Tam Quy, Ngũ Giới
#1
Giải Thích Về Hệ Thống Tượng Phật Ở Trong Chùa 

Nguyễn-Đức-Can 

--- o0o ---

Ở VN ta các chùa thường hay thờ Phật, thờ Tổ, thờ Thánh. Nhờ Phật độ nên mỗi năm tôi về VN một lần, mà lần nào tôi cũng đi từ Nam ra Bắc hầu hết thời gian tôi đều dành cho việc đi tham quan các chùa, do đó tôi thấy: Cách bài trí các tượng chư Phật, chư Bồ Tát, ở trong chùa tuy cũng có công thức và ý nghĩa rõ ràng, nhưng vì xưa nay không có sách vở nào ghi chép cho tinh tường. Do đó người ta mỗi khi bước chân vào chùa không phân biệt được pho tượng nào thờ vị nào. Nay ta muốn biết rõ, trước hết phải phân biệt tượng thờ chư Phật, tượng thờ chư Bồ Tát. Dưới đây tôi chỉ trả lời câu hỏi nêu trên, không giải thích về sự thờ Thánh của một số chùa ở VN. 

Ở trong chánh điện thờ Phật, chỉ có cái ý thờ Phật mà thôi, nhưng Phật có tam thân là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân. Cách bài trí các tượng Phật ở chánh điện theo đúng ý nghĩa ấy cho nên ở lớp trên cùng là thờ Pháp thân Phật, tức là thờ thường trụ Phật ở trong vũ trụ; Ở lớp thứ hai thờ Báo thân Phật, tức là thờ Thụ-dụng trí-tuệ Phật ở cõi cực lạc; ở lớp thứ ba là thờ Ứng thân Phật, tức là thờ Phật đã hoá hiện ra sác thân ở trần thế. Từ lớp thứ tư trở xuống bày những cảnh quan hệ đến lúc sơ sinh của đức Thích Ca Mầu Ni Phật và những tượng các vị thần khác. 

Vậy cách bài trí các tượng ở chánh điện từ trên xuống dưới theo thứ tự sau đây:

A)-Tượng Tam Thế Phật.- Lớp trên cùng tột ở chỗ giáp vách phía trong, có ba pho tượng để ngang một dẫy, hình dáng giống nhau, tức là tượng "Thường trụ tam thế diệu pháp thân", người ta thường gọi tắt là tượng Tam thế Phật, nghĩa là Phật thường trụ, trong thời gian quá khứ, hiện tại và vị lai.

B)-Tượng Di-Đà tam tôn.- Lớp thứ hai có ba pho tượng lớn, pho tượng ngồi giữa là pho tượng đức A-Di-Đà Phật, tức là Thụ-dụng Trí-tuệ thân, Pho tượng đứng bên tả là tượng đức Quan-Thế-Âm Bồ Tát, pho tượng đứng bên hữu là tượng đức Đại Thế-Chí Bồ-Tát. Đức Phật và hai Bồ Tát ấy ở Tây-phương Cực-lạc, chủ việc cứu độ chúng sinh ở cõi Sa-bà qua cõi Cực lạc.

C)-Tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh.-Lớp thứ ba có ba pho tượng lớn, pho tượng lớn ngồi giữa là tượng Thích Ca Mầu Ni Phật, tức là Ứng- thân hay là biến hóa thân, giáng sinh xuống trần thế, tu thành chính quả và thuyết pháp độ chúng, pho tượng ở bên phải, hoặc đứng trên toà sen , hoặc ngồi trên con sư tử xanh là tượng Đức Văn-Thù Bồ-Tát; pho tượng ở bên hữu, hoặc đứng trên toà sen, hoặc ngồi trên con voi tráng là tượng Đức Phổ-Hiền Bồ-Tát, theo thuyết nói trong Hoa Nghiêm kinh.

Ở lớp thứ ba ấy có nhiều chùa làm tượng đức Thích Ca Mầu-Ni ngồi cầm hoa-sen, như khi ngài thuyết pháp ở Linh-Thứu-Sơn; bên tả là tượng Ca-Diếp Tôn-Giả, vẻ mặt già, bên hữu là tượng A-Nan-Đà tôn giả, vẻ măt trẻ, là hai đại đệ tử của Đức Thích-Ca khi ngài còn ở thế-gian. Tượng hai vị tôn giả ấy đều tạc đứng, hình dáng hai người tỳ khưu.

D)-Tượng Cửu Long.- Lớp thứ tư có pho tượng Cửu Long để giữa. Tượng này theo điển nói khi đức Thích Ca Mầu Ni mới giáng sinh, có chín con rồng xuống phun nước cho ngài tắm, đoạn ngài đi bẩy bước tay tả chỉ lên trời, tay hữu chỉ xuống đất mà nói rằng: "Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn. Trên trời, dưới đất, chỉ có ta là quí hơn cả" Bởi vậy tượng Cửu-long làm chín con rồng vây bọc chung quanh và ở trên những đám mây có chư Phật chư thiên, nhã nhạc, cờ phướn và bát bộ Kim Cương, ở giưã có pho tượng nhỏ, đứng một tay chỉ lên trời và một tay chỉ xuống đất, đó là tượng Bổn Sư Thích Ca Mầu Ni Phật lúc sơ sanh. (Ý nghĩa ngày Đản Sinh, tôi đã viết và phổ biến trong cuốn sách "Tôn Giáo và Dân Tộc", cũng có trên Internet và một số báo). Bên tả tượng Cửu Long có tượng Đế Thích ngôi ngai, mặc áo đội mũ Hoàng Đế, bên hữu có tượng Đại Phạm Thiên cùng một kiểu như pho tượng Đế Thích, đó là theo điển nói hai vị Đại Thiên Vương này chủ-tế ở cõi sa-bà thế-giới và lúc nào cũng hộ trì Đưc Thiùch - Ca khi ngài chưa thành Phật.

Những chùa thường, ở trong điện thờ Phật, chỉ bầy có thế mà thôi. còn những chùa rộng lớn thì bầy thêm hai lớp tượng nữa là:

E)- Tượng Tứ Thiên-Vương.- Ở ngoài tượng Cửu Long để bốn pho tượng Tứ-Thiên-Vương mạc áo Vương-phục, bày làm hai dẫy đối nhau, tức là bốn vị hộ thế.

F)-Tượng tứ Bồ Tát.- Có chùa bỏ tượng Tư-Thiên-Vương mà bày tượng bốn vị Bồ-Tát, tạc hình Thiên-thần gọi là Ái-Bồ-Tát, tay cầm cái tên; Sách Bồ-Tát, tay cầm cái cây; Ngũ Bồ-Tát, tay cầm cái lưỡi; Quyền Bồ-Tát tay nắm lại và để vào ngực.

G)- Tượng Bát-Bộ Kim-Cương.- Có nhiều chùa tạc 8 vị Kim-Cương, là thần tướng trên trời, thường gọi là Bát-bộ Kim-Cương gồm có :

1)-Thanh Trừ Tài Kim-Cương.
2)-Tích-Độc-Thần Kim-Cương.
3)-Hoàng-Tuỳ-Cầu Kim-Cương.
4)-Bạch-Tĩnh-Thủy Kim-Cương.
5)-Xích-Thanh-Hoả Kim-Cương.
6)-Định-Trừ-Tai Kim-Cương.
7)-Tử-Hiền Kim-Cương.
8)-Đại-Thần-Lực Kim-Cương.

Bốn vị Bồ-Tát và Tám vị Kim-Cương này, theo điển tích ở trong các kinh thi có nhiều thuyết khác nhau, xong đại ý là nói những bậc thần đã phát Bồ-Đề Tâm, đem thần lực mà hộ-trì Phật Pháp.

SƠ QUA VỀ CÁC VỊ BỒ TÁT

Định nghĩa Bồ Tát: BỒ TÁT (Bodhisattva), Tên đầy đủ là Bồ-đề-tát-đoá, còn gọi là Bồ-đề- tác-đóa, Ma- ha- đế- tác- đóa. Cũ dịch là Đại đạo tâm chúng sinh, Đạo chúng sinh.v..v. mới dịch là đại Giác hữu tình, Giác hữu tình....nghĩa là người có đại tâm cầu đạo. Các vị đại Bồ Tát đối với trên thì cầu được đạo Phật, đối với dưới thì cầu giáo hoá chúng sinh. Chư Bồ Tát khi mới phát tâm, ai nấy đều phát nguyện bốn đều thề lớn său đây, sau này gọi là tứ hoằng-thệ: 

1)-Chúng sanh vô biên, thề nguyện độ. Thề xin độ hết thẩy chúng sanh vô biên. Ấy là lấy Khổ- đế làm duyên mà phát thệ.

2)-Phiền não vô số thề nguyện đoạn. Thề xin dứt hết phiền não vô số. Ấy là lấy Tập- đế làm duyên mà phát thệ.

3)-Pháp môn vô tận, thề nguyện học. Thề xin học hết pháp môn vô tận. Ấy là lấy Đạo- đế làm duyên mà phát thệ. 

4)-Phật-đạo vô-thượng thề-nguyện thành. Thề xin thành đạo Phật vô thượng. Ấy là lấy Diệt-đế làm duyên mà phát thệ.

Đối với tâm thân mình, chư Bồ Tát phát bốn điều nguyện lớn sau đây:

1)-Tâm như đại đại. Nguyện cái tâm mình như đất lớn, để nuôi lớn chúng sinh cho được thành chánh quả.

2)-Tâm như kiều thuyền. Nguyện cái tâm mình như cái cầu, cái thuyền để đưa chúng sinh sang bến bên kia.

3)-Tâm như đại hải. Nguyện cái tâm mình như bể lớn, để nuôi chứa chúng sinh trong chỗ chân nguyên (mối đầu chân thật phát sinh ra vạn vật).

4)-Thân như hư không. Nguyện cái thân mình như hư không bao hàm hết thẩy vạn vật, cùng với chúng sinh bình đảng vô nhi.

Đối với chúng sinh, chư Bồ Tát phát bốn điều thệ nguyện lớn như sau:

1)-Vị độ giả, linh độ. Ai chưa được độ, thì khiến được độ.

2)-Vị giải giã, linh giải. Ai chưa hiểu, thì khiến được hiểu.

3)-Vị an giả, linh an. Ai chưa được an, thì khiến được an.

4)-Vị Niết-bàn giả, linh niết bàn. Ai chưa được niết-bàn thì khiến được niết bàn.

Trên đây tôi chỉ dẫn giải một số hạnh nguyện chính của các vị Bồ-Tát, tôi không đi sâu vào Hạnh nguyện của từng vị, mỗi vị có một hạnh nguyện khác nhau như:

Di Lạc Bồ Tát: Di-Lạc Bồ Tát tiếng Phạn gọi là Maitreya Bodhisattva phiên dịch ra, theo nghĩa thì gọi là A-Dật-Da (Adjita), căn cứ theo lời Thích Ca Mầu Ni nói ra khi ngài thuyết pháp, thì hiện nay Đức Di-Lạc Bồ-Tát còn ở trên tầng trời Đầu-Suất, đợi đến ngày giáng ainh làm người ở trần gian để tu thành Phật, tức là một vị Phật tương lai nối sau đức Thích-Ca Mầu-Ni Vậy.

Đức Di-Lạc Bồ-Tát tuy lúc chưa thành Phật vẫn lấy lòng từ bi mà phổ độ chúng sinh cho nên người ta thờ Ngài cũng như thờ một vị dã thành Phật. Thường ở chùa người ta thờ Đức Di-Lạc ngồi giữa, bên tả có Đức Pháp-Hoa-Lâm Bồ Tát, bên hữu có đức Đại Diệu Tướng Bồ Tát, gọi chung là Di-Lạc tam tôn.

Có sách chép đức Di-Lạc Bồ-Tát ở trên tầng trời Đầu Suất xuống giảng thuyết: "Phi không phi hữu, trung đạo diệu lý" làm ra sách Du-già-sư-địa-luận, truyền cho Vô-Trước Bồ-Tát (Asangha) ở đất Ấn Độ. Sách ấy là sách cốt yếu của phái Du-Già, tức là một phái chuyên bàn về cái tông chỉ Duy-Thức. Những kinh nói về đức Di-Lạc Bồ-Tát, có bộ Di-Lạc bản kinh, Di-Lạc thượng-sinh kinh nói: Ngài sinh lên cõi trời; Di-Lạc hạ sinh kinh nói Ngài sẽ sinh xuống trần thế; Di-Lạc đại thành Phật kinh; nói lúc Ngài sẽ thành Phật.

Quán-Thế-Âm Bồ-Tát: Kinh Pháp Hoa nói : Khổ-não chúng sinh, nhất tâm xưng danh, Bồ Tát tức thị quan kỳ âm thanh, giai đác giải thoát. Dĩ thị danh Quán-Thế -Âm, những chúng sinh bị khổ não mà nhất tâm đọc đến Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, tức thì ngài nghe âm thanh của chúng sinh mà độ cho được giải thoát. Bởi thế gọi tên ngài là Quán-Thế-Âm.

Đức Quán-Thế-Âm mà có cái danh hiệu ấy là do một đức Phật đã thụ-ký cho Ngài, cho nên chính Ngài đã nói trong Kinh-Lăng-Nghiêm: "Về vô số kiếp đời xưa có Đức Phật ra đời hiệu là Quán-Thế-Âm Như Lai. Ta đến trước Phật mà phát Bồ-Đề tâm. Phật dậy ta theo ba phép: Văn, Tư, Tu, nghĩa là nghe lời giảng dậy, suy nghĩ về đạo lý, và tu hành mà vào tam-ma-đề (Samadhi). Phật khen ta chóng được viên-thông pháp-môn và tức thì ở ngay chỗ đại hội thụ-ký cho ta cái hiệu là Quán-Thế-Âm". Như thế Ngài được lấy cái danh hiệu của Bản-Sư làm danh hiệu của Ngài.

Đại-Thế-Chí Bồ-Tát: Đại-Thế-Chí Bồ-Tát tiếng Phạn là (Mahasthanaprâta Bodhisattva), cùng với Quán-Thế-Âm cùng phụ giúp Đức Phật A-Di-Đà để tế độ chúng sinh. Trong kinh Lăng-Nghiêm có nói: "Về vô số kiếp đời xưa, có Đức Phật hiệu là Siêu-Nhật-Nguyệt Quang-Như-Lai ra đời, dậy ngài tu phép niệm Phật tam muôi, thu cả lục căn là: nhãn, nhỉ, tỵ, thiệt, thân, ý, định tâm chuyên nhất về việc niệm Phật, bởi thế tâm khai, ngộ đạo viên-thông được danh hiệu là Đại Thế Chí".

Trong Kinh Quán Vô-Lượng-Thọ, tán thán công đức của đức Đại-Thế-Chí Bồ-Tát rằng: "Ngài đem ánh sáng trí-tuệ soi khắp hết thẩy, khiến chúng sinh đều thoát khỏi ba nơi ác-đạo, mà cái sức mạnh vô thượng". Bởi cái công đức của Đại-Thế-Chí to lớn như thế, cho nên Vân-Thế thiền sư làm bài Tán -Định Tây- Phương Nguyện-Văn "Đức Phật A-Di-Đà với Đức Phật Quan-Thế-Âm và đức Đại-Thế-Chí cùng các đấng hiền thánh, phóng hào quang ra mà tiếp dẫn chúng sinh giắt tay đề huề, chỉ trong một khắc là người mệnh chung được về cõi cực lạc". Vì thế ở các chùa người ta trưng bầy Tượng đức Đại-Thế-Chí và Đức Quan-Thế-Âm đứng hai bên tả hữu đức A-Di-Đà gọi là hai vị Nhiếp-Sĩ.

Hiện nay ở Bắc Việt, chùa Tây Phương, thuộc phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây có pho tượng Tuyết sơn, tạc rất khéo, và chùa Bút Tháp thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bác Ninh có pho tượng Tuyết Sơn cũng rất mỹ thuật. hai pho tượng ấy thật rất đáng chiêm ngưỡng. Trong dịp tôi đến vãng cảnh chùa Đậu thuộc Quận Thường Tín, tỉnh Hà Đông, cách Hà-Nội có 25 cây số về phía nam, có hai pho tượng đặc biệt đó là hai vị: Vũ Khắc Minh và Vũ khắc Trường hai chú cháu đều tu đắc đạo cách đây trên 300 năm, hiện toàn thân xá lợi đang thờ tại chuà Đậu, mà du khách trong nước cũng như quốc tế đều tìm đến chiêm ngưỡng, Cũng tại chùa Đậu tôi còn thấy thờ ở nhà hành lang có 18 vị A-La-Hán ở hai bên dẫy nhà Hành lang. -Chi tiết, địa danh và di tích lịch sử của ngôi chùa Đậu tôi đã phổ biến trên website ở Mỹ, Úc, Ấn-Độ và in trong cuốn sách "Trở về cội nguồn" xuất bản năm 2000, do nhà xuất bản "Văn Nghệ" phát hành và hiện có ca cuốn sách "Tôn Giáo và Dân Tộc" mới phát hành 2004, nếu muốn đọc xin mở: http://www.*******hoasen.org roi tim chu Index bấm vào do xong nó sẽ ra chữ "tác giả và dịch giả" bấm vào đó sẽ tìm chữ "Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can", bấm vào đó sẽ có cả 2 quyển sách này đủ các bài trong đó.

Quangduc.com
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#2
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CHUÔNG TRỐNG BÁT NHÃ

Thích Giác Duyên
--- o0o ---



Chuông trống là một trong các loại pháp khí của Phật giáo. Sở dĩ gọi là Bát-nhã (phiên âm của chữ “prajnaa” (S) có nghĩa là “trí tuệ”) vì công năng của chúng là để thức tỉnh lòng người, có khả năng đánh động tâm linh của người nghe. Chuông Trống Bát-nhã là danh từ chung để chỉ cho đại hồng chung (chuông rất lớn) và trống lớn, thường được đặt hai bên trái phải của chánh điện, theo cách “tả chung hữu cổ” nghĩa là bên trái đặt chuông, bên phải đặt trống. Nhiều chùa còn xây tháp an trí chuông và trống, nên nơi đặt chuông trống là “lầu chuông trống”. 

I. Nguồn gốc và ý nghĩa của tiếng Chuông 

Nhiều nguồn tài liệu khác nhau đều cho rằng quá trình đưa chuông vào tự viện và được sử dụng rộng rãi trong các chùa chiền Trung Quốc vào thời kỳ nào không được xác định. Tuy nhiên, như sử liệu ghi lại chuông đã được sử dụng vào thời nhà Chu (557 trước TL- 89 TL). Phật giáo Trung Hoa đã đưa Chuông và Trống vào các tự viện năm nào và do ai đề xướng, hiện nay chúng tôi chưa tìm ra tài liệu. Tài liệu về lịch sử của chuông và trống Bát-nhã quả thật là quý hiếm. Tuy nhiên, chúng tôi dựa vào một số tài liệu sau để tạm truy nguyên nguồn gốc của chúng. 

Cuốn Quảng Hoằng Minh Tập (số 2103) trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh ghi rằng vào thời Lục Triều (420 - 479) đã có nhiều lầu chuông. Năm Thiên Hoà thứ 5 (566) đời Bắc Châu, bài Nhị Giáo Chung Minh được khắc trên ba đại hồng chung lớn nhất thời bấy giờ. Hai cái trong 3 cái này được đúc vào năm 570 và 665 TL. 

Tục Cao Tăng Truyện có ghi năm thứ 5 đời Tuỳ Đại Nghiệp (609), ngài Trí Hưng nhận lo việc chuông tại chùa Thiền Định ở kinh đô Trường An. Trong khoảng thời gian này và trở về sau, Bắc Châu không ngừng đúc hồng chung để an trí trong các tự viện. 

Lại nữa, theo truyền thuyết cho rằng hồng chung là do Hoà Thượng Chí Công khởi xướng và vua Lương Võ Đế (thế kỷ thứ VI) thực hiện để cầu nguyện cho các thần thức bị đọa trong chốn địa ngục mà người Hoa gọi là chốn U Minh. 

Có hai loại chuông thường được sử dụng trong các chùa chiền, tự viện như sau: 

Phạn Chung (chuông Phạn): Cũng gọi là “đại chung”, “hồng chung”, “hoa chung” hoặc “cự chung”. Chuông này được đúc bằng đồng xanh pha ít sắt. Thông thường chuông cao khoảng 1,5m, đường kính khoảng 6 tấc. Loại này treo trong lầu chuông, mục đích thỉnh chuông là để chiêu tập đại chúng hoặc báo thời sớm tối. Người Việt mình thường dùng từ “đại hồng chung” chỉ cho loại chuông thật to, gần như không còn có quy định cụ thể là rộng hẹp bao nhiêu nữa. Chuông này còn gọi là chuông U Minh. 

Bán chung (chuông bán): Vì chiều kích chỉ lớn bằng 1/2 chuông phạn, nên gọi là bán chung, còn được gọi là “hoán chung” hoặc “tiểu chung.” Chuông này thường được đúc bằng đồng, cao khoảng 6 đến 8 tấc, thường để tại 1 góc trong chánh điện và được sử dụng trong các buổi pháp hội, nên còn có tên khác là “ hành lễ chung.” Người Việt Nam cũng như các nước khác ngày nay cũng linh động chế tạo nhiều loại chuông dạng “bán chung” này, nhưng cũng không có kích thước cố định. 

Về thỉnh chuông, xưa ở Trung Quốc tuỳ mỗi Tông phái, từng địa phương mà quy định có khác nhau, nhưng tổng quát là khi bắt đầu thỉnh 3 tiếng và khi kết thúc đánh nhanh 2 tiếng hoặc 3 hồi chín tiếng cho các loại chuông nhỏ khi tụng kinh. Số lượng tiếng thường là 18, cũng có khi thỉnh 36 tiếng, 108 tiếng. Thỉnh 108 tiếng biểu thị hành giả nỗ lực làm vơi cạn đi 108 loại phiền não nơi nội tâm. Mười tám tiếng là biểu thị sự thanh lọc 6 căn, 6 trần và 6 thức. 

Ngoài ra, trong thời cực thịnh của Thiền Tông, chuông an trí tại thiền đường, trai đường gọi là “chuông tăng đường”, “chuông trai”; chuông để tại chánh điện gọi là “chuông điện”… Những vị lo việc chuông này gọi là “chung đầu.” 

Theo niềm tin cho rằng tiếng vang của chuông có thể thấu đến cõi địa ngục u ám, chúng sanh nào bị đọa nơi địa ngục nhờ nghe tiếng chuông này liền được giải thoát. Lại nữa, tiếng chuông thanh thoát của chùa có thể giúp cho loài quỷ đói được nhẹ bớt lòng tham lam, sân hận mà giải thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Ở các ngôi chùa Việt Nam hiện nay cũng như các chùa Trung Quốc thời xưa hoặc các chùa thuộc các nước theo Phật giáo Đại Thừa như Nhật Bản, Triều Tiên. ...thường có quả chuông lớn để thỉnh vào hai buổi sáng tối trong ngày khi cầu nguyện. Giờ thỉnh chuông buổi sáng lúc 4 giờ hoặc trước thời công phu buổi sang, tuỳ theo quy định của mỗi chùa. Người thỉnh chuông vừa đánh chuông vừa đọc bài kệ: 

Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới, 
Thiết vi u ám tất giai văn. 
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông, 
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác. 


Nghĩa là: 

Nguyện tiếng chuông này khắp pháp giới, thiết vi u ám cùng nghe được, căn cảnh thanh tịnh chứng viên thông, hết thảy chúng sanh thành chánh giác. (Bản dịch của Hòa Thượng Trí Quang, LUẬT SA-DI, SA-DI-NI, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, 1989). 

Dịch thơ: 



Nguyện tiếng chuông vang rền pháp giới 
Chúng sanh ngục Sắt thảy đều nghe 
Tiếng đời sạch, chứng được viên thông 
Tất cả muôn loài đều giác ngộ. 

(Thích Nhật Từ dịch) 



Tiếng chuông nguyện vang rền các cõi 
Núi Thiết Vi tăm tối nghe hay 
Âm thanh đời lắng sạch thay 
Chúng sanh giác ngộ, tỏ bày an nhiên. 

(Thích Nhật Từ dịch) 

II. Nguồn Gốc của Mõ và ý nghĩa 


Theo sách Tam Tài Đồ Hội của Vương Tích đời Minh có đoạn: “Mõ là loại mà dùng cây khắc thành hình con cá, rỗng bên trong, gõ nó sẽ phát ra tiếng, các hàng Phật tử khi tán tụng đều dùng đến nó.” 

Mõ có 2 loại: 

Loại hình con cá dài thẳng treo ở nhà kho, nhà ăn…khi đến thời dùng cơm cháo thì gõ nó để báo hiệu. Loại mõ này chỉ dùng trong các chùa cổ Trung Quốc; các chùa chiền, tự viện ở Việt Nam không dùng. 

Loại hình con cá có vảy cuộn tròn, khi tụng Kinh thì gõ. Loại này cả Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên đều dùng. Loại mõ này được nói là xuất hiện thuộc triều đại nhà Minh, Trung Hoa. 

Theo sách Tham Thiền Ngũ Đài Sơn Ký (quyển 3), Tống Thần Tông, Hy Ninh năm thứ 5 ngày mồng 8 tháng 8 ghi: Trong chùa Thanh Thái có thờ tượng ngài Phó Đại Sĩ. Mỗi khi Ngài muốn gặp các vị tu hạnh đầu-đà nơi cao sơn, chỉ gõ mõ, chư vị sau khi nghe tiếng mõ ấy liền đến. Sau đó, các tự viện lớn nhỏ dưới chân núi đều dùng mõ để tập họp đại chúng. Lại có người cho rằng mõ là do Sa-môn Chí Lâm đời Đường tạo ra, nhưng điều này cũng không lấy gì làm chắc, vì không có sử liệu rõ ràng. Sách Tăng Tu Giáo Uyển Thanh Quy (quyển hạ, phần pháp khí) có ghi lại truyền thuyết rằng có một vị Tăng do phản thầy, huỷ pháp mà bị đoạ làm thân cá, trên lưng con cá ấy lại mọc một cái cây, mỗi khi sóng to gió lớn, khiến thân ra máu, thật thống khổ vô cùng. Một lần nọ, vị Thầy Bổn Sư qua biển, nhân đó nó muốn đòi nợ liền nói rằng: Thầy không dạy bảo nó nên nó mới phải bị đoạ làm thân cá như thế này, do đó nay nó muốn báo oán. Thế rồi, vị Thầy ấy bảo cá nên ăn năn sám-hối, Thầy ấy cũng vì con cá mà cầu siêu chú nguyện và ngay đêm ấy nó được hóa kiếp. Vị Thầy Bổn Sư liền đem cây ấy đẽo thành hình con cá và treo lên để cảnh tỉnh đại chúng. Có thể vì lý do này các mõ tròn sau này cũng hay khắc hình con cá trên mõ để cảnh tỉnh đại chúng. 

Theo sách Thích Thị Yếu Lãm ghi rằng: chuông, khánh, bản đá, bản gỗ, mõ đều có khả năng phát ra âm thanh một khi gõ vào và nhờ nghe đó mà đại chúng tập họp nên các loại đó đều gọi là kiền chuỳ. 

Sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy, chương Pháp Khí cũng nói khi dùng cơm hoặc khi phổ thỉnh chúng tăng đều gõ mõ. Từ đây chúng ta có thể hiểu lúc đầu mõ dài (loại 1) được dùng để tập họp Tăng chúng. 

Nhưng vì sao cả 2 loại mõ đều khắc hình con cá? Sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy nói rằng vì loài cá suốt ngày đêm đều tỉnh, nên khắc hình con cá để mỗi khi gõ, chúng ta tự nhắc mình phải tỉnh thức, chớ có hôn trầm, giải đãi. 

Tiếng mõ với mục đích chính là giữ trường canh cho đại chúng khi tụng kinh điển cho nhịp nhàng. 


Thân mến, 

NR. 

Quangduc.com
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#3
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA
CHUÔNG TRỐNG BÁT NHÃ
Thích Giác Duyên
--- o0o ---

III. Nguồn gốc và ý nghĩa của Trống



Trống là một trong những loại nhạc khí, thường làm bằng đá, cây, đồng, v.v…Xưa tại Ấn Ðộ dùng để báo thời gian, cảnh báo. Khi Ðức Phật còn tại thế, dùng nó để tập họp chúng Tăng Bố-tát, nghe pháp…Ngũ Phần Luật có ghi: “chư Tỳ-kheo bố - tát, chúng bất thời tập. Phật ngôn: nhược đả kiền chuỳ, nhược đả cổ…”. Trung Quốc thời xưa dùng nó trong các dịp lễ lộc, vũ hội…Loại hình có to, nhỏ, treo hoặc để trên giá…Trống to gọi là trống tẩu, nhỏ gọi là trống ứng, treo để đánh gọi là trống treo… 
Từ đời Ðường về sau, theo thanh quy của thiền môn, trống là một trong những loại pháp khí dùng làm hiệu lệnh báo thời sớm tối. Sau này Phật giáo Trung Quốc tiến thêm bước nữa là phối hợp nhịp điệu, âm thanh của tiếng trống hòa cùng những lời tán tụng, phổ thành nhạc điệu, gọi là “kỹ nhạc cúng dường, trang nghiêm đạo tràng”, dùng âm thanh làm Phật sự, trợ giúp đại chúng phát tâm thành kính với Tam Bảo. 
Ai đã đưa trống vào tự viện? Năm nào? Chúng tôi chưa tìm ra tài liệu để đưa ra một giả thuyết khả dĩ. Tuy nhiên, dựa vào bản dịch bài Thiền Sư Đại Điên và Hàn Dũ thời Đường Hiến Tông năm 820, chúng ta thấy chuông và trống đã được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ Phật giáo. Do đó, ít nhất chúng ta đoán được là trước năm 820, trống đã được đưa vào chùa để làm pháp khí. 
Ngày nay, có một vài nghi thức tán tụng ở miền Trung và miền Nam sử dụng trống nhỏ để hỗ trợ cho quý Thầy khi tán tụng. Các loại nghi thức tán tụng này có lẽ cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc, vì các thời tụng niệm của Phật giáo Trung Quốc đều có tán, và loại trống nhỏ này (người Việt mình hay gọi là Trống Cơm) cũng được xem như một loại pháp khí. 
Cách đánh Trống Bát-nhã và ý nghĩa biểu trưng: 
- Mới đầu đánh nhập 2 tiếng: biểu thị NHỊ ĐẾ dung thông (pháp thế gian và pháp xuất thế gian dung thông, không ngăn ngại). 
- 3 tiếng tiếp (mỗi lần 1 tiếng): tượng trưng cho sự khấu đầu quy y TAM BẢO, nguyện dứt trừ tam độc: tham, sân si. 
- 7 tiếng sau đó (vì tiếng thứ 7 và 8 đánh gấp, tính gộp thành 1 tiếng), tượng trưng cho BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT THƯỢNG ĐƯỜNG, tức tác pháp thỉnh Phật thăng toà. 
- Nếu 7 tiếng này tính thành 8 tiếng: tượng trưng cho câu “MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA” hoặc BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT LAI CHỨNG MINH, tức tác pháp thỉnh Phật chứng minh. 
- Cuối cùng đánh dứt 4 tiếng: tượng trưng cho chứng nhập TỨ ĐẾ. 
IV. Vài ý tưởng khác 
1) Vài ý niệm về việc sử dụng chuông, trống, khánh tại Ấn Ðộ và các nước khác 
Theo cuốn A Dictionary of Symbols (London, 1962, trang 23) cho rằng âm thanh của chuông là biểu tượng của năng lực sáng tạo. Chuông treo lơ lửng tượng trưng cho sự huyền bí của trời và đất. Hình dáng của chuông xuất phát lấy từ hình tượng vòm trời. 
Ấn Độ đã biết sử dụng chuông trên 2000 năm về trước, và có lẽ chuông được sử dụng rộng rãi trong cung đình, đặc biệt trong các chùa chiền. Các hình thức nghệ thuật như điêu khắc chùm chuông xuất hiện vào thời kỳ đầu của Phật giáo có thể được tìm thấy trên các bức phù điêu trên các trụ đá của vua Asoka (A-dục) và các tháp tôn trí xá-lợi của đức Phật. Không phải tại Ấn Ðộ mà ngay cả các nước lân cận chịu ảnh hưởng lớn nền văn hóa tư tưởng Ấn Ðộ như Tích Lan, Miến Ðiện cũng sử dụng chuông, và sau này cả trống nữa, để biểu hiện lòng thành của người cầu nguyện, và đặc biệt dùng khi chấm dứt một khóa lễ. 
Trong các dịp tưởng niệm đức Phật, các chuông được sử dụng cùng với một số nhạc khí khác như trống, sáo để biểu hiện lòng tôn kính đức Phật. Tác phẩm Saddharmàlankàra, một tác phẩm văn học tôn giáo thời trung đại của người Tích Lan ghi rằng: chuông được sử dụng đầu tiên ở Tích Lan vào những dịp đặc biệt như triệu tập tăng chúng. Sau này dần dần nó trở thành một phần của nghi lễ cúng dường âm nhạc (‘sabda-pùjà) cho đức Phật. 
Tín đồ Phật giáo Tây Tạng tin rằng khi họ niệm chú, nhờ sức quay chuông của họ mà các câu thần chú sẽ đi muôn nơi vạn hướng, làm vơi bớt nỗi đau khổ của cuộc đời. Cho nên Phật giáo Tây Tạng chế nhiều cỡ chuông cầm tay cho tín đồ trì niệm và cả những chuông lăn lớn để tín đồ quay. 
Dĩ nhiên các loại chuông trống ở Ấn Độ thuở ban đầu không giống với các loại chuông trống ngày nay ở Trung Quốc hay Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Ở Trung Quốc trống chỉ được sử dụng để thúc quân ra trận. Chuông (một hình thức của chiêng) được sử dụng như dấu hiệu của rút quân. Trong các buổi lễ tế giao của thiên tử không thấy đề cập đến sử dụng các loại nhạc khí nầy. Trống phần lớn cũng để triệu tập ba quân tướng sĩ hoặc kêu oan ở cửa quan. Loại trống này được sử dụng rộng rãi về sau trong giới quan lại để hành quyết tội nhân ở pháp đường.

2) Sự mầu nhiệm của tiếng Khánh

Theo như các thiền sử ghi lại qua các hành trạng của một số vị thiền sư, thì tiếng khánh có tác dụng rất lớn đối với người tu thiền. Một khi thiền giả đã vào các tầng thiền như “diệt thọ tưởng định” thì dù có trời long đất lở thân tâm của vị ấy cũng bất động. Tuy nhiên, chỉ với một vài tiếng khánh nhỏ cũng đủ đánh thức các Ngài dậy. Câu chuyện Ngài Hư Vân là một điển hình, trong một cơn thiền định xuất thần kéo dài cả tuần, chư vị Hòa Thượng khác đã dùng khánh mà đánh thức Ngài xuất định. 
Lời cuối, cầu chúc quý cư sĩ thân tâm thường an lạc, hằng tinh tấn làm các thiện sự và tu tập tâm của mình. 
Chuông Trống Bát Nhã Có Công Dụng Gì Trong Chùa ? 
Tại mỗi chùa khi cử hành lễ, trước giờ khởi sự và sau khi chấm dứt cuộc lễ đều có thỉnh chuông trống bát nhã. 
Chuông trống bát nhã dùng để thỉnh Phật tổ và thỉnh chư Tăng cùng nhau hướng về điện Phật để chứng minh cho buổi lễ sắp diễn ra được thanh tịnh trang nghiêm. 
Bài kệ thỉnh chuông trống bát nhã như sau : 
Thỉnh Phật thượng đường 

Đại chúng đồng văn 

Bát nhã âm 

Nhập bát nhã ba la mật đa (đọc 3 lần) 

Nghĩa là : 

Thỉnh chư Phật vào chánh điện, 

Xin tất cả quý vị hiện diện lưu ý 
Âm vang của chuông trống bát nhã sẽ hòa nhập theo cùng với trí tuệ sáng suốt của chư Phật thành một thể tánh duy nhất. 
Thường thường chuông trống bát nhã được cử lên ba hồi lúc bắt đầu cuộc lễ, nhưng khi chấm dứt có thể chỉ thỉnh một hồi và cũng đọc bài kệ như trên. Ngoài việc đón rước và đưa chư Tăng, chư Phật, Hộ Pháp.., việc đánh chuông trống bát nhã còn tượng trưng cho ý nghĩa tinh thần rất lớn là nhân tiếng chuông trống để mọi người có mặt trong giờ sắp hành lễ đều chú tâm vào việc nhiếp tâm cầu nguyện. 
Thật vậy, khi nghe tiếng chuông trống bát nhã gióng lên ai nấy trong chánh điện đều đứng dậy chấp tay cầu nguyện, đồng thời tâm hồn người nghe cũng cảm thấy như lắng lặng thanh thoát. Về lịch sử, chuông trống bát nhã không do ai bày ra, nhưng Phật giáo các nước thuộc vùng Đông-Nam-Á châu đều xử dụng trống cùng một mục đích và với một ý nghĩa về tinh thần rất lớn lao vậy. 
Muốn cho cuộc lễ được tươm tất và thành kính, chuông trống bát nhã không thể thiếu được lúc bắt đầu và khi chấm dứt lễ.

Tài Liệu Liên Hệ:
Pháp Khí và Pháp Phục, TT. Thích Tín Nghĩa

TVHS
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#4
Thờ Phật

Thích Minh Đạt 



"Ai tin ta mà không hiểu ta là hủy báng ta" (Kinh A-hàm). 

Lúc đức Phật còn tại thế cũng như sau khi ngài tịch diệt, việc thờ Phật, tôn kính Phật được thể hiện qua việc nghiêm trì giới luật, việc nổ lực thực hành những di huấn của ngài. Đây là điều then chốt trong việc thờ Phật. 

Thờ hình tượng Phật 

Để thể hiện lòng tôn kính với vị đạo sư, Phật tử có thể vẽ họa hình tượng đức Phật để tôn thờ tùy ý. Trong truyện ký có thuật một câu chuyện, thời đức Phật còn tại thế, một hôm ngài dùng thần thông lên cõi trời thuyết pháp cho thân mẫu và chư thiên liên tiếp trong ba tháng. Vua Vu Điền, một trong những vị vua thâm tín Phật pháp và thích được hầu cận đức Phật, thấy Phật đi lâu quá không về đem lòng nhớ thương bèn mướn một họa sĩ danh tiếng rồi diễn tả lại tất cả hình vóc, tướng mạo của đức Phật để vị họa sĩ vẽ lại chân dung ngài. Chân dung của đức Phật được vẽ rất sống động. Có những lúc vua Vu Điền đối diện trước chân dung Phật, ông có cảm giác như Phật đang hiện hữu thuyết pháp như mọi ngày. 

Sau ba tháng đức Phật trở về, vua Vu Điền mang chân dung của đức Phật đến và thuật lại câu chuyện, đức Phật mỉm cười và làm thinh. Làm thinh là một trong những cách mà đức Phật thường dùng để chấp nhận việc làm của đệ tử. Việc tôn kính hình tượng của đức Phật bắt đầu từ đó. Hình thức tôn kính này được đại chúng hóa trong môn đồ của đức Phật kể từ sau ngài tịch diệt dẫn đến ngày nay. 

Tại sao thờ Phật? 

Như câu chuyện trên cho thấy, thờ Phật ban đầu chỉ là biểu lộ sự nhớ thương của môn đệ đối với đức Phật trong lúc vắng ngài, dần dần dẫn đến sự tôn kính và tri ân. 

Trong gia đình, con cháu chưng thờ di ảnh của ông bà, cha mẹ thường biểu lộ tình thương qua lòng hiếu thảo hơn là sự tri ân và tôn kình. Dân tộc thờ các vị anh hùng, biểu lộ sự tri ân và ngưỡng mộ hơn là thương nhớ và tôn kính. Tín đồ của một tôn giáo đối với vị giáo chủ của mình thường biểu lộ trọn vẹn sự tôn kính tuyệt đối hơn những lảnh vực trên. Là Phật tử, hiểu đức Phật và học đòi theo lời dạy của ngài, thờ Phật ít ra cũng đủ ba phương diện: tri ân, ngưỡng mộ và tôn kính. 

Tri ân 

Phật tử tri ân đức Phật ngoài việc tô tượng, đúc chuông, cất chùa còn phải gia công học đòi lời dạy của ngài. Tập sống theo những hạnh mà ngài dạy để phát triển năng lực tinh thần. 

Tri ân đức Phật không phải vì chúng ta là tín đồ, mà vì một người đã có một ân đức sâu dày với toàn thể nhân loại. Chúng ta thờ Phật là để luôn có một tấm gương sáng trọn lành trước mặt để kiểm điểm từng tư tưởng, từng lời nói, từng hành động của chúng ta để tiến dần đến chân thiện mỹ như ngài vậy. Hình ảnh đức Phật trước mặt là một ngọn đèn trí tuệ đang đốt, chúng ta sẽ nương theo ánh sáng đó để soi rọi lại lòng mình và từ đó thắp sáng lại ngọn đèn của chính ta. Hình ảnh một đức Phật trước mặt sẽ tỏa ngát hương từ bi để nhắc nhở chúng ta phát triển hạnh từ bi sẵn có để vơi bớt khổ đau cho chính ta và tha nhân. Đừng bao giờ thờ hình ảnh đức Phật trước mặt với sự cầu cạnh Ngài ban phúc trừ họa hay để nương vào uy lực của Ngài làm những chuyện bất lương. Nếu thờ Phật với những mục đích như trên, thì không những chúng ta hủy báng đức Phật, mà còn tự tạo ra những tư tưởng không tốt cho chính chúng ta và tha nhân nữa. 

Ngưỡng mộ 

Phật tử ngưỡng mộ đức Phật không phải dùng mọi danh từ tốt đẹp để khen tặng ngài; cũng không phải vẽ ra một đức Phật đầy phép lạ, đủ quyền thi ân bố đức. Mặc dù đức Phật có rất nhiều thần thông, nhưng chưa bao giờ ngài dùng thần thông để mê hoặc nhân gian, hoặc để khuyến dụ người khác theo ngài. Câu chuyện một thiếu phụ có một đứa con yêu quí duy nhất bị chết, đến xin đức Phật dùng thần thông cứu độ để đứa bé sống thêm theo mong cầu của người mẹ; thay vì đức Phật dùng thần thông để làm cho đứa bé sống lại, ngài đã khéo léo giảng giải định luật vô thường để người mẹ không kéo dài thêm sự khổ đau và ý thức sâu sắc về cuộc sống của con người. Vậy Phật tử ngưỡng mộ đức Phật nên chú trọng vào ba đức tánh đặc biệt: Từ bi vô ngần, Trí tuệ vô biên, và Hùng lực phi thường. Ba đặc tánh này giúp chúng ta xây dựng hạnh phúc gia đình, hoán cải hoàn cảnh xã hội. Nói khác đi Bi, Trí và Dũng là ba tính cách đặc thù có hiệu năng giúp cho những ai hướng về chân thiện mỹ. Đức Phật là người duy nhất từ trước đến nay đã hoàn thành ba mục tiêu trên. Ngưỡng mộ đức Phật trong tinh thần đó tức là chúng ta đã tập bước những bước vững chãi trên con đường mà ngài đã đi. 

Tôn kính 

Tôn kính đức Phật không phải chúng ta linh thiêng hóa đức Phật ra hoặc đặt đức Phật ra ngoài cuộc sống của chúng ta. Tôn kính đức Phật là đặt một niềm tin tưởng tuyệt đối rằng ngài là một bực hoàn toàn giác ngộ. Ngài là một bực thầy sáng suốt đưa đường dẫn lối và đầy đủ đức hạnh để ta học đòi hầu thăng tiến cuộc sống tâm linh của chúng ta. Trong kinh có ghi lại 10 danh hiệu khác nhau để tán thán và tôn kính một bực giác ngộ như đức Phật: Phật là đấng hoàn toàn tự tại với các pháp, Phật là đấng đáng được nhân gian và chư thiên cúng dường, Phật là đấng biết hết mọi tâm tánh của chúng sanh, Phật là bực đầy đủ cả phúc đức và trí tuệ, Phật là đấng đã điều phục mọi phiền não, Phật là một đấng toàn thiện, Phật là đấng đã giải thoát được chuổi dây triền phược trong thế gian, Phật là đấng cao tột, Phật là bậc thầy của nhân gian và chư Thiên, Phật là đấng thế gian hoàn toàn tôn kính. (Như lai, ưng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn). Là những người đang theo gót chân ngài, chúng ta nên tôn kính đức Phật trong chân tinh thần đó. 

Thờ Phật trong ba ý hướng trên, chúng ta sẽ thấy đức Phật gần gũi và hiện thực trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Bằng không, đức Phật chỉ là bóng mờ và giáo lý của ngài chỉ còn là một học thuyết suông. 

Thờ Đức Phật nào? 

Đã là Phật thì không có vị nào cao vị nào thấp. Mức độ giác ngộ và giải thoát ngang nhau; nghĩa là đức Phật nào cũng trọn lành, cũng là một tấm gương sáng cả. Do đó, chúng ta có thể thờ bất cứ một vị Phật nào mà chúng ta cảm thấy thích. Mục đích của sự thờ Phật, như vừa nói, không phải để cầu cạnh mà là để noi gương lành. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên tùy theo thời kỳ hóa độ của một vị Phật để thờ. Chúng ta đang ở vào thời kỳ hóa độ của đức Phật Thích Ca, thì hình ảnh và giáo lý gần gũi với chúng ta nhất là đức Phật Thích Ca. Vì vậy chúng ta thấy hình ảnh của đức Phật Thích Ca được thờ phổ thông trong tất cả các chùa Bắc Tông lẫn Nam Tông. 

Thờ Phật ở đâu? 

Hình thức: 

Tại bất cứ một tư gia nào cũng có thể thờ Phật được cả. Trong nhà nơi nào mà chúng ta thấy trang nghiêm là nơi ấy có thể đặt một bàn thờ Phật. Việc trang nghiêm của một bàn thờ Phật cũng rất cần thiết. Việc trang nghiêm này không phải để trang nghiêm cho hình ảnh của đức Phật, mà chính là tạo một khung cảnh trang nghiêm cho chính chúng ta. Khi đối diện trước một khung cảnh trang nghiêm, tâm chúng ta đễ gom về một mối. Tâm dễ gom về một mối thì trí tuệ dễ phát sanh. Đây là lý do duy nhất chúng ta cần có một bàn thờ Phật trang nghiêm trong nhà. Nói khác đi, hình thức là phương tiện ban đầu để đạt đến phần nội dung cần thiết. 

Nội dung: 

Một người có một trình độ tu tập vững chãi, nghĩa là đã vượt qua mọi hình thức rườm rà, thì việc thờ tự đối với họ không còn cần thiết nữa. Họ không cần nương vào những đối tượng bên ngoài để nhắc nhở họ nữa, mà lúc nào hình ảnh đức Phật cũng hiện rõ trong tâm họ và đặc biệt là cuộc sống của họ hoàn toàn phù hợp với lời dạy của đức Phật. Những mẫu người này là họ thờ Phật ngay trong lòng họ. Trong cuộc sống hàng ngày của họ là một bàn thờ Phật trang nghiêm. Điều này không phải là lý luận suông mà mỗi người học hỏi và tu tập theo giáo lý của đức Phật phải tự kiểm điểm lấy. Dĩ nhiên là một điều khó. 

Chưng hình tượng Phật 

Trên đây là việc thờ Phật qua hai phương diện hình thức và nội dung. Cũng có lắm người không thích thờ tự mà chỉ thích có một bức hình Phật đoan nghiêm với vẻ mặt đầy tự tại và hoan hỷ để chưng trong nhà. Điều này không có gì trái với đạo và bất kính đối với đức Phật cả. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý là việc treo chưng hình Phật không phải chỉ để làm tăng thêm phần thẩm mỹ trong phòng khách hay trong phòng đọc sách; mà việc treo hình Phật cũng phải hàm một ý nghĩa như việc thờ ở trên, nghĩa là để nhắc nhở chúng ta hướng thiện. Chẳng hạn như một bức hình Phật được treo ở phòng khách là để nhắc nhở chúng ta mỗi khi ngồi bàn luận những công việc gì nên nhắm đến việc lợi mình lợi người, hay ít nhất lợi mình nhưng đừng tổn hại đến ai. Nhắc nhở chúng ta khi có chuyện gì vui cũng không nên vui một cách thái quá; nhắc nhở chúng ta khi gặp chuyện buồn cũng không bi thảm lắm; hoặc giả khi bàn cải một vấn đề gì chưa vở lẽ đã đưa đến sự bất hòa, cũng không nên dùng những lời lẽ quá nặng nề để sát phạt lẫn nhau. Treo một bức hình ở trong phòng học hay phòng đọc sách là để nhắc nhở chúng ta một trong những hạnh đặc biệt của đức Phật là tinh tấn. Tinh tấn là một sự nổ lực liên tục cho đến khi công việc được viên mãn. Tóm lại, dù thờ Phật hay chưng hình thì hình ảnh đức Phật vẫn là tấm gương sáng để chúng ta soi rọi lại tâm tánh của chúng ta trong từng giây phút một. 

Kết quả của sự thờ Phật 

Nếu thờ Phật với tất cả thành tâm thiện ý như vừa nêu trên, thì chúng ta sẽ gặt hái được những lợi lạc cả hiện tại lẫn vị lai. Trong hiện tại, mỗi chúng ta và cả gia quyến chúng ta, dưới hình ảnh hiền hòa từ bi nhưng chứa đầy nghị lực của đức Phật, chúng ta sẽ có một bầu không khí đầm ấm, bao dung nhờ ảnh hưởng đạo vị qua chân dung của ngài. Từ không khí gia đình này sẽ lan rộng ra đến xóm giềng; từ những cá nhân trong gia đình này sẽ ảnh hưởng đến những công dân ngoài quốc gia xã hội.... Kết quả này thu hoạch được nhiều hay ít, mức độ thăng tiến tinh thần cao hay thấp, hoàn toàn tùy thuộc vào tỷ lệ thực hành của từng cá nhân qua nhân cách của đức Phật, chứ không phải đức Phật ban bố những kết quả ấy cho chúng ta. Mọi kết quả tốt được khai quật từ kho tàng vô tận của chính chúng ta. Đức Phật chỉ là người chỉ điểm. Phật tử nếu có phương tiện nên có một bàn thờ Phật trang nghiêm và thờ Phật với tất cả tinh thần như vừa nêu trên. Thờ Phật như vậy chính là tin Ngài và hiểu Ngài. 

Chùa Quang Nghiêm, California, Hoa Kỳ 

quangduc.com
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#5
Cung kính chắp tay xá chào

Diệu Tịnh

--- o0o ---



Ðược người bạn cho quyển sách After the Ecstasy, the Laundry (tạm dịch là sau trạng thái tuyệt vời, rồi đến việc giặt ủi quần áo) của Jack Kornfield, tôi rất mừng, vì vốn mê đọc sách và nhất là được đọc những tác phẩm của các vị tu hành nói về kinh nghiệm tâm đắc trong việc thể nghiệm Phật pháp. 

Tiến sĩ J. Kornfield là giáo sư dạy Thiền nổi tiếng. Ông đã xuất gia và sống trong tu viện ở Thái Lan 5 năm. Năm 1972, ông trở về Mỹ, sáng lập Hội Thiền quán ở Massachusetts. Những tác phẩm của ông với lối văn giản dị, dí dỏm mà lại sâu sắc, rất thuyết phục người đọc. Ông nổi tiếng với quyển A path with heart mà HT N. Hạnh đã viết lời khen tặng rằng “J. Kornfield là một người kể chuyện tuyệt vời và là một ông thầy vĩ đại”. Hiện tại, ông là giáo sư hướng dẫn Thiền tại Spirit Rock Center ở California.

Mở đầu quyển After the Ecstasy, the laundry, J. Kornfield cho chúng ta thấy những nhận thức rất đúng đắn về sự thể hiện hạnh cung kính người khác qua việc chắp tay cung kính xá chào. Mới nghe qua, chúng ta có thể cho đó là một hành động đơn giản, chắp tay chào người khác thì có gì là khó khăn đâu. Ðúng, chắp tay chào đại cho xong, hoặc xá người khác một cái thật dài, thật sâu mà chẳng nghĩ ngợi gì cả, xá chào một cách máy móc theo hình thức lễ nghi thông thường, hay xá chào bề ngoài mà trong lòng chẳng cung kính chút nào, v.v... thì cách chào như vậy quả là không khó gì và tất nhiên cũng chẳng có gì hay ho để nói.

Nhưng chắp tay xá chào với lòng kính trọng thật sự người mà ta đối diện, dù thực tế người đó nhỏ hơn ta, học ít hơn ta, địa vị kém hơn ta, thậm chí không thật tu như J. Kornfield đề cập đến trong bài, thì không phải là điều dễ dàng. Tuy nhiên, ông đã làm được việc khó làm đó, ông đã xá chào với tâm kính trọng người thật sự, với tâm hoan hỷ thật sự khi đối trước tha nhân bất kể là ai. Ông đã cho chúng ta bài học về sự thành tựu pháp cung kính chào người trong đời sống thường nhật vì ông đã nhận ra những điều tốt lành tiềm ẩn nơi họ và ông đã cung kính chào cái tốt lành ấy.

Chúng tôi cảm nhận được niềm hoan hỷ sau khi đọc bài pháp mở đầu của tác giả J. Kornfield, xin được chia sẻ cùng các pháp lữ, để chúng ta cùng cung kính nhau, tôn trọng nhau, giúp đỡ nhau trên bước đường mở rộng thế giới an lành trong chánh pháp.

Sau đây là bài pháp của J. Kornfield về việc cung kính xá chào. 

“Khi tôi trở thành một Tăng sĩ Phật giáo ở một tu viện trong rừng của Thái Lan hơn 30 năm qua, tôi đã học cách xá chào. Mới đầu thì việc này hơi lạ đối với tôi. Mỗi khi chúng tôi vào phòng để thiền, phải quỳ gối và lạy ba lần một cách cung kính. Ðó là sự thực hành lòng tôn kính và nhất tâm thể hiện qua hành động của thân, sự thệ nguyện đối với con đường sống giản dị, từ bi và tỉnh thức của một Tỳ kheo. Chúng tôi cũng cung kính đảnh lễ vị thầy dạy mỗi khi nghe giảng.

Sau khi tôi ở tu viện được một, hai tuần, một trong những sư huynh của tôi đã dạy tôi rằng “Trong tu viện này, bạn không phải chỉ lạy Phật khi vào phòng thiền hay lạy thầy dạy mình, mà bạn còn phải chắp tay xá chào những người lớn hơn bạn.” Ðể làm cho đúng, tôi đã hỏi những người lớn hơn tôi là ai. “Theo truyền thống, những người xuất gia trước, những tu sĩ tu lâu hơn thì lớn hơn bạn”. Tôi nhận ra rằng điều đó có nghĩa là tất cả mọi người ở đây đều lớn hơn tôi.

Vì vậy, tôi bắt đầu xá chào họ. Ðôi khi, điều này cũng được, chỉ có một ít người lớn giỏi và xứng đáng trong đại chúng. Nhưng đôi khi cũng thấy tức cười. Tôi gặp một vị sư 21 tuổi, ưa phóng đại, anh ta vào tu viện chỉ để làm vừa lòng cha mẹ hay là để được ăn ngon hơn ở nhà và tôi phải xá chào anh ta vì anh đã xuất gia trước tôi một tuần! Hoặc là tôi phải xá chào một ông nông dân già, luộm thuộm đã vào chùa vào mùa trước theo như dự tính lúc về hưu của ông, ông nhai trầu liên tục và không bao giờ hành thiền dù chỉ một ngày trong đời ông. Khó mà cung kính những người như vậy ở tu viện như họ là những ông thầy vĩ đại!

Tuy nhiên, tôi vẫn phải xá chào họ, tôi cảm thấy dằng co trong việc này, nên đã tìm cách làm sao xá chào cho có hiệu quả. Sau cùng, tôi bắt đầu tìm những mặt xứng đáng của mỗi người để tôi xá chào. Tôi đã xá chào những nếp nhăn chung quanh mắt của người nông dân về hưu, xá chào tất cả khó khăn mà ông ta đã gặp, chịu đựng đau khổ và đã chiến thắng nó. Tôi đã xá chào sự sống động và tươi trẻ của người tu sĩ trẻ tuổi, những khả năng không thể tin nổi còn đang chờ đợi trong cuộc sống trước mắt họ.

Tôi đã bắt đầu thích thú trong việc xá chào. Tôi đã xá chào những đàn anh của tôi, xá chào khi vào ra phòng thiền. Tôi đã xá chào khi bước vào cái cốc của tôi trong rừng và xá chào khi tắm ở giếng nước. Không bao lâu, việc xá chào trở thành tính cách của tôi. 

Việc làm thật sự của đời sống tinh thần không phải chỉ tìm thấy ở những nơi xa xôi nào hay là một tình trạng bất thường của sự nhận thức. Nó hiện diện ở đây và ngay bây giờ. Nó đòi hỏi chúng ta một tinh thần chào mừng để tiếp đón tất cả những gì cuộc đời tặng cho chúng ta với một trái tim khôn ngoan, tôn kính và dễ thương. Chúng ta có thể xá chào trước sự đẹp đẽ lẫn khổ đau, trước những vướng mắc và lầm lẫn, trước sự sợ hãi của chúng ta và trước những bất công của thế giới này. Tôn kính sự thật bằng cách này là con đường dẫn đến sự tự tại. Xá chào trước tất cả đúng hơn là trước vài lý tưởng thì tất yếu không dễ dàng, nhưng dù khó, nó là một trong những việc thể nghiệm hữu dụng và đáng kính trọng.

Việc xá chào trước những buồn khổ và lừa dối của cuộc sống chúng ta là chấp nhận chúng và nhờ vậy chúng ta nhận ra rằng mọi cuộc sống đều hữu ích. Khi chúng ta học xá chào, chúng ta nhận thấy rằng trái tim nắm giữ được nhiều tự tại và tình thương hơn là chúng ta tưởng.

Nhà thơ Ba Tư Rumi nói về điều này trong bài thơ sau :

Con người này là một nhà trọ

Mỗi sáng là một người mới tìm đến.

Một niềm vui, nỗi chán nản, một 

sự vô nghĩa,

vài sự tỉnh thức tạm thời chợt đến,

như người đến thăm không mong đợi.

Chào mừng và tiếp đón tất cả chúng,

dù cho chúng là một lũ buồn rầu,

quét sạch một cách dữ dội 

những đồ đạc trong căn nhà chúng ta.

Chúng ta vẫn đối xử với từng người 

khách một cách tôn kính,

họ có thể làm cho bạn trong sạch

với sự thích thú mới mẻ nào đó.

Ý nghĩ đen tối, sự hổ thẹn, ác tâm,

gặp chúng ở cửa, cười to,

và mời chúng vào.

Hãy nhớ ơn bất cứ người nào đến,

bởi vì mỗi người được gởi đến

từ nơi xa như là một người hướng dẫn.

Ðọc xong bài pháp của J. Kornfield, tôi lại liên tưởng đến hình ảnh Bồ tát Thường Bất Khinh, một vị Bồ tát nổi tiếng của hội Pháp Hoa. Ngài đã từng cung kính lễ lạy mọi người với câu nói khen ngợi : “Tôi không dám khinh quý Ngài vì quý Ngài đều là Phật sẽ thành”. Phải chăng vị Bồ tát vô cùng dễ thương đã thể hiện được hạnh nguyện cung kính người khác một cách tuyệt vời vì Ngài nhận chân sâu sắc hạt châu quý giá nhất trong tâm khảm của từng người đối diện. Bồ tát Thường Bất Khinh chính là tiền thân của Ðức Phật Thích Ca đã trải qua vô lượng kiếp thể nghiệm hạnh cung kính tha nhân, mới kết thành uy đức vô song trong hiện thân của Phật Thích Ca. Ðiều đáng nói của Bồ tát khi tu hạnh cung kính người đã gợi cho họ thấy được nét đẹp cao quý của nếp sống vô ngã, tác động họ dẹp sạch tâm ngã mạn.

Nghĩ đến hình ảnh dễ thương của Bồ tát Thường Bất Khinh cung kính chào đón người ở thuở xa xưa cũng như hình ảnh vị Tăng sĩ J. Kornfield trong hiện đời, chắp tay xá chào với niềm cung kính hoan hỷ, tôi cảm thấy trong Nhà lửa này còn có một hình ảnh gì để nhớ, để thương, để làm theo.

Quangduc.com
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#6
SUY NGHĨ VỀ SỰ LỄ LẠY

QUẢNG THÔNG 

Nói đến sự lễ lạy, người Phật tử chúng ta chắc hẳn không ai cảm thấy mới mẻ và xa lạ gì với sinh hoạt tâm linh hằng ngày đó nữa. Sinh hoạt đó đã trở nên quen thuộc với những người tin Phật, thậm chí đã trở thành một nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống. Ta tin Phật, ta cảm mến ân đức vô lượng của ngài đối với chúng ta, cảm mến trí tuệ tuyệt vời và công đức vô biên của ngài, mà hằng ngày gần gũi tôn tượng của ngài để lễ lạy và xưng tán, để tụng đọc kinh văn, làm cho những lời dạy có giá trị vượt thoát thời gian của đức Thế tôn thấm sâu vào từng tế bào của cơ thể làm nên sự sống tươi đẹp và bình an ngay trong đời sống này.

Tuy nhiên bên cạnh những cái hay cái đẹp của sự thực tập lễ lạy vẫn có những sự lễ bái mang hình thức phù phiếm và ba hoa, mang nội dung cầu cạnh và tiêu cực. Đó là lý do tại sao chúng ta cần tìm hiểu về sự lễ lạy để xác định cho được tính tích cực của nó và để cho sự thực tập của chúng ta ngày thêm nhiều lợi ích.

BẢY CÁCH LẠY.

Trong luật Sa-di có nói đến bảy cách lạy mà chúng ta không thể không biết (Giáo liệt thất chủng lễ bất khả bất tri):

1. NGÃ MẠN LỄ, là sự lễ lạy mà vẫn còn ôm một cái ngã không chịu quán chiếu để chuyển hoá. Chúng ta thường nghĩ về chữ ‘ngã mạn’ với hàm ý là không khiêm nhường, hống hách, trịch thượng, cho mình hơn người. Danh từ này thực ra có những ý nghĩa khác xuất phát từ tiếng Phạn là Māna (kiêu mạn), có bảy loại:

Thứ nhất là Mạn (Māna), có trội hơn người khác về một số mặt và có ý tưởng là mình hơn người và sinh ra tự hào, tự đắc.

Thứ hai là Quá mạn (anti-māna). Quá mạn có nghĩa là đối với những người tương đương với mình mà mình lại cho là mình hơn người.

Thứ ba là Mạn quá mạn (mānati-māna), đối với những người có đức độ hơn mình mà mình lại cho là mình hơn người đó.

Thứ tư là Ngã mạn (ātma-māna). Đây là mạn gốc, bởi vì nó làm phát sinh ra những nhận thức sai lầm khác. Chúng ta nhận lầm những yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức là một cái ngã biệt lập với các yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức khác. Chúng ta bị kẹt vào ý niệm về ngã, ngã sở.

Thứ năm là Tăng thượng mạn (adhimāna). Khi chưa chứng ngộ mà cho mình đã chứng ngộ pháp thượng nhân. Như chưa chứng đắc quả vị A la hán mà nói đã chứng được quả vị A la hán. Đây là giới thứ tư của tỷ khưu giới.

Thứ sáu là Ti mạn (ūna-māna). Đối với quả vị Phật, các vị Bồ tát đại nhân, những người có nhân cách quá lớn lao vĩ đại mà có mặc cảm rằng mình không bao giờ đuợc như thế. Mặc cảm này là đối tượng giáo hoá của các kinh đại thừa với tư tưởng “nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”.

Thứ bảy là Tà mạn (mithyā-māna), không có đức độ, không hiểu biết, không giải thoát, không có từ bi, không có khiêm nhường… Mà đôi khi chỉ với danh xưng được người ta gọi, mình có ảo tưởng là mình có những đức tính đó thực.

Lễ Phật, lễ các vị Bồ tát, Thánh nhân mỗi ngày là để nhìn nhận và chuyển hoá những cái mạn như thế. Nếu không, cái lạy chẳng có ý nghĩa nào cả.

2. CẦU DANH LỄ, là cái lễ mang nặng hình thức nghi lễ phô trương, cái lễ chỉ có ý nghĩa cầu cạnh, cuối cùng cũng chỉ để tô bồi thêm cho bản ngã của mình mà thôi.

3. THÂN TÂM CUNG KÍNH LỄ, là lễ lạy với tất cả sự chí thành khẩn thiết của thân tâm. Cung là sự kính trọng được thể hiện ra bên ngoài thân tướng, kính là sự kính trọng từ trong sâu thẳm của tâm tư. Năm vóc sát đất, thân và tâm an trú trong giờ phút hiện tại của sự lễ bái. Trong giờ phút đó hành giả ý thức rất rõ mình đang thực hành lễ lạy và đồng thời hiểu rõ đối tượng của sự lễ lạy với tất cả những công hạnh, trí tuệ, từ bi của từng vị. Như khi kính lễ đức Phật Thích ca mâu ni, hành giả phải hiểu rõ cuộc đời của đức Phật với những công hạnh cao cả, lòng thương yêu chúng sanh vô lượng, sự khao khát chân lý tuyệt đối, thái độ dứt khoát ra đi, từ bỏ đời sống vương giả, sự nỗ lực tu tập, sự nghiệp giáo hoá chúng sanh,… Hay khi xướng danh hiệu đức Quan Thế Âm Bồ tát là phải thấy được hạnh lắng nghe dung thông, đức từ bi cứu khổ của ngài. Rồi danh hiệu của đức Văn thù với hạnh nhìn sâu bằng con mắt tuệ giác. Danh hiệu của đức Phổ hiền với hạnh nguyện bao la. Đức Địa tạng với hạnh nguyện đi vào những chốn tối tăm tuyệt vọng để hành đạo. Đức Di lặc với hạnh hỷ xả bao dung vv… Với sự hiểu biết như vậy, hành giả sẽ dễ dàng phát sinh niềm tin, lòng tôn kính và lòng khao khát muốn học theo hạnh nguyện của các ngài trên con đường tu đạo, phụng sự chúng sanh. Bởi vì khi niệm tưởng tới công hạnh của các vị, thì chính cái năng lượng của niệm cộng với năng lượng hộ trì của chư Phật, chư vị Bồ tát, thánh hiền, thiện thần đã tưới tẩm và làm nảy sinh hạt giống vị tha trong tâm thức của mình. Tâm nguyện vị tha phát sinh và được nuôi dưỡng, thì tâm niệm vị kỷ hẹp hòi, chấp ngã tất sẽ nhẹ bớt.

Với sự cung kính này khi trong tư thế phủ phục trước tôn tuợng, ta có thể thực tập tâm từ bi bằng cách khởi tâm niệm “mong sao con có thể yêu thương được mọi người, mong sao con có thể tha thứ cho lỗi lầm của mọi người, mong sao con có thể thấy được con với mọi người là một”… Như vậy cái lễ này đích thực là pháp thực tập để phát khởi và nuôi dưỡng bồ đề tâm.

4. PHÁT TRÍ THANH TỊNH LỄ. Tâm hành giả đã bắt đầu lắng bớt những ý niệm xôn xao về bản ngã vị kỷ. Những ý niệm ngông cuồng tự cao, tự đại, ảo tưởng về cái tôi của mình đã ít nhiều dừng lại. Tâm tư bấy giờ tĩnh lặng hơn và hành giả bắt đầu thấy được những điều mà lâu nay mình chưa thấy. Thấy được những lỗi lầm của mình dễ dàng hơn. Cái thấy ấy là trí tuệ. Trí tuệ chỉ phát sinh khi tâm được định tĩnh (nhân định phát tuệ). Người có trí là người nhìn thấy được những lỗi lầm của mình. Đây là lúc hành giả đối diện với cái ‘tôi’ của mình.

5. THÔNG NHẬP PHÁP GIỚI LỄ. Khi tâm đã thanh tịnh, trí đã phát sinh, cái nhìn về bản ngã đã có sự thay đổi ngày một gần thêm với sự thật vô ngã, hành giả đi vào quán chiếu tính vô ngã của vạn pháp để hoà nhập và cảm thông với các pháp. Đi vào và hoà làm một với các pháp. Với sự chí thành, với dụng tâm như vậy, một lạy sẽ cảm thấu tới chư Phật, mà như trong Kinh Lương Hoàng sám nói đây là lúc sinh phước và diệt tội.

6. CHÁNH QUÁN TU THÀNH LỄ. Là sự quán chiếu chân chánh để thấu đạt tính nhị đế dung thông, thấu triệt ngã không, pháp không, thấy được tính chân như của vạn vật.

7. THẬT TƯỚNG BÌNH ĐẲNG LỄ. Thật tướng là tướng chân thật của các pháp. Đây là cái lạy siêu việt mọi ý niệm, cái lạy mà không còn có người lễ lạy và người được lễ lạy. Tất cả đều bình đẳng trong thể tánh chân không. Năng lễ sở lễ tánh không tịch, cảm ứng đạo giao nan tư nghì.

Chúng ta đã khảo sát qua bảy cách lạy mà trong luật đề cập tới. Hai cách lạy đầu mang ý nghĩa tiêu cực và năm cách lạy sau mang ý nghĩa tích cực. Tuy có sự hiện diện của hai mặt phản diện ấy, nhưng nó vẫn có tính tương tức tương nhập. Nêu ra hai mặt như vậy để chúng ta dễ dàng nhận ra đâu là đúng, đâu là sai và cũng để chúng ta có cơ hội nhìn sâu hơn sự thật về bản ngã của chính mình. Nếu chúng ta nhìn dưới cái nhìn của Tứ Đế, chúng ta thấy hai cách lạy đầu là Khổ Đế và Tập Đế và năm cách lạy sau là Diệt Đế và Đạo Đế. Khi nêu ra một sự thực tập nào đều có sự thực tập nhận diện và chuyển hoá.

Với nhận thức về đức độ cao cả của chư Phật, chư vị Bồ tát, tà mạn của hành giả sẽ được đoạn trừ. Nếu biết Đại đức là người có đức lớn thì ta phải tu tập tinh tiến để xứng đáng với danh xưng ấy. Đức ở đây là pháp thân giải thoát, và Niết bàn, là tấm lòng bao dung rộng lượng… Như vậy ảo tưởng về danh xưng của mình sẽ tan biến, tà mạn sẽ được đoạn trừ. Nếu thấy được bản ngã của mình là không có thực, mình với người chỉ là một thì không còn có ý niệm phân biệt và so đo nữa. Do vậy những Mạn, Quá mạn, Mạn quá mạn cũng đồng thời tan biến hết. Nếu thấy được thật tướng bình đẳng giữa Phật, chúng sanh, giữa người lạy và người được lạy, thì không có Ti mạn.

Sự lễ lạy như vậy là để nâng cao phẩm chất của mình chứ không phải làm hạ phẩm giá của con người như một số người lầm tuởng. Một nhân cách siêu việt, cao tột như đức Phật tưởng không ai đạt đến được mà đức Phật bảo tất cả chúng sanh đều có thể đạt đến. Có vị giáo chủ của tôn giáo nào nói như vậy chưa? Có vị giáo chủ nào coi giá trị của môn đệ mình có thể ngang bằng với mình như thế chưa? Đó là thông điệp tuyệt đối mà đức Phật đã để lại cho mọi loài chúng sanh.

Trong Thiền môn nhật tụng năm 2000 có pháp môn thực tập ba cái lạy. Đây là một cách thực tập sâu sắc ý nghĩa đích thực của sự lễ lạy. Nó giúp chúng ta quán triệt các ý nghĩa của những cách lạy trên, giúp chúng ta quán chiếu tính vô tướng của vạn pháp. Giúp chúng ta vượt thoát những ý niệm về Ngã, về Nhân, về chúng sanh và về thọ giả.

Lễ lạy là pháp môn hành trì hằng ngày của chúng ta. Lạy Phật sẽ tạo ra nhiều phước đức, giúp ta có nghị lực để vượt qua những chướng duyên trên con đường tu đạo. Lạy Phật cho tâm hồn lắng, lạy Phật để gột rửa thân tâm. Lạy Phật để nối kết liên hệ giữa ta với đức Phật, với các vị Bồ tát, với bồ đề tâm của mình và nuôi dưỡng những hạt giống lành mạnh trong tâm thức. Cho nên, trong truyền thống thiền học Việt Nam, lễ lạy là một phần quan trọng của công phu tu tập. Muốn đi vào thiền định thâm sâu, trước hết phải hành pháp sám hối lễ lạy mà chúng ta thường gọi là dọn rửa thân tâm. Tiêu biểu cho sự thực tập này là thiền sư Trần Thái Tông với Lục thời sám hối khoa nghi. Mỗi ngày sáu thời lễ bái, sám hối. Ngài tự đặt cho mình một thời khoá nghiêm mật như vậy để hành trì. Và không chỉ thiền tông, các tông phái khác cũng rất chú trọng đến việc lễ lạy và sám hối.

Những công việc lặt vặt thuộc về tay chân được coi là rất quan trọng trong thiền môn để giúp chấm dứt sự đờ đẫn của tâm trí, điều mà rất dễ phát sinh bởi sự thực tập thiền toạ. Những việc gánh nước, bửa cũi, làm vườn, quét dọn... làm cho thiền trở nên sống động và uyển chuyển. Khi làm những công việc ấy, thiền sinh vẫn duy trì năng lượng chánh niệm để thu nhiếp thân tâm và tạo nên tình huynh đệ luôn hiện hữu trong họ. Cho dù những việc ấy có nhọc nhằn và dơ bẩn (như việc lau chùi nhà cầu chẳng hạn) đến đâu, họ cũng không hề tránh né. Và vì vậy “xét về mặt đạo đức, những công việc có liên quan đến sự tiêu hao thể lực đều xác chứng cho những ý tưởng lành mạnh. Đặc biệt trong thiền tông, điều này là sự thật. Những ý tưởng nào không phản ánh đúng một cách mạnh mẽ và có hiệu quả trong đời sống thực tế, đều được coi là vô giá trị. Niềm tin phải được thông qua kinh nghiệm chứ không phải qua những khái niệm. Sự xác chứng tâm linh phải vượt lên và cao hơn những suy đoán thuộc về tri thức; điều đó có nghĩa là, chân lý phải được đặt trên đời sống kinh nghiệm của mỗi người.” (D.T.Suzuki)

Sự lễ lạy cũng có ý nghĩa như vậy trong đời sống thực tập. Sự cúi xuống, duỗi lên là những hoạt động thể chất làm cho máu huyết lưu thông, đánh tan sự đờ đẫn tâm trí. Đồng thời trong không khí trang nghiêm, kính cẩn của điện Phật, năng lượng chánh niệm rất dễ dàng được duy trì và giúp tạo nên sự liên hệ giữa hành giả với Thầy, với bạn, khiến dễ dàng có sự cảm thông. Đó cũng là sự thực tập làm mới.

Trong nhân quả của sự tôn kính, ‘kính thầy thì được làm thầy’; xưng tán công đức của chư Phật, chư vị Bồ tát với tâm chân thành, với nguyện vị tha, thì chắc chắn từ từ ta sẽ đạt đến những đức ấy của các vị. Cho nên những bài kệ xưng tán Phật, Pháp, Tăng là rất quan trọng trong việc lễ lạy. Ngoài những bài kệ xưng tán có sẵn cũng không hạn chế sáng tạo thêm những bài kệ mới để nói lên sự tôn kính tự thâm tâm của mình.

Lễ lạy như vậy không phải là sự mê tín và không làm cho con người mất nhân cách, mà là một sự thực tập mầu nhiệm làm tăng trưởng tính thánh thiện và hoàn thiện một nhân cách vĩ đại trong tự thân (Phật tánh). Lạy xuống một lạy là có thể làm cho tan biến cái bản ngã và có thể hoà nhập với mọi người, mọi loài và hoà nhập với chư Phật, Bồ tát trong mười phương và ba đời:

Cúi đầu kính lạy

Phật Pháp và Tăng

Trong khắp mười phương

Và ở trong con

Cùng khắp pháp giới

Thấu suốt ba đời

Con xin phủ phục

Quay về nương tựa.

Tất cả mọi sự thực tập đều rất dễ rơi vào hình thức và trống rỗng về nội dung. Nếu không có sự ý thức rõ rệt ý nghĩa và không thấy tầm quan trọng của sự lễ bái, chúng ta sẽ bị rơi vào ‘ngã mạn lễ’ và ‘cầu danh lễ’ và sự lễ bái chỉ là hình thức. Sự thực tập của chúng ta trở nên vô nghĩa nếu không có nội dung của tâm Bồ đề. Bởi tâm Bồ đề là tâm nguyện rộng lớn, một năng lượng xuất phát từ bên trong thôi thúc chúng ta thực tập.

“Ngoài tâm bồ đề,

Ngoài khao khát hiểu biết lớn

Ngoài nguyện ước thương yêu sâu

Con không còn ước mong nào nữa cả.”

Hiểu biết lớn (đại trí), thương yêu sâu (đại bi) là hai mặt của tâm Bồ đề. Niềm khao khát ấy thúc đẩy sự thực tập để làm ích lợi cho mọi loài và chính sự tu tập lại để đạt đến sự viên mãn của tâm ấy. Cho nên tâm Bồ đề là năng lực phát khởi và cũng là mục đích cuối cùng của công trình tu tập. ‘Vong thất Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp’. 



---o0o---

Quangduc.com
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#7
ĐIỀU KỲ DIỆU CỦA SỰ LỄ LẠY 

Lạt Ma Gendyn Rinpoche – Liên Hoa Việt dịch 


Tại sao chúng ta Lễ lạy? 

1. Sự Tịnh hóa tánh Kiêu mạn 

Trước tiên, chúng ta nên biết tại sao ta lễ lạy. Ta không lễ lạy để được người khác yêu quý. Ta không lễ lạy vì Đức Phật. Những ý niệm như thế hoàn toàn sai lầm. Đức Phật không phải là một thần linh của thế giới này. Chúng ta lễ lạy để tịnh hóa mọi tình huống trong quá khứ khi ta không kính trọng người khác, bận tâm với những thỏa mãn riêng tư và bản thân ta làm nhiều hành vi bất thiện. 

Sự lễ lạy giúp cho ta nhận thức rằng có điều gì đó còn có ý nghĩa hơn bản thân ta. Theo phương cách này chúng ta tịnh hóa tánh kiêu mạn mà ta từng tích tập trong vô lượng kiếp khi suy nghĩ: “Ta đúng,” “Ta tốt hơn những người khác,” hay “Ta là người quan trọng nhất.” Trải qua vô lượng kiếp chúng ta đã phát triển sự kiêu mạn là nguyên nhân của những hành động của ta và đã tích tập nghiệp là một nguồn mạch của những khổ đau và những vấn đề của ta. Mục đích của sự lễ lạy là để tịnh hóa nghiệp này và chuyển hóa tâm ta. Sự lễ lạy giúp ta nương tựa vào điều gì đó có ý nghĩa hơn sự kiêu mạn và chấp ngã của ta. Theo cách này, nhờ sự tràn trề lòng xác tín và sùng mộ, chúng ta thoát khỏi mọi sự ta từng tích tập do tánh kiêu mạn. 

2. Sự Tịnh hóa Thân, Ngữ, và Tâm 

Khi chúng ta lễ lạy ta tác động lên bình diện thân, ngữ, và tâm. Kết quả của việc thực hiện những lễ lạy là một sự tịnh hóa hết sức mạnh mẽ và triệt để. Sự thực hành này làm tan biến mọi điều bất tịnh, bất luận chúng thuộc loại nào, bởi chúng hoàn toàn được tích tập qua thân, khẩu, và tâm của chúng ta. Sự lễ lạy tịnh hóa tất cả ba bình diện. Qua phương diện vật lý (thân) của việc lễ lạy chúng ta tịnh hóa thân thể ta. Ta cúng dường thân ta cho Tam Bảo và tất cả chúng sinh, ước mong tất cả những nguyện ước của họ được hoàn thành. Nhờ việc lập lại thần chú quy y và ý nghĩa chúng ta gán cho nó, chúng ta tịnh hóa ngữ của ta. Nhờ sự xác tín nơi Tam Bảo ta phát triển thái độ giác ngộ và lòng sùng mộ. Bởi chúng ta tỉnh giác về những phẩm tính toàn hảo của sự quy y (nương tựa) và cúng dường mọi sự cho nó, những ngăn che trong tâm ta biến mất. Khi thân, ngữ, và tâm ta được tịnh hóa ta nhận thức rằng điều mà lúc đầu ta cho là thân ta thì thực sự là một hiển lộ của sự Giác ngộ, là lòng bi mẫn tích cực. Điều mà lúc đầu ta nghĩ là ngữ của ta thì thực sự là sự biểu lộ của sự Giác ngộ trên bình diện của sự hỉ lạc; tâm ta là bình diện chân lý của sự Giác ngộ. Chúng ta có thể nhận ra thực tại giác ngộ của thân, ngữ, và tâm ta - sự tràn đầy chân lý trí tuệ của chúng mà lúc ban đầu ta không ý thức được. Chúng ta nhận thức rằng thực hành này có thể dẫn dắt ta tới mục tiêu của ta là sự Giác ngộ, bởi ba bình diện biểu lộ trạng thái của một vị Phật xuất hiện tức thì sau khi ba bình diện của sự hiện hữu của ta – thân, ngữ, và tâm – được tịnh hóa. Chúng ta không phải kiếm tìm sự Giác ngộ ở nơi nào khác. Chúng ta không phải săn đuổi bất kỳ sự chứng ngộ viên mãn nào. Ba bình diện của sự Giác ngộ là những phẩm tính bẩm sinh chân thực của thân, ngữ, và tâm của chính ta. Trước đây ta đã không nhận ra điều đó. Sự lễ lạy giúp chúng ta khám phá ra nó. 

3. Những Lợi ích Vật lý của việc Lễ lạy 

Việc lễ lạy ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự quân bình và hài hòa trong thân thể ta. Những sự tắc nghẽn trong các kinh mạch năng lực của thân thể từ từ tan biến. Điều này giúp cho ta tránh được các bệnh tật, sự thiếu hụt năng lực, và những vấn đề khác. Tâm ta trở nên trong trẻo hơn, khả năng hiểu biết của ta tăng trưởng. 

Trạng thái của Tâm trong khi Lễ lạy 

Chúng ta nên lễ lạy với sự tràn trề lòng xác tín, hoan hỉ và động lực để làm lợi lạc cho người khác. 

1. Sự xác tín 

Chúng ta nên có sự xác tín nơi những phẩm tính toàn hảo của Tam Bảo và tin chắc rằng sự ban phước của Tam Bảo có thể giải trừ những ngăn che của tâm ta. Sự ban phước có thể xuất hiện và sự tịnh hóa có hiệu quả khi lòng xác tín của ta nơi thân, ngữ, và tâm gặp gỡ những phẩm tính chuyển hóa của thân giác ngộ, ngữ giác ngộ và tâm giác ngộ – những nguồn mạch của sự quy y. Nếu chúng ta không có sự xác tín và không thể mở lòng ra đối với Tam Bảo thì những sự lễ lạy sẽ chỉ là một trò phô diễn. 

2. Động lực làm Lợi lạc Người khác 

Khi chúng ta lễ lạy ta nên thấu hiểu rằng những thiện hạnh là suối nguồn hạnh phúc của tất cả chúng sinh. Lễ lạy là một điển hình tốt đẹp của sự thật này. Khi ta thực hành với thân, ngữ và tâm ta, ta cúng dường năng lực của ta cho người khác khi ước muốn nó mang lại cho họ hạnh phúc. Ta nên hoan hỉ về sự thật này và thực hành lễ lạy với sự hỉ lạc. 


Thực hành Đúng đắn 

1. Quán tưởng Cây Quy y 

Ta quán tưởng toàn thể cây quy y trong không gian trước mặt chúng ta. Trước tiên ta quán tưởng Đức Dorje Chang (Kim Cương Trì) – vị Lạt Ma tượng trưng cho mọi suối nguồn của sự quy y. Ta quán tưởng Lạt Ma là trung tâm của cây quy y. Ta nên hoàn toàn tỉnh giác rằng Dorje Chang là vị Thầy của ta và Ngài là tâm của Lạt Ma của ta. Ta nghĩ tưởng về Dorje Chang để quả quyết rằng sự hiển lộ của bản tánh của tâm không bị ô nhiễm bởi những tư tưởng quen thuộc của ta. Để giúp ta duy trì cái thấy thanh tịnh, cái thấy của trí tuệ, chúng ta quán tưởng thân tướng thanh tịnh toàn hảo này. Cùng lúc đó ta duy trì sự tỉnh giác rằng Dorje Chang là tâm của Lạt Ma của ta. Mọi sự xuất hiện trong không gian trước mặt ta thì giống như một cầu vồng hay một sự phản chiếu của một tấm gương; nó không phải là một sự vật. Nếu ta gặp khó khăn trong việc quán tưởng toàn thể cây quy y thì ta nên có sự xác tín rằng tất cả các đối tượng quy y thực sự ở trước mặt ta cho dù ta không thể lưu giữ các đối tượng ấy trong tâm ta. 

2. Sự Tỉnh giác về Bản thân ta và Những Người khác 

Chúng ta không đơn độc trong khi thực hành. Ta được vây quanh bởi toàn thể chúng sinh đầy khắp toàn thể vũ trụ. Ta quán tưởng cha ta ở bên phải và mẹ ta ở bên trái ta. Khi ta đứng giữa cha mẹ ta trong đời này ta nhận thức rằng mỗi một và mọi chúng sinh không loại trừ ai từng là cha mẹ của ta trong đời trước nào đó. Điều này giúp ta nhớ lại thiện tâm của tất cả cha mẹ của ta, tất cả chúng sinh, là những người đã giúp đỡ ta suốt trong vô lượng kiếp. 

Ta quán tưởng những người ta coi là những kẻ thù của ta ở trước mặt ta, giữa cây quy y và chúng ta. Ta nghĩ về những người gây ra cho ta những vấn đề và làm trở ngại việc thực hiện những chương trình của ta. Tất cả những người này rất quan trọng bởi họ giúp ta phát triển những phẩm tính như sự nhẫn nhục và lòng bi mẫn. Chúng ta thường muốn tránh những người như thế. Ta cố giữ một khoảng cách với họ. Ta không muốn nghĩ về họ. Việc đặt họ ở trước mặt ta giúp cho ta không quên họ. Việc đối xử với những kẻ thù theo cách như thế bảo vệ cho ta không bất kính đối với họ. 

Chúng ta tập trung sự chú tâm vào cây quy y. Ta tin tưởng rằng sự quy y có thể giải thoát tất cả chúng sinh khỏi nỗi đau khổ của sinh tử và có thể che chở ta khỏi bị phiền não mà nỗi khổ này gây ra. Trong một tâm thức như thế, được vây quanh bởi tất cả chúng sinh, chúng ta bắt đầu lập lại thần chú quy y. Mọi sự quanh ta bắt đầu rung động. Ta kinh nghiệm ánh sáng mạnh mẽ phát ra từ cây quy y. Ánh sáng chiếu sáng chúng ta do bởi lòng sùng mộ của riêng ta. Điều này làm tâm thức chúng ta rộng mở hơn nữa. Sau đó ta bắt đầu lễ lạy. Chúng ta là những Đạo sư của buổi lễ và hướng dẫn toàn bộ sự thực hành. Việc lễ lạy của ta lập tức gây cảm hứng khiến tất cả chúng sinh bắt đầu thực hành tương tự. Ta nghe tất cả chúng sinh lập lại thần chú và thực hành lễ lạy. Những sự rung động này đầy ngập toàn thể vũ trụ. 

Việc duy trì một thị kiến như thế thay vì chỉ tập trung vào bản thân ta mở rộng hoạt động của ta. Ở một mặt nó mang lại cho ta sức mạnh, ở mặt khác nó cho ta động lực để thực hành. Tất cả chúng sinh cùng lễ lạy với chúng ta mang lại cho ta sự khích lệ. Khi kinh nghiệm lượng năng lực khổng lồ từ tất cả chúng sinh đang lễ lạy, chúng ta cảm thấy tin tưởng và sùng mộ Tam Bảo hơn nữa. Cảm giác “cưỡi ngựa cùng đám đông” giúp chúng ta nhanh chóng hoàn thành việc lễ lạy và trải nghiệm hạnh phúc lớn lao trong thời gian thực hành. 

3. Ý nghĩa Tượng trưng của Mỗi Yếu tố trong Hành vi Lễ lạy 

Để mang lại cho việc thực hành của ta một tầm kích tối thượng chúng ta nên chú ý tới ý nghĩa tượng trưng của một lễ lạy. Khi đôi bàn tay chắp lại của ta chạm vào trán, ta khẩn cầu các đối tượng quy y ban phước của thân các ngài. Đồng thời ta quán tưởng rằng sự ban phước của thân giác ngộ của các ngài chiếu tỏa vào ta, xuyên qua thân ta và làm tan biến những che chướng của nó. Sau đó đôi bàn tay chắp lại của ta chạm vào cổ họng. Chúng ta khẩn cầu sự ban phước của ngữ. Đồng thời ta nghĩ tưởng rằng sự ban phước của ngữ giác ngộ của các ngài phát ra từ những đối tượng quy y và tịnh hóa mọi che chướng mà ta từng tích tập qua ngữ của ta. Trong phương cách như thế ta thoát khỏi những che chướng này. Khi đôi bàn tay ta chạm vào tim ta khẩn cầu các đối tượng quy y ban phước của tâm giác ngộ của các ngài. Nó giúp ta thoát khỏi mọi ngăn che và những tà kiến trong tâm ta. Ta tin tưởng rằng mọi ước muốn xấu xa ta chất đầy tâm thức ta từ vô thủy hoàn toàn được tịnh hóa. Ta nên nghĩ rằng ta đang nhận sự ban phước trọn vẹn của thân, ngữ, và tâm giác ngộ từ Tam Bảo. Nhờ năng lực của sự ban phước này, mọi ngăn che, nghiệp xấu, và những khuynh hướng tiêu cực trong thân, ngữ, và tâm ta được tịnh hóa. Chúng ta hoàn toàn thanh tịnh và bất khả phân với thân, ngữ, và tâm của Lạt Ma và Tam Bảo. 

Khi năm điểm (hai đầu gối, hai bàn tay, và trán) của thân ta chạm mặt đất ta nên nhận thức rằng năm cảm xúc phiền não – tham, sân, si, kiêu ngạo và ganh tị – ra khỏi thân ta và biến mất trong trái đất. Theo phương cách như thế chúng ta kinh nghiệm sự tịnh hóa trọn vẹn. 

Hai phương diện của sự lễ lạy, việc làm tan biến những độc chất của tâm và nhận sự ban phước của Tam Bảo, tạo nên sự chuyển hóa tham, sân, si, kiêu ngạo và ganh tị thành năm trí tuệ tương ứng. Ta nên xác tín rằng sự chuyển hóa thực sự xảy ra, tin rằng ta có khả năng bẩm sinh, tự nhiên để phát triển những trí tuệ này. 

Phương diện tượng trưng này của sự lễ lạy sẽ chỉ làm việc nếu ta có sự xác tín. Sự xác tín của ta có thể mang lại cho ta sự tịnh hóa vĩ đại này. Việc thực hành mà không có sự xác tín thì giống như bài tập thể dục nhịp điệu. 

4. Sự quan trọng của Lòng Sùng mộ 

Càng lễ lạy thì lòng sùng mộ của ta sẽ càng tăng trưởng. Cuối cùng ta sẽ đạt tới chỗ không còn nghĩ rằng thân, ngữ, và tâm ta khác biệt với thân, ngữ, và tâm của Tam Bảo. Những sự lễ lạy mang lại một kết quả kỳ diệu; chúng là suối nguồn của một sự ban phước hết sức mạnh mẽ và một sự tịnh hóa lớn lao. Ta không nên nghĩ rằng việc lễ lạy chỉ bao gồm một hoạt động của thân thể ta. Sự ban phước và tịnh hóa xuất hiện chủ yếu là bởi lòng sùng mộ. 

5. Sự Tăng trưởng Sức mạnh của việc Thực hành 

Ta thực hành với một tâm thức mở trống. Ta không nên nghĩ rằng ta là người duy nhất lễ lạy. Tất cả chúng sinh đang thực hành lễ lạy cùng chúng ta. Ta không phải giới hạn tư tưởng khi chỉ nghĩ tới bản thân ta. Ta không nên tự khẳng định bằng cách nghĩ: “Tôi đang lễ lạy.” Nếu nghĩ như thế ta tích tập tiềm năng tốt lành tương ứng với hành động đang lễ lạy. Nếu ta nghĩ rằng tất cả chúng sinh đang thực hành lễ lạy cùng ta, tiềm năng tốt lành mà ta tích tập sẽ còn to lớn hơn nữa. Khi đang thực hành lễ lạy ta nên nghĩ rằng một trăm hóa thân của ta đang lễ lạy cùng với ta. Nếu ta có thể quán tưởng thì thực hành của ta sẽ mạnh mẽ hơn. Ta không nên tính thêm các lễ lạy nếu ta quán tưởng có thêm chúng sinh đang lễ lạy cùng ta. Đây chỉ là một trong những phương pháp đặc biệt của Kim Cương thừa trợ giúp thực hành của ta được mạnh mẽ. 

6. Sự Nối kết Lễ lạy với việc Làm An định Tâm 

Sau một lát thân thể ta sẽ mỏi mệt. Đây là giây phút ích lợi để thực hành an định tâm. Khi thân và tâm mệt mỏi, sự tham luyến tăng trưởng. Nếu ta ngưng lễ lạy một lát thì tâm ta tự nó sẽ an tĩnh một cách tự nhiên mà không cần phải dụng công. Sau một lát thân và tâm ta lại cảm thấy muốn nghỉ ngơi, tâm ta trở nên xao động. Đây là dấu hiệu bắt đầu lại việc lễ lạy. Khi chúng ta luân phiên thay đổi sự lễ lạy và an định tâm thì ta có thể thực hành không ngừng nghỉ. 

Tiếp cận nỗi Khổ đau 

Đôi khi ta có thể kinh nghiệm những khó khăn trong việc thực hành lễ lạy. Sự đau đớn và mệt nhọc sẽ xuất hiện trên đường đi của ta. Luôn luôn có một vài mối quan tâm: đau đớn ở đầu gối, khuỷu tay, lưng dưới, mọi nơi. Không có lý do gì phải nhụt chí bởi điều đó hay mất sự xác tín ở việc thực hành. Ta cũng không nên làm mạnh mẽ thêm cảm xúc bằng cách tự nói: “Tôi đau đớn quá, tôi cảm thấy rất yếu.” Nếu làm thế chúng ta hoàn toàn tự làm ngăn trở mình. Ta mất đi khả năng hành động. Khi sự đau đớn được cho phép “có quyền,” nó có thể trở thành một chướng ngại thực sự trên con đường thực hành xa rộng hơn nữa của ta. Ta nên sử dụng mọi kinh nghiệm khó chịu, dù là thuộc tinh thần hay thể xác, như một phương tiện để giác ngộ. Những kinh nghiệm như thế nên khích lệ chúng ta hướng tới nỗ lực to lớn hơn trên con đường của ta. 

Mọi sự ta kinh nghiệm phụ thuộc vào trạng thái tâm của ta. Nếu ta muốn kinh nghiệm những sự việc một cách khác biệt thì ta phải thay đổi trạng thái tâm. Nếu ta sắp xếp để chuyển hóa một cách hiệu quả nỗi đau khổ của ta thành một kinh nghiệm tích cực và lợi lạc thì nỗi khổ sẽ hoàn toàn biến mất không để lại dấu vết nào. Điều này sẽ cho ta thêm hạnh phúc và hỉ lạc. 

Việc lễ lạy là một phương cách tích tập tiềm năng thực sự tốt lành. Đó là một phương pháp dễ dàng và hiệu quả để tịnh hóa những hành vi tiêu cực của chúng ta trong quá khứ. Ngược lại, nếu vì đau đớn và mệt nhọc mà chúng ta tiếp tục lễ lạy trong sự chán nản thì sự tịnh hóa đích thực không xảy ra. 

Những Kỹ thuật để Làm việc với những Kinh nghiệm Khó chịu 

1. Sự giảm bớt nghiệp 

Chúng ta không nên nghĩ rằng đau khổ là một điều hết sức trầm trọng. Ta nên nhớ rằng đau khổ chỉ là nghiệp, nó vô thường như mọi sự khác. Đau khổ có lúc chấm dứt. Khi nghiệp của ta chín mùi ta nên an trụ thư thản và chú ý tới dòng chảy tự nhiên này của những sự việc. Nếu chúng ta sắp xếp để làm đầy thực hành của ta với sự hiểu biết về lẽ vô thường của nghiệp thì tự nó sẽ tan biến. Nghiệp không phải là cái gì chúng ta phải chấp nhận hay từ bỏ. Nó giống như việc ta bắt buộc phải thanh toán hóa đơn là điều tự động xuất hiện. Khi ta đã trang trải những món nợ của ta, nghiệp tự nó biến mất và không có gì phải từ bỏ. 

2. Sự Tịnh hóa Nghiệp bằng Sự Khó chịu Thể xác 

Sự thực hành Pháp tiệt trừ những ngăn che và ô nhiễm là kết quả của những hành vi trước đây của ta. Ta nên nhận thức sự khó chịu thể xác mà ta kinh nghiệm trong khi thực hành là kết quả của lòng bi mẫn của Tam Bảo. Nỗi đau khổ nhỏ bé tương đối này giải tan nghiệp tương lai khiến nó không chín mùi. Vì lý do này ta nên kinh nghiệm nỗi đau khổ này với sự hỉ lạc và xác tín. Những kinh nghiệm khó chịu như thế cho thấy sự thực hành đang vận hành. Việc sử dụng những phương pháp tịnh hóa có thể dẫn tới nhiều kinh nghiệm khó chịu trên bình diện thân, ngữ và tâm. Đồng thời ta đang thoát khỏi những khó khăn và ngăn che trong tâm thức ta. Khi ta kinh nghiệm sự tịnh hóa như một kết quả của việc thực hành của ta, sự xác tín của ta nơi Tam Bảo tăng trưởng. Ta cảm thấy một sự biết ơn sâu xa bởi những điều bực bội nhỏ bé tương đối này giúp giải thoát ta khỏi những điều kiện mà nếu để chúng chín mùi thì nỗi đau khổ còn to lớn hơn thế. 

3. Ý thức về Sự Chấp Ngã nhờ Đau khổ 

Ta nên coi mỗi đau khổ là một pháp đối trị cho sự chấp ngã. Việc kinh nghiệm nỗi khổ của riêng ta tự nó là một bằng chứng của thái độ quy ngã của ta đối với mọi hiện tượng. Đồng thời, những tình huống như thế (nơi ta kinh nghiệm đau khổ) mang lại cho ta khả năng thoát khỏi sự chấp ngã. Nếu ta không có ảo tưởng-bản ngã thì ta có thể kinh nghiệm không đau khổ (không trải nghiệm đau khổ.) Ta cũng nên thấu suốt nguyên nhân nỗi khổ của ta: ta kinh nghiệm nó do bởi những hành vi trước đây của ta là là kết quả của sự chấp ngã. Bởi quá chú trọng vào bản thân, ta gieo trồng nhiều chủng tử nghiệp mà giờ đây chín mùi thành sự đau khổ. Ta có thể coi đau khổ như một giáo lý chỉ rõ cho ta kết quả của những hành vi là hậu quả của việc chú trọng vào bản thân. Từ vô thủy sự chấp ngã này đã là nguyên nhân khiến chúng ta bị vướng kẹt trong vòng luân hồi sinh tử. 

4. Quan sát Bản ngã của ta 

Bản ngã muốn được thỏa mãn trong mọi lúc. Chừng nào mà mọi sự tốt đẹp thì bản ngã của ta hài lòng và cố gắng duy trì trạng thái này. “Bản ngã” của ta bám dính vào sự hài lòng này và tâm ta bị đau khổ với sự ham muốn – tham độc. Khi những hoàn cảnh tốt đẹp ra đi, bản ngã vẫn bám dính vào chúng bởi nó muốn được hài lòng và càng có thêm sự tham luyến và ham muốn xuất hiện trong tâm ta. Nếu xảy ra những tình huống khó chịu thì bản ngã phản ứng bằng sự giận dữ và thù ghét. Nó cố gắng né tránh những tình huống khó chịu ấy và thay thế chúng bằng những kinh nghiệm dễ chịu. Theo cách này tâm ta phiền muộn và không vui. Chúng ta có thể nhận ra tác động liên tiếp của bản ngã trong mọi tình huống. Nó không ngừng phân loại những kinh nghiệm là dễ chịu hay khó chịu. Nếu chúng ta tuân theo bản ngã thì ta tích tập nghiệp mà không sớm thì muộn sẽ chín mùi như những loại đau khổ khác nhau. 

5. Những Kinh nghiệm Khó chịu như một sự Kiểm tra tánh Kiên trì của ta 

Ta nên nhớ tới hứa nguyện của ta là sử dụng thân, ngữ, và tâm ta để làm lợi lạc người khác. Khi biết rằng ta làm việc vì sự lợi lạc của tất cả chúng sinh ta nên giữ gìn hứa nguyện ấy, điều phục những khó khăn nội tại của ta, và tiếp tục việc thực hành./. 


Nguyên tác: “Lama Gendyn Rinpoche on PROSTRATIONS” 
Peter Piasecki và Susan Bixby dịch từ tạp chí Ba Lan Diamentowa Droga (Con đưởng Kim Cương). 
http://www.diamondway-buddhism.org/teachings/english/bt5gendyn.html 

Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa.

thuvienhoasen.org
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#8
Cách xưng hô trong Phật giáo Việt Nam

Thích-Chân-Tuệ
Cơ-sở Phật-học Tịnh-Quang Canada


Trong khóa nghiên tu an cư mùa hạ năm 2005, tại Tổ đình Từ Quang Montréal, Canada, các thắc mắc sau đây được nêu lên trong phần tham luận:

1) Khi nào gọi các vị xuất gia bằng Thầy, khi nào gọi bằng Đại Đức, Thượng Tọa hay Hòa Thượng?

2) Khi nào gọi các vị nữ xuất gia bằng Ni cô, Sư cô, Ni sư hay Sư Bà? Có bao giờ gọi là Đại Đức Ni, Thượng Tọa Ni hay Hòa Thượng Ni chăng?

3) Khi ông bà cha mẹ gọi một vị sư là Thầy (hay Sư phụ), người con hay cháu phải gọi là Sư ông, hay cũng gọi là Thầy? Như vậy con cháu bất kính, coi như ngang hàng với bậc bề trên trong gia đình chăng?

4) Một vị xuất gia còn ít tuổi đời (dưới 30 chẳng hạn) có thể nào gọi một vị tại gia nhiều tuổi (trên 70 chẳng hạn) bằng “con” được chăng, dù rằng vị tại gia cao niên đó xưng là “con” với vị xuất gia? 

5) Sau khi xuất gia, một vị tăng hay ni xưng hô như thế nào với người thân trong gia đình?

* * *

Trước khi đi vào phần giải đáp các thắc mắc trên, chúng ta cần thông qua các điểm sau đây:

1) Chư Tổ có dạy: “Phật pháp tại thế gian”. Nghĩa là: việc đạo không thể tách rời việc đời. Nói một cách khác, đạo ở tại đời, người nào cũng đi từ đời vào đạo, nương đời để ngộ đạo, tu tập để độ người, hành đạo để giúp đời. Chư Tổ cũng có dạy: “Hằng thuận chúng sanh”. Nghĩa là: nếu phát tâm tu theo Phật, dù tại gia hay xuất gia, đều nên luôn luôn thuận theo việc dùng tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự) để đem an lạc cho chúng sanh, tức là cho mọi người trong đời, bao gồm những người đang tu trong đạo.

2) Từ đó, chúng ta chia cách xưng hô trong đạo Phật ra hai trường hợp: Một là, cách xưng hô chung trước đại chúng nhiều người, có tính cách chính thức, trong các buổi lễ, cũng như trên các văn thư, giấy tờ hành chánh. Hai là, cách xưng hô riêng giữa hai người, tại gia hay xuất gia, mà thôi. Người chưa rõ cách xưng hô trong đạo không nhứt thiết là người chưa hiểu đạo, chớ nên kết luận như vậy. Cho nên, việc tìm hiểu và giải thích là bổn phận của mọi người, dù tại gia hay xuất gia.

3) Có hai loại tuổi được đề cập đến, đó là: tuổi đời và tuổi đạo. Tuổi đời là tuổi tính theo đời, kể từ năm sinh ra. Tuổi đạo là tuổi thường được nhiều người tính từ ngày xuất gia tu đạo. Nhưng đúng ra, tuổi đạo phải được tính từ năm thụ cụ túc giới và hằng năm phải tùng hạ tu học theo chúng và đạt tiêu chuẩn, mỗi năm như vậy được tính một tuổi hạ. Nghĩa là tuổi đạo còn được gọi là tuổi hạ (hay hạ lạp). Trong nhà đạo, tất cả mọi việc, kể cả cách xưng hô, chỉ tính tuổi đạo, bất luận tuổi đời. Ở đây không bàn đến việc những vị chạy ra chạy vào, quá trình tu tập trong đạo không liên tục.

Bây giờ, chúng ta bắt đầu từ việc một người tuổi đời dưới 20 phát tâm xuất gia, hay do gia đình đem gửi gắm vào cửa chùa, thường được gọi là chú tiểu, hay điệu. Đó là các vị đồng chơn nhập đạo. Tùy theo số tuổi, vị này được giao việc làm trong chùa và học tập kinh kệ, nghi lễ. Thời gian sau, vị này được thụ 10 giới, gọi là Sa di (nam) hay Sa di ni (nữ), hoặc Chú (nam) hay Ni cô (nữ). Khi tuổi đời dưới 14, vị này được giao việc đuổi các con quạ quấy rầy khu vực tu thiền định của các vị tu sĩ lớn tuổi hơn, cho nên gọi là “khu ô sa di” (sa di đuổi quạ).

Đến năm được ít nhất là 20 tuổi đời, và chứng tỏ khả năng tu học, đủ điều kiện về tu tánh cũng như tu tướng, vị này được thụ giới cụ túc, tức là 250 giới tỳ kheo (nam) hay 348 giới tỳ kheo ni (nữ) và được gọi là Thầy (nam) hay Sư cô (nữ). Trên giấy tờ thì ghi là Tỳ Kheo (nam) hay Tỳ Kheo Ni (nữ) trước pháp danh của vị xuất gia. Ở đây xin nhắc thêm, trước khi thụ giới tỳ kheo ni, vị sa di ni (hoặc thiếu nữ 18 tuổi đời xuất gia và chưa thụ giới sa di ni) được thụ 6 chúng học giới trong thời gian 2 năm, được gọi là Thức xoa ma na ni. Cấp này chỉ có bên ni, bên tăng không có. Tuy nhiên trong tạng luật, có đến 100 chúng học giới chung cho cả tăng và ni. Cũng cần nói thêm, danh từ tỳ kheo có nơi còn gọi là tỷ kheo, hay tỳ khưu, tỷ khưu. Bên nam tông, tỷ kheo có 227 giới, tỷ kheo ni có 311 giới. 

Giới cụ túc (tỳ kheo hay tỳ kheo ni) là giới đầy đủ, viên mãn, cao nhất trong đạo Phật để từng vị xuất gia tu tập cho đến lúc mãn đời (thường gọi là viên tịch), không phải thụ giới nào cao hơn. Việc thụ bồ tát giới (tại gia hay xuất gia) là do sự phát tâm riêng của từng vị theo bắc tông, nam tông không có giới này. Ở đây, xin nói thêm rằng: Bắc tông (hay bắc truyền) là danh từ chỉ các tông phái tu theo sự truyền thừa về phương bắc của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tây Tạng, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật bổn và Việt Nam. Nam tông (hay nam truyền, nguyên thủy) là danh từ chỉ các tông phái tu theo sự truyền thừa về phương nam của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Cao Miên và Việt Nam.

Trong lúc hành đạo, tức là làm việc đạo trong đời, đem đạo độ đời, nói chung sự sinh hoạt của Phật giáo cần phải thiết lập tôn ti trật tự (cấp bậc) có danh xưng như sau theo hiến chương của giáo hội Phật giáo:

1) Năm 20 tuổi đời, vị xuất gia thụ giới tỳ kheo được gọi là Đại Đức.

2) Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo được 20 tuổi đạo, được gọi là Thượng Tọa.

3) Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo được 40 tuổi đạo, được gọi là Hòa Thượng.

Còn đối với bên nữ (ni bộ):

4) Năm 20 tuổi đời, vị nữ xuất gia thụ giới tỳ kheo ni được gọi là Sư cô (hiện nay ở Canada, có giáo hội gọi các vị tỳ kheo ni này là Đại Đức).

5) Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 20 tuổi đạo, được gọi là Ni sư.

6) Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 40 tuổi đạo, được gọi là Sư bà (bây giờ gọi là Ni trưởng).

Đó là các danh xưng chính thức theo tuổi đời và tuổi đạo (hạ lạp), được dùng trong việc điều hành Phật sự, trong hệ thống tổ chức của giáo hội Phật giáo, không được lạm dụng tự xưng, tự phong, tự thăng cấp, mà phải được xét duyệt và chấp thuận bởi một hội đồng giáo phẩm có thẩm quyền, và được cấp giáo chỉ tấn phong, nhân dịp đại lễ hay đại hội Phật giáo, trong các giới đàn, hay trong mùa an cư kết hạ hằng năm. 

Như trên, chúng ta có thể hiểu rằng: Sư cô nghĩa là Đại đức bên ni bộ. Ni sư nghĩa là Thượng tọa bên ni bộ. Sư bà (hay Ni trưởng) nghĩa là Hòa thượng bên ni bộ. Bởi vậy cho nên, các buổi lễ hay văn thư chính thức, thường nêu lên là: “Kính bạch chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni”, chính là nghĩa đó vậy. Tuy vậy, trên thực tế, chưa thấy có nơi nào chính thức dùng các danh xưng: Đại đức ni, Thượng tọa ni, hay Hòa thượng ni. Nếu có nơi nào đã dùng, chỉ là cục bộ, chưa chính thức phổ biến, nghe không quen tai nhưng không phải là sai.

Đối với các bậc Hòa Thượng mang trọng trách điều hành các cơ sở giáo hội Phật giáo trung ương cũng như địa phương, hay các Đại tùng lâm, Phật học viện, Tu viện, thường là các vị trên 80 tuổi đời, được tôn xưng là Đại Lão Hòa Thượng hay Trưởng Lão Hòa Thượng. Các vị thuộc hàng giáo phẩm này thường được cung thỉnh vào các hội đồng trưởng lão, hoặc hội đồng chứng minh tối cao của các giáo hội Phật giáo. Tuy nhiên, khi ký các thông bạch, văn thư chính thức, chư tôn đức vẫn xưng đơn giản là Tỳ kheo, hay Sa môn (có nghĩa là: thầy tu).

* * *

Đến đây, chúng ta nói về cách xưng hô giữa các vị xuất gia với nhau và giữa các vị cư sĩ Phật tử tại gia và tu sĩ xuất gia trong đạo Phật.

1) Giữa các vị xuất gia, thường xưng con (hay xưng pháp danh, pháp hiệu) và gọi vị kia là Thầy (hoặc gọi cấp bậc hay chức vụ vị đó đảm trách). Bên tăng cũng như bên ni, đều gọi sư phụ bằng Thầy, (hay Sư phụ, Tôn sư, Ân sư). Các vị xuất gia cùng tông môn, cùng sư phụ, thường gọi nhau là Sư huynh, Sư đệ, Sư tỷ, Sư muội, và gọi các vị ngang vai vế với Sư phụ là Sư thúc, Sư bá. Có nơi dịch ra tiếng Việt, gọi nhau bằng Sư anh, Sư chị, Sư em. Ngoài đời có các danh xưng: bạn hữu, hiền hữu, thân hữu, hội hữu, chiến hữu. Trong đạo Phật có các danh xưng: đạo hữu (bạn cùng theo đạo), pháp hữu (bạn cùng tu theo giáo pháp). Các danh xưng: tín hữu (bạn cùng tín ngưỡng, cùng đức tin), tâm hữu (bạn cùng tâm, đồng lòng) không thấy được dùng trong đạo Phật.

2) Khi tiếp xúc với chư tăng ni, quí vị cư sĩ Phật tử tại gia (kể cả thân quyến của chư tăng ni) thường đơn giản gọi bằng Thầy, hay Cô, (nếu như không biết rõ hay không muốn gọi phẩm trật của vị tăng ni có tính cách xã giao), và thường xưng là con (trong tinh thần Phật pháp, người thụ ít giới bổn tôn kính người thụ nhiều giới bổn hơn, chứ không phải tính tuổi tác người con theo nghĩa thế gian) để tỏ lòng khiêm cung, kính Phật trọng tăng, cố gắng tu tập, dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, cống cao ngã mạn, mong đạt trạng thái: niết bàn vô ngã, theo lời Phật dạy. Có những vị cao tuổi xưng tôi hay chúng tôi với vị tăng ni trẻ để tránh ngại ngùng cho cả hai bên. Khi qui y Tam bảo thụ ngũ giới (tam qui ngũ giới), mỗi vị cư sĩ Phật Tử tại gia có một vị Thầy (Tăng bảo) truyền giới cho mình. Vị ấy được gọi là Thầy Bổn sư. Cả gia đình có thể cùng chung một vị Thầy Bổn sư, tất cả các thế hệ cùng gọi vị ấy bằng Thầy. Theo giáo phái khất sĩ, nam tu sĩ được gọi chung là Sư và nữ tu sĩ được gọi chung là Ni. Còn nam tông chỉ có Sư, không có hay chưa có Ni. Việc tâng bốc, xưng hô không đúng phẩm vị của tăng ni, xưng hô khác biệt trước mặt và sau lưng, tất cả đều nên tránh, bởi vì không ích lợi cho việc tu tâm dưỡng tánh. 

3) Khi tiếp xúc với quí vị cư sĩ Phật tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, chư tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi (hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni), cũng có khi chư tăng ni xưng là Thầy, hay Cô, và gọi quí vị là đạo hữu, hay quí đạo hữu. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia bằng pháp danh, có kèm theo (hay không kèm theo) tiếng xưng hô của thế gian. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia là “quí Phật tử”. Chỗ này không sai, nhưng có chút không ổn, bởi vì xuất gia hay tại gia đều cùng là Phật tử, chứ không riêng tại gia là Phật tử mà thôi. Việc một Phật tử xuất gia (tăng ni) ít tuổi gọi một Phật tử tại gia nhiều tuổi bằng “con” thực là không thích đáng, không nên. Không nên gọi như vậy, tránh sự tổn đức. Không nên bất bình, khi nghe như vậy, tránh bị loạn tâm. Biết rằng mọi chuyện trên đời: ngôi thứ, cấp bậc, đều có thể thay đổi, nhưng giá trị tuổi đời không đổi, cứ theo thời gian tăng lên. Theo truyền thống đông phương, tuổi tác (tuổi đời) rất được kính trọng trong xã hội, dù tại gia hay xuất gia.

4) Trong các trường hợp tiếp xúc riêng, tùy thuận theo đời, không có tính cách chính thức, không có tính cách thuyết giảng, chư tăng ni có thể gọi các vị cư sĩ Phật tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, một cách trân trọng, tùy theo tuổi tác, quan hệ, như cách xưng hô xã giao người đời thường dùng hằng ngày. Danh xưng Cư sĩ hay Nữ Cư sĩ thường dùng cho quí Phật tử tại gia, qui y Tam bảo, thụ 5 giới, phát tâm tu tập và góp phần hoằng pháp. Còn được gọi là Ưu bà tắc (Thiện nam, Cận sự nam) hay Ưu bà di (Tín nữ, Cận sự nữ).

5) Chúng ta thử bàn qua một chút về ý nghĩa của tiếng xưng “con” trong đạo Phật qua hình ảnh của ngài La Hầu La. Ngài là con của đức Phật theo cả hai nghĩa: đời và đạo. Ngài sớm được tu tập trong giới pháp, công phu và thiền định khi tuổi đời hãy còn thơ. Ngài không ngừng tu tập, cuối cùng đạt được mục đích tối thượng. Ngài thực sự thừa hưởng gia tài siêu thế của đức Phật, nhờ diễm phúc được làm “con” của bậc đã chứng ngộ chân lý. Ngài là tấm gương sáng cho các thế hệ Phật tử tại gia (đời) cũng như xuất gia (đạo), bất luận tuổi tác, tự biết mình có phước báo nhiều kiếp, hoan hỷ được xưng “con” trong giáo pháp của đức Phật. 

6) Đối với các vị bán thế xuất gia, nghĩa là đã lập gia đình trước khi vào đạo, vẫn phải trải qua các thời gian tu tập và thụ giới như trên, cho nên cách xưng hô cũng không khác. Tuy nhiên để tránh việc gọi một người đứng tuổi xuất gia (trên 40, 50) là chú tiểu, giống như gọi các vị trẻ tuổi, có nơi gọi các vị bán thế xuất gia này là Sư chú, hay Sư bác. Hai từ ngữ này có nơi mang ý nghĩa khác. Việc truyền giới cụ túc, hay tấn phong, có khi không đợi đủ thời gian như trên đây, vì nhu cầu Phật sự của giáo hội, hay nhu cầu hoằng pháp của địa phương, nhất là đối với các vị bán thế xuất gia có khả năng hoằng pháp, đảm nhận trọng trách, nghiên cứu tu tập trước khi vào đạo.

7) Vài xưng hô khác trong đạo như: Sư ông, Sư cụ thường dành gọi vị sư phụ của sư phụ mình, hoặc gọi chư tôn đức có hạ lạp cao, thu nhận nhiều thế hệ đệ tử tại gia và xuất gia. Một danh xưng nữa là Pháp sư, dành cho các vị xuất gia tăng hay ni (sư) có khả năng và hạnh nguyện thuyết pháp (pháp) độ sanh. Ngoại đạo lạm dụng danh xưng này chỉ các ông bà thầy pháp, thầy cúng. 

8) Danh xưng Sư tổ được dành cho chư tôn đức lãnh đạo các tông phái còn tại thế, và danh xưng Tổ sư được dành cho chư tôn đức đã viên tịch, được hậu thế truy phong vì có công lao trọng đại đối với nền đạo. Đối với các bậc cao tăng thạc đức thường trụ ở một tự viện, người trong đạo thường dùng tên của ngôi già lam đó để gọi quí ngài, tránh gọi bằng pháp danh hay pháp hiệu của quí ngài, để tỏ lòng tôn kính.

9) Ngày xưa khi đức Phật còn tại thế, các vị tỳ kheo thường dùng tiếng Ðại Ðức (bậc thầy đức độ lớn lao, phúc tuệ lưỡng toàn) để xưng tán Ngài, mỗi khi có việc cần thưa thỉnh. Các vị đệ tử lớn của đức Phật cũng được gọi là Ðại Ðức. Trong các giới đàn ngày nay, các giới tử cũng xưng tán vị giới sư là Đại Đức. 

10) Nói chung, cách xưng hô trong đạo Phật nên thể hiện lòng tôn kính lẫn nhau, noi theo Thường bất khinh Bồ tát, bất tùy phân biệt, bất luận tuổi tác, dù tại gia hay xuất gia, nhằm ngăn ngừa tư tưởng luyến ái của thế tục, nhắm thẳng hướng giác ngộ chân lý, giải thoát sinh tử khổ đau, vượt khỏi vòng luân hồi loanh quanh luẩn quẩn. Nhất giả lễ kính chư Phật. Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh. Cho nên đơn giản nhất là “xưng con gọi Thầy”. Theo các bộ luật bắc tông và nam tông còn có nhiều chi tiết hơn.

* * *

Tóm lại, ngôn ngữ, danh từ chỉ là phương tiện tạm dùng giữa con người với nhau, trong đạo cũng như ngoài đời, có thể thay đổi theo thời gian và không gian, cho nên cách xưng hô trong đạo Phật tùy duyên, không có nguyên tắc cố định, tùy theo thời đại, hoàn cảnh, địa phương, tông phái, hay tùy theo quan hệ giữa hai bên. Đó là phần tu tướng. 

Các vị phát tâm xuất gia tu hành, các vị phát tâm tu tập tại gia, đã coi thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ, nếu có, trong nhà đạo. Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không, xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, tránh sự tranh cãi. Nơi đây không bàn đến cách xưng hô của những người không thực sự phát tâm tu tập, hý ngôn hý luận, náo loạn thiền môn, dù tại gia cũng như xuất gia. Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai. Nhất niệm sân tâm khởi, thiêu vạn công đức lâm, chính là nghĩa như vậy. 

Cách xưng hô nên làm cho mọi người, trong đạo cũng như ngoài đời, cảm thấy an lạc, thoải mái, hợp với tâm mình, không trái lòng người, không quá câu nệ chấp nhứt, thế thôi! Đó là phần tu tâm.

Trong đạo Phật, cách xưng hô có thể biến đổi nhưng có một điều quan trọng bất biến, không biến đổi, đó là phẩm hạnh, phẩm chất, đức độ, sự nổ lực, cố gắng tu tâm dưỡng tánh không ngừng, cho đến ngày đạt mục đích cứu cánh: giác ngộ và giải thoát, đối với Phật tử tại gia cũng như xuất gia. 

Đó chính là một phần ý nghĩa của “tùy duyên bất biến” trong đạo Phật vậy. ■

Cơ-sở Phật-học Tịnh-Quang Canada

Email: cutranlacdao@yahoo.com

http://www.cosophathoctinhquangcanada.org/

http://www.buddhismtoday.com/viet/vh/cach_xungho_pg.htm
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#9
Nghi Thức thọ Tam Quy và Ngũ Giới



Phật tử đọc:
Bạch Đại Đức, chúng con xin thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích.

Bạch Đại Đức, chúng con xin thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích, lần thứ nhì.
Bạch Đại Đức, chúng con xin thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích, lần thứ ba.

Sư đọc:
Con đem hết lòng thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc A La Hán cao thượng, đã chứng quả Chánh Biến Tri, do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy. (3 lần)


Phật tử đọc:
Con đem hết lòng thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc A La Hán cao thượng, đã chứng quả Chánh Biến Tri, do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy. (3 lần)


Sư đọc: (Sư đọc từng câu, và Phật tử đọc theo)
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ nhì.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ nhì.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.


Sư đọc:
Pháp quy y Tam Bảo tròn đủ chỉ có bấy nhiêu.


Phật Tử đọc:
Dạ xin vâng.


Sư đọc:[b] (Sư đọc từng câu, và Phật tử đọc theo)[/b]

  1. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh.

  2. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp.

  3. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà hạnh.

  4. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối, nói lời đâm thọc chửi rủa mắng nhiếc, nói lời vô ích.

  5. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dễ duôi uống rượu và dùng các chất say.

Sư đọc:
Chư thiện nam, tín nữ sau khi đã thọ trì Tam quy và Ngũ giới rồi, hãy ráng vâng giữ hành theo cho đến trọn đời, chẳng nên dễ duôi.


Phật tử:
Dạ xin vâng.


Sư đọc:
Các chúng sanh được sinh về cõi trời cũng nhờ giữ giới, được giầu sang cũng nhờ giữ giới, được giải thóat, nhập Niết Bàn cũng nhờ giữ giới. Bởi các cớ ấy nên chư Thiện tín hãy ráng thọ trì giới luật trong sạch đừng để lấm nhơ.

Phật tử đọc:
Lành thay.



Nghi Thức thọ Tam Quy và Bát Quan Trai Giới


Phật tử đọc:
Bạch Đại Đức, chúng con xin thọ trì Tam Quy và Bát Quan Trai Giới nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích.

Bạch Đại Đức, chúng con xin thọ trì Tam Quy và Bát Quan Trai Giới nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích, lần thứ nhì.
Bạch Đại Đức, chúng con xin thọ trì Tam Quy và Bát Quan Trai Giới nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích, lần thứ ba.

Sư đọc:
Con đem hết lòng thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc A La Hán cao thượng, đã chứng quả Chánh Biến Tri, do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy. (3 lần)


Phật tử đọc:
Con đem hết lòng thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc A La Hán cao thượng, đã chứng quả Chánh Biến Tri, do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy. (3 lần)


Sư đọc: (Sư đọc từng câu, và Phật tử đọc theo)
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ nhì.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ nhì.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.

Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.


Sư đọc:
Pháp quy y Tam Bảo tròn đủ chỉ có bấy nhiêu.


Phật Tử đọc:
Dạ xin vâng.


Sư đọc:[b] (Sư đọc từng câu, và Phật tử đọc theo)[/b]

  1. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh.

  2. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp.

  3. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự hành dâm.

  4. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối, nói lời đâm thọc chửi rủa mắng nhiếc, nói lời vô ích.

  5. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dễ duôi uống rượu và dùng các chất say.

  6. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự ăn sái giờ.

  7. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự múa hát, thổi kèn, đờn, xem múa hát, nghe đờn, kèn, trang điễm, thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa.

  8. Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao, và nơi xinh đẹp.

Phật tử đọc:
Chúng con xin thọ trì Tam Quy và Bát Quan Trai Giới nơi Tam Bảo, trọn đủ tám điều của Đức Phật đã giáo truyền, hầu để vâng giữ hành theo cho được trong sạch trọn ngày nay và đêm nay. Mong cầu gieo được giống lành để thấy rõ Niết Bàn trong ngày vị lai.


Sư đọc:
Chư thiện nam, tín nữ sau khi đã thọ trì Tam Quy và Bát Quan Trai Giới rồi, hãy ráng vâng giữ hành theo chẳng nên dễ duôi.


Phật tử đọc:
Dạ xin vâng.


Sư đọc:
Các chúng sanh được sinh về cõi trời cũng nhờ giữ giới, được giàu sang cũng nhờ giữ giới, được giải thoát, nhập Niết Bàn cũng nhờ giữ giới. Bởi các cớ ấy nên chư thiện tín hãy ráng thọ trì giới luật trong sạch, đừng để lấm nhơ.


Phật tử đọc:
Lành thay.
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#10
Nghi Thức Căn Bản Trong Khóa Thiền

Tỳ kheo Khánh Hỷ



Sau đây là các câu tụng niệm căn bản trước và sau các buổi thiền tập do Tỳ kheo Khánh Hỷ (Sư Tài) hướng dẫn tại Perth, Tây Úc, trong tháng 10, năm 1996.

1. Lạy Phật:
Con đem hết lòng thành kính làm lễ Đức Thế Tôn. Ngài là bậc A La Hán cao thượng, chứng quả Chánh Biến Tri do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy. (3 lần)


2. Quy Y Tam Bảo:
Con đem hết lòng thành kính quy y Phật
Con đem hết lòng thành kính quy y Pháp
Con đem hết lòng thành kính quy y Tăng

Con đem hết lòng thành kính quy y Phật, lần thứ nhì
Con đem hết lòng thành kính quy y Pháp, lần thứ nhì
Con đem hết lòng thành kính quy y Tăng, lần thứ nhì

Con đem hết lòng thành kính quy y Phật, lần thứ ba
Con đem hết lòng thành kính quy y Pháp, lần thứ ba
Con đem hết lòng thành kính quy y Tăng, lần thứ ba



3. Ngũ Giới:
  1. Con nguyện vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh.

  2. Con nguyện vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp.

  3. Con nguyện vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà hạnh.

  4. Con nguyện vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối, nói lời đâm thọc, nói lời nói dữ, chửi rủa mắng nhiếc, nói lời vô ích.

  5. Con nguyện vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dễ duôi uống rượu, và dùng các chất say.

4. Giữ Hạnh Từ Bi:
Con nguyện giữ hạnh từ bi trong hành động.
Con nguyện giữ hạnh từ bi trong lời nói.
Con nguyện giữ hạnh từ bi trong ý nghĩ thầm kín.(3 lần)



5. Sám Hối:
  1. Vì lầm lạc và không minh mẫn nên tôi đã có hành động, lời nói, ý nghĩ sai lầm, làm thiệt hại và gây ra đau khổ cho người khác. Xin tất cả hãy mở rộng lòng từ bi và trí tuệ tha thứ cho tôi. (3 lần)

  2. Tôi xin thành thật tha thứ cho tất cả những ai đã có hành động, lời nói, và ý nghĩ sai lầm, làm thiệt hại và gây ra đau khổ cho tôi. (3 lần)

  3. Tôi xin thành thật tha thứ cho chính tôi, và nguyện từ nay làm lành, lánh dữ, giữ tâm trong sạch . (3 lần)

6. Lời Phát Nguyện:
  1. Nguyện cho tôi có đầy đủ sức khỏe, an vui, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

  2. Nguyện cho Thầy Tổ Tôi, và các bậc ân nhân của tôi, có đầy đủ sức khỏe, an vui, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

  3. Nguyện cho Cha Mẹ Tôi có đầy đủ sức khỏe, an vui, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

  4. Nguyện cho những ngươì trong gia đình tôi có đầy đủ sức khỏe, an vui, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

  5. Nguyện cho thân bằng quyến thuộc tôi có đầy đủ sức khỏe, an vui, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

  6. Nguyện cho bạn bè tôi có đầy đủ sức khỏe, an vui, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

  7. Nguyện cho những người cùng sở làm với tôi có đầy đủ sức khỏe, an vui, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

  8. Nguyện cho những ngươì không quen biết tôi có đầy đủ sức khỏe, an vui, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

  9. Nguyện cho những người không có thiện cảm với tôi có đầy đủ sức khỏe, an vui, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

  10. Nguyện cho tất cả chúng sanh có đầy đủ sức khỏe, an vui, hạnh phúc, thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hàng ngày an vui, không gặp chướng ngại.

7. Hồi Hướng:
Chúng con xin hồi hướng phần phước thanh cao mà chúng con đã làm ngày hôm nay đến cho tất cả Chư Thiên, nhân loại, cùng tất cả chúng sanh nhất là Ông bà, cha mẹ của chúng con những bậc ân nhân của chúng con, cầu mong tất cả đều được an vui hạnh phúc.

Xin Chư Thiên mách bảo cho những thân nhân của chúng con và những bậc hữu ân của chúng con ở xa không hay biết, để quý vị ấy biết rằng phần phước ngày hôm nay dành cho quý vị ấy được thọ hưởng tùy ý, khi thọ hưởng rồi được thoát khỏi những điều lao khổ, kết quả làm người, làm trời cho được như ý muốn.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#11
Các ngày lễ quan trọng trong truyền thống
Phật Giáo Nguyên Thủy





Quote:Đa số Phật tử chúng ta đều quen thuộc với các ngày lễ trong truyền thống Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana). Ở đây, chúng tôi xin vắn tắt ghi lại để giới thiệu đến quý đạo hữu về các ngày lễ chính trong truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada).


Quote:
-oOo-

1. Rằm tháng Giêng - Ngày Đại hội Chư Thánh Tăng (Magha Puja): Kỷ niệm ngày 1.250 vị A-la-hán đệ tử, tuy không hẹn trước mà cùng nhau về đảnh lễ Ngài tại Vương Xá. Do đó, ngày nầy được một số chư Tăng và Phật tử xem như là ngày Tăng Bảo(Sangha Day).

Trong dịp đó, Đức Phật giảng một bài pháp làm căn bản cho các giới luật sau này ("Ovada-Patimokkha Gatha"), tóm tắt qua các câu kệ được ghi lại trong kinh Pháp Cú:

Không làm mọi điều ác.
Thành tựu các hạnh lành,
Tâm ý giữ trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy. (PC 183)


Chư Phật thường giảng dạy;
Nhẫn, khổ hạnh tối thượng;
Niết bàn quả tối thượng;
Xuất gia không phá người;
Sa môn không hại người. (PC 184)


Không phỉ báng, phá hoại,
Hộ trì giới căn bản,
Ăn uống có tiết độ,
Sàng tọa chỗ nhàn tịnh
Chuyên chú tăng thượng tâm,
Chính lời chư Phật dạy. (PC 185)

Đây cũng là ngày kỷ niệm Phật Di Chúc, như đã ghi lại trong kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ Kinh), khi Đức Phật cho biết rằng Ngài sẽ nhập diệt sau 3 tháng.

2. Rằm tháng Tư - Ngày Tam Hợp (Vesakha Puja): Lễ Tam Hợp là lễ kỷ niệm 3 dịp trọng đại: Phật Đản, Phật Thành Đạo, và Phật Nhập Niết Bàn. Đây là ngày lễ quan trọng nhất của Phật Giáo, và ngày Đản Sinh nầy đều được mọi tông phái tôn trọng.

Theo kinh điển nguyên thủy, Đức Phật sinh năm 623 T.C.N, xuất gia năm 29 tuổi, thành đạo năm 35 tuổi. Ngài hoằng dương Chánh Pháp trong 45 năm và nhập diệt năm 543 T.C.N. khi Ngài 80 tuổi.

3. Rằm tháng Sáu - Ngày Chuyển Pháp Luân (Asalha Puja): Đây là ngày Đức Phật giảng bài pháp đầu tiên -- Chuyển Pháp Luân (Tương Ưng Bộ Kinh) -- về Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo, cho 5 anh em Kiều Trần Như. Do đó, ngày nầy được một số chư Tăng và Phật tử xem như là ngày Pháp Bảo (Dhamma Day).

Trong truyền thống Nam Tông, sau ngày nầy là các vị tỳ kheo bắt đầu nhập hạ (an cư kiết hạ) trong 3 tháng.

4. Rằm tháng Chín - Ngày Tự Tứ (Pavarana Day): Còn gọi là ngày Xuất Hạ, sau 3 tháng nhập hạ của chư tăng. Sau đó, một buổi lễ Dâng Y Ka-thi-na được cử hành trong tháng do các cư sĩ tổ chức, cúng dường tứ vật dụng đến chư tăng để các ngài tỳ kheo xuất viện đi hoằng dương đạo pháp.

5. Rằm tháng Mười - Ngày Quán Niệm (Anapanasati Day): Còn gọi là ngày Tĩnh Tâm, kỷ niệm ngày Đức Phật giảng một bài kinh rất quan trọng trong việc hành thiền. Đó là bài kinh Quán Niệm Hơi Thở (Anapanasati Sutta), đã được ghi lại như là bài kinh số 118 trong Trung Bộ Kinh.

-oOo-


Bình Anson ghi chép,
Perth, Western Australia
tháng 7, 2004


May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#12
Giới Học

Thích Chơn Thiện


Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát mà không phải đưa đến các phước báo sanh thiên.

Ý Nghĩa của Giới
Thông thường Giới được hiểu là ngăn ngừa điều quấy, dứt dừng điều ác ("phòng phi chỉ ác"), hoặc ngưng điều ác và làm điều thiện ("chỉ ác, tác thiện").

Trong Bát Chánh đạo, Giới là giới uẩn gồm có chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Ở đây chỉ sự ngăn ngừa các hành động lỗi lầm của thân và khẩu. Khi các hành động lỗi lầm không được làm thì tránh được nhiều sự tổn hại cho những người khác. Đây đã nói lên ý nghĩa "tác thiện" của giới.

Chữ Giới trong Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa (Sk: Pràtimoksa, Pàli: Patimokkha) có nghĩa là Biệt giải thoát hay Xứ xứ giải thoát, Tùy thân giải thoát. Biệt giải thoát là giải thoát từng phần: giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít. Tùy thuận giải thoát là giải thoát tùy thuộc vào quả hữu vi hay vô vi của người hành.

Từ điển của Rhys Davids cắt nghĩa Giới (Silà) có gốc từ ngữ căn Sìl. Ngữ căn Sìl có hai nghĩa: Upadhàranà (luân lý, đạo đức của Phật giáo, cách cư xử, tư cách đạo đức) và Samàdhi (Định, Thiền).

Từ Patimokkha thì có nghĩa là, theo cách phân tích từ ngữ, trói buộc các hành động, giữ gìn, thúc liễm các hành động của thân và khẩu không để cho rơi vào đường ác, sai lầm, tổn hại mình và người. Ví như buộc mồm trâu để ngăn nó ăn lúa mạ.

Giới trong nghĩa của ngày trai giới (Pàli: Uposatha, Sk: Upavasatha), Hán dịch là Bố-sa-tha, có nghĩa là tịnh trú, trưởng dưỡng, trưởng tịnh và thiện túc.

Tăng Chi (III-A) định nghĩa ngày trai giới là ngày thực hành hạnh sống của vị A-la-hán (chỉ giữ tám giới).
Trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Thế Tôn dạy: "Giới là nền tảng của bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Cần, năm Lực, bảy Bồ-đề phần và tám Thánh đạo phần. Ví như là đất là nền tảng, không có nó thì các loại động vật không thể di chuyển, cũng thế, không có Giới thì ba mươi bảy phẩm trợ đạo không thể được tu tập viên mãn."

Qua các định nghĩa trên, Giới giúp cho hành giả đạt được hai mục tiêu: không làm các điều ác (chư ác mạc tác), làm các việc lành (chúng thiện phụng hành). Mục tiêu thứ ba của Phật giáo là giữ tâm ý thanh tịnh, loại bỏ hết các lậu hoặc (tự tịnh kỳ ý) và cũng là mục tiêu cứu cánh, cần phải nhờ đến định uẩn và tuệ uẩn.

Thời Gian Và Lý Do Thiết Lập Giới
Theo tài liệu sử của Edward J. Thomas trong cuốn "Đời sống của đức Phật" (The Life of Buddha), Giáo hội Ni được thành lập từ năm thứ năm sau ngày Thế Tôn thành Đạo. Do đó, qua năm thứ sáu một số giới luật đã bắt đầu hình thành, và hình thành tương đối rõ là vào năm thứ mười sau ngày Thành Đạo. Luật tạng thì ghi mãi đến năm thứ mười ba sau ngày Thành Đạo, giới luật mới hẵn nhiên được hình thành, do Tôn giả Ưu-ba-ly (Upàli) đặc trách. Bấy giờ Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa (Patimokkha) ra đời.

Vì sao Giới bổn không được thiết lập ngay từ năm đầu của Giáo hội? Theo truyền thống, chư Thế Tôn chỉ thiết lập các giới điều, khi nào thấy cần thiết, khi nào đầy đủ nhân duyên. Khi có một hiện tượng vi phạm gây nên một ảnh hưởng không tốt cho sinh hoạt của Tăng chúng thì Thế Tôn mới kiết giới, thành lập thêm một giới điều để ngăn ngừa hiện tượng xấu ấy xảy ra về sau. Giới bổn cũng thế, trong những năm đầu, chư Tỷ-kheo sinh hoạt thanh tịnh trong khuôn khổ của Chánh pháp nên Thế Tôn không đề cập đến Giới bổn, mà chỉ trình bày Giới dưới những hình thức đơn giản, và tổng quát nhất là hình thức hộ trì các căn, hoặc dưới hình thức chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng của Bát Chánh đạo. Mãi đến năm thứ mười ba sau ngày thành Đạo, bấy giờ có nhiều hiện tượng sinh hoạt đi ra ngoài đời sống phạm hạnh, Thế Tôn mới thành lập giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa.

Một hôm, Tôn giả Upàli bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, do những mục đích nào các học pháp được thiết lập cho các đệ tử của Như Lai và Giới bổn Patimokkha được tuyên đọc?"

Thế Tôn dạy, do mười mục đích mà các học pháp được thiết lập và Giới bổn Pàtimokkha được tuyên đọc:
Quote:
- Để Tăng chúng được cực thịnh,
- Để Tăng chúng được an ổn,
- Để chặn đứng các người cứng đầu,
- Để các thiện Tỷ-kheo được sống an ổn,
- Để chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại,
- Để chặn đứng các lậu hoặc trong tương lai,
- Để đem lại tịnh tín cho những người không tin,
- Để làm tịnh tín tăng trưởng cho những người có lòng tin,
- Để diệu pháp được tồn tại,
- Để luật được chấp nhận. (Tăng Chi Bộ Kinh 3B, tr. 73)

Qua mười mục đích trên, Giới bổn chỉ giới hạn ở hai phần "chỉ ác" và "tác thiện" trong ba phần (chỉ ác, tác thiện và tự tịnh kỳ ý) mà Phật giáo nhắm đến.

Như thế, Giới qua Nikàya, chỉ gồm vào các giới của tại gia và xuất gia. Đây là nội dung của Nhiếp luật nghi giới hay gọi là Biệt giải thoát giới.

Nội Dung Các Loại Giới
Có nhiều hình thức phân loại giới. Cách phân loại thứ nhất, giới mang ý nghĩa rộng rãi của "Đại-thừa". Ở đây có ba loại:

Quote:- Loại một gọi là Nhiếp luật nghi giới, gồm có các giới của tại gia và xuất gia: ngũ giới, bát quan trai giới, thập thiện giới và cụ túc giới.
- Loại hai gọi là Nhiếp thiện pháp giới, lấy việc thực hành tất cả việc thiện làm giới.
- Loại ba gọi là Nhiêu ích hữu tình giới, lấy việc làm lợi ích cho tất cả chúng sanh làm giới.
Cách phân loại thứ hai cũng mang ý nghĩa rất rộng rãi của Đại thừa, gồm có:
Quote:Biệt giải thoát giới, đấy là nội dung của Nhiếp luật nghi giới.
Định cộng giới, là giải thoát do định sinh, lấy định làm giới. Do tu Thiền định mà thân tâm thanh tịnh, giới thể được cụ túc.
Đạo cộng giới, là giải thoát do tuệ sinh, lấy tuệ làm giới. Do tu vô lậu nghiệp mà được trí vô lậu, giới thể được viên mãn.
Qua sự phân loại giới trên, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới là thuộc Đại thừa giới; biệt giải thoát giới và định cộng giới thì được gọi là hữu lậu giới; đạo cộng giới được gọi là vô lậu giới.

Luận Câu Xá thì gọi biệt giải thoát luật nghi (hay biệt giải thoát giới) là Dục giới triền giới; gọi định sanh luật nghi (hay định cộng giới) là Sắc giới triền giới; và gọi đạo sanh luật nghi (hay đạo cộng giới) là vô lậu giới.

Trong giới hạn của phần giới được trình bày ở đây, chúng ta không đi vào các chi tiết của giới, cũng không đi vào các giới luật xuất gia, mà chỉ trình bày những nét cơ bản của Giới học.

Tính Chất Và Nền Tảng Của Giới
Cứ theo từng giới cấm một, cũng như toàn thể Giới bổn, đặc biệt là mười giới căn bản chung cho cả tại gia và xuất gia liên hệ đến thân, khẩu và ý, chúng ta có thể tìm ra tính chất của giới và nền tảng trên đó Giới được thiết lập.

Ở đây, đơn cử giới "bất sát" (không được sát sanh). Căn bản của giới này là không giết người, thứ đến là không giết hại các loài chúng sinh khác. Về phần người giữ giới, khi giữ giới này thì ngăn trừ được sân tâm, nuôi dưỡng được từ tâm, khiến cho tâm được an tịnh, an lạc ngay trong hiện tại, từ đây, người giữ giới không tạo các nghiệp ác để phải chịu thọ quả khổ đau trong tương lai. Về phần các người khác và các chúng sanh khác, khi giới bất sát được giữ gìn thì đời sống của họ được thêm phần bảo đảm an toàn, an ổn, khỏi phải gánh chịu các hậu quả do lòng sân hận, ác hại của người khác gây ra trong hiện tại.

Đối với giới "bất dâm", "bất đạo", người giữ giới ngăn được lòng tham và không tạo thêm ác nghiệp gây ra khổ đau trong hiện tại và tương lai, tha nhân và các loài chúng sanh khác thì tránh được các tổn hại và sống an ổn.

Kết quả việc giữ giới như thế tựu trung tính chất của nó là đem lại an vui cho mình và cho người, điều hòa được sinh hoạt của tập thể, tạo nên lòng tin cho kẻ khác. Đem lại lợi ích an lạc và giải thoát cho tự thân người giữ giới, đấy là trí tuệ; đem lại lợi ích an lạc cho tha nhân và các loài khác, đấy là từ bi. Trí tuệ và từ bi là nền tảng trên đó Giới được thiết lập.

Hướng đi của giới là đem lại lợi ích, an lạc cho mình và người, nên giới giúp đỡ người tu tập thấy nhẹ nhàng thân và tâm, an lạc trong từng bước đi. Giới đúng nghĩa của nó, không có ý nghĩa nào trói buộc hay tù túng cả. Ngoài một số hành động, nếu làm, hẳn nhiên phá đổ hạnh thanh tịnh nên tuyệt đối bị cấm chỉ, các sinh hoạt còn lại của người tu tập giải thoát đều được tùy duyên mà châm chước, khai mở. Ngay cả trong các trường hợp bị cấm chỉ, nếu vì "nghịch duyên" mà bị rơi vào (như là "các tai nạn" liên hệ giới xảy đến), ngoài sự tác ý của hành giả, thì sẽ không phạm, nếu người bị nạn không khởi lên tham tâm hay sân tâm tùy thuận theo sự kiện đang xảy ra (ví dụ bị cưỡng hiếp, nếu không khởi lên lạc tâm thì không phạm).

Về các giới trọng thì tính chất khai mở của chúng còn có phần hạn chế, nhưng với các giới nhẹ thì tánh chất của chúng rất là cởi mở, linh động, phóng khoáng.

Luật tạng ghi rằng một lần các Phật tử và ngoại đạo chê trách các vị Tỳ-kheo đứng mà tiểu tiện, cho rằng cung cách đó là thô tháo, thiếu lịch nhã. Khi sự việc này được trình lên Thế Tôn, Thế Tôn bèn dạy: "Vậy thì từ nay các Tỷ-kheo, ngồi mà tiểu tiện". Nhưng ở một quốc độ khác, khi chư Tỷ-kheo ngồi tiểu tiện thì lại bị chê rằng các đệ tử của Thế Tôn toàn là nữ giới. Khi sự việc này trình lên Thế Tôn, Thế Tôn lại dạy: "Nếu vậy, thì đứng mà tiểu vậy." Thế có nghĩa là tùy theo quốc độ, tùy theo văn hóa mà thích ứng. Đấy là một trường hợp điển hình nói lên tính chất linh động và cởi mở của Giới.

Như vậy giới trong giáo lý Phật giáo, không mang tính cố chấp, cứng nhắc như là giới điều (dogma) của các Tôn giáo khác, mà mang nghĩa tự nguyện, thiết thực đem lại lợi ích cho mình và người, nhằm nuôi dưỡng và phát triển tín tâm của mình và người.

Vị Trí Của Giới Trong Hệ Thống Giáo Lý Phật Giáo
Trường Bộ Kinh và Trường A-hàm đề cập đến Giới nhiều hơn là các bộ Kinh còn lại. Điển hình là Kinh Phạm Võng (của Nikàya) và Kinh Phạm Động (của Trường A-hàm) xác định rõ vị trí của Giới trong hệ thống giáo lý Phật giáo. Trong hai kinh này, Thế Tôn xác nhận chỉ có các kẻ phàm phu mới ca ngợi, tán thán Như Lai về Giới đức. Lời ca ngợi, tán thán Như Lai như thật chân chánh là ca ngợi, tán thán về Tuệ đức: -- "Như Lai đã chứng tri, giác ngộ và tuyên thuyết các pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt khỏi tầm luận lý suông, rất tế nhị, chỉ có các bậc trí tuệ mới nhận hiểu."

Qua lời xác nhận ấy của Thế Tôn, ta thấy Giới chỉ mới là bước đi căn bản (Giới, Định, Tuệ) của Phật giáo. Thực sự nói rõ hơn, Giới chỉ là bước đầu của năm bước đi: GiớiĐịnhTuệGiải thoát và Giải thoát tri kiến (tri kiến biết rằng đã giải thoát).

Giới là bước đi đầu, nhưng là bước đi nền tảng. Nếu hành giả rơi vào giới cấm thủ (giữ giới sai lạc của ngoại đạo), hỏng từ bước đi đầu này, thì không thể nào thực hiện được bốn bước đi kế tiếp.

Đấy là ý nghĩa của từ ngữ Giới trong Nikàya và A-hàm.
Qua đến Bắc tạng (Đại thừa) thì từ Giới mang ý nghĩa rộng rãi bao la hơn: Giới bao gồm cả Định và Tuệ. Biệt giải thoát giới (hay Nhiếp luật nghi giới) và Định cộng giới là thuộc hữu lậu giới, Đạo cộng giới thuộc về Tuệ giải thoát hay vô lậu giới.
Đại Tạng Bát-nhã thì xếp Giới vào một trong sáu chi phần tu tập của Bồ-tát gọi là "Lục Ba-la-mật". Giới Ba-la-mật thì đã đồng nghĩa với đoạn trừ hết chấp thủ tướng, hay đồng nghĩa với đoạn trừ hết lậu hoặc, đây là Tuệ giải thoát.
Tuy có cái nhìn khác nhau trong sự phân loại và trình bày về Giới học của Nam tạng và Bắc tạng, nhưng nếu chúng ta nhình kỹ vào nội dung thì thấy rõ không có sự mâu thuẩn thực sự nào cả. Nam tạng thì trình bày giới hạn Giới ở mức độ như đã trình bày, qua giới hạn đó thì Nam tạng bàn đến phần Định và Tuệ. Sự phân ranh giới hạn này có tính cách hình thức và quy ước hơn là nội dung tâm thức của người hành trì giới. Ở Bắc tạng, thì Định và Tuệ có thể cùng được tu chung với Giới; ở người hành trì Giới, đạt đến giới Ba-la-mật hẳn là đòi hỏi người hành trì Giới phải có đầy đủ Định và Tuệ. Thiếu Định và Tuệ thì hành giả không thể nào đạt được kết quả hành giới mà ly hết thảy các tướng chấp thủ.
Thực sự, cả Nam tạng lẫn Bắc tạng đều xác nhận không thể tách rời riêng rẽ Giới, Định, Tuệ. Nhìn vào tám chi phần trong Bát Chánh đạo thì thấy hiển nhiên điều đó. Giới (hay chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng) không thể gọi là Chánh giới, nếu không có mặt của Tuệ (chánh kiến và chánh tư duy). Thực hiện Giới cũng chính là thực hiện Tuệ, thực hiện Tuệ cũng chính là thực hiện viên mãn Giới.
Hiểu Ý Nghĩa Đúng Đắn Của Giới Và Phạm Giới
Vấn đề phạm giới đưa đến kết quả nặng, nhẹ khác nhau giữa những người tu tập có tâm lý giải thoát khác nhau, dù họ phạm cùng một lỗi. Hậu quả họ đón nhận cũng khác nhau trong hiện tại và tương lai.

Phẩm Hạt Muối (Tăng Chi Bộ Kinh I) ghi sự cắt nghĩa rõ ràng của Thế Tôn về trường hợp này. Một người dân đen đánh trộm một con dê của một nhà giàu, có thế lực có thể bị đánh đập đổ máu ngay tại chỗ và bị tù tội. Nhưng một đại quan của triều đình bắt trộm một con dê của nhà giàu, có thế lực ấy thì không bị đánh đập, cũng không bị tù tội. Ví như một nắm muối thả vào một hồ nước lớn hay con sông lớn thì độ mặn không đáng kể, nhưng nếu để nắm muối ấy vào một ghè nước thì độ mặn lại đáng kể. Cũng thế, cùng phạm một tội, với người tâm tư bủn xỉn, không tu tập Giới, Định, Tuệ thì kết quả có thể đi vào địa ngục; nhưng với người có tu tập Giới, Định, Tuệ, có từ tâm rộng rãi thì xem qua như kết quả không có (triệt tiêu).

Kinh Đại Nghiệp Phân Biệt (Trung Bộ Kinh III) trình bày, một người có chánh kiến và chánh tín trước lúc chết có thể sang Thiên giới dù trong đời sống đã tạo nên mười ác nghiệp; trái lại một người có tà kiến và đầy nghi tâm trước khi chết có thể đi vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, dù sanh tiền thường tạo mười thiện nghiệp. Sự có mặt của chánh kiến của phàm phu đã có ảnh hưởng lớn như thế trong việc thác sinh, huống nữa là sự có mặt của Tuệ giác.

Thường về mặt giới tướng, sự phạm tội được buộc tội nếu hội đủ ba điều kiện:
Quote:- Sửa soạn để phạm.
- Hành động cụ thể về sự vi phạm.
- Cố ý.

Trong ba điều kiện để buộc tội ấy, hai điều kiện là thuộc phần tác ý của tâm. Thành thử vấn đề của giới đặt ra một cách rõ ràng là để giúp cho con người giữ gìn tâm thức được trong sạch, thanh tịnh, lương thiện. Phạm giới có nghĩa là xác định tâm thức bị hoen ố. Như thế, vấn đề giữ giới thực ra là vấn đề giữ cho ý thức thanh tịnh, căn bản là theo dõi ý và chế ngự ý. Với ai mà tu giữ ý thức được thanh tịnh, giác tĩnh thì hẳn nhiên người ấy có giới thể được tròn đầy.

Giới dù cho có thiết lập nên nhiều giới điều, căn bản vẫn là có gốc ý thức. Giữ niệm được thanh tịnh thì giới thanh tịnh. Có thể phát biểu rằng chỉ có một giới căn bản là ý giới: rời xa các ác pháp, bất thiện pháp, rời xa tham ái, sân hận và chấp thủ.

Giới có công năng rõ ràng, qua phần trình bày ở trên, là đem lại an lạc và hạnh phúc lâu dài cho mình và cho người trong hiện tại và tương lai. Giữ giới là giữ gìn nguồn an lạc hạnh phúc ấy; phạm giới là gây tổn hại đến nguồn an lạc, hạnh phúc ấy.

Giới, như thế không phải dành riêng cho hàng xuất gia hay chỉ dành riêng cho hàng Phật tử tại gia, cũng không phải chỉ dành riêng cho những người lớn tuổi mà là chung cho tất cả mọi người trong mọi lứa tuổi, cho những ai muốn sống đem lại an lạc, hạnh phúc cho mình và người trong hiện tại và trong cả tương lai.

Nếu hạnh phúc là đối tượng mà nhân loại mãi đi tìm, thì hẳn đúng Giới là những gì mà nhân loại cần nắm giữ trên đường đi đến hạnh phúc ấy. Đã đến lúc con người cần loại bỏ hết thảy ngộ nhận về Giới của giáo lý Phật giáo để tiến lại gần hơn với Giới và nắm giữ Giới thân ái như nắm giữ hạnh phúc của mình.

Thích Chơn Thiện
(trích "Phật Học Khái Luận", Sài Gòn, 1993)


Chân thành cám ơn anh Nguyễn Quang Trung đã có thiện tâm giúp đánh máy lại bài viết nầy (05/97).
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#13
Quote:
Mười Điều Thiện
Phúc Trung


I. Dẫn:
Con người ta bị trôi lăn trong luân hồi cũng vì tạo tác những nghiệp ác, những nghiệp ấy do từ hành động (thân), lời nói (khẩu), và tưởng nghĩ (ý) mà sanh ra; để diệt trừ những nghiệp ác, đức Phật có nói Kinh Mười Điều Thiện (Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh), nó là muôn gốc lành, sẽ được thân tướng tốt đẹp, ở cõi thanh tịnh trang nghiêm, thành tựu viên mãn.

II. Mười Điều Thiện:
Quote:Phật nói Kinh Mười Điều Thiện nầy ở cung Ta Kiệt La Long Vương. Trong pháp hội nầy, Phật gọi Ta Kiệt La Long Vương dạy rằng: "Tất cả chúng sanh vì tâm sai khác nên tạo các hạnh nghiệp chẳng đồng ; do hạnh nghiệp ấy, chúng sanh bị luân hồi trong 6 đường. Long Vương !Ngươi có thấy đại chúng trong hội nầy và tất cả chúng sanh thân hình và sắc tướng của mỗi người đều sai khác chăng ? Có những thân hình sắc tướng sai khác như vậy, là đều do tâm tạo thân nghiệp, ngữ nghiệp và ý nghiệp hoặc lành, hoặc dữ mà gây ra. Những người có trí tuệ, rõ biết lý nhân quả như vậy rồi, nên tu thiện nghiệp, bởi có tu thiện nghiệp mới cảm được thân tướng tốt đẹp, quốc độ trang nghiêm.

Long Vương! Ngươi thử xem thân tướng của Như Lai và các vị Bồ Tát có đủ các tướng tốt hào quang sáng chói như thế, đều do tu thiện nghiệp mà được. Còn tất cả chúng sanh hình sắc hoặc xấu hoặc tốt, hoặc lớn hoặc nhỏ, mỗi người đều do tự tâm tạo nghiệp chẳng lành gây ra. Bởi vậy nếu các ngươi biết tu thiện nghiệp và dạy bảo mọi người hiểu lý nhân quả mà tu thiện nghiệp, thời quyết định sẽ khỏi các quả báo xấu xa, được thân tướng tốt đẹp, quốc độ trang nghiêm như chư Phật, Bồ Tát.

Long Vương! Ngươi phải biết Bồ Tát có một pháp có thể dứt tất cả sự khổ não trong các đường dữ, là Bồ Tát luôn luôn quan sát tu tập thiện pháp, làm các thiện pháp niệm niệm tăng trưởng; không một niệm ác xen lẫn, bởi vậy các ác pháp bị dứt hẳn, các thiện pháp được viên mãn..."
Thiện pháp nghĩa là pháp lành: Tất cả đạo quả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật đều y vào pháp ấy mà thành tựu. Pháp ấy là mười nghiệp lành gồm có:
Quote:
  1. Không giết hại.
  2. Không tà dục.
  3. Không trộm cắp.
  4. Không nói dối.
  5. Không nói thêu dệt.
  6. Không nói lưỡi hai chiều.
  7. Không nói lời hung ác.
  8. Không tham muốn.
  9. Không giận hờn.
  10. Không si mê.
Mười nghiệp lành nầy nằm trong ba nghiệp: Thân Nghiệp, Khẩu Nghiệp và Ý Nghiệp.
A) Thân Nghiệp: Những hành vi thuộc về thân có 3 :
Quote:a) Không giết hại: Có nghĩa là không hủy hoại cuộc sống của mọi loài, không tự hủy hoại mình, không sai người khác giết hại, thấy người khác giết hại không sanh lòng mừng vui; trái lại người Phật Tử phải tìm mọi cách để cứu sống chúng sanh, chẳng hạn như mua chim, mua cá thả cho chúng sống đời tự do, không bị cảnh cá chậu, chim lồng. Cá nuôi trong chậu, chim bị nhốt trong lòng dù cho có được ăn uống đầy đủ nhưng nào có được tự do, khác chi với cảnh con người bị tù đày, chúng ta không muốn bị tù đày tại sao chúng ta lại tù đày chúng, chúng ta muốn luôn luôn được tự do, chúng ta nên mua chim, cá thả để cho chúng tự do.

b) Không trộm cắp: Không chiếm đoạt về phần mình những của cải của người khác từ đất đai, nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ là những vật lớn cho chí vật nhỏ như cây kim, sợi chỉ cũng không chiếm đoạt của người khác. Người ta không thuận cho, tìm cách chiếm đoạt, tự tiện lấy dùng cũng thuộc về trộm cắp. Dùng sức mạnh để chiếm đoạt của người khác là tội cướp, dùng những phương tiện xảo trá để lường gạt người, cho đến trốn thuế cũng thuộc về trộm cắp, tất cả những việc sai trái như thế đều không làm, trái lại đem tiền của, phương tiện của mình để giúp đỡ cho chúng sanh được an vui, ấm no đó là sự bố thí đáng làm.

c) Không tà dục: Nghĩa là không sống trác táng, ăn chơi, cờ bạc, rượu chè, hút sách. Trái lại phải tu hạnh tiết dục thanh tịnh, tu sĩ cấm hẳn tà dục, hàng cư sĩ lập gia đình phải tiết dục, chỉ sống một vợ một chồng, trong sạch từ thể chất đến tinh thần. Tà dục là gốc sanh tử luần hồi, người tu theo đạo Phật phải dứt bỏ dần dần tà dục, để trở nên người thanh khiết.
B) Khẩu Nghiệp: Thuộc về khẩu nghiệp là những lời nói thô, có 4 cách :
Quote:a) Không nói dối: Nghĩa là không nói sai sự thật như :

Quote:
  1. Không thấy nói thấy, thấy nói không thấy.
  2. Nghe nói không nghe, không nghe nói nghe.
  3. Biết nói không biết, không biết nói biết.
  4. Biết trái nói phải, biết phải nói trái.

Gặp trường hợp đặc biệt phải nói không đúng sự thật để cứu mạng chúng sanh, buộc lòng phải nói, chẳng hạn như có một người đi săn đuổi theo một con thú, ta thấy lối con thú ấy chạy, người thợ săn đến gặp ta, hỏi ta có thấy con thú chạy lối nào không, để cứu con thú khỏi chết, ta có thể nói không thấy. Như vậy, ta đã thực hành được hạnh Từ Bi. Việc nói chơi cũng không nên nói, trong Kinh Di Giáo, Phật có cấm bất hý luận .
Quote:b) Không nói lời hung ác: Không nên chưởi rủa người, dù là bậc trên trước, có quyền thế, như ông bà, cha mẹ cũng không nên ỷ vào quyền thế ấy mắng chửi người hay con cháu, dù người đó có lầm lỗi, trái lại nên dùng lời dịu dàng, chỉ dạy cho người ta thấy những lỗi lầm, để lần sau tránh.

c) Không nói thêu dệt: Không nên thêm bớt để chuyện không nói có, chuyện có nói không, dùng lời lẻ làm cho câu chuyện sai với sự thật trắng thành đen, đen thành trắng, hoặc dùng lời văn hoa, bóng bẩy để mê hoặc làm hại người, những việc đó đều không nên làm, trái lại nên nói lời đúng đắn, chơn thật với lòng mình.

d) Không nói lưỡi hai chiều: Không nên nói đòn xóc, đến bên A nói xấu bên B, đến bên B nói xấu bên A , mục đích gây chia rẽ, làm cho hai bên thù địch nhau. Trái lại nên dùng lời lẽ để hóa giải mọi sự thù nghịch.
C) Ý Nghiệp: Những suy nghĩ, tưởng tượng có 3 cách tạo thành ý nghiệp :
Quote:a) Không tham muốn: Không tham muốn năm món dục lạc ở đời: Sắc đẹp, của cải, danh vọng, ngủ nghỉ, ăn uống. Tham muốn sắc đẹp hao tốn tiền của, nhiều khi phải dùng những mưu chước tồi tệ làm mất phẩm chất con người, khi không thỏa mãn đâm ra ghen tương, thù hận giết chóc, tù đày. Tham của cải phải đày đọa tấm thân làm cho có nhiều tiền của, nhiều khi phải dùng mưu sâu, chước độc để hại người đoạt của. Tham danh vọng phải vào lòn ra cúi, nhiều khi phải lao tâm cực trí để được cái danh hão huyền. Tham ăn cao lương mỹ vị làm cho thân thể dễ sanh bệnh tật. Tham ngủ nghỉ làm cho trí não trở nên đần độn. Năm món dục lạc làm cho con người bị tù đày, tội lỗi, là nguyên nhân chính trói buộc người ta trong sanh tử luân hồi. Chẳng những người tu phải biết tiết dục mà còn biết tri túc, tức là hạn chế dần lòng khát khao ham muốn, chỉ nên sống cuộc sống tạm đủ, không đua chen với đời, nhiều người tu cơm ăn chỉ cần đủ no, áo mặc chỉ cần đủ ấm, nơi ở chỉ cần có chỗ nằm tránh mưa, tránh nắng, tránh luồng gió độc mà thôi, những người đó không bị vật chất ràng buộc, họ sẽ được mau giải thoát.

b) Không giận hờn: Giận hờn là một tánh xấu, rất tai hại, nó như một ngọn lửa mạnh, đốt cháy cả mọi vật chung quanh cả mình lẫn người. Trong kinh Phật có dạy: Một niệm giận hờn nổi lên, thì trăm nghìn cửa nghiệp chướng đều mở. Lữa tức giận một phen phát ra, liền đốt tất cả rừng công đức" . Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, người nào không giận tức, sẽ được tám món tâm pháp sau đây:
Quote:
Quote:
  1. Không tâm khổ não.
  2. Không tâm giận hờn.
  3. Không tâm tranh giành.
  4. Tâm nhu hòa ngay thẳng.
  5. Tâm từ bi như Phật.
  6. Thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sanh.
  7. Thân tướng trang nghiêm, chúng sinh tôn kính.
  8. Có đức tính nhẫn nhục được mau sanh lên cõi Phạm Thiên.
Quote:
Nhờ quán từ bi, tâm sanh lòng từ bi, chúng ta mới không giận hờn khi có người làm cho chúng ta giận hờn, những người làm để cho ta sanh tâm giận hờn, vì sự ít hiểu biết nên họ mới làm như thế, chúng ta nên thương họ, chỉ có tấm lòng từ mới bao dung, tha thứ được lầm lỗi của kẻ khác.

c) Không si mê: Si mê là nguồn gốc của mọi tội lỗi, vì si mê người ta không phân biệt phải trái, không nhận định rõ đúng sai, chấp theo sự hiểu biết của riêng mình nó che lấp sự thật, chơn lý. Người không si mê là người có trí huệ, tu tập thiện nghiệp, nên quán nhân duyên sanh tử để diệt trừ vô minh, tinh tấn trên đường giải thoát.

III. Kết Luận:
Phật dạy Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo để cho chúng ta dứt bỏ những tội lỗi, nhen nhúm và tăng trưởng dần dần những nghiệp lành, để giải thoát dần những ràng buộc trong sanh tử luân hồi, tiến dần lên Phật quả.
Hành mười điều thiện, chúng ta làm được những lợi ích sau đây:
Quote:Cải tạo thân tâm: Trước nhất chúng ta cải tạo thân tâm của chúng ta, nếu một người dốc lòng chí nguyện thì trong vòng 7 năm, thân tâm người ấy sẽ hoàn toàn thay đổi.

Cải tạo hoàn cảnh: Một người thực hành theo mười điều thiện, người ấy sẽ cảm hóa được những người chung quanh, người ấy ăn hiền, ở lành sẽ được những người khác yêu mến, không có những cuộc tranh đua, hóa giải những tị hiềm, đố kỵ, tạo ra sự an lạc cho mọi người.

Chánh nhân thiên giới: Tu theo mười điều thiện là gieo nhân chân chánh, để kiếp sau sẽ sanh về cõi Trời, hưởng phúc lạc đầy đủ, tốt đẹp.

Căn bản Phật quả: Ba đời mười phương chư Phật đều phải trải qua công hạnh tu tập theo mười điều thiện, nó là cửa ngỏ dẫn người ta đi dần lên Phật quả.
Vì vô minh che lấp trí huệ nên thân, khẩu, ý tạo tác ra nhiều điều ác, những điều ác trong thế gian quy thành mười loại nghiệp ác, muốn trừ nó, chúng ta đừng làm ác, đương nhiên là chúng ta tạo được nghiệp lành, hiện tại làm lợi ích cho chúng sanh, được mọi người kính yêu, tạo được hoàn cảnh yên vui, tránh khỏi bị đọa tam đồ khổ, lại còn được hưởng phước báo ở cõi Người, Trời và cõi Niết Bàn.

Tu theo mười điều thiện được lợi ích trước mắt như thế, chẳng những cho ta mà còn cho chúng sanh, kiếp nầy cũng như mai sau, người tu nên theo con đường quan trọng do Phật đã chỉ bày.
Phúc Trung
Sách tham khảo:
Quote:1. Minh Châu, Thiên Ân, Chơn Trí, Đức Tâm. "Phật Pháp". Sài gòn, 1951.
2. Thích Thiện Hoa. "Phật Học Phổ Thông, Khóa I & II". Sài gòn, 1989.

Source: Phat Hoc Magazine, December 1996, Kentucky, USA ( http://www.win.net/phathoc/ )

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#14
Tam Quy, Ngũ Giới
Thích Thanh Từ

A. Tam Quy

I. Mở Đề
Sống trong cuộc đời muôn mặt, người muốn chọn lấy một lối đi, vạch ra một cuộc sống đầy đủ ý nghĩa và an lành, thực không phải là việc dễ. Chúng ta là khách lữ hành đang đứng trước ngã tư ngã năm, mà chưa biết cuối cùng các con đường ấy sẽ đưa đến đâu ? Chọn lấy một con đường để đi đến suốt đời, phải khôn ngoan sáng suốt lắm mới khỏi hối hận về mai sau. Nhưng mà chúng ta phải tự chọn lấy, đừng nhờ nhõi, đừng nghe lời xúi giục của ai, vì đây là con đường tự ta đi không ai thế ta được. Chọn kỹ rồi sẽ đi, là thái độ của kẽ khôn ngoan; nhắm mắt đi càng, phó mặc đi đến đâu hay đến đó, là kẻ khờ dại, mang cả cuộc đời làm một trò chơi. Người trí phải nhìn kỹ, phải xem xét tường tận trước khi mình cất bước đi trên một con đường nào. Quy y Tam Bảo quả là đặt mình trên một con đường đi đến tận cùng. Đến tận đầu đường là suốt cuộc đời của chúng ta. Việc làm nầy cần phải hiểu biết rõ, nhận thức tường tận, mới phát tâm Quy y. Phát nguyện Quy y là định hướng cho cả cuộc đời chúng ta. Nếu không hiểu biết gì, thì việc Quy y mất hết ý nghĩa của nó.

II. Định Nghĩa
Tam Quy nói đủ là Quy y Tam Bảo. Tam Bảo là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Phật là chỉ đức Phật Thích Ca Mâu Ni, do trước kia ngài tu hành giác ngộ thành Phật. Pháp bảo là giáo pháp do Đức Phật nói ra chỉ dạy đường lối tu hành. Tăng bảo là những vị tu hành theo giới luật và chánh pháp của Đức Phật.

Tại sao gọi là Phật bảo?
Từ một kẻ phàm phu như chúng ta tu hành thành Phật thực là chuyện ít có trên nhơn gian nầy. Thế nên trong kinh thường nói Phật ra đời khó gặp, như hoa Ưu Đàm một ngàn năm mới trổ một lần. Bởi ít có khó gặp nên nói là Báu. Hơn nữa, tự bản thân Ngài đã thoát khỏi sanh tử luân hồi và giác ngộ thành Phật, rồi đem chỗ giác ngộ ấy dạy lại cho mọi người cùng ra khỏi sanh tử, là điều cao cả nhất trần gian nên gọi là Báu.

Thế nào gọi là Pháp bảo?
Chánh pháp xuất thế hy hữu do Đức Phật dạy lại, người nghe rất khó hiểu khó thấu đáo được. Nhưng một khi đã hiểu, ứng dụng tu hành có thể chuyển đời phàm phu trở thành thánh nhân, pháp như vậy còn gì quý báu bằng. Pháp của Phật dạy là chơn lý, dù trải qua bao thời gian chơn lý ấy vẫn rạng ngời như hòn ngọc báu. Những kẽ đang lạc lầm trong đêm đen, bất thần gặp được ngọn đuốc, vui mừng quý tiếc thế nào, người học đạo gặp được chánh pháp cũng như thế. Người đang bị chìm đắm ngoài bể cả, trông thấy một con thuyền đến vớt, vui mừng sung sướng quý mến thế nào, người học đạo gặp được chánh pháp cũng như thế. Cho nên nói "Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm gặp."

Thế nào gọi là Tăng bảo?
Tăng là chỉ cho một nhóm tu sĩ học theo Phật, sống chung nhau đúng tinh thần Lục Hòa. Sống đúng tinh thần Lục Hòa là việc ít co trên nhơn gian nầy. Bởi vì người thế gian sống trong đua đòi giành giật hơn thua với nhau, không bao giờ hòa thuận được. Lục hòa là:
Quote:Thân hòa cùng ở,
Miệng hòa không tranh cải,
Ý hòa đồng vui,
Giới luật hòa đồng giữ,
Hiểu biết hòa cùng giải,
Lợi hòa chia đồng.
Sáu điều này là tinh thần của Tăng. Nếu có người đầu tròn áo vuông mà không sống theo tinh thần Lục Hòa cũng không gọi là tăng. Ở trong tập thể từ bốn người trở lên, ai cũng hòa thuận chung sống đúng tinh thần lục hòa là một việc rất khó làm. Vì thế, người tu sĩ sống theo tinh thần Lục Hòa, là một điều quí báu trên nhơn gian. Hơn nữa, trên sự tu hành, các vị ấy đã vơi đi phiền não và đạt được phần nào của an ổn thanh tịnh, rồi hướng dẫn mọi người cùng đến chổ an ổn thanh tịnh ấy. Vì thế cho nên gọi là Tăng bảo.

Thế nào là Quy y?
Quy là trở về, y là nương tựa. Trở về nương tựa với Phật, Pháp và Tăng gọi là Quy y Tam Bảo. Từ lâu chúng ta mãi chạy theo dục lạc, tạo nghiệp đau khổ, nay hồi tâm thức tỉnh nhất định trở về nương tựa với Tam Bảo. Lấy Tam Bảo làm chổ cứu cánh, để không còn tạo thêm nghiệp đau khổ, rồi từ đó đem lại cho chúng ta sự an lạc trong cuộc sống. Đây là sự hồi tâm tỉnh giác, phát nguyện trở về của chúng ta. Sự tỉnh giác nầy là nền tảng của lâu đài trí tuệ, nó là bước đầu trên con đường về quê hương giác ngộ. Đặt nền tảng nầy vững chắc thì lâu đài trí tuệ mới được lâu dài. Đó là sự hệ trọng của tinh thần Quy y.

III. Quy Y Tam Bảo Bên Ngoài
Phật Pháp Tăng là đối tượng để chúng ta Quy y. Nguyện noi theo con đường Đức Phật đã đi là Quy y Phật. Quyết thực hành những lời chỉ dạy của Ngài còn ghi trong kinh điển là Quy y Pháp. Thuận theo sự hướng dẫn tu hành của chúng tăng là Quy y Tăng. Từ đây bước đi, cuộc sống của chúng ta lấy Tam Bảo làm mẫu mực, nhắm thẳng theo đó mà tiến tới, khỏi phải nghi ngờ dò dẫm như thuở nào. Chúng ta là Hoa Tiêu, Tam Bảo là ngọn hải đăng. Cứ nhắm theo hải đăng mà lái con thuyền thân mạng của chúng ta cho đến đích. Song Phật pháp, người Phật tử quyết định tin theo không còn chút do dự, còn Tăng thì phải cẩn thận để khỏi nhận lầm. Tăng là tập đoàn Tăng lữ sống đúng tinh thần Lục Hòa, không phải tính cách cá nhân. Nếu một vị sư đứng ra làm lễ Quy y cho Phật tử, chính vị ấy đại diện cho tập đoàn. Quy y Tăng là quy y với những vị sư sống đúng tinh thần Lục Hòa, không phải cuộc hạn riêng vị sư truyền tam quy ngũ giới cho mình. Nếu vị đại diện truyền quy giới ấy có tu được hay không tu được, người thọ pháp giới vẫn đã quy y tăng rồi. Khi quy y một vị tăng tức là đã quy y tất cả chư Tăng, nếu vị nào sống đúng tinh thần hòa hợp. Phật tử có quyền học hỏi tất cả tăng chúng, không nên hạn hẹp nơi ông thầy của mình. Được vậy mới đúng tinh thần Quy y Tam Bảo bên ngoài.

IV. Quy Y Tam Bảo Tự Tâm
Phật pháp bao giờ cũng phải đủ hai mặt, Tam Bảo bên ngoài là đối tượng, Tam Bảo tự tâm là bản chất. Nương tam bảo bên ngoài, chúng ta phát triển Tam Bảo của tự tâm. Trong ngoài hỗ tương để viên mãn công phu tu hành, là mục tiêu chính yếu của Đạo Phật.

Thế nào là Tam Bảo tự tâm?
Tánh giác sẵn có nơi chúng ta là Phật Bảo. Lòng từ bi thương xót cứu giúp chúng sanh là Pháp bảo. Tâm hòa hợp với mọi người là Tăng Bảo. Nhờ Phật Bảo bên ngoài, chúng ta đánh thức tánh giác của mình, trở về nương tựa tánh giác của mình là Quy y Phật. Nhờ Pháp Bảo bên ngoài, chúng ta dấy khởi lòng từ bi đối với chúng sanh, trở về nương tựa với lòng từ bi của mình là Quy y Pháp. Do chư Tăng bên ngoài gợi lại cho chúng ta có tinh thần hòa hợp thuần thảo, trở về với tinh thần hòa hợp thuần thảo của mình là Quy y Tăng.

Phật Pháp Tăng bên ngoài là trợ duyên giúp chúng ta phát khởi Phật pháp tăng của tự tâm. Ví như ông thầy giáo làm trợ duyên cho đứa học trò mở mang kiến thức của nó. Có ông thầy giáo cần cù, mà đứa học trò lười biếng không chịu học, ông thầy cũng trở thành vô ích. Cũng thế, có Tam Bảo bên ngoài, người Phật tử không cố gắng đánh thức Tam Bảo của chính mình, Tam Bảo bên ngoài cũng thành vô nghĩa. Tam Bảo bên ngoài là điều kiện tốt thiết yếu với người Phật tử, nhưng có được giác ngộ giải thoát chính là khả năng của Tam Bảo tự tâm. Chỉ biết có Tam Bảo bên ngoài là chấp sự bỏ lý. Một bề tin vào Tam Bảo của tự tâm không cần biết đến Tam Bảo bên ngoài, là chấp lý bỏ sự. Người Phật tử chơn chánh phải viên dung sự lý mới khỏi trở ngại trên đường tu.

V. Nghi Thức Quy Y
Trọng tâm chủ yếu trong buổi lễ quy y , chính lúc Phật tử quỳ trước Tam Bảo, ba lần phát nguyện: "Đệ tử ... xin suốt đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng". Câu phát nguyện này tự đáy lòng Phật tử phát xuất, không do sự ép buộc xúi giục nào. Ba lần phát nguyện như vậy là gieo hạt giống vào sâu trong tàng thức, khiến đời đời không quên. Đây là tinh thần tự giác tự nguyện. Hình thức nghi lễ chỉ giúp thêm ấn tượng quan trọng cho giờ phút phát nguyện ấy thôi. Khi chúng ta tỉnh giác nguyện theo Tam Bảo thì đời ta được lợi ích. Nếu trên đường tu có lúc nào bị vô minh che đậy không nhớ Tam Bảo, chúng ta tự chịu thiệt thòi. Nhà Phật không bắt buộc chúng ta thệ những gì nặng nề để không bỏ đạo. Của báu cho người nếu ưng nhận lời thì được lợi ích, không ưng nhận thì thôi, bắt buộc làm gì. Trừ ra có hậu ý gì, mới bắt buộc những câu thề nặng để không dám bỏ. Người hiểu được chỗ nầy mới thấy giá trị chơn thật của đạo Phật.

Tất cả sự dụ dỗ ép buộc để theo đạo, nhà Phật hoàn toàn phản đối. Mỗi người tự nhận thức rõ ràng về đạo Phật rồi phát tâm đến với đạo, mới đúng tinh thần Phật tử. Hiểu rồi mới theo là hành động đúng với tinh thần giác ngộ. Dùng thuật hay, phép lạ để dụ người ta vào đạo, đó là mê tín. Dùng mọi quyền lợi để dụ người ta vào đạo, đó là cám dỗ kẻ ngu si, không phù hợp với tinh thần giác ngộ. Chúng ta có bổn phận giải thích để người khác hiểu phát tâm quy y là, người truyền đạo chơn chánh. Nghi thức trịnh trọng trong buổi lể quy y, chỉ là trợ duyên cho lời phát nguyện của chúng ta được thành tựu viên mãn. Nghi lễ này không có nghĩa là Phật sẽ ban ơn cho chúng ta trọn đời được an lành.

VI. Khẳng Định Lập Trường
Sau khi quy y Tam Bảo, chúng ta khẳng định lập trường một cách tỏ rõ : "Quy y Phật, không quy y Thiên, Thần, Quỷ, Vật". Chúng ta đã nhận định kỹ càng quyết chí theo Phật là đấng giác ngộ, không lý do gì lại theo Thiên, Thần, Quỷ, Vật. Bởi vì Thiên, Thần, Quỷ, Vật vẫn chưa giác ngộ, còn bị luân hồi như chúng ta. Song cũng có một số Phật tử đã quy y Phật, mà vẫn chạy theo quỷ thần. Những người này vì tham lợi lộc, vì thích mầu nhiệm, nên đã đi sai đường Phật Pháp. Thậm chí vì sự mê tín của họ, họ trở lại kính trọng quỷ thần hơn Phật. Đây là hiện tượng xấu xa để khách bàng quan phê bình Phật Giáo.

"Quy y Pháp, không quy y ngoại đạo tà giáo". Chánh pháp của Phật là chơn lý, cứu giúp chúng sanh một cách thiết thực, như ông thầy thuốc đối với bệnh nhân. Hiểu được lẽ chơn thực nầy, còn lý do gì chúng ta chạy theo ngoại đạo tà giáo. Chúng ta tự nhận mình yêu chuộng chân lý, cầu mong sự thoát khổ thiết thực, ngoại đạo tà giáo còn gì hấp dẫn được chúng ta. Chỉ có những kẽ ba phải nghe đâu chúc đó, mới có những hành động đổi thay vô lý như vậy. Dù có những phép tà ngoại linh thiêng muốn gì được nấy, chúng ta cũng không khởi lòng tham lam theo họ. Hoặc có những phương thuốc linh mầu nhiệm bệnh gì cũng cứu khỏi, là Phật tử chơn chánh thà chịu chết chớ không cầu xin. Thân này có ghìn giữ khéo mấy, cuối cùng cũng tan hoại, lạc vào đường tà kiếp kiếp khó ra khỏi.

"Quy y Tăng, không quy y bạn dữ nhóm ác". Chúng ta đã chọn lựa những vị hiền đức nương theo, khiến đời mình về gần với đức hạnh. Bạn dữ nhóm ác đối với người biết đạo cần phải tránh xa. Bởi vì "gần mực thì đen gần đèn thì sáng" hay "gần đồ tanh hôi mình bị hôi lây, gần vật thơm tho mình được thơm lây". Vì thế chúng ta phải can đảm đi đúng đường của mình đã chọn, dù có bị khinh khi mạ lỵ, ta cũng cứ thế mà đi. Bởi vì chúng ta đâu phải là kẻ mù quáng, mà đành bỏ cái tốt gần cái xấu. Khẵng định lập trường rõ ràng là người có ý chí cương quyết. Nếu người tu hành mà thiếu ý chí nầy, dễ bị gió lung lay.

VII. Kết Luận
Quy y Tam Bảo là nền móng tòa nhà giác ngộ, là nấc đầu trên cây thang giải thoát, là những bước đầu trên con đường về quê hương vô sanh. Muốn tòa nhà vững chắc, cần phải có nền móng kiên cố. Cần vượt tột cây thang giải thoát, nấc đầu phải bước cho vững. Thích sự an lành của quê hương vô sanh, những bước đầu trên con đường đi về phải đi cho đúng. Thiếu nền móng Tam Quy thì tòa nhà giác ngộ không sao xây cất được. Không có nấc đầu, khó ai có thể leo tận cây thang giải thoát. Những bước đầu trên con đường về quê đã sai, trăm ngàn bước sau cho đến càng đi càng sai. Vì thế, Quy y Tam Bảo có tầm quan trọng vô cùng. Mỗi người muốn đến với Đạo Phật phải từ cửa Quy y mà vào, không như thế thì học Phật mất căn bản. Bởi nó đóng một vai trò quan trọng như vậy, nên người Phật tử phải thận trọng trong việc phát nguyện Quy y. Đừng vì là Quy y cho có phước, cho khỏi bệnh hoạn, cho Phật gia hộ qua tai ách ..., đều là lý do mê tín, trái với tinh thần tự giác tự nguyện của Đạo Phật.


B. Ngũ Giới

I. Mở Đề
Con người là đối tượng của Đạo Phật, bao nhiêu luật, bao nhiêu pháp môn, Đức Phật đều vì con người lập bày. Đem lại sự an vui hạnh phúc cho con người, là mục tiêu chính yếu của Đạo Phật. Song quan niệm của Đạo Phật, không phải được nhiều của cải, nhiều tình yêu v.v... là con người có hạnh phúc. Hạnh phúc là người sống biết tiết chế, biết tôn trọng hạnh phúc của mọi người, biết thành thật thương mến nhau. Một dân tộc văn minh là một dân tộc biết tôn trọng sinh mạng của nhau, tôn trọng những quyền tự do căn bản của con người. Vì thế, ngũ giới là nền tảng căn bản đem lại hạnh phúc cho con người, xây dựng con người sống đúng ý nghĩa văn minh của nhơn loại. Ngũ giới là cơ bản đạo đức của người Phật tử, khi bắt đầu bước chân trên con đường giác ngộ giải thoát. Thiếu căn bản đạo đức nầy, dù chúng ta có nói đạo đức cao siêu đến đâu cũng là lối nói rỗng. Sự tu hành thiết thực phải gầy dựng cơ bản trước, sau mới tiến lên những bậc cao siêu. Đó là tầm quan trọng của ngũ giới.

II. Định Nghĩa
Ngũ giới là năm điều ngăn cấm do Đức Phật bảo các Phật tử phải tuân theo. Sau khi quy y người ấy đã tự nhận là đệ tử Phật, để đủ tư cách một Phật tử cần phải gìn giữ năm giới. Phật vì thương xót chúng sanh mà tạo ra năm điều răn cấm này, cốt khiến đời sống họ được an lành hạnh phúc. Gìn giữ năm giới này là vì mình, không phải vì Phật. Hình thức năm giới:

1. Không sát sanh: nghĩa là không được giết hại mạng sống con người. Chúng ta tự quý sinh mạng của mình, vô lý lại sát hại sinh mạng của kẻ khác. Trên lẽ công bằng nhân đạo không cho chúng phép chúng ta làm việc ấy. Nếu làm chúng ta đã trái lẽ công bằng, thiếu lòng nhân đạo, đâu còn xứng đáng là đệ tử Phật. Giết hại mạng sống người có ba : trực tiếp giết, xúi bảo người giết, tùy hỷ trong việc giết hại. Phật tử không tự tay mình giết mạng người, không dùng miệng xúi bảo đốc thúc kẻ khác giết, khi thấy họ giết hại nhau chỉ một bề thương xót không nên vui thích. Đó là giữ giới không sát sanh. Nhưng suy luận rộng ra, chúng ta quý trọng mạng sống của chúng ta, những con vật cũng quý trọng mạng sống của nó, để lòng công bằng tràn đến các loài vật, nếu không cần thiết, chúng ta cũng giãm bớt giết hại sinh mạng của chúng.

2. Không trộm cướp: Của cải tài sản của chúng ta, không muốn ai xâm phạm đến, của cải tài sản của người, chúng ta cũng không được giựt lấy hay lén lấy. Bởi cướp giựt hay lén lấy của người là hành động trái nhơn đạo, phạm luật pháp chánh quyền, phải bị trừng phạt. Trộm cướp là do lòng tham lam ác độc, chỉ nghĩ lợi cho mình, quên nỗi đau khổ của người, mất cả công bằng và nhơn đạo, người Phật tử nhất định không được làm.

3. Không tà dâm: Người Phật tử có vợ chồng đôi bạn như mọi người thế gian khác. Khi có đôi bạn rồi tuyệt đối không phạm đến sự trinh bạch của kẻ khác. Nếu phạm thì mắc tội tà dâm. Bởi vì đây là hành động làm đau khổ cho gia đình mình và gia đình người, tạo thành nguy cơ tán gia bại sản. Do một chút tình cảm riêng tư của mình, khiến nhiều người khổ đau liên lụy, quả là thiếu lòng nhân. Để bảo đảm sự an ổn của gia đình mình và hạnh phúc của gia đình người, Phật tử nhất định không phạm tà dâm.

4. Không nói dối: Nói lời trái với sự thật để mưu cầu lợi mình, hoặc hại người là nói dối. Do động cơ tham lam ác độc, sự kiện sảy ra như thế này lại nói thế khác, sửa trái làm mặt, đổi phải thành quấy, khiến người mắc họa. Người nói như thế trái với đạo đức, mất cả lòng nhân, không xứng đáng là một Phật tử. Phật tử là người đạo đức nên ăn nói có mẫu mực, thấy biết thế nào nói thẵng thế ấy, không điêu xảo dối trá. Trừ trường hợp vì lợi người lợi vật, không nỡ nói thật để người bị hại hoặc khổ đau, do lòng nhân cứu người cứu vật nói sai sự thật mà không phạm. Không nói dối là giữ lòng tin với mọi người chung quanh.

5. Không uống rượu: Đạo Phật chủ trương giác ngộ muốn được giác ngộ trước phải điềm đạm tỉnh sáng, uống rượu vào gan ruột nóng bức, tâm trí quay cuồng, mất hết bình tỉnh không còn sáng suốt, trái hẵn mục đích giác ngộ. Chính vì nóng bức cuồng loạn, có những người khi say sưa tội lỗi họ cũng dám làm, xấu xa gì họ cũng không sợ, mất hết lương tri. Vì thế người biết đạo đức phải tránh xa không uống rượu. Uống rượu chẵng những làm mất trí khôn, lại gây nên bịnh hoạn cho thân thể, còn di hại cho con cái sau này đần độn. Quả là một tai họa cho cá nhân và xã hội. Người Phật tử vì nghiệp giác ngộ, vì lợi ích cho mình cho người quyết hẳn không uống rượu. Trừ trường hợp mắc bệnh y sỹ bảo phải dùng rượu hòa thuốc mới lành, Phật tử được uống thuốc rượu đến khi lành bệnh thì chấm dứt, cần phải trình cho chư Tăng biết trước khi uống.

III. Lợi Ích Bản Thân
Người biết giữ gìn năm giới đã tạo thành căn bản đạo đức và sự an lành cho bản thân. Không sát sanh, bản thân ta không bị người giết, hoặc tù tội về giết người, cũng không có thù hận về nợ máu với nhau. Thế là chúng ta không sống trong kinh hoàng sợ hãi, do thù hằn gây nên. Không trộm cướp, bãn thân ta không mắc tù tội về trộm cướp, ở đâu hay đi đến chỗ nào khỏi sợ người theo dõi nghi ngờ. Tới lui tự do, đến đi an ỗn, không phải hạnh phúc là gì ? Không tà dâm, bản thân ta khỏi phải lao thần tổn trí, khỏi sợ ai bàn tán dở hay, mọi người đều tín nhiệm và tin cậy ta. Bản thân ta trinh bạch, khiến người tự quý mến. Tự mình an ỗn, gia đình cũng an ỗn. Không nói dối, chính ta không phải hối hận, lời nói tự có giá trị, gây được niềm tin của mọi người. Người hay nói dối sẽ bị xã hội đánh giá thấp, đề xướng điều gì đều bị nghi ngờ, làm việc gì ít ai tán trợ. Không uống rượu, chính ta khỏi bị cái tệ điên cuồng mất trí, khỏi gây cho cơ thể bệnh hoạn suy yếu, khỏi bị người khinh thường trong lúc say sưa. Trái lại, bản thân ta điềm đạm bình tỉnh, thân thể khỏe mạnh, đối với mọi người đều được quý kính, sanh con cũng thông minh sáng suốt. Đó là lợi ích bản thân ngay trong hiện tại. Nếu về mai sau không sát sanh, thân tráng kiện sống lâu; không trộm cướp, được tài sản sung túc; không tà dâm, thân thể đẹp đẽ; không nói dối, ăn nói khôn ngoan mọi người yêu chuộng; không uống rượu, trí tuệ sáng suốt.

IV. Lợi Ích Gia Đình Xã Hội
Mọi người trong nhơn loại đều tự nhận sinh mạng là tối thượng. Biết tôn trọng sinh mạng là nếp sống văn minh, chà đạp lên sinh mạng là con người dã man. Biết giữ năm giới là nguồn hạnh phúc của gia đình, là nếp sống văn minh của xã hội. Đức Phật nhìn thẳng vào con người, đem lại hạnh phúc cho con người một đời sống an lành, một gia đình hạnh phúc, một xã hội văn minh, Ngài tạo ra năm giới.

Sinh mạng là giá trị tối thượng của con người mọi người đều phải tôn trọng, vì tôn trọng sinh mạng con người, Phật cấm Phật tử không được sát sinh. Sinh mạng con người được tồn tại vững bền, nhờ tài sản nuôi dưỡng, vì tôn trọng tài sản của người, Phật cấm Phật tử không được trộm cướp. Sự sống của con người cần có gia đình, gia đình là tổ ấm của nhơn loại, tổ ấm ấy bị lung lay là mất hạnh phúc, vì tôn trọng hạnh phúc của gia đình, Phật cấm Phật tử không được tà dâm. Sự sống chung đụng trong gia đình và ngoài xã hội cần phải tin tưởng nhau, thiếu lòng tin thì không thể thương cảm thân yêu, vì đem sự tin yêu lại cho mọi người, Phật cấm không được nói dối. Trật tự của gia đình và xã hội là sự an ổn, một duyên cớ gây xáo trộn trong gia đình và ngoài xã hội là làm mất trật tự chung, vì tôn trọng trật tự của gia đình và xã hội, Phật cấm Phật tử không được uống rượu.

Chỉ trong năm giới luật thôi, nếu gia đình nào gìn giữ trọn vẹn là gia đình ấy có hạnh phúc, trên thuận dưới hòa, tin yêu thuần cẩn. nếu mọi người trong xã hội ứng dụng triệt để là một xã hội văn minh, chan hòa sự thông cảm và thương mến. Chúng ta vì lợi ích bản thân, vì hạnh phúc của gia đình, vì sự an lạc của xã hội, nỗ lực gìn giữ năm giới. Gìn giữ năm giới là tôn trọng nhân bản, là nếp sống văn minh, là nền tảng đạo đức vậy.

V. Kết Luận
Sự khổ đau tột độ của con người không gì hơn, khi họ nghĩ đến sinh mạng họ bị đe dọa, tiền của họ bị mất mát, người yêu họ bị xâm phạm. Chính đây là nỗi thống khổ khắc nghiệt nhất của con người. Vì cứu khổ đem vui lại cho con người. Phật cấm người Phật tử không được làm ba điều ấy. Tình thương vĩnh viễn không có, nếu con người không tin tưỡng và cảm thông nhau. Điều này cũng là nỗi khổ thứ yếu của con người. Bởi vì trong cuộc sống mà không có tình thương, là loài người đang lạc loài ở giữa sa mạc hay chốn rừng hoang, còn đâu sự đùm bọc thân yêu chia sớt cay đắng ngọt bùi. Muốn đem tình thương cho nhơn loại, trước tiên phải có tin tưởng thông cảm nhau, nên Phật cấm người Phật tử không được nói dối. Chính bao nhiêu đó, chúng ta đã thấy lòng từ bi lênh láng của Đức Phật. Tinh thần cứu khổ ban vui của Đạo Phật đã thể hiện rõ ràng trong năm giới này. Vì thương mình thương người, Phật tử chúng ta phải cố gắng giữ gìn và khuyên người gìn giữ. Đó là căn bãn của đạo làm người hiện tại và mai sau.

Hòa thượng Thích Thanh Từ
(Trích: "Bước Đầu Học Phật")

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply