ĐỘC GIÁC PHẬT TRUYỆN
#16
CỦA ĐỜI XIN TRẢ CHO ĐỜI

49. Evaṃ dutiyena sahā mamassa

vācābhilāpo abhisajjanā vā,
etaṃ bhayaṃ āyatiṃ pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.
49. Như vậy nếu ta cùng
Với một người thứ hai,
Tranh luận cãi vã nhau,
Sân hận, gây hấn nhau,
Nhìn thấy trong tương lai,
Sợ hãi hiểm nguy này,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)

“Tương giao chỉ tạo ra những ngăn ngại, cản trở, làm vướng chân người đời. Thấy được nguy hiểm này, hãy ra đi một mình như loài tê ngưu.”


DUYÊN SỰ:
Tại kinh thành Bārāṇasī ngày đó có một nhà vua trẻ sớm yếm ly chuyện đời và muốn bỏ ngôi vào rừng tu hành. Khi vua đem việc này bàn với triều thần thì ai cũng lên tiếng cản ngăn và họ xin chờ đợi cho đến khi nào có được một hoàng tử.

Đứng trước vận mệnh tồn vong của cả quốc gia, nhà vua sau một thời gian đắn đo đã miễn cưỡng làm theo lời các triều thần có nghĩa là cố nán lại chờ hoàng hậu có con. Và vua đã không phải chờ đợi lâu lắm, ngay trong năm đó, hoàng hậu đã có mang. Thấy vấn đề có vẻ tạm ổn, vua họp triều thần lại để bàn giao việc nước. Một lần nữa, các quan lại tâu với vua:

-Xin đại vương chớ vội ra đi lúc này bởi vì dù sao hoàng hậu cũng chỉ mới có thai, làm thế nào để biết được nàng sẽ sanh trai
44
hay gái. Nếu ngộ hoàng hậu sinh gái thì tương lai đất nước này sẽ ra sao, tâu đại vương, dám xin ngài nghĩ lại.

Lúc nào cũng thấy triều thần có lý, nhà vua trở lại chiều họ bận nữa. Thời gian trôi qua, hoàng hậu của vua lâm bồn và hạ sanh một hoàng tử. Thấy vợ sanh con trai, nhà vua sửa soạn lên đàng. Lúc đó nhóm triều đình lại dập đầu khẩn khoản xin vua chờ thêm một thời gian nữa, ít gì cũng tới lúc hoàng tử được vài ba tuổi khôn. Đã trót chờ đợi quá lâu, nhà vua trẻ hình như cũng có được một chút kiên nhẫn, ông chiều lòng mọi người lần chót.

Thế rồi chẳng mấy năm sau đó, hoàng tử lúc này đã biết ăn uống, chạy nhảy. Lần này nhà vua nhất định dứt khoát tất cả, xong cho người tìm y bát đầy đủ rồi xuất gia ngay tại hoàng cung. Sau đó, cũng như vua Mahājanaka (tiền thân Đức Phật Thích Ca), nhà vua trẻ cương quyết rời lâu đài ra đi.

Từ lâu, cứ ngỡ là đã làm tiêu mòn ý hướng yếm ly của nhà vua, nay trước thái độ cương quyết của ông, cả hoàng hậu cùng toàn thể triều thần hết sức thất vọng. Mọi người kéo nhau đi theo phía sau nhà vua kêu khóc nài nỉ. Nhưng với một người sắt đá như nhà vua thì cạm bẫy cuộc đời chỉ được một vài lần hiệu quả. Ông đã hiểu sâu sắc những bẫy rập đang chờ sẵn bước chân giải thoát của mình. Ông cứ lạnh lùng bước đi như con voi chúa lên rừng.

Đoàn người phía sau vẫn không nản chí. Vua đi tới đâu thì họ cũng tới đó. Hình ảnh một vị xuất gia điềm nhiên tiến bước bỏ lại sau lưng những vấp trượt, nức nở, thổn thức trông bi hùng làm sao. Và rồi tất cả đã đi tới biên giới vương quốc Bārāṇasī.

Đột ngột dừng bước, nhà vua trẻ quay lại nhìn đám đông sau lưng mình rồi cầm chiếc gậy đi rừng vạch xuống đất một đường dài và nghiêm mặt:
-Bất cứ ai cũng không được vượt qua đường vạch này. Đây là vương lệnh!
45
Sau câu nói đanh thép của vua, mọi người cùng bật khóc nức nở. Tất cả quỳ phủ phục trên đất và dùng đầu tóc chà mạnh để làm xóa mất đường vạch thiêng lêng kia. Nhưng mà vua vẫn một mực lạnh lùng, ông lại xoay người bước đi. Không biết phải làm gì hơn, hoàng hậu cùng triều thần đẩy hoàng tử vượt qua đường vạch. Theo họ đây là phương án cuối cùng mà cũng là quyết liệt nhất để réo gọi nhà vua quay về.

Đang bước đi, nhà vua chợt chùn chân, hình như có tiếng trẻ thơ sau lưng ông. Nhìn thấy hoàng tử, nhà vua cau mày. Người ta quấy rầy ông đến vậy là cùng. Nhưng rồi một tư tưởng độc đáo chợt đến với nhà vua, vừa nhìn hoàng tử ông vừa suy nghĩ:

-Ngày trước làm vua mình có thể cai trị cả vương quốc huống chi là bây giờ chỉ có một thằng bé này, hay là mình cứ đem nó theo lên rừng, có thể sau này nó lại noi chí tu hành của mình cũng nên.

Thế rồi nhà vua dẫn luôn hoàng tử vào rừng. Tại đây ông phải mất nhiều thời gian cho hoàng tử. Dỗ săn, dỗ ngủ cho hoàng tử là cả một việc hết sức khó khăn, nhất là xưa nay nhà vua chưa hề biết tới việc này. Đã quen với giường rộng nệm êm cùng các thức ăn cao lương mỹ vị, hoàng tử không sao làm quen được với chỗ ngủ bằng cỏ khô cùng với những bữa ăn đạm bạc chỉ toàn rau cỏ, trái cây hoặc cơm hẩm cháo nguội. Vua đi hái trái rồi vào làng khất thực đem về nuôi con nhưng thật đáng buồn khi hoàng tử trước sau vẫn là một người khách khó tính của ông.

Kiên nhẫn, chịu đựng rồi tha thứ, bằng đủ cách vua vẫn không thể làm hoàng tử chấp nhận nếp sống rừng núi. Sau cùng như đã một lần từ bỏ vương quốc, nhà vua quyết định mang trả hoàng tử lại cho thế giới của cậu. Lần mò theo con đường cũ, nhà vua dắt hoàng tử trở lại nơi mà cách đây không bao lâu ông đã khước từ tất cả.
46
Sự việc thật suôn sẻ khi nhà vua nhìn thấy hoàng hậu cùng một số hầu cận vẫn còn ở đó. Điều này không có gì khó hiểu. Vốn biết tính nhà vua và hơn ai hết, hoàng hậu cũng rất hiểu hoàng tử. Nàng tin chắc rằng chỉ trong vài hôm, nhà vua sẽ quay lại đây, hoặc để trở về kinh thành, hoặc để giao trả hoàng tử. .Hoàng hậu thừa biết một người phóng khoáng như vua sẽ không bao giờ có thể chịu đựng nổi một khối phiền phức như hoàng tử và nàng đã không lầm.

Vừa trông thấy bóng vua thấp thoáng sau lùm cây trước mặt, các triều thần vội đến tiếp rước nhưng vua đã không còn ở đó nữa, ông đến đây để bàn giao hệ lụy chớ không phải trở lại với hệ lụy. Vua đã lập tức quay về thảo am khi thấy hoàng tử nằm gọn trong vòng tay của hoàng hậu. Tới đây thì vua đã tròn bổn phận. Ông về lại rừng sâu như vừa thành công lần thứ hai cuộc chối bỏ nợ đời.

Trong khi hoàng tử được tôn vương ở kinh thành Bārāṇasī thì ở rừng sâu nhà vua cũng làm một cuộc đăng quang cho chính mình – lễ đăng quang của nội tâm, bởi vua vừa chứng quả Độc Giác. Được biết rằng câu kệ trên đây là lời cảm hứng của Ngài lúc mới vừa giác ngộ.

Việt dịch: TK GIÁC NGUYÊN
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#17
TẤT CẢ CHO MỘT LẦN CHIẾN THẮNG

50. Kāmā hi citrā madhurā manoramā
virūparūpena mathenti cittaṃ,
ādīnavaṃ kāmaguṇesu disvā
eko care khaggavisāṇakappo.

50. Các dục thật mỹ miều,
Ngọt thơm và đẹp ý,
Dưới hình sắc, phi sắc,
Làm mê loạn tâm tư,
Thấy sự nguy hiểm này,
Trong các dục trưởng dưỡng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

(HT Thích Minh Châu dịch)


“Các dục luôn có những ngọt ngào ma ảo để chinh phục nội tâm chúng sanh. Ai thấy được mối nguy hại của các dục cần phải lên đường độc hành như loài tê ngưu.”

DUYÊN SỰ:
Ngày xưa ở Bārāṇasī có một công tử triệu phú tuy chỉ là con nhà dân dã nhưng có nếp sống phong lưu nhung lụa như một ông hoàng.

Công tử được cha mẹ cưng chiều rất mực. Chàng có đến ba tòa lâu đài tráng lệ để sống thích hợp theo mùa. Ở đó, không thiếu một thứ gì và mọi ý muốn của công tử đều được tôn trọng. Công tử hãy còn trẻ tuổi, chàng chưa có gia đình chỉ vì không muốn. Chàng thích có một tuổi trẻ thật phóng khoáng, tự do, thật riêng tư độc lập.

Nhưng tuổi trẻ của công tử thật khác thường khi chàng thấy ba tòa lâu đài cùng tất cả tình thương gia đình chỉ là những gì khó chịu. Thứ chàng thích không phải chỉ vậy, phải có gì khác hơn kìa, như là đời sống của một tu sĩ chẳng hạn. Công tử thấy nếp sống đó thích hợp với mình bởi trong đó, chàng là chàng. Thế rồi công tử tìm gặp cha mẹ và nằng nặc xin được xuất gia.

Là một gia đình vọng tộc lại chỉ có một đứa con trai duy nhất, ông bà triệu phú không thể nào đồng ý một chuyện khó chấp nhận như vậy bởi công tử rõ ràng là cả tương lai của gia tộc. Việc ra đi tu hành của chàng sẽ khiến toàn bộ gia sản của nhà trở thành một khối vàng vô thừa nhận, gia đình sẽ không còn ai thừa kế và như vậy thì ông bà triệu phú còn gì để không bị mang tiếng là tuyệt tự. Với những âu lo đó, lần đầu tiên ông bà triệu phú lắc đầu trước một ý muốn của công tử, hòn ngọc quý của ông bà.

Không được toại nguyện, công tử về phòng riêng nằm trăn trở, thao thức mấy hôm liền.

Thấy con đau khổ, ông bà triệu phú chột dạ. Loài thú còn hiểu được con huống chi loài người. Ông bà triệu phú rất hiểu công tử. Mỗi lúc họ càng thấy rằng mái ấm gia đình này chỉ là một quán trọ cho công tử, còn chàng thì cứ giống như một người khách trọ, hơn thế nữa, như một cánh chim mà chiều nào được mưa gió đưa đến nghỉ ngơi ở đây. Bây giờ đã đến lúc phải trả lại nó về với trời cao biển rộng, cố tìm giam cầm nó là một điều bất nhẫn. Giữ nó lại làm gì khi nơi đây không là chiếc tổ của nó và nhất là nó lại rất muốn ra đi. Sự việc đơn giản quá, cái gật đầu bây giờ chỉ giống như việc mở lồng cho một cánh chim bay đi.

Sau nhiều lần do dự cân nhắc, ông bà triệu phú cho cậu công tử hay là họ đã đồng ý cho chàng đi xuất gia.
Từ giã gia đình, cậu công tử đến ngay Isipatana, một khu rừng đang có nhiều Đức Phật Độc Giác cư ngụ. Tại đây chàng được xuất gia và khép mình vào một kỷ cương mới.

Là một thành viên trong đoàn thể xuất gia, cậu công tử phải tuân thủ tất cả những phép sống mà theo chàng có phần khó chịu. Trên thì phải kính nhường, dưới thì phải khiêm tốn, nhã nhặn. Trong những buổi khất thực rồi những buổi sinh hoạt, lúc nào công tử cũng thấy mình phải bị đè nặng bởi những ý thức bắt buộc. Cái đó làm phiền chàng không ít. Bởi từ bé đến giờ, chàng chỉ biết để người khác chiều chuộng chứ có bao giờ phải cúi mình chiều chuộng ai đâu. Tự nhiên thấy mình bị mất mát quá nhiều thứ quá, công tử đâm ra buồn chán với đời sống xuất gia và cánh chim trời đột nhiên nhớ về chiếc lồng son mà ngày nào nó đã gửi mình. Công tử xin các Đức Phật Độc Giác cho mình hoàn tục.

Ba tòa lâu đài kia vẫn mở cửa để đón nhận cậu công tử. Chàng trở về như một kẻ bại trận, chàng không thể hiểu nổi chính mình và đành gục đầu trước sự mâu thuẫn của bản thân.

Nhưng rồi ý hướng xuất ly lại một lần nữa sống dậy trong lòng công tử. Chàng thấy nhớ Isipatana, nhớ chư Phật Độc Giác, chàng không sao quên được cái tế nhị của kiếp sống không nhà. Cái đó réo gọi chàng rời khỏi lâu đài lần nữa và công tử lại đi tu thật, chàng bỏ nhà đi xuất gia lần thứ hai.

Do túc duyên giải thoát chưa tới lúc chín muồi, công tử vẫn chưa tìm thấy được hương vị đặc thù của Phạm hạnh và chính vì vậy những hồi ức và dục lạc vẫn tiếp tục ám ảnh chàng để rồi chàng lại hoàn tục. Thế rồi sau một cuộc chiến đấu mãnh liệt trong nội tâm, công tử cương quyết đánh gục bản năng thế tục và lần xuất gia này đã đưa công tử ra khỏi dòng đời nhập nhằng vướng vít. Chàng đã chứng quả Độc Giác Phật ngay sau đó không bao lâu và câu kệ trên đây trở thành lời cảm hứng của Ngài.

Việt Dịch: Tỳ Kheo Giác Nguyên
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#18
KHOÁI LẠC NGUY HIỂM

51. Ītī ca gaṇḍo ca upaddavo ca
rogo ca sallañca bhayañca metaṃ,
etaṃ bhayaṃ kāmaguṇesu disvā
eko care khaggavisāṇakappo.

Ðây là một mụn nhọt,
Và cũng là tai họa,
Một tật bệnh, mũi tên,
Là sợ hãi cho ta,
Thấy sự nguy hiểm này,
Trong các dục trưởng dưỡng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)


“Hãy thấy các dục là nguy hiểm như một mụt ung nhọt, như một tai họa, như một cơn bệnh, như một mũi tên để rồi lên đường độc hành như một con tê ngưu”


DUYÊN SỰ

Thuở xưa, ở Bārāṇasī có một nhà vua bị mắc bệnh nan y. Theo lời khuyên của quan ngự y vua phải kiêng cử các món cá thịt. Nhờ ăn uống cẩn thận nên chẳng bao lâu sau đó, căn bệnh của vua ngày một thuyên giảm. Thấy mình đã khỏe ra, vua không kiêng cử nữa, ông ăn trở lại các thức ăn phải kiêng. Chỉ trong vài hôm, chứng bệnh của vua tái phát trầm trọng hơn trước.

Vua lại kiêng cử, bệnh thuyên giảm. Vua ăn uống bừa bãi, bệnh tái phát. Tình trạng này lặp lại ba lần.

Tự nhiên thấy chán ngán thứ hạnh phúc nguy hiểm của trần thế, vua bỏ ngôi vào rừng tu hành. Bảy năm sau, ông chứng quả Độc Giác và bài kệ trên 

đây là lời cảm hứng của Ngài khi vừa giác ngộ.

Việt Dịch - Thượng Tọa Giác Nguyên
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#19
DẤN BƯỚC VÀO TRỞ LỰC


52. Sītañca uṇhañca khudaṃ pipāsaṃ
vātātape ḍaṃsasiriṃsape ca,
sabbāni petāni abhisambhavitvā
eko care khaggavisāṇakappo.

52. Lạnh lẽo và nóng bức,
Ðói bụng và khát nước,
Gió thổi, ánh mặt trời.
Muỗi lằn và rắn rết.
Tất cả xúc chạm này,
Ðều chịu đựng vượt qua,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)

“Bậc đại hùng đừng bận tâm những trở lực tầm thường như nóng lạnh, đói khát, gió nắng cùng độc trùng ác thú, sau khi khắc chế chúng hãy lên đường độc hành như loài tê ngưu.”

DUYÊN SỰ:
Vua Sītālukabrahmadatta của xứ Bārāṇasī đã vào rừng tu mấy năm rồi nhưng vẫn chưa tìm được chút gì hương vị giải thoát. Thảo am của vua nằm trong một góc rừng hiểm trở. Thật nhiều gai góc, thú dữ, thiếu nước dùng và đi khất thực cũng bất tiện.

Bảy năm trời trôi qua, vua thấy mình vẫn thế, vẫn chưa đạt tới cái gì đó có thể gọi là mục đích cuộc tu trong khi bao nhiêu trở lực chung quanh mỗi lúc như càng chống lại ông.

Cái thất vọng, buồn chán, cứ vây bủa vua Sītāluka trong từng đêm dài lạnh lẽo muỗi mòng, những trưa nắng như đổ lửa, những ngày đói khát triền miên. Như một phản ứng cần thiết, vua nhớ tới một ngôi làng ở ven rừng, cách đó nửa do-tuần, nơi vua đã một lần đi qua. Ngôi làng dễ chịu làm sao: có cây cao bóng mát, có thuyền đò đi lại dễ dàng và dân làng hiền hậu tốt bụng.

Phải ra đó sống thôi, ở đó mình sẽ có một cuộc sống thuận lợi cho việc tu hành. Nhà vua đắn đo, do dự trước ý nghĩ đó mãi. Nhưng rồi qua mấy hôm cân nhắc, vua đột nhiên có một suy nghĩ:

-Bậc xuất gia không thể đi tầm cầu điều kiện vật chất chỉ vì thiếu khả năng chịu đựng những thiếu thốn vật chất. Ta sẽ không đi đâu hết, ta phải ở lại đây. Mấy năm qua ta đã chẳng chấp nhận nơi này là gì.

Nhưng nghị lực không bao giờ có được dễ dàng như vậy. Sau ba lần đổi ý cam go, vua dứt khoát với quyết định nằm lại trong rừng và sau bảy năm trời vật lộn với nội tâm, ông đã chứng đạt đạo quả, trở thành vị Phật Độc Giác. Trong giây phút chứng ngộ vừa xong, Ngài đã ngâm lên lời cảm hứng trên.

Việt Dịch: Tỳ Kheo Giác Nguyên
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#20
HÀNH TRÌNH VÀO BỂ DÂU

53. Nāgo va yūthāni vivajjayitvā
sañjātakhandho padumī uḷāro,
yathābhirantaṃ vihare araññe
eko care khaggavisāṇakappo.

53. Như con voi to lớn,
Từ bỏ cả bầy đàn,
Thân thể được sanh ra,
To lớn tợ hoa sen,
Tùy theo sự thích thú,
Sống tại chỗ rừng núi,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)


“Như con voi rừng sẵn sàng bỏ lại bầy đàn để được tự tại trong rừng sâu, không tiếc gì một cội cây có nhiều hoa trái của quá khứ, cũng vậy, bậc hiền trí nên ra đi độc hành như loài tê ngưu.

DUYÊN SỰ:
Xưa, ở Bārāṇasī có một nhà vua sau hai mươi năm làm hoàng đế đã bị sanh xuống địa ngục cũng trong chừng đó thời gian.

Hết hai mươi năm chịu khổ dưới địa ngục, vua lại sanh lên làm con voi chúa đàn của một bầy voi trong Tuyết Sơn với một thân hình to lớn kỳ vĩ. Cuộc sống chung đụng với bầy đàn đã làm con voi chúa khó chịu. Sau ba lần trốn đi thất bại, voi chúa hồi tưởng lại tiền thân của mình và suy nghĩ:

-Cháu ta đang làm vua ở Bārāṇasī, biết ta là chỗ máu mủ, có lẽ nó sẽ nuôi dưỡng ta thôi. Về Bārāṇasī ta sẽ sống trong ngự uyển.
Thế rồi vào một đêm khuya, nhân lúc bầy đàn đang ngủ say, voi chúa lẻn ra khỏi rừng và tìm về Bārāṇasī, vào thẳng vườn ngự uyển của đức vua đương triều mà cũng là vườn ngự uyển của nó ngày xưa.

Thình lình trông thấy một con voi khổng lồ lừng lững bước vào ngự uyển như một trái núi, người giữ vườn kinh hoảng, ông vội vào báo cho vua hay. Vua lập tức huy động binh lính đến bao vây ngự viên để bắt voi. Lúc này con voi chúa vẫn bình tĩnh như thường, nó đĩnh đạc bước về phía nhà vua với dáng điệu hiền lành thân quen. Nhưng không thể tin tưởng vẻ ngoài của một mãnh thú xa lạ như nó, vua Bārāṇasī giương cung nhắm ngay yếu huyệt của voi chúa.

Thấy vua không hiểu được thái độ cầu hòa của mình, voi chúa nói bằng tiếng người:
-Đừng bắn ta Brahmadatta! Ta là ông của ngươi đây mà…

Vua Bārāṇasī nhìn voi với ánh mắt sửng sốt, ông buông cung xuống và cố lấy bình tĩnh, ông hỏi chuyện nó. Con voi chúa thong thả kể lại câu chuyện tiền thân của mình, kể từ lúc còn làm vua ở Bārāṇasī rồi kiếp ở địa ngục và cả những ngày làm voi đầu đàn trong rừng sâu.

Vua Bārāṇasī nghe chuyện mà cứ ngỡ mình đang nằm mơ. Đúng vậy, chỉ trong giây lát mà ông đã có một hành trình đi vào cuộc sinh tử đầy rùng rợn. Ba kiếp tiền thân với đầy những nhiêu khê đọa đày. Càng ngẫm nghĩ vua càng thấy tội nghiệp cho voi chúa mà cũng thấy thương cho mình. Sau khi dặn người chăm sóc voi chúa chu đáo, vua dành nhiều thời gian để trầm tư một mình.

Chuyện đời con voi chúa cứ ám ảnh nhà vua như một cái gì tiền khiên. Hôm đó, trong lúc đang cưỡi voi đi tuần hành kinh đô, vua nhìn xuống mình voi và chợt cảm thấy buồn:

-Con voi này gian truân, trôi nổi làm sao. Hai mươi năm làm vua rồi hai mươi năm dưới địa ngục, bây giờ lại vẫn mang thân súc sanh hèn kém. Nhưng nó đã có được một thức ngộ nào từ những nhọc nhằn đó để phải khước từ bầy đàn về đây sống một mình. Mà có lẽ nó đúng đấy, cuộc sống chung đụng chỉ thêm phiền phức thôi.

Rồi ngay trên lưng voi, vua Bārāṇasī tự phát triển tuệ Quán, và chứng thành Độc Giác Phật. Bài kệ trên đây là lời cảm hứng của Ngài lúc vừa chứng ngộ.


Việt Dịch: Tỳ Kheo Giác Nguyên
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#21
HAI THOÁT LY CHO MỘT GIẢI THOÁT

54. Aṭṭhānataṃ saṅgaṇikāratassa
yaṃ phassaye sāmayikaṃ vimuttiṃ,
ādiccabandhussa vaco nisamma
eko care khaggavisāṇakappo.

54. Ai ưa thích hội chúng,
Sự kiện không xảy ra,
Người ấy có thể chứng,
Cảm thọ thời giải thoát.
Cân nhắc lời giảng dạy,
Ðấng bà con mặt trời,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)

“Biết nghe lời khuyên của người bà con với mặt trời, ta ra đi độc hành như loài tê ngưu.”

DUYÊN SỰ:
Thuở quá khứ, tại kinh thành Bārāṇasī có một vị hoàng tử sớm yếm ly thế tục bỏ hoàng cung vào ngự uyển để xuất gia.

Vua Bārāṇasī cùng triều thần thường đến thăm hoàng tử, thậm chí có những lần vua còn dẫn theo cả tam cung lục viện vào ngự uyển vui chơi suốt ngày ngay trước mắt hoàng tử.

Cứ mãi bị ảnh hưởng bởi những hình ảnh khoái lạc, tâm tư hoàng tử thường xuyên dao động và không tu tập thiền định gì được cả.

Lúc đó trên Gandhamādāna có một đức Phật Độc Giác đã nhìn thấy hoàng tử Bārāṇasī bằng thiên nhãn. Biết hoàng tử sẽ khó vượt qua các cám dỗ thế tục nếu không được sách tấn mạnh mẽ, Đức Phật Độc Giác liền dùng thần lực bay xuống ngự uyển Bārāṇasī.

Hay tin có Đức Phật Độc Giác xuống thành, vua Bārāṇasī vội đên tiếp kiến và thỉnh Ngài ở lại ngự uyển để hoàng tử có nơi nương nhờ. Vì mục đích của chuyến hạ sơn, Đức Phật Độc Giác nhận lời mời của vua.

Sau vài hôm sống gần hoàng tử, nhân một lúc thuận tiện, Đức Phật Độc Giác hỏi chàng:
-Như người vậy thì gọi là gì nhỉ?

-Thưa, từ lâu tôi vẫn được gọi là bậc xuất gia, nhưng tại sao Ngài lại hỏi thế?
-Hiền hữu à, thường thì các bậc xuất gia không có ai giống như ngươi đâu.

-Thế nghĩa là sao thưa Ngài?

-Người tu hành thì phải ở chỗ vắng vẻ, cách ly cư sĩ chứ ai đâu lại tiếp xúc bừa bãi như ngươi. Theo ta biết, ở đây ngươi thường gặp đủ hạng từ vua quan quân tướng cho đến các vương phi cung tần và còn có cả một toán người bảo vệ ngày đêm nữa. Các bậc xuất gia có ai như thế đâu!

Nói rồi Đức Phật Độc Giác thị hiện thần lực hiển hóa toàn cảnh Tuyết Sơn cho hoàng tử tận mắt chứng kiến nếp sống của chư Phật Độc Giác. Này là một vị đang kinh hành bên triền núi, nọ là vị đang thiền định bên thác nước. Cả một thế giới sống động nhưng cũng vô cùng lặng lẽ. Ở đây mọi cái đều yên lặng, chỉ có tiếng gió rừng hay tiếng nước chảy…

Khung cảnh thâm u của đại ngàn như cuốn hút hoàng tủ, tâm hồn chàng vừa bị xúc động mạnh và ý hướng thoát ly chợt vùng dậy mãnh liệt trong lòng hoàng tử. Chàng mãi đắm mình trong suy tưởng quên đi Đức Phật Độc Giác đã bay về núi tự lúc nào.

Tối hôm đó, hoàng tử vào thất đóng cửa nghỉ sớm hơn mọi khi, không ra ngoài kinh hành hay thiền định như thường lệ. Thấy thế, toán lính có nhiệm vụ canh gác cho hoàng tử cũng kéo nhau đi ngủ hết.

Đến nửa đêm, thấy ngự uyển đã hoàn toàn im lặng, hoàng tử trở dậy xếp y bát rồi âm thầm tìm lên Tuyết Sơn. Tại đây chàng đã được chư vị Độc Giác Phật chấp nhận như một đồng Phạm hạnh để rồi sau đó không bao lâu hoàng tử cũng đã chứng quả Độc Giác Phật và câu kệ trên đây chính là lời tuyên bố chánh trí của Ngài.

Việt Dịch: TK Giác Nguyên
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#22
TÌNH ĐỜI SAO TỆ

56. Nillolupo nikkuho nippipāso
nimmakkho niddhantakasāvamoho,
nirāsayo sabbaloke bhavitvā
eko care khaggavisāṇakappo.

56. Không tham, không lừa đảo,
Không khát dục, gièm pha,
Mọi si mê ác trược,
Ðược gạn sạch quạt sạch.
Trong tất cả thế giới,
Không tham ái ước vọng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)


“Không tham lam, không gian dối, không thèm khát, không gièm pha, đào thải si mê và không ước vọng sanh thú, bậc hiền trí nên ra đi một mình như loài tê ngưu”

DUYÊN SỰ:
Vua Bārāṇasī có một người đầu bếp rất giỏi nấu nướng nhưng rất tầm thường về tánh tình.

Lúc mới được tuyển vào nấu ăn cho vua, người đầu bếp cố gắng làm vua vừa lòng để được ban ân sủng nhưng ông ta đã thất vọng, vua chẳng những không ban thưởng mà cũng chẳng khen lấy một câu.

Đúng ra nhà vua vẫn là một người rất sanh điệu, ông biết thưởng thức đúng mức biệt tài nấu nướng của người đầu bếp, đã không ít lần vua muốn ban cho ông ta một ân huệ nào đó để gọi là tưởng lệ người hậu cận khéo tay nhưng rồi vua lại ngại bị dị nghị là người quan trọng hóa việc ăn uống, bởi theo vua nghĩ khen thưởng là khích lệ người đầu bếp tiếp tục nấu ngon, do đó mấy năm trời trôi qua, người đầu bếp vẫn chỉ nhận được một số lương căn bản khiêm tốn.

Dù suy nghĩ của nhà vua có phần cực đoan nhưng xét ra không phải là một điều đáng trách. Mà ai lại có thể hiểu cho ông đây, nhất là người đầu bếp. Càng lúc càng thất vọng với những ân sủng hão huyền, người đầu bếp tin chắc rằng nhà vua chỉ là một người thô kệch chẳng biết gì tới những thú phong lưu khoái lạc của hàng đế vương sang cả. Và đối với hạng người như vậy thì cần gì phải trổ tài nấu nướng. Người đầu bếp nghĩ thế.

Hai mươi năm trôi qua, vua Bārāṇasī chỉ ăn toàn những thứ bình dân tầm thường, mỗi lúc vua một quên dần những bữa ăn cao lương mỹ vị của một vì vua. Bản tính khiêm nhu, vua vẫn không tỏ thái độ gì, người đầu bếp dọn lên món gì thì ông dùng món đó. Trước đây muốn khen thưởng người đầu bếp còn sợ bị dị nghị, huống nữa bây giờ làm sao vua lại có thể mở miệng đòi hỏi thức này món nọ…

Trước sau vua vẫn một mực nghĩ tốt về người đầu bếp tốt bụng, nhưng tới một ngày, ông chợt hiểu rằng những gì người đầu bếp đối xử với ông trong hai mươi năm qua vừa có nghĩa là sự khinh miệt mà cũng vừa có nghĩa là để trả thù thái độ hờ hững của vua trước kia.

Sau một thoáng bức xúc vì tự ái của một bậc đứng đầu trăm họ, vua cảm thấy ngán ngẩm cho lòng dạ nhỏ nhen của người đời và rồi quyết định bỏ ngôi đi tu. Sau đó vua chứng quả Độc Giác Phật và như để kể lại tâm sự của mình, Ngài ngâm lên kệ ngôn trên đây.

Việt Dịch: TK Giác Nguyên
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#23
HỔ LUÔN LÁNH HỒ

57. Pāpasahāyaṃ parivajjayetha

anatthadassiṃ visame niviṭṭhaṃ,

sayaṃ na seve pasutaṃ pamattaṃ

eko care khaggavisāṇakappo.

Với bạn bè độc ác,

Hãy từ bỏ lánh xa,

Bạn không thấy mục đích,

Quen nếp sống quanh co,

Chớ tự mình thân cận,

Kẻ đam mê phóng dật,

Hãy sống riêng một mình

Như tê ngưu một sừng.

(HT Thích Minh Châu dịch)

“Chớ đánh bạn với những kẻ ti tiện chỉ biết khuyến khích điều vô ích xằng bậy và luôn sống vướng vận, dể duôi - Người hiền trí thà bỏ đi một mình như loài tê ngưu.”


DUYÊN SỰ:

Trong một buổi ngự du thành phố, vua Bārāṇasī thấy dân chúng đang chuẩn bị kho lẫm bằng cách xúc bỏ những lúa cũ đã bị hư mất để có chỗ đựng lúa mới. Không biết họ đang làm gì, vua hỏi các quan. Câu trả lời của các quan làm vua nhớ ra một điều, ông hỏi quan thủ kho:

-Thóc trong kho còn nhiều lắm không?


-Tâu, còn đủ để nuôi hết hoàng tộc và cả quân đội trong một thời gian dài.


- Vậy trẫm muốn các khanh cất ngay lập tức một thí đường để có chỗ phân phát lúa gạo quốc khố cho dân chúng.



-Tâu, làm vậy để được gì thưa Đại Vương, chỉ tổ hao tốn thêm thôi - một vị đại thần tà kiến cương quyết ngăn cản thiện ý của vua.


Thấy có người cực lực phản đối, lại không muốn có chuyện không hay, vua im lặng bỏ qua việc ấy nghĩa là không bố thí gạo thóc cho dân chúng. Nhưng rồi thấy vua nể lời mình, vị đại thần kia thay vì phải tỏ ra biết điều một chút, đằng này ông ta vẫn tiếp tục lì lợm chống lại ý vua thêm hai lần nữa, cũng về vấn đề bố thí.


Cảm thấy mình bị xúc phạm quá mức, nhà vua chán nản suy nghĩ:


- Cho đến tài sản của mình mà cũng không được tùy ý sử dụng. Họ keo bẩn rồi muốn người khác cũng keo bẩn. Sống gần gũi những tên bạn xấu thế này chỉ có hại cho bản thân.

Thế rồi nhà vua tuyên bố thoái vị và đi vào rừng tu hành. Chẳng bao lâu sau ông chứng đạt Độc Giác Trí và bài kệ trên đây là lời cảm hứng mà cũng là lời tuyên bố chánh trí của ngài.

Việt Dịch: TK Giác Nguyên
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#24
GIỌT NƯỚC LÀ ĐẠI DƯƠNG

58. Bahussutaṃ dhammadharaṃ bhajetha
mittaṃ uḷāraṃ paṭibhānavantaṃ,
aññāya atthāni vineyya kaṅkhaṃ
eko care khaggavisāṇakappo.
58. Bậc nghe nhiều trì pháp,
Hãy gần gũi người ấy,
Bạn người tâm rộng lớn,
Người thông minh biện tài,
Biết điều không nên làm,
Nhiếp phục được nghi hoặc,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

(HT Thích Minh Châu dịch)

“Nên kết giao với người đa văn thạc học để giải quyết những chỗ nghi hoặc. Với vốn liếng đó hãy độc hành như loài tê ngưu”.

DUYÊN SỰ:
Trong thời Đức Phật Kassapa có tám vị tỳ kheo tu tập thiền định rất tinh chuyên. Hết kiếp sống ở đó, cả tám vị đều sanh về thiên giới rồi sau đó lại cùng sanh xuống cõi người như nhau. Một trong tám vị lại sanh làm vua ở Bārāṇasī và bảy vị kia thì làm vua ở các xứ biên địa khác nhau.

Như có hẹn trước, bảy nhà vua biên địa sau một thời gian ở ngôi đã bỏ đi xuất gia và đều chứng ngộ thành Độc Giác Phật.

Biết mình còn một vị đồng Phạm hạnh nữa chưa đi hết con đường giải thoát, bảy Đức Phật Độc Giác cùng bay xuống hoàng thành Bārāṇasī để gặp lại người bạn cũ tức vị vua đương triều. Sau khi xá chào bảy vị Độc Giác, vua hỏi tên các Ngài và được các Ngài cho biết rằng cả bảy vị đều có chung một biệt danh là những người Thông Thái hay cũng có thể gọi là nhóm Bác Học (Bahussuta). Vốn là một người hiếu học, nhà vua suy nghĩ:

-Chắc chắn ta sẽ học được rất nhiều điều hay từ những vị tu sĩ này. Xưa nay ta chưa bao giờ được học hỏi tường tận những gì muốn biết, bây giờ có lẽ họ sẽ làm ta thỏa mãn.

Rồi thỉnh bảy Đức Phật Độc Giác thọ thực ngay tại hoàng cung và sau đó ông ngỏ lời cầu thỉnh Đức Phật Độc Giác trưởng nhóm thuyết pháp. Trái với suy nghĩ của vua, Ngài chỉ nói một câu duy nhất:

-Mong đại vương sớm đoạn trừ tham ái.
Nói xong câu đó, Đức Phật Độc Giác im lặng không nói gì thêm. Vua Bārāṇasī cho rằng Ngài là vị ít học nhất trong nhóm nên đặt hết hy vọng vào các vị còn lại. Vua thỉnh các vị tiếp tục vào cung thọ thực thêm mấy hôm nữa. Chư Phật Độc Giác nhận lời.

Trong ngày kế tiếp, Đức Phật Độc Giác thứ hai như không màng gì đến niềm mong mỏi của vua, Ngài chỉ thuyết một câu ngắn gọn và nghe ra chẳng có gì là thâm sâu:
-Mong đại vương sớm đoạn trừ sân hận!

Vua lại thất vọng thêm lần nữa. Giờ thì chỉ còn lại năm vị. Vua cố tin rằng ít gì cũng phải có vị thật sự uyên bác để thuyết cho ông nghe một thời pháp thoại sâu rộng ra hồn, chớ đâu lại quá ít lời đến thế.

Nhưng các vị Độc Giác sau đó cũng không vị nào chịu thuyết nhiều hơn một câu. Vị thứ ba chúc vua sớm đoạn trừ si mê, vị thứ tư chúc vua sớm đoạn trừ sanh thú, vị thứ năm chúc vua sớm đoạn trừ luân hồi, vị thứ sáu chúc vua sớm đoạn trừ sanh y (upadhi) và vị thứ bảy chúc vua sớm đoạn trừ khát ái.

Chư Phật Độc Giác về núi, vua chẳng một chút luyến tiếc. Nhớ lại từng câu nói của mỗi vị Độc Giác, vua thấy mình như vừa bị lừa gạt. Họ tự xưng là bác học thế mà không biết nói gì hơn ngoài những câu chúc mơ hồ, tối nghĩa. Thật kỳ lạ, vua không sao quên được những lời chúc ngộ nghĩnh đó của các vị Độc Giác, chúng cứ văng vẳng bên tai vua. Thế rồi trong một khoảnh khắc sáng suốt nhất của nội tâm, có một cái gì đó buộc vua phải gặm nhấm lại những câu nói kia và vua chợt thấy thấm thía đến tận cùng tâm tưởng:
-Tất cả chỉ có thế, hiện hữu và tịch diệt, sinh tử và giải thoát, tương đối và tuyệt đối cũng chỉ nằm trong mấy lời nói đó.

Như sống lại một hình hài khác, vua bừng tỉnh và nhận ra mọi lẽ. Ông vừa trở thành một Đức Phật Độc Giác nữa. Bài kệ trên đây là lời cảm hứng của Ngài.

Việt Dịch" Tỳ Khưu Giác Nguyên
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#25
BỎ THAU LẤY VÀNG


59. Khiḍḍaṃ ratiṃ kāmasukhañca loke
analaṃkaritvā anapekkhamāno,
vibhūsanaṭṭhānā virato saccavādī
eko care khaggavisāṇakappo.
59. Mọi du hí vui đùa,
Và dục lạc ở đời,
Không điểm trang bày biện,
Không ước vọng mong cầu,
Từ bỏ mọi hào nhoáng,
Nói lên lời chân thật,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng
(HT Thích Minh Châu dịch)

“Không đắm đuối, thích thú dục lạc trong đời, khước từ mọi điểm trang phù hư và chỉ chấp nhận cái gì là sự thật, bậc hiền trí lên đường độc hành như loài tê ngưu”


DUYÊN SỰ
Ngày xưa ở kinh thành Bārāṇasī có một nhà vua rất chú trọng đến việc điểm trang thân thể, ông chỉ lo sao cho mình có được nghi vệ đường bệ lộng lẫy của một vị hoàng đế sang cả giàu có. Tất cả những thứ vua thường dung như là mũ miện, long bào, ngọc đái, tràng hoa đều phải được chọn lựa kỹ lưỡng. Vì vua có bản tánh đặc biệt như vậy nên ông được mọi người gọi là đức vua Vibhūsakabrahmadatta (vua Brahmadatta thích trang điểm).

Lần đó cũng như mọi khi, thấy cách trang điểm của bọn hầu cận không làm vừa ý mình, vua bực bội tháo cởi ra hết mọi thứ rồi bắt họ làm lại từ đầu. Công việc đang dở dang thì tới giờ cơm, vua cho bọn họ nghỉ tay để sau đó lại tiếp tục.

Sau giờ ăn thay vì phải đi nghỉ, vua lại ngồi đó cho đám hầu cận trang điểm. Do sinh hoạt trái giờ giấc như vậy, nhà vua lâm bệnh. Cơn đau làm vua tỉnh ngộ, thấy mình cứ mãi bận tâm vấn đề hình thức để phải nô lệ cho những trang vật giả tạo, vua quyết định bỏ ngôi đi tu và sau đó chứng thành Độc Giác.

Bài kệ trên đây là lời cảm hứng của Ngài.

Việt Dịch" Tỳ Khưu Giác Nguyên
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#26
GIỌT NƯỚC LÀ ĐẠI DƯƠNG

58. Bahussutaṃ dhammadharaṃ bhajetha
mittaṃ uḷāraṃ paṭibhānavantaṃ,
aññāya atthāni vineyya kaṅkhaṃ
eko care khaggavisāṇakappo.

58. Bậc nghe nhiều trì pháp,
Hãy gần gũi người ấy,
Bạn người tâm rộng lớn,
Người thông minh biện tài,
Biết điều không nên làm,
Nhiếp phục được nghi hoặc,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

(HT Thích Minh Châu dịch)

“Nên kết giao với người đa văn thạc học để giải quyết những chỗ nghi hoặc. Với vốn liếng đó hãy độc hành như loài tê ngưu”

DUYÊN SỰ:
Trong thời Đức Phật Kassapa có tám vị tỳ kheo tu tập thiền định rất tinh chuyên. Hết kiếp sống ở đó, cả tám vị đều sanh về thiên giới rồi sau đó lại cùng sanh xuống cõi người như nhau. Một trong tám vị lại sanh làm vua ở Bārāṇasī và bảy vị kia thì làm vua ở các xứ biên địa khác nhau.

Như có hẹn trước, bảy nhà vua biên địa sau một thời gian ở ngôi đã bỏ đi xuất gia và đều chứng ngộ thành Độc Giác Phật.

Biết mình còn một vị đồng Phạm hạnh nữa chưa đi hết con đường giải thoát, bảy Đức Phật Độc Giác cùng bay xuống hoàng thành Bārāṇasī để gặp lại người bạn cũ tức vị vua đương triều. Sau khi xá chào bảy vị Độc Giác, vua hỏi tên các Ngài và được các Ngài cho biết rằng cả bảy vị đều có chung một biệt danh là những người Thông Thái hay cũng có thể gọi là nhóm Bác Học (Bahussuta). Vốn là một người hiếu học, nhà vua suy nghĩ:

-Chắc chắn ta sẽ học được rất nhiều điều hay từ những vị tu sĩ này. Xưa nay ta chưa bao giờ được học hỏi tường tận những gì muốn biết, bây giờ có lẽ họ sẽ làm ta thỏa mãn.

Rồi thỉnh bảy Đức Phật Độc Giác thọ thực ngay tại hoàng cung và sau đó ông ngỏ lời cầu thỉnh Đức Phật Độc Giác trưởng nhóm thuyết pháp. Trái với suy nghĩ của vua, Ngài chỉ nói một câu duy nhất:
-Mong đại vương sớm đoạn trừ tham ái.

Nói xong câu đó, Đức Phật Độc Giác im lặng không nói gì thêm. Vua Bārāṇasī cho rằng Ngài là vị ít học nhất trong nhóm nên đặt hết hy vọng vào các vị còn lại. Vua thỉnh các vị tiếp tục vào cung thọ thực thêm mấy hôm nữa. Chư Phật Độc Giác nhận lời.
Trong ngày kế tiếp, Đức Phật Độc Giác thứ hai như không màng gì đến niềm mong mỏi của vua, Ngài chỉ thuyết một câu ngắn gọn và nghe ra chẳng có gì là thâm sâu:
-Mong đại vương sớm đoạn trừ sân hận!

Vua lại thất vọng thêm lần nữa. Giờ thì chỉ còn lại năm vị. Vua cố tin rằng ít gì cũng phải có vị thật sự uyên bác để thuyết cho ông nghe một thời pháp thoại sâu rộng ra hồn, chớ đâu lại quá ít lời đến thế.

Nhưng các vị Độc Giác sau đó cũng không vị nào chịu thuyết nhiều hơn một câu. Vị thứ ba chúc vua sớm đoạn trừ si mê, vị thứ tư chúc vua sớm đoạn trừ sanh thú, vị thứ năm chúc vua sớm đoạn trừ luân hồi, vị thứ sáu chúc vua sớm đoạn trừ sanh y (upadhi) và vị thứ bảy chúc vua sớm đoạn trừ khát ái.
Chư Phật Độc Giác về núi, vua chẳng một chút luyến tiếc. Nhớ lại từng câu nói của mỗi vị Độc Giác, vua thấy mình như vừa bị lừa gạt. Họ tự xưng là bác học thế mà không biết nói gì hơn ngoài những câu chúc mơ hồ, tối nghĩa. Thật kỳ lạ, vua không sao quên được những lời chúc ngộ nghĩnh đó của các vị Độc Giác, chúng cứ văng vẳng bên tai vua. Thế rồi trong một khoảnh khắc sáng suốt nhất của nội tâm, có một cái gì đó buộc vua phải gặm nhấm lại những câu nói kia và vua chợt thấy thấm thía đến tận cùng tâm tưởng:
-Tất cả chỉ có thế, hiện hữu và tịch diệt, sinh tử và giải thoát, tương đối và tuyệt đối cũng chỉ nằm trong mấy lời nói đó.

Như sống lại một hình hài khác, vua bừng tỉnh và nhận ra mọi lẽ. Ông vừa trở thành một Đức Phật Độc Giác nữa. Bài kệ trên đây là lời cảm hứng của Ngài.

Việt Dịch: Tỳ Khưu Giác Nguyên.
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#27
BỎ THAU LẤY VÀNG

59. Khiḍḍaṃ ratiṃ kāmasukhañca loke
analaṃkaritvā anapekkhamāno,
vibhūsanaṭṭhānā virato saccavādī
eko care khaggavisāṇakappo.
59. Mọi du hí vui đùa,
Và dục lạc ở đời,
Không điểm trang bày biện,
Không ước vọng mong cầu,
Từ bỏ mọi hào nhoáng,
Nói lên lời chân thật,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng
(HT Thích Minh Châu dịch)

“Không đắm đuối, thích thú dục lạc trong đời, khước từ mọi điểm trang phù hư và chỉ chấp nhận cái gì là sự thật, bậc hiền trí lên đường độc hành như loài tê ngưu”

DUYÊN SỰ
Ngày xưa ở kinh thành Bārāṇasī có một nhà vua rất chú trọng đến việc điểm trang thân thể, ông chỉ lo sao cho mình có được nghi vệ đường bệ lộng lẫy của một vị hoàng đế sang cả giàu có. Tất cả những thứ vua thường dung như là mũ miện, long bào, ngọc đái, tràng hoa đều phải được chọn lựa kỹ lưỡng. Vì vua có bản tánh đặc biệt như vậy nên ông được mọi người gọi là đức vua Vibhūsakabrahmadatta (vua Brahmadatta thích trang điểm).

Lần đó cũng như mọi khi, thấy cách trang điểm của bọn hầu cận không làm vừa ý mình, vua bực bội tháo cởi ra hết mọi thứ rồi bắt họ làm lại từ đầu. Công việc đang dở dang thì tới giờ cơm, vua cho bọn họ nghỉ tay để sau đó lại tiếp tục.

Sau giờ ăn thay vì phải đi nghỉ, vua lại ngồi đó cho đám hầu cận trang điểm. Do sinh hoạt trái giờ giấc như vậy, nhà vua lâm bệnh. Cơn đau làm vua tỉnh ngộ, thấy mình cứ mãi bận tâm vấn đề hình thức để phải nô lệ cho những trang vật giả tạo, vua quyết định bỏ ngôi đi tu và sau đó chứng thành Độc Giác.

Bài kệ trên đây là lời cảm hứng của Ngài.

Việt Dịch: Tỳ Khưu Giác Nguyên.
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#28
SỰ ĐÔ NHƯ HÍ

61. Saṅgo eso parittamettha sokhyaṃ
appassādo dukkhamettha bhiyyo,
gaḷo eso iti ñatvā mutīmā
eko care khaggavisāṇakappo.
61. Chúng đều là trói buộc,
Lạc thú thật nhỏ bé,
Vị ngọt thật ít oi,
Khổ đau lại nhiều hơn,
Chúng đều là câu móc,
Bậc trí biết như vậy,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)

“Bậc hiền giả biết mọi hệ lụy vướng bận đều mang tính chất vui ít, khổ nhiều, biết chúng giống như mụt ung nhọt, vị ấy ra đi độc hành như loài tê ngưu”

DUYÊN SỰ:
Thuở xưa, ở Bārāṇasī có một nhà vua tên là Padalolabrahmadatta vốn rất chuộng kịch nghệ. Vua có ba lâu đài, mỗi lâu đài có một đoàn kịch nữ. Đoàn thứ nhất là từ hai đời vua trước, đoàn thứ hai có từ đời vua gần nhất và đoàn thứ ba được thành lập ngay dưới thời vua Padalola. Đoàn nào càng lâu thì các kịch nữ càng già, chỉ có đoàn kịch nữ mới thành lập thì gồm toàn những cô nàng trẻ tuổi.

Một buổi sáng, vua Padalola sang chơi ở lâu đài của các cô kịch nữ trẻ nhất. Bọn họ đem hết tài nghệ ra để biểu diễn cho vua thưởng ngoạn nhưng vua không lấy gì vừa lòng cho lắm. Tự nhiên buổi sáng hôm đó vua thấy trong cách diễn xuất của đám

kịch nữ kia có cái gì non nớt, gượng gạo làm sao ấy nên ông bỏ sang lâu đài thứ hai có các kịch nữ đứng tuổi. Tại đây vua cũng chê nốt và ông lại tiếp tục đi qua lâu đài thứ ba.

Nhìn đám kịch nữ lớn tuổi biểu diễn một cách mệt mỏi khổ sở, vua Padalola cứ có cảm giác đó là những bộ xương người đang vặn vẹo trước mặt ông.

Chán quá, vua quay lại với hai đoàn kịch nữ kia. Vẫn thế thôi, cũng không hơn được chút nào. Đám kịch nữ đối với nhà vua lúc này chỉ còn là những hình nhân lạnh lẽo đang múa may sờ soạng.

Nỗi buồn nản như ngập lòng nhà vua và một suy nghĩ chợt đọng lại trong ông:

-Ta sa đọa mất rồi, suốt ngày chỉ biết tầm cầu và tham đắm triền miên. Ta phải khước từ nếp sống này thôi!

Vua Padalola đã tỉnh ngộ, ông bỏ ngôi đi xuất gia và chứng thành Độc Giác Phật. Bài kệ trên đây là lời cảm hứng của Ngài.

Việt Dịch: Tỳ Khưu Giác Nguyên.
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#29
TẤT CẢ CHO THỨC NGỘ

62. Sandāḷayitvāna saṃyojanāni
jālambhetvā salilambucārī,
aggīva daḍḍhaṃ anivattamano
eko care khaggavisāṇakappo.
62. Hãy chặt đứt, bẻ gãy,
Các kiết sử trói buộc,
Như các loài thủy tộc,
Phá hoại các mạng lưới.
Như lửa đã cháy xong,
Không còn trở lui lại,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)

“Hãy công phá triền phược như loài cá phá rách lười, đừng quay lại với phiền não như lửa rằng không bao giờ trở lui nhưng chỗ đã cháy. Hãy ra đi một mình như loài tê ngưu”.

DUYÊN SỰ:
Ngày xưa, ở Bārāṇasī có một vị vua được mọi người gọi bằng mỹ danh Brahmadatta Bất Thối. Lý do là một khi đã bắt tay vào bất cứ công việc nào vua cũng không hề nản chí bỏ cuộc. Ngoài chiến trường, vua không từng biết lui quân và trong chính sự, ông cũng không hề bỏ dở một quyết định.

Một hôm, vua Bất Thối vào ngoạn cảnh ở vườn ngự uyển. Trông thấy một đám lửa to đang đốt cháy khóm rừng trước mặt, vua bất chợt liên tưởng tới một đề tài, ông suy nghĩ:

-Đám lửa rừng kia không cháy trở lui những nơi nó đã đi qua. Mai này ta cũng sẽ đốt cháy phiền não giống như thế, một đi không trở lại.

Mấy hôm sau, trong một chuyến ngự du bên bờ sông, vua Bất Thối tình cờ nghe được tiếng xôn xao của đám ngư dân dưới sông và qua đó ông biết được rằng mới vừa có một con cá lớn sau khi vào lưới của một người dân chài đã phá rách một mảng to rồi thoát ra.

Chút chuyện đó đã gợi ý cho vua một vấn đề suy tư nữa:
-Ta cũng sẽ triệt phá phiền não như con cá nọ phá rách lưới vậy.

Về tới hoàng cung, vua Bất Thối chẳng màng gì đến ngai vàng nữa, ông tuyên bố nhường ngôi cho người khác rồi vào rừng tu hành.

Khi đã chứng thành Độc Giác Phật. ngài đã ngâm lên kệ ngôn trên đây để xác nhận chánh trí chứng ngộ của mình.

Việt Dịch: TK Giác Nguyên
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#30
BẬN TÂM ĐỂ KHÔNG BẬN TÂM

65. Rasesu gedhaṃ akaraṃ alolo
anaññaposī sapadānacārī,
kule kule appaṭibaddhacitto
eko care khaggavisāṇakappo.
65. Không tham đắm các vị,
Không tác động, không tham,
Không nhờ ai nuôi dưỡng,
Chỉ khất thực từng nhà.
Ðối với mọi gia đình,
Tâm không bị trói buộc,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)

“Đừng tham đắm vị ngon, khỏi phải nuôi dưỡng ai, nên tuần tự du hành, chẳng vướng bận thế tình và ra điều kiện một mình như loài tê ngưu.”

DUYÊN SỰ:

Ở Bārāṇasī có một nhà vua thường sống vô tâm lãnh đạm với mọi người chung quanh.

Một hôm, triều thần đưa vua vào vui chơi trong thượng uyển. Đến bữa ăn, đầu bếp mang lên dâng vua nhiều thức ăn mỹ vị ngon lành. Gặp món hợp khẩu, vua mải mê thưởng thức quên đi đám quần thần đang ngồi bên dưới chờ được ban ân mưa móc.

Ăn trưa xong, nhà vua đi nằm nghỉ một lát rồi lại cùng các quan xuống hồ tắm rửa đùa giỡn. Chợt tới bữa ăn chiều, vua lại tiếp tục ăn hết những gì nhà bếp bưng lên. Đoàn tùy tùng vẫn không tỏ thái độ gì trước sự thiếu tế nhịn đó bởi dù gì thì vua cũng là vua.

Thế rồi một ngày vui chơi đã hết, vua tôi kéo nhau rời vườn thượng uyển và ai về chỗ nấy.

Khi chỉ còn lại một mình, vua Bārāṇasī chợt nhớ lại những giây phút tưng bừng ở ngự viên và thật khó chịu khi hai bữa ăn ngon miệng kia cứ lởn vởn trong đầu nha vua như những lời trách móc và cắn rứt. Tự nhiên vua cảm thấy một chút gì hối hận. Ông đã ăn một mình, ăn một cách tàn nhẫn, phải chi lúc đó ông ban xuống cho đám tùy tùng một thức gì thật ít, thật dở cũng được…

Từ trong nỗi ăn năn dằn vặt đó, vua nghĩ tới một điều thật thấm thía:
-Ta đã không khắc chế được khẩu dục nên mới ăn uống ích kỷ đến thế. Khẩu dục là Tham Ái, ta nhất định quyết phải đoạn trừ tham ái để nỗi hối hận hôm nay sẽ không còn có lần tái hiện.

Sau tư tưởng rất ư chân lý đó, vua quyết định ra đi xuất gia trong rừng núi và chẳng bao lâu sau đó, ông chứng thành Độc Giác Phật.
Bài kệ trên đây là lời khẩu hứng tâm đắc nhất của Ngài,

Việt Dịch: Tỳ Khưu Giác Nguyên. 
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply