NGƯỜI VIỆT PHẢI BIẾT
#1
FB Oscar Thuan Nguyen

NGƯỜI VIỆT PHẢI BIẾT

Gẩn đây ngôn ngữ tuổi teen rất thịnh hành nhưng bài viết này chỉ dành cho những người nào thật sự muốn giữ gìn tiếng Việt ở hải ngoại. Có những từ nhiều người thường viết sai:
.
1. “Dành” và “giành”:
Dành: động từ mang nghĩa tiết kiệm, cất giữ hoặc xác định quyền sở hữu, chia phần cho ai đó. Ví dụ: để dành, phần này dành cho bạn (tương đương với “phần này thuộc về bạn”).
Giành: động từ chỉ sự tranh đoạt. Ví dụ: giành giật, giành chính quyền.
2. “Dữ” và “giữ”:
“Dữ” là tính từ chỉ tính cách. Ví dụ: dữ dằn, giận dữ, dữ tợn, hung dữ, dữ dội…
“Giữ” là động từ chỉ việc sở hữu, bảo vệ. Ví dụ: giữ của, giữ gìn, giữ xe, giữ đồ…
3. “Khoảng” và :khoản”:
“Khoảng” để chỉ một vùng không gian, thời gian, độ dài bị giới hạn. Vi dụ: khoảng cách, khoảng không, khoảng thời gian.
“Khoảng” cũng có khi được dùng để chỉ sự ước lượng. Ví dụ: Nhóm người đó có khoảng chục người.
“Khoản” là một mục, một bộ phận. Ví dụ: tài khoản, điều khoản, khoản tiền.
4. Số chẵn, số lẻ:
Chẵn dấu ngã, lẻ dấu hỏi là đúng.
5. Bán sỉ, bán lẻ:
Cách viết đúng: Cả sỉ và lẻ đều là dấu hỏi.
“Chẳng lẽ” (một từ thường đặt ở đầu câu, dùng để diễn tả suy đoán về một khả năng mà bản thân không muốn tin hoặc không muốn nó xảy ra):
Chẳng dấu hỏi, lẽ dấu ngã. Cái này ngược lại hoàn toàn với “số chẵn, số lẻ”.
6. “Chuyện” và “truyện”:
“Chuyện” là thứ được kể bằng miệng. “Truyện” là chuyện được viết ra và được đọc.
Ví dụ: “chuyện cổ tích” được kể dựa theo trí nhớ nhưng khi chuyện cổ tích được in vào sách thì nội dung được in đó gọi là “truyện cổ tích”. Và nếu có người đọc cuốn sách đó thì người đó đang đọc “truyện cổ tích”.
7. “Sửa” và “sữa”:
Sửa xe, sửa máy móc, sửa chữa là dấu hỏi.
Sữa bò, sữa mẹ, sữa tươi, sữa chua là dấu ngã.
8. “Chửa” và “chữa”:
Chửa: đồng nghĩa với mang thai, là dấu hỏi.
Chữa: đồng nghĩa với “sửa”, thường ghép với nhau thành từ ghép “sửa chữa” (lưu ý: sửa dấu hỏi, chữa dấu ngã mặc dù hai từ này đồng nghĩa)
9. “Dục” và “giục”:
“Dục” nói về chức năng sinh lý của cơ thể hoặc ham muốn. Ví dụ: thể dục, giáo dục, tình dục, dục vọng.
“Giục” nói về sự hối thúc. Ví dụ: giục giã, xúi giục, thúc giục.
10. “Giả”, “giã” và “dã”, "rã":
“Giả”: không phải thật nhưng trông giống thật. Ví dụ: hàng giả, giả dối, giả vờ
“Giả” còn là một từ gốc Hán mang nghĩa “người”. Ví dụ: tác giả (người tạo ra), cường giả (kẻ mạnh), khán giả (người xem), diễn giả (người nói trước công chúng về một chủ đề nào đó).
"Giã": động từ chỉ việc dùng đồ vật chuyên dụng tác động vào vật khác: giã cua, giã giò...
“Giã”: thường ghép với các từ khác. Ví dụ: giục giã, giã từ.
“Dã”: mang tính chất rừng rú, hoang sơ, chưa thuần hóa. Ví dụ: dã thú, hoang dã, dã tính, dã man.
"Rã": ngược với gắn, kết. "Rã" là động từ, làm rời ra các thành phần gắn, liên kết với nhau như rã đông... Hoặc liên kết thành tính từ chỉ cảm giác mệt mỏi: rã rời
11. “Sương” và “xương”:
“Sương”: hơi nước xuất hiện vào buổi sáng sớm hoặc trong những hoàn cảnh thời tiết đặc biệt. Ví dụ: sương mù, giọt sương, hơi sương, sương muối.
“Xương”: phần khung nâng đỡ cơ thể động vật. Ví dụ: bộ xương, xương bò, xương hầm.
12. “Xán lạn”:
“Xán lạn” là cách viết đúng. Cả “xán” và “lạn” đều là những từ gốc Hán. “Xán” là rực rỡ, “lạn” là sáng sủa. Tất cả các cách viết khác như “sáng lạn”, “sáng lạng”, “sán lạn”… đều là những cách viết sai. Đây là một từ khó, khó đến nỗi rất nhiều bài báo cũng dùng sai.
13. “Tham quan”:
"Tham quan" nghĩa là xem tận mắt để mở rộng hiểu biết. “Tham quan” là cách viết đúng, “thăm quan” là cách viết sai chính tả.
14. BẢN / BẢNG
BẢN
1. Gốc, vốn, sẵn có: Bản chất, bản lĩnh, bản ngã, bản mệnh, bản quốc, bản sắc, bản thân, bản thế, bản tính, bản xứ.
2. Tấm nhỏ, phiến mỏng; bản in sách: Bản đồ, bản quyền, bản nhạc, kịch bản, bản sao, văn bản, bản thảo, bản kẽm, bản vẽ.
3. Ván phẳng, dài: Thuyền tam bản.
BẢNG
1. lờ mờ, chập chờn, không rõ nét: Hoàng hôn bảng lảng.
2. Biển, bảng niêm yết kết quả: Bảng đen, bảng hiệu, bảng cửu chương, bảng danh dự, bảng nhãn, bảng vàng, khoa bảng, phó bảng.
15. “Xuất” và “suất”:
“Xuất” là động từ có nghĩa là ra. Ví dụ: sản xuất, xuất hiện, xuất bản, xuất khẩu, xuất hành, xuất phát, xuất xứ, xuất nhập… “Xuất” còn có nghĩa là vượt trội, siêu việt. Ví dụ: xuất sắc, xuất chúng…
“Suất” là danh từ có nghĩa là phần được chia. Ví dụ: suất ăn, tỉ suất, hiệu suất…
16. “Yếu điểm” và “điểm yếu”:
“Yếu điểm”: có nghĩa là điểm quan trọng. “Yếu điểm” đồng nghĩa với “trọng điểm”.
“Điểm yếu”: đồng nghĩa với “nhược điểm”.
Một số quy tắc chính tả:
1. Ch/tr:
Chữ tr không đứng đầu các tiếng có vần có âm đệm như oa, oă, oe, uê. Do đó nếu gặp các vần này, ta dùng ch. Ví dụ: sáng choang, áo choàng, chích chòe, loắt choắt, chuệch choạc, chuếnh choáng…
Những từ Hán Việt có thanh nặng hoặc thanh huyền thường có âm đầu tr. Ví dụ: trịnh trọng, trình tự, trừ phi, giá trị, trào lưu...
Những từ chỉ vật dụng quen thuộc hoặc các mối quan hệ trong gia đình thường có âm đầu là ch. Những từ mang nghĩa phủ định cũng có âm đầu là ch. Ví dụ: chăn, chiếu, chai, chén, chổi, chum, chạn, chõng, chảo,... chuối, chanh, chôm chôm, cháo, chè, chả, chạy, chặt, chắn, chẻ,... cha, chú, chị, chồng, cháu, chắt,… chẳng, chưa, chớ, chả.
2. R/d/gi:
Chữ r và gi không đứng đầu các tiếng có vần có âm đệm (oa, oe, uê, uy). Do đó gặp các tiếng dạng này thì ta chọn d để viết, không chọn r hoặc gi. Ví dụ: dọa nạt, kinh doanh, duy trì, hậu duệ…
3. Quy tắc ng/ngh, g/gh, c/k
ng, g, c đi với nguyên âm o, ơ, ô, u, ư, a, ă, và â
Ví dụ: nga, ngân, ngu, ngô, ngắn, gà, gân, gu, gô, gắn, ca, cân, cú, cô, cắn
ngh , gh, k đi với nguyên âm i, e và ê
Ví dụ: nghiêng, nghe, ghen, ghiền, ghê, kẽ, kim, kê
Trong các từ Hán Việt:
+ Các tiếng có thanh ngã hoặc thanh nặng thường viết với âm đầu d.
Ví dụ: diễn viên, hấp dẫn, bình dị, mậu dịch, kì diệu...
+ Các tiếng có thanh sắc hoặc thanh hỏi thường viết gi.
Ví dụ: giải thích, giá cả, giám sát, giới thiệu, tam giác...
+ Các tiếng có thanh huyền hoặc thanh ngang thường viết với âm đầu gi khi vần có âm đầu a và viết với âm đầu d khi vần có âm đầu khác a.
Ví dụ: gian xảo, giao chiến, giai nhân, tăng gia, gia nhân, du dương, do thám, dương liễu, dư dật, ung dung...
Sưu tầm
Ở Mỹ không lâu, tiếng Việt thì quên, Tiếng Anh thì không biết nên thấy bài này hay chia sẻ cho bà con ôn lại tiếng Việt mến yêu nhé.
DÙNG DẤU HỎI – NGÃ “Chữ Việt” Thời Sài Gòn xưa
Nguyễn Thái Sơn
Thầy cô nhớ quy tắc này để tránh việc sai chính tả nhé.
Hỏi — Sắc — Ngang
Ngã — Huyền — Nặng
chỉ nhắc cái cơ bản dễ nhớ để viết chính tả tương đối ổn và hạn chế lỗi ở mức thấp nhất .
1 . DÙNG TỪ LÁY THEO QUI ƯỚC :
– Dấu Hỏi đi với Sắc và Ngang .
– Dấu Ngã đi với Huyền và Nặng .
HỎI + SẮC :
– Gởi gắm , thổn thức , rải rác , khoảnh khắc , rẻ rúng , tử tế , cảnh cáo , sửng sốt , hảo hán , phản phúc , phản kháng , rửa ráy , quả quyết , khủng khiếp , khỏe khoắn , nhảm nhí , lở loét , lảnh lót , bảo bối , thưởng thức , thẳng thắn , thảng thốt , hiển hách , nhỏ nhắn , chải chuốt , rả rích , phảng phất , lả lướt , bổ báng , sản xuất .
– Mát mẻ , sắc sảo , mắng mỏ , vất vả , hối hả , hớn hở , xối xả , bóng bẩy , nóng nảy , sắp sửa , sắm sửa , hớt hải , lấp lửng , khúc khuỷu , tá lả , rác rưởi , trống trải , cứng cỏi , sáng sủa , sến sẩm , xấp xỉ , lém lỉnh , láu lỉnh , ngắn ngủi , chống chỏi , hốt hoảng , rắn rỏi , tức tưởi , chúi nhủi , nhắc nhở , nức nở , sấn sổ , ngất ngưởng , thắc thỏm , thấp thỏm , trắc trở , tráo trở , béo bở , ngái ngủ , gắt gỏng , kém cỏi , khấp khểnh , cáu kỉnh , kháu khỉnh , thất thểu , khốn khổ , tán tỉnh , ngúng nguẩy .
HỎI + NGANG :
– Nhỏ nhen , nhởn nhơ , ngẩn ngơ , vẩn vơ , lẳng lơ , lẻ loi , hỏi han , nở nang , nể nang , ngổn ngang , dở dang , giỏi giang , sửa sang , thở than , mỏng manh , chỉn chu , dửng dưng , trả treo , tả tơi , bỏ bê , mải mê , chở che , bảnh bao , hẩm hiu , phẳng phiu , khẳng khiu , rủi ro , mỉa mai , trẻ trung , nghỉ ngơi , ngủ nghê , tỉ tê , xỏ xiên , ngả nghiêng , đảo điên , hiển nhiên , lẻ loi , thảnh thơi , sản sinh .
– Dư dả , chăm chỉ , năn nỉ , thư thả , thon thả , thoang thoảng , trong trẻo , trăn trở , vui vẻ , thơ thẩn , thanh thản , mơn mởn , xăm xỉa , lêu lổng , hư hỏng , căng thẳng , dai dẳng , xây xẩm , san sẻ , xoay sở , hăm hở , xa xỉ , ngoe nguẩy , phe phẩy , đông đủ , tanh tưởi , chưng hửng , tiu nghỉu , sang sảng , nham nhở , chao đảo , gây gổ , sơ hở , cơ sở , tin tưởng , năng nổ , cưa cẩm , thăm thẳm , đưa đẩy , tưng tửng , say xỉn
NGÃ + HUYỀN :
– Bẽ bàng , vẫy vùng , nõn nà , vững vàng , đẫy đà , phũ phàng , bão bùng , sỗ sàng , vỗ về , rõ ràng , vẽ vời , sững sờ , ngỡ ngàng , hỗn hào , hãi hùng , sẵn sàng , kỹ càng , não nề , khẽ khàng , mỡ màng , lỡ làng .
Gần gũi , liều lĩnh , lầm lỗi , gìn giữ , buồn bã , tầm tã , suồng sã , rầu rĩ , thờ thẫn , hờ hững , sàm sỡ , xoàng xĩnh , phè phỡn , bừa bãi , thừa thãi , nghề ngỗng , lừng lẫy , ruồng rẫy , lờ lững , đằng đẵng , mò mẫm , lầm lũi , nhàn nhã, bằng hữu.
NGÃ + NẶNG :
– Lãng mạn , lũ lụt , hãm hại , nhẫn nhịn , lễ lộc , lỗi lạc , rũ rượi , lưỡng lự , chễm chệ , nhã nhặn , mẫu mực , chững chạc , dõng dạc , dữ dội , cãi cọ , nhão nhoẹt , kẽo kẹt , kĩu kịt , nhễ nhại , rõ rệt , lẫn lộn
– Gọn ghẽ , ngạo nghễ , vạm vỡ , lặng lẽ , lạnh lẽo , bạc bẽo , sặc sỡ , rực rỡ , rộn rã , vội vã , nghiệt ngã , hậu hĩ , hậu hĩnh , ngộ nghĩnh , gạt gẫm , hụt hẫng , dựa dẫm , nhẹ nhõm , bập bõm , chập chững , mạnh mẽ , chặt chẽ , sạch sẽ , ngặt nghẽo , khập khiễng , đục đẽo , ruộng rẫy , giặc giã , giặt giũ , giận dỗi , bụ bẫm , dạy dỗ , gặp gỡ , dụ dỗ , lạ lẫm , rộng rãi , tục tĩu , nhục nhã , dạn dĩ , rạng rỡ , rệu rã .
* TỪ KÉP LÀ TỪ THƯỜNG ĐI MỘT CẶP DẤU HỎI HOẶC NGÃ .
– Lã chã , bỗ bã , bẽn lẽn , bỡ ngỡ , mỹ mãn , dễ dãi , cũn cỡn , lững thững , ngẫm nghĩ , lỗ lã , lẽo đẽo , nhõng nhẽo , mũm mĩm , mẫu mã , vĩnh viễn , nhễu nhão .
– Thỏ thẻ , đỏng đảnh , lẻ tẻ , của cải , lẩm bẩm , lẩm cẩm , lảm nhảm , hể hả , kể lể , nhỏng nhảnh , lủng củng , thỉnh thoảng , lảo đảo , tỉ mỉ , thủ thỉ , lảng vảng , rủng rỉnh , loảng xoảng , hổn hển , lủng lẳng , lỏng lẻo , lải nhải , tủm tỉm , bủn rủn , xởi lởi , tẩn mẩn , lẩn quẩn , thỏn mỏn , chỏn lỏn , giả lả , bải hoải , bổi hổi , lẩn thẩn , lởm chởm , rỉ rả , thủng thẳng , bỏm bẻm , nhỏm nhẻm , xiểng niểng , lẩy bẩy
2 . TỪ NGUYÊN ÂM : DẤU HỎI
Ủa , ổi , ổng , ẩu , ủng , ỷ , ổn , ửng , ổ , ủy , ỏn ẻn , ong ỏng , im ỉm , âm ỉ , ấp ủ , ảo ảnh , ăn ở , êm ả , oi ả , yên ả , óng ả , ẩn ý , an ủi , ỉ ôi , ẩm ướt , ủ ê , uể oải , ít ỏi , ủn ỉn , oan uổng , ăng ẳng , ư ử , oẳn tù tì , ẻo lả , ủ rũ , yểu điệu , ỉu xìu , ảm đạm , uyển chuyển , quan ải , oản xôi , yểm trợ ( trừ : ễnh , ưỡn , ẵm , ỡm )
3 . TỪ HÁN VIỆT BẮT ĐẦU LÀ M , N , NH , L , V , D , NG THÌ DẤU NGÃ , CÁC CHỮ KHÁC DẤU HỎI .
Ghi nhớ 7 chữ này bằng câu “ Mình Nên Nhớ Là Viết Dấu Ngã “
– M : Mỹ nhân , Mẫu giáo , Mã đáo , Mãn nguyện , Mãng xà , Mãnh lực , Mẫn cán , Miễn nhiệm , Mão mũ
– N : Não bộ , Nữ nhi , Noãn hoa , Nỗ lực , Nã ( truy nã )
– NH : Nhẫn tâm , Nhãn tiền , Nhiễu loạn , Nhũ mẫu , Nhã nhạc , Nhã nhặn , Nhuyễn thể , Nhĩ ( mộc nhĩ ) , Nhưỡng ( thổ nhưỡng)
– L : Lão gia , Lễ nghi , Lĩnh hội , Lỗi lạc , Lữ khách , Lãng tử , Lưỡng tính , Lãnh địa , Luỹ thành , Lãm nguyệt , Lẫm liệt
– V : Vãn hồi , Viễn xứ , Vĩ đại , Võ sư , Vũ trang , Vĩnh hằng , Vững chãi
– D : Diễm phúc , Dũng khí , Dưỡng dục , Dĩ nhiên , Dõng dạc , Diễu hành , Dã ngoại , Dã tâm , Diễn thuyết
– NG : Nghĩa hiệp , Ngũ cốc , Ngữ hệ , Ngẫu nhiên , Nghiễm nhiên , Ngưỡng mộ , Ngã ( bản ngã )
4 . HỌ VÀ TRẠNG TỪ : DẤU NGÃ
– Họ Nguyễn , Võ , Vũ , Đỗ , Doãn , Lữ , Lã , Mã , Liễu , Nhữ
– Cũng , vẫn , sẽ , mãi , đã , những , hỡi , hễ , lẽ ra , mỗi , nữa , dẫu …
5 . DÙNG DẤU BẰNG CÁCH SUY LUẬN THEO NGHĨA .
Ví dụ :
NỔI – NỖI :
– Chỉ sự trổi lên hơn mức bình thường thì dấu hỏi ( nổi trội , nổi bật , nổi danh , nổi tiếng , nổi mụn , nổi gân , nổi điên , nổi giận , nổi xung , nổi hứng , nổi sóng , nổi bọt , nổi dậy , chợ nổi , nông nổi , làm nổi , trôi nổi , hết nói nổi , chịu hết nổi , gánh không nổi )
– Cái nào mang tính biểu cảm thì dấu ngã ( khổ nỗi , đến nỗi nào , làm gì nên nỗi , nỗi lòng , nỗi niềm , nỗi ước ao , nỗi nhục , nỗi oan , nỗi hận , nỗi nhớ )
NGHỈ – NGHĨ :
– Liên quan đến sự dừng lại một hoạt động thì dấu hỏi ( nghỉ ngơi , nghỉ học , nghỉ việc , nghỉ hè , nghỉ lễ , nghỉ mệt , nghỉ dưỡng , nghỉ chơi , nghỉ mát , nghỉ thở , nghiêm nghỉ , nhà nghỉ , an nghỉ )
– Thể hiện cảm xúc suy nghĩ thì dấu ngã ( nghĩ ngợi , suy nghĩ , ngẫm nghĩ , nghĩ cách , thầm nghĩ , nghĩ quẫn , nghĩ bậy , cạn nghĩ )
MẢNH – MÃNH :
– Cái nào gợi hình dáng thì dấu hỏi ( mảnh trăng , mảnh ruộng , mảnh vườn , mảnh đất , mảnh xương , mảnh sành , mảnh vỡ , mảnh khảnh , mảnh mai , mảnh khăn , mảnh áo , mảnh vá , mảnh tình , mỏng mảnh )
Thể hiện tính chất thì dấu ngã ( dũng mãnh , mãnh liệt , ranh mãnh , ma mãnh , mãnh hổ , mãnh thú , mãnh lực ..)
KỶ – KỸ :
– Gắn với bản thân con người thì dấu hỏi ( kỷ vật , kỷ niệm , kỷ luật , kỷ lục , kỷ yếu , ích kỷ , tự kỷ , vị kỷ , tri kỷ , thế kỷ , thập kỷ )
– Gắn với kỹ thuật , trình độ thao tác thì dấu ngã ( Kỹ nghệ , kỹ năng , kỹ xảo , kỹ thuật , kỹ sư , kỹ nữ , kỹ lưỡng , kỹ càng , kỹ tính , nghĩ kỹ , giấu kỹ , tuyệt kỹ )
CHÚ Ý :
Qui ước cơ bản chứ không tuyệt đối , vẫn có một số từ ngoại lệ không theo qui ước trên như :
HỎI + NẶNG : – Hủ tục, hủ bại.
chữ “nữa” viết dấu ngã trong đa số trường hợp, chỉ khi nói về số lượng chia hai như ” phân nửa”, “một nửa”, thì viết dấu hỏi.
Bài viết có thể hữu ích (有益) cho những ai thường phạm lỗi chính tả “hỏi ngã”. Tuy nhiên, phải nên nói rõ hơn là luật “trắc, bằng” thường đi kèm theo với dấu “hỏi” và “nặng huyền” thì thường đi kèm với dấu “ngã” thì chỉ nên áp dụng với chữ kép “thuần” Việt mà thôi. Còn nếu là những từ kép Hán Việt thì “quy luật” đó không có được hiệu nghiệm cho lắm. Tôi xin cho thí dụ:
Ví dụ như chữ “sản xuất” (產出) ở trên là tiếng Hán Việt và “tình cờ” nó đi theo cái luật “bằng, trắc”. Tuy nhiên, nếu là “cộng sản” (共產) hay “tài sản” (財產) thì nó lại không có hợp với luật “huyền nặng”!
Lý do là vì chữ Hán Việt không hề thay đổi từ “hỏi” sang “ngã” hay ngược lại, khi cái chữ đó đi kẹp với những chữ có những dấu khác nhau.
Một khi chữ “sản” đã được viết với dấu “hỏi” rồi thì cho dù nó có đi kẹp với dấu gì đi nữa thì nó vẫn phải viết với dấu hỏi mà thôi.
Giống như chữ “phản ứng” (反應) thì là đúng với quy luật, dấu “hỏi” đi kèm với dấu “sắc”, nhưng “phản hồi” (反囘) thì không theo quy luật vì viết với dấu hỏi, nhưng lại đi kèm theo với dấu “huyền” !
Copy của một người bạn comment bên dưới nha mọi người.

Reply
#2
Bài viết rất hữu ích. Cảm ơn ông Ech đã share chung cho mọi người cùng học hỏi.  Ok-sign-smiley-emoticon Thanks-sign-smiley-emoticon Cheer
Mới đọc được một chút thôi, lát rảnh tui sẽ vô đọc thêm.
Bởi chúnɡ tɑ khônɡ thể thɑy đổi được thế ɡiới xunɡ quɑnh,
nên chúnɡ tɑ đành phải sửɑ đổi chính mình,
đối diện với tất cả bằnɡ lònɡ từ bi và tâm trí huệ.
                                                                                                            
Reply
#3
Nhìn qua mấy cái công thức, bí quyết viết đúng chính tả, tôi thấy muốn hoa mắt, xây xẩm. 
Tôi nghĩ có lẽ người Việt chúng ta nên thử suy nghĩ tìm cách cải tiến tiếng Việt làm sao để đơn giản hóa vấn đề phân biệt hỏi ngã để dễ nhớ, viết đúng hơn. Cụ thể là thử bỏ hỏi mà chỉ dùng ngã hoặc ngược lại, lúc đó sẽ khg còn vấn đề suy nghĩ là dùng hỏi hay ngã. Có người sẽ nêu ý kiến là dùng hỏi ngã để phân biệt ý nghĩa, chứ dùng chung hỏi (hoặc ngã) thì dễ hiểu lầm ý nghĩa. Thí dụ:

- Nghĩ (ngã) là suy nghĩ.
- Nghỉ (hỏi) là nghỉ ngơi.

Theo tôi thì giả sử bây giờ mình chì dùng ngã / hỏi thì vẫn có thể hiểu ý nghĩa từng chữ nhờ vào văn mạch hoặc thêm chữ phụ kèm theo trước / sau.

 - Tôi nghỉ rằng .... Tôi đang suy nghỉ. Có chữ "suy", "rằng" ở trước, sau thì rõ ràng khg phải nghỉ ngơi.
- Tôi đang nghỉ ngơi. Có chữ "ngơi" thì rõ ràng khg phải suy nghĩ.

Ngược lại, dùng toàn dấu ngã:

- Tôi đưa gia đình đi Hawaii nghĩ mát, nghĩ hè. Đọc câu này khg ai hiểu lầm là suy nghĩ.
- Chị nghĩ như vậy rất là hợp tình hợp lý. Chữ "nghĩ" ở câu này thì ai cũng hiểu là "suy nghĩ".
Reply
#4
cách TNNA chưa đủ dễ

cách Vân dể hơn

muốn dùng dấu nào cũng được , miễn sao người ta hiểu mình nói gì là được rồi 

hihihi


khi đọc ai viết cái gì , Vân muốn coi ý người đó muốn nói gì

Vân không suy nghĩ ... à người đó nói "nghĩ" tức là người đó ý này .. người đó nói "nghỉ" tức là người đó ý kia
Reply
#5
Trên lý thuyết thì đúng khi nói rằng viết sao cũng được, miễn sao người đọc hiểu là được rồi. Tuy nhiên chúng ta nói như vậy là do chúng ta đã khá thành thạo "tiếng nói" theo giọng Bắc và giọng Nam rồi. Nhưng ví dụ như người vùng khác trên nước Việt Nam, những người  dân tộc thiểu số phát âm ít thanh âm, hơi ngang ngang, hoặc những người sinh sống vùng phát âm giọng lay láy như người miền Trung .v.v.v  thì chữ viết trở thành vấn đề lớn. Nếu họ cũng viết như họ nói, chúng ta sẽ chẳng hiểu gì cả.

Chính (chánh) tả là cái chuẩn định để tất cả mọi người nương theo mà trao đổi với nhau. Thấy vấn đề không quan trọng, nhưng thật sự quan trọng đó chứ. Ngoài ra văn nói và văn viết khác nhau. Khi nói chuyện trực tiếp, qua biểu cảm (biểu lộ cảm xúc) chúng ta dễ dàng khiến người đối diện cảm thông, nhận biết được mình muốn diễn đạt điều gì. Nhưng trên giấy bút, qua mặt chữ, không có sự hiện diện của người viết, chúng ta sẽ gặp khó khăn nếu ngôn ngữ không thống nhất. 



[Image: K6bu1Jw.png]
Reply
#6
(2021-12-04, 09:41 PM)005 Wrote: Trên lý thuyết thì đúng khi nói rằng viết sao cũng được, miễn sao người đọc hiểu là được rồi. Tuy nhiên chúng ta nói như vậy là do chúng ta đã khá thành thạo "tiếng nói" theo giọng Bắc và giọng Nam rồi. Nhưng ví dụ như người vùng khác trên nước Việt Nam, những người  dân tộc thiểu số phát âm ít thanh âm, hơi ngang ngang, hoặc những người sinh sống vùng phát âm giọng lay láy như người miền Trung .v.v.v  thì chữ viết trở thành vấn đề lớn. Nếu họ cũng viết như họ nói, chúng ta sẽ chẳng hiểu gì cả.

Chính (chánh) tả là cái chuẩn định để tất cả mọi người nương theo mà trao đổi với nhau. Thấy vấn đề không quan trọng, nhưng thật sự quan trọng đó chứ. Ngoài ra văn nói và văn viết khác nhau. Khi nói chuyện trực tiếp, qua biểu cảm (biểu lộ cảm xúc) chúng ta dễ dàng khiến người đối diện cảm thông, nhận biết được mình muốn diễn đạt điều gì. Nhưng trên giấy bút, qua mặt chữ, không có sự hiện diện của người viết, chúng ta sẽ gặp khó khăn nếu ngôn ngữ không thống nhất. 

Phải 5 hông cưng? Sao lại viết mà hổng xuống dòng nửa chừng hả? Nói thiệt đi, bà xã log in phải hông? Becuoi

Reply
#7
Bà xã còn ngủ chưa dậy mà "giết" gì.  Becuoi
[Image: K6bu1Jw.png]
Reply
#8
(2021-12-04, 10:07 PM)NhuCanhVitBay Wrote: Vì nhưng nhà văn, nhà thơ, họ viết nhiều bài mà cả hàng triệu người hiểu đó mà !

 Nhà văn và thơ đâu có viết sai chánh tả.  Grinning-face-with-smiling-eyes4
[Image: K6bu1Jw.png]
Reply
#9
Không có ai trách cứ người viết sai chính tả cả. Bài viết của thầy Ếch đem vô trên căn bản, nội dung là sự cảnh tỉnh mọi người, nên giữ gìn ngôn ngữ để không bị mai một. Người lớn tuổi, vô thưởng vô phạt, vô diễn đàn hay viết trao đổi vui với nhau vài câu thì không có gì quan trọng. Lớp trẻ thường xuyên dùng sai chữ viết thành thói quen không còn biết như thế nào là đúng và sai nữa.
[Image: K6bu1Jw.png]
Reply