2022-01-24, 07:29 PM
https://tuongtri.com/nuoc-mat-truoc-con-mua/
Excerpt from Tears Before Rain (Author: Larry Engelmann) - Bản dịch của Nguyễn Bá Trạc
Lý Ngọc Thuý, “Ông có hiểu chuyện hãm hiếp nghĩa là thế nào không?”
Tôi sinh ngày mùng 5 tháng Năm năm 1967, đến Hoa Kỳ năm 1981. Gia đình tôi gồm tất cả sáu anh chị em. Cha tôi lúc ở việt Nam là người buôn bán. Nói cho ngay, dưới chế độ Cộng sản, gia đình chúng tôi ở tại một tỉnh lỵ nhỏ gần Qui Nhơn vẫn làm ăn khá giả. Gia đình tôi bán máy thâu băng và băng nhạc. Chúng tôi vẫn còn làm nghề ấy dưới chế độ Cộng sản, nhưng trước khi chúng tôi đi, họ bảo vì có vài người trong gia đình tôi đã đi Mỹ, nên họ không cho phép chúng tôi làm ăn buôn bán nữa.
Bây giờ tôi còn nhớ lúc mẹ tôi bảo tôi phải sửa soạn đi. Tôi khóc. Tôi không muốn đi, nhưng mẹ tôi bảo mẹ tôi sẽ thu xếp đi sau. Tôi không sung sướng gì về việc ra đi vì sẽ phải bỏ các bạn bè và mẹ tôi lại nhà. Tôi cứ cảm thấy sợ hãi, như linh tính đã báo trước rồi sẽ có nhiều chuyện không hay xảy ra.
Chúng tôi lên tàu lúc nửa đêm. Chuyến vượt biên đầu tiên vì thời tiết xấu, phải quay về. Lần thứ nhì cũng không xong. Lần này vì tôi có bảo với vài người bạn là tôi đi Mỹ, họ đi nói với các người khác, nên chúng tôi phải hủy chuyến đi, nhiều người biết quá. Cha mẹ tôi rất giận về việc tôi nói cho người ta biết, đáng lẽ phải giấu là đi thăm bà cô.
Chuyến tiếp theo gồm tất cả 48 người trên tàu. Ngay ngày đầu tiên đã hết nước ngọt. Vì thế sau ngày đầu, chúng tôi đã phải uống nước biển, ai nấy ốm la liệt. Tôi phát đau, tháo mửa.
Thế rồi bọn hải tặc Thái Lan đến chặn tàu chúng tôi. Vì hết sạch đồ ăn nước uống, chúng tôi dùng vải trắng ra hiệu cấp cứu, không ngờ chúng lại là hải tặc. Chúng hãm hiếp một người đàn bà trên tàu. Lần thứ nhất thì không hề gì, chúng chỉ đòi vàng. Nhưng rồi bọn hải tặc lại chặn tàu chúng tôi vào ngày thứ hai và ngày thứ ba. Chúng đưa tất cả chúng tôi ra khỏi tàu, chỉ chừa một người đàn bà. Chúng lên tàu, tất cả bọn thay phiên hãm hiếp người đàn bà ấy.
Sau chúng đưa chúng tôi lên một hòn đảo. Trên đảo không người, nước cũng không. Cả hòn đảo khô khốc. Chúng bắt chúng tôi ngồi thành vòng tròn. Xong chúng chọn đàn bà, đưa vào bụi rậm mà hiếp. Thực khủng khiếp hết sức.
Bấy giờ tôi hãy còn là một đứa trẻ gầy gò, nhỏ bé. Tôi hãy còn là một đứa trẻ con ngây ngô chưa biết gì, nhưng chúng vẫn đến bắt tôi ra. Tôi ốm, thân thể trần trụi, lúc ấy hãy còn nhỏ. Chúng nắm lấy tôi, kéo tôi vào trong bụi, làm những chuyện đau đớn hết sức. Tôi không biết mình bị hiếp, thực sự bấy giờ tôi không hiểu gì. Tôi chỉ tưởng chúng định giết tôi. Chúng không thích tôi vì thân hình tôi gầy ốm quá.
Những người đàn ông đi cùng tàu lúc ấy ngồi lặng yên trong vòng tròn. Họ cúi mặt nhìn xuống đất trong lúc chúng hãm hiếp đàn bà con gái, hãm hiếp tôi. Nhưng họ đều biết những chuyện đang xảy ra. Lúc ấy tôi khiếp hãi quá.
Chúng không giết ai, cũng không đánh đập đàn ông. Khi xong xuôi, chúng bỏ mọi người lại trên đảo mà đi. Sau đó, tôi chỉ còn lại một cái quần lót. Chúng đã lấy hết quần áo của chúng tôi.
Chúng tôi phải cố kiếm ra cái ăn, mà kiếm được cái ăn để cầm cự sống trên đảo rất khó. Vài ngày sau, có các thủy thủ trên tàu Hải quân Thái đến. Họ đón chúng tôi lên tàu, đối đãi tử tế. Họ đưa chúng tôi đến trại ty nạn ở Songkhla.
Chúng tôi ở tại Songkhla nhiều tháng, rồi sau đó được bảo trợ sang Cali. Lúc đến nơi tôi khá ngạc nhiên bởi vì mọi người ở đây đều giàu có.
Tôi đã nói được đôi chút tiếng Anh khi đến Cali, vì tôi có học Anh ngữ trong thời gian ở Songkhla. Khi đến trường, lúc đầu không được khá. Tôi không biết cách ăn mặc, cũng không có quần áo tốt. Học sinh trong lớp thường trêu chọc tôi. Một đứa con gái hay gây sự đánh tôi trên xe buýt vì tôi ăn mặc xấu xí, tôi đoán thế. Tôi có nói chuyện ấy với bà tài xế, nhưng bà ta bảo không giúp gì tôi được. Chúng xô đẩy, kéo tóc tôi vì tôi nhỏ con, tôi đoán thế. Bấy giờ tôi chỉ cân nặng khoảng 80 cân Anh.
Sau lớp 8, tôi vào trung học, mọi thứ khá hơn. Tôi đã đạt nhiều tiến bộ trong trường. Hiện tôi đã vào đại học. Mẹ tôi hãy còn ở Việt Nam, tôi vẫn thường viết thư cho mẹ tôi.
Sau những chuyện xảy ra, sự thực tại đây tôi không sung sướng gì. Mọi việc xảy ra đã quá sức tôi. Năm ngoái tôi tự tử thêm lần nữa. Tôi đã uống thuốc để đi tìm cái chết.
Liên hệ giữa cha tôi và tôi không đuợc tốt. Sau vụ bọn Thái Lan hãm hiếp tôi, cha tôi không còn có sự gần gũi thân thiết với tôi nữa.
Rất ít người đàn ông nào có thể hiểu được chuyện những người đàn bà bị hãm hiếp là thế nào. Rất ít. Đã có lần tôi từng hỏi mấy người đàn ông là: “Ông có thể hiểu chuyện bị hiếp nghiã là thế nào không?” Nhưng họ không thể hiểu. Họ không biết. Họ chẳng thể hiểu gì.
Nếu có thể quay ngược thời gian thì tôi sẽ không bao giờ rời Việt Nam. Sau khi tôi ra đi, đã có quá nhiều điều thê thảm xảy ra cho tôi.
Tôi hãy còn nhớ những tên hải tặc, đôi khi tôi vẫn còn nằm mơ thấy chúng. Ngay hôm nay đây, tôi vẫn chẳng thể nào quên được. Tôi không thể biểu lộ lòng trìu mến. Tôi không thể nắm tay ai. Tôi không thể yêu đương lãng mạn được nữa.
Tôi mờ mịt trước tương lai. Tôi không rõ rồi đây tôi có sẽ tìm lại cái chết nữa hay không. Có ai biết trước được tương lai.
Melissa Phạm, “Lúc ấy tôi chỉ là đứa bé”*
Rời Saigon tháng Tư năm 1975, chúng tôi đi thẳng sang Phi Luật Tân, ở đấy một đêm rồi sang Guam. Chúng tôi chỉ ở Guam vài ngày, rồi đi Fort Chaffee thuộc Tiểu bang Arkansas, và được một nhà thờ bảo trợ về Milwaukee, tiểu bang Wisconsin.
Cha tôi không nói được tiếng Anh, muốn nói gì với Mỹ phải có người thông dịch. Chỉ có chị tôi nói được tiếng Anh đôi chút.
Toàn thể gia đình tôi đến ở chen chúc trên gác thượng một căn nhà phụ của nhà thờ, phải trải nệm lên sàn mà ngủ. Sau đó người ta kiếm được cho chúng tôi một căn nhà ba phòng ngủ, một phòng tắm, nhưng gia đình chúng tôi đông, nên vẫn chật chội.
Trường học ở đây khác lạ, làm tôi rất sợ. Cả bốn anh chị em chúng tôi đều học một truờng. Người ta thuê một thầy giáo Mỹ nói được tiếng Việt để dạy thêm chúng tôi mỗi ngày một giờ sau buổi trưa. Chỉ trừ giờ học này, còn chúng tôi vẫn học chung với các học trò khác. Chúng tôi học Anh ngữ khá mau. Đặc biệt chúng tôi rất giỏi toán vì môn này không đòi hỏi tiếng Anh nhiều.
Chúng tôi sống ở đấy được ba năm. Trong thời gian này tôi đã đổi trường đến ba lần, chúng tôi luôn luôn là những người Việt Nam duy nhất tại đây. Chỉ trong những dịp đặc biệt, người Việt trong vùng mới gặp gỡ được nhau. Chúng tôi đã tìm đến gặp gỡ nhau trong những dịp này.
Ở Chicago có một linh mục Việt Nam thường đến giúp đỡ chúng tôi. Cha tôi tìm được việc làm tại một hãng thợ hàn. Công việc này hơi khó cho cha tôi vì cha tôi chưa hề làm việc ấy bao giờ.
Cô tôi di chuyển đi Los Angeles. Một cô khác đi cùng tàu với chúng tôi đã đến Nebraska, rồi lại chuyển đi San Jose. Cô viết thư cho chúng tôi biết ở đấy khá hơn vì đông người Việt, có thể nương tựa nhau được. Ở Wisconsin cuộc sống chúng tôi khó khăn vì ai cũng phải có việc làm mới nuôi nổi gia đình, bọn trẻ con cũng phải vừa học vừa làm.
Vì vậy tất cả chúng tôi bèn quyết định đi Cali. Nhưng trước khi ra đi, chị lớn tôi lấy chồng, chị sang ở Texas, anh lớn tôi lấy vợ, ở lại Winsconsin. Còn những người khác trong gia đình đều đến Cali.
Khi tới San Jose, tôi học lớp Sáu. Qua năm sau thì vào Trung học Đệ Nhất Cấp. Tại đây khó hội nhập hơn. Sống ở vùng Trung Tây nước Mỹ, người ta khác. Còn ở Cali tôi thấy người ta có nhiều thành kiến hơn. Học cùng với nhau nhiều năm mà học sinh vẫn khó làm bạn và chia ra thành nhiều nhóm.
Đa số học sinh to lớn hơn tôi. Đôi khi chúng trêu chọc, nhái giọng nói, tiếng nói của tôi vì tôi là ngưòi Việt. Có lẽ chuyện ấy không đáng chi, nhưng lúc ít tuổi, trẻ con rất dễ tổn thương.
Các anh chị em tôi học ở những trường khác cũng để ý thấy như vậy. Đôi khi những người đi đường cũng hay nói những câu độc ác và nhái giọng nói chúng tôi.
Sau đó tôi lên trung học đệ nhất cấp. Các giáo sư đối xử với tôi rất tốt, tôi cũng đạt được nhiều kết quả tốt. Tôi trở thành thủ khoa của lớp. Trong những năm trung học đệ nhất cấp, tôi đã là học sinh đầu lớp. Hiện nay tôi đang theo học đại học, ngành kỹ sư điện toán.
Tôi mong ước một ngày kia sẽ lập gia đình, có hai đứa con. Tôi không muốn có một gia đình như cha mẹ tôi. Ở Mỹ này mà đông con thì tốn kém lắm. Có lẽ tôi sẽ thành hôn vói một người Việt. Tôi thích thế vì có chung một văn hóa vẫn dễ thuận thảo với nhau hơn.
Hiện nay, tôi đang đứng giữa hai thế giới mà không dám chắc mình thuộc bên nào. Vấn đề là sự thông cảm và sự suy nghĩ. Đôi khi tôi thấy mình là kẻ lạ trong đám người Việt, và khi đứng trong đám người Mỹ, tôi cũng vẫn là kẻ lạ.
Tôi không có thể nói tiếng Việt thông thạo nữa. Nhưng vì các kinh nghiệm đã trải qua, tôi cũng không thực sự là người Mỹ. Các bạn tôi cũng cảm thấy như thế. Ngay trong giấc ngủ, tôi cũng đã mơ bằng cả hai thứ ngôn ngữ. Thế có lạ không?
Thỉnh thoảng tôi vẫn mơ về Việt Nam, vẫn nhớ đến các bạn hữu của tôi ở đấy. Tôi nhớ cảm giác trong những dịp đặc biệt: những ngày lễ Tết, những ngọn đèn, những cuộc thăm viếng nhà nhau. Tôi nhớ tất cả những thứ ấy.
Bấy giờ tôi hãy còn nhỏ lắm. Rất nhỏ. Khi ngắm nhìn tấm ảnh lúc tôi còn ở Việt Nam, gần như tôi không nhận ra được chính mình. Khi đến Mỹ, gần như tôi đã đến một thế giới khác, đã bỏ thế giới cũ lại đàng sau. Điều ấy thực khó khăn cho tôi bởi vì lúc ấy tôi chỉ là một đứa bé.
Nguyễn Mộng Thảo, “Lúc nào tôi cũng yêu mến Abraham Lincoln”*
Rời Saigon, chúng tôi qua Guam, ở đấy vài tuần rồi sang Fort Chaffee. Cha tôi rời đây trước, có một nhà thờ bên Connecticut nhận bảo trợ cho chúng tôi. Cha tôi đi trước, kiếm được việc làm, những người bảo trợ cũng kiếm được cho chúng tôi một chỗ ở.
Các thày giáo ở Connecticut cứ lầm lẫn mãi về việc gọi tôi bằng tên chị tôi, gọi chị tôi bằng tên tôi. Họ sắp nhầm cả lớp cho tôi. Chúng tôi ở đây một năm. Trong trường, học trò đứa nào cũng tranh nhau làm bạn với chúng tôi. Chúng cãi cọ để được ngồi cùng bàn chúng tôi. Bọn nó thường đem cho tôi quà, các thứ đồ trang điểm, đủ thứ. Còn con bé tên là Tiffany thường hay vẽ hình mấy con ngựa tặng tôi.
Tôi có đến hai ngày sinh nhật, vì chúng tôi dùng cả âm lịch, chuyện ấy làm bọn trẻ Mỹ rối rắm chả hiểu gì. Tôi báo cho bọn trẻ trong trường biết cả hai ngày sinh nhật của tôi. Tôi thấy thực khó giảng cho chúng hiểu chuyện ấy.
Trong lớp, tôi luôn luôn dẫn đầu môn toán, thày giáo bắt tôi phải tiến chậm lại. Lúc ấy tôi không nói được tiếng Anh, nhưng có nói được tiếng Pháp, làm bọn trẻ trong lớp thán phục. Tiếng Anh hoàn toàn mù mịt. Nói chung, bấy giờ tôi phải dùng thủ hiệu, chỉ trỏ để thông cảm nhau.
Cô tôi đã dọn sang tiểu bang Washington. Tôi còn nhớ một buổi sáng kia cô chợt điện thoại cho chúng tôi, bảo con gái cô nghịch súng trong nhà, đã nổ cò trúng đạn. Bấy giờ, cô nói, mọi người đang ở trên lầu, bọn trẻ chơi đùa dưới nhà. Mấy con bé tìm được một khẩu súng vác ra chơi. Súng cướp cò, đạn bắn ngay đầu. Vào nhà thương nó hãy còn kêu khóc: “Má ơi, má ơi”, nhưng em họ tôi chết trong nhà thương. Cô tôi điện thoại báo cho biết, và tôi nhớ là tôi đã kể cho cả lớp hay. Nhưng tôi phải dùng dấu tay, dùng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt để kể câu chuyện cho bọn bạn học. Và tôi đã khóc.
Tôi rất gần gũi với em họ tôi. Thực kỳ lạ là lúc điện thoại reo vào ba giờ sáng, khi mẹ tôi bốc máy trả lời thì tôi tỉnh dậy đi vào phòng mẹ.
Sau khi cô tôi điện thoại xong, mẹ tôi và tôi bước ra ngoài.
Đêm ấy trời có tuyết. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi thấy tuyết. Ngoài trời đêm rất sáng, vạn vật phủ mầu trắng trong đêm khuya. Lúc ấy trước lễ Giáng Sinh. Cái chết của em họ tôi đã làm tôi xúc động sâu xa.
Tôi nhớ đêm hôm ấy tôi đã khóc. Mẹ tôi cũng vậy. Vài tháng sau, vào mùa hè, chúng tôi dọn sang tiểu bang Washington. Từ Connecticut, chúng tôi lái một chiếc xe cũ kỹ mà cha tôi đã mua với giá năm chục Mỹ kim để đi băng nước Mỹ đến tiểu bang Washington. Cha tôi là thợ máy giỏi, ông đã bảo trì chiếc xe chạy khá tốt. Chúng tôi đi băng qua nước Mỹ với chiếc xe Oldsmobile này, ba người ngồi hàng ghế trước, tất cả số còn lại ngồi sau.
Trong chuyến đi, chúng tôi đã thấy biết bao công viên và những đài kỷ niệm danh tiếng của nước Mỹ. Chúng tôi đã được nhìn thấy núi Rushmore với tượng Abraham Lincoln trên ấy. Lúc nào tôi cũng yêu mến Abraham Lincoln.
Phải mất cả tháng trường, chúng tôi mới đi băng hết nước Mỹ, chúng tôi cũng học hỏi được nhiều. Trong chuyến đi này, chúng tôi ghé lại nhà bạn quen, ngụ tại các nhà trọ hoặc những trạm nghỉ chân dọc theo xa lộ. Chuyến đi này cũng là một cuộc phiêu lưu lớn, chúng tôi đều thích thú.
Sau đó chúng tôi đến viếng mộ em họ tôi ở tiểu bang Washington. Tôi còn nhớ cảm giác của tôi là tức giận bực bội. Tại sao để súng trong nhà làm gì? Tại sao em tôi lại chết tức tưởi ở đất Mỹ sau tất cả những gì chúng tôi phải trải qua tại Việt Nam? Nhưng tôi cũng không để cho mình vương vấn mãi chuyện ấy, bởi lẽ, nếu thế thì lòng tôi cũng tan nát. Tôi biết, nên tôi không dám luẩn quẩn mãi với cái chết của em họ tôi.
Trong nghĩa địa có trồng một hàng cây với cành lá phủ đầy những hạt nhỏ. Tôi nhặt một hạt cây rồi giữ lấy. Tôi không biết tại sao tôi lại giữ cái hạt ấy.
Chúng tôi dọn đi Seattle. Một người dì tôi đã kết hôn với người Mỹ, một người Mỹ da trắng. Cha tôi cho rằng việc ấy có thể gây ra ảnh hưởng xấu. Cha tôi làm việc với Mỹ, nói tiếng Mỹ, sinh hoạt với họ cũng suông sẻ, nhưng cha tôi lại không muốn ai trong gia đình tôi lấy Mỹ cả. Tôi nghĩ chuyện ấy thực kỳ cục.
Ở Seattle có nhiều người Á Châu hơn ở Connecticut. Lúc ấy tôi vẫn còn phải học E.S.L. (1) Nhưng rồi tôi bắt đầu học khá hơn. Tôi vẫn cứ phải đóng vai học trò đầu lớp, từ khi ở Việt Nam, tôi vẫn đã như thế.
Tôi ở tiểu bang Washington từ khi học lớp Ba cho đến lớp Bảy. Sau đó vì cha tôi có nhiều bạn ở dưới vùng Cali này, và vì ông đã tìm được việc ở đây, chúng tôi bèn dọn cả xuống. Nói thế này thì tôi cảm thấy không tốt, nhưng ở đây đông người Việt quá. Tôi cảm thấy có lẽ không nên nói như thế, nhưng tôi tự hỏi họ là ai. Họ là những kẻ phản bội hay họ là ai? Đông người Việt Nam quá.(2)
Tôi mong có dịp trở về thăm Việt Nam. Tôi có vấn đề dằng co về nhân thân. Đôi khi, tôi quên bẵng mình là người Việt Nam. Đến khi soi gương, mới nghĩ: “Ô! Ô! Ngươi là người Việt mà, Thảo ơi. Đừng quên thế nhé”. Chuyện ấy thực là gay. Vào những kỳ Thế Vận Hội hoặc vào những dịp mùng 4 tháng Bẩy (3), tôi hoàn toàn cảm thấy mình là người Mỹ. Tôi đâm ra thắc mắc. Nếu Việt Nam có tham dự Thế Vận Hội thì tôi vẫn ủng hộ Hoa Kỳ. Xứ sở này, đất nước này giờ đây chính là xứ sở tôi, đất nước tôi. Tôi nghĩ có lẽ chính vì thế mà tôi không muốn quanh quẩn trong đám người Việt Nam đông đảo nữa. Tôi không nằm mơ thấy Việt Nam. Nhìn hình ảnh Việt Nam, tôi không thể nhớ gì. Tôi có nhớ đôi điều, nhưng ít lắm, không thực rõ các chi tiết. Những anh chị lớn nhớ nhiều hơn.
Tôi vẫn bực bội về việc người ta dán nhãn hiệu liệt tôi vào loại nguời nào. Với Mỹ trắng, tôi chẳng hợp gì, mà với Việt Nam cũng không. Ở Tiểu bang Washington, bạn tôi đều là Mỹ trắng. Khi thông thạo tiếng Anh rồi là tôi ăn khớp vào với các bạn một cách rất tốt đẹp. Nếu người ta nghe chúng tôi nói nhưng không nhìn thấy chúng tôi, người ta đều tưởng chúng tôi là Mỹ trắng. Nhưng người ta vẫn khó chấp nhận rằng bây giờ thực sự chúng tôi chính là người Mỹ.
Chị lớn tôi hiện sống ở San Francisco. Chị là một nghệ sĩ. Chị rất có tinh thần sáng tạo. Hiện chị đang viết một quyển sách. Tuy nhiên, tôi phải tránh nói chuyện với chị. Ông hiểu không, chị ấy đang sống chung với người bạn trai của chị. Cha tôi đã từ chị, không nhắc đến tên chị nữa.
Đôi khi tôi lâm vào tình trạng ưu uất tinh thần. Chuyện ấy bắt nguồn từ gia đình. Tôi không khá trong việc đương đầu với các áp lực khủng hoảng. Chị tôi đã đặt cha mẹ tôi vào những nỗi khó khăn, tôi bực bội với chuyện ấy. Tôi thường bỏ đi chơi, tôi có nhiều bạn trai hơn là bạn gái. Đủ mọi quốc tịch.
Tôi thích trẻ con, nhưng chỉ muốn có con sau khi đã thành tựu sự nghiệp của tôi. Sau đó mới tính chuyện mình muốn gì.
Tôi đang phải theo học đại học, nhưng tôi tự trả lấy học phí bằng nghề thư ký. Ở nhà, cũng như những đứa con khác trong gia đình, tôi không phải trả tiền thuê nhà hay tiền ăn. Nhưng tôi có trách nhiệm phải coi sóc mấy đứa em trai, em gái.
Tôi luôn luôn mơ ước có một căn nhà bếp thật rộng để nấu ăn. Nhưng tôi cũng luôn luôn e ngại cha tôi không thích những món ăn tôi nấu . Tôi yêu cha tôi bằng tất cả tim tôi. Nhưng tôi ghét cay ghét đắng những quan điểm của ông. Cái ghét này cũng gần ngang với lòng yêu thương ông. Tôi hiểu về phía ông, quá khứ của ông. Nhưng cùng một lúc tôi tin rằng cha tôi cũng cần phải hiểu về phía của tôi và của chị tôi. Phía của chúng tôi, của cuộc đời chúng tôi. Chúng tôi không còn sống ở Việt Nam nữa, nhưng hình như cha tôi không nhận thức được những điều như thế.
Trong nhà, chúng tôi thường không nói năng gì. Tôi là người duy nhất hay nói chuyện trong gia đình. Tôi nói, nhưng cha tôi thì không. Khi ông cáu kỉnh, bẳn gắt, ông kêu tôi đi vào trong buồng. Mỗi khi có vấn đề, hoặc mỗi khi các anh chị em tôi muốn gì, thì cuối cùng chính tôi là nguời phải hỏi cha mẹ tôi và phải lãnh chịu hết mọi lời trách móc.
Gần đây, tôi muốn dọn ra ở riêng. Cha tôi bảo: “ Nếu mày mà lấy Mỹ trắng thì tao từ mày”. Và mẹ tôi lên tiếng: “Đấy, tất cả tụi bay nghe rõ chưa?” Tôi hiểu lý do tại sao cha tôi nói thế, nhưng điều ấy vẫn làm cho tôi thương tổn. Tất nhiên, nếu bọn tôi đứa nào cũng lấy Mỹ thì chúng tôi sẽ mất mát một cái gì.
Tuy nhiên có những chuyện cha tôi chẳng bao giờ hiểu được.
(1) English for second language: Anh văn, sinh ngữ thứ hai.
(2) Nguyên văn đoạn này là “I feel bad for saying it, but there are too many Vietnamese here. I feel like I shouldn’t say it. But I wonder who they are. Are they traitors, or who are they? There are so many of them”.
(3) Lễ Độc Lập Hoa Kỳ.
Mạc Thuý Vân, “Nửa Mỹ nửa ta”*
Tôi sinh năm 1967 ở Saigon. Cha tôi là người Mỹ. Em gái tôi mười lăm tuổi, khác cha. Mẹ tôi không bao giờ kết hôn với cha tôi cả. Mẹ tôi giúp ông bà ngoại tôi mở một tiệm ăn ở Saigon. Còn ông bà ngoại tôi mở một tiệm ăn nhỏ dưới miệt vườn. Cha tôi rời Việt Nam năm 1973 rồi ông trở lại yêu cầu mẹ tôi sang Mỹ với ông, nhưng mẹ tôi không chịu. Năm 1975 cha tôi viết thư một lần nữa yêu cầu mẹ tôi sang Mỹ. Bà vẫn từ chối, do đó cha tôi lại viết thư sang bảo như thế ông sẽ lập gia đình với người khác. Hiện nay ông đã có gia đình khác.
Tôi sống ở Saigon cho đến 1975 thì dọn xuống miệt vườn. Tôi ở tại một làng giữa Mỹ Tho, Bến Tre, đi học ở đấy. Nhiều người hay nhìn tôi vì trông tôi khác lạ. Tôi lai Mỹ. Người ta không có cảm tình chuyện đó.
Tôi sống ở đấy đến năm 1979 thì rời Việt Nam. Lúc bấy giờ cô chú tôi với hai người con trai muốn ra khỏi nước, chúng tôi đến thăm trước khi gia đình cô chú tôi đi. Hôm ấy ông bà ngoại tôi khuyên là nên cho tôi đi, vì ở Mỹ tôi sẽ có tương lai hơn. Vì thế mẹ tôi quyết định gửi tôi đi.
Chúng tôi vượt biên bằng một chuyến tàu lớn tại Mỹ Tho, lênh đênh trên tàu tám ngày đêm. Đến được Mã Lai thì họ bắn, không cho vào. Vài người trên tàu bị thương, vì thế chủ tàu năn nỉ là chỉ cần xin nước uống thôi. Họ cho chúng tôi nước, và chúng tôi đến được Nam Dương.
Tôi đổ bệnh suốt chuyến đi. Lúc ấy tôi quá nhỏ để ý thức những việc đang xảy ra. Ở Việt Nam tôi được sung sướng nhưng tôi không nghĩ rằng tôi sẽ có một tương lai khả quan. Cuối tuần nào ở trường chúng tôi cũng phải đi lao động. Tôi chẳng học được bao nhiêu. Một vài số điểm trong lớp là tùy thuộc vào việc có lao động tích cực hay không.
Ở Nam Dương tôi đã đổi chỗ đến ba lần. Chỗ đầu tiên là một vùng hoang địa, không bóng người nào khác ngoài chúng tôi. Chúng tôi phải dùng thuyền đi lấy nước. Vài người giàu có đem theo vàng lúc rời Việt Nam, họ dùng tiền để mua đồ ăn quanh vùng trong lúc ở Nam Dương. Còn chúng tôi phải thuê thuyền sang đảo khác mua đồ ăn.
Rồi chúng tôi lại đến một trại khác, nơi đây có người Mỹ giúp. Họ chuyển chúng tôi đến đây. Chúng tôi ở trong trại thứ hai này một năm, nhiều người đã bỏ mạng tại đây. Gần như mỗi ngày đều có người chết vì nước bẩn. Muỗi mòng cũng làm người ta phát bệnh.
Tôi có hai nguời anh chị họ ở Mỹ. Tôi viết thư nhờ, nên họ đã bảo trợ cho chúng tôi sang Mỹ. Tôi không có ai khác bảo trợ cả. Tôi đến San Francisco năm 1981. Lúc ấy không nói được tiếng Anh. Tôi vui mừng, nhưng rất sợ hãi vì chung quanh toàn người da trắng. Tôi không biết rồi đây sẽ làm gì ở Mỹ.
Tôi sống với những người bà con trong một căn nhà. Tôi bắt đầu học lớp Bảy, nhưng vì không nói được tiếng Anh nên phải theo học chương trình E.S.L, chương trình Anh ngữ dành cho người không nói tiếng Anh. Trong năm ấy tôi gắng học, bắt đầu có tiến bộ. Sau một năm, tôi có thể nói chuyện kha khá bằng tiếng Anh.
Tôi học Trung học Đệ Nhất Cấp, rồi vào trường Trung học Independence ở San Jose. Tại đây tôi được điểm trung bình 3.3. Hiện nay tôi đang theo học kế toán Thương Mại tại Đại học San Jose. Tôi muốn vào ngành Thương mại ở Hoa Kỳ. Hiện tôi làm việc tại một cửa tiệm để lấy tiền trả học phí cho xong chương trình đại học.
Tôi là một người Việt Nam.
Tôi là người Việt, bởi vì tôi đã lớn lên như một người Việt. Về phương diện văn hoá, văn hóa Việt Nam là văn hoá của tôi. Khi mới gặp nhau, người ta thường hỏi có phải tôi “nửa Mỹ nửa ta” không! Họ biết tôi lai.
Sẽ có ngày tôi lấy chồng, có hai đứa con. Ở Mỹ này mà có nhiều con hơn số đó thì tốn kém hết sức.
Khi còn nhỏ đã có lần tôi mong mỏi được gặp cha tôi. Nhưng nay tôi không còn tò mò gì về cha tôi nữa. Tôi biết ông đã có gia đình khác.
Nếu tôi đến gặp ông là chỉ đem phiền phức đến cho ông. Tốt hơn hết đừng gặp. Vì thế tôi nghĩ tôi sẽ mãi mãi không bao giờ tìm cha tôi cả.
Nguyễn Thị Kim Anh, “Cố quên những đau thương”*
Vào hôm sau ngày Saigon mất, em gái tôi và tôi ra Vũng Tàu cố tìm đường vượt biên. Chúng tôi ăn mặc như nông dân: bà ba đen, đội nón lá, trả mỗi người 15,000 đồng để lên một chiếc tàu nhỏ ra đi. Nhưng chỉ mới chừng một cây số thì tàu tuần bắt được, mang chúng tôi về lại. Họ nhốt chúng tôi vào khu đất trống cạnh một trường học một đêm. Chúng tôi cười cợt vì lẽ chúng tôi nói láo với họ, bảo chúng tôi đi lánh nạn trong lúc đánh nhau, bây giờ đang muốn trở về làng để bắt đầu một cuộc sống mới, vân vân. Lúc ấy mới một hôm sau ngày họ chiếm, do đó họ chưa có chính sách đối xử với những người vượt biên, vì vậy họ chỉ nhốt chúng tôi có một đêm. Suốt đêm ấy, chúng tôi chuyện trò, chẳng sợ hãi gì. Hôm sau họ cho ít bắp rồi thả chúng tôi ra.
Chúng tôi kiếm xe đò về lại Saigon, tiền nong hết sạch, mà vẫn còn kẹt lại Việt Nam. Đó là chuyến đầu. Mãi đến chuyến thứ sáu tôi mới đi nổi. Chuyến ấy tôi phải giả dạng làm người Hoa, đi vào tháng Bẩy năm 1979.
Trở về lại Saigon, mọi người đang chạy nhốn nháo. Đường phố đầy người. Từ hôm ấy, chúng tôi bắt đầu thấy rất nhiều lính Bắc Việt đi trên đường phố.
Các trường học mở lại. Họ yêu cầu tất cả giáo sư đến một trường để học tập chính sách mới, lề lối mới, giáo trình mới. Chúng tôi phải học hết hai mươi ngày. Sau đó họ cho một giấy chứng nhận chúng tôi đã hoàn tất khóa học. Ngày nào cũng phải viết những bài về các đề tài, ví dụ “Tại sao chúng tôi yêu bác Hồ”, toàn những thứ láo toét như vậy. Thuyết trình viên gồm cả người Bắc lẫn người Nam. Họ nói về chủ nghiã Cộng sản, về việc làm thế nào họ đã thắng cuộc chiến. Họ kết án chính quyền Mỹ tàn phá đất nước. Chúng tôi cứ thế chép, trình bày ngay ngắn, đẹp đẽ, rồi nạp bài. Nếu cứ viết y những gì họ nói, đồng ý trăm phần trăm là có điểm tối đa.
Chúng tôi đã tham dự khóa đầu tiên với khoảng năm sáu trăm giáo sư trong vùng. Và khi chỉ có bạn bè với nhau, chúng tôi thường nói chuyện thành thật. Cho nên mỗi khi thấy người ta chuyện trò thành từng nhóm, họ cho người ngồi xen vào, các cuộc bàn bạc lại phải đổi hướng, hoặc ngưng ngay lại. Họ cố kiểm soát tất cả, đặc biệt những cuộc bàn bạc riêng tư. Họ cho như thế là nguy hiểm, bởi vì họ không biết người ta nói gì.
Nhà trường bắt đầu niên học mới vào tháng Bảy 1975. Vì không có người thay thế, họ phải cho lưu dụng các nhân viên hành chánh cũ, nhưng tại mỗi trường, họ đều đưa các đảng viên đến làm trưởng nhóm. Họ chia nhà trường thành các nhóm nghiên cứu xã hội, nhóm sinh ngữ và nhóm khoa học. Trưởng nhóm đều phải là đảng viên. Tại một số trường, có khi họ chọn những người mà họ cho rằng có khả năng làm Thủ trưởng tốt của đảng. Tôi là người được chọn làm trưởng nhóm ngoại ngữ. Vì họ không có ai khác, và vì tôi đã viết những bài học tập đúng ý họ nên họ đã chọn tôi.
Nhóm tôi có chín người, ba người dạy Pháp văn, Anh văn, mấy người kia dạy Văn chương và khoa học xã hội. Chúng tôi đã quen nhau từ hai, ba năm. Mỗi tuần chúng tôi họp một lần. Một trưởng nhóm khác cũng tới tham dự thảo luận, nhưng cứ mỗi lần anh ta ra khỏi phòng, tức khắc chúng tôi bàn chuyện vượt biên, tìm cách ra đi.
Chúng tôi còn thuyết phục được cả một đảng viên trẻ tuổi rằng đảng Cộng sản không tốt đẹp gì, cô ta cũng muốn đi. Sau này, khi tôi đã đi khỏi nước, cô ấy vẫn còn viết thư sang cho tôi. Cô ấy đã đến nhà tôi, hỏi em tôi địa chỉ để viết thư cho tôi. Cô cho biết vì cha cô là một đảng viên kỳ cựu nhiều tuổi đảng nên cô đã gia nhập đảng. Nhờ cha mà cô được đãi ngộ tử tế, có mức sống khá ở ngoài Bắc, nhưng khi vào Nam làm việc với chúng tôi, cô rất có cảm tình vói chúng tôi. Cô biết gia đình tôi đã rời Saigon đi năm 1975, cô biết chúng tôi cũng sửa soạn đi, nhưng cô vẫn bảo vệ cho chúng tôi, kể cả phải nói dối để che chở chúng tôi.
Ngày tôi đi không thoát, tôi đã bảo cô ấy là tôi đi thăm cha mẹ tôi. Nếu có ai hỏi thì cô sẽ chống đỡ hộ, bởi vì cô thừa biết cha mẹ tôi đã ra đi rồi. Ông có thấy không, rất nhiều người tưởng tôi sẽ trở thành đảng viên. Tôi đã cố làm bạn với cô ấy, bởi vì cô có thể bao bọc cho tôi nếu có chuyện xảy ra.
Vào tháng mười một 1975, tôi đi lần nữa. Tôi viết cho cô một miếng giấy bảo là tôi đi thăm cha mẹ. Sau mười ngày nghỉ dậy, nếu tôi không trở lại thì nhờ cô tìm cớ nói hộ tôi. Nhờ thế, cô ấy đã bảo là tôi đi thăm cha mẹ. Nhưng sau ba, bốn ngày, đi không được, tôi trở lại, cô chỉ nhoẻn cười. Cô luôn luôn che chở cho tôi, cô ấy tốt hết sức.
Lần nào ra đi, tôi cũng mất hết tiền bạc. Lần thứ hai ra Nha Trang tới một người bạn, người ta bảo năm giờ thì đến một điểm hẹn để ra đi. Chúng tôi tụ tập đến chỗ chờ xe lam. Cứ thế đợi. Năm giờ. Năm giờ rưỡi. Sáu giờ. Sáu giờ rưỡi. Rồi bảy giờ. Bảy giờ rưỡi. Chẳng một bóng ma nào đến đón. Họ ẵm hết tiền nong, bỏ chúng tôi lại.
Cuối năm 1975, cô tôi từ Bắc vào. Bà ở lại ngoài Bắc từ khi chúng tôi di cư vào Nam, lúc ấy tôi hãy còn nhỏ quá nên chẳng nhớ gì về cô tôi cả. Cô tôi lễ mễ mang vào Nam nào là… gạo, vài quả trứng, mấy món lặt vặt, vì cô tôi nghe nói người trong Saigon nghèo lắm, cô muốn giúp đỡ chúng tôi. Chú tôi cũng vào cùng với cô. Chú kể rằng chú nghe nói miền Nam nghèo đói lắm nên miền Bắc cần phải chống Mỹ để cứu miền Nam. Đấy chính vì sao mà người miền Bắc đã có một niềm tin rất mãnh liệt để nỗ lực cứu nguy cho anh chị em miền Nam.
Trong những ngày ấy Cộng sản liên tục đổi tiền, tôi cũng chẳng biết vì sao. Sau hai lần đổi tiền, khối người tự tử vì không đủ tiền mà sống-trong đó có một vài người giàu có, đặc biệt là người Hoa. Lúc ấy nếu có vàng thì còn giấu được, đó là lý do tại sao mọi người đều muốn giữ vàng. Tiền thì tiếp tục trở thành đống giấy lộn.
Đối với người Hoa, Cộng sản cho đi rất dễ, trước hết là vì tiền, thứ hai để tránh các vấn đề với Trung Quốc. Họ không muốn có người Hoa ở Việt Nam.
Vì vậy tôi đi học tiếng Hoa, kiếm vài bộ quần áo Tàu, em gái tôi cũng thế. Sau đó chúng tôi trả tiền kiếm đường xuống dưới miệt đồng bằng tìm tàu đi Mã Lai. Chuyến đi hết ba ngày bốn đêm.
Trên đường sang Mã Lai chúng tôi bị hải tặc Thái Lan chặn cướp tất cả sáu lần. Đến được Mã Lai chúng tôi mất hết, chỉ còn lại mạng sống thôi.
Lần đầu tiên thấy cướp Thái Lan, chúng tôi cứ ngỡ tàu ngoại quốc giải cứu, ai nấy đều nhảy lên la mừng, tưởng bình yên thoát nạn, nhưng đến khi chiếu ống nhòm nhìn thấy cờ, chúng tôi mới biết là có chuyện.
Vài người trên tàu đã có kinh nghiệm với bọn hải tặc vội bảo đàn bà thay quần áo, lấy than bôi nhọ mặt mày, thân hình, làm cho xấu xí đi. Chúng tôi vội làm ngay, lấy quần áo đàn ông mặc vào, bôi nhem nhuốc thân hình. Chúng tôi có đủ thì giờ bởi vì chiếc tàu chúng tôi nhìn thấy hãy còn xa lắm.
Trong chuyến đầu bị chặn, tài công bị hải tặc Thái Lan đánh gần chết. Khi chúng tới hỏi vàng đâu, thay vì cứ nói “chúng tôi không có vàng”, anh ta lại bảo chúng tôi phải dùng vàng để mua xăng, mua dầu. Chúng bèn đổ hết xăng dầu ra cho cạn đáy mà tìm. Không thấy vàng, chúng đánh tài công thậm tệ, chúng định giết anh ta. Chúng đè anh nằm sấp mặt lên sàn tàu, rồi trước mặt chúng tôi, bọn chúng đứng trên người anh, nhảy dọng lên dọng xuống lên lưng, lên chân, lên đầu anh.
Lần thứ sáu bị chận thì không có chuyện gì tệ hại lắm, vì lẽ khi chúng đến thì tất cả chúng tôi đã mất sạch hết rồi, manh áo cũng không còn. Những bọn trước đã lấy hết, rồi để lại cho ít gạo, nước mắm. Bọn cuối cùng đến, thấy chẳng còn gì lấy được, bèn cho chúng tôi ít cá, ít sữa cho trẻ con rồi kéo cả tàu chúng tôi sang Mã Lai. Bọn cướp tử tế, tôi nghĩ thế.
Ngay từ sau khi gặp bọn hải tặc thứ nhất, chúng tôi đã hết xăng nhớt, tài công thì bất tỉnh, tàu chúng tôi cứ thế nổi trôi. Chúng tôi kinh hoàng vì lúc ấy ban đêm, không có chút ánh sáng. Bọn chúng đã vứt cả hải bàn của chúng tôi xuống biển. Ai nấy đều chắc mẩm sẽ không thoát khỏi tử thần.
Một hôm, thấy có mấy chiếc tàu chạy qua, chúng tôi vội giương cờ lên, phất nữa, nhưng không tàu nào dừng. Sáng hôm sau, lại thấy một tàu nữa chạy lại. Tàu hải tặc, chúng lại cướp nữa. Bọn này rất trẻ, tôi đoán chỉ chừng 16, 17 tuổi. Bọn chúng cạo đầu nhẵn thín, mặt bôi trắng. Bọn chúng đều vác một con dao dài, chúng dí dao vào cổ từng người để hỏi tiền. Bọn chúng chỉ biết vài ba chữ Việt như: Tiền, đô la, vàng, đồng hồ. Chừng ấy chữ. Ai nấy sợ thất thần. Không ai có thể biết chúng sẽ làm gì.
Khi tới Mã Lai, chúng tôi thấy một chiếc tàu nhỏ, vài người Việt Nam đang đánh cá. Nhưng họ mặc những chiếc áo sặc sỡ do hội Hồng Thập Tự phát cho, vài người đã ở đây đến hai, ba năm, nên nước da đen thẫm. Khi thấy hai chiếc tàu đánh cá ấy tất cả chúng tôi cứ đinh ninh là người Mã, sợ họ cũng làm như bọn Thái, nên vội bảo tài công ra sức chạy. Mấy người Việt đuổi theo, la lên: “Lại đây nè! Lại đây nè!”. Cuối cùng mới nghe ra người Việt mà ngừng lại.
Họ chỉ cho chúng tôi đi thẳng vào khu tỵ nạn. Nhưng họ dặn khi đến thì phải tự đánh chìm tàu, kẻo người Mã cũng bắt chúng tôi đi nữa.
Chúng tôi làm đúng lời dặn, rồi nhảy cả xuống biển, Vài người nhảy xuống dùng búa phá thủng đáy cho chìm tàu, còn chúng tôi chạy băng qua bãi biển, vào trong trại mà núp.
Một nhóm người Đức tiến tới, hỏi xuất xứ của chúng tôi. Họ yêu cầu chúng tôi leo lên lại cái tàu thủng đáy, rồi nhảy xuống để cho họ quay phim.
Chúng tôi cười. Không tin nổi. Họ muốn chúng tôi lại bơi ra tàu rồi nhảy xuống bơi vào bờ để họ làm phim. Thật lạ quá, nhưng chúng tôi vẫn làm, chúng tôi phải ở lại cho được.
Thế đấy. Giây phút đầu tiên của tự do là làm tài tử đóng phim. Và đúng vào lúc chúng tôi cố quên tất cả những chuyện đau thương đã xảy ra cho chúng tôi, bởi vì chúng tôi biết giờ đây chúng tôi đã được tự do.
Excerpt from Tears Before Rain (Author: Larry Engelmann) - Bản dịch của Nguyễn Bá Trạc
Lý Ngọc Thuý, “Ông có hiểu chuyện hãm hiếp nghĩa là thế nào không?”
Tôi sinh ngày mùng 5 tháng Năm năm 1967, đến Hoa Kỳ năm 1981. Gia đình tôi gồm tất cả sáu anh chị em. Cha tôi lúc ở việt Nam là người buôn bán. Nói cho ngay, dưới chế độ Cộng sản, gia đình chúng tôi ở tại một tỉnh lỵ nhỏ gần Qui Nhơn vẫn làm ăn khá giả. Gia đình tôi bán máy thâu băng và băng nhạc. Chúng tôi vẫn còn làm nghề ấy dưới chế độ Cộng sản, nhưng trước khi chúng tôi đi, họ bảo vì có vài người trong gia đình tôi đã đi Mỹ, nên họ không cho phép chúng tôi làm ăn buôn bán nữa.
Bây giờ tôi còn nhớ lúc mẹ tôi bảo tôi phải sửa soạn đi. Tôi khóc. Tôi không muốn đi, nhưng mẹ tôi bảo mẹ tôi sẽ thu xếp đi sau. Tôi không sung sướng gì về việc ra đi vì sẽ phải bỏ các bạn bè và mẹ tôi lại nhà. Tôi cứ cảm thấy sợ hãi, như linh tính đã báo trước rồi sẽ có nhiều chuyện không hay xảy ra.
Chúng tôi lên tàu lúc nửa đêm. Chuyến vượt biên đầu tiên vì thời tiết xấu, phải quay về. Lần thứ nhì cũng không xong. Lần này vì tôi có bảo với vài người bạn là tôi đi Mỹ, họ đi nói với các người khác, nên chúng tôi phải hủy chuyến đi, nhiều người biết quá. Cha mẹ tôi rất giận về việc tôi nói cho người ta biết, đáng lẽ phải giấu là đi thăm bà cô.
Chuyến tiếp theo gồm tất cả 48 người trên tàu. Ngay ngày đầu tiên đã hết nước ngọt. Vì thế sau ngày đầu, chúng tôi đã phải uống nước biển, ai nấy ốm la liệt. Tôi phát đau, tháo mửa.
Thế rồi bọn hải tặc Thái Lan đến chặn tàu chúng tôi. Vì hết sạch đồ ăn nước uống, chúng tôi dùng vải trắng ra hiệu cấp cứu, không ngờ chúng lại là hải tặc. Chúng hãm hiếp một người đàn bà trên tàu. Lần thứ nhất thì không hề gì, chúng chỉ đòi vàng. Nhưng rồi bọn hải tặc lại chặn tàu chúng tôi vào ngày thứ hai và ngày thứ ba. Chúng đưa tất cả chúng tôi ra khỏi tàu, chỉ chừa một người đàn bà. Chúng lên tàu, tất cả bọn thay phiên hãm hiếp người đàn bà ấy.
Sau chúng đưa chúng tôi lên một hòn đảo. Trên đảo không người, nước cũng không. Cả hòn đảo khô khốc. Chúng bắt chúng tôi ngồi thành vòng tròn. Xong chúng chọn đàn bà, đưa vào bụi rậm mà hiếp. Thực khủng khiếp hết sức.
Bấy giờ tôi hãy còn là một đứa trẻ gầy gò, nhỏ bé. Tôi hãy còn là một đứa trẻ con ngây ngô chưa biết gì, nhưng chúng vẫn đến bắt tôi ra. Tôi ốm, thân thể trần trụi, lúc ấy hãy còn nhỏ. Chúng nắm lấy tôi, kéo tôi vào trong bụi, làm những chuyện đau đớn hết sức. Tôi không biết mình bị hiếp, thực sự bấy giờ tôi không hiểu gì. Tôi chỉ tưởng chúng định giết tôi. Chúng không thích tôi vì thân hình tôi gầy ốm quá.
Những người đàn ông đi cùng tàu lúc ấy ngồi lặng yên trong vòng tròn. Họ cúi mặt nhìn xuống đất trong lúc chúng hãm hiếp đàn bà con gái, hãm hiếp tôi. Nhưng họ đều biết những chuyện đang xảy ra. Lúc ấy tôi khiếp hãi quá.
Chúng không giết ai, cũng không đánh đập đàn ông. Khi xong xuôi, chúng bỏ mọi người lại trên đảo mà đi. Sau đó, tôi chỉ còn lại một cái quần lót. Chúng đã lấy hết quần áo của chúng tôi.
Chúng tôi phải cố kiếm ra cái ăn, mà kiếm được cái ăn để cầm cự sống trên đảo rất khó. Vài ngày sau, có các thủy thủ trên tàu Hải quân Thái đến. Họ đón chúng tôi lên tàu, đối đãi tử tế. Họ đưa chúng tôi đến trại ty nạn ở Songkhla.
Chúng tôi ở tại Songkhla nhiều tháng, rồi sau đó được bảo trợ sang Cali. Lúc đến nơi tôi khá ngạc nhiên bởi vì mọi người ở đây đều giàu có.
Tôi đã nói được đôi chút tiếng Anh khi đến Cali, vì tôi có học Anh ngữ trong thời gian ở Songkhla. Khi đến trường, lúc đầu không được khá. Tôi không biết cách ăn mặc, cũng không có quần áo tốt. Học sinh trong lớp thường trêu chọc tôi. Một đứa con gái hay gây sự đánh tôi trên xe buýt vì tôi ăn mặc xấu xí, tôi đoán thế. Tôi có nói chuyện ấy với bà tài xế, nhưng bà ta bảo không giúp gì tôi được. Chúng xô đẩy, kéo tóc tôi vì tôi nhỏ con, tôi đoán thế. Bấy giờ tôi chỉ cân nặng khoảng 80 cân Anh.
Sau lớp 8, tôi vào trung học, mọi thứ khá hơn. Tôi đã đạt nhiều tiến bộ trong trường. Hiện tôi đã vào đại học. Mẹ tôi hãy còn ở Việt Nam, tôi vẫn thường viết thư cho mẹ tôi.
Sau những chuyện xảy ra, sự thực tại đây tôi không sung sướng gì. Mọi việc xảy ra đã quá sức tôi. Năm ngoái tôi tự tử thêm lần nữa. Tôi đã uống thuốc để đi tìm cái chết.
Liên hệ giữa cha tôi và tôi không đuợc tốt. Sau vụ bọn Thái Lan hãm hiếp tôi, cha tôi không còn có sự gần gũi thân thiết với tôi nữa.
Rất ít người đàn ông nào có thể hiểu được chuyện những người đàn bà bị hãm hiếp là thế nào. Rất ít. Đã có lần tôi từng hỏi mấy người đàn ông là: “Ông có thể hiểu chuyện bị hiếp nghiã là thế nào không?” Nhưng họ không thể hiểu. Họ không biết. Họ chẳng thể hiểu gì.
Nếu có thể quay ngược thời gian thì tôi sẽ không bao giờ rời Việt Nam. Sau khi tôi ra đi, đã có quá nhiều điều thê thảm xảy ra cho tôi.
Tôi hãy còn nhớ những tên hải tặc, đôi khi tôi vẫn còn nằm mơ thấy chúng. Ngay hôm nay đây, tôi vẫn chẳng thể nào quên được. Tôi không thể biểu lộ lòng trìu mến. Tôi không thể nắm tay ai. Tôi không thể yêu đương lãng mạn được nữa.
Tôi mờ mịt trước tương lai. Tôi không rõ rồi đây tôi có sẽ tìm lại cái chết nữa hay không. Có ai biết trước được tương lai.
Melissa Phạm, “Lúc ấy tôi chỉ là đứa bé”*
Rời Saigon tháng Tư năm 1975, chúng tôi đi thẳng sang Phi Luật Tân, ở đấy một đêm rồi sang Guam. Chúng tôi chỉ ở Guam vài ngày, rồi đi Fort Chaffee thuộc Tiểu bang Arkansas, và được một nhà thờ bảo trợ về Milwaukee, tiểu bang Wisconsin.
Cha tôi không nói được tiếng Anh, muốn nói gì với Mỹ phải có người thông dịch. Chỉ có chị tôi nói được tiếng Anh đôi chút.
Toàn thể gia đình tôi đến ở chen chúc trên gác thượng một căn nhà phụ của nhà thờ, phải trải nệm lên sàn mà ngủ. Sau đó người ta kiếm được cho chúng tôi một căn nhà ba phòng ngủ, một phòng tắm, nhưng gia đình chúng tôi đông, nên vẫn chật chội.
Trường học ở đây khác lạ, làm tôi rất sợ. Cả bốn anh chị em chúng tôi đều học một truờng. Người ta thuê một thầy giáo Mỹ nói được tiếng Việt để dạy thêm chúng tôi mỗi ngày một giờ sau buổi trưa. Chỉ trừ giờ học này, còn chúng tôi vẫn học chung với các học trò khác. Chúng tôi học Anh ngữ khá mau. Đặc biệt chúng tôi rất giỏi toán vì môn này không đòi hỏi tiếng Anh nhiều.
Chúng tôi sống ở đấy được ba năm. Trong thời gian này tôi đã đổi trường đến ba lần, chúng tôi luôn luôn là những người Việt Nam duy nhất tại đây. Chỉ trong những dịp đặc biệt, người Việt trong vùng mới gặp gỡ được nhau. Chúng tôi đã tìm đến gặp gỡ nhau trong những dịp này.
Ở Chicago có một linh mục Việt Nam thường đến giúp đỡ chúng tôi. Cha tôi tìm được việc làm tại một hãng thợ hàn. Công việc này hơi khó cho cha tôi vì cha tôi chưa hề làm việc ấy bao giờ.
Cô tôi di chuyển đi Los Angeles. Một cô khác đi cùng tàu với chúng tôi đã đến Nebraska, rồi lại chuyển đi San Jose. Cô viết thư cho chúng tôi biết ở đấy khá hơn vì đông người Việt, có thể nương tựa nhau được. Ở Wisconsin cuộc sống chúng tôi khó khăn vì ai cũng phải có việc làm mới nuôi nổi gia đình, bọn trẻ con cũng phải vừa học vừa làm.
Vì vậy tất cả chúng tôi bèn quyết định đi Cali. Nhưng trước khi ra đi, chị lớn tôi lấy chồng, chị sang ở Texas, anh lớn tôi lấy vợ, ở lại Winsconsin. Còn những người khác trong gia đình đều đến Cali.
Khi tới San Jose, tôi học lớp Sáu. Qua năm sau thì vào Trung học Đệ Nhất Cấp. Tại đây khó hội nhập hơn. Sống ở vùng Trung Tây nước Mỹ, người ta khác. Còn ở Cali tôi thấy người ta có nhiều thành kiến hơn. Học cùng với nhau nhiều năm mà học sinh vẫn khó làm bạn và chia ra thành nhiều nhóm.
Đa số học sinh to lớn hơn tôi. Đôi khi chúng trêu chọc, nhái giọng nói, tiếng nói của tôi vì tôi là ngưòi Việt. Có lẽ chuyện ấy không đáng chi, nhưng lúc ít tuổi, trẻ con rất dễ tổn thương.
Các anh chị em tôi học ở những trường khác cũng để ý thấy như vậy. Đôi khi những người đi đường cũng hay nói những câu độc ác và nhái giọng nói chúng tôi.
Sau đó tôi lên trung học đệ nhất cấp. Các giáo sư đối xử với tôi rất tốt, tôi cũng đạt được nhiều kết quả tốt. Tôi trở thành thủ khoa của lớp. Trong những năm trung học đệ nhất cấp, tôi đã là học sinh đầu lớp. Hiện nay tôi đang theo học đại học, ngành kỹ sư điện toán.
Tôi mong ước một ngày kia sẽ lập gia đình, có hai đứa con. Tôi không muốn có một gia đình như cha mẹ tôi. Ở Mỹ này mà đông con thì tốn kém lắm. Có lẽ tôi sẽ thành hôn vói một người Việt. Tôi thích thế vì có chung một văn hóa vẫn dễ thuận thảo với nhau hơn.
Hiện nay, tôi đang đứng giữa hai thế giới mà không dám chắc mình thuộc bên nào. Vấn đề là sự thông cảm và sự suy nghĩ. Đôi khi tôi thấy mình là kẻ lạ trong đám người Việt, và khi đứng trong đám người Mỹ, tôi cũng vẫn là kẻ lạ.
Tôi không có thể nói tiếng Việt thông thạo nữa. Nhưng vì các kinh nghiệm đã trải qua, tôi cũng không thực sự là người Mỹ. Các bạn tôi cũng cảm thấy như thế. Ngay trong giấc ngủ, tôi cũng đã mơ bằng cả hai thứ ngôn ngữ. Thế có lạ không?
Thỉnh thoảng tôi vẫn mơ về Việt Nam, vẫn nhớ đến các bạn hữu của tôi ở đấy. Tôi nhớ cảm giác trong những dịp đặc biệt: những ngày lễ Tết, những ngọn đèn, những cuộc thăm viếng nhà nhau. Tôi nhớ tất cả những thứ ấy.
Bấy giờ tôi hãy còn nhỏ lắm. Rất nhỏ. Khi ngắm nhìn tấm ảnh lúc tôi còn ở Việt Nam, gần như tôi không nhận ra được chính mình. Khi đến Mỹ, gần như tôi đã đến một thế giới khác, đã bỏ thế giới cũ lại đàng sau. Điều ấy thực khó khăn cho tôi bởi vì lúc ấy tôi chỉ là một đứa bé.
Nguyễn Mộng Thảo, “Lúc nào tôi cũng yêu mến Abraham Lincoln”*
Rời Saigon, chúng tôi qua Guam, ở đấy vài tuần rồi sang Fort Chaffee. Cha tôi rời đây trước, có một nhà thờ bên Connecticut nhận bảo trợ cho chúng tôi. Cha tôi đi trước, kiếm được việc làm, những người bảo trợ cũng kiếm được cho chúng tôi một chỗ ở.
Các thày giáo ở Connecticut cứ lầm lẫn mãi về việc gọi tôi bằng tên chị tôi, gọi chị tôi bằng tên tôi. Họ sắp nhầm cả lớp cho tôi. Chúng tôi ở đây một năm. Trong trường, học trò đứa nào cũng tranh nhau làm bạn với chúng tôi. Chúng cãi cọ để được ngồi cùng bàn chúng tôi. Bọn nó thường đem cho tôi quà, các thứ đồ trang điểm, đủ thứ. Còn con bé tên là Tiffany thường hay vẽ hình mấy con ngựa tặng tôi.
Tôi có đến hai ngày sinh nhật, vì chúng tôi dùng cả âm lịch, chuyện ấy làm bọn trẻ Mỹ rối rắm chả hiểu gì. Tôi báo cho bọn trẻ trong trường biết cả hai ngày sinh nhật của tôi. Tôi thấy thực khó giảng cho chúng hiểu chuyện ấy.
Trong lớp, tôi luôn luôn dẫn đầu môn toán, thày giáo bắt tôi phải tiến chậm lại. Lúc ấy tôi không nói được tiếng Anh, nhưng có nói được tiếng Pháp, làm bọn trẻ trong lớp thán phục. Tiếng Anh hoàn toàn mù mịt. Nói chung, bấy giờ tôi phải dùng thủ hiệu, chỉ trỏ để thông cảm nhau.
Cô tôi đã dọn sang tiểu bang Washington. Tôi còn nhớ một buổi sáng kia cô chợt điện thoại cho chúng tôi, bảo con gái cô nghịch súng trong nhà, đã nổ cò trúng đạn. Bấy giờ, cô nói, mọi người đang ở trên lầu, bọn trẻ chơi đùa dưới nhà. Mấy con bé tìm được một khẩu súng vác ra chơi. Súng cướp cò, đạn bắn ngay đầu. Vào nhà thương nó hãy còn kêu khóc: “Má ơi, má ơi”, nhưng em họ tôi chết trong nhà thương. Cô tôi điện thoại báo cho biết, và tôi nhớ là tôi đã kể cho cả lớp hay. Nhưng tôi phải dùng dấu tay, dùng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt để kể câu chuyện cho bọn bạn học. Và tôi đã khóc.
Tôi rất gần gũi với em họ tôi. Thực kỳ lạ là lúc điện thoại reo vào ba giờ sáng, khi mẹ tôi bốc máy trả lời thì tôi tỉnh dậy đi vào phòng mẹ.
Sau khi cô tôi điện thoại xong, mẹ tôi và tôi bước ra ngoài.
Đêm ấy trời có tuyết. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi thấy tuyết. Ngoài trời đêm rất sáng, vạn vật phủ mầu trắng trong đêm khuya. Lúc ấy trước lễ Giáng Sinh. Cái chết của em họ tôi đã làm tôi xúc động sâu xa.
Tôi nhớ đêm hôm ấy tôi đã khóc. Mẹ tôi cũng vậy. Vài tháng sau, vào mùa hè, chúng tôi dọn sang tiểu bang Washington. Từ Connecticut, chúng tôi lái một chiếc xe cũ kỹ mà cha tôi đã mua với giá năm chục Mỹ kim để đi băng nước Mỹ đến tiểu bang Washington. Cha tôi là thợ máy giỏi, ông đã bảo trì chiếc xe chạy khá tốt. Chúng tôi đi băng qua nước Mỹ với chiếc xe Oldsmobile này, ba người ngồi hàng ghế trước, tất cả số còn lại ngồi sau.
Trong chuyến đi, chúng tôi đã thấy biết bao công viên và những đài kỷ niệm danh tiếng của nước Mỹ. Chúng tôi đã được nhìn thấy núi Rushmore với tượng Abraham Lincoln trên ấy. Lúc nào tôi cũng yêu mến Abraham Lincoln.
Phải mất cả tháng trường, chúng tôi mới đi băng hết nước Mỹ, chúng tôi cũng học hỏi được nhiều. Trong chuyến đi này, chúng tôi ghé lại nhà bạn quen, ngụ tại các nhà trọ hoặc những trạm nghỉ chân dọc theo xa lộ. Chuyến đi này cũng là một cuộc phiêu lưu lớn, chúng tôi đều thích thú.
Sau đó chúng tôi đến viếng mộ em họ tôi ở tiểu bang Washington. Tôi còn nhớ cảm giác của tôi là tức giận bực bội. Tại sao để súng trong nhà làm gì? Tại sao em tôi lại chết tức tưởi ở đất Mỹ sau tất cả những gì chúng tôi phải trải qua tại Việt Nam? Nhưng tôi cũng không để cho mình vương vấn mãi chuyện ấy, bởi lẽ, nếu thế thì lòng tôi cũng tan nát. Tôi biết, nên tôi không dám luẩn quẩn mãi với cái chết của em họ tôi.
Trong nghĩa địa có trồng một hàng cây với cành lá phủ đầy những hạt nhỏ. Tôi nhặt một hạt cây rồi giữ lấy. Tôi không biết tại sao tôi lại giữ cái hạt ấy.
Chúng tôi dọn đi Seattle. Một người dì tôi đã kết hôn với người Mỹ, một người Mỹ da trắng. Cha tôi cho rằng việc ấy có thể gây ra ảnh hưởng xấu. Cha tôi làm việc với Mỹ, nói tiếng Mỹ, sinh hoạt với họ cũng suông sẻ, nhưng cha tôi lại không muốn ai trong gia đình tôi lấy Mỹ cả. Tôi nghĩ chuyện ấy thực kỳ cục.
Ở Seattle có nhiều người Á Châu hơn ở Connecticut. Lúc ấy tôi vẫn còn phải học E.S.L. (1) Nhưng rồi tôi bắt đầu học khá hơn. Tôi vẫn cứ phải đóng vai học trò đầu lớp, từ khi ở Việt Nam, tôi vẫn đã như thế.
Tôi ở tiểu bang Washington từ khi học lớp Ba cho đến lớp Bảy. Sau đó vì cha tôi có nhiều bạn ở dưới vùng Cali này, và vì ông đã tìm được việc ở đây, chúng tôi bèn dọn cả xuống. Nói thế này thì tôi cảm thấy không tốt, nhưng ở đây đông người Việt quá. Tôi cảm thấy có lẽ không nên nói như thế, nhưng tôi tự hỏi họ là ai. Họ là những kẻ phản bội hay họ là ai? Đông người Việt Nam quá.(2)
Tôi mong có dịp trở về thăm Việt Nam. Tôi có vấn đề dằng co về nhân thân. Đôi khi, tôi quên bẵng mình là người Việt Nam. Đến khi soi gương, mới nghĩ: “Ô! Ô! Ngươi là người Việt mà, Thảo ơi. Đừng quên thế nhé”. Chuyện ấy thực là gay. Vào những kỳ Thế Vận Hội hoặc vào những dịp mùng 4 tháng Bẩy (3), tôi hoàn toàn cảm thấy mình là người Mỹ. Tôi đâm ra thắc mắc. Nếu Việt Nam có tham dự Thế Vận Hội thì tôi vẫn ủng hộ Hoa Kỳ. Xứ sở này, đất nước này giờ đây chính là xứ sở tôi, đất nước tôi. Tôi nghĩ có lẽ chính vì thế mà tôi không muốn quanh quẩn trong đám người Việt Nam đông đảo nữa. Tôi không nằm mơ thấy Việt Nam. Nhìn hình ảnh Việt Nam, tôi không thể nhớ gì. Tôi có nhớ đôi điều, nhưng ít lắm, không thực rõ các chi tiết. Những anh chị lớn nhớ nhiều hơn.
Tôi vẫn bực bội về việc người ta dán nhãn hiệu liệt tôi vào loại nguời nào. Với Mỹ trắng, tôi chẳng hợp gì, mà với Việt Nam cũng không. Ở Tiểu bang Washington, bạn tôi đều là Mỹ trắng. Khi thông thạo tiếng Anh rồi là tôi ăn khớp vào với các bạn một cách rất tốt đẹp. Nếu người ta nghe chúng tôi nói nhưng không nhìn thấy chúng tôi, người ta đều tưởng chúng tôi là Mỹ trắng. Nhưng người ta vẫn khó chấp nhận rằng bây giờ thực sự chúng tôi chính là người Mỹ.
Chị lớn tôi hiện sống ở San Francisco. Chị là một nghệ sĩ. Chị rất có tinh thần sáng tạo. Hiện chị đang viết một quyển sách. Tuy nhiên, tôi phải tránh nói chuyện với chị. Ông hiểu không, chị ấy đang sống chung với người bạn trai của chị. Cha tôi đã từ chị, không nhắc đến tên chị nữa.
Đôi khi tôi lâm vào tình trạng ưu uất tinh thần. Chuyện ấy bắt nguồn từ gia đình. Tôi không khá trong việc đương đầu với các áp lực khủng hoảng. Chị tôi đã đặt cha mẹ tôi vào những nỗi khó khăn, tôi bực bội với chuyện ấy. Tôi thường bỏ đi chơi, tôi có nhiều bạn trai hơn là bạn gái. Đủ mọi quốc tịch.
Tôi thích trẻ con, nhưng chỉ muốn có con sau khi đã thành tựu sự nghiệp của tôi. Sau đó mới tính chuyện mình muốn gì.
Tôi đang phải theo học đại học, nhưng tôi tự trả lấy học phí bằng nghề thư ký. Ở nhà, cũng như những đứa con khác trong gia đình, tôi không phải trả tiền thuê nhà hay tiền ăn. Nhưng tôi có trách nhiệm phải coi sóc mấy đứa em trai, em gái.
Tôi luôn luôn mơ ước có một căn nhà bếp thật rộng để nấu ăn. Nhưng tôi cũng luôn luôn e ngại cha tôi không thích những món ăn tôi nấu . Tôi yêu cha tôi bằng tất cả tim tôi. Nhưng tôi ghét cay ghét đắng những quan điểm của ông. Cái ghét này cũng gần ngang với lòng yêu thương ông. Tôi hiểu về phía ông, quá khứ của ông. Nhưng cùng một lúc tôi tin rằng cha tôi cũng cần phải hiểu về phía của tôi và của chị tôi. Phía của chúng tôi, của cuộc đời chúng tôi. Chúng tôi không còn sống ở Việt Nam nữa, nhưng hình như cha tôi không nhận thức được những điều như thế.
Trong nhà, chúng tôi thường không nói năng gì. Tôi là người duy nhất hay nói chuyện trong gia đình. Tôi nói, nhưng cha tôi thì không. Khi ông cáu kỉnh, bẳn gắt, ông kêu tôi đi vào trong buồng. Mỗi khi có vấn đề, hoặc mỗi khi các anh chị em tôi muốn gì, thì cuối cùng chính tôi là nguời phải hỏi cha mẹ tôi và phải lãnh chịu hết mọi lời trách móc.
Gần đây, tôi muốn dọn ra ở riêng. Cha tôi bảo: “ Nếu mày mà lấy Mỹ trắng thì tao từ mày”. Và mẹ tôi lên tiếng: “Đấy, tất cả tụi bay nghe rõ chưa?” Tôi hiểu lý do tại sao cha tôi nói thế, nhưng điều ấy vẫn làm cho tôi thương tổn. Tất nhiên, nếu bọn tôi đứa nào cũng lấy Mỹ thì chúng tôi sẽ mất mát một cái gì.
Tuy nhiên có những chuyện cha tôi chẳng bao giờ hiểu được.
(1) English for second language: Anh văn, sinh ngữ thứ hai.
(2) Nguyên văn đoạn này là “I feel bad for saying it, but there are too many Vietnamese here. I feel like I shouldn’t say it. But I wonder who they are. Are they traitors, or who are they? There are so many of them”.
(3) Lễ Độc Lập Hoa Kỳ.
Mạc Thuý Vân, “Nửa Mỹ nửa ta”*
Tôi sinh năm 1967 ở Saigon. Cha tôi là người Mỹ. Em gái tôi mười lăm tuổi, khác cha. Mẹ tôi không bao giờ kết hôn với cha tôi cả. Mẹ tôi giúp ông bà ngoại tôi mở một tiệm ăn ở Saigon. Còn ông bà ngoại tôi mở một tiệm ăn nhỏ dưới miệt vườn. Cha tôi rời Việt Nam năm 1973 rồi ông trở lại yêu cầu mẹ tôi sang Mỹ với ông, nhưng mẹ tôi không chịu. Năm 1975 cha tôi viết thư một lần nữa yêu cầu mẹ tôi sang Mỹ. Bà vẫn từ chối, do đó cha tôi lại viết thư sang bảo như thế ông sẽ lập gia đình với người khác. Hiện nay ông đã có gia đình khác.
Tôi sống ở Saigon cho đến 1975 thì dọn xuống miệt vườn. Tôi ở tại một làng giữa Mỹ Tho, Bến Tre, đi học ở đấy. Nhiều người hay nhìn tôi vì trông tôi khác lạ. Tôi lai Mỹ. Người ta không có cảm tình chuyện đó.
Tôi sống ở đấy đến năm 1979 thì rời Việt Nam. Lúc bấy giờ cô chú tôi với hai người con trai muốn ra khỏi nước, chúng tôi đến thăm trước khi gia đình cô chú tôi đi. Hôm ấy ông bà ngoại tôi khuyên là nên cho tôi đi, vì ở Mỹ tôi sẽ có tương lai hơn. Vì thế mẹ tôi quyết định gửi tôi đi.
Chúng tôi vượt biên bằng một chuyến tàu lớn tại Mỹ Tho, lênh đênh trên tàu tám ngày đêm. Đến được Mã Lai thì họ bắn, không cho vào. Vài người trên tàu bị thương, vì thế chủ tàu năn nỉ là chỉ cần xin nước uống thôi. Họ cho chúng tôi nước, và chúng tôi đến được Nam Dương.
Tôi đổ bệnh suốt chuyến đi. Lúc ấy tôi quá nhỏ để ý thức những việc đang xảy ra. Ở Việt Nam tôi được sung sướng nhưng tôi không nghĩ rằng tôi sẽ có một tương lai khả quan. Cuối tuần nào ở trường chúng tôi cũng phải đi lao động. Tôi chẳng học được bao nhiêu. Một vài số điểm trong lớp là tùy thuộc vào việc có lao động tích cực hay không.
Ở Nam Dương tôi đã đổi chỗ đến ba lần. Chỗ đầu tiên là một vùng hoang địa, không bóng người nào khác ngoài chúng tôi. Chúng tôi phải dùng thuyền đi lấy nước. Vài người giàu có đem theo vàng lúc rời Việt Nam, họ dùng tiền để mua đồ ăn quanh vùng trong lúc ở Nam Dương. Còn chúng tôi phải thuê thuyền sang đảo khác mua đồ ăn.
Rồi chúng tôi lại đến một trại khác, nơi đây có người Mỹ giúp. Họ chuyển chúng tôi đến đây. Chúng tôi ở trong trại thứ hai này một năm, nhiều người đã bỏ mạng tại đây. Gần như mỗi ngày đều có người chết vì nước bẩn. Muỗi mòng cũng làm người ta phát bệnh.
Tôi có hai nguời anh chị họ ở Mỹ. Tôi viết thư nhờ, nên họ đã bảo trợ cho chúng tôi sang Mỹ. Tôi không có ai khác bảo trợ cả. Tôi đến San Francisco năm 1981. Lúc ấy không nói được tiếng Anh. Tôi vui mừng, nhưng rất sợ hãi vì chung quanh toàn người da trắng. Tôi không biết rồi đây sẽ làm gì ở Mỹ.
Tôi sống với những người bà con trong một căn nhà. Tôi bắt đầu học lớp Bảy, nhưng vì không nói được tiếng Anh nên phải theo học chương trình E.S.L, chương trình Anh ngữ dành cho người không nói tiếng Anh. Trong năm ấy tôi gắng học, bắt đầu có tiến bộ. Sau một năm, tôi có thể nói chuyện kha khá bằng tiếng Anh.
Tôi học Trung học Đệ Nhất Cấp, rồi vào trường Trung học Independence ở San Jose. Tại đây tôi được điểm trung bình 3.3. Hiện nay tôi đang theo học kế toán Thương Mại tại Đại học San Jose. Tôi muốn vào ngành Thương mại ở Hoa Kỳ. Hiện tôi làm việc tại một cửa tiệm để lấy tiền trả học phí cho xong chương trình đại học.
Tôi là một người Việt Nam.
Tôi là người Việt, bởi vì tôi đã lớn lên như một người Việt. Về phương diện văn hoá, văn hóa Việt Nam là văn hoá của tôi. Khi mới gặp nhau, người ta thường hỏi có phải tôi “nửa Mỹ nửa ta” không! Họ biết tôi lai.
Sẽ có ngày tôi lấy chồng, có hai đứa con. Ở Mỹ này mà có nhiều con hơn số đó thì tốn kém hết sức.
Khi còn nhỏ đã có lần tôi mong mỏi được gặp cha tôi. Nhưng nay tôi không còn tò mò gì về cha tôi nữa. Tôi biết ông đã có gia đình khác.
Nếu tôi đến gặp ông là chỉ đem phiền phức đến cho ông. Tốt hơn hết đừng gặp. Vì thế tôi nghĩ tôi sẽ mãi mãi không bao giờ tìm cha tôi cả.
Nguyễn Thị Kim Anh, “Cố quên những đau thương”*
Vào hôm sau ngày Saigon mất, em gái tôi và tôi ra Vũng Tàu cố tìm đường vượt biên. Chúng tôi ăn mặc như nông dân: bà ba đen, đội nón lá, trả mỗi người 15,000 đồng để lên một chiếc tàu nhỏ ra đi. Nhưng chỉ mới chừng một cây số thì tàu tuần bắt được, mang chúng tôi về lại. Họ nhốt chúng tôi vào khu đất trống cạnh một trường học một đêm. Chúng tôi cười cợt vì lẽ chúng tôi nói láo với họ, bảo chúng tôi đi lánh nạn trong lúc đánh nhau, bây giờ đang muốn trở về làng để bắt đầu một cuộc sống mới, vân vân. Lúc ấy mới một hôm sau ngày họ chiếm, do đó họ chưa có chính sách đối xử với những người vượt biên, vì vậy họ chỉ nhốt chúng tôi có một đêm. Suốt đêm ấy, chúng tôi chuyện trò, chẳng sợ hãi gì. Hôm sau họ cho ít bắp rồi thả chúng tôi ra.
Chúng tôi kiếm xe đò về lại Saigon, tiền nong hết sạch, mà vẫn còn kẹt lại Việt Nam. Đó là chuyến đầu. Mãi đến chuyến thứ sáu tôi mới đi nổi. Chuyến ấy tôi phải giả dạng làm người Hoa, đi vào tháng Bẩy năm 1979.
Trở về lại Saigon, mọi người đang chạy nhốn nháo. Đường phố đầy người. Từ hôm ấy, chúng tôi bắt đầu thấy rất nhiều lính Bắc Việt đi trên đường phố.
Các trường học mở lại. Họ yêu cầu tất cả giáo sư đến một trường để học tập chính sách mới, lề lối mới, giáo trình mới. Chúng tôi phải học hết hai mươi ngày. Sau đó họ cho một giấy chứng nhận chúng tôi đã hoàn tất khóa học. Ngày nào cũng phải viết những bài về các đề tài, ví dụ “Tại sao chúng tôi yêu bác Hồ”, toàn những thứ láo toét như vậy. Thuyết trình viên gồm cả người Bắc lẫn người Nam. Họ nói về chủ nghiã Cộng sản, về việc làm thế nào họ đã thắng cuộc chiến. Họ kết án chính quyền Mỹ tàn phá đất nước. Chúng tôi cứ thế chép, trình bày ngay ngắn, đẹp đẽ, rồi nạp bài. Nếu cứ viết y những gì họ nói, đồng ý trăm phần trăm là có điểm tối đa.
Chúng tôi đã tham dự khóa đầu tiên với khoảng năm sáu trăm giáo sư trong vùng. Và khi chỉ có bạn bè với nhau, chúng tôi thường nói chuyện thành thật. Cho nên mỗi khi thấy người ta chuyện trò thành từng nhóm, họ cho người ngồi xen vào, các cuộc bàn bạc lại phải đổi hướng, hoặc ngưng ngay lại. Họ cố kiểm soát tất cả, đặc biệt những cuộc bàn bạc riêng tư. Họ cho như thế là nguy hiểm, bởi vì họ không biết người ta nói gì.
Nhà trường bắt đầu niên học mới vào tháng Bảy 1975. Vì không có người thay thế, họ phải cho lưu dụng các nhân viên hành chánh cũ, nhưng tại mỗi trường, họ đều đưa các đảng viên đến làm trưởng nhóm. Họ chia nhà trường thành các nhóm nghiên cứu xã hội, nhóm sinh ngữ và nhóm khoa học. Trưởng nhóm đều phải là đảng viên. Tại một số trường, có khi họ chọn những người mà họ cho rằng có khả năng làm Thủ trưởng tốt của đảng. Tôi là người được chọn làm trưởng nhóm ngoại ngữ. Vì họ không có ai khác, và vì tôi đã viết những bài học tập đúng ý họ nên họ đã chọn tôi.
Nhóm tôi có chín người, ba người dạy Pháp văn, Anh văn, mấy người kia dạy Văn chương và khoa học xã hội. Chúng tôi đã quen nhau từ hai, ba năm. Mỗi tuần chúng tôi họp một lần. Một trưởng nhóm khác cũng tới tham dự thảo luận, nhưng cứ mỗi lần anh ta ra khỏi phòng, tức khắc chúng tôi bàn chuyện vượt biên, tìm cách ra đi.
Chúng tôi còn thuyết phục được cả một đảng viên trẻ tuổi rằng đảng Cộng sản không tốt đẹp gì, cô ta cũng muốn đi. Sau này, khi tôi đã đi khỏi nước, cô ấy vẫn còn viết thư sang cho tôi. Cô ấy đã đến nhà tôi, hỏi em tôi địa chỉ để viết thư cho tôi. Cô cho biết vì cha cô là một đảng viên kỳ cựu nhiều tuổi đảng nên cô đã gia nhập đảng. Nhờ cha mà cô được đãi ngộ tử tế, có mức sống khá ở ngoài Bắc, nhưng khi vào Nam làm việc với chúng tôi, cô rất có cảm tình vói chúng tôi. Cô biết gia đình tôi đã rời Saigon đi năm 1975, cô biết chúng tôi cũng sửa soạn đi, nhưng cô vẫn bảo vệ cho chúng tôi, kể cả phải nói dối để che chở chúng tôi.
Ngày tôi đi không thoát, tôi đã bảo cô ấy là tôi đi thăm cha mẹ tôi. Nếu có ai hỏi thì cô sẽ chống đỡ hộ, bởi vì cô thừa biết cha mẹ tôi đã ra đi rồi. Ông có thấy không, rất nhiều người tưởng tôi sẽ trở thành đảng viên. Tôi đã cố làm bạn với cô ấy, bởi vì cô có thể bao bọc cho tôi nếu có chuyện xảy ra.
Vào tháng mười một 1975, tôi đi lần nữa. Tôi viết cho cô một miếng giấy bảo là tôi đi thăm cha mẹ. Sau mười ngày nghỉ dậy, nếu tôi không trở lại thì nhờ cô tìm cớ nói hộ tôi. Nhờ thế, cô ấy đã bảo là tôi đi thăm cha mẹ. Nhưng sau ba, bốn ngày, đi không được, tôi trở lại, cô chỉ nhoẻn cười. Cô luôn luôn che chở cho tôi, cô ấy tốt hết sức.
Lần nào ra đi, tôi cũng mất hết tiền bạc. Lần thứ hai ra Nha Trang tới một người bạn, người ta bảo năm giờ thì đến một điểm hẹn để ra đi. Chúng tôi tụ tập đến chỗ chờ xe lam. Cứ thế đợi. Năm giờ. Năm giờ rưỡi. Sáu giờ. Sáu giờ rưỡi. Rồi bảy giờ. Bảy giờ rưỡi. Chẳng một bóng ma nào đến đón. Họ ẵm hết tiền nong, bỏ chúng tôi lại.
Cuối năm 1975, cô tôi từ Bắc vào. Bà ở lại ngoài Bắc từ khi chúng tôi di cư vào Nam, lúc ấy tôi hãy còn nhỏ quá nên chẳng nhớ gì về cô tôi cả. Cô tôi lễ mễ mang vào Nam nào là… gạo, vài quả trứng, mấy món lặt vặt, vì cô tôi nghe nói người trong Saigon nghèo lắm, cô muốn giúp đỡ chúng tôi. Chú tôi cũng vào cùng với cô. Chú kể rằng chú nghe nói miền Nam nghèo đói lắm nên miền Bắc cần phải chống Mỹ để cứu miền Nam. Đấy chính vì sao mà người miền Bắc đã có một niềm tin rất mãnh liệt để nỗ lực cứu nguy cho anh chị em miền Nam.
Trong những ngày ấy Cộng sản liên tục đổi tiền, tôi cũng chẳng biết vì sao. Sau hai lần đổi tiền, khối người tự tử vì không đủ tiền mà sống-trong đó có một vài người giàu có, đặc biệt là người Hoa. Lúc ấy nếu có vàng thì còn giấu được, đó là lý do tại sao mọi người đều muốn giữ vàng. Tiền thì tiếp tục trở thành đống giấy lộn.
Đối với người Hoa, Cộng sản cho đi rất dễ, trước hết là vì tiền, thứ hai để tránh các vấn đề với Trung Quốc. Họ không muốn có người Hoa ở Việt Nam.
Vì vậy tôi đi học tiếng Hoa, kiếm vài bộ quần áo Tàu, em gái tôi cũng thế. Sau đó chúng tôi trả tiền kiếm đường xuống dưới miệt đồng bằng tìm tàu đi Mã Lai. Chuyến đi hết ba ngày bốn đêm.
Trên đường sang Mã Lai chúng tôi bị hải tặc Thái Lan chặn cướp tất cả sáu lần. Đến được Mã Lai chúng tôi mất hết, chỉ còn lại mạng sống thôi.
Lần đầu tiên thấy cướp Thái Lan, chúng tôi cứ ngỡ tàu ngoại quốc giải cứu, ai nấy đều nhảy lên la mừng, tưởng bình yên thoát nạn, nhưng đến khi chiếu ống nhòm nhìn thấy cờ, chúng tôi mới biết là có chuyện.
Vài người trên tàu đã có kinh nghiệm với bọn hải tặc vội bảo đàn bà thay quần áo, lấy than bôi nhọ mặt mày, thân hình, làm cho xấu xí đi. Chúng tôi vội làm ngay, lấy quần áo đàn ông mặc vào, bôi nhem nhuốc thân hình. Chúng tôi có đủ thì giờ bởi vì chiếc tàu chúng tôi nhìn thấy hãy còn xa lắm.
Trong chuyến đầu bị chặn, tài công bị hải tặc Thái Lan đánh gần chết. Khi chúng tới hỏi vàng đâu, thay vì cứ nói “chúng tôi không có vàng”, anh ta lại bảo chúng tôi phải dùng vàng để mua xăng, mua dầu. Chúng bèn đổ hết xăng dầu ra cho cạn đáy mà tìm. Không thấy vàng, chúng đánh tài công thậm tệ, chúng định giết anh ta. Chúng đè anh nằm sấp mặt lên sàn tàu, rồi trước mặt chúng tôi, bọn chúng đứng trên người anh, nhảy dọng lên dọng xuống lên lưng, lên chân, lên đầu anh.
Lần thứ sáu bị chận thì không có chuyện gì tệ hại lắm, vì lẽ khi chúng đến thì tất cả chúng tôi đã mất sạch hết rồi, manh áo cũng không còn. Những bọn trước đã lấy hết, rồi để lại cho ít gạo, nước mắm. Bọn cuối cùng đến, thấy chẳng còn gì lấy được, bèn cho chúng tôi ít cá, ít sữa cho trẻ con rồi kéo cả tàu chúng tôi sang Mã Lai. Bọn cướp tử tế, tôi nghĩ thế.
Ngay từ sau khi gặp bọn hải tặc thứ nhất, chúng tôi đã hết xăng nhớt, tài công thì bất tỉnh, tàu chúng tôi cứ thế nổi trôi. Chúng tôi kinh hoàng vì lúc ấy ban đêm, không có chút ánh sáng. Bọn chúng đã vứt cả hải bàn của chúng tôi xuống biển. Ai nấy đều chắc mẩm sẽ không thoát khỏi tử thần.
Một hôm, thấy có mấy chiếc tàu chạy qua, chúng tôi vội giương cờ lên, phất nữa, nhưng không tàu nào dừng. Sáng hôm sau, lại thấy một tàu nữa chạy lại. Tàu hải tặc, chúng lại cướp nữa. Bọn này rất trẻ, tôi đoán chỉ chừng 16, 17 tuổi. Bọn chúng cạo đầu nhẵn thín, mặt bôi trắng. Bọn chúng đều vác một con dao dài, chúng dí dao vào cổ từng người để hỏi tiền. Bọn chúng chỉ biết vài ba chữ Việt như: Tiền, đô la, vàng, đồng hồ. Chừng ấy chữ. Ai nấy sợ thất thần. Không ai có thể biết chúng sẽ làm gì.
Khi tới Mã Lai, chúng tôi thấy một chiếc tàu nhỏ, vài người Việt Nam đang đánh cá. Nhưng họ mặc những chiếc áo sặc sỡ do hội Hồng Thập Tự phát cho, vài người đã ở đây đến hai, ba năm, nên nước da đen thẫm. Khi thấy hai chiếc tàu đánh cá ấy tất cả chúng tôi cứ đinh ninh là người Mã, sợ họ cũng làm như bọn Thái, nên vội bảo tài công ra sức chạy. Mấy người Việt đuổi theo, la lên: “Lại đây nè! Lại đây nè!”. Cuối cùng mới nghe ra người Việt mà ngừng lại.
Họ chỉ cho chúng tôi đi thẳng vào khu tỵ nạn. Nhưng họ dặn khi đến thì phải tự đánh chìm tàu, kẻo người Mã cũng bắt chúng tôi đi nữa.
Chúng tôi làm đúng lời dặn, rồi nhảy cả xuống biển, Vài người nhảy xuống dùng búa phá thủng đáy cho chìm tàu, còn chúng tôi chạy băng qua bãi biển, vào trong trại mà núp.
Một nhóm người Đức tiến tới, hỏi xuất xứ của chúng tôi. Họ yêu cầu chúng tôi leo lên lại cái tàu thủng đáy, rồi nhảy xuống để cho họ quay phim.
Chúng tôi cười. Không tin nổi. Họ muốn chúng tôi lại bơi ra tàu rồi nhảy xuống bơi vào bờ để họ làm phim. Thật lạ quá, nhưng chúng tôi vẫn làm, chúng tôi phải ở lại cho được.
Thế đấy. Giây phút đầu tiên của tự do là làm tài tử đóng phim. Và đúng vào lúc chúng tôi cố quên tất cả những chuyện đau thương đã xảy ra cho chúng tôi, bởi vì chúng tôi biết giờ đây chúng tôi đã được tự do.