩm của tương giao, của tương giao ngài và tương giao tôi cùng chung với nhau. Nếu chúng ta biến đổi tương giao của chúng ta thì xã hội biến đổi; chỉ dựa trên pháp luật, trên sự cưỡng bức để mà thay đổi xã hội bên ngoài, trong khi ấy mình vẫn thối nát bên trong tâm tư, nội tâm mình vẫn tiếp tục tìm kiếm quyền thế, địa vị, thống trị, như thế có nghĩa là phá hủy thế giới bên ngoài, dù thế giới bên ngoài này có thể được xây dựng một cách kỹ lưỡng, một cách khoa học đi nữa thì cũng chỉ là phù phiếm. Thế giới nội tâm vẫn luôn luôn chiến thắng thế giới bên ngoài.

Những gì tạo ra chiến tranh -- trên phương diện tôn giáo, chính trị hoặc kinh tế? Cố nhiên những nguyên nhân của chiến tranh là tín ngưỡng, tín ngưỡng vào chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp, vào một ý thức hệ hoặc vào một tín điều đặc thù nào đó. Nếu chúng ta không có tín ngưỡng mà chỉ có thiện chí, tình thương và kính trọng lẫn nhau thì lúc ấy không thể nào có chiến tranh được. Nhưng chúng ta đã được nuôi dưỡng bằng những tín ngưỡng, những ý tưởng và những tín điều, do đó, chúng ta chỉ nuôi dưỡng sự bất hòa. Cơn khủng hoảng hiện nay có tính cách ngoại lệ, và đứng trên cương vị con người, chúng ta bắt buộc chọn lựa: hoặc đeo đuổi con đường xung đột thường trực và chiến tranh liên tục tức là kết quả của tất cả hành động thường nhật của chúng ta, hoặc tìm thấy những nguyên nhân của chiến tranh và quay lưng lại với những nguyên nhân ấy.

Cố nhiên nguyên nhân của chiến tranh là lòng khát vọng quyền hành, địa vị, uy tín, tiền bạc; nguyên nhân của chiến tranh cũng là chứng bệnh mang tên là chủ nghĩa ái quốc hạn hẹp, sùng bái một lá cờ, chứng bệnh của tương giao tổ chức, sự sùng bái một tín điều. Tất cả những thứ này là những nguyên nhân của chiến tranh; nếu đứng trên cương vị của một cá thể, ngài lại thuộc vào bất cứ một tương giao tổ chức nào, nếu ngài tham quyền cố vị, nếu ngài ghen ghét đố kỵ, nhất định ngài sẽ tạo ra một xã hội đi đến sự phá hoại diệt vong. Vì thế mọi sự là tùy thuộc vào các ngài, chứ không phải tùy thuộc vào những vị lãnh tụ, không phải tùy thuộc vào những kẻ gọi là chính khách và những hạng người đại loại như vậy. Mọi sự đều tùy thuộc vào ngài và tôi, nhưng dường như chúng ta không ý thức được điều ấy. Nếu chúng ta chỉ thực sự một lần cảm thấy được trách nhiệm của những hành động mình, thì chúng ta có thể chấm dứt nhanh chóng tất cả chiến tranh, tất cả thống khổ kinh hoàng, chấm dứt một cách nhanh chóng biết bao! Tuy nhiên, các ngài đã thấy rõ rằng chúng ta quá hững hờ lãnh đạm. Chúng ta có được ba bữa ăn mỗi ngày, chúng ta có công ăn việc làm, chúng ta có những ngân khoản ở nhà băng, ngân khoản nhỏ, ngân khoản to, và chúng ta lại nói, “cầu trời, xin đừng phiền rầy chúng tôi, hãy để chúng tôi yên thân”.

Chúng ta càng leo cao, chúng ta lại càng muốn được thêm nhiều an ninh, trường tồn, an tâm, chúng ta lại càng muốn yên thân, muốn mọi sự cố định như thường lệ; nhưng mọi sự không thể nào cố định được như thường lệ, bởi vì không có gì lưu tồn. Mọi sự đều đang phân tán. Chúng ta không muốn đối mặt với những sự việc này, chúng ta không muốn đối diện với sự kiện rằng các ngài và tôi phải chịu trách nhiệm đối với cuộc chiến tranh này. Các ngài và tôi có thể nói về hòa bình, hội nghị, hội thảo chung quanh bàn tròn và luận bàn mọi sự, nhưng trong tâm thức, đứng về mặt tâm lý, chúng ta lại thèm muốn quyền hành, địa vị, chúng ta bị thôi thúc bởi lòng gian tham. Chúng ta gây sự, chúng ta chạy theo lòng ái quốc hẹp hòi, chúng ta bị buộc trong những tín ngưỡng, những tín điều, mà chúng ta sẵn sàng hy sinh thân mạng, sẵn sàng tàn sát lẫn nhau. Các ngài có nghĩ rằng những hạng người như vậy, các ngài và tôi, có thể đem đến hòa bình trên thế giới? Muốn có được hòa bình, chúng ta phải hòa bình nơi tâm thức; sống một cách hòa bình, thanh bình, có nghĩa là không tạo ra sự chống đối hiềm khích. Hòa bình không phải là một ý tưởng. Đối với tôi một lý tưởng chỉ là một lối thoát ly, trốn tránh hiện thể, mâu thuẫn với hiện thể. Bất cứ một lý tưởng nào cũng đều ngăn chặn lại hành động trực tiếp đối với hiện thể (*). Muốn có hòa bình, chúng ta phải thương yêu, chúng ta không phải sống một cuộc đời lý tưởng mà phải nhìn sự thể như là sự thể, thực sự như là thế, và tác động trên sự thể, chuyển hóa sự thể. Khi mà mỗi một người trong chúng ta lại đi tìm sự an ninh tâm lý; sự an ninh thể xác cần thiết như cơm, áo, chỗ ở, nhu cầu vật chất phải bị phá hủy. Chúng ta đều tìm kiếm sự an ninh tâm lý, sự an ninh tâm lý này không hiện hữu, thế mà chúng ta vẫn tìm kiếm nó, cố sức tìm kiếm nó qua quyền thế, địa vị, chức tước, tên tuổi – tất cả những thứ này đang phá hủy sự an ninh vật chất. Đó là một sự kiện dễ thấy, nếu các ngài chịu khó để tâm vào vấn đề.

Muốn đem đến hòa bình trên thế giới, muốn chấm dứt chiến tranh, mình phải thực hiện cuộc cách mạng trong cá thể, trong các ngài và tôi. Cuộc cách mạng kinh tế chỉ là vô nghĩa, nếu cuộc cách mạng kinh tế này thiếu mất cuộc cách mạng nội tâm, vì sự đói kém là kết quả của sự bất tương ứng giữa những điều kiện kinh tế và sự bất tương ứng của những điều kiện kinh tế này phát sinh từ những trạng thái tâm lý của chúng ta như lòng tham, lòng đố kỵ, ghen ghét, thiếu thiện chí và lòng chiếm hữu. Muốn chấm dứt đau đớn thống khổ, đói kém, chiến tranh thì mình phải làm một cuộc cách mạng tâm thức, nhưng rất ít người chịu đối mặt với sự thật này. Chúng ta sẽ vẫn tiếp tục bàn cãi về hòa bình, đặt kế hoạch lập pháp, tạo ra những liên minh mới, Liên Hiệp quốc, vân vân và vân vân, nhưng chúng ta sẽ không đạt được hòa bình, bởi vì chúng ta sẽ không chịu bỏ địa vị chúng ta, quyền thế của chúng ta, tiền bạc, tài sản, đời sống ngu xuẩn của chúng ta. Chỉ nương cậy vào những kẻ khác, là một việc hoàn toàn phù phiếm, những kẻ khác không thể nào đem đến hòa bình cho chúng ta, không có vị lãnh tụ nào sắp mang hòa bình tới cho chúng ta, không có chính quyền nào, không có quân đội nào, không có quốc gia nào có thể làm được việc ấy. Chỉ là một điều khả dĩ mang đến hòa bình là sự chuyển hóa nội tâm, chính sự chuyển hóa nội tại này sẽ đưa tới hành động ở ngoại giới. Sự chuyển hóa nội tâm không phải là sự cô lập, không phải là lùi tránh hành động ngoại giới. Trái lại, chỉ có hành động chính đáng khi nào có sự suy tư chính đáng, và chỉ có sự suy tư chính đáng là khi nào có sự tự tri. Không thể nào có hòa bình được nếu mình không tự hiểu mình.

Muốn chấm dứt chiến tranh bên ngoài, các ngài phải bắt đầu chấm dứt chiến tranh bên trong tâm hồn các ngài . Một số người ngồi đây sẽ gật đầu và nói, “tôi đồng ý”, và bước ra về, rồi cũng tiếp tục làm lại y hệt những gì mình đã làm từ mười hoặc hai mươi năm nay. Sự đồng ý của các ngài chỉ có tính cách ngôn từ và không có ý nghĩa gì cả, vì sự đồng ý hờ hững của các ngài không thể chận đứng được nỗi thống khổ và chiến tranh của nhân loại hiện nay. Chỉ có thể chận đứng được mọi nỗi khốn khổ đao binh này khi nào các ngài ý thức được nỗi hiểm họa, khi các ngài ý thức được trách nhiệm của các ngài, khi ngài không để trách nhiệm ấy cho một kẻ nào khác. Nếu các ngài ý thức được nỗi đau đớn hiện nay, nếu các ngài thấy được sự đòi hỏi cấp bách hành động trực tiếp không trì hoãn thì lúc ấy các ngài sẽ tự chuyển hóa bản thân; hòa bình chỉ có thể xuất hiện khi nào chính các ngài đã hòa bình trong bản thân, khi nào chính các ngài sống hòa thuận với người láng giềng của các ngài.



(*) Hiện thể = What is, cái-đang-là, thực tại.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
#23
VỀ CUỘC KHỦNG HOẢNG HIỆN TẠI
(On The Present Crisis)

HỎI: Ngài nói rằng cuộc khủng hoảng hiện tại là không tiền (khoáng hậu). Vậy cuộc khủng hoảng này ngoại lệ như thế nào ?

KRISHNAMURTI: Hiển nhiên, cuộc khủng hoảng hiện nay trên toàn thế giới có tính cách ngoại lệ, chưa từng xảy ra trước kia. Trong quá trình lịch sử, vào những thời đại khác nhau, chúng ta thấy xảy ra đủ loại khủng hoảng khác nhau, trên phương diện xã hội, quốc gia, chính trị. Những cuộc khủng hoảng hiện đến và trôi qua; những sự sụp đổ phá sản, khủng hoảng kinh tế xảy ra, được biến đổi và tiếp tục trong một hình thức khác. Chúng ta đều biết rõ điều này, chúng ta quá quen thuộc với tiến trình này, cố nhiên cuộc khủng hoảng hiện tại thì hoàn toàn khác hẳn, phải thế không? Cuộc khủng hoảng này hoàn toàn khác hẳn trước nhất bởi vì chúng ta không phải đối trị với tiền bạc, cũng không phải đối trị với những sự vật hữu hình, mà lại phải đối trị với những ý tưởng.

Cuộc khủng hoảng hiện nay có tính cách ngoại lệ, vì nó lệ thuộc vào lãnh vực của sự vận hành ý niệm. Chúng ta tranh luận nhau về những ý tưởng ; chúng ta đều tìm cách biện minh cho sự sát nhân và xem việc ấy như là một phương tiện hướng tới một cứu cánh chính đáng, chính sự kiện này cũng không tiền, chưa từng xảy ra trước kia. Trước kia, điều ác, điều bất thiện được gọi là ác, bất thiện ; sự sát nhân được nhận chân tướng đích thực là sát nhân, nhưng ngày nay, sự sát nhân lại được xem như là một phương tiện để đạt tới một cứu cánh cao thượng. Người ta tìm cách biện minh cho hành động sát nhân, thuộc phạm vi cá nhân hoặc phạm vi đoàn thể, bởi vì kẻ sát nhân hay đoàn thể mà kẻ sát nhân ấy đại diện, đã biện minh hành động mình như là phương tiện cần thiết để đạt tới một cứu cánh gọi là “có lợi” cho loài người. Nói rõ hơn, chúng ta đã hy sinh hiện tại cho tương lai – và bất cứ phương tiện nào được dùng cũng được, miễn là mang đến “lợi ích” cho con người là đủ. Do đó, người ta hiểu ngầm rằng một phương tiện sai lầm có thể tạo tác ra một cứu cánh chính đáng, rồi người ta lại biện minh cho phương tiện sai lầm ấy bằng sự vận hành ý niệm. Trước kia, trong những cuộc khủng hoảng, vấn đề là sự khai thác lợi dụng về sự vật hoặc về nhân sự, nhưng bây giờ lại là sự khai thác lợi dụng về những ý tưởng, như thế lại càng khốc hại nguy hiểm hơn nữa, vì khai thác lợi dụng những ý tưởng thì tàn phá khôn cùng, hủy hoại không cùng. Bây giờ chúng ta đã hiểu rõ về thế lực của sự tuyên truyền, thế lực tuyên truyền là một trong những tai họa lớn nhất đã xảy ra trên đời này: lợi dụng những ý tưởng như là một phương tiện để chuyển hóa con người. Đó là điều hiện nay đang xảy ra trên thế giới. Con người không còn quan trọng nữa – những hệ thống, những ý tưởng đã trở thành quan trọng hơn. Con người không còn có được bất cứ ý nghĩa nào nữa. Chúng ta có thể phá hủy tiêu diệt hàng triệu người khi mà chúng ta còn tạo tác được một kết quả, thành quả nào đó, và thành quả ấy được biện minh bằng những ý tưởng. Chúng ta có cả một cơ cấu đồ sộ về những ý tưởng để biện minh cho sự ác và chắc chắn là điều này không từng xảy ra lần nào trong quá khứ. Điều ác là điều ác; nó không thể nào tạo ra điều thiện được. Chiến tranh không phải là một phương tiện đưa tới hòa bình. Chiến tranh có thể đem lại một số lợi ích phụ thuộc, chẳng hạn như thêm nhiều phi cơ hữu hiệu tối tân hơn nữa, nhưng chiến tranh sẽ không đem hòa bình đến cho loài người được. Đứng về mặt trí thức, chiến tranh được biện minh như là một phương tiện để đem lại hòa bình nhưng khi mà trí thức được giữ ưu thế thì nó sẽ mang tới cuộc khủng hoảng không tiền (khoáng hậu).

Có nhiều nguyên nhân khác để nói lên cuộc khủng hoảng không tiền này. Một trong những lý do mà con người đã đặt sự quan trọng lạ thường nơi những giá trị giác quan, nơi tài sản, nơi danh tước, giai cấp, xứ sở, nhãn hiệu đặc biệt mà mình mang trong người. Các ngài có thể là người theo đạo Hồi giáo, hay theo đạo Ấn độ, Thiên Chúa giáo hay theo Cộng Sản, danh hiệu và tài sản giai cấp xứ sở; đã trở thành quan trọng vô cùng, điều ấy chỉ nói lên rằng con người bị vướng kẹt trong giá trị giác quan, giá trị của những sự vật, sự vật làm bằng óc não hay bằng tay. Những sự vật làm bằng tay hay bằng óc đã trở thành quan trọng đến nỗi chúng ta giết nhau, tàn sát nhau, phá hoại nhau, xâu xé và thanh toán nhau cũng vì những sự vật ấy. Chúng ta đang đi đến cận bờ hố thẳm; tất cả những hành động của chúng ta đang đưa dẫn chúng ta đến đó, tất cả hành động chính trị, tất cả hành động kinh tế đang đưa chúng ta đến hố thẳm không thể nào tránh được, tất cả những hành động này đang lôi kéo chúng ta vào trong hố thẳm hỗn loạn, hỗn mang. Đó là lý do cắt nghĩa tại sao cuộc khủng hoảng hiện nay là chưa từng xảy ra trong lịch sử, cuộc khủng hoảng này đòi hỏi chúng ta phải có hành động độc đáo, hành động chưa từng xảy ra trong lịch sử. Muốn lìa bỏ, muốn bước ra ngoài cơn khủng hoảng hiện nay, chúng ta cần phải có hành động vượt ra ngoài thời gian , một hành động không còn xây dựng trên ý tưởng, trên hệ thống, bởi vì bất cứ hành động nào được xây dựng trên một hệ thống trên một ý tưởng, đều nhất định dẫn tới bất lực, tuyệt vọng không thể nào tránh được. Hành động như thế chỉ đưa chúng ta trở lại hố thẳm bằng một đường lối khác thôi. Vì cơn khủng hoảng hiện nay là không tiền, mình cũng cần phải có hành động không tiền, nghĩa là sự hồi phục, hồi sinh của cá thể phải là đột phát chứ không phải là một tiến trình thời gian. Hành động không tiền này phải xảy ra ngay bây giờ, chứ không phải vào ngày mai, vì ngày mai chỉ là một tiến trình phân hóa thôi. Nếu tôi nghĩ rằng sự chuyển hóa bản thân có thể thực hiện được vào ngày mai thì tôi chỉ gọi mời sự hỗn loạn thôi, thì tôi vẫn còn vướng lụt trong lãnh vực phá hoại. Có thể nào thay đổi ngay bây giờ? Có thể nào thay đổi, chuyển hóa bản thân một cách toàn triệt ngay lập tức, ngay bây giờ, hiện tại? Tôi cho rằng có thể làm được.

Vấn đề là cuộc khủng hoảng hiện nay có tính cách ngoại lệ, do đó, muốn đối mặt với cuộc khủng hoảng ngoại lệ này, mình phải làm một cuộc cách mạng trong tư tưởng, cuộc cách mạng này không thể xảy ra được qua trung gian của bất cứ tổ chức nào. Chỉ có qua chúng ta, qua mỗi người trong chúng ta, thì cuộc cách mạng ấy mới thành hình được. Chỉ có lúc ấy chúng ta mới có thể tạo ra một xã hội mới, một cơ cấu mới vượt ra ngoài cơn khủng khiếp hiện nay, vượt ra ngoài những sức lực tàn phá dị thường đang được tích trữ, chồng chất và sự chuyển hóa toàn triệt này chỉ có thể thực hiện khi nào đứng trên cương vị của một cá thể, các ngài bắt đầu ý thức, trực thức về bản thân trong mỗi một tư tưởng, trong mỗi một hành động và mỗi một cảm giác.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
#24
Về SỰ ĐỌC KINH & SỰ THAM THIỀN
(On Prayer and Meditation)


HỎI: Có phải ngưỡng vọng diễn đạt trong kinh cầu là một con đường dẫn đến Thượng đế?

KRISHNAMURTI: Trước hết, chúng ta khảo sát những vấn đề chứa đựng trong câu hỏi này. Trong câu hỏi ấy ngụ cả sự cầu kinh, sự tập trung tư tưởng, và sự trầm tư mặc tưởng. Vậy đối với chúng ta, sự cầu kinh có nghĩa gì? Trước tiên, trong khi đọc kinh, mình thỉnh cầu, van xin, nài nỉ, kêu xin một đấng nào đó mà mình gọi là Thượng đế hoặc một thực thể nào đó, gọi là thực tại. Cá thể ngài đang đòi hỏi, thỉnh nguyện, van xin, nài nỉ, tìm kiếm sự dìu dắt của một thực thể nào đó mà ngài gọi là Thượng đế; do đó, thái độ cầu kinh của ngài là tìm kiếm một phần thưởng, tìm kiếm một sự đáp trả thỏa mãn. Ngài đang bị hoạn nạn, hoạn nạn chung hay riêng, rồi ngài cầu nguyện đọc kinh cho được phúc lành che chở gìn giữ, dìu dắt; hoặc tâm tư ngài đang tán loạn và ngài van xin được bình tĩnh sáng suốt, ngài mong mỏi được giúp đỡ, được sự bảo trợ của một thực thể nào đó mà ngài gọi là Thượng đế. Trong việc này đã ngụ ý rằng Thượng đế - Thượng đế là thế nào, chúng ta chưa thảo luận ngay bây giờ - sẽ dọn sạch mọi sự tán loạn mà các ngài và tôi đã tạo ra. Tựu trung, chính chúng ta đã đem lại sự tán loạn, nỗi thống khổ, sự hỗn mang, nạn chuyên chế áp bức khủng khiếp, sự vắng mất tình thương, và chúng ta muốn thực thể nào mình gọi là Thượng đế dọn sạch mọi sự, đem lại sự trật tự chỉnh túc. Nói một cách khác, chúng ta muốn một người khác hiệu chỉnh lại sự hỗn loạn, sự thống khổ bần cùng của chúng ta, sự xung đột của chúng ta, chúng ta van xin một kẻ khác mang đến ánh sáng và diễm phúc cho chúng ta.

Vậy thì mỗi khi ngài đọc kinh, khi ngài van xin, thỉnh cầu cho được một việc gì, việc ấy thường khi hiện đến. Khi ngài hỏi, ngài sẽ nhận được; nhưng những gì ngài nhận được sẽ không tạo ra trật tự, bởi vì điều ngài nhận được không đem đến sự sáng suốt, sự giao cảm hiểu biết. Điều ấy chỉ thỏa mãn, đem đến sự thỏa lòng mãn nguyện, nhưng không tạo ra sự hiểu biết, bởi vì khi ngài thỉnh cầu thì ngài nhận được điều mà ngài phóng hiện ra đó. Làm thế nào thực tại, Thượng đế có thể trả lời sự thỉnh cầu đặc thù của ngài? Có thể nào sự vô lượng sự vô ngôn mà lại bận vướng với những lo âu bần tiện hèn mọn của chúng ta, bận bịu với nỗi thống khổ hỗn loạn mà chính chúng ta đã tạo ra? Thế thì cái gì đáp ứng? Cố nhiên là thực tại vô lượng, vô hạn, không thể nào đáp ứng cho thực thể hữu hạn, bần tiện, bé nhỏ. Như vậy thì cái gì đáp ứng? Trong lúc chúng ta đọc kinh, chúng ta tương đối trầm lặng, trong một cảm trạng cởi mở đón nhận; lúc ấy, chính tiềm thức của chúng ta đem đến một sự sáng suốt nhất thời. Ngài muốn được một việc gì đó, ngài thèm muốn khát vọng điều ấy, và trong khoảnh khắc khát vọng ấy, giây phút thỉnh cầu khúm núm tha thiết ấy, cảm thức ngài tương đối cởi mở đón nhận; tâm trí tích cực, hữu thức (conscious mind) của ngài được tương đối vắng lặng, vì thế vô thức (unconscious mind) mới tự phóng hiện vào trong tâm trí ấy và ngài được sự đáp ứng. Chắc chắn đó không phải là sự đáp ứng từ thực tại, từ thực thể vô lượng – đó chính là sự đáp ứng vô thức của ngài. Vì thế, chúng ta đừng để tâm thức tán loạn và cho rằng mỗi khi ngài đọc kinh được đáp ứng là ngài có tương giao với thực tại. Thực tại phải đến ngài; ngài không thể đến thực tại được.

Vấn đề đọc kinh này còn can hệ đến một yếu tố: sự đáp ứng của điều mà chúng ta gọi là tiếng nói nội tại. Như tôi đã trình bày, khi tâm trí van xin, nài nỉ, thỉnh cầu thì tâm trí được tương đối im lặng; khi ngài nghe tiếng nói nội tại, đó là tiếng nói của chính ngài đang tự phóng hiện vào trong tâm thức tương đối tĩnh lặng ấy. Thế thì làm thế nào tiếng nói ấy có thể là tiếng nói của thực tại? Một đầu óc tán loạn, ngu si, thèm khát, tham dục, đòi hỏi, van xin, một đầu óc như thế làm thế nào hiểu được thực tại? Tâm thức chỉ có thể đón nhận thực tại khi tâm thức im lặng một cách tuyệt đối, không còn đòi hỏi, không van xin, không thèm khát, không hoài vọng, không thỉnh cầu, dù là cho mình, cho quốc gia hoặc cho người khác. Khi tâm thức được im lặng một cách tuyệt đối, khi lòng tham dục chấm dứt, chỉ lúc ấy thực tại mới xuất hiện. Một người van xin đòi hỏi, nài nỉ, thỉnh cầu, khao khát phương hướng thì hắn sẽ tìm thấy điều hắn tìm kiếm, nhưng đó sẽ không phải là chân lý. Điều hắn nhận được sẽ là sự đáp ứng của những tầng lớp vô thức trong chính tâm trí hắn phóng hiện vào ý thức; tiếng nói im lặng nhỏ bé kia dìu dắt phương hướng cho hắn không phải là thực tại mà chỉ là sự đáp ứng của vô thức.

Vấn đề đọc kinh lại cũng có can hệ đến vấn đề tập trung tư tưởng. Đối với phần đông chúng ta, sự tập trung tư tưởng là một tiến trình độc chiếm. Sự tập trung tư tưởng được phát sinh do nỗ lực, cưỡng bách, chi phối, mô phỏng, vì thế sự tập trung tư tưởng là một tiến trình độc chiếm. Tôi để tâm vào một việc gọi là tham thiền, nhưng những tư tưởng của tôi đều phân tán; vì thế tôi cố định tâm trí vào một hình ảnh, một ảnh tượng hoặc một ý tưởng và khai trừ các tư tưởng khác. Tiến trình tập trung tư tưởng này, tức là sự độc chiếm khai trừ, được coi như một phương tiện thiền định. Đó là điều ngài thường làm phải thế không? Khi ngài ngồi xuống để tham thiền, ngài an định tâm trí vào một chữ, vào một ảnh tượng, hoặc vào một hình ảnh, nhưng tâm trí vẫn lang thang đây đó khắp nơi. Những ý tưởng khác, những tư tưởng khác, những cảm xúc khác lại chen lấn làm gián đoạn sự định tâm của ngài và ngài cố gắng xua đẩy chúng ra ngoài; ngài mất thì giờ trong việc cầm cự chống chế với những tư tưởng của ngài. Và ngài gọi tiến trình ấy là sự tham thiền. Nghĩa là ngài cố gắng tập trung tư tưởng vào một sự việc gì đó mà ngài không quan tâm thích thú, rồi những tư tưởng của ngài lại tiếp tục gia tăng, hiện đến càng lúc càng nhiều, chen vào gián đoạn sự định tâm, vì thế ngài phải tận dụng tinh lực để khai trừ loại bỏ, xua bỏ, đẩy đi; nếu ngài có thể tập trung tư tưởng vào một tư tưởng chọn lựa, vào một đối tượng đặc biệt nào đó, ngài cho rằng ngài đã thành công trong việc tham thiền. Chắc chắn đó không phải là tham thiền, phải thế? Sự tham thiền không phải là một tiến trình độc chiếm, độc chiếm trong nghĩa khai trừ xua bỏ, chống chế lại những ý tưởng lấn áp. Sự đọc kinh không phải là thiền định và sự tập trung tư tưởng cũng không phải là thiền định, vì đó chỉ là sự độc chiếm thôi.

Tham thiền là gì? Sự trầm tư mặc tưởng là gì? Sự tập trung tư tưởng không phải là tham thiền, bởi vì mỗi khi mình cảm thấy hứng thú quan tâm thì tương đối dễ tập trung tư tưởng vào một việc gì đó. Một người tướng chỉ huy dàn trận, gây sự tàn sát đẫm máu, cũng là người rất tập trung tư tưởng. Một kẻ kinh doanh chỉ lo làm tiền cũng là người tập trung tư tưởng – hắn tập trung tư tưởng đến độ tàn nhẫn, không biết thương xót, xua bỏ qua tất cả những cảm giác khác và chỉ tập trung tư tưởng hoàn toàn vào điều hắn muốn có. Bất cứ kẻ nào chú tâm để ý đến một việc gì thì hắn tập trung tư tưởng một cách tự nhiên, tự phát. Sự tập trung tư tưởng như thế không phải là tham thiền, đó chỉ là sự độc chiếm khai trừ.

Thế thì tham thiền là gì? Chắc chắn sự tham thiền là sự hiểu biết – sự tham thiền của con tim là sự giao cảm hiểu biết. Làm thế nào có thể có sự hiểu biết nếu có sự độc chiếm khai trừ? Làm thế nào có sự hiểu biết khi mình chỉ van nài, van xin, thỉnh cầu? Trong sự giao cảm hiểu biết, mình được hòa bình, thanh thản, mình được sự tự do: điều ngài hiểu được cũng là điều mà ngài đã được giải phóng, ngài đã hiểu được điều gì là ngài đã giải thoát khỏi điều ấy. Còn chỉ tập trung tư tưởng hoặc chỉ đọc kinh không đem đến sự hiểu biết giao cảm. Sự hiểu biết là chính cơ sở, tiến trình nền tảng của sự tham thiền. Ngài không phải đồng ý với lời nói của tôi, nhưng nếu ngài khảo sát sự đọc kinh và sự tập trung tư tưởng một cách chu đáo hơn, một cách sâu thẳm hơn, ngài sẽ thấy rằng không có sự đọc kinh nào hay sự tập trung tư tưởng nào đưa dẫn đến sự hiểu biết giao cảm. Sự đọc kinh và tập trung tư tưởng chỉ đưa đến sự cố chấp định kiến và ảo tưởng. Trái lại sự thiền định nào mà có sự hiểu biết giao cảm trong ấy thì sự thiền định ấy mang tới sự tự do, sáng suốt minh mẫn và nguyên tính.

Đối với chúng ta, sự hiểu biết giao cảm có nghĩa là gì? Sự hiểu biết có nghĩa là đặt đúng tầm quan trọng, đánh giá đúng, đặt giá trị xác đáng cho tất cả mọi sự. Người ngu si là người đặt sai những giá trị; chính bản chất của sự ngu xuẩn là đánh mất sự lãnh hội đàng hoàng về những giá trị chính xác. Sự hiểu biết hiện đến khi nào có những giá trị chính xác, khi nào những giá trị chính đáng được thiết lập. Và làm thế nào mình thiết lập những giá trị chính đáng – giá trị chính đáng của tài sản, giá trị chính đáng của sự tương giao, giá trị chính đáng của những ý tưởng? Muốn cho những giá trị chính đáng hiện đến, ngài phải hiểu người tư duy, phải thế không? Nếu tôi không hiểu người tư duy, tức là tôi, thì những gì tôi lựa chọn đều vô nghĩa; nghĩa là nếu tôi không tự hiểu tôi, lúc ấy, hành động của tôi, tư tưởng của tôi không có nền tảng căn nguyên gì cả. Vì vậy, sự tự hiểu biết là sự bắt đầu của sự tham thiền lĩnh lự - chứ không phải kiến thức mà ngài lượm lặt từ những quyển sách của tôi, từ những kẻ uy quyền uy tín, từ những bậc gurus (những bậc minh sư, đạo sư), nhưng sự hiểu biết xuất hiện nhờ sự tự khảo sát tức là tự thức. Sự tham thiền là sự bắt đầu của việc tự hiểu biết, và không có sự tự hiểu biết thì không có việc tham thiền được. Nếu tôi không hiểu những dường lối vận hành của những tư tưởng tôi, những cảm giác tôi, nếu tôi không hiểu những động lực duyên do của tôi, những khát vọng những đòi hỏi, sự đeo đuổi một khuôn mẫu hành động, tức là những ý tưởng – nếu tôi không tự hiểu tôi, thì không thể nào có cơ sở để suy tưởng; người tư duy nào chỉ đòi hỏi, cầu nguyện hoặc khai trừ độc chiếm, không tự hiểu bản thân thì nhất định rốt ráo rồi cũng đi đến hỗn loạn ảo tưởng.

Sự bắt đầu của việc tham thiền là sự tự hiểu biết, tức là ý thức trực tiếp về tất cả sự vận hành của tư tưởng và cảm giác, tri nhận tất cả những tầng lớp trong ý thức của tôi, chẳng những những tầng lớp nông cạn hời hợt mà cả những sinh hoạt ẩn kín, tiềm mặc sâu thẳm. Muốn biết những sinh hoạt tiềm mặc sâu thẳm, những nguyên động lực giấu kín, những đáp ứng, những tư tưởng và những cảm giác, phải cần có được sự trầm lặng trong tâm trí hữu thức; nghĩa là sự trầm lặng trong tâm để có thể đón nhận sự phóng hiện bên ngoài của vô thức. Tâm trí hữu thức nông cạn hời hợt chỉ bận rộn với những sinh hoạt thường nhật, với việc mưu sinh, lừa gạt những kẻ khác, trục lợi kẻ khác, chạy trốn những vấn đề - nói chung tất cả những sinh hoạt hàng ngày trong đời sống chúng ta. Tâm thức nông cạn hời hợt ấy phải hiểu đúng mức sự quan trọng của chính những sinh hoạt của mình và nhờ thế mới đem đếnsự trầm lặng an tĩnh cho tự thể. Tâm thức ấy không thể tạo ra sự an tâm, trầm mặc bằng sự kiềm chế, áp đảo, kỷ luật. Tâm thức chỉ có thể tạo ra sự vắng lặng thanh bình, trầm mặc bằng việc lãnh hội những sinh hoạt của tự thể, bằng việc quan sát những sinh hoạt ấy, bằng việc ý thức trực tiếp về những sinh hoạt ấy, bằng việc nhìn thấy sự tàn bạo của tự thể, nhìn thấy cách nói năng với người đầy tớ, với người vợ, với con gái, với mẹ, vân vân. Khi tâm thức nông cạn thiển bạc hoàn toàn ý thức như thế về tất cả sinh hoạt của tự thể nhờ vào sự hiểu biết ấy, tâm thức trở nên trầm lặng một cách tự nhiên, chứ không phải bị tiêm độc dược bằng sự cưỡng bức hoặc bị kiềm chế bởi sự tham dục; lúc ấy tâm trí mới có khả năng đón nhận thâm ý hàm súc, những dấu hiệu bày tỏ của vô thức, bao nhiêu là những tầng lớp kín đáo của tâm trí – những bản năng chủng tộc, những kỷ niệm chôn vùi, những truy cầu ẩn giấu, những vết thương sâu thẳm chưa lành. Chỉ khi nào tất cả những thứ này đã tự phóng hiện ra ngoài và được lý hội, khi toàn thể ý thức đã cởi bỏ gánh nặng, không còn bị vướng kẹt trong bất cứ vết thương lòng nào, không bị ràng buộc bởi bất cứ kỷ niệm nào, chỉ lúc ấy ý thức mới sẵn sàng đón nhận sự vĩnh cửu.

Sự tham thiền tĩnh lự là sự tự hiểu biết, và không có sự tự hiểu biết thì không có tham thiền. Nếu ngài không ý thức về tất cả những đáp ứng của ngài trong mọi lúc, nếu ngài không hoàn toàn ý thức, không hoàn toàn tri nhận về những sinh hoạt thường nhật của ngài, mà chỉ tự đóng kín bưng bít trong phòng và ngồi tham thiền trước hình ảnh của bậc đạo sư mình, của bậc thầy tối thượng, việc làm ấy chỉ là một sự chạy trốn, bởi vì không có sự tự hiểu biết mình thì không có tư duy chính xác; không có tư duy chính xác, những việc làm của ngài đều vô nghĩa, dù ý định của ngài có cao thượng đi nữa thì vẫn vô nghĩa, vì thế sự đọc kinh không có ý nghĩa, không quan trọng gì cả nếu mình không hiểu tự thể bản thân, nhưng khi có sự tự hiểu biết thì có tư duy chính xác, rồi hành động chính xác. Khi có hành động chính xác, lúc ấy không có sự tán loạn nữa; do đó, không còn sự thỉnh cầu nài nỉ van xin bất cứ ai để mong mỏi được dìu dắt ra ngoài sự tán loạn kia. Bất cứ kẻ nào có ý thức trực tiếp hoàn toàn, kẻ ấy đúng là đang tham thiền quán tưởng; kẻ ấy không cần đọc kinh vì hắn không ham muốn cầu cạnh bất cứ điều gì nữa.

Đọc kinh, kiềm chế tự kỷ, lặp đi lặp lại thường xuyên một việc gì đó, tất cả những thứ này có thể đem đến cho ngài một sự im lặng nào đó, nhưng đó chỉ là một sự đần độn, chai đá chán chường khiến cho tâm trí phải khắc khoải ủ ê. Việc ấy chỉ ru ngủ, tiêm độc dược cho tâm trí; và sự độc chiếm loại trừ mà ngài gọi là sự tập trung tư tưởng, không thể nào đưa đến thực tại – không có tinh thần độc chiếm nào có thể làm được việc ấy. Điều khai tạo ra sự giao cảm hiểu biết chính là sự tự hiểu biết và có được ý thức trực tiếp không phải là chuyện khó lắm nếu mình có chủ ý chính xác. Nếu ngài quan tâm đến việc khám phá toàn thể tiến trình của bản thân ngài – chứ không phải chỉ để ý đến thành phần hời hợt mà phải để ý trọn vẹn tiến trình của toàn diện bản thể ngài – lúc ấy, không có gì là khó lắm. Nếu ngài thực sự muốn tự hiểu mình ngài sẽ bới đào khám phá cõi lòng ngài và tâm trí ngài để biết được trọn vẹn nội dung, và khi mình có ý định để biết thì ngài mới biết được. Rồi ngài có thể theo dõi tất cả mọi sự vận hành của tư tưởng và cảm giác mà không kết án hoặc biện minh, theo dõi sự khởi phát của tất cả tư tưởng cảm giác, ngài sẽ tạo ra được sự trầm lặng, không phải cưỡng bức, không phải áp chế tự kỷ; sự trầm lặng ấy là thành quả của việc không còn vấn đề nào nữa, không còn mâu thuẫn nào nữa. Điều ấy giống như một ao nước vắng lặng, im lặng tĩnh mịch vào một buổi chiều không gió; khi tâm trí bình lặng, khi ấy thực tại vô hạn xuất hiện.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
#25
Về TÍN NGƯỠNG Nơi THƯỢNG ĐẾ
(On Belief in God)

HỎI: Tín ngưỡng vào Thượng đế đã từng là một kích thích tố mạnh mẽ cho con người sống đàng hoàng tươi đẹp hơn. Tại sao ngài lại phủ nhận chối bỏ Thượng đế? Tại sao ngài không cố gắng đánh thức dậy đức tin của con người trong ý niệm Thượng đế?

KRISHNAMURTI: Chúng ta hãy nhìn thẳng vấn đề một cách rộng rãi hơn và thông minh hơn. Tôi không phủ nhận Thượng đế - làm như thế chỉ là khờ khệch. Chỉ có kẻ nào không hiểu thực tại mới quấn quít thích thú với những tiếng vô nghĩa. Kẻ nào nói rằng mình biết thì không biết gì cả; kẻ nào thể nghiệm thân chứng thực tại từ giây phút này đến giây phút khác thì không có phương tiện để truyền đạt thực tại ấy.

Tín ngưỡng là sự phủ nhận chân lý, tín ngưỡng làm chướng ngại tâm lý, tin tưởng, đặt tín ngưỡng Thượng đế là không tìm thấy Thượng đế. Kẻ có tín ngưỡng và kẻ không có tín ngưỡng, cả hai đều sẽ không tìm thấy Thượng đế; bởi vì thực tại là điều xa lạ, và tín ngưỡng của ngài hoặc sự vô tín ngưỡng của ngài nơi điều xa lạ kia đều chỉ là một sự phóng ngoại của bản ngã, do đó, không thực gì cả. Tôi biết rằng ngài tin tưởng, ngài có tín ngưỡng và tôi biết rằng tín ngưỡng chẳng có ý nghĩa gì trong đời sống ngài. Có rất nhiều người tin tưởng; hàng triệu người tin tưởng vào Thượng đế và tìm an ủi ở đó.

Trước hết , tôi muốn hỏi, tại sao ngài tin tưởng, tại sao ngài có tín ngưỡng? Ngài có tín ngưỡng vì điều ấy đem đến sự thỏa mãn cho ngài, đem đến an ủi hy vọng, và ngài cho rằng tín ngưỡng ban ý nghĩa cho đời sống. Trong thực tế tín ngưỡng của ngài chẳng có ý nghĩa gì đáng kể, bởi vì ngài tín ngưỡng và trục lợi, ngài tín ngưỡng và vẫn chém giết, ngài tín ngưỡng vào một Thượng đế đại đồng, và vẫn giết hại lẫn nhau. Kẻ giàu sang cũng có tín ngưỡng vào Thượng đế; hắn vẫn bóc lột mọi người một cách tàn nhẫn, chồng chất tiền bạc, rồi xây dựng nhà thờ hoặc trở nên kẻ bác ái từ thiện.

Những kẻ ném trái bom nguyên tử xuống Hiroshima cũng nói rằng Thượng đế ở bên cạnh họ; những kẻ nào bay oanh tạc cơ từ Anh quốc để phá hủy Đức quốc cũng nói rằng Thượng đế ở bên cạnh họ. Rồi những kẻ độc tài, những vị thủ tướng, những vị tướng lãnh, những vị tổng thống, tất cả mọi người đều nói về Thượng đế, họ có đức tin rất thuần thành về Thượng đế. Phải chăng họ phụng sự loài người, làm đời sống con người trở nên tốt đẹp hơn? Những kẻ nào nói rằng họ tin Thượng đế, chính những kẻ ấy đã từng phá hủy gần phân nửa thế giới, và cả thế giới đang chịu khốn khổ cùng độ. Vì thiếu tinh thần khoan dung tôn giáo, con người đã phân chia ra làm những kẻ có tín ngưỡng và những kẻ vô tín ngưỡng, để rồi đưa đến những trận chiến tranh tôn giáo. Điều ấy chỉ chứng tỏ là các ngài đã bị chính trị tiêm nhiễm vào đầu óc đến mức độ bất ngờ.

Tín ngưỡng vào Thượng đế phải chăng là “một kích thích tố cho đời sống được tươi đẹp hơn”? Tại sao ngài lại muốn có kích thích tố để sống tươi đẹp hơn? Tất nhiên, lòng kích thích của ngài phải là lòng khao khát của ngài muốn sống trong sạch, đơn giản, phải thế không? Nếu ngài mong mỏi trông đợi vào một kích thích tố nào đó, ngài không thực quan tâm đến việc làm đời sống trở nên xán lạn cho tất cả mọi người, mà ngài chỉ quan tâm đến kích thích tố của ngài, mà kích thích tố của ngài lại khác kích thích tố của tôi – và rồi chúng ta lại phải cãi lẫy nhau về kích thích tố. Nếu chúng ta sống hạnh phúc với nhau, không phải bởi vì chúng ta có tín ngưỡng vào Thượng đế, mà bởi vì chúng ta là những con người, lúc ấy chúng ta sẽ chia sẻ toàn thể phương tiện sản xuất để cùng cung cấp mọi sự cho tất cả mọi người. Nhưng vì thiếu mất thông minh, chúng ta lại chấp nhận ý niệm về một trí thông minh vạn năng mà chúng ta gọi là “Thượng đế”; nhưng “Thượng đế” này, trí tuệ vạn năng này, sẽ không mang đến một đời sống tươi đẹp cho chúng ta. Điều dẫn tới một đời sống tươi đẹp chính là sự thông minh của con người; và con người không thể nào thông minh được, nếu hắn lại có tín ngưỡng, nếu hắn phân chia giai cấp xã hội, nếu phương tiện sản xuất lại nằm trong tay một số ít người, nếu những quốc gia lại cô lập và những chính quyền lại chủ trương tập quyền tối thượng. Tất cả những thứ này đều chứng tỏ sự thiếu thông minh, và chính sự thiếu thông minh đã án ngữ chận đứng lại một đời sống tươi đẹp, chứ không phải vô tín ngưỡng vào Thượng đế.

Tất cả các ngài ở đây đều có tín ngưỡng trong nhiều cách khác nhau, nhưng tín ngưỡng của các ngài không có thực chất gì cả. Thực chất, thực tại là bản chất hiện tại của các ngài, những gì các ngài làm, những gì các ngài nghĩ và tín ngưỡng của các ngài vào nơi Thượng đế chỉ là một cách thoát ly ra ngoài đời sống tầm thường tẻ nhạt, ngu xuẩn, tàn bạo của các ngài. Hơn thế nữa, tín ngưỡng thường khi vẫn luôn luôn chia rẽ con người; người theo Ấn độ giáo, kẻ theo Phật giáo, Thiên chúa giáo, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, vân vân – tín ngưỡng, ý tưởng phân chia con người; tín ngưỡng không bao giờ đoàn kết được con người. Ngài có thể tập hợp một số người lại với nhau trong một đoàn thể, nhưng đoàn thể này lại chống đối đoàn thể khác. Những ý tưởng, ý niệm, và những tín ngưỡng không bao giờ làm nhất trí con người, hợp nhất con người được; trái lại, những ý tưởng và những tín ngưỡng chỉ phân hóa, chia rẽ, gây ly tán, phá hoại. Vì thế, tín ngưỡng của ngài nơi Thượng đế đang thực sự gieo rắc thống khổ và phá hoại qua những hình thức của chiến tranh, đói kém, phân chia giai cấp và hành động tàn bạo của những cá nhân biệt lập, vì thế tín ngưỡng của ngài không có giá trị gì cả. Nếu ngài thực sự tin Thượng đế, nếu điều ấy là một kinh nghiệm thực thụ đối với ngài thì lúc ấy nét mặt của ngài sẽ trổ lên một nụ cười; ngài sẽ không giết hại những con người nữa.

Thế thì thực tại là gì, Thượng đế là gì? Thượng đế không phải là một danh từ, danh từ không phải là sự thể. Muốn hiểu biết điều vô lượng, điều phi thời gian, tâm trí phải giải thoát khỏi thời gian, nghĩa là tâm trí phải giải thoát ra ngoài mọi tư tưởng, ra ngoài tất cả ý tưởng, ý niệm về Thượng đế. Các ngài biết gì về Thượng đế hoặc về chân lý? Các ngài thực ra không hiểu gì cả về thực tại ấy. Tất cả những gì các ngài biết được đều là những danh từ, những tiếng lời, những kinh nghiệm của những kẻ khác hoặc một vài thoáng kinh nghiệm mơ hồ của chính ngài. Tất nhiên đó không phải là Thượng đế, đó không phải là thực tại, đó chưa phải là vượt lên trên lãnh vực của thời gian. Muốn hiểu biết điều phi thời gian, tiến trình của thời gian phải được lý hội, và thời gian chính là tư tưởng, tiến trình của sự biến dịch trở thành, sự tích lũy của kiến thức. Đó là toàn thể hậu cảnh của tâm trí; chính tâm trí là hậu cảnh, vừa ý thức vừa vô thức, vừa tập thể vừa cá thể. Vì thế tâm trí phải giải thoát ra ngoài thế giới quen thuộc, nghĩa là tâm trí phải trầm lặng hoàn toàn, chứ không phải bị ép buộc im lặng. Bất cứ tâm trí nào muốn đạt tới sự im lặng như là kết quả, như là hậu quả của hành động quả quyết, của sự thực hành tôi luyện, của kỷ luật thì tâm trí ấy thì tâm trí ấy vẫn không phải là tâm trí trầm lặng. Tâm trí nào bị cưỡng bức, kiềm chế, uốn nắn, bị đóng vào khung và bị buộc phải im lặng thì tâm trí ấy vẫn không phải là tâm trí trầm lặng. Các ngài có thể thành công một giai đoạn trong việc cưỡng bức tâm trí im lặng một cách hời hợt ở bề mặt, nhưng tâm trí ấy vẫn không phải là một tâm trí trầm lặng. Sự trầm lặng chỉ hiện đến khi nào ngài hiểu được trọn vẹn tiến trình của tư tưởng, bởi vì hiểu được tiến trình ấy là chấm dứt nó, và sự chấm dứt tiến trình tư tưởng là bắt đầu sự im lặng.

Chỉ khi nào tâm trí được hoàn toàn im lặng, không phải chỉ im lặng ở thượng tầng, mà phải ở tận cùng căn để, im lặng toàn triệt: vừa ở tầng nông cạn, vừa ở tầng sâu thẳm của ý thức – chỉ có lúc ấy sự mới lạ mới hiện thể. Sự mới lạ không phải là một điều có thể sở nghiệm được bằng tâm trí, chỉ có sự im lặng mới có thể sở nghiệm được, không còn gì cả, ngoài sự im lặng, chỉ còn là im lặng. Nếu tâm trí lại thể nghiệm bất cứ sự việc gì khác ngoài sự im lặng thì tâm trí chỉ phóng hiện ra ngoài những khao khát của chính nó, và tâm trí như thế không thể nào trầm lặng được; khi mà tâm trí không im lặng, khi mà tư tưởng trong bất cứ hình thức nào, dù ý thức hay vô thức, hãy còn vận hành thì không thể nào có sự im lặng được. Sự im lặng là tự do, thoát khỏi quá khứ, thoát khỏi kiến thức, thoát khỏi cả ký ức hữu thức và ký ức vô thức; khi tâm trí hoàn toàn im lặng, khi tâm trí không còn hoạt động, khi có sự im lặng, mà không phải là sản phẩm của nỗ lực, chỉ khi ấy thực tại phi thời gian, vĩnh cửu mới xuất hiện. Trạng thái ấy không phải là một trạng thái hồi tưởng – không có thực thể nào hồi tưởng và thể nghiệm cả.

Vì vậy, Thượng đế hoặc chân lý, hoặc bất cứ danh hiệu nào khác, là một sự thể xuất hiện từ giây phút này đến giây phút khác, và sự thể ấy chỉ xuất hiện trong trạng thái tự do và tự nhiên, chứ không phải lúc tâm trí bị kiềm chế khuôn rập theo một mẫu mực nào đó, Thượng đế không phải là một sự việc của tâm trí. Thượng đế không hiện hữu qua sự phóng ngoại của tự ngã; thực tại chỉ đến khi nhân đức hiện hữu, tức là tự do. Nhân đức là việc đối mặt với hiện thể và đối diện với sự kiện là một trạng thái hạnh phúc tuyệt trần. Chỉ khi nào tâm trí ngất ngây sung sướng, trầm lặng, không động đậy vận hành gì nữa, tịch tịnh, không phóng hiện tư tưởng hữu thức hoặc vô thức – chỉ có lúc ấy sự vĩnh cửu mới hiện đến.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
#26
Krishnamurti nói chuyện mạnh bạo quá trời á. Thx anh Anatta. 10_point

[Image: group-dancing-penguins-smiley-emoticon.gif]
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
#27
TẠI SAO PHẢI CẦN NHỮNG BẬC ĐẠO SƯ ?
(Why Spiritual Teachers?)

HỎI: Ngài nói rằng không cần phải theo bất cứ bậc đạo sư nào cả, nhưng làm thế nào tôi có thể thấy được chân lý nếu không có sự giúp đỡ hướng dẫn khôn ngoan mà chỉ có một vị đạo sư (guru) mới có thể đem đến được?

KRISHNAMURTI: Vấn đề đặt ra là có cần phải có đạo sư (guru) hay không. Chân lý có thể nào được tìm thấy qua trung gian của một người khác? Người này nói có thể, người kia nói rằng không thể. Chúng ta cần biết sự thực về vấn đề này, chứ không cần ý kiến của tôi để chống lại ý kiến của một người khác. Tôi không có ý kiến trong vấn đề này. Việc ấy có thể là thế hoặc có thể không là thế. Tìm hiểu xem có cần để các ngài phải theo hoặc không phải theo một bậc đạo sư nào đó, tất nhiên đây không phải là vấn đề ý kiến. Chân lý của vấn đề không tùy thuộc vào ý kiến dù ý kiến có thâm sâu, uyên bác, phổ thông, phổ quát. Chân lý của vấn đề phải được thực sự khai phá ra.

Trước hết, tại sao các ngài cần phải theo một bậc đạo sư nào đó? Chúng ta cho rằng chúng ta cần phải có một bậc đạo sư, vì chúng ta hỗn loạn trong tâm thức, và một bậc đạo sư, có thể giúp đỡ tiếp dẫn ta: vị đạo sư ấy sẽ chỉ cho ta rõ đâu là chân lý, ông ấy sẽ giúp đỡ chúng ta hiểu sự việc, ông ấy hiểu rõ đời sống hơn là ta, ông ấy sẽ tác động ảnh hưởng chúng ta như là một người cha, như là một vị thầy chỉ đường dẫn dạy ta trong đời sống. Ông ấy có nhiều kinh nghiệm thông thạo rộng lớn, còn chúng ta chỉ có chút ít kinh nghiệm thôi; ông ấy sẽ dẫn dắt giúp đỡ chúng ta qua kinh nghiệm rộng lớn của ông, vân vân và vân vân. Nói gọn lại một cách căn bản hơn, các ngài đi đến một vị đạo sư nào đó bởi vì tâm thức các ngài đang ở trong trạng thái tán loạn. Nếu các ngài trong suốt minh mẫn, các ngài sẽ không đi đến gần bất cứ một vị đạo sư nào cả. Cố nhiên nếu các ngài được hạnh phúc một cách thâm trầm, nếu các ngài không có vấn đề gì cả, nếu các ngài hiểu đời sống một cách hoàn toàn, các ngài sẽ không đi tìm bất cứ bậc đạo sư nào hết.

Tôi mong rằng các ngài thấy được ý nghĩa của sự kiện này. Vì tâm tư các ngài tán loạn, cho nên các ngài tìm kiếm một bậc thầy dẫn đạo. Các ngài tìm đến bậc thầy ấy để được ban cho một đường lối sống ở đời, để giải minh sự tán loạn riêng tư của các ngài, để thấy được chân lý. Các ngài chọn thầy đạo là vì các ngài tán loạn, các ngài mong rằng bậc đạo sư sẽ ban cho những gì các ngài đòi hỏi. Nói rõ hơn, các ngài chọn lựa vị đạo sư nào khả dĩ thỏa mãn được sự đòi hỏi của các ngài, các ngài chọn lựa tùy theo sự thỏa nguyện, thỏa mãn mà bậc đạo sư ấy có thể ban đến cho các ngài, sự chọn lựa của các ngài lại lệ thuộc vào sự thỏa mãn của các ngài. Các ngài không chịu chọn lựa vị đạo sư nào dạy như vầy: “Hãy nương tựa vào chính mình”; các ngài chọn lựa đạo sư tùy thuận theo những thành kiến của các ngài. Thế, vì các ngài chọn lựa đạo sư tùy theo sự thỏa mãn mà vị đạo sư ấy đã mang đến cho các ngài, cho nên các ngài không phải đi tìm chân lý mà chỉ tìm đường để thoát ra ngoài hỗn loạn; và con đường thoát ra ngoài hỗn loạn được gọi sai lầm là “chân lý”.

Chúng ta hãy khảo sát trước tiên ý tưởng cho rằng bậc đạo sư nào đó có thể giải minh sự tán loạn của mình. Có ai có thể giải minh sự tán loạn của chúng ta? Sự hỗn loạn chính là thoát thai từ những đáp ứng của chúng ta. Chúng ta đã tạo ra sự hỗn loạn ấy. Các ngài nghĩ rằng kẻ nào khác đã tạo ra sự hỗn loạn ấy ư? Kẻ nào khác đã tạo ra sự thống khổ khốn cùng, sự tương tranh chiến đấu ở khắp mọi cấp độ của đời sống, bên trong và bên ngoài? Đó là kết quả của sự thiếu hiểu biết của chính mình về bản thân mình. Vì chúng ta không tự hiểu mình, không hiểu những sự xung đột của chúng ta, những đáp ứng của chúng ta, những thống khổ chúng ta, cho nên chúng ta mới đi tìm một bậc đạo sư nào đó khả dĩ giúp đỡ chúng ta thoát khỏi sự tán loạn kia. Chúng ta chỉ có thể hiểu bản thân trong tương giao quan thiết với hiện tại; chính tương giao quan thiết ấy là bậc đạo sư rồi, chứ không phải một kẻ nào bên ngoài. Nếu tôi không hiểu tương giao quan thiết với hiện tại thì bất cứ những gì mà bậc đạo sư dạy cho chúng ta đều phù phiếm vô dụng, bởi vì nếu không hiểu được sự tương quan, sự tương giao quan hệ của mình với tài sản, với con người, với những ý tưởng, thì ai có thể giải tan được xung đột trong tôi? Muốn giải quyết sự xung đột này, tôi phải hiểu sự xung đột bằng chính bản thân mình, nghĩa là tôi phải trực thức về bản thân mình trong mối tương quan giao hệ với đời sống. Muốn có trực thức ấy (awareness), không cần phải theo một đạo sư nào cả. Nếu tôi không tự hiểu mình thì bất cứ đạo sư nào đó cũng chẳng làm gì có thể giúp đỡ tôi được, vị đạo sư trở nên vô dụng. Không khác gì một vị lãnh tụ chính trị đã được chọn lựa với những kẻ có tâm thức tán loạn mờ mịt, và sự chọn lựa ấy cũng tán loạn mờ mịt, khi tôi chọn lựa một vị đạo sư thì cũng y như thế, tâm thức tôi cũng tán loạn mờ mịt như thế, vì tâm trạng ấy cho nên mới cầu thầy, cầu chúa. Tôi chỉ có thể chọn lựa bậc đạo sư tùy thuộc vào sự tán loạn mờ mịt trong tâm thức mình, do đó, bậc đạo sư ấy cũng tán loạn mờ mịt, không khác gì vị lãnh tụ chính trị.

Điều quan trọng không phải là ai đúng, ai sai, không phải là tôi có lý hay kẻ chủ trương cần phải có một bậc đạo sư mới có lý hơn tôi; điều quan trọng vẫn là tìm hiểu tại sao các ngài cần phải có một bậc đạo sư dẫn dắt. Những bậc đạo sư chỉ xuất hiện là vì có sự khai thác lợi dụng đủ lối tinh vi, nhưng vấn đề này chẳng liên hệ đến điều đang trình bày ở đây. Các ngài cảm thấy thỏa mãn thỏa lòng, nếu có kẻ nào tỏ cho các ngài biết các ngài đã tiến bộ như thế nào, nhưng vấn đề vẫn là tìm hiểu tại sao các ngài cần phải có một bậc đạo sư – đó, vấn đề chính yếu là thế. Kẻ khác có thể tỏ đường đi cho các ngài, nhưng chính các ngài, các ngài phải làm tất cả mọi sự , dù là các ngài có bậc đạo sư dẫn dắt đi nữa, chính các ngài cũng phải tự làm lấy mọi sự. Bởi vì các ngài không muốn đối diện với sự kiện ấy, cho nên các ngài đổ trách nhiệm lên vai bậc đạo sư. Đạo sư trở thành vô dụng khi mình có được một chút tự tri, tự hiểu mình một chút thôi thì tất cả đạo sư đều trở nên phù phiếm. Không có bậc đạo sư nào, không có quyển sách nào, không có bất cứ quyển kinh thiêng liêng nào mà có thể mang đến sự tự tri cho các ngài, mang đến sự hiểu biết mình; sự tự tri xuất hiện khi các ngài có trực thức về bản thân trong tương quan với đời sống. Sống, có nghĩa là sống với, có nghĩa là liên hệ. Không ý thức được tương quan của mình với tài sản là một trong những nguyên nhân gây ra hỗn loạn. Nếu các ngài không biết, không hiểu tương quan thích đáng của các ngài với tài sản thì nhất định phải xảy ra sự xung đột, tăng trưởng thêm sự xung đột ở xã hội. Nếu các ngài không hiểu được tương quan giữa các ngài và vợ con các ngài, thì làm thế nào một kẻ khác có thể giải quyết được sự xung đột phát khởi từ tương quan kia? Với những ý tưởng cũng thế, với tín ngưỡng cũng thế, vân vân. Vì hỗn loạn mờ mịt trong tương quan của các ngài với tài sản, với con người, với những ý tưởng , cho nên các ngài tìm kiếm một vị minh sư dẫn đạo. Nếu kẻ ấy đúng là một đạo sư, một vị minh sư thì kẻ ấy sẽ dạy rằng các ngài phải tự hiểu các ngài. Chính các ngài là nguồn gốc của tất cả ngộ nhận và hỗn loạn, và đời sống các ngài.

Các ngài không thể tìm thấy chân lý qua trung gian của bất cứ người nào khác. Làm thế nào được? Chân lý không phải là một sự thể tĩnh chết, bất động; chân lý không có chỗ cư trú nhất định, cố định; chân lý không phải là cứu cánh, một mục đích. Trái lại chân lý sống động, linh động, linh hoạt, thức tỉnh. Làm thế nào chân lý có thể là một cứu cánh được? Nếu chân lý là một điểm cố định thì chân lý không còn là chân lý nữa; đó chỉ là một ý kiến thôi. Chân lý là một cái gì mới lạ, một đầu óc tìm kiếm chân lý không bao giờ có thể tìm được chân lý; vì đầu óc được tạo thành bởi những gì quen biết, quen thuộc, nó là kết quả của quá khứ, hậu quả của thời gian, các ngài có thể quan sát điều đó. Trí óc là dụng cụ của sự quen biết quen thuộc, do đó, nó không thể nào tìm thấy điều mới lạ được; đầu óc chỉ có thể vận hành từ sự quen thuộc này đến sự quen thuộc khác thôi. Khi tâm thức đi tìm chân lý, chân lý tìm được trong sách vở, chân lý ấy chỉ là tự phóng hiện từ bản ngã; lúc ấy, tâm thức chỉ đeo đuổi điều quen thuộc, điều quen thuộc này đem đến thỏa mãn nhiều hơn điều quen thuộc trước kia. Khi tâm trí tìm kiếm chân lý, thực ra tâm trí chỉ đang tìm kiếm sự phóng hiện của chính bản ngã mình thôi, chứ không phải là chân lý thực sự. Tựu chung, bất cứ một lý tưởng nào chỉ là sự phóng hiện từ bản ngã, nó chỉ là ảo tưởng, không thực. Điều thực là điều đang hiện thể, đang là, chứ không phải ngược lại thế. Nhưng một tâm thức đi tìm kiếm thực tại, tìm kiếm Thượng đế thì vẫn chỉ là tìm kiếm sự quen thuộc, điều quen biết thôi. Khi các ngài nghĩ về Thượng đế, Thượng đế của các ngài chỉ là sự phóng hiện của chính tư tưởng các ngài, kết quả của những ảnh hưởng xã hội. Các ngài chỉ có thể nghĩ về những điều quen thuộc cũ kỹ; các ngài không thể nghĩ về điều xa lạ, mới lạ, các ngài không thể tập trung tư tưởng vào chân lý được. Lúc các ngài nghĩ về sự lạ, đó chỉ là quen thuộc được phóng hiện ra từ bản ngã. Không ai có thể nghĩ về Thượng đế hay chân lý. Nếu các ngài nghĩ về chân lý, đó không phải là chân lý. Chân lý không thể nào tìm kiếm được; chính chân lý đi đến các ngài. Các ngài chỉ có thể đi tìm những gì cũ kỹ, quen thuộc. Khi tâm trí không còn quằn quại bởi điều quen thuộc, bởi những tác động của sự quen thuộc cũ kỹ, lúc ấy chân lý mới có thể tự khai mở. Chân lý nằm trong mỗi một chiếc lá, trong mỗi một giọt lệ, chân lý phải được biết tới trong từng giây phút một. Không ai có thể dẫn dắt các ngài đến chân lý và nếu kẻ nào dẫn dắt các ngài, thì chỉ có thể dẫn dắt đến những gì quen biết, quen thuộc.

Chân lý chỉ có thể xuất hiện trong tâm trí trống rỗng, không còn vướng bận trong những điều quen thuộc cũ kỹ. Chân lý hiện đến trong một tâm thái mà điều quen thuộc đã vắng mất, không còn manh động nữa. Tâm trí là nơi chất chứa điều quen biết, quen thuộc, cặn bã của những gì quen biết, quen thuộc, muốn để cho tâm trí đạt tới tâm thái mà điều lạ có thể xuất hiện, tâm trí phải ý thức, trực thức về tự thể, về những kinh nghiệm trước kia, ý thức cũng như vô thức, những đáp ứng, những phản ứng và cơ cấu của chính nó. Khi nào có được sự tự hiểu mình một cách toàn triệt, thì lúc ấy mới chấm dứt được điều quen thuộc, lúc ấy tâm thức mới hoàn toàn trống rỗng, thoát ra ngoài điều quen thuộc thường lệ. Chỉ có lúc ấy chân lý mới có thể xuất hiện đến các ngài, không cần mời mọc. Chân lý không thuộc về các ngài hoặc về tôi. Các ngài không thể phụng thờ chân lý. Vừa lúc chân lý được biết tới thì chân lý không còn thực nữa. Biểu tượng không thực, hình ảnh, hình tượng không thực, nhưng khi nào mình hiểu được bản ngã, khi nào bản ngã ngừng lại lúc ấy Thiên thu vĩnh cửu xuất hiện.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
#28
VỀ KIẾN THỨC
(On Knowledge)

HỎI: Theo những gì tôi được biết rõ về ngài thì ngài cho rằng học vấn và kiến thức là những chướng ngại. Vậy chướng ngại cái gì ?

KRISHNAMURTI: Cố nhiên kiến thức và học vấn làm chướng ngại cho việc hiểu biết sự mới lạ, điều phi thời gian, sự vĩnh cửu. Phát triển một kỹ thuật hoàn thiện không làm các ngài trở nên sáng tạo được. Các ngài có thể biết cách vẽ vời một cách tuyệt diệu, các ngài có thể học được kỹ thuật nhưng các ngài không thể là một họa sĩ sáng tạo được. Các ngài có thể biết cách làm thơ, về mặt kỹ thuật có thể tuyệt mỹ ; nhưng các ngài không thể là thi sĩ được. Phải chăng muốn là thi sĩ ngụ ngầm ý nghĩa rằng có khả năng đón nhận điều mới lạ ; biết nhạy cảm để đáp ứng lại sự đời mới lạ, tươi tắn. Đối với phần đông chúng ta, kiến thức hoặc học vấn đã trở thành thói quen bén rễ, và, chúng ta nghĩ rằng chúng ta sẽ có được tinh thần sáng tạo nhờ sự hiểu biết. Bất cứ một tâm trí nào nhét đầy ứ những sự kiện, nặng nề đóng chẹt trong kiến thức thì tâm trí ấy còn có khả năng đón nhận sự đời một cách mới lạ, bất ngờ, đột phát? Nếu tâm trí các ngài chỉ nhét đầy những sự vật quen biết ; thì làm gì còn chỗ trống trong ấy để đón nhận sự việc xa lạ? Chắc chắn kiến thức luôn luôn thuộc về lãnh vực của điều quen biết, chúng ta lại cố gắng tìm hiểu sự lạ qua phạm trù của sự quen thuộc thì làm gì có sự thành công được, vì sự lạ là sự thể vượt qua sự đo lường.

Chẳng hạn, hãy lấy một sự vật tầm thường xảy ra trong đời sống phần đông chúng ta: những kẻ tu hành (có thể hiểu nhất thời là “tu hành” – để gọi thế cho tiện việc) , cố gắng hình dung bản chất của Thượng đế hoặc cố gắng nghĩ về bản thể của Thượng đế . Họ tụng vô số sách, họ đọc về những kinh nghiệm của những bậc thánh khác nhau, những bậc đạo sư, những bậc đại thánh vân vân, và họ cố gắng hình dung hoặc cố gắng cảm nghĩ về bản chất của kinh nghiệm kẻ khác, nói rõ hơn, qua phạm trù của sự vật quen biết, các ngài lại cố gắng đi tới sự mới lạ. Các ngài có thể làm thế? Các ngài có thể nghĩ về một sự thể bất khả tri? Các ngài chỉ có thể nghĩ về điều gì các ngài quen biết thôi. Nhưng hiện nay ở thế giới đang lan tràn hiện tượng sa đọa lạ thường: chúng ta quan niệm rằng chúng ta sẽ hiểu biết nếu chúng ta thâu lượm được nhiều kiến thức, nhiều sách vở, nhiều sự kiện, nhiều ấn phẩm.

Muốn có trực thức (awereness) về một cái gì mà không là sự phóng hiện của điều quen biết, mình phải xóa bỏ tiến trình của sự quen thuộc bằng sự giao cảm. Tại sao tâm trí vẫn bám víu vào điều quen thuộc? Phải chăng bởi vì tâm trí vẫn thường xuyên tìm kiếm sự nhất định, chắc chắn, an ninh? Chính bản chất của tâm trí đã được cố định trong điều quen thuộc, trong thời gian; làm thế nào một tâm trí như thế có thể có kinh nghiệm về điều phi thời gian, khi chính nền tảng của tâm trí vẫn được đặt trên quá khứ , trên thời gian , tâm trí có thể ý niệm, tạo dựng, hình dung về điều mới lạ, nhưng việc ấy quả thực là phi lý. Điều mới lạ chỉ có thể thành hình khi mình hiểu được, giải tan, xua qua một bên tất cả những gì mình quen biết, quen thuộc. Điều này vô cùng khó khăn, bởi vì vừa lúc các ngài có được kinh nghiệm về bất cứ việc gì thì ngay lúc ấy trí óc liền diễn dịch kinh nghiệm ấy qua phạm trù quen biết và giản lược nó vào trong quá khứ. Tôi chẳng biết các ngài có bao giờ để ý rằng tất cả mọi kinh nghiệm đều lập tức bị diễn dịch lại bằng những gì mình quen biết, bị đặt tên, sắp loại và ghi lại. Vì thế sự vận hành của điều quen biết chính là kiến thức, và cố nhiên kiến thức, học vấn theo loại ấy thì đúng là một chướng ngại.

Giả thử như các ngài chưa từng đọc bất cứ quyển sách nào về tôn giáo hoặc về tâm lý, và các ngài lại phải tìm ý nghĩa của đời sống. Vậy các ngài sẽ bắt đầu thế nào? Giả thử như không có bất cứ vị đạo sư nào hiện hữu trên đời, không có bất cứ tổ chức tôn giáo nào, không có Phật, không có Chúa, và các ngài lại phải bắt đầu lại ngay từ đầu. Vậy các ngài sẽ làm sao? Trước tiên, các ngài phải hiểu tiến trình tư tưởng của các ngài, phải thế không? Chứ không phải tự vẽ vời phóng ảnh, tự phóng hiện bản thân mình ra bên ngoài, phóng ngoại tư tưởng các ngài trong tương lai và tạo ra một thượng đế khả dĩ thỏa mãn được mình, làm như vậy thì quá trẻ con. Trước tiên các ngài phải lý hội tiến trình suy tưcủa các ngài. Đó là đường lối duy nhất để khám phá bất cứ sự mới lạ nào. Phải thế không? Khi chúng ta nói rằng học vấn hoặc kiến thức là một trở lực, một sự chướng ngại, chúng ta không kể cả kiến thức có tính cách kỹ thuật chuyên môn – như việc học cách lái xe, học cách sử dụng máy móc – hoặc không kể đến hiệu năng mà kiến thức ấy đã mang đến cho con người. Lúc nói về kiến thức và học vấn, chúng ta muốn nói đến mộc điều khác hẳn: chúng ta muốn nói đến cảm thức về một thứ hạnh phúc sáng tạo mà dù có kiến thức thông thái uyên bác tới đâu đi nữa cũng không thể mang đến niềm hạnh phúc ấy cho ta được. Có được tinh thần sáng tạo, đúng nghĩa là sáng tạo, là giải thoát khỏi quá khứ trong từng giây phút một, từ giây phút này đến giây phút khác, vì chính quá khứ đã thường xuyên ám bóng hiện tại. Chỉ đeo bám vào tin tức, vào kiến thức thông tin, vào những kinh nghiệm của kẻ khác, vào những gì người ta nói, dù người ta có vĩ đại đến đâu đi nữa; đeo bám vào lời nói của họ, rồi cố gắng qui hướng hành động mình y theo lời nói, lời dạy ấy – tất cả những thứ này là kiến thức phải thế không? Nhưng muốn khám phá bất cứ sự mới lạ nào, các ngài phải bắt đầu ngay tại bản thân; các ngài phải lên đường hoàn toàn trần truồng trơ trụi, nhất là trơ trụi về kiến thức, bởi vì muốn có kinh nghiệm qua kiến thức và tín ngưỡng là một việc quá dễ dàng; nhưng những kinh nghiệm này chỉ là sản phẩm của sự phóng hiện bản thân, do đó không thực và sai lầm. Nếu các ngài phải tự khám phá cho chính mình để hiểu bản chất của sự mới lạ, việc tích trữ chồng chất những điều quen cũ kỹ, nhất là kiến thức, là một việc vô ích phù phiếm, dù đó là kiến thức của ai đi nữa, của vĩ nhân đi nữa thì cũng hoàn toàn phù phiếm. Các ngài đã dùng kiến thức như là một phương tiện để tự phòng vệ, tìm an ninh, và các ngài muốn vững tâm rằng các ngài cũng có những kinh nghiệm y hệt đức Phật hoặc đấng Christ hoặc đấng X nào đó. Nhưng kẻ nào cứ mải miết tự phòng thủ bảo vệ bằng kiến thức thì kẻ ấy tất nhiên không phải là kẻ tìm chân lý.

Không có con đường nào dẫn đến sự khám phá chân lý. Các ngài phải lao vào trùng dương xa lạ, chưa ai thám hiểm, hành động như thế mà không ngã lòng, không phiêu lưu ngớ ngẩn. Khi các ngài muốn tìm đến sự lạ, khi các ngài đang hiện nghiệm bất cứ điều gì, tâm trí các ngài phải rất trầm lặng phải thế không? Nếu tâm trí các ngài chen chúc đầy ứ những sự kiện , kiến thức thì chính những thứ ấy sẽ tác động làm chướng ngại , không cho sự lạ xuất hiện; đối với phần đông chúng ta, điều khó khăn không thể vượt qua hiện nay là trí óc đã trở nên quá quan trọng, quá trọng đại đến nỗi trí óc luôn luôn có thể can thiệp quấy rối bất cứ điều gì mới lạ, với điều lạ nào có thể xảy ra đồng lúc với điều quen thuộc. Thế là kiến thức và học vấn là những chướng ngại đối với những kẻ thiết tha đi tìm sự lạ, đối với những kẻ thao thức muốn hiểu sự thể vượt ra bên ngoài thời gian.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
#29
TRC THC

(On Awareness)

HI: Skhác nhau gia trc thc (awareness) và ni quan (introspection) là gì? Ai trc thc trong strc thc?

KRISHNAMURTI: Chúng ta hãy khảo sát trước tiên vý nghĩa của sni quan – introspection. Nói vni quan, chúng ta mun nói vsnhìn li ni tâm mình, kho sát ni tâm mình. Ti sao mình li kho sát bản thân? Để mà ci thiện thăng tiến, để mà thay đổi, để mà biến đổi. Ngài kho sát nội tâm để mà trnên mt cái gì đó, nếu không thế thì ngài skhông mi miết bn bu vi vic ni quan y. Ngài skhông kho sát bn thân nếu ngài không có khát vng biến đổi, chuyn hóa, trnên mt cái khác hn hin thcủa ngài. Đó là lý do dthy ct nghĩa tại sao có vic ni quan. Tôi ni gin và tôi kho sát ni tâm, kho sát bản thân, để mà phá tan gii trừ cơn giận hoặc để mà biến đổi hoc biến chuyn sgin d. Khi nào mình còn khát vng biến đổi hoc biến chuyn những đáp ứng, nhng phn ng ca bn ngã, nghĩa là khi nào mình còn mun ni quan thì khi đó mình luôn luôn còn có cứu cánh trước mt, ri lúc nào cu cánh ấy không đạt tới được thì lúc y mình cm thy bun bc chán ma phin muộn. Do đó, sự nội quan thường khi hay đi đôi với ni bun bực chán chường. Tôi không biết rằng ngài có để ý mi khi ngài kho sát ni tâm, khi ngài nhìn vào tâm khm mình để thay đổi chuyn hóa bn thân thì ngay lúc y mt cơn buồn chán đã dâng tràn lấn áp tâm tư mình. Mình phi cm cchiến đấu với đợt sóng bun chán ln tràn ni tâm; ngài phi tkhám xét nội tâm luôn luôn để vượt qua tâm thái su mun ca mình vân vân. Sni quan là mt tiến trình liên tc không ngng vì đó là mt tiến trình chuyn hóa hin ththành ra mt sthkhác hn hin ti. Hiển nhiên đây đúng là những gì xy ra mi khi chúng ta kho sát ni tâm, mi khi chúng ta cm cúi chìm ngập trong hành động y. Tiến trình tích lũy luôn luôn hiện hữu trong hành động y, bn ngã kho sát mt sthể nào đó để biến chuyn sthể ấy, do đó sự xung đột lưỡng nguyên luôn luôn xut hin và to ra tiến trình vô vng phn chí. Không bao giđược mt li thoát nào c; và khi ý thức được sphn chí vô vng y, mình li bphin mun chán chường lấn áp tâm tư.

Trc thc – awareness – thì hoàn toàn khác hn. Trc thc là quan sát mà không kết án qui trách. Trc thức đem đến sgiao cm, bi vì lúc y không còn skết án phán xét, không còn tinh thần đồng hóa mà chcòn squan sát im lng. Nếu tôi mun hiu bt cvic gì thì tôi phi quan sát, tôi không nên chtrích phê phán, tôi không nên kết án , tôi không nên đeo đuổi nó vì nó đem đến skhoái lạc sung sướng hoc tôi không nên tránh nó vì nó đem đến sphin mun . Lúc y mình chnên quan sát skin mt cách im lng. Không nên đặt cứu cánh nào trước mt mà chnên có trc thc vmi sự đúng như là lúc phát khởi xut hin. Squan sát y và sthông hiu vic quan sát y schm dt mi khi mình phê phán kết án, đồng hóa, hoc bin minh. Sni quan là tci thiện, do đó nội quan chlà tính cách duy ngã, vk. Trc thc không phi là tci thin. Trái lại, đó là sự chm dt ca bn ngã, cái "tôi", chm dt luôn tt cnhững di tích đặc thù ca bn ngã, nhng knim hồi tưởng, nhng yêu sách đòi hi và nhng khát vọng đeo đuổi . Trong sni quan li có ctinh thần đồng hóa và sphê phán kết án. Trong strc thc không hcó tinh thần đồng hóa và phê phán kết án, do đó, không hề có stci thin. Có skhác nhau rõ rt gia ni quan và trc thc.

Knào mun ci thin bn thân thì không thnào có thý thức được, có thtrc thc được, bi vì sci thin ngý là sphê phán kết án và đạt ti mt kết quả nào đó. Trái li trong khi trc thc thì chcó squan sát mà không kết án phê phán, không phnhn hoc chp nhn. Strc thc kia bắt đầu khi phát vi nhng svt ngoi gii, khi ý thc trc tiếp vi nhng svt, với thiên nhiên. Trước tiên trc thc vnhng svt chung quanh mình khi nhy cảm đối vi nhng svt, vi thiên nhiên, ri với con người tc là giao cảm trong tương quan liên hệ, rồi đến trc thc vnhng ý tưởng. Trc thc là nhy cảm trước nhng svật , trước thiên nhiên, trước con người, trước nhng ý tưởng, strc thc này không phi gm có nhng tiến trình ly cách nhau mà chlà mt tiến trình duy nhất. Đó là sự quan sát thường xuyên đối vi mi svật, đối vi mọi tư tưởng, cảm giác và hành động, mi khi nhng thứ ấy phát hin trong ni tâm mình. Vì strc thc không có tính cách kết án phê phán, cho nên không có stích lũy tâm thức. Ngài chphê phán khi ngài có mt tiêu chun, nghĩa là có stích lũy tâm thức, do đó, có cả sci thin bn ngã.

Trc thc là hiu nhng sinh hot ca bn ngã, của cái "tôi", trong tương giao với con người, vi nhng ý tưởng và vi nhng svt. Trc thc y xy ra từ giây phút này đến giây phút khác, vì thế mình không ththc hành tôi luyn trc thức được. Khi ngài thc hành tôi luyn một điều gì đó thì điều y trnên mt thói quen, và trc thc không phi là thói quen. Trí óc knào bị vướng trong thói quen thì không thnào nhy cảm được, trí óc y chỉ tác động sinh hot trong khuôn mòn li cũ của một hành động đặc thù nào đó, trí óc y trnên nht nhẽo, đần độn không uyn chuyn, trái li trc thức đòi hi mình phi uyn chuyển linh động thường xuyên . Điều này không hn khó hiu. Mình thường uyn chuyển linh động thc tnh mi khi mình thc sự lưu tâm say mê một svic gì đó, như mỗi khi mình chú tâm ngm nhìn đứa con ca mình, vmình, cây c, cây lá, chim chóc. Mình quan sát mà không kết án, không có tinh thần đồng hóa ; do đó, trong sự quan sát y, mình đạt ti sgiao cm trn vẹn; người quan sát và vật được quan sát đều hoàn toàn nm trong sgiao cm. Skiện này thường xy ra trong thc tế mi khi mình để ý chú tâm đến mt vic gì mt cách thâm trm sâu thm.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
#30
Vì thế, có mt skhác nhau triệt để gia trc thc và sci thin phóng ngã ca ni quan. Sni quan chdẫn đến sphn chí tuyt vọng, đưa đến nhiều xung đột sâu xa rng ln hơn nữa; trái li trc thc là mt tiến trình gii phóng khỏi tác động ca bn ngã; đó là ý thức trực tiếp về những cử chỉ vận hành của mình trong đời sống thường nhật, về tư tưởng của mình, về hành động của mình và ý thức trực tiếp về người khác, quan sát hắn, để ý chú tâm đến hắn. Mình chỉ có thể làm được như vậy khi mình yêu một người nào đó, khi mình để ý chú tâm sâu sắc đến một việc gì đó; khi mình muốn tự hiểu mình, toàn thể hiện tính của mình, trọn vẹn nội dung của bản thể, chứ không phải chỉ một đôi tầng lớp ý thức nông cạn, lúc ấy thì hiển nhiên không thể còn có sự kết án qui trách nữa. Lúc ấy, tôi phải cởi mở đón nhận tất cả tư tưởng , cởi mở đón nhận tất cả mọi cảm giác xúc động, cởi mở đón nhận tất cả mọi cảm trạng tâm thức , cởi mở đón nhận tất cả mọi sự áp chế bức bách tinh thần, và khi mình có được trực thức phát rộng ra bao la, mình lại càng được tự do rộng rãi hơn nữa để thoát khỏi sự vận hành kín đáo của những tư tưởng, của những động lực và của những sự truy cầu tìm kiếm. Trực thức là tự do, trực thức đem đến tự do, tạo tác ra tự do trái lại sự nội quan chỉ tăng trưởng sự xung đột , tiến trình của sự đóng nhốt bản thân, do đó, luôn luôn vẫn là sự phẫn chí và sợ hãi hiện hữu trong tiến trình ấy. Người đặt câu hỏi cũng muốn biết chủ thể của sự trực thức là ai. Khi ngài trải qua bất cứ kinh nghiệm nào sâu thẳm, thì cái gì xảy ra ? Khi ngài trải qua kinh nghiệm như thế, ngài có ý thức trực tiếp rằng ngài đang trải qua kinh nghiệm? Khi ngài nổi giận ngay trong khoảnh khắc nổi giận ấy hoặc ghen tuông hoặc vui sướng ngài có ý thức trực tiếp rằng ngài đang vui hoặc ngài đang giận? Chỉ đến lúc nào kinh nghiệm đã chấm dứt rồi thì mới hiện hữu người kinh nghiệm và điều kinh nghiệm. Rồi lúc ấy, người kinh nghiệm quan sát điều kinh nghiệm, đối tượng của kinh nghiệm. Ngay vào lúc kinh nghiệm không hề có người quan sát và cũng không có điều được quan sát; chỉ có sự hiện nghiệm thôi. Phần đông chúng ta không hề hiện nghiệm. Chúng ta luôn luôn đứng bên ngoài trạng thái hiện nghiệm; do đó, chúng ta mới đặt câu hỏi về chủ thể của người quan sát, như câu hỏi “ai có trực thức ?” Hiển nhiên câu hỏi như vậy là một câu hỏi sai, phải thế không? Vào lúc xảy ra hiện nghiệm, không có người ý thức, cũng không có đối tượng mà hắn ý thức. Không có người quan sát và cũng không có đối tượng quan sát mà chỉ có trạng thái hiện nghiệm. Hầu hết chúng ta đều cảm thấy vô cùng khó khăn khi sống trong trạng thái hiện nghiệm, bởi vì việc ấy đòi hỏi mình phải uyển chuyển phi thường, nhanh nhẹn, đạt tới một cấp độ nhạy cảm cao sâu; và điều này không thể thực hiện được khi mà chúng ta đang đeo đuổi một kết quả nào đó, khi chúng ta muốn thành công, khi chúng ta có một cứu cánh trước mặt, khi chúng ta đang tính toán – tất cả những thứ này đều đem đến sự phẫn chí tuyệt vọng.

Kẻ nào không đòi hi bt cứ điều gì c, knào không tìm kiếm mt cứu cánh, không đi tìm cu cnh mt thành quvi tt cngnghĩa chứa đựng trong thành quả ấy, kẻ ấy mi sng trong trng thái hin nghiệm thường xuyên. Lúc y, mi smi vn chuyn mi mang mt ý nghĩa; không có gì cũ kỹ c, không có gì là lp li nhàm chán c, bi vì hin ththì không bao gicũ cả. Sthách thc của đời sng vn luôn luôn mi l. Chcó sự đáp ứng ca mình đối vi thách thc kia là cũ thôi; sự cũ kỹ kia to ra du vết còn li, tc là ký ức người quan sát, ktphân cách mình ra ngoài điều quan sát, phân cách mình ra ngoài sthách thc, ngoài kinh nghim. Ngài có ththí nghiệm điều này, tthnghim ly mt cách rt gin dvà mt cách rt ddàng. Ln sau, mi khi ngài ni gin hay ghen tuông hay gian tham hay bạo động hay bt ctrong tâm trng nào, ngài hãy ngm nhìn bn thân, tngm nhìn mình. Trong trng thái y, “ngài” không hin hu. Lúc y, chcó trng thái hin thể thôi. Sau đó, một giây phút sau, khi ngài đặt tên , gi danh tâm trng mình, ngài gi nó là sghen tuông, sgin d, lòng gian tham; thế là ngài đã lp tc tạo ra người quan sát và điều được quan sát, người thnghiệm và điều được thnghiệm. Khi có người kinh nghiệm và điều được kinh nghim thì lúc ấy người kinh nghim cgng biến chuyn kinh nghiệm, thay đổi nó, nhớ tưởng bao nhiêu vic vkinh nghim ấy vân vân, do đó, mình đã duy trì gili sphân chia gia bản thân và điều được thnghim. Nếu ngài không gi tên cm giác y – có nghĩa là ngài không tìm kiếm mt kết qu, ngài không kết án phê phán, ngài chim lng ý thc trc tiếp vcm giác kia – lúc y ngài sthy rằng không có người quan sát và điều được quan sát trong cm trng y, bi vì người quan sát và điều quan sát chlà mt hiện tượng đồng nht liên hp vì thế chcó shin nghim thôi.

Thế là sni quan và strc thức đều hoàn toàn khác nhau. Sni quan dẫn đến sphn chí tuyt vng, dẫn đến thêm nhiều xung đột tranh chp, vì sni quan ngụ đựng ý nghĩa ca lòng thèm khát thay đổi và sự thay đổi chlà sliên tc biến dng. Trc thc là trng thái không còn sphê phán, sbiện minh hay đồng hóa, do đó, mới thc hiện được sgiao cm trong trng thái trc thc tiêu cực linh động, không còn có người thnghim, cũng chẳng có điều được thnghim.

Sự nội quan chính là một hình thức của sự tăng trưởng bản ngã, bành trướng bản ngã và không bao giờ có thể dẫn tới chân lý, bởi vì đó luôn luôn là một tiến trình bưng bít bản thân; trái lại, trực thức là một trạng thái mà chân lý có thể thành hình được, chân lý của hiện thể, chân lý đơn giản của cuộc hiện hữu thường nhật. Chỉ khi nào chúng ta hiểu được chân lý đời sống thường nhật thì chúng ta mới có thể đi xa được. Ngài phải bắt đầu ngay những gì gần bên mình thì mới đi xa được, nhưng phần đông chúng ta đều muốn nhảy vọt thật nhanh, muốn đi thật xa mà không hiểu được những gì gần nhất bên mình. Khi chúng ta hiểu được những gì gần gũi nhất bên mình thì chúng ta sẽ thấy rằng không có khoảng cách giữa xa và gần. Không có khoảng cách – sự bắt đầu và sự chấm dứt chỉ là một thôi.
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore