Giải Về Ý Nghĩa Chỉ Tịnh Theo Thắng Pháp Yếu Hiệp – Thiền Sư Sayadaw U Jotika
#1
Thái Độ Tiêu Cực 

Thiền Sư Sayadaw U Jotika



[Image: 28-8-800x445.jpg]


Ngày hôm nay là một ngày thật bình yên, tiếng mưa đang rơi trên mái nhà và trên những ngọn cây. Nghe thật mê ly làm sao. Trong buổi sáng Chủ Nhật bình yên này, tôi muốn nói về một vấn đề lại chẳng bình yên chút nào.

Tôi thích nói về những điều tích cực, những tư tưởng tích cực, những ý tưởng đẹp bởi vì khi chúng ta suy nghĩ và nói nhiều về những điều tích cực, thì sẽ càng có nhiều điều tốt đẹp đến với cuộc đời chúng ta. Điều này thực sự rất quan trọng. Tôi nhận thấy nhiều người rất hay suy nghĩ đến những điều tiêu cực – những điều tiêu cực về mọi người, về cuộc đời của họ, về hoàn cảnh, về chính bản thân mình, về thời tiết, về chính phủ, về cả thế giới này. Tất nhiên là có rất nhiều điều tiêu cực đang diễn ra – ở bên trong chúng ta và xung quanh chúng ta. Nhưng nếu suốt ngày chỉ đào sâu vào những điều tiêu cực đó thì chẳng lợi ích chút nào cả. Song dù sao những việc như vậy vẫn cứ thường xảy đến trong cuộc đời chúng ta, vì vậy chúng ta không thể phớt lờ nó, không thể che đậy những điều đó.


Chúng ta nên chú ý hơn nữa, hãy nhìn mọi thứ thật cẩn thận, hiểu rõ chúng và xem có thể giảm bớt những tiêu cực đó trong cuộc sống của mình hay không.


Luôn luôn có một điều tiêu cực nào đó xảy đến – trong cơ thể của chúng ta, trong tâm chúng ta, ở môi trường, ở xung quanh chúng ta. Ngay cả khi nói về những điều tiêu cực, chúng ta không chỉ phàn nàn, mà còn cố gắng tìm xem mình có thể làm được gì để giải quyết nó hay không, do đó nó lại chính là tích cực. Khi chúng ta nói hay suy nghĩ về những điều tiêu cực và dừng lại ở đó, thì đơn thuần chỉ là tiêu cực mà thôi. Nó chẳng có lợi ích gì cả. Nhưng khi chúng ta suy nghĩ hay nói về những gì đang diễn ra trong chính mình và ở xung quanh chúng ta – những điều tiêu cực – và cố gắng thấu hiểu chúng một cách sâu sắc để xem mình có thể làm được gì và làm cách nào để giảm thiểu chúng, thì đó chính là tích cực. Đó là điều chúng ta nên làm.


Và bạn thấy trong Tứ Diệu Đế – Bốn Sự Thật Cao Thượng, sự thật cao thượng thứ nhất là sự thật về khổ. Đó là một cái gì đó tiêu cực. Nếu Đức Phật chỉ dừng lại ở đó thì chúng ta có thể nói rằng Ngài là một người tiêu cực và bi quan. Nhưng Đức Phật không dừng lại ở đó. Ngài nói về nguyên nhân của khổ, sự đoạn diệt của khổ và phương pháp thực hành dẫn đến chấm dứt đau khổ. Đó là tích cực.


Nhiều người nói đạo Phật là bi quan, yếm thế. Không.


Đạo Phật không phải là chủ nghĩa bi quan. Đạo Phật là chủ nghĩa thực tế.


Xét về nhiều mặt, tôi có thể nói rằng thực ra Đạo Phật là chủ nghĩa lạc quan. Đạo Phật rất lạc quan bởi Đức Phật dạy rằng bạn có thể làm được điều gì đó để giải quyết sự tiêu cực ấy. Có cách để giải quyết nó.


Điều đó thực ra rất lạc quan. Nếu Đức Phật nói bạn chẳng làm được gì cả, đó là số phận của bạn, thì đó mới là bi quan. Đức Phật nói bạn có thể làm được điều gì đó với nó. Bằng một cách nào đó, bạn có thể làm chủ được nó.


Ngày hôm nay chúng ta hãy nói về những điều tiêu cực, với hy vọng rằng các bạn sẽ hiểu và giảm bớt được chúng.


Ngày nay, người ta nói rất nhiều về công nghệ và hiệu quả. Chẳng hạn, chiếc ô tô của bạn chạy không hiệu quả vì động cơ bị hỏng, hay căn chỉnh máy không chuẩn. Và mặc dù vẫn lái xe được song chiếc xe của bạn không chạy được số km tối đa trên mỗi lít xăng nó tiêu thụ. Một số chiếc xe chạy được 30 dặm/1 lít, một số chỉ chạy được có 15 dặm. Điều đó cũng phụ thuộc vào kích cỡ của xe nữa.


Song dù gì đi nữa, chúng ta vẫn thường nghĩ rất nhiều đến tính hiệu quả. Và ngay cả trong việc xây dựng nhà cửa, ngày nay chúng ta được nghe rất nhiều ý kiến tư vấn để làm sao xây được một ngôi nhà hiệu quả nhất. Bạn không phải sử dụng nhiều năng lượng, điện năng để giữ cho nhà được ấm áp hay mát mẻ. Bạn phải nghĩ đến tính hiệu quả bằng cách làm thêm những lớp cách nhiệt cho nhà.


Cũng như vậy, tôi nghĩ chúng ta cần phải nghĩ đến tính hiệu quả trong cuộc sống, trong thân và tâm của chúng ta. Khi những điều tiêu cực xảy đến trong cuộc sống của chúng ta, nó làm giảm hiệu quả của thân và tâm. Và cả khi tiếp xúc với mọi người, một số người thường nói lặp đi lặp lại những điều tiêu cực, nếu bạn bảo họ hãy làm một điều gì đó để chấm dứt việc ấy đi, họ sẽ nói rằng họ chẳng thể làm được gì hết. Họ chỉ muốn nói về nó.


Khi gặp những người như vậy, tôi cứ phải nghe đi nghe lại những điều y hệt như nhau. Bạn muốn giúp đỡ họ, nhưng họ lại không muốn được giúp đỡ. Họ chỉ muốn nói về những vấn đề tiêu cực. Bạn còn có thể làm được gì nữa bây giờ? Nếu thấy rằng mình thực sự chẳng làm được gì, bạn không thể giúp được họ cái gì hết, thì điều tốt nhất là hãy tránh xa. Nhưng nếu bạn có thể giúp được họ, thì việc đó đáng làm, bạn sẽ không uổng phí năng lượng của mình.


Có nhiều người làm hao phí rất nhiều năng lượng của bạn, bằng nhiều cách khác nhau. Chiếc xe ô tô sẽ gây hao phí năng lượng nếu không được căn chỉnh cho chuẩn; hay ngôi nhà sẽ gây hao phí điện năng nếu không được thiết kế hợp lý và cách nhiệt tốt. Nó kém hiệu quả. Những người chỉ nói về vấn đề khó khăn của mình mà chẳng chịu làm những việc có thể làm, cũng là những người kém hiệu quả. Họ chỉ làm hao tốn năng lượng của bạn mà thôi.


Trong công việc cũng vậy, một số người nói họ làm việc rất nhiều. Họ cố gắng hoàn thành công việc của mình rồi trình lên cho xếp. Có người nói, xếp vứt công trình của anh ta vào một xó và chẳng sử dụng đến. Và anh ta cảm thấy mình thật là vô dụng. Anh ta đã làm việc cật lực trong bao nhiêu tháng trời, để rồi công trình ấy bị coi là vô ích. Có thể họ nói đã trả lương cho anh ta về việc đó, họ đã thanh toán đầy đủ, nhưng tiền không phải là tất cả. Chúng ta cần cảm thấy mãn nguyện và cảm thấy công việc của mình có ích cho mọi người. Có một cách rất, rất tàn nhẫn để trừng phạt một người nào đó là bắt anh ta làm những việc vô ích.


Người ta làm một thí nghiệm tâm lý trên số những tù nhân phạm tội nhẹ bị bắt và nhốt trong tù, một số nhà tâm lý học đã được sự cho phép của ban quản lý nhà tù để làm thí nghiệm này. Họ chia tù nhân thành hai nhóm. Một nhóm yêu cầu phải chuyển một đống cát từ chỗ này đến chỗ kia. Và khi đã chuyển xong đống cát đến đó, họ lại phải chuyển trở lại chỗ cũ. Và họ phải làm đi làm lại mỗi công việc đó.


Nhóm tù thứ hai được yêu cầu chở đất và làm một con đường đi. Họ vận chuyển đất, đá và lát con đường đó. Cả hai nhóm đều được phân công làm trong một thời gian và một khối lượng công việc như nhau. Nhóm thứ nhất trở nên rất trầm cảm và ốm yếu. Nhóm thứ hai rất hạnh phúc và đầy năng lượng. Họ có giờ làm việc và khối lượng công việc ngang nhau, chỉ vận chuyển đất, đá và cát từ chỗ này đến chỗ kia. Tại sao thế? Có sự mãn nguyện thực sự – bởi vì nhóm thứ hai đã làm một công việc có ý nghĩa và có ích. Họ cảm thấy mình làm được một việc tốt cho mọi người. Họ đang làm đường đi. Họ cảm thấy rất hạnh phúc mặc dù cả hai nhóm đều có cùng một mức độ mệt mỏi như nhau. Nhưng họ không cảm thấy mệt mỏi về tinh thần, họ không bị trầm cảm.


Sống hiệu quả là điều rất quan trọng.
Bạn đã làm được bao nhiêu việc lợi ích cho chính mình và cho người khác?

Chẳng ai ngồi yên để mà nhìn tiền bạc và thời gian của mình trôi qua hoang phí. Khi có tiền, bạn muốn đầu tư đồng tiền ấy. Bạn mua chứng khoán và theo dõi thị trường chứng khoán. Và nếu nghe thấy giá cổ phiếu của công ty ấy đang giảm xuống, bạn sẽ bán nó đi càng sớm càng tốt. Bạn không muốn mất tiền, không muốn tiền bạc của mình hao tổn. Bạn mua một loại cổ phiếu khác mà bạn tin là sẽ sinh lời và mang lại thêm tiền bạc. Chúng ta thường suy nghĩ rất nhiều đến những điều đó, không để tiền bạc của mình bị phung phí.

Thế nhưng còn thời gian và năng lượng thì sao?? Thời gian và năng lượng của chúng ta. Chúng ta phung phí rất nhiều thời gian và năng lượng. Chính vì thế chúng ta thường không có đủ thời gian.


Uổng phí quá nhiều thời gian. Chẳng hạn như ngồi lỳ một chỗ xem TV đến 3-4 tiếng đồng hồ. Thật là hoang phí thời gian. Thậm chí nó cũng chẳng còn là giải trí nữa. Nó đã trở thành một thói nghiện. Bạn cũng chẳng thực sự cảm thấy hạnh phúc về điều đó (việc xem TV ấy). Vậy đó, chẳng ai chịu ngồi yên để cho tiền bạc và thời gian của mình mất mát đi uổng phí, nhưng rất ít người quan tâm đến năng lượng tinh thần và trạng thái tâm của mình – đúng vậy, năng lượng tinh thần và trạng thái tâm.

Điều rất quan trọng là phải quán sát suy nghĩ của bạn suốt trong ngày. Quán sát suy nghĩ cũng là niệm tâm (cittanupassana)[1].


Suốt cả ngày bạn đã nghĩ những gì? Nếu bạn suy nghĩ về một vấn đề gì đó mà chẳng làm gì hay chẳng thể làm gì để giải quyết mà cứ nghĩ quanh nghĩ quẩn hoài, là bạn đang phung phí năng lượng của tâm mình; và không chỉ năng lượng của tâm, bạn cũng phung phí cả năng lượng của cơ thể mình nữa. Bạn sẽ cảm thấy rất mệt mỏi. Bạn đánh mất đi khả năng sáng tạo của mình.


Khi con người định tĩnh, bình an và chánh niệm, họ trở nên sáng tạo hơn. Họ có thể nhìn thấy mọi việc một cách rõ ràng hơn, có thể liên kết các ý tưởng lại và tìm ra được một cách tốt đẹp hơn để làm mọi việc, sáng tạo ra những ý tưởng mới và sự việc mới.


Nhưng khi suy nghĩ những suy nghĩ tiêu cực, và bạn không làm hoặc không thể làm gì được mà chỉ nghĩ và nghĩ, bạn chỉ đang phung phí thời gian của mình mà thôi. Do đó, nếu chú ý tìm hiểu loại suy nghĩ nào mình đang nghĩ đến trong ngày, bạn sẽ thấy rằng phần lớn chúng là vô ích.


Sự bất mãn hàng ngày là một trong những thứ hủy hoại năng lượng tinh thần và trạng thái tâm của bạn ghê gớm nhất.


Bất mãn là điều gì đó khiến bạn cảm thấy buồn bực và thất vọng. Bạn bị bất mãn nhiều như thế nào trong cuộc sống mỗi ngày, và làm cho mình bực bội và giận dữ? Điều đó còn tùy thuộc vào tâm trạng của bạn. Một số người không phản ứng nhiều lắm. Họ giữ được bình tĩnh, sự bình an và trạng thái tâm quân bình (xả) hơn nhiều người khác. Nhưng một số người khác, ngay khi mở mắt thức dậy họ đã bắt đầu nghĩ: “Ah…lại một ngày nữa đây…”, họ đã bất mãn ngay rồi. Chỉ tại vì đó là một ngày nữa, họ khó chịu vì điều đó.

Thế nên tại sao điều rất quan trọng là ngay khi bạn thức dậy vào buổi sáng, hãy hành thiền, chánh niệm, hãy chú ý đến các suy nghĩ của mình.
Và nếu bạn đã quen làm vậy, việc đầu tiên vào buổi sáng là thiền, tĩnh lặng, bình an và chánh niệm, điều đó sẽ đặt tâm bạn vào một trạng thái bình an và tĩnh lặng, không phản ứng.

Chánh niệm là không phản ứng.

Phản ứng không phải là chánh niệm, phản ứng không phải là giải thoát.

Phản ứng là một ngục tù.




Sự bất mãn xảy đến mỗi ngày là một trong những kẻ hủy diệt năng lượng tinh thần và trạng thái tâm của bạn một cách ghê gớm nhất. Nếu có điều gì không bình thường xảy đến, hôm nay trời mưa chẳng hạn, có thể tôi sẽ cảm thấy rất hạnh phúc vì trời mưa. Nhưng đối với một số người thì: “Trời ơi, lại mưa nữa!”. Đó là bất mãn. Bạn tự làm cho mình thất vọng.



Một số người có thể nhìn thấy những điều tích cực ở trong nhiều thứ, hầu hết tất cả mọi thứ. Tôi biết một vị thầy, thực ra là thầy của thầy tôi, người đã qua đời. Ngài là một vị thầy lớn của các vị sư, và có rất nhiều học trò. Ngài xây dựng một ngôi chùa rất lớn, giống như một trường đại học dành cho các vị sư. Và ngài luôn luôn tích cực, luôn nói những điều tốt đẹp về mọi người.



Ngài có nhiều người bạn cùng trang lứa, họ rất thân thiết và có thể nói chuyện với nhau như bạn bè. Một người bạn và cũng là sư đệ của ngài nói: “Saydadaw[4], ngài lúc nào cũng khen ngợi mọi người về một điều gì đó. Bây giờ tôi muốn hỏi ngài một câu. Cái ông sư kia bị khùng khùng, lẩn thẩn, vậy ngài khen gì ở ông ta, ngài có thể nói được điều gì tốt về ông ta, hãy nói tôi nghe thử xem nào”.



Bạn có biết ngài trả lời thế nào không? “Ông ấy đi rất nhẹ nhàng, không gây một tiếng động nào, cứ như một con mèo ấy. Ông ấy chẳng bao giờ gây ồn”. Ngài Sayadaw này luôn tìm ra được một điều gì đó để khen, ngay cả khi vị sư đó là một người lẩn thẩn.



Điều rất quan trọng cần hiểu biết, đó là nhân cách của bạn, cá tính của bạn. Nhưng đừng có tự biện hộ rằng: “Ồ, tính của tôi là cứ phải càu nhàu như thế cả ngày đấy”. Không. Bạn có thể thay đổi được tính cách của mình. Khi bạn phát triển được định tâm mạnh cùng chánh niệm, và phát triển một số tuệ giác, nó sẽ làm thay đổi tính cách của bạn.


Tôi biết nhiều người rất hay phản ứng, phản ứng một cách tự động và đã chứng kiến rất nhiều chuyện tồi tệ xảy đến trong cuộc đời họ, nhưng rồi họ đã trở nên rất tích cực, thật tĩnh lặng và bình an. Tôi đang nói về một người, có lần bạn anh nhận ra sự thay đổi đó và nói: “Bây giờ trông bạn thật hạnh phúc và bình an”. Anh ấy trả lời: “Trước đây tôi rất khổ sở, khó chịu và giận dữ. Nhưng tôi đã học hiểu được để trở nên bình an”. Đó là điều bạn có thể học. Đừng nói: “Tính của tôi như thế. Tôi chẳng làm gì được cả”. Hay “tính tôi đã bị uốn như thế từ bé rồi”. Đó chỉ là sự định khuôn. Đúng, nếu bạn có thể định khuôn, uốn nắn tính cách mình trở nên như thế, thì bạn cũng có thể tự định khuôn, uốn nắn mình trở thành bình an. Tại sao không? Nếu bạn có thể làm việc đó theo chiều này, thì bạn cũng có thể làm theo chiều ngược lại được chứ. Luôn luôn có hy vọng. Nếu bạn muốn, bạn có thể làm được điều đó.

Còn tiếp. 

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#2
Một giờ bất mãn cao độ có thể làm bạn mất năng lượng hơn cả 12 giờ làm việc nặng nhọc.

Có đúng thế không? Một giờ bất mãn cao độ có thể làm bạn mất năng lượng hơn cả 12 giờ làm việc nặng nhọc. Nó phụ thuộc vào mức độ bạn phản ứng mạnh như thế nào, đặc biệt đối với những người bị bệnh tim mạch, họ sẽ nói: đúng, thực sự đúng như vậy. Mỗi khi buồn bực điều gì, họ mất hết cả năng lượng, và không thể làm việc được nữa. Họ chỉ lên giường và nằm nghỉ.

Vì vậy, điều rất quan trọng là bạn phải quan sát trạng thái tâm của mình. Đó là một phần của thiền tập. Khi nào bạn cảm thấy bất mãn? Lúc nào bạn thấy buồn bực và thất vọng? Hầu hết là ở chỗ làm việc hay khi bạn gặp gỡ ai đó, khi đi ra ngoài. Có người nói: “Tôi chẳng muốn đi đâu cả, chỉ muốn ở trong phòng thôi. Tôi không muốn cho ai vào phòng, vì tôi sẽ lại bực mình”. Bạn có thể sống cả cuộc đời như vậy một cách hữu ích được chăng? Không. Không phải tự giam mình trong phòng mà phải ra ngoài làm những việc bạn cần làm, gặp gỡ mọi người mà vẫn gìn giữ được tâm trạng, sự tĩnh lặng và bình an của mình – đó là điều bạn nên học hỏi.

Sự bất mãn làm hạ thấp ngưỡng khởi đầu bất an của bạn.
(Càng bất mãn, bạn càng dễ bực bội, bất an).

Hầu hết tất cả chúng ta đều mang trong mình một tàn dư bất an, sân hận hay bực bội nào đó, hầu như trong mọi lúc. Chúng ta không thực sự mãn nguyện, không hoàn toàn mãn nguyện và thanh thản trong mọi lúc.

Một số thiền sinh, khi hành thiền, họ trở nên rất bình yên và tĩnh lặng, không còn chút bất an nào, không còn chút bất mãn, sân hận hay bực bội nào. Họ có thể trở nên thực sự bình an và tĩnh lặng. Và nếu bạn kinh nghiệm được sự bình an, tĩnh lặng đó trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, dù chỉ là một phút, nó cũng thực sự ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc đời bạn. Bạn không thể đắc đạo ngay lập tức được, nhưng nó sẽ có một ảnh hưởng thực sự đến cuộc đời bạn, bởi vì giờ đây bạn đã có một chuẩn mực để so sánh. Hầu hết mọi người không có cái gì để so sánh, đối chiếu cả.

Tôi biết nhiều người lúc nào cũng khổ sở, rất bứt rứt, bất an và phiền não bởi vì họ không có chuẩn mực để đối chiếu, và khi thử hành thiền, học hỏi và trở nên bình an, tĩnh lặng, thậm chí chỉ trong một phút giây ngắn ngủi, bỗng nhiên họ thay đổi. Họ nói: “Tôi không cần phải theo cách đó nữa. Tôi biết mình có thể làm được điều gì đó với nó”. Rồi họ cố gắng chánh niệm hơn, ngày càng chánh niệm hơn nữa, ngay cả khi ở trên phố hay lúc đi đường, lúc làm việc, khi gặp gỡ mọi người, họ cố gắng duy trì sự bình an và chánh niệm.

Do đó, chúng ta cần có một chuẩn mực để đối chiếu, nhưng nó phải là kinh nghiệm của chính bạn, không phải là một ý tưởng. Chúng ta không thể thực sự học hỏi chỉ từ sách vở hay nghe người khác nói. Chúng ta học hỏi từ sự thực hành.

Để hiểu được sự bình an, trước hết bạn phải trở nên bình an đã, chỉ nghe người khác nói về sự bình an và cách đạt được nó thì không đủ. Hãy thực hành. Hãy tự mình kinh nghiệm điều đó.

Một khi đã kinh nghiệm được sự bình an, từ góc nhìn ấy, bạn có thể thấy rằng mình không cần phải tức giận hay thất vọng về mọi thứ như thế nữa. Điều đó là vô ích. Sự bất mãn làm hạ thấp ngưỡng khởi đầu bất an của bạn. Do đó, khi đã chứa đựng bất mãn trong lòng, nếu nghe hay nhìn thấy hay gặp gỡ một người làm những việc mà bạn không thích, sự bất mãn có sẵn ấy sẽ khiến bạn bùng nổ ngay. Đôi khi chúng ta thấy có những người bực bội, bất mãn chẳng vì lý do nào cả. Một người kể: “Cha tôi, bạn không thể nói gì với ông ấy được. Bạn chỉ cần nói gì đó, có lỗi lầm nhỏ nhặt nào đó là ông ấy bực mình, chửi rủa, la mắng liền. Vì vậy, tốt nhất là tránh mặt đi”. Bởi vì chúng ta luôn mang theo trong mình một nỗi buồn, một nỗi khổ, một sự bất toại nguyện nào đó, nên chỉ cần một sự bất an nho nhỏ thôi cũng đủ làm cho mình nổi nóng. Không phải tất cả là lỗi của người khác, mặc dù họ cùng chịu một phần trách nhiệm, nhưng không phải họ hoàn toàn sai (và mình là hoàn toàn đúng).

Bạn đang tham gia vào nó, mỗi khi có chuyện gì đó xảy đến trong cuộc đời bạn, hãy cố gắng tìm hiểu xem mình đang tham gia hay đang góp phần vào chuyện đó như thế nào, theo cách nào.

Trong ngành tâm lý học, họ dùng một thuật ngữ là – sự góp phần của quỷ dữ. Tôi không nhớ chính xác là ai đã nói điều đó, nhưng tôi đã từng đọc về nó – đó là một ý tưởng vĩ đại. Chúng ta tham dự và góp phần vào bất cứ những gì xảy đến trong cuộc đời mình. Ngay cả khi xem TV, khi có tin tức xấu nào đó trên chương trình thời sự, chúng ta liền bất mãn: “Đấy, nhìn đấy mà xem”. Trong tất cả mọi thứ đang diễn ra. Đôi khi họ nói: “Toàn là dối trá. Chúng nó toàn là bọn lừa đảo”. Bạn bực mình, thất vọng. Khi thất vọng, bạn có thể nào thất vọng mà không tự mình tham gia và góp phần vào đó được không? Bạn không thể.

Không ai có thể thực sự khiến bạn hạnh phúc, và cũng không ai có thể làm cho bạn đau khổ – trừ phi chính bạn tham dự vào việc đó.

Bạn xem TV hoặc vedio, ai đó đang cố nói đùa, diễn hài. Nếu thuần túy giữ chánh niệm, chỉ nghe thấy âm thanh chứ không phải lời nói, bạn sẽ không cười. Để cười được trong một trò đùa, bạn cần phải tham dự vào trong đó. Hãy hiểu điều này một cách thật sâu sắc. Tất cả mọi cảm xúc bạn kinh nghiệm được – đó là bởi vì bạn tham dự và góp phần vào trong đó. Hãy xem bạn làm việc này nhiều như thế nào trong suốt cả ngày. Nếu bạn không tham dự, nó sẽ không thể ảnh hưởng được đến bạn theo bất cứ cách nào. Tôi tham dự, tôi góp phần vì vậy tôi chịu trách nhiệm về hạnh phúc hay đau khổ của mình. Không ai có thể làm cho tôi cười nếu tôi không muốn cười. Tôi có thể giữ tâm bình thản dù bạn nói bất cứ điều gì. Ngay cả khi có người thọc lét (cù) bạn, nếu bạn không tham gia, bạn sẽ không cười. Bạn có thể làm được điều đó. Bạn có quyền làm điều đó. Hãy hiểu cái quyền của chính mình.

Tôi có cái quyền đó. Tôi có khả năng đó.
Tôi có thể giữ tâm mình bình thản. Tôi có thể giữ gìn sự bình an của mình. Tôi có thể giữ chánh niệm.
Tôi có sức mạnh ấy.

Nếu bạn nói: “Tôi chẳng làm được gì hết”, điều đó nghĩa là bạn không có quyền, bạn bất lực. Họ có thể làm bất cứ điều gì với bạn. Nếu bạn cho phép một người nào đó đến, nói với mình một lời và phá hủy toàn bộ trạng thái tâm của mình, khi đó bạn có thể nói gì – bạn có quyền hay anh ta có quyền? Nếu anh ta có quyền, thì anh ta có thể làm bất cứ chuyện gì với bạn, bất cứ lúc nào. Anh ta có thể phá hủy tâm trạng của bạn bất cứ lúc nào. Vậy ai cho anh ta cái quyền đó? Bạn cho anh ta cái quyền đó bằng cách tham gia cùng với anh ta. Và nếu bạn hiểu được điều đó, thì bạn sẽ cảm thấy có trách nhiệm về đau khổ của chính mình.

Sự bất mãn mang lại một điều chắc chắn: những việc rất nhỏ cũng dễ dàng đánh đổ được bạn.

Khi tâm đã có bất an, thì những sự việc nhỏ bé cũng có thể đánh đổ bạn. Bạn không thể giữ được sự quân bình. Nó khiến chánh niệm của bạn bị thu hẹp và khiến bạn trở nên thiển cận, hoặc thậm chí mù quáng. Khi sân hận cường độ mạnh, tâm con người trở nên mù quáng. Họ không thấy được cái nào đúng, cái nào sai, cái gì thích hợp, cái gì không. Vì vậy, những cảm xúc mạnh gây ảnh hưởng đến tâm bạn và khiến chánh niệm của bạn suy yếu. Chánh niệm suy yếu nghĩa là bạn trở nên mù quáng.

Nhưng khi chánh niệm suốt cả ngày, mọi ngày, bạn sẽ phát triển chánh niệm, chánh niệm ngày càng mạnh hơn và bạn có thể chánh niệm được trước khi bất cứ việc gì xảy ra.

Bạn đã chuẩn bị sẵn sàng. Ở trong trạng thái tâm đó, nếu có việc gì xảy đến, bạn cũng sẽ không phản ứng.

Phản ứng, Hành động và Ứng phó – ba từ có nghĩa tương đối gần nhau, nhưng không phải là một. Chúng khác nhau rất nhiều. Phản ứng nghĩa là nó diễn ra một cách tự động. Có ai đó đến và nhấn cái nút điều khiển của bạn, và bạn phản ứng một cách tự động. Phản ứng tự động đa phần là bất thiện. Dù bạn phản ứng bằng tâm tham, sân, ngã mạn, ghen tỵ hay ghen tuông, bất cứ cái gì, hầu hết các phản ứng tự động đều là bất thiện bởi vì thiếu chánh niệm. Nhưng khi thực hành chánh niệm, chúng ta ngày càng chánh niệm hơn, khi nghe, khi thấy việc gì đó, chúng ta không phản ứng, bởi vì đã có mặt chánh niệm cùng với phần nào trí tuệ và hiểu biết ở đó.

Do vậy, khi bạn cần làm điều gì đó đối với việc ấy, bạn ứng phó.

Ứng phó đến cùng với chánh niệm và hiểu biết, vì vậy nó có sự tự do, giải thoát. Ứng phó có tự do, còn phản ứng thì không.

Bạn muốn có tự do, giải thoát hay không? Điều đó tùy thuộc vào bạn. Bạn có thể huấn luyện tâm mình và được giải thoát. Hoặc bạn có thể cứ để tâm mình chạy hoang và bị trói buộc?

Ai làm chúng ta bị trói buộc hay giải thoát?
Chính những suy nghĩ của mình, chính cái tâm của mình.

Tâm si của mình, chính là tâm phóng dật, tâm thất niệm, lơ đãng. Càng lơ đãng, phóng dật, chúng ta càng ít tự do.

Càng chánh niệm chúng ta càng tự do.
Càng tự do, chúng ta lại càng có quyền lực.

Bởi vì những người không tự do là những người cảm thấy bất lực. Người tự do, giải thoát cảm nhận được nhiều quyền lực hơn. Chánh niệm làm cho bạn có quyền lực hơn và tự do hơn. Bạn không phản ứng một cách tự động, bạn hiểu rõ hoàn cảnh và tình huống, ngay cả khi có người đến nói những điều tồi tệ với bạn, bạn thấu hiểu được con người đó, trạng thái tâm của anh ta, tại sao anh ta ăn nói như vậy, và khi đó bạn có thể ứng phó, đáp ứng lại. Tôi không nói bạn đừng nói gì hay chạy trốn đi nơi khác, bởi vì điều đó không giải quyết được vấn đề. Hãy hiểu người ta, hiểu rõ hoàn cảnh và giữ chánh niệm của bạn. Hãy làm những việc gì đúng đắn, cần thiết, rồi bạn sẽ có quyền lực (đối với tâm mình) và tự do. Và bạn cũng không hề đánh mất lòng tự trọng của bản thân.

Nếu phản ứng và làm điều gì đó còn tệ hơn, sau đó bạn sẽ cảm thấy hối hận. Cảm giác hối hận thì không phải là tốt đẹp gì, bạn sẽ đánh mất lòng tự trọng. Bạn sẽ cảm thấy: “Mình vừa làm một việc xấu”. “Người ta làm việc xấu, nhưng mình còn làm một việc xấu hơn họ!”. Nó làm suy giảm khả năng đánh giá của bạn, và sẽ khiến bạn mắc sai lầm. Khi chánh niệm, bạn sẽ ít sai lầm hơn. Bạn vẫn có thể mắc sai lầm, nhưng chỉ là những sai lầm nhỏ, và bạn có thể nhanh chóng tự điều chỉnh mình mà không để mắc sai lầm lớn hơn. Nhưng khi không có chánh niệm, bạn có thể nói hay làm điều gì đó tồi tệ, và khi đó sẽ rất khó sửa chữa được nữa.

Khi phạm sai lầm, bạn sẽ lại càng nhân thêm những bất mãn mới. Nó sẽ khiến bạn càng đau khổ hơn, giống như bạn dùng một cái gai để khều một cái gai khác đang cắm trong thịt mình, không may cái gai ấy gãy, và bạn bị cả hai cái gai đâm trong người. Rất nhiều thứ như vậy diễn ra trong cuộc đời con người. Có điều gì đó không đúng, và họ phản ứng thái quá để rồi phạm sai lầm tiếp và khiến vấn đề tồi tệ hơn.

Bất mãn là một cái bẫy thường xuyên.



Nó là một cái bẫy.

Thực ra, bất cứ loại cảm xúc mạnh nào cũng là một cái bẫy cả.



Bởi vì nó không làm cho bạn tự do. Bất mãn khiến bạn bứt rứt và bất an. Khi bạn bất mãn, bạn trở nên bất an và điều đó làm cho bạn còn thất niệm hơn nữa. Bạn sẽ có xu hướng tiếp tục phạm thêm sai lầm. Bất an, bứt rứt, bối rối và dễ thay đổi. Khi mắc sai lầm, bạn trở nên bất an, bứt rứt và bởi vì muốn bảo vệ bản thân, bạn thậm chí sẽ công kích người khác, đổ lỗi cho họ và rồi phá hỏng mối quan hệ. Vì vậy, điều rất quan trọng là đừng phản ứng thái quá. Nó sẽ phá hỏng các mối quan hệ của bạn. Nó phá hủy lòng tin của mọi người dành cho bạn.



Ngay cả đối với các bậc cha mẹ, cũng cần phải lưu ý. Một số người nghĩ rằng mình sinh ra và nuôi dưỡng con cái thì họ có thể nói hay làm bất cứ điều gì tùy ý. Ở nhiều nước, cha mẹ cảm thấy họ sở hữu con cái, họ có thể làm bất cứ điều gì, nói bất cứ điều gì với chúng. Họ đánh đập, trừng phạt con cái. Ngay cả ở phương Tây, tôi cũng được nghe nhiều chuyện tồi tệ như vậy. Tôi từng nghe nói có một bà mẹ nhốt đứa con gái của mình trong nhà vệ sinh, giữa mùa đông giá lạnh. Đứa bé lạnh cóng, run rẩy, khóc lóc: “Mẹ ơi, cho con ra với”. Trừng phạt quá mức. Đó không phải là dạy dỗ, mà là tàn nhẫn. Bạn không dạy dỗ trẻ con theo cách đó.



Bất mãn lấy đi mất định tâm của bạn.

Khi bạn bất mãn, tâm không tập trung và định tĩnh.



Điều đầu tiên chúng ta cần làm là ý thức và cảm nhận trạng thái tâm đó: “Tâm không định tĩnh, bây giờ nó đang bất an”. “Tôi đang thất vọng, và những suy nghĩ động loạn đang đến”. Nó tước đoạt sự tập trung của bạn và lấy mất đi sức mạnh cần có để giao tiếp một cách thoải mái.



Để có sự hiểu biết lẫn nhau, chúng ta cần có sự giao tiếp thoải mái. Hãy dành thời gian để lắng nghe. Hãy lắng nghe một cách cẩn thận những gì người đối diện đang cố gắng nói ra và thể hiện. Không chỉ lời nói, mà quan sát cả những biểu hiện trên nét mặt, đôi mắt, giọng nói, âm lượng to nhỏ và thậm chí cả những cử chỉ của tay hoặc đầu, hay bất cứ điều gì khác. Bởi vì sự giao tiếp còn vượt xa khỏi ngôn từ. Để hiểu một con người, hãy nhìn và lắng nghe cả ngôn ngữ cơ thể của họ nữa. Hãy cố gắng hiểu cảm xúc của người ấy. Đó có thể là những người bạn làm việc cùng, xếp của bạn, hay những người trong gia đình, hoặc bất cứ ai. Hãy chú ý. Nếu bạn chú ý và lắng nghe thật cẩn thận, người đang nói chuyện với bạn sẽ bình tĩnh lại một chút.



Khi có người lắng nghe chúng ta nói, chúng ta sẽ thấy bình tâm trở lại. Nhưng khi bạn tranh cãi lại trước khi người đó nói xong những gì họ muốn nói, họ sẽ càng thêm bất an, thậm chí còn hét lên với bạn nữa, khiến cho quan hệ trở nên tồi tệ. Hãy chú ý đến chính mình, tới những cảm xúc của mình rồi chú ý đến người đối diện nữa. Đó là sự trưởng thành. Bạn phải làm điều đó trước, chứ đừng chờ người ta làm việc đó cho mình.



Hãy hiểu biết chính mình, giữ chánh niệm và định tĩnh càng nhiều càng tốt, và chú ý tới người khác nữa, đó là lòng nhân hậu.

Chú ý đến những gì người khác đang nói với mình cũng là sự tử tế và rộng lượng. Nếu bạn thực sự rộng lượng và nhân hậu, bạn sẽ chú ý.



Nếu không rộng lượng và tử tế, bạn không muốn lắng nghe. Bạn chỉ muốn nói những gì mình thích, chỉ “trút” cảm xúc của mình ra thôi. Vì vậy, ngay cả đối với con cái, chúng ta cũng phải lắng nghe chúng. Đó là lòng từ. Nếu bạn không sẵn lòng lắng nghe con mình hay vợ/chồng mình, bạn bè mình, làm sao bạn có thể nói mình yêu thương và quan tâm tới họ? Bằng cách chú ý, lắng nghe và cố gắng thấu hiểu những điều người khác đang nói và đang cảm nhận, chỉ bằng cách đó bạn mới thể hiện được lòng nhân hậu và tình yêu thương của mình.


Sự bất mãn khiến bạn trở nên phóng túng, vô kỷ luật. Kỷ luật và thu thúc nghĩa là bạn phải làm việc quan trọng nhất đầu tiên.

Còn tiếp.
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#3
Và không làm những việc không quan trọng – không phí phạm thời gian của mình. Nhưng khi bạn buồn bực và thất vọng, bạn bị lôi kéo theo, bị cảm xúc chi phối và làm những việc vô ích. Bằng cách đó, bạn trở nên vô kỷ luật. Nó cướp đoạt của bạn những việc ưu tiên, đảo lộn ý nghĩa và trình tự sắp xếp công việc của mình.

Chúng ta cần phải hiểu việc gì là quan trọng và có ý nghĩa, việc gì không. Càng chánh niệm thì bạn sẽ càng thấy rõ điều này: việc này là việc quan trọng, có lợi ích và ý nghĩa; việc kia không quan trọng, vô ích và không có ý nghĩa, nên tôi sẽ không phí phạm thời gian vào việc đó.

Những người không chánh niệm thả cuộc đời của họ trôi dạt theo dòng cảm xúc. Và đã trôi theo cảm xúc thì không có lựa chọn, bạn không thể có sự lựa chọn thực sự nào cả. Do đó, bạn trộn lẫn tất cả mọi thứ thành một mớ hỗn độn – việc có ý nghĩa và việc vô nghĩa, và trong cuộc đời bạn, việc vô nghĩa thì nhiều hơn nên bạn uổng phí rất nhiều thời gian để làm mấy cái việc vô ích đó. Suy nghĩ, chuyện trò… rất nhiều điều vô bổ.

Càng chánh niệm bạn sẽ càng hướng tới mục tiêu chất lượng và hiệu quả trong mọi việc mình làm.

Ngay cả khi xem một chương trình truyền hình, khi thấy nó không có ích lợi gì cho mình, không học hỏi được gì ở đó, nếu có chánh niệm bạn sẽ dừng lại không xem nữa.

Khi đọc báo, nếu chánh niệm, bạn sẽ chỉ đọc những mục có lợi ích cho mình. Tôi đọc chủ yếu những bài về sức khỏe mà tôi rất thích, về những trạng thái tâm và tâm lý con người. Nhưng nếu nó chỉ viết những chuyện vô bổ – không – tôi không thể đọc nổi, dù chỉ một trang. Đôi khi nhặt được tờ báo cũ, tôi lật qua lật lại xem và chẳng tìm thấy được cái gì đáng đọc cả. Chẳng đáng để mất thời gian.

Chúng ta không có nhiều thời gian để mà phung phí. Cuộc đời quá ngắn ngủi và quý giá làm sao.

Càng chánh niệm, bạn càng biết trân trọng thời gian của mình, trân trọng khoảng không gian của tâm mình hơn. Một thiền sinh đã nói: “Hãy coi tâm mình như một điện thờ trang nghiêm”.

Điện thờ là một nơi ngăn nắp và thanh tịnh, không bụi bẩn, không có những thứ bất tịnh – rất gọn gàng và thanh tịnh – không có bất cứ thứ đồ gì vô ích trong điện thờ. Nếu có thể, hãy biến tâm bạn trở thành một thiền đường trang nghiêm (một điện thờ). Vậy hãy quan sát tâm mình. Bạn có cho phép mọi thứ rác rưởi vào tâm mình không? Bạn có thực sự kiểm duyệt những gì thâm nhập tâm mình – từ mắt, từ tai, từ những gì bạn suy nghĩ không?

Kiểm duyệt là việc rất quan trọng, nếu không sẽ không có chút chất lượng, không có chút hiệu quả nào trong cuộc đời bạn. Bạn trở thành đối tượng để các cảm xúc giật dây.

Vậy hãy xem – bạn là chủ nhân hay là nô lệ của tâm mình?

Nô lệ của tâm mình nghĩa là nô lệ của các cảm xúc. Hãy nhìn sâu vào tâm mình và tìm câu trả lời trong đó. Tôi là chủ nhân hay nô lệ?

Bạn bước đi mà chẳng hề suy nghĩ, chẳng có một kế hoạch nào. Khi bạn quá xúc động, bạn chẳng còn nghĩ gì được nữa, bạn chẳng dự tính, chẳng vạch được kế hoạch gì cả. Bạn chỉ tiến tới trước và làm bất cứ điều gì cảm xúc bắt bạn phải làm. Bạn nổ tung lên và đôi khi cần đến cả tiếng đồng hồ để bình tâm trở lại, để làm chủ bản thân mình. Khi cảm xúc bùng nổ, tâm bạn trở nên ngày càng xáo động và bất an cả một thời gian dài sau đó. Và đôi khi bạn phải ăn năn, hối lỗi vì nó.

Sự bất mãn không để cho bạn thời gian, sự chú ý và năng lượng để làm những việc thực sự quan trọng của ngày hôm nay.

Khi buồn bực và thất vọng, bạn dành rất nhiều thời gian chỉ để suy nghĩ về chuyện đó. Bạn không thể sử dụng thời gian và năng lượng để làm bất cứ việc gì thực sự sáng tạo và hiệu quả. Quả là một sự phí phạm rất lớn về thời gian.

Bớt bất mãn nghĩa là bớt bất an hơn. Vì vậy, hãy cố gắng chánh niệm càng nhiều càng tốt, trong suốt cả ngày. Khi bạn lái xe trên đường, hãy thật chánh niệm. Nếu bạn không chánh niệm, bạn sẽ thấy rất bực với những người cùng giao thông trên đường. Ở đây hầu như lúc nào đường xá cũng rất thông thoáng, nên dễ lái xe hơn. Ở nhiều nơi khác đường đông đúc, rất khó di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác. Bạn cảm thấy rất bực bội và căng thẳng – nhiều người còn la hét om sòm. Bạn thậm chí có thể để sự bực bội và thất vọng giết chết bản thân mình. Khi bất mãn, bạn không còn kiên nhẫn được nữa. Bạn nôn nóng, bứt rứt và khó chịu.

Sự bất mãn khiến bạn làm tổn thương đến người khác.

Bạn làm tổn thương đến người khác. Bạn trở nên thiếu tế nhị, thiếu tôn trọng và coi thường người khác. Có thể người ta đã làm điều gì đó sai, có thể đó là một lỗi lầm. Con người có thể vô tình làm điều gì đó sai trái – bởi vì tất cả chúng ta lúc này lúc khác, ít nhiều đều bất cẩn. Khi một người đã bực bội và thất vọng thì sẽ không thể hiểu được hoàn cảnh và không thể tha thứ.

Sự bất mãn khiến bạn trở nên bất công một cách vô lý và hung hăng, thù địch.

Bất công vô lý – bạn không còn công bằng nữa. Ngay cả đối với con cái, đôi khi bạn trừng phạt chúng quá mức, bạn không bảo ban, dạy dỗ mà chỉ “trút giận” sang chúng mà thôi.

Mỗi khi bất mãn, bạn công kích, ăn miếng trả miếng, buộc tội, làm tổn thương và đe dọa người khác. Quá nhiều điều tiêu cực diễn ra – điều này tiếp nối điều khác.

Sư bất mãn trưng ra những bộ mặt gớm ghiếc. A…điều này rất quan trọng – những bộ mặt gớm ghiếc. Cái gì làm cho con người trở nên xinh đẹp? Sự bình an, tĩnh lặng, lòng nhân hậu và sự định tĩnh. Hầu hết các vị thầy của tôi đều sống rất thọ. Một vị sống đến 104 tuổi. Tôi có một cuốn sách của ngài ở đây, bạn có thể thấy bức hình của ngài khi ngài tròn 100 tuổi. Rất tĩnh lặng và bình an. Rất tự chủ. Cho đến tận ngày cuối cùng của cuộc đời, ngài vẫn rất bình an và tĩnh lặng. Ngài chuẩn bị cho đám tang của mình trước khi chết.

Một vị thầy khác sống đến 90 tuổi – rất gầy, da nâu, già nua nhưng rất đẹp. Bạn chỉ muốn ở gần các ngài, muốn nói chuyện với các ngài. Vị thầy 90 tuổi này, đôi khi hay quên. Ngài rất gầy, người rất nhỏ, đôi khi tôi bế ngài lên và mang đi.

Đôi lúc ngài ăn sáng, sau đó ăn trưa rồi ngủ một giấc. Khi tỉnh dậy, ngài cứ nghĩ đã sang một ngày khác và nói: “Sao chẳng có ai mang cho tôi cái gì ăn sáng cả?”. Và mấy sư đệ tử hầu hạ bên cạnh ngài trả lời: “Vâng, vâng, có ngay đây ạ. Thầy đợi một lát nhé!”. Một lúc sau ngài nói: “Hình như tôi chưa ăn sáng phải không?”. Họ trả lời: “Bây giờ ngài ăn Catumadhu nhé!”. Catumadhu là mật ong, bơ, dầu thực vật và mật đường trộn lẫn với nhau. Đưa cho ngài đồ ăn, ngài ăn, và đưa một thứ đồ uống nào đó, ngài cũng uống.

Sau đó, ngài đi ngủ và khi thức dậy ngài nói: “ngày hôm qua chẳng ai cho tôi ăn cái gì cả, tôi chỉ ăn một ít catumadhu”. Nhưng ngài không bực mình, thất vọng, không kêu ca. Ngài chỉ thể hiện suy nghĩ và cảm xúc của mình. “Chẳng có ai cho tôi ăn gì. Tôi chỉ ăn catumadhu và uống một ly nước hoa quả.
Ngày hôm qua tôi chỉ được ăn vậy thôi”. Ngài luôn luôn vui vẻ.

Đôi khi tôi ngồi cạnh ngài, nói chuyện và làm việc này việc kia cho ngài, rồi nửa giờ sau ngài hỏi: “Con là Jotika phải không?”. Đôi lúc ngài chẳng nhận ra người đang nói chuyện với mình là ai. Nhưng ngài rất bình an và tĩnh lặng. Ngài hay quên, quên rất nhiều. Nhưng ngài vẫn giữ được sự bình an, tĩnh lặng, tâm xả, lòng khoan dung, sự chấp nhận, tất cả những đức tính ấy. Chúng tôi thực sự yêu thương ngài.

Khi ngài mất, ngài chẳng phải chịu chút đau đớn nào. Ngài ăn sáng xong rồi nói: “Tôi cảm thấy hơi thắt ở bụng và ngực, tôi đi ngủ đây”. Một vị sư trẻ giúp ngài nằm xuống, rồi ngài ngủ và mất. Không hề đau ốm chút nào.


Khi ở gần những người như thế, bạn mới hiểu được thế nào là cái đẹp. Cái đẹp của trái tim. Cái đẹp của hiểu biết, sự chấp nhận, lòng khoan dung, sự bình an và tĩnh lặng. Đó là cái đẹp đích thực.

Chúng ta thường nghĩ nhiều đến cái đẹp của khuôn mặt và cơ thể. Thế còn cái đẹp của trái tim và tâm hồn thì sao? Bạn có thể rèn luyện mình để trở nên ngày càng đẹp hơn khi ngày càng lớn tuổi. Bạn có thích ý tưởng ấy không? Tôi rất thích nó. Tôi đang cố gắng. Tôi muốn trở nên ngày càng đẹp hơn khi lớn tuổi dần. Tôi hạnh phúc khi thấy mình ngày càng già đi, bởi vì tôi biết mình sẽ đẹp hơn. Vì vậy, đừng có buồn khi thấy mình già đi. Điều đó tốt chứ có gì xấu đâu.

Sự bất mãn khiến khuôn mặt bạn chai đá, và dạ dày rát bỏng.

Mỗi khi bất mãn, dạ dày của bạn tiết thêm nhiều axit. Và khuôn mặt của bạn cũng trở nên chai cứng như đá. Không còn mềm mại và dịu dàng nữa. Rất xấu. Ngày này qua tháng nọ, biết bao nhiêu niềm vui, năng lượng, nghị lực, thời gian và tiền bạc của bạn đã bị sự bất mãn lấy đi mất? Bạn đã lãng phí bao nhiêu – tiền bạc, thời gian, nghị lực, năng lượng, niềm vui…bạn đang phung phí nó. Thay vì an vui, bạn lại khổ sở, phiền não, buồn bực và thất vọng. Ai đang làm điều đó? Bạn đang tham dự, đang góp phần vào đấy thôi. Thực ra bạn đang tạo ra nó bằng chính những suy nghĩ của mình. Chúng ta mua chiếc xe mới, bởi vì nó hiệu quả hơn. Chúng ta xây nhà mới cũng bởi vì nó hiệu quả hơn. Nhưng hãy nghĩ nhiều hơn đến cho thân và tâm của bạn. Hãy làm cho thân tâm bạn hiệu quả hơn. Hãy bảo tồn năng lượng của bạn. Chúng ta chỉ có một lượng thời gian và năng lượng hạn chế.

Hãy tập sống có trách nhiệm với chính mình. Bạn chịu trách nhiệm về hạnh phúc của chính mình, hãy làm cho mình hạnh phúc, bình an, tĩnh lặng và yêu thương.

Thời điểm để bạn chấm dứt sự bất mãn chính là ngày hôm nay. Đừng đợi đến ngày mai. Chính là ngày hôm nay – là lúc này.

Còn tiếp.

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#4
Chính lúc này.
Hãy tự cho mình cơ hội để nguội trở lại, trầm tĩnh lại. Mỗi khi có chuyện gì xảy đến và làm bạn thất vọng, hãy dành thời gian hành thiền, thậm chí chỉ trong hai phút thôi. Thở vào, thở ra, thư giãn khuôn mặt, thư giãn cánh tay của bạn. Bởi vì khi bực bội và thất vọng, khuôn mặt của bạn trở nên căng thẳng, hai tay của bạn cũng căng cứng. Vì vậy, mỗi khi bực bội, hãy cảm nhận khuôn mặt và cánh tay của mình và thư giãn ra.

Ngay cả khi chỉ hành thiền trong vòng hai phút, nó cũng giúp cho bạn rất nhiều. Và nếu bạn có thời gian thì hãy hành thiền thêm chút nữa, trầm tĩnh trở lại và xem điều tốt nhất mình có thể làm bây giờ là gì. Hãy cố gắng hết mình. Chúng ta luôn luôn có thể cố gắng làm mọi việc tốt hơn, ngay cả bằng những cách rất nhỏ, chúng ta luôn có thể làm mọi việc tốt đẹp hơn. Vì vậy, hãy cố gắng hết mình.

Khi nghe đến câu “cố gắng hết mình” – tôi lại nhớ đến một bài hát của đất nước này. Tôi không nhớ lời của cả bài, nhưng nhớ được một vài dòng. Đoạn đầu tiên là: “Ôi Thượng đế, thật là khó để khiêm nhường khi bạn đang làm hết mình”. Câu cuối cùng là: “Ôi Thượng đế, thật là khó để khiêm nhường, nhưng con đang cố gắng hết mình”.

Đã ai từng nghe bài này chưa? “Ôi Thượng đế, thật là khó để khiêm nhường, nhưng con đang cố gắng hết mình”. Một đoạn khác là: “Ôi Thượng đế, thật khó mà khiêm nhường khi bạn hoàn hảo về mọi mặt”. Nhưng thật khó để mà hoàn hảo về mọi mặt. Đúng vậy, thật khó để mà khiêm nhường bởi vì tôi đang cố gắng hết mình. Tôi cố gắng làm hết mình. Đó chỉ là nói khoác. Tôi có thể làm mọi việc tốt hơn, nhưng tôi lại không làm, chỉ nói sẽ cố gắng hết mình mà thôi. (Bài hát Thật khó để khiêm nhường của Mac Davis).

Nhưng dù sao, ngay cả khi bạn không cố gắng hết mình, thì cũng nên tha thứ cho chính mình. Đừng để mình bất mãn. Đừng tự hủy hoại mình bằng cách suốt ngày lo lắng và bất mãn. Đừng tự hủy hoại chính mình. Khi tức giận là bạn đang tàn phá thân tâm mình. Trạng thái tâm tiêu cực ấy sẽ đầu độc cơ thể bạn. Bạn đang tự đầu độc thân tâm mình.

Thực ra, không có ai làm tổn thương chúng ta bằng chính chúng ta làm tổn thương mình.
Chúng ta tự làm tổn thương mình bằng cách tiếp tục nuôi dưỡng những suy nghĩ tiêu cực.

Khi bạn bị stress, căng thẳng quá mức, bạn sẽ càng dễ bị kích động. Khi bạn cảm thấy rất stress, đừng tiếp tục làm việc gì nữa cả, đừng đi gặp ai hết. Hãy bỏ đấy, tìm một chỗ yên tĩnh và bình yên, dù rằng chỉ trong ít phút ngắn ngủi, 10 phút, 15 phút. Hãy bỏ đi. Hành thiền một chút và thư giãn. Hãy ra công viên, hoặc nếu bạn đang lái xe, hãy đỗ xe lại chỗ nào đó và ngồi trên xe nghỉ ngơi, thư giãn. Thư giãn, hành thiền. Thậm chí chỉ 5 phút thôi. Khi quá stress, bạn rất dễ bị kích động. Khi bị kích động, bạn càng nhanh chóng bị bất mãn. Vì vậy, đừng để điều đó diễn ra. Mỗi khi bạn cảm thấy mình đang bị stress quá mức, hãy nghỉ ngơi ngay lập tức.

Nhưng nếu bạn học được cách hành thiền trong suốt cả ngày, bạn có thể nghỉ ngơi ngay tại chỗ, ngay tại nơi làm việc hay ở nhà, bất cứ chỗ nào, và hành thiền – tại bất cứ chỗ nào bạn đang ở.

Khi đã tự tu tập đến mức đó, bạn không cần phải đi đâu cả, bạn có thể hành thiền ở bất cứ nơi nào.

Một người bạn của tôi, anh ấy làm việc rất vất vả, làm rất nhiều giờ mỗi ngày. Anh ấy thực sự rất yêu thích công việc của mình. Ngay cả khi bạn yêu thích công việc mình làm, đôi khi bạn cũng rất mệt mỏi. Bạn phải làm việc với nhiều người, và đôi khi mọi người gây rất nhiều khó chịu cho bạn. Ngay cả khi bạn cố gắng kiên nhẫn và chánh niệm, nhưng cũng có lúc vượt quá sức chịu đựng. Bạn có biết anh ấy làm thế nào không? Có ai đoán được không? Tôi nghĩ tôi đã kể chuyện này một lần rồi. Anh ấy vào nhà vệ sinh, đóng cửa lại và ngồi trên bệ xí để hành thiền. Vì vậy, không ai có thể đến và làm phiền. Không ai có thể làm phiền được. Ngồi đó 5 phút để hành thiền rồi đi ra, rất thư giãn.

Một lời khuyên rất tốt. Đôi khi bạn thực sự phải làm như thế. Đừng quên lời khuyên đó.
Hãy để quanh mình những thứ có thể ngay lập tức gợi lên cho bạn những suy nghĩ tích cực, mỗi khi đưa mắt xuống bạn sẽ nhìn vào nó.

Ở nhà, đừng treo những bức tranh gây cho bạn cảm giác khó chịu. Nếu có thể, hay cất chúng đi và treo một tấm hình phong cảnh thật đẹp, hoặc nếu bạn thích, một bức hình Đức Phật thật đẹp và tĩnh lặng, hay một bức tranh vẽ, bất cứ thứ gì khiến bạn cảm thấy bình yên.

Nếu bạn có một bức tranh phong cảnh thật đẹp với ngọn núi, một ngọn núi đá với cây cối và hồ nước, một ngọn núi tuyết phủ, một hồ nước trong vắt in bóng cây cối và núi rừng – hãy tìm một bức tranh như thế – và treo ở gần chỗ của bạn. Mỗi khi nhìn nó, bạn sẽ trở nên thật bình an và tĩnh lặng.

Ngọn núi tượng trưng cho sức mạnh – không lay động. Ngọn núi đá – bạn không thể làm nó lay động được. Rất vững chắc. Dù cho gió bão mạnh đến đâu, ngọn núi đá vẫn không hề lay động. Nhưng cây cũng là một biểu tượng. Khi gió mạnh đến, nó nhường bước. Nó không bị gẫy. OK, nhường bước, nhường bước, cho nó qua và rồi lại trở lại với vị trí ban đầu của mình. Tôi hay nhìn cây bạch đàn trong chùa mà tôi đã trồng ngày trước, một số cây bây giờ rất lớn, rất cao – chúng là những cây cao nhất trong chùa. Khi gió mạnh thổi đến, chúng chỉ uốn cong xuống. Và sau khi hết gió, chúng lại trở lại như ban đầu. Chẳng có vấn đề gì cả. Rất mềm dẻo. Cây cối cho bạn một biểu tượng và ý niệm về sự mềm dẻo, linh động.

Hãy linh động. Đừng cứng nhắc.
Nếu cứng nhắc, bạn sẽ gẫy, bạn tự bẻ gẫy chính mình. Hãy mềm dẻo và linh động.

Tuyết tượng trưng cho sự mát mẻ, yên tĩnh. Rất mát mẻ và bình an. Và mặt hồ giống như một tấm gương – tượng trưng cho sự tĩnh lặng, bình an, lắng đọng và trong sáng, phản chiếu tất cả mọi thứ. Một bức tranh như vậy sẽ nhắc nhở cho bạn về những cảm xúc đó. Nếu bạn nắm bắt được ý nghĩa của bức tranh, trở nên quen thuộc với nó mỗi khi nhìn vào, hãy nhìn thật kỹ và cảm nhận nó. Rất bình yên, vững vàng, mát mẻ và trong sáng. Mỗi khi nhìn bức tranh, nó gợi lại cho bạn cảm giác bình yên.

Xung quanh bạn có những thứ để nhắc nhở, khiến cho bạn cảm thấy chánh niệm hơn, bình yên hơn và mềm dẻo, linh động hơn. Những điều này rất, rất quan trọng. Bạn không nên để các loại báo hay tạp chí xung quanh làm quấy nhiễu tâm mình. Điều tệ hại nhất bạn tự làm cho chính mình là đọc báo lúc sáng sớm. Một việc tồi tệ nhất nữa là bật TV lên và xem tin tức. Tôi muốn dành ít phút nữa để nói thêm vài lời với các bạn. Hãy suy xét kỹ những từ này và xem bạn có nhìn ra được những loại cảm xúc đó trong mình hay không.

Trạng thái đầu tiên là: Sân, lạnh lùng, câm lặng.

Bạn đã từng gặp người nào như thế bao giờ chưa? Rất lạnh lùng, ngấm ngầm và im lặng, bạn có thể cảm nhận được người ấy có rất nhiều tâm sân và hay chỉ trích người khác.

Một số người, mặc dù họ chẳng nói lời nào, nhưng chỉ cần qua cái nhìn của họ, bạn có thể thấy anh ta/cô ta đang đánh giá, phán xét và chỉ trích. Họ không hiểu biết, không chấp nhận và không tha thứ.

Mỉa mai – một số người rất hay mỉa mai.
Hay cáu giận, dễ kích động – đó đều là những từ chỉ tâm trạng tiêu cực.
Nhưng hãy xem cho kỹ xem bạn có thể tìm thấy những trạng thái cảm xúc như thế trong chính bản thân mình hay không.
Oán giận, Tàn nhẫn, Chua cay, Hay gây sự, Ác ý, Hờn dỗi, Giận dữ mù quáng – đó thật là những điều kinh khủng.

Bực dọc, Oán ghét, Căm thù, Thù địch, Nhạo báng.

Từ ngữ tiếng Anh thật nhiều mầu sắc. Trong tiếng Miến Điện chúng tôi không có nhiều từ vựng để diễn tả các cảm xúc tâm lý tiêu cực như vậy. Thực sự là không có. Để dịch những từ này sang tiếng Miến Điện là điều rất khó đối với tôi. Quả là không thể. Hãy hỏi bất cứ người nào nói tiếng Miến ở đây mà xem, chúng tôi không có nhiều từ như vậy. Ngôn ngữ tiếng Anh thật đa dạng.

Sợ hãi, Bất an, Bứt rứt, Lo ngại, Bồn chồn hốt hoảng, Lo sợ, Khiếp đảm – rất nhiều ngữ nghĩa khác nhau.
Nghi ngại, Lo lắng, Day dứt, Cáu kỉnh, Kinh sợ, Hãi hùng, Kinh hoàng, Hoảng loạn.

Tất cả những từ này ở trong tiếng Pali chỉ là DOSA – sân. Chỉ một từ trong ngôn ngữ Pali, DOSA.

Nó chứa tất cả mọi nghĩa ấy.
Ghê tởm, Khinh miệt, Khinh bỉ, Coi thường, Ghét cay ghét đắng, Ác cảm, Chán ghét, Khiếp sợ.
Rất nhiều sắc thái cảm xúc tiêu cực.

Xấu hổ, mặc cảm, tội lỗi, ngượng ngaajo, buồn tuổi,nhục nhã, hối tiếc, ăn năn, hối lỗi, điên tiết, thịnh nộ, oán hận, phẫn nộ, bực tức, căm phẫn, phật ý, chua cay, thù oán, phiền muộn, cáu kỉnh, thù hằn, căm ghét, thô bạo, buồn bã, sầu khổ, đau buồn, ủ rũ, u sầu, u uất, tự thương hại bản thân, cô đơn, chán ngán, thất vọng, trầm cảm, phiền muộn.

Tất cả chỉ có nghĩa là dosa – sân. Chỉ một từ duy nhất.

Tôi muốn các bạn hiểu một từ này – DOSA, sân. Tất cả các cảm xúc tiêu cực đó đều là tâm sân. Đức Phật dạy: “Sadosam va cittam ’sadosam cittan’ti pajānāti” (Khi tâm có sân, vị ấy biết rõ tâm đang có sân). Khi bạn có những suy nghĩ tiêu cực như vậy, hãy nhìn chúng một cách thật cẩn thận và hiểu rằng chúng là tâm sân. Không phải là tâm sân của bạn – nó không thuộc về bạn. Nó không phải là một ai cả. Nó chỉ là một cảm xúc, một suy nghĩ mà thôi.

Càng nhìn rõ những cảm xúc và suy nghĩ tiêu cực, chúng càng ít nổi lên. Và bạn càng làm chủ được chúng. Hãy hiểu rõ những từ này. Chúng rất quan trọng.

Rừng thiền Sóc Sơn
Mùa xuân về, 2013.

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#5
(2022-06-18, 09:25 PM)Xí Xọn Wrote:

Ở nhà, đừng treo những bức tranh gây cho bạn cảm giác khó chịu. Nếu có thể, hay cất chúng đi và treo một tấm hình phong cảnh thật đẹp, hoặc nếu bạn thích, một bức hình Đức Phật thật đẹp và tĩnh lặng, hay một bức tranh vẽ, bất cứ thứ gì khiến bạn cảm thấy bình yên.

 Vụ này có nha. Bên Tây Phương họ để hình tượng Phật khắp nơi giải stress. Nhưng cũng có người Á Châu lợi dụng sự mến mộ an nhiên của đạo Phật ở Tây phương, mà vác luôn cả hình tượng Phật để khắp nơi trong nhà hàng ăn uống .... đồ mặn. Shy  
Những lúc bắt gặp cảnh tượng như vậy muốn đứng lên bỏ đi, nhưng đã lỡ đặt bàn. Và cái bao tử kêu gào quá, không thể bỏ đi.
 Becuoi
[Image: K6bu1Jw.png]
Reply
#6
Trình Pháp Với Thiền Sư – Thiền Sư Sayadaw U Jotika


[Image: 27-8-800x445.jpg]
Thiền Sư Sayadaw U Jotika


Thiền sinh:

Bạch ngài, con đang cảm nhận thấy một động lực, một sự thúc giục rất lớn đang dần dần lớn mạnh trong tâm con. Sức mạnh tâm linh đó đang khiến cuộc sống của con thay đổi, và đôi lúc cũng khiến con cảm thấy bối rối. Con thực sự mong muốn đi theo con đường phát triển tâm linh đó, nhưng cũng còn những băn khoăn về những thay đổi trong cuộc sống của mình. Con muốn xin ngài cho con một lời khuyên và sách tấn.


Thiền sư:

Điều quan trọng nhất là con không được cố gắng kiểm soát hay chống đối, điều này rất quan trọng, và không đánh giá phán xét hay tự chỉ trích bản thân mình. Những lời khuyên này Thầy đã cho đến rất nhiều người. Và có lẽ thầy đã từng viết về nó nữa.


Bởi vì, con biết đấy, trong cuộc sống chúng ta luôn luôn cố gắng kiểm soát mọi thứ. Chúng ta thích kiểm soát tất cả mọi việc. Nhưng càng cố kiểm soát, chúng ta lại càng mệt mỏi, kiệt sức và phiền não. Chúng ta có thể kiểm soát được một số thứ, nhưng rất ít ỏi, con phải hiểu và chấp nhận điều đó. Và chúng ta thường chống đối quá nhiều. Chúng ta xua đuổi quá nhiều thứ, ngay cả bản thân thầy đôi khi vẫn làm điều đó. Tiếng ồn chẳng hạn. Khi phải nghe tiếng ồn, chúng ta muốn tống khứ nó đi. Chúng ta muốn xua đuổi nó: “Tôi không thích tiếng ồn đó, tôi không thích”. Chính điều đó làm cho mình mệt mỏi. Bởi vì xung quanh con luôn có rất nhiều người, rất nhiều tiếng ồn. Khi con chống đối lại tất cả mọi người, con sẽ kiệt sức, con luôn đánh giá phán xét: cái này không tốt, cái kia không hay…


Tất nhiên, trên đời có những điều tốt và cả những điều không tốt. Nhưng khi chúng ta đánh giá phán xét nó, tâm chúng ta sẽ ngập đầy những cảm xúc (giận, hờn, buồn, vui, yêu, ghét…), và chính những cảm xúc đó không tốt đối với con. Chúng ta phải đánh giá sự việc bằng trí tuệ (panna). Chúng ta biết điều đó là không tốt, nhưng chúng ta không phiền não vì điều đó. Vì vậy, biết sự việc đó không tốt, nhưng không khởi phiền não vì nó, điều này rất quan trọng. Và hãy để tiến trình phát triển tâm linh đó diễn ra một cách tự nhiên. Đừng cố gắng quá mức. Nhưng hầu hết các vị thầy đều nói : “Hãy thực hành thật cố gắng, thật chăm chỉ”. Nhưng thầy chỉ nói một điều này: “Hãy chú ý, chú ý, luôn luôn chú ý”. Chỉ cần chú ý, đừng cố gắng ép mình qúa mức. Việc mà con cần chăm chỉ làm chỉ là chú ý, không cần điều gì khác. Đó chính là trí tuệ.


Thầy muốn con nói chuyện và trao đổi với con gái thầy. Con gái thầy có thể nói với con nhiều thứ hơn. Thầy đã làm một nhà sư hơn 40 năm rồi. Đó là một cuộc sống rất khác biệt. Con gái thầy, nó làm việc ngoài xã hội, làm rất nhiều việc, tiếp xúc với cuộc sống, với thế giới xung quanh. Có rất nhiều vấn đề phải giải quyết mỗi ngày. Chính vì vậy hai chị em có thể có nhiều kinh nghiệm để trao đổi và tâm sự với nhau hơn.

Con năm nay bao nhiêu tuổi rồi?


Thiền sinh:

Dạ, bạch ngài, con 30 tuổi ạ.


Thiền sư:

Con gái thầy lớn hơn con mười mấy tuổi. Chị ấy cũng thực hành pháp. Chị ấy thực hành thiền từ năm 16 tuổi, thầy nghĩ như vậy. Đúng không nhỉ? Con bắt đầu hành thiền từ năm 16 tuổi đúng không?


À, chị ấy nói là không phải từ năm 16 tuổi. Mà năm 16 tuổi chị ấy bắt đầu nhận ra được những điều này, điều nọ diễn ra trong tâm chỉ là các suy nghĩ. Chị ấy nhận ra mình có rất nhiều loại suy nghĩ khác nhau. Chị ấy nói chị ấy nhớ được rất nhiều thứ. Chị ấy tỉnh dậy giữa đêm khuya, khi mọi người đã ngủ say. Chị ấy bắt đầu suy nghĩ và nhận ra: “A, đó chỉ là một suy nghĩ. Rất đơn giản”.


Khi con chú ý đến tâm mình và con biết rằng có một suy nghĩ đang diễn ra trong đó. Đó chính là sự khởi đầu của thiền tập. Thiền tập tiến triển rất chậm chạp, chậm chạp và dần dần. Thầy chẳng bao giờ thúc giục con gái thầy, thầy chẳng bao giờ nghĩ đến việc phải thực hành thật tích cực, chỉ cần chú ý, một cách thật kiên nhẫn, và để chánh niệm lớn dần lên một cách tự nhiên.


Giống như việc trồng cây, con thấy đấy, con chỉ cần trồng cây xuống đất, tưới tắm, cho phân bón, không cần nhiều quá. Nhiều phân quá cây sẽ chết, đúng không. Con hiểu không? Con tưới nước cho nó nữa. Chỉ vừa đủ, đừng quá nhiều. Con bón phân, và nếu nó cần chỗ râm mát thì con đưa nó vào chỗ có bóng râm. Nếu nó cần thêm ánh sáng mặt trời, thì con lại đưa nó ra ngoài một chút. Rồi con chỉ cần đợi cho nó lớn. Giống như vậy thôi. Nhưng thầy thấy nhiều “ông chủ” nói rằng: “Phải tu thật tích cực! Tích cực cho đến tận lúc chết”. Quá nhiều áp lực, và nó sẽ làm con cảm thấy kiệt sức. “Tôi phải thực hành tích cực hơn, tích cực hơn nữa, tích cực nữa”.


Chỉ chú ý thôi thì rất thú vị. Và nếu con yêu thương và chăm chút mấy con mèo con thì sẽ thấy. Trước kia thầy có rất nhiều mèo, nhưng giờ thì chúng chạy đi đâu mất cả rồi. Chúng ta nuôi chúng, chăm sóc chúng thật tốt và để cho chúng lớn lên một cách tự nhiên. Cũng y như vậy, con phải kiên nhẫn với chính bản thân mình. Hãy hiểu mình và biết chấp nhận, chấp nhận chính bản thân mình. Hãy quan sát tâm mình và xem nó cần gì, hỗ trợ đầy đủ cho nó. Hãy quan sát tâm mình và chấp nhận, quan sát một cách tử tế, một cách thật kiên nhẫn và yêu thương. Và đừng vội vàng, vội vàng là vô ích, bởi vì vội vàng làm cho tâm mình bất an và phiền não. Hãy tin điều đó. Hãy thực hành chánh niệm, biết mình mỗi ngày, ở bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào. Hãy chú ý tới thân và tâm của mình và xem: Cái gì đang diễn ra? Chỉ một câu hỏi duy nhất: Cái gì đang diễn ra. Đừng hỏi tại sao, cũng đừng hỏi như thế nào. Những điều đó sau này sẽ tự đến cùng với trí tuệ. Còn bây giờ thì chỉ cần biết: “Đó là cái gì?”.


Con có hiểu điều thầy vừa nói không? Thứ tiếng Anh rất đơn giản. Con có thực hành trong cuộc sống hàng ngày không?


Thiền sinh:

Dạ, bạch ngài, con có thực hành trong cuộc sống.


Thiền sư:

Điều đó rất quan trọng. Ngay cả khi con sân, hận, đau khổ, hay những cảm xúc rất mạnh, chỉ đơn giản quan sát, đó là việc con gái thầy làm trong mọi lúc. Bởi vì, sống trên thế giới này, không khởi sân, giận là điều rất khó. Đúng không? Khi con sân, con làm gì? Đừng tự áp đặt mình rằng: “Ồ, đừng có sân”. Nó xảy đến một cách tự nhiên. Hãy thong thả, ngồi xuống và quan sát cơn sân của mình. Đừng cố vượt qua nó, đừng cố xua đuổi nó đi, chỉ nhìn, nhìn và nhìn. Sau một thời gian, con sẽ phát triển được chút trí tuệ. Và chính trí tuệ đó sẽ làm những việc cần làm. Không phải là bản ngã, cái tôi của con, con không thể làm điều đó bằng cái tôi, cái bản ngã được, chỉ có trí tuệ mới làm điều đó. Và với sự trợ giúp của chánh niệm, trí tuệ sẽ phát triển, và nó sẽ làm những việc cần phải làm, những việc đáng làm. Vì vậy, hãy thực hành chánh niệm ở mọi nơi, nhất là ở trên đường. Ở nhà, con có sự yên tĩnh, bình an và thoả mái, khi ngồi thiền, con sẽ chỉ quan sát được sự bình yên và tĩnh lặng đó, hoặc chỉ quan sát được bất kể những gì đang diễn ra hoặc con nghĩ là đang diễn ra trong tâm. Khi ra ngoài, con nổi giận, và đó là cơ hội tốt để con quan sát được cơn giận của mình. Vì vậy, bất cứ cái gì đang diễn ra, đó đều là đề mục để hành thiền. Thầy đã viết về vấn đề này trong rất nhiều cuốn sách, nhưng hầu hết là bằng tiếng Miến Điện.


Thực hành chánh niệm thực ra rất đơn giản. Thầy nghĩ là con đã đọc bản dịch kinh Tứ Niệm Xứ bản tiếng Anh do thầy dịch ra từ tiếng Pali rồi, đúng không?


U Dhamma Citta:

Vâng, con đọc rồi ạ. Bản dịch ấy tương đối khác với các bản dịch khác, nhưng con thấy nó rất rõ ràng, nhất là những đoạn thầy giải thích phía dưới.


Thiền sư:

Hơi khác một chút ở một số đoạn. Thầy dịch bài kinh đó từ lâu rồi, khoảng năm 1985-1986, thầy không nhớ rõ lắm. Từ rất lâu trước kia, với sự giúp đỡ của một vị sư người Úc, vị sư này về sau đã hoàn tục. Hai người mỗi ngày chỉ dịch vài câu, rất chậm, dịch từng câu, từng câu một rất chậm và cẩn thận.

 Con còn nhớ thầy đã nói về “Pajanati, pajanati” (nghĩa là tỉnh giác). Pajanati – tỉnh giác nghĩa là hay biết – không có gì hơn thế. Bất cứ cái gì diễn ra –con cũng đều hay biết. Sau một thời gian, con cũng biết rằng mình đang hay biết nữa. Điều đó rất rất quan trọng, bởi vì thực sự không phải là con hay biết, mà là tâm biết. Nó là tự nhiên, tự nhiên biết, chứ không phải một cái bản ngã, một cái tôi nào hay biết cả. Vì vậy, nếu con thực sự hiểu được kinh Tứ Niệm Xứ, thì chẳng có cái gì là khó hiểu nữa cả. Nó rất đơn giản và rõ ràng.


U Dhamma Citta:

Con gái con năm nay đã lớn, con và nó cũng ít khi được gặp nhau, cả năm gặp nhau chỉ 1-2 lần. Bởi vì nó sống rất xa nơi con ở, nó sống ở nước ngoài. Hai cha con rất yêu thương nhau, mỗi khi chia tay nó đều khóc, nhưng luôn cố giấu đi những giọt nước mắt. Con không biết mình có thể làm được gì cho nó. Có đôi khi con nghĩ, điều duy nhất con có thể làm được cho con gái con chỉ là hết lòng yêu thương nó, thầy ạ.


Thiền sư:

Con có thể hướng dẫn con gái con một cách thật nhẹ nhàng để ngày càng hiểu rõ hơn về những gì nó đang suy nghĩ hay cảm nhận. Đừng cố làm điều gì đặc biệt cả. Khi con gái thầy còn nhỏ, nó thường đến và kể với thầy rất nhiều chuyện, bất cứ chuyện gì, bởi vì nó còn rất nhỏ. Nó kể chuyện ở trường, chuyện ở nhà. Thậm chí, có khi ông nói điều này điều kia làm cho nó buồn, giận, thầy chỉ lắng nghe, lắng nghe nó. “Con nghĩ thế nào?”, và nó kể cho thầy nghe rằng nó cảm thấy ra sao. Diễn đạt được những tình cảm và những cảm xúc của mình là điều rất quan trọng. “Con đang cảm thấy như thế nào?”. Bất cứ lúc nào, đây là điều rất quan trọng.


Chính cảm xúc là cái kiểm soát chúng ta. Một suy nghĩ không kèm cảm xúc sẽ không thực sự kiểm soát con được. Nhưng một suy nghĩ đi kèm cảm xúc sẽ có rất nhiều sức mạnh để kiểm soát con. Vì vậy, khi con chú ý hơn đến cái con đang cảm nhận, thì dần dần, càng chánh niệm, con sẽ càng ý thức hơn về bản thân mình, và càng ít bị nó kiểm soát hơn. Cảm xúc đó sẽ không kiểm soát được con nữa.


Rồi sau một thời gian, thầy hỏi nó: “Con có biết tại sao ông nói những điều làm con bực mình như thế không?”, và nó bắt đầu suy nghĩ: “Tại sao ông lại nói với mình như thế nhỉ? Tại sao?”. Ah, có một điều là ông luôn luôn nói kiểu như thế…nhưng thực sự không phải là ông tức giận, đó là cách nói của ông. Nhưng mọi người cứ nghĩ rằng ông lúc nào cũng giận dữ. Nhưng mà không phải lúc nào ông cũng giận. Đó chỉ là phong cách nói chuyện của ông. Cách nói chuyện của thầy cũng giống như thế, rất mạnh mẽ, có khi gay gắt… Khi hiểu được điều đó, tâm nó trở nên bình tĩnh trở lại. Và đôi khi nó nói
: “Ồ, có thể điều ông nói cũng đúng, có phần đúng”. A, đúng rồi, có phần đúng. Tất cả mọi người đều có phần đúng, có phần đúng và có phần sai. Tất cả chúng ta đều như vậy cả.


Vì vậy, cần hiểu người khác, hiểu chính mình và các cảm xúc của mình, hiểu tại sao mình buồn bực và thất vọng, và khi đã hiểu chính mình thì tâm con sẽ bình tĩnh trở lại. Điều đó rất quan trọng. Cách tốt nhất để vượt qua bất cứ một vấn đề tâm lý nào là đầu tiên hãy chú ý quan sát để hiểu nó. Rồi vẫn đề sẽ biến mất một cách từ từ, chứ không thể ngay lập tức được. Một số vấn đề còn kéo dài đến hàng năm, nhiều năm trời, cho dù chúng ta vẫn tiếp tục chú ý. Nó cần một thời gian rất dài để vượt qua. Và khi con hiểu biết được người khác, thì sẽ có sự tha thứ và thông cảm. Khi thực sự thấu hiểu, con sẽ tha thứ. Và quả thật ông cũng có đôi lúc bực mình thật. Thầy có nhiều thứ mà ông ấy không thích, điều đó cũng là một hiểu biết rất đơn giản, và chúng tôi vẫn sống hoà hợp với nhau được.


Có khi nó nói: “Ở nhà con là chủ”. Nó muốn làm chủ nhà, muốn là một người đặc biệt, nó muốn sống theo cách riêng của nó. Ờ, được, thầy nói, “Con thấy đấy, có bao nhiêu là người, con không thể lúc nào cũng có được điều mình muốn đâu”. Điều đó còn phụ thuộc vào cả tính cách của chúng ta nữa: cách chúng ta quan hệ với mọi người, cách chúng ta phản ứng với người, hoàn cảnh của chúng ta và phụ thuộc vào cả việc chúng ta là ai nữa. Thầy hiểu điều đó. Thầy cũng từng có và vẫn có rất nhiều khuyết điểm. Thầy không tự hào về điều đó và vẫn tự cười bản thân mình.


Đối với những người khác thì điều đó không quan trọng, họ sẽ quên ngay. Nhưng thầy thì suy nghĩ rất sâu sắc và nghiêm túc và vì vậy mà thầy thường thất vọng. Vì vậy thầy biết mình là con người rất nghiêm túc. Nhưng nếu có ai đó bảo thầy rằng đừng có nghiêm túc như thế, thầy sẽ nói KHÔNG ngay lập tức. Thầy sẽ vẫn nghiêm túc, thầy suy nghĩ nghiêm túc và sâu sắc, chính vì vậy mà thầy mới trở thành một nhà sư. Nếu không sâu sắc và nghiêm túc, thì rốt cuộc thầy cũng sống như những người bạn ngày xưa của thầy, hưởng thụ cuộc sống đời thường. Thầy không sống một cuộc đời tầm thường như thế. Nhà sư là những con người khác bình thường. Bởi vì thầy thường nhìn mọi việc một cách sâu sắc và nghiêm túc, nên đôi khi thầy nghĩ những điều đó (cuộc sống đời thường) là không thể chấp nhận được. Nó không phải là cách sống mà mình muốn sống. Và chính điều đó đã giúp thầy thực hành Pháp và trở thành một nhà sư. Thầy đã sống cuộc đời xuất gia hơn 40 năm rồi. Vì sao? Bởi vì thầy không thích cuộc sống tầm thường ngoài đời đó…nó vô nghĩa quá! Mọi người đều để tiền bạc, vật chất, dính mắc…chi phối và kiểm soát tâm mình. Điều đó thật vô nghĩa! Con không bao giờ có hạnh phúc được theo cách sống đó. Nhưng những người bình thường thì lại thích sống như thế.


Có lúc con sẽ thấy, thất vọng cũng là một loại trí tuệ. Con thất vọng bởi vì con biết rằng điều đó là không đúng, không tốt. Nhưng mà con cũng phải quán sát cả điều này nữa, bởi nếu không con sẽ trở nên ngã mạn, để cái tôi xen vào trong đó. “A, tôi sẽ sửa lại mọi thứ cho đúng, tôi sẽ sửa tất cả mọi người”. Con không thể làm điều đó, không thể được, thậm chí con cũng không thể làm điều đó với chính mình. Con thất vọng, “Ừ, cái đó thật là dở, thật là đáng thất vọng!”. Con sẽ học được những điều rất quan trọng, rất lợi ích chỉ khi con hiểu được rằng con sẽ trở thành một con người trí tuệ, một con người chân chánh, hạnh phúc và bình an. Con không thể che dấu, hoặc chạy trốn nỗi thất vọng. Nếu con chạy trốn nó, con sẽ còn phải tiếp tục sống vô nghĩa như thế suốt cả cuộc đời. Con sẽ không bao giờ có thể vượt qua được nó nữa. Vì vậy hãy phơi bày nó ra, hãy để nó lộ diện và nhìn thẳng vào nó. Nhìn một cách kiên nhẫn và với tình thương nữa, ngay cả khi con tức giận, hãy nhìn cái tâm ấy như thể đó là một đứa trẻ con, một đứa bé dễ thương.


Giống như con gái thầy, nó đến và mách với thầy: “Ông mắng con thế này, thế kia”, hãy nhìn đứa bé của con mà xem, nó là một đứa trẻ. Cũng như vậy, khi con tức giận, hãy nhìn cái tâm đó. Cái tâm đó là một đứa trẻ con, đừng đánh nó. “Kể cho cha xem tại sao con tức giận thế?”. Hãy nhìn nó, nhìn nó, quan sát nó cả một thời gian dài. Chính việc nhìn được tâm mình như vậy, thì đó đã là một cái tâm trưởng thành. Vì vậy, khi con có chánh niệm, biết mình, con là một người trưởng thành, khi con không biết mình, con chỉ là một đứa trẻ con.


U Dhamma Citta:

Con cũng mong muốn được sống gần con gái con nhiều hơn. 2 cha con con sống xa nhau quá, chẳng mấy khi được gặp nhau.


Thiền sư:

Con hãy suy nghĩ và trao đổi về điều đó với con gái con, cố gắng tìm một nơi nào đó cho nó để nó có thể sống và học hỏi để phát triển. Con chỉ có một đứa con gái, thầy có những hai đứa. Nhiều hơn con một đứa nữa kìa. Từ khi còn nhỏ, chúng nó sống với ông bà, ở rất xa, còn thầy thì ở một nơi khác cũng rất xa chúng nó, nhưng trong lòng thầy lúc nào cũng có chúng nó. Thầy yêu thương nó, yêu thương cả hai đứa con của thầy, và giúp chúng nó học chánh niệm. Đó là một loại hình giáo dục vô cùng quan trọng. Chánh niệm cũng là một loại hình giáo dục. Nó giúp chúng ta tìm hiểu chính mình, tìm hiểu về thân và tâm mình, về mọi thứ. Tiến trình đó diễn ra một cách chậm chạp, dần dần qua nhiều năm tháng. Hãy thong thả mà làm con ạ, con thấy đấy, con còn rất nhiều thời gian phía trước, hãy luôn ghi nhớ điều đó trong tâm và nói chuyện, tâm sự nhiều với con gái con.


U Dhamma Citta:

Vâng, bạch thầy con xin ghi nhớ.


Thiền sư:

Hai cha con có thường xuyên liên lạc với nhau không?


U Dhamma Citta:

Dạ có. Con và con gái con thường xuyên nói chuyện với nhau qua điện thoại. Cùng giống như thầy, con luôn luôn lắng nghe nó kể chuyện.


Thiền sư:

Tốt, hãy lắng nghe, lắng nghe nhiều. Trước tiên là hãy lắng nghe.


U Dhamma Citta:

Con hy vọng là khi nó lớn lên, con có thể dạy dỗ nó được nhiều hơn. Hai cha con con sống xa nhau quá, nó sống ở nước ngoài, nói tiếng nước ngoài và hấp thụ nền văn hoá ngoại quốc. Sự giao tiếp, nói chuyện về những vấn đề sâu sắc hơn ngày càng trở nên khó khăn. Nhưng con sẽ cố gắng tìm ra một cách nào đó để dạy nó về chánh niệm.


Một điều nữa là…con xuất gia làm một nhà sư không phải để làm một người thầy dạy dỗ mọi người, nhưng đến giờ thì con không thể tránh được chuyện đó. Con thực sự mong muốn được sống độc cư trong rừng, người không biết mặt, đời chẳng biết tên, một cuộc sống bình an và tĩnh lặng để tu tập.

 Nhưng con không thể tránh được tất cả mọi người. Họ cứ đến và hỏi pháp, xin được học, xin được hướng dẫn tu tập chánh niệm… Thiền sư:

Thầy rất hiểu con, rất hiểu chuyện đó.


Thầy cũng chưa bao giờ muốn trở thành một người thầy cả. Thầy chỉ muốn sống một mình trong rừng suốt cả cuộc đời còn lại. Đó là ước mơ của thầy. Nhưng như con nói đấy: “Con đã học hỏi được nhiều điều và khi gặp gỡ mọi người, con cũng muốn chia sẻ điều đó với họ”. Việc đó là việc tốt, một việc rất quan trọng. Học chánh niệm và nói về chánh niệm mỗi khi thầy gặp gỡ mọi người, đó cũng chính là lúc thầy đang tu tập chánh niệm. Ngay cả khi đang nói chuyện về chánh niệm, thầy cũng không nghĩ rằng mình đang thuyết pháp, giảng đạo. Thế nào là thuyết pháp? Thầy chỉ đang nói chuyện với các bạn của mình. Đó không phải là một bài thuyết giảng.


Nhưng rồi họ bắt đầu ghi âm lại các bài nói chuyện ấy và in ra nhiều bản. Thầy nói đừng làm điều đó. Nhưng họ nói: “Chúng con nghe ngài nói xong rồi lại quên, vì vậy phải ghi âm và nghe đi nghe lại để hiểu kỹ hơn. Vì vậy chúng con cần ghi âm lại, chỉ là một cuốn băng ghi âm nhỏ thôi mà”…. Vậy họ ghi âm lại… và rồi sau đó còn in ra nhiều bản nữa và bắt đầu bán các băng ghi âm. Thầy không thể nào bắt họ dừng lại được. Khi mọi người đến, chủ đề thầy thực sự muốn nói chỉ là chánh niệm… mọi người tiếp tục đến nói chuyện và ghi âm lại, và trước khi thầy biết chuyện đó, thì thầy đã bị trở thành một nhà sư nổi tiếng mất rồi.


Thế rồi một ngày, một vị sư bạn nghe băng ghi âm buổi nói chuyện của thầy và chép lại, mang đến cho thầy xem. Thầy thấy có rất nhiều lỗi, nhiều chỗ không chính xác, không đúng với những gì thầy nói. Thế là họ nói: “Vậy thì ngài sửa lại những chỗ sai đó hộ con”. Thầy sửa rồi đưa lại. Thế là họ bắt đầu in ra thành những cuốn sách…thầy hoàn toàn không có ý định làm những việc đó.


Vì vậy, trường hợp của con cũng giống thầy thôi. Con mơ ước được sống một cuộc đời bình yên và tĩnh lặng, một mình ở trong rừng trong suốt quãng đời còn lại. Rất tốt, rất tốt! Hãy luôn giữ niềm mơ ước đó con ạ. Nó sẽ chẳng bao giờ thành hiện thực đâu. Nhưng con hãy giữ ước mơ ấy.


Con sẽ phải trở thành một vị thầy, dù con có muốn hay không. Bởi vì mọi người cần điều đó. Mọi người cần những vị thầy mà bản thân họ không muốn làm thầy. Ở ngoài kia có vô số người đang khao khát làm thầy thiên hạ. Chỉ có một số rất rất ít những người không muốn trở thành thầy người khác. Một người bạn của thầy có lần nói đùa rằng: “Chúng tôi chỉ muốn tìm những vị thầy chẳng muốn làm thầy người khác”.


Đúng là như thế, cuộc đời là như thế mà. Người Miến Điện có câu nói rằng: “Khi bạn không muốn gì, thì bạn sẽ có rất nhiều” và “Khi không còn mong muốn mình đẹp, bạn sẽ là người đẹp”, “Khi không muốn là người nổi tiếng, nhất định bạn sẽ phải nổi tiếng”.


Dù con có cố cách nào để không trở thành người nổi tiếng, thì cuối cùng con vẫn phải là người nổi tiếng thôi.


Còn tiếp.



[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#7
U Dhamma Citta:
Con chưa được chuẩn bị cho điều đó, chính vì vậy con cảm thấy rất khó xử.

Thiền sư:
Tốt, hãy cố gắng sống yên tĩnh một mình trong rừng thiền của con càng nhiều càng tốt. Hãy tận dụng thời gian để hành thiền trước khi mọi người tìm đến và không để cho con thời gian làm việc đó nữa.

U Dhamma Citta:
Con làm theo thầy khi xưa là chỉ cho phép họ đến trình pháp vào ngày Chủ Nhật cuối tuần.

Thiền sư:
Một vị thầy của thầy khi xưa cũng nói với thầy: “Khi không ai biết bạn là ai, thì sẽ không có ai đến quấy rầy con hành thiền cả”. Một ngày, có nhiều người đến tìm ngài và ngài chẳng có thời gian để hành thiền nữa. Bởi thế ngài mới nói với thầy, sự việc rồi sẽ xảy ra như thế với thầy sau này. Ngài muốn làm một nhà sư sống ẩn cư trong rừng, xa rất xa con người, nhưng điều đó chẳng đến với ngài. Bởi vì mọi người cần các vị thầy. Và con cũng không cần thiết phải biết tất cả mọi thứ mới có thể làm một người thầy. Không có ai biết tất cả mọi thứ được, có quá nhiều thứ để biết. Nhưng khi con thực sự biết thế nào là chánh niệm, thì thế là đủ rồi.

U Dhamma Citta:
Nhưng để làm cho họ hiểu được chánh niệm, con lại phải nói và giúp họ giải quyết rất nhiều vấn đề khác, nhất là các vấn đề tâm lý. Con bỗng nhiên lại phải làm công việc của một bác sỹ tâm lý bất đắc dĩ. Đôi lúc quả là mệt mỏi.

Thiền sư:
Đúng vậy. Con đã từng đọc sách của thầy và thấy trong các cuốn sách ấy và trong các bài nói chuyện của thầy, thầy nói rất nhiều đến tâm lý, bởi vì thiền chánh niệm cũng là một loại trị liệu tâm lý, một phương thức trị liệu tâm lý tích cực và thực tế. Và Đức Phật cũng nói rất nhiều về thân và tâm, các tâm sở và tiến trình tâm. Vì vậy có vị thầy nói rằng những lời dạy của Đức Phật chủ yếu cũng là một thể loại trị liệu tâm lý. Cách thức để phát triển tâm mình, đó cũng chỉ là vấn đề tâm lý mà thôi. Làm cách nào để làm được điều đó? Dùng những kiến thức tâm lý học mà con đã có để cố gắng giải quyết các vấn đề tâm lý. Và Đức Phật đã làm những gì? Ngài cố gắng giải quyết và vượt qua các vấn đề tâm lý. Vấn đề tâm lý lớn nhất là gì? Đau khổ!

Vì vậy đó chính là tâm lý học, chúng ta cần phải hiểu về tâm lý học, về những thể loại tính cách khác nhau. Con người rất khác nhau. Chúng ta cần phải hiểu rõ người này thuộc thể loại tâm lý, tính cách nào để nói hoặc hành xử một cách thích hợp. Chúng ta không thể và cũng không nên nói tất cả mọi thứ cho họ biết. Điều đó sẽ làm họ quá tải thông tin. Vì vậy con hãy học hỏi thêm về tâm lý học. Trong các cuốn sách của thầy có viết rất nhiều về tâm lý. Thầy nghĩ mọi người thích đọc là vì điều đó.

U Dhamma Citta:
Con cũng học được rất nhiều từ thầy, và trong khi tiếp xúc, nói chuyện với mọi người, con đã hiểu ra được rất nhiều điều từ thực tế, nảy sinh rất nhiều kiến thức mới mẻ mà con nghĩ trước nay không có trong mình. Con cũng phát hiện ra mình có nhiều khả năng để giúp mọi người vượt qua các vấn đề tâm lý của họ. Nhưng dần dần nó cũng tạo thêm khó khăn cho con vì con sẽ trở nên bận rộn và mệt mỏi vì mọi người.

Thiền sư:
Bởi vì con có thiện ý giúp đỡ mọi người hiểu Pháp, và chính điều đó thành sức hấp dẫn lôi cuốn mọi người tìm đến với con.

U Dhamma Citta:
Vâng con hiểu thưa thầy. Xin tri ân thầy đã dạy dỗ con! Đối với con, Thầy luôn là một người cha tinh thần của con trên con đường tu tập!

Bài viết được trích từ cuốn Trình Pháp Với Thiền Sư – Tác giả Tỳ Khưu U Jotika

Theravada.vn
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#8
Giải Về Ý Nghĩa Chỉ Tịnh Theo Thắng Pháp Yếu Hiệp – Tổng Quát


[Image: 2-65-800x445.jpg]

GIẢI VỀ Ý NGHĨA CHỈ TỊNH THEO THẮNG PHÁP YẾU HIỆP

TỔNG QUÁT

Bài kệ dẫn nhập của Ngài Anuruddha.

Giải về biến hình vận hành của Danh Sắc qua ý nghĩa Vô ngã, ngài Anuruddha dẫn giải bằng hai lối: Duyên sinh (Paticcasamuppaada) và duyên hệ (Pa.t.thaana). Với hai phương thức tu tập: Chỉ tịnh (Samatha) và Minh sát (Vipassanaa).

Ðoạn kệ dẫn nhập, Ngài viết:

” Samathavipassaana.m Bhaavanaanamito para.m Kamma.t.thaana.m pavakkhaami Duvidhampi yathakkama.m”.

Nói đến hợp từ Kamma.t.thaanasa”ngaha tức là cách giải yếu lược tóm thâu các án xứ (Chỉ tịnh và Minh sát).

Kamma.t.thaana.m sa”ngaha = Kamma.t.thaanasa”ngaho.

Về ý nghĩa đoạn kệ: từ “Bhaavanaa” có nghĩa là pháp cần phát triển, cần làm hiển lộ.

Bhaavetabbaati = Bhaavanaa.

Hay pháp nào mà Bậc trí cần làm sanh khởi, hiển lộ ở bước đầu tiên cũng như sau cùng trong một quá trình tiến hóa, thì gọi là Bhaavanaa.

Về mục đích cũng như phương thức tu chứng, Bhaavanaa được phân loại có hai: Samathabhaavanaa và Vipassanaabhaavanaa, hay Chỉ tịnh tiến đạt và Minh sát tiến đạt.


  1. CHỈ TỊNH TIẾN ÐẠT (Samathabhaavanaa)
“Samatha hay Chỉ tịnh ” có nghĩa là tĩnh lặng, an tịnh, không xao động. Nhưng ở đây, nên hiểu theo ý nghĩa giới hạn hơn. Theo lời giải tự:

“Kilesasametiiti = samatho”.

Sự lắng đọng phiền não gọi là Samatha. Như sự nhất tâm trong tâm Ðại thiện và Sơ thiện sắc giới.

Một lối giải thích khác:

Citta.m sametiiti = samatho“: trạng thái làm cho các thiền chi tế nhị hơn, gọi là Samatha. Như sự nhất tâm trong Nhị Thiền Thiện và Tố cho đến Ngũ thiền Thiện và Tố.

Sở dĩ có ba lời giải thích như vậy là vì muốn nói đến ba trường hợp sau:

– Hành giả, nếu là phàm tam nhân, khi tu tập án xứ Chỉ tịnh, nhờ chuyên cần vị này chứng đạt thiền tầng thứ nhất: Sơ thiền Sắc giới – tâm hành giả bấy giờ được vắng lặng, chính nhờ đã ngăn trừ các triền cái bởi các tâm Ðại thiện và Sơ Thiện Sắc Giới đã chứng đạt. Samatha ở đây được chỉ cho sự lắng dịu phiền não.

– Ðối với vi Alahán thiền khô, các Ngài muốn sử dụng thiền hiệp thế, khi ấy các Ngài dùng tâm Ðại tố để triển khai án xứ chỉ tịnh cho đến khi chứng đạt Thiền tố thứ nhất. Giai đoạn này khác hẳn với phàm nhân, nghĩa là tâm Ðại tố và Sơ thiền sác giới không còn phải giữ vai trò ngăn trừ phiền não nữa mà chỉ là sự nhất tâm trong một án xứ chỉ tịnh nào đó. Ở đây, samatha được chỉ cho tâm an tịnh.

– Hành giả sau khi chứng đạt Sơ thiền, chuyên cần tu tập các án xứ chỉ tịnh và chứng thiền tầng thứ hai: Nhị Thiền Sắc Giới. Thứ tự như thế cho đến khi chứng đạt thiền tầng thứ năm. Ở giai đoạn này những tâm Ðại thiện và những tâm Thiền thiện sắc giới hay Tâm Ðại Tố và Thiền Tố Sắc Giới, các tâm này không còn phải ngăn ngừa các triền cái nữa mà chỉ giúp cho tâm định khắn khít với án xứ hơn và cũng ở các giai đoạn này, hành giả loại bỏ các thiền chi thô thiển theo trình độ thiền chứng, nghĩa là Nhị thiền bỏ Tầm, Tam thiền bỏ Tứ, Tứ thiền bỏ Hỷ và Ngũ thiền bỏ Lạc. Trường hợp này, Samatha chỉ cho trạng thái làm cho các thiền chi tế nhị hơn.

Samatha được phân loại có hai:

1) Parittasamatha (Hy thiểu chỉ tịnh), tức thiền chỉ tịnh của người chưa đạt đến kiên cố định, nghĩa là các thiền chi hay Ðổng lực Thiện và Tố còn quá yếu ớt.

2) Mahaggatasamatha (Ðáo đại chỉ tịnh) tức thiền chỉ tịnh của người đạt đến kiên cố định. Ơû trình độ này, các tâm Ðại thiện và đại tố vô cùng mãnh liệt, khắn khít với cảnh án xứ. Các thiền chi có khả năng áp chế triền cái.


  1. MINH SÁT TIẾN ÐẠT (Vipassanaabhaavanaa)
Vipassanaa được giải thích rằng:

“Ruupaaci-aaramma.nesi pa~n~nattiiyaa ca nicca sukha attasubha sa~n~naaya ca visesena naamaruupabhaavena vaa aniccaadi- aakaarena vaa passatiiti = Vipassanaa”

“Sự quán xét các cảnh xuyên qua ý nghĩa Danh Sắc, để không còn ý thức giả lập: Danh và Nghĩa chế định. Hay sự quán xét sáng suốt thực tướng các cảnh qua các ý nghĩa Vô thường – Khổ não – Vô ngã và Bất tịnh, để không còn định kiến Thường- Lạc – Ngã – Tịnh. Sự quán xét đó được gọi là VIPASSANAA hay MINH SÁT.”

Hay một lời giải thích:

“Pa~ncakkhandhesu viividhena aniccaadi – aakaarena passatiiti = Vipassanaa”

“Sự quán xét thấy Ngũ uẩn là Vô thường, Khổ não, Vô ngã và Bất tịnh, gọi là Vipassanaa“.

Ơû lời giải thứ nhất, hiểu theo văn tự, Vipassanaa được định nghĩa như sau:

Theo lối chiết tự, Vii có nghĩa là “thù diệu, đặc thù”. Passanaa là: “sự thấy sáng suốt”. Như vậy, Vipassanaa là sự nhận thấy sáng suốt một cách đặc thù. Như lời định nghĩa sau:

“Visesena passatiiti = Vipassanaa”.

Về ý nghĩa thứ nhất của Vipassanaa có hai khía cạnh:

– Quán xét các cảnh theo phương diện Danh và Sắc.
– Quán xét các cảnh qua bốn ý nghĩa: Vô thường – Khổ – Vô ngã và Bất tịnh.


Các sự thẩm quán này được gọi là thù thắng, đặc thù, vì rằng các cảnh do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý nhận thức, bản chất của chúng chỉ là Danh hoặc Sắc, nhưng thường chúng sanh chỉ nhận thức trong khuôn lối giả lập, theo một định thức cố hữu: Mắt nhìn cảnh sắc nhận thức: đây là vật này, ấy là vật kia. Các căn còn lại cũng nhận thức thế, đó là tiếng hay, tiếng xấu; là hương thơm, mùi thối; là vị ngon, vị dở; là êm ái, là bức xúc; là vừa lòng, nghịch ý… Sự ngộ nhận những giả lập như vậy được gọi là sự nhận thức thông thường, gọi là “thông thường” vì phần đông chúng sanh đều ngộ nhận.

Sự nhận chân các cảnh, đó là sự quán xét vạn hữu theo phương diện Danh và Sắc.

Khía cạnh thứ hai tức là quán xét các cảnh theo bốn tính chất: Vô thường, Khổ não, Vô ngã và Bất tịnh.

Các cảnh do các căn môn nhận thức luôn mang tính sanh diệt, tiếp nối đổi thay, mà phần đông chúng sanh đều ngộ nhận: cảnh và thức đều trường tồn, là vĩnh hằng, là bất biến dịch, có chăng là sự chuyển dời theo một quy luật tuần hoàn mang tính ổn định, từ đó mà nảy sinh kiến chấp: vạn hữu là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Ðể so sánh điều này, cũng như người ngắm bức tranh, họ nhìn thấy nhà cửa, phố xá, núi non, người vật… mà họa sĩ đã vẽ vào đấy, nhưng họ không thấy được sự chuyển động thay đổi, cử động của những cái mà họlà người, vật, phố xá, nhà cửa,… trong bức tranh đang nhìn. Cũng vậy, các cảnh thức do các căn môn nhận bi?t của chúng sanh cũng giống như cái nhìn của người xem tranh, không biết rằng nó luôn luôn thay đổi, sanh diệt, chuyển tiếp và không bao giờ ở trạng thái ổn định.

Như thế, tâm ghi nhận, quán xét các cảnh có thể là bất thiện, thiện tương ưng, thiện bất tương ưng. Nhưng chỉ sự quán xét nào bằng tâm thiện tương ưng trí mới là sự quán xét theo Minh sát. Nghĩa là thấy rằng: các vạn hữu đều mang những tính chất Vô thường – Khổ não – Vô ngã và Bất tịnh.

Nói về ý nghĩa thứ hai của Minh Sát – Vipassanaa – “Pa~ncakkhandhesu viividhena aniccaadi – aakaarena passatiiti = Vipassanaa” (Sự quán xét thấy Ngũ uẩn là Vô thường, Khổ não, Vô ngã và Bất tịnh, gọi là Vipassanaa).

“Vi” trong nghĩa Vipassanaa của lời giải tự trên, có nghĩa là ” chi tiết, khía cạnh”. Passanaa là “sự thấy sáng suốt”. Như vậy, Vipassanaa có nghĩa là ” Sự thấy sáng suốt ở mỗi khía cạnh: Vô thường – Khổ não – Vô ngã và Bất tịnh”.

Thông thường chúng sanh đều mang kiến chấp: Thân và Tâm thức là thường hằng, là an lạc, là bản ngã, là thiện mỹ. Những kiến chấp sai lầm này có thể là những tâm bất thiện, thiện bất tương ưng và cả thiện tương ưng. Chỉ khi Tâm Ðại thiện tương ưng Trí dùng trong quán xét bốn tính chất của Ngũ uẩn như đã nói, mới gọi là Minh sát.

Vipassanaa phân loại có 3:

1) Sa”nkhaaraparigga.nhanaka Vipassanaa: Hành quán minh sát.
2) Phalasamaapatti Vipassanaa: Thiền quả minh sát.
3) Nirodhasamaapatti Vipassanaa: Thiền diệt minh sát.


Với ba minh sát này, Hành quán minh sát (Sa”nkhaaraparigga.nhanakavipassana) không nhất thiết phải là Lợi Quán (Tikkha) hay Trì Quán (Manda)
[*], cả hai đều có thể đạt đến tâm Ðạo, khác nhau chỉ là nhanh hay chậm. Nghĩa là, nếu Minh sát trì quán sẽ chứng được Thánh Ðạo chậm hơn và Tầng Thánh Ðạo này gọi là Pandaabhi~n~naamagga (Trì trí đạo). Ðối với Minh sát lợi quán thì sẽ chứng đạt nhanh hơn và tầng Thánh này được gọi là Khippaabhi~n~naamagga (Lợi trí đạo). Về Thiền quả minh sát, cần phải là Lợi quán (TikkhaVipassanaa), vì sự minh sát này là nhân giúp cho Tâm quả sanh khởi mà không cần sự trợ giúp của tâm đạo như trong lộ đắc đạo. Tuy nhiên, đối với vị thuần thục, tự tại thì trì quán minh sát (MandaVipassanaa) cũng có thể nhập thiền quả được.



[*]Tikkha và Manda ở đây không nói cho thời điểm tái tục (mà thường dùng là lợi căn và độn căn). Tikkha và Manda này là chỉ cho thời điểm Minh sát trước khi nhập thiền – N.D.
[*]
Riêng về Thiền Diệt Minh Sát thì cần ở mức quân bình, nghĩa là không Trì quán mà cũng không Lợi quán. Vì đây là Minh sát mà khi hành giả tu tập, đồng thời cũng triển khai Thiền chỉ tịnh. Do đó, Minh sát này còn gọi là Song hành Minh sát (Yuganandha Vipassanaa).
Trong Tập Sớ Giải Visuddhimagga- atthakathaa và Pa.tisambhidaamagga- atthakathaa, các Vị A-xà-lê giải thích ba Minh sát này như sau:
“Vipassanaa panesaa tividhaa hoti sa.nkhaarapariga.nhanakaVipassanaa, phalasamaapattiVipassanaa, nirodhasamaapattiVipassanaati. Tattha sa.nkhaarapariga.nhanakaVipassanaa mandaa vaa hotu tikkhaa vaa maggasapada.t.thaana.m hotiyeva. PhalasamaapattiVipassanaa tikkhaava va.t.tati maggabhaavanaasadisaa. NirodhasamaapattiVipassanaa pana naatimanda, aatitikkhaa va.t.tati. Tasmaa eso naatimandàya naatitikkhàya Vipassanàya te sa”nkhaare vipassati.”
Ba Minh Sát này: Hành Quán Minh Sát – sự suy xét các pháp hành Danh và Sắc để chứng các tầng Thánh Ðạo, Thiền Quả Minh Sát – sự quán xét Danh và Sắc để nhập Thiền quả, Thiền Diệt Minh Sát – sự thẩm sát các thiền tầng Ðáo Ðại để nhập Thiền diệt.
Ðối với Hành Quán Minh Sát, như đã nói Lợi Quán hay Trì Quán đều là nhân cận giúp cho tâm Ðạo. Riêng Thiền Quả Minh Sát, thì cần là Lợi Quán. Minh sát này thì cũng giống như sự phát triển các chi đạo trong tâm Ðạo (vì Minh sát này tuy lấy cảnh là các Pháp hành, song chỉ lấy đó (pháp hành) để nhàm chán, hướng viễn ly chứ không chấp giữ, vả lại, Thiền Quả Minh Sát là nhân hỗ trợ cho tâm quả hiện khởi lấy cảnh là Nip -bàn, cũng như tâm Ðạo giúp cho tâm Quả sanh khởi trong Lộ Ðắc đạo). Về Thiền Diệt Minh Sát thì phải trung hòa Lợi quán và Trì Quán (vì rằng nếu Trí minh sát chậm chạp, yếu ớt thì Hành giả sẽ nghiêng nặng về Ðịnh, mà tâm định quá mạnh thì tâm và sở hữu không thể diệt, chỉ ở trong trạng thái yên tịnh, và ngược lại, nếu Trí minh sát quá mạnh mẽ, nhạy bén thì hành giả chỉ suy xét về thực tính pháp hành. Ðiều này chỉ cần đến Thiền quả chứ không là Thiền diệt).
Sau đây là một số lời giải tự tiếng Kamma.t.thaana trong câu kệ dẫn nhập, trích từ Visuddhimaggamahaatikaa.
Theo bộ sách này, Kamma.t.thaana có nghĩa là nền tảng để triển khai “Chỉ tịnh và Minh sát”.
Kamma.t.thaana chiết tự có hai tiếng: kamma + .thaanaKamma có nghĩa là việc làm (Kamma = Kiriyaa). .Thaana là chỗ đứng hay nền tảng (.ti.t.thati etthaati = .thaana.m). Cái mà nhờ đó hành giả triển khai chỉ tịnh (Kasi.na, Anussati…) và Minh sát (Danh, sắc,…), cái đó được gọi là .Thaana – Xứ.
Kamma.t.thaana có hai: Aaramma.nakamma.t.thaana và Aaramma.nika-bhaavanaakamma.t.thaana.
– Aaramma.nakamma.t.thaana tức lấy đề mục chỉ quán làm cảnh án xứ để triển khai Chỉ tịnh (Kasi.na Anussati.) và Minh sát (Bhuumakasa”nkhaara dhamma: Danh, sắc)
– Aaramma.nikabhaavanaakamma.t.thaana là cảnh án xứ lấy sự chuyên cần mà trước đó đã tu tập Chỉ tịnh hay Minh sát làm động lực giúp cho sự chuyên cần hiện tại.
Aaramma.nakamma.t.thaana hay Aaramma.nikabhaavanaakamma.t.thaana tuy là hai nhưng không phải hoàn toàn khác nhau. Aaramma.nakamma.t.thaana cũng như cuộc phim và Aaramma.nikabhaavanaakamma.t.thaana là người xem phim. Như lời giải tự sau đây:
“Kammassa .thaana.m = Kamma.t.thaana.m”
Cảnh làm nền tảng để triển khai Chỉ tịnh hay Minh sát, cảnh ấy gọi là Kamma.t.thaana. Hay sự tinh cần nào hiện khởi nhờ động lực của sự tinh cần tu tập chỉ quán trước đó. Sự tinh cần ấy gọi là Kamma.t.thaana.
Những lời giải thích tiếng Kamma.t.thaano theo Nayamuula.tiikaa:
“Kamena visesaadhigamassa .thaananti = Kamma.t.thaana.m” (và) “Kamme bhaavanaa ra bho.thaananti = Kamma.t.thaana.m”.
” Sự tu tiến nào là nhân chứng đắc thiền hay Ðạo quả và Nip – bàn, đó được gọi là Kamma.t.thaana, hay sự tinh cần trong việc làm nào dẫn đến các thiền tầng, Ðạo, Quả và Níp-bàn, ấy gọi là Kamma.t.thaana“.

Theo lời giải thích trên thì Kamma.t.thaana chính là sự phát triển Chỉ tịnh và Minh sát.

40 ÐỀ MỤC PHÂN THÀNH BẢY LOẠI ÁN XỨ CHỈ TỊNH


  1. Hoàn tịnh (Kasi.na).
    2. Bất mỹ (Asubha)
    3. Tùy niệm (Anussati)
    4. Vô lượng tâm (Appama~n~naa)
    5. Vật thực uế tưởng (Aaharepa.tikuulasa~n~naa)
    6. Tứ đại phân quán (Catdhaatuvavatthaana)
    7. Vô sắc (Aruupa)



Còn tiếp. 

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#9
GIẢI VỀ SÁU CARITA:

Tiếùng Carita theo các Ngài Chú Giải trong Bộ Visuddhimaggatthakathaa, giải rằng:
“Cara.na.m pavattana.m = Cariyaa” luôn hiện khởi, gọi là Cariyaa.

“Raagassacariyaa = Raagacariyaa” sự thường hiện hữu của Ái, gọi là Raagacariyaa – Cơ tánh ái hay bản tính ái.
[Từ Carita, nguyên ngữ là ” thường tánh” thì có lẽ chính xác hơn. Nhưng ở đây, người dịch xin thoát đi là “Cơ tánh” , vì để thích hợp với lối dùng phổ thông, và cũng để tránh “ý niệm thường”.}

“Raagacariyaa etassa atthiiti = Raagacarito”. Người hằng bị ái chi phối, gọi là Raagacarita (người có cơ tánh Ái)
Tương tự, với các Carita Dosa, Moha, Saddhaa, Buddhi và Vitakka.
Nói hẹp là vậy, nhưng nói rộng thì Carita tính đến 63. Trong đó có 14 Suddhacarita và 49 Nissakacarita.
* 14 Suddhacarita (thuần tính), đó là:

Raagacarita.
Dosacarita.
Mohacarita.
Raagadosacarita.
Raagamohacarita.
Raagadosamohacarita.
Dosamohacarita.
Saddhaacarita.
Buddhicarita.
Vitakkacarita.
Saddhaabuddhicarita.
Saddhaavitakkacarita.
Buddhivitakkacarita.
Saddhaabuddhivitakkacarita.

Trong 49 Missakacarita (hỗn hợp tính) có 21 Ekamuula, 21 Dvimuula và 7 Timuula.
* 21 Ekamuula, đó là:
– 7 Raagamuula (cơ tánh ái):
Raagasaddhaacarita.
Raagabuddhicarita.
Raagavitakkacarita.
Raagabuddhaabuddhicarita.
Raagasaddhaavitakkacarita.
Raagabuddhivitakkacarita.
Raagasaddhaabuddhivitakkacarita.

– 7 Dosamuula (cơ tánh sân):
Dosasaddhaacarita.
Dosabuddhicarita.
Dosavitakkacarita.
Dosabuddhaabuddhicarita.
Dosasaddhaavitakkacarita.
Dosabuddhivitakkacarita.
Dosasaddhaabuddhivitakkacarita
.

– 7 Mohamuula (cơ tánh si):
Mohasaddhaacarita.
Mohabuddhicarita.
Mohavitakkacarita.
Mohabuddhaabuddhicarita.
Mohasaddhaavitakkacarita.
Mohabuddhivitakkacarita.
Mohasaddhaabuddhivitakkacarita.

* 21 Dvimuula, đó là:
– 7 Raagadosamuula (cơ tánh ái lẫn sân):
Raagadosasaddhaacarita.
Raagadosabuddhicarita.
Raagadosavitakkacarita.
Raagadosabuddhaabuddhicarita.
Raagadosasaddhaavitakkacarita.
Raagadosabuddhivitakkacarita.
Raagadosasaddhaabuddhivitakkacarita
.

– 7 Raagamohamuula (cơ tánh ái lẫn si):
Raagamohasaddhaacarita.
Raagamohabuddhicarita.
Raagamohavitakkacarita.
Raagamohabuddhaabuddhicarita.
Raagamohasaddhaavitakkacarita.
Raagamohabuddhivitakkacarita.
Raagamohasaddhaabuddhivitakkacarita
.

– 7 Dosamohamuula (cơ tánh sân lẫn si):
Dosamohasaddhaacarita.
Dosamohabuddhicarita.
Dosamohavitakkacarita.
Dosamohabuddhaabuddhicarita.
Dosamohasaddhaavitakkacarita.
Dosamohabuddhivitakkacarita.
Dosamohasaddhaabuddhivitakkacarita
.

* 7 Timuula, đó là:
Raagadosamohasaddhaacarita.
Raagadosamohabuddhicarita.
Raagadosamohavitakkacarita.
Raagadosamohabuddhaabuddhicarita.
Raagadosamohasaddhaavitakkacarita.
Raagadosamohabuddhivitakkacarita.
Raagadosamohasaddhaabuddhivitakkacarita.


Bảy cơ tánh bất thiện nhân với bảy cơ tánh thiện thành 49 cơ tánh hỗn hợp.
Nói rộng như vậy tức cho thấy rằng có những chúng sanh có thể có nhiều căn tánh hỗn hợp. Song đối với hành giả không thể chọn nhiều án xứ để thích ứng với cơ tánh của mình – khi xét thấy là hỗn hợp – mà chỉ tu tập một án xứ nào thích nghi với một cơ tánh nổi bật nhất của mình.

SỰ NHẬN BIẾT VỀ CARITA:
Ngoại trừ những Vị đắc Tha tâm thông (Paricittavijaanamaa), thì không ai có thể biết chính xác về tâm tính của người khác, có chăng cũng chỉ biết mơ hồ qua tướng trạng, ngoại hình, đặc điểm, … mà các khoa tướng số, bói toán đã giải thích. Riêng về Phật Giáo có thể nhận xét những đặc điểm sau đây mà xác định thuộc về cơ tánh nào.

Iriyaapathato kiccaa
Bhojanaa dassanaadito
Dhammappavattito cava
Cariyaayo vibhaavayoti. (trích từ Visuddhimaggatthakathaa).

Ðối với Bậc Trí, để nhận định cơ tánh về mình hay người khác, các Ngài nhận xét qua 5 điểm:
Oai nghi (cách đi, đứng, nằm, ngồi,…)
Việc làm
Vật thực.
Cách nhận thức (cách nhìn, nghe, ngửi,…)
Pháp tánh.



  1. CƠ TÁNH ÁI.


Ðể xác định một người có cơ tánh ái (Raagacarita) cần xét qua các đặc điểm sau đây:
1.1 Các cử chỉ oai nghi: (Iriyaapatha)

Trong cách bước đi có vẻ nhẹ nhàng, mềm yếu, những bước chân đều đặn, khi dỡ chân hoặc khi đạp xuống không có vẻ gì là vội vã. Sức nặng của cơ thể sẽ để lại dấu chân in đậm ở phần trướcbàn chân. Những cử chỉ đi đứng hoặc ngồi đều dễ nhìn, duyên dáng. Khi nằm nghỉ không bao giờ vội vàng, khi nghỉ được sửa soạn chu đáo, kỹ lưỡng. Lúc ngủ trong tư thế nằm nghiêng, các cử chỉ nhỏ nhặt, tế nhị trong lúc nằm được dung hợp bởi những động tác hài hòa. Có những dáng vẻ, điệu bộ không mấy hài lòng khi ai đánh thức, gọi dậy.

1.2. Sự thọ dụng: (Bhojana)
Oû người có cơ tánh này, họ thường ưa thích những vật thực mềm mại và mang những vị béo ngọt. Tuy vậy, dùng vật thực họ chỉ dùng chừng mực, vừa phải (đây chỉ là một thái độ bản năng) và không bao giờ có vẻ vội vàng.
Một thói quen ở người cơ tánh này là vẫn thích nếm những vị lạ, và với họ một ít vị ngon là đã vừa lòng.

1.3 Việc làm: (Kicca):
Tất cả các việc làm đều được thực hiện một cách chu đáo, kỹ lưỡng và chậm rãi.

1.4 Tính cảm quan: (Dassana)
Với người cơ tánh này, một đối tượng ngũ quan khả ái dễ dàng gây sự chú ý, thích thú cho họ, dù đối tượng ngũ quan đó chỉ là cái bình thường, nhỏ nhặt. Song với họ là một sự thú vị của ngưòi lần đầu mới gặp.
Ðặc tính khác, luôn rộng lượng và biết tha thứ, họ dễ dàng bỏ qua một lỗi lầm hay sự xúc phạm của kẻ khác.
Cảm tính của người cơ tánh này là vẫn thường lưu luyến, dính mắc những đồ vật, hay chỗ ở mà với họ nó có những dáng nét quen thuộc, những ấn tượng khó quên.

1.5 Pháp tánh: (Dhammapavatti)
Người cơ tánh ái, thường có những khuyết tánh sau: gian xảo (maayaa), tự cao (saatheyye), so đo (maana), thiên hướng ác hạnh (papicchataa), thích được tán tụng (mahicchataa), không biết đủ (asantu.t.thitaa), mưu mô (siviga), thích đỏm dáng (caalapalya).


  1. CƠ TÁNH TÍN
Người cơ tánh tín chỉ khác cơ tánh ái những pháp tánh sau:
Dứt bỏ, không chấp trước với tài sản (mattacaagataa), thích diện kiến Bậc Thiện Trí (ariyaana.m dasanakaamattaa), vui mừng khi gặp Bậc Thiện trí và nghe pháp (pamojjabahulataa), khiêm nhường (asathataa), không gian xảo (amaayaavitaa), thường có lòng tịnh tín (pasaada).


  1. CƠ TÁNH SÂN
Riêng người cơ tánh sân thì hoàn toàn trái ngược những đặc điểm trên:
3.1 Các cử chỉ oai nghi: (Iriyaapatha)
Những cử chỉ trong lúc bước đi cứng rắn, mạnh dạn, nhanh nhẹn, những bước chân nặng nề sẽ để lại dấu chân hằn sâu nét gót.
Trong lúc đứng hoặc ngồi cũng trong dáng vẻ mạnh dạn và thô cứng.
Khi nằm vẫn là những động tác nhanh nhẹn cố hữu. Ơû người cơ tánh này, chỗ nghỉ không là điều mà họ phải quan tâm, do đó thường hay bừa bãi và ít khi được sửa soạn kỹ lưỡng chu đáo. Cũng như người có tính ái họ không mấy vừa lòng khi đánh thức, gọi dậy, thậm chí điều này có thể làm cho họ nổi giận nữa là khác.

3.2 Việc làm (Kicca):
Tất cả những việc làm, họ đều cho kết quả hoàn tất nhưng cẩu thả và bừa bãi.
3.3 Sự thọ dụng (Bhojana)
Những vật thực mang các vị mặn, đắng, chua, chát vẫn là những thứ mà họ thích hơn cả. Trong khi dùng thức ăn, thức uống, họ dùng thô tháo vội vàng, và tương ứng với cố tật này là không có thói quen nếm vị, (có lẽ vì thế) họ dễ bất bình với thức ăn nào đó mà không vừa lòng.
3.4 Tính cảm quan (Dassana):
Cực đoan trong cảm quan nhận thức, hoàn toàn không vừa lòng trước ngũ quan bất toại, dù chỉ là một khía cạnh tầm thường, nhỏ nhặt mà họ đã xem là không hay.
Ðối với người cơ tánh sân, họ không mấy gì lưu tâm đến những đồ vật, chốn ở quen thuộc mà điều kiện nào đó họ phải bỏ đi. Nếu là người cơ tánh ái, ấy là ấn tượng khó phôi phai.
3.5 Pháp tánh (Dhammapavatti)
Người cơ tánh sân thường mắc phải những khuyết như sau: nóng giận (kodha), thù hiềm (upanaaha), chỉ trích việc công đức của người khác (makkha), muốn hơn người (palaasa), ganh tị (issa), bỏn sẻn (macchatiya).


  1. CƠ TÁNH GIÁC
Ðối với người cơ tánh giác chỉ khác với người cơ tánh sân ở những thiện tánh sau đây:
Biết nghe những lời dạy bảo hữu ích (sovacassataa), là người bạn tốt cho kẻ khác (kalyaa”namittataa), tiết độ trong vật thực (bhojane matta~n~nutaa), ghi nhận và cảnh tỉnh (chánh niệm tỉnh giác – satisampajja~n~na.m), luôn hướng đến tinh cần (jaagariyaanuyoga), có lòng nhân (sa.mvega), chuyên cần với những việc làm công đức (yonisopadhaana.m).


  1. CƠ TÁNH SI
Người cơ tánh si có những đặc điểm sau:
5.1 Cử chỉ oai nghi (Iriyaapattha):
Cách bước đi, dỡ chân và đạp xuống bằng những động tác cứng nhắc, những cử chỉ thô kệch. Người cơ tánh này cũng như người cơ tánh sân tức là sức nặng của cơ thể chịu nhiều về phần sau bàn chân, như vậy dấu chân sẽ in đậm nét gót.

Những cử chỉ khi đứng hoặc ngồi thường trong dáng vẻ thụ động, mất linh hoạt. Trong lúc nằm nghỉ, không mấy gì là đẹp đẽ, tay chân hoàn toàn tự do buông thả vô ý thức. Nằm trong tư thế úp mặt, chỗ nghỉ lại không được sửa soạn, vung vãi bừa bãi, khi ai đánh thức họ lại chậm chạp, trễ nãi và sau những động tác trì hoàn, kéo dài, họ mới hoàn toàn thức dậy.
5.2 Việc làm (Kicca)

Những công việc được thực hiện là vụng về, thô kệch. Người cơ tánh này ít đem lại một kết quả thành công.
5.3 Cách thọ dụng (Bhojana)
Không ưa thích cá biệt vật thực nào như những người cơ tánh khác, việc ăn uống của họ không lựa chọn. Ăn uống vụng về, thô tháo, y phục vấy bẩn hay vật thực còn dính lại phần ngoài miệng. Khi đó, nếu họ làm một việc thì việc đó là ăn uống.
5.4 Tính cảm quan (Dassana)
Oû người cơ tánh này, họ không thể nhận xét đối tượng, thiếu tự tin (hoặc vì khả năng hiểu biết hạn chế, hoặc vì thiếu thói quen phán đoán). Sự nhận định của họ hoàn toàn phụ thuộc vào kẻ khác, người mà họ xem là hơn mình. Sự nhận định của người đó sẽ là sự nhận xét của họ, cả việc nhận định về một người, cũng vậy.

5.5 Pháp tánh (Dhammapavatti)
Người cơ tánh si thường có những khuyết tánh như: buồn ngủ, dã dượi (thiinamiddha), phóng túng, buông lung (kukkucca), ngờ vực, phân vân (vikikicchaa), không tin lý nhân quả (aadaanagaahitaa), khó dạy bảo (duppa.tinissaggitaa).

Còn tiếp.

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply