Linh Tinh - LTP
#1
Self referred: p58, post #861:
[ url=https://youtu.be/GhW4JwgrNlc ]A cow's hoof story[/ url]

For "short" YouTube:
BEFORE code:
https://www.youtube.com/shorts/se50viFJ0AQ
AFTER code:
https://www.youtube.com/watch?v=se50viFJ0AQ

-------------------
Threads:

  1. Phật Giáo: LTP xin chào Mod ...
  2. Phật Giáo: Đàm Thoại Tu Học
  3. Phật Giáo: LTP Học Phật Pháp
  4. Phật Giáo: Mục Lục và Tóm Lược ...
  5. Chợ Trời: SOS không thể vào VietBest
  6. Chợ Trời: Giã Từ VietBest
  7. Chợ Trời: Ba Ech: Mở Blog Mới
  8. Chợ Trời: Bạn Háo Sắc
  9. Thơ Văn: Các Bạn Giúp về Bài Thơ Cổ
  10. Du Lịch: Linh Tinh LTP
  11. How To: Convert PDF file
  12. GRT: Tĩnh Lặng - LTP
  13. GRT: Kiến Thức Linh Tinh - LTP
---------------

12 TRIỆU CHỨNG OMICRON – CÓ GIỐNG VỚI CÁC BIẾN THỂ KHÁC KHÔNG?


https://tamanhhospital.vn/trieu-chung-omicron/
15/03/2022

12 triệu chứng Omicron thường gặp:

1. Ho
2. Khó thở
3. Sốt
4. Mất vị giác
5. Đau đầu
6. Đau họng
7. Chảy nước mũi, ngạt mũi
8. Hắt hơi
9. Đau mỏi người
10. Đau cơ 
11. Mất khứu giác
12. Đau bụng, buồn nôn

Khi nào cần đến gặp bác sĩ?

Về cơ bản, các triệu chứng của Omicron được đánh giá là khó chẩn đoán hơn vì nhiều triệu chứng dễ nhầm lẫn với các bệnh theo mùa như cúm, cảm lạnh,… Trong bối cảnh số ca mắc Covid-19 vẫn đang tiếp tục đạt đỉnh mới với biến thể Omicron chiếm ưu thế, các chuyên gia khuyên người bệnh nên đến gặp bác sĩ ngay nếu có các triệu chứng:

  1. Xuất hiện hiện tượng sảng (lú lẫn cấp tính);
  2. Khó thở, đau dai dẳng hoặc có áp lực trong lồng ngực;
  3. Không thể tỉnh táo hoặc da, môi, móng tay nhợt nhạt hoặc tái xanh;
  4. Tình trạng mắt đỏ (viêm kết mạc) bất thường;
Phòng ngừa Omicron 

  1. Tiêm vắc xin đầy đủ
  2. Làm test nhanh kháng nguyên tại nhà khi có triệu chứng nghi ngờ
  3. Đeo khẩu trang khi ra ngoài
  4. Tăng cường vệ sinh, sát khuẩn
  5. Xây dựng chế độ dinh dưỡng – vận động tăng sức đề kháng
Bác sĩ Anh chia sẻ kỹ thuật thở sống còn cho bệnh nhân mắc COVID-19

https://baotintuc.vn/the-gioi/bac-si-anh...434065.htm

Doctor demonstrates breathing technique for coronavirus patients



https://youtu.be/bBkGDIeQwXo

KIỂU THỞ GIÚP F0 CỨU LẤY 2 LÁ PHỔI CỦA MÌNH | BS.CK2. VŨ MINH ĐỨC (Phòng khám GOLDEN CARE)




United States Coronavirus:  Worldometer

https://www.worldometers.info/coronavirus/country/us/

https://www.worldometers.info/coronavirus/country/us/

(Edited 28/6/2020 #03:35 am)

--ooOoo--

Cách cùng software OCR:

1/ Save image of the text in a local memory folder.
3/ open file to be converted in the OCR software

--ooOoo--


Post #1

Fake news, fact-checking, and bias: How to check for facts, bias, and fake news

FACTS:

  • FactCheck.org
    A project of the Annenberg Public Policy Center, this organization checks the factual accuracy of what is said by major U.S. political players in the form of TV ads, debates, speeches, interviews and news releases.

  • Truth or Fiction
    A non-partisan website where "Internet users can quickly and easily get information about eRumors, fake news, disinformation, warnings, offers, requests for help, myths, hoaxes, virus warnings, and humorous or inspirational stories that are circulated by email."

  • PolitiFact
    PolitiFact staffers research statements and rate their accuracy on the Truth-O-Meter, from True to False. The most ridiculous falsehoods get the lowest rating, Pants on Fire.

  • Snopes.com
    This highly regarded rumor analyzing site has been researching rumors since 1995. 

  • Hoax Slayer
    Site that debunks email and social media hoaxes and educates web users about email, social media, and Internet security issues. Founded in 2003.

  • How to Recognize a Fake News Story (Huffington Post)
    For the whole story and more information on the list provided above.

  • Fake Or Real? How To Self-Check The News And Get The Facts
    A news item from NPR, with tips on how to self-check the news to ensure you're getting a real news story.

  • What are Confirmation Bias Examples?
    "Confirmation bias is the tendency for people to selectively search for and consider information that confirms already held beliefs. People also tend to reject evidence that contradicts their opinions." This page has some examples of confirmation bias.

  • The Fact Checker’s guide for detecting fake news
    Clear and quick tips for how to detect fake news, from the Fact Checker section of the Washington Post: "When you read them [articles], pay attention to the following signs that the article may be fake. There are fake news stories generated by both left-leaning and right-leaning websites, and the same rules apply to both."


FAKE NEWS:


MEDIA BIAS:

  • Media Bias/Fact Check
    An independent media outlet dedicated to educating the public on media bias and deceptive news practices.They maintain a database of 900+ news sources.

  • AllSides
    News and issues from multiple perspectives. The site clearly identifies each news story's position (left, center, or right).


 nguồn: https://tacomacc.libguides.com/c.php?g=599051&p=4147190


—ooOoo—

Ly hôn trong Đạo Phật, p 35, #514, 515


--ooOoo--

Một kho tài liệu cũ rất quý, ít ra với những người thuộc thế hệ trước 75.
https://u.pcloud.link/publink/show?code=...Tv7LM6v2OV


 --ooOoo--

https//m.facebook.com/Braveenglishcenter/posts/783869955065224 

24 THÀNH NGỮ TIẾNG ANH THÔNG DỤNG !!

1.Easy come, easy go----Của thiên trả địa. 

2.Seeing is believing----Tai nghe không bằng mắt thấy. 

3.Easier said than done----Nói dễ, làm khó 

4.One swallow does not make a summer----Một con én không làm nên mùa xuân. 

5.Time and tide wait for no man----Thời giờ thấm thoát thoi đưa, nó đi đi mãi có chờ đợi ai. 

6.Grasp all, lose all----Tham thì thâm

7.Let bygones be bygones----Hãy để cho quá khứ lùi vào dĩ vãng. 

8.Handsome is as handsome does----Cái nết đánh chết cái đẹp. 

9.When in Rome, do as the Romes does----Nhập gia tuỳ tục 

10.Clothes does not make a man----Manh áo không làm nên thầy tu. 

11.A good name is better than riches----Tốt danh hơn lành áo 

12.Call a spade a spade----Nói gần nói xa chẳng qua nói thật 

13.Beggar's bags are bottomless----Lòng tham không đáy 

14.Cut your coat according your clothes----Liệu cơm gắp mắm 

15.Bad news has wings----Tiếng dữ đồn xa 

16.Doing nothing is doing ill----Nhàn cư vi bất thiện 

17.A miss is as good as a mile----Sai một li đi một dặm 

18.Empty vessels make a greatest sound----Thùng rỗng kêu to 

19.A friend in need is a friend indeed----Gian nan mới hiểu bạn bè 

20.Each bird loves to hear himself sing----Mèo khen mèo dài đuôi 

21.Habit cures habit----Lấy độc trị độc 

22.Honesty is best policy----Thật thà là cha quỷ quái 

23.Great minds think alike----Tư tưởng lớn gặp nhau 

24.Go while the going is good----Hãy chớp lấy thời cơ 

(Bonus: Time flies like an arrow.  Fruit flies like a banana.   Innocent)

You made your bed, so lay in it.

You reap what you sow.

You can't your cake and eat it.
-------------
Chúng ta thường gặp thể bàng thái (subjunctive) sau các cấu trúc câu sau:


  • It is essential, vital, important, necessary, desirable,...+ that
  • Sau các động từ ask, recommend, request, suggest, insist, propose, command + that
------------------
Tục Ngữ Hán Việt,:

https://vi.m.wikiquote.org/wiki/T%E1%BB%A5c_ng%E1%BB%AF_H%C3%A1n_Vi%E1%BB%87t
--------------------



⏱️


Chúng ta ham tình nhưng sống kiểu bạc tình, thích hoạnh tài nhưng ngại xả tài, chấp thủ khoái ôm ấp mà lại quên huân tập điều lành, toàn huân tập điều bất thiện. - Sư Toại Khanh
VOTE like your life depends on it! - Michelle Obama
If you know how to let go and be at peace, you know everything you need to know about living in the world. – Ajahn Brahm
My experience has taught me to prepare for the worst, but to hope for the best. - Yusef Salaam


  ⏱️ 


BẠN SẼ HÁT HAY HƠN NẾU BIẾT ĐƯỢC HAI QUY TẮC PHÁT ÂM NÀY | Thanh nhạc Phạm Hương.
https://www.youtube.com/watch?v=8Yi5YwAoHhw


Bài Luyện để có giọng nói, giọng hát hay. | Thanh nhạc Phạm Hương - Dạy hát cho người mới bắt đầu.
https://www.youtube.com/watch?v=BYIqvUqszM0[url=https://www.youtube.com/watch?v=BYIqvUqszM0][/url]
Reply
#2
DUY KHÁNH, HƯƠNG LAN, KHÁNH LY | ca khúc Trần Đình Quân


Reply
#3
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương, một thiên tài nhưng bất hạnh

https://hoaxuongrong.org/tai-lieu/nu-si-ho-xuan-huong-mot-thien-tai-nhung-bat-hanh_a727

Ngồi buồn nhớ chị Xuân Hương

Hồn thơ còn hãy như nhường trêu ai..

(Giấc Mộng Con - Tản Đà)

 Dân tộc Việt Nam luôn chiến đấu dành độc lập, tự do, mở đầu cuộc khởi nghiã của chị em Hai Bà Trưng (40-30 trước công Nguyên) và Bà Triệu (năm 248) để lại những chiến tích oai hùng. Những người không cầm gươm, đao xông pha nơi chiến trận, thì cầm bút đóng góp cho nền văn hoá dân tộc những nhà thơ nữ nổi tiếng như : Đoàn Thị Điểm dịch giả Chinh Phụ Ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Ngọc Hân công Chúa với Ai tư vãn.. Ngô Chi Lan Ỷ Lan Phu nhân, Huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh. Nữ sĩ nổi tiếng một thời được gọi là Bà Chúa Thơ Nôm (1) Hồ Xuân Hương xuất hiện vào thế kỷ thứ 18. Giai đoạn đất nước chia đôi hai miền Nam Bắc. Trịnh - Nguyễn phân tranh gọi là Đàng trong Đàng ngoài, lấy sông Linh Giang làm biên giới từ những năm 1627 đến 1772.

Hồ xuân Hương sinh năm (1772-1822) (2) con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An. Theo một số tài liệu dẫn chứng: Hồ Sĩ Anh đời nhà Lê sinh bốn người con trai : Hồ Thế Viêm, Hồ Phi Quyền, Hồ Phi Cơ, Hồ Phi Tích (1665-1734 đậu Hoàng giáp năm 1700). Hồ Thế Viên là ông Tổ bốn đời của anh em nhà Tây Sơn đã đổi từ họ Hồ sang Nguyễn, còn Hồ Phi Cơ là ông tổ bốn đời cuả Hồ phi Mai tức nữ sĩ Xuân Hương. Như vậy Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Hồ Xuân Hương là anh em cùng họ ông tổ năm đời (3)

Hồ Xuân Hương và thân phận

Ông Hồ Phi Diễn thi đỗ Tống Sinh làm quan cuối thời đại vua Lê. Ông đã lập gia đình nhưng cưới thêm vợ thứ quê Hải Dương, sinh ra Xuân Hương. Lúc Xuân Hương 13 tuổi thân phụ mất, Xuân Hương rời làng Khán Xuân theo mẹ về làng Thọ Xương gần Hồ Hoàn Kiếm, đi học một thời gian phải ở nhà giúp mẹ lo sinh sống gia đình. Xuân Hương tự học thêm, thông minh làm thơ hay, tiếng tăm lừng lẫy. Có Tổng Kình tên tự Nguyễn Công Hoà tục gọi là Tổng Cóc ở làng Tứ Xã (nay thuộc huyện Phong châu - Vĩnh Phú). Cai Tổng mến tài của Xuân Hương, nhờ người mai mối cưới Xuân Hương làm thứ thiếp. Theo tục truyền chiều 30 tết, Tổng Cóc đem biếu quà tết cụ Đồ Xứ bị Hồ Xuân Hương ra câu đố.
"Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới“
Sáng hôm sau, Tổng Cóc đến làm xong thủ tục xông nhà đọc lại câu đối
"Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào“
Có thể Xuân Hương mến mộ chàng trai nầy có khiếu văn chương (?)n nhận lời kết hôn với Tổng Cóc. 

Theo tài liệu của Giáo sư Lê trí Viễn (4), Tổng Cóc không phải là một anh trọc phú, mà là một nho sĩ từng có phen lều chõng như ai và trong sự gặp gỡ Xuân Hương có chuyện chữ nghiã chứ chẳng phải chỉ có đồng tiền ..“ Tổng Cóc yêu thương Xuân Hương và từng bảo nàng làm thơ viết vào gỗ để người ta sơn then giữ cho bền, hiện nay tại nhà thờ của ông Kiều Phú, thôn Đại Đình, xã Sơn Dương huyện Phong Châu, Vĩnh Phú còn tấm ván mít ghi những nét thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Bút tích còn 4 câu thơ :

Thảo lai băng ngọc kính

Xuân tận hoá công hương
Độc bằng đan quế thượng
Hào phóng bích hoa hương

tạm dịch

Nói đến tấm gương bằng ngọc
Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân
Chỉ bằng lúc vin cành quế đỏ
Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm (5)

(Còn tiếp)
Reply
#4
(tiếp theo)

Tình yêu giữa hai người không được bao lâu trong hoàn cảnh gia đình mà người chồng yếu đuối, Xuân Hương bản tính nghệ sĩ giao tiếp rộng.. không tránh được va chạm hằng ngày trong xã hội phong kiến „Đau đớn thay phận đàn bà! Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu“ Xuân Hương bị gia đình bên chồng đè nén với thân phận làm lẽ. Nên đã phản kháng quyết bỏ nhà ra đi. Thân phận của Xuân Hương cũng như hoàn cảnh cua kiếp đàn bà làm lẽ mọn :


 Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung !
Năm thì mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy ví biết dường nầy nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong

Ca dao cũng có bài

Tối tối chị giữ mất buồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn...

Từ giã gia đình Tổng Cóc đi tìm phương trời thơ mộng tự do hơn, vốn người yêu thơ văn lãng mạn muốn vượt qua bức tường nho giáo khắc nghiệt, nhưng không tránh được cái nghiệp tình duyên ngang trái. Xuân Hương lấy ông phủ Vĩnh Tường, tình yêu được trân quý hơn, nên Xuân Hương làm bài thơ giã từ “khóc Tổng Cóc“.

Chàng Cóc ơi ! Chàng Cóc ơi !
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.

Bài "khóc Tổng Cóc “gây nhiều dư luận trong văn học, những người ở Làng Mương, làng Giáp nói bài thơ đó là khóc cho mối tình của Xuân Hương, không phải khóc người chồng đã mất, bởi vì Xuân Hương từng khổ đau với hoàn cảnh làm vợ lẽ trong gia đình Tổng Cóc nên dùng những từ ngữ chỉ họ hàng nhà Tổng Cóc nào là nòng nọc đứt đuôi..để giễu lúc Tổng Cóc còn sống, Xuân Hương lập gia đình với ông phủ Vĩnh Tường cũng trong cảnh lẽ mọn không tránh được cảnh khổ ghen tương cay độc như Hoạn thư

Rằng tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu.
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai

(Kiều cuả Nguyễn Du)

Thời gian chung sống tri ngộ ông phủ Vĩnh Tường (ở Thổ Tang, Vĩnh Phú bây giờ) tuy làm vợ lẽ nhưng ông Phủ coi nàng là bạn văn chương tình duyên không đến nỗi bẽ bàng. Nhưng tình nghiã vợ chồng chỉ trong 27 tháng ông Phủ mất, Xuân Hương đã khóc chồng. Cuộc đời Xuân Hương về tình duyên bất hạnh.

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Thiếp bén duyên nàng có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất;
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc;
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi !

Cuộc đời Xuân Hương có thể “bảy nổi ba chìm” qua hai đời chồng hy sinh cả đời chịu thân phận làm lẽ mọn, nỗi khổ đau cũng là niềm dang dở cái mối duyên thiên, duyên trời nào có phải là hậu qủa oan nghiệt của con nguời như „chữ tài liền với chữ tai một vần“ !

Thơ và bạn đời

Tập thơ Lưu Hương Ký chú dẫn: Hoan Trung Cổ Nguyệt Đường Xuân Hương nữ sĩ sử tập Lưu Hương Ký viết xong năm Giáp Tuất (1814) mãi đến năm 1964 được phát hiện (?). Tên di cảo có nghiã là ghi mùi hương thơm của ngọc lưu, chữ Lưu này nhắc nơi Xuân Hương sinh ở huyện Quỳnh Lưu. Trong tập thơ có 30 đầu đề ; 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm, phần xướng hoạ có lẫn thơ của văn nhân thời bấy giờ để lại số đề tài khúc chiết, nồng nàn yêu đương mong đợi. Ở Cổ Nguyệt Đường do Xuân Hương dựng lên ở phường Khán Xuân gần Hồ Tây khu vực vườn Bách Thảo, trường Bưởi đường Cổ Ngư làng Yên Phụ. Tình yêu, tình bạn của Xuân Hương rất nhiều bài gợi cảm, lãng mạn với những văn nhân thi sĩ như (trích dẫn mỗi người một tựa đề) :

Thi hào Nguyễn Du (1765-1820) bài: Cảm cựu Kiêm Trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu

Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không ?
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sưong đeo mái
Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng treo...

Xuân Hương với Tốn Phong hai bài : Ngụ ý đến Tốn Phong Thi“ v v..

Đường hoa diù dặt bước đông phong
Nghĩ kẻ tìm thơm cũng có công
Lạ mặt dám quen, cùng gió nước
Nặng lòng nên nhẹ đến non sông
Da trời nắng nhuộm tươi màu biếc
Phòng gấm trăng in dải thức hồng
Ai nhớ lấy cho lòng ấy nhỉ !
Trước trăm năm hẳn nợ chi không ?

Xuân Hương với Hiệp trấn Sơn Nam Thượng họ Trần Ngọc Quán...

Vác cắm đàn tao một ngọn cờ
Ấy người thân đấy, phải hay chưa ?
Lắc đầy phong nguyệt lưng bầu rượu
Giắt lỏng giang hồ nửa túi thơ
Đình nguyệt góp người chung đỉnh lại
Trời Hoan mỏ mặt nước non xưa
Bấy nay tài tử bao nhiêu tá ?
Thèo đảnh khen ai khéo đạt cho!

Xuân Hương với Mai Sơn Phủ "Hoạ thơ Sơn Phủ“ bài thơ bằng Hán văn gởi bạn tỏ lòng quyến luyến nhớ thương. khoảng thời gian (1799- 1801)

Này đoạn chung tình biết với nhau
Tiễn đưa ba bước cũng nên câu
Trên tay khép mở tanh chiều nhạn,
Trước mặt đi về gấp bóng câu
Nước mắt trên hoa là lối cũ,
Mùi hương trong nệm cả đêm thâu
Vắng nhau mới biết tình nhau lắm
Này bạn chung tình biết với nhau..

Xướng họa với Chiêu Hổ tức Phạm đình Hổ (1768-1839) đối thủ với Hồ Xuân Hương

Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay..

Xuân Hương trải qua nhiều kinh nghiệm nhân sinh, nhất là về ái tình để rồi „quang cảnh trong đời chiếc gối mơ!” đời sống phóng túng của Xuân Hương để nhận lấy lời phê bình “tự thán“

Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn
Một đời riêng mấy tiếng chua cay

(còn tiếp)
Reply
#5
(tiếp theo)

Sau khi viết xong tập Lưu Hương Ký (1814), bảy năm sau (1822) Xuân Hương mất, nhưng mộ bà được táng ở đâu? ngày nay vẫn chưa tìm được tung tích, chắc chắn cũng ở quanh Hà Nội ? năm 1842 Tùng Thiện Vương ra thăm cảnh Hồ Tây có làm bài thơ viếng mộ Xuân Hương „Long Biên trúc chi từ“ bản dịch ra Việt ngữ của học giả Hoàng Xuân Hãn


Đây hồ rực rỡ hoa sen
Sai người xuống hái để lên cúng đàn
Chớ trèo qua mộ Xuân Hương
Suối vàng còn giận tơ vương lỡ làng
Sen tàn, phấn rữa mồ hoang
Xuân Hương đã khuất bên làn cỏ xanh
U hồn say tít làm thinh
Gío xuân mấy độ thế tình không hay !!

Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng nề phong kiến “nhất nam viết tử thập nữ viết vô”. Đàn bà ít được đi học ứng thí như đàn ông, may mắn học ít chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ khẩu khí bị trợt té người ta cười, bà làm ngay hai câu thơ để chữa thẹn

Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài

 Hồ Xuân Hương thông minh, có tài, khá tiếc thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc của bà thành ra lãng mạn mà lắm người cho là “lẳng lơ“! Nhưng hãy đọc mấy câu thơ sau của bà, dũng khí như một đấng tu mi nam tử. Khi đi ngang qua miếu Sầm Nghi Đống, bị vua Quang Trung giết ở Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin đồn miếu linh thiêng nên Xuân Hương đã đề mấy câu thơ :

Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo
Kià đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu ?

Dưới xã hội thời phong kiến người ta quan niệm „trai năm thê bảy thiếp, gái chín chuyên chỉ một chồng“ Xã hội bất công ! vấn đề đa thê ngày nay không được chấp nhận (ngoại trừ các nước theo Hồi Giáo). Ngày xưa chồng chết vợ phải thủ tiết thờ chồng.. Nhưng Xuân Hương đã muốn phá cái phong tục thời đó. Nên lúc sống với ông Phủ Vĩnh Tường, có người goá phụ còn trẻ muốn được tái giá, làm đơn xin quan phủ xét, gặp lúc ông phủ đi vắng, Xuân Hương xem đơn và phê ngay :

Phó cho con Nguyễn thị Đào
Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai ?
Chữ rằng xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già .

Những bài thơ tuyệt tác của Xuân Hương được lưu truyền hậu thế qua tập Lưu Hương Ký. Biệt tài thơ Xuân Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không vay mượn điễn tích sáo ngữ, đọc thơ hiểu được nghiã đen và nghiã bóng. Đọc thơ Hồ Xuân Hương với tâm hồn nghệ sĩ thực sự phát hiện được những khía cạnh miêu tả rất thẩm mỹ.

Đọc bài « Ngủ quên » như xem bức tranh trưa hè người thiếu nữ đang ngủ, độc giả có thể liên tưởng đến bức tượng khỏa thân với những đường nét tuyệt vời sống động... cảm thấy rung động nghệ thuật trước hình ảnh đẹp lành mạnh.

Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.

Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được mọi người yêu chuộng, người trần tục ai thấy hoa đẹp không muốn nhìn? Từ xưa và nay nhiều phê bình bàn cãi tranh luận, thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục ..Những người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng xem những sáng tác cuả Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác âm điệu kỳ tài.. Nhóm khác phê bình thơ mang chất tục sinh lý đè nén « Libido » ..Bài thơ đầu đề không được thanh “Dương vật“ Hồ Xuân Hương tả rất hay

Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Ban đêm không mắt sáng như đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen

Để có thể thẩm định thế đứng của nhà thơ nầy, nói về Văn học không thể đọc một số bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng?.. Bởi vì vấn đề Tình Dục từ Á sang Âu thường được trình bày qua các tác phẩm văn chương, những hình điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện, Đền đài lưu tại từ ngàn năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn bà qua những đường cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng manh .. những tác phẩm đó thể hiện linh động văn hóa, sắc thái mang tính chất diễn tả về nghệ thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau, Nhiều sắc dân họ thờ các bộ phận sinh dục, dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng Lingam (dương vật) tình dục được nói đến trong sinh hoạt của con người. Xã hội bình dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập thể là lẽ sống của xã hội. Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân gian.

Có chồng từ thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!
(Ca dao)

Đời sống qua thi ca bình dân, diễn tả trào lộng, vui tươi vốn có trong thực tế không nói xa gần, cái điếu cày hút thuốc người bình dân .

Lòng em cay đắng quanh năm
Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang
Các anh các bác trong làng
Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
Vắng em đau khổ trăm chiều
Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê
(ca dao)

Nổi tiếng như Truyện Kiều diễn tả lại chuyện tình dục trong khuê phòng,
Đêm xuân một giấc mơ màng
Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ
hoặc
Này con thuộc lấy nằm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Khi khóe hạnh khi nét ngài
Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa
Điều là nghề nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nếp mới là người soi
Hay Trạng Quỳnh với bài tạ ơn cô hàng bánh
Đương cơn nắng cực đói lòng thay
Thết đãi ơn cô có bụng nầy
Giờ biết lấy gì mà tạ lại
Xin quỳ hai gối chống hai tay

Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng lớp nào, dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc sống. Cái khác biệt toàn thể về bản chất không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người trần tục nên ca tụng sinh họat trần tục và những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân Hương để tiếp nhận cái tinh thần hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào sâu cái „tục“ trong thơ làm đề tài chính. Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa khác, đó là một giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân tộc. Đọc hai bài thơ sau để so sánh bài đèo Ngang và đèo Ba Đội cuả hai nữ sĩ

Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
(Huyện Thanh Quan)

Chúng ta cảm nhận bài thơ ấy hay nhẹ nhàng trang nhã, bài nầy có 8 câu nhưng vay mượn ý của hai câu chữ Hán

Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc
Nhật văn cô điểu khiếu gia gia

Nghiã là

Đêm nghe đỗ vũ kêu quốc quốc
Ngày lắng gà rừng gọi gia gia

Hồ Xuân Hương vịnh đèo Ba Đội là một bức tranh tả chân đơn sơ

Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm lum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đià lá liễu giọt sương rơi
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mõi gối chồn chân cũng muốn trèo

Bài thơ nầy đọc qua độc giả có thể nhận ra ngay đó là đèo Ba Đội, « một đèo, một đèo lại một đèo » từ màu sắc “cửa son đỏ lóet; tùm lum, xanh rì; lún phún; lắt lẻo“.. Xuân Hương đã tài tình tạo ra một bức tranh sống động thành hợp tấu kỳ thú, từ âm thanh, màu sắc, nếu đi qua đèo thi độc giả chia sẻ với thi nhân Xuân Hương là một nhạc sĩ tài tình, phối hợp cả âm thanh, màu sắc, không gian lẫn thời gian, tạo những nét đặc sắc, thông thường ít nghe diệp âm « hõm hòm hom, toen hoẻn .. » trong bài vịnh hang Cắc Cớ

Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hõm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Gịot nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm

(Còn tiếp)
Reply
#6
(tiếp theo)

Giọt nước từ những thạch nhủ rơi từng giọt, xuống vũng nước bên dưới lõm bõm, con đường vào hang thiếu ánh sáng. Ngày nay nhờ phương tiện lưu thông thuận lợi, nếu ghé hang Thánh Hoá ở làng Thuỵ Khê, huyện Sài Sơn tỉnh Sơn Tây (Hà Tây) hang ở hòn núi có Chùa Thầy. Hàng năm có hội chùa Thầy mà không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết chùa Thầy. Đến đó sẽ nhớ ngay nữ sĩ Xuân Hương ! là một thiên tài cũng vịnh cảnh Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ Đức Hà Đông rất linh động cảnh trời mây non nước..vào những ngày đầu xuân, hội Chùa Hương nhộn nhịp, người tu hành thì ít, kẻ trần tục thì nhiều, muốn lên phải gọi là trèo các bậc thì đúng hơn là đi, chen chân trong động hương khói pha mờ mù sương.


Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm...

 Bài « đánh đu » bức tranh quê sống động hơn, diễn tả cảnh vui xuân náo nhiệt

Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng chân ngọc duỗi song song
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá ?
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không !

Có thể Hồ Xuân Hương phỏng theo bài thơ trên bài cây đánh đu vốn có trong tập Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập

Bốn cột lang nha ngắm để trồng
À thì đánh cái ả còn ngong
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám bức quần hồng bay phất phới,
Hai hàng chân ngọc đứng song song
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy
Nhổ cột đem về để lỗ không.

Ngày nay ở miền Bắc hội xuân vẫn còn giữ trò chơi đánh đu, thường những trai gái thích đánh đu như cuộc thi lòng dũng cảm. Khi chàng trai nhấn đu, cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân duỗi thẳng, chờ đón độ cao bay bổng. Khi độ cao đã giảm đến lượt cô gái nhún, chàng trai lại chờ đón..tất cả phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung dung, vẻ đẹp càng hiện rõ hình thể bên ngoài ..gối hạc, lưng ong, ngưả ngửa lòng, phất phới, song song. Xuân Hương đã khéo tài tình dùng điệp khúc
Qua ca dao Việt nam cũng có nhiều bài truyền tụng rất là « tục » như cái vịnh cái quạt

Rành rành ba góc rành rành
Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra
Khi vui thì sướng thay là
Khi buồn thì nước chảy ra rì rì..

Hồ Xuân Hương tả cái quạt duyên dáng hơn có tính cách tương tự như ca dao tục ngữ hài hước, tả cái quạt có nhiều nan được bồi bằng giấy với hình dáng xòe ra để quạt cho mát, bất cứ ở đâu, khi mưa có thể che đầu, khi xếp lại những nếp giấy chồng lên vẫn còn thừa.

Một lỗ sâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi nắng gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ...

Ngành tiểu công nghệ dệt vải thời xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường trồng cây bông, nuôi tằm ươm tơ làm luạ tự dệt may sắm áo quần. Ban ngày làm việc đồng áng, đêm về dệt vải với dụng cụ đơn giản cái khung cửi, hai ống trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi guốc con suốt, con thoi (con cò bằng gõ). Xuân Hương tả đêm cô gái dệt vải; mà phẩm chất vải tốt không phai màu phải ngâm lâu

 Thắp đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau

Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu

(Còn tiếp)
Reply
#7
(tiếp theo và hết)

Chùa Quán Sứ được xây dựng từ thế kỷ thứ 17 nằm ở phố cũng mang tên Quán Sứ Hà Nội; Phật giáo vào thời Xuân Hương suy thoái, thời nào cũng có người núp dưới chiếc áo cà sa.. Xuân Hương đã nghi ngờ về chùa Quán Sứ trong cảnh vắng teo


Quán sứ sao mà cảnh vắng teo

Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao

Chày kình, tiểu để suông không đấm

Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo

Sáng banh không kẻ khua tang mít

Trưa trật nào ai móc kẽ rêu

Cha kiếp đường tu sao lắt léo

Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo

Hay qua bài

Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ

Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha

Tu lâu có lẽ lên sư cụ

Ngất nghểu toà sen nọ đó mà

Người đời nhớ Xuân Hương ở tiếng cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân Hương mang nặng những niềm đau .. trong đó khối tình của Xuân Hương nặng như đá, với những tâm sự thế thái nhân tình làm rung động sâu thẳm cõi lòng người

Gan nghiã giãi ra cùng nhật nguyệt

Khối tình cọ mãi với non sông

Đá kia còn biết xuân già dặn

Chả trách người ta lúc trẻ trung

(Đá ông chồng, đá bà chồng)

hoặc qua bài tình tự

Canh khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non

Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn !

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn

Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tý con con.

Xuân Hương vịnh bánh trôi nước quen thuộc của người bình dân. Thân em ở đây (Xuân Hương) hay là thân phận đàn bà dưới thời phong kiến lắm lận đận? nhưng tấm lòng được tôn trọng

 Thân em trắng phận em tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Lớn nhỏ mặc dầu tay kẻ nặn

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Hồ Xuân Hương có phong cách riêng tiêu biểu cho thái độ tự nhiên tràn đầy tình cảm trong sáng, thơ Hồ Xuân Hương rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu và tiết tấu, thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời, nhưng bài viết giới hạn không thể trình bày và trích giải hết được..Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử ...& Đại

Chú Thích:

1/ Chữ Nôm có vai trò nổi bật trong sáng tác văn chương. Mặc dù văn nhân, thi sĩ mọi thời đều đã dùng chữ Hán làm thơ, viết truyện, nhưng chỉ có với chữ Nôm, người Việt mới tạo nên những tác phẩm bất hủ. Tập thơ Nôm có niên đại sớm nhất còn lưu truyền là Quốc âm Thi tập của Nguyễn Trãi (1380 - 1420), sau đó là Bạch vân Am quốc ngữ thi của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585).

Văn học Việt nam qua các thời đại, chữ Hán các tiền nhân viết những tập truyện ngắn và tiểu thuyết văn xuôi, còn với chữ Nôm gần như các cụ chỉ làm thơ. Sở trường và thành công bằng hai thể thơ giàu dân tộc tính này, vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XIX Văn học cổ điển Việt Nam có những tác phẩm xuất sắc khiến thế giới phải biết đến là Chinh phụ Ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748); Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) của Nguyễn Du (1766 -1820). Chúng ta còn các tên tuổi sáng giá khác nữa từ thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX như: Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, đặc biệt thơ cuả Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương v.v. ..Chính nhờ ở những tác giả này, tiếng Việt hấp thụ hai nguồn văn tự là chữ Hán và văn tự văn hóa dân gian, chữ Nôm để trở thành một ngôn ngữ văn học sáng chói và giàu sức diễn đạt

2/ Được dẫn chứng trong Hồ Quỳnh Gia Phả gia phả họ Hồ ở Quỳnh Lưu. Nhưng tác giả Lê Xuân Sơn viết trong tập „ Hồ Xuân Hương thơ và đời viết “HXH con ông Hồ sĩ Danh (1706-1783) em cùng cha khác mẹ với Hồ Sĩ Đống (1738-1786) là một vị quan đầu triều thời chuá Trịnh ?

3/ Những kỳ Án trong việt sử, tác giả Trần Gia Phụng

4/ Hồ Xuân Hương thơ và cuộc đời, trang 206, nhà xuất bản văn học.

5/ Theo phóng sự Hồ X Hương và Tổng Cóc ( Nguyễn Hữu Thanh)

Tài liệu đọc thêm : Hồ Xuân Hương toàn tập của Gs Ngô lăng Vân; nghĩ về thơ HXH.cuả Gs Lê Trí Viễn, Ng Đức Quỳnh...

(Hết)
[url=https://hoaxuongrong.org/tai-lieu/nu-si-ho-xuan-huong-mot-thien-tai-nhung-bat-hanh_a727][/url]

 I
Reply
#8
Cụ Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi

https://vi.m.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A1c_%C4%90%C4%A9nh_Chi

Mạc Đĩnh Chi (chữ Hán: 莫挺之 1272 - 1346), tên tự là Tiết Phu (節夫), hiệu là Tích Am (僻庵) là một quan đại thần và nhà ngoại giao nổi tiếng triều Trần trong lịch sử Việt Nam[1]. Năm 1304, đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, ông thi đỗ trạng nguyên. Nhờ thông minh, hiểu biết sâu rộng, ông nhiều lần được cử đi sứ sang Trung Quốc. Ngoài ra, ông còn được biết đến như là tổ tiên trực hệ của các đời Hoàng đế nhà Mạc, được Mạc Thái Tổ truy tôn miếu hiệu là Viễn Tổ (遠祖), thụy là Kiến Thủy Khâm Minh Văn Hoàng Đế (建始欽明文皇帝).

XUẤT THÂN

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Mạc Đĩnh Chi quê ở xứ làng Bàng Hà[2] và Ba Điểm. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1287 đã theo hàng quân Nguyên. Nhà Trần sau chiến thắng đã trị tội cả làng, bắt dân làm lính hầu cho các vương hầu nhà Trần, không cho làm quan, nhưng sau này năm 1304, Mạc Đĩnh Chi vẫn được ứng thi và làm quan.[3]

Theo Lịch triều hiến chương loại chí, Mạc Đĩnh Chi là người làng Lũng Động, huyện Chí LinhHải Đông (tỉnh Hải Dương hiện nay), tổ tiên là Mạc Hiển Tích đỗ khoa Thái học sinh năm Bính Dần đời vua Lý Nhân Tông[4]. Ông thông minh hơn người, nhưng tướng mạo xấu xí.[1]
Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc mở học đường, tập hợp văn sĩ bốn phương, chu cấp cho ăn mặc, đào tạo nhiều nhân tài, trong đó có Mạc Đĩnh Chi. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng, thông minh hiếu học, thông hiểu lịch sử, lục nghệ, văn chương nhất đời. Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không nghề gì không thông thạo; từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo thành tài như Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu v.v... gồm 20 người, đều được dùng cho đời.[5]
(còn tiếp)
Reply
#9
(tiếp theo)

SỰ NGHIỆP

Năm 1304 đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, triều đình mở khoa thi Cống sĩ lấy 44 người đỗ Thái học sinh (tiến sĩ)[5]. Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên; Bùi Mộ đỗ bảng nhãn, Trương Phóng đỗ thám hoa. Khi mới đỗ nhà vua chê ông xấu, Mạc Đĩnh Chi bèn làm bài phú Ngọc tỉnh liên (Sen trong giếng ngọc) để tự ví mình với sen. Trong bài phú có đoạn:


Há rằng trống rỗng bất tàiThuyền quyên lắm kẻ lỡ thời thương thay.Nếu ta giữ mực thẳng ngay.Mưa sa gió táp xem nay cũng thường

Vua Trần Anh Tông xem rồi khen hay, thăng làm Thái học sinh dũng thủ, sung chức Nội thư gia.[1]
Tham dự triều chínhSửa đổi
Thời vua Trần Minh Tông, Mạc Đĩnh Chi càng được tin dùng hậu đãi. Ông là người liêm khiết, vua biết muốn thử ông, sai người đem 10 vạn quan tiền để trước cửa nhà ông. Sáng hôm sau Đĩnh Chi đem túi tiền lên triều, tâu nhà vua, Vua nói:

Không ai nhận tiền ấy, thì cho khanh lấy mà chi dùng.[4]

Mạc Đĩnh Chi cùng với các vị Trần Thời KiếnĐoàn Nhữ Hài, Độ Thiên Lư, Nguyễn DũPhạm MạiPhạm NgộNguyễn Trung Ngạn,... được sử quan Ngô Thì Sĩ nhận định trong Việt sử tiêu án: 

Các ông này làm quan có phong độ, ngạnh trực dám nói thẳng, có phong độ đại thần và nhân tài thịnh nhất hơn triều các vua khác.[4]

Thời vua Trần Hiến Tông ông làm chức Nhập nội hành khiển, Lang trung hữu ty, chuyển sang làm Lang trung tả ty trải đến chức Tả bộc xạ ở hàng quan to.[1]

(còn tiếp)
Reply
#10
(tiếp theo)

ĐI SỨ NHÀ NGUYÊN

Năm 1308 đời vua Trần Anh Tông, Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên, mừng vua Nguyên Vũ Tông mới lên ngôi [a]. Đó là lúc mới 20 năm sau chiến tranh chống quân Nguyên thứ 3 (1287-1288), sứ bộ bị nắn gân cốt rất mạnh.

Tuy nhiên trong hoạt động bang giao ông đã tỏ rõ khí phách và tài năng của mình. Hoạt động và tài năng văn chương của ông đã để lại nhiều giai thoại nổi tiếng.

Sau đó năm Nhâm Tuất (1322) ông đi sứ lần 2, nhưng chưa tìm được nguồn tin.

(còn tiếp)
Reply
#11
(còn tiếp)

CÁC GIAI THOẠI TRONG CHUYẼN ĐI SỨ NHÀ NGUYÊN

Tại cửa ảiSửa đổi

Thử thách văn chương đầu tiên là do trời mưa nên Sứ bộ đến cửa ải Pha Lũy (nay là ải Nam Quan) bị trễ. Quan trấn ải phía Trung Quốc không chịu mở cổng thành, song vì biết danh tiếng ông, nên thử tài bằng câu đối:

Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan.

Nghĩa là:
 
Qua cửa quan trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.

Ông đã đáp lại:

Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối

Nghĩa là:
 
Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin tiên sinh đối trước.

Quan giữ ải phục tài, lập tức mở cửa ải đón sứ bộ và tiếp đãi rất long trọng.

Buổi tiếp kiến đầu tiênSửa đổi

Khi đến Đại Đô (nay là Bắc Kinh, Trung Quốc), thấy Mạc Đĩnh Chi người thấp bé, nên người Nguyên tỏ ý khinh khi. Trong buổi tiếp kiến đầu tiên người triều Nguyên đã ra câu đối:

Nhật hoả vân yên, bạch đán thiêu tàn ngọc thố

Nghĩa là:

Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày thiêu cháy vừng trăng. Hàm ý là đại quốc đủ sức đốt cháy nước nhỏ.

Mạc Đĩnh Chi đã đối lại:

Nguyệt cung tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc kim ô

Nghĩa là:

Trăng là cung, sao là đạn, buổi chiều tối bắn rụng mặt trời. Hàm ý là nước nhỏ cũng có thể chống lại nước lớn trong hoàn cảnh thích hợp.

(Còn tiếp)
Reply
#12
(tiếp theo)

Bức tranh chim sẻ ở phủ Tể tướngSửa đổi


Khi Tể tướng triều Nguyên mở tiệc chiêu đãi sứ bộ Việt, ông thấy trong phủ Tể tướng có bức tranh thêu chim sẻ vàng đậu trên cành trúc rất đẹp. Đĩnh Chi kéo con chim sẻ xuống xé nát ra, người Nguyên hỏi cớ sao? Ông nói:

Cổ nhân có vẽ mai và tước, chưa thấy vẽ trúc và tước (sẻ). Trúc là quân tử, tước là tiểu nhân, bức trướng thêu này là đưa tiểu nhân đặt lên trên quân tử, nên tôi vì Thánh triều mà trừ mối tệ ấy đi.[4]

Bài minh cái quạtSửa đổi

Khi vào chầu vua Nguyên Vũ Tông, đang cuối mùa hè oi bức, có người của Sát Hợp Đài hãn quốc dâng cái quạt, ông phụng mệnh làm bài minh vào cái quạt. Sứ thần nước Cao Ly làm xong trước, có 4 câu, 16 chữ, Mạc Đĩnh Chi trông thế bút viết, biết được bài của sứ thần Cao Ly rồi, liền theo ý mà làm phiên câu văn đi, lại dẫn thêm 3 câu ở trong truyện làm câu kết, được khen thưởng hơn, đủ biết ông có tài và nhanh lắm, người Nguyên càng thêm thán phục. Bài minh của sứ Cao Ly:

Uẩn long trùng trùng,Y Doãn, Chu Công.Vũ tuyết thê thê,Bá Di, Thúc Tề[6].

Bài của Đĩnh Chi:

Lưu Kim thước thạch thiên địa vi lô,nhĩ ư tư thời hề Y Chu cự nho;Bắc phong kỳ thê vũ tuyết tái đồ,nhĩ ư tư thời hề Di Tề ngã phu.Y,dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng,duy ngã dữ nhĩ hữu thi phù.[4][7]

(Còn tiếp)
Reply
#13
Kính chào cô nương Bella ạ.

Sao cô nương dậy sớm thế?  Cô nương đang thưởng thức cà phê?

Tại hạ cẩn ký,
LTP.  :78:

( Đọc Nho nhiều quá, nên bị ảnh hưởng chút chút)

:dance:
Reply
#14
(tiếp theo)

Văn tế công chúaSửa đổi


Trong thời gian sứ bộ lưu ở Đại Đô, có một công chúa nhà Nguyên chết, sứ thần Việt Mạc Đĩnh Chi được cử đọc văn tế. Để thử tài sứ giả nước Việt, quan Bộ Lễ trao cho ông trang giấy chỉ có 4 chữ Nhất. Thật là một tình thế hết sức hiểm nghèo, nhưng rồi ông rất bình tĩnh ứng khẩu đọc:

Thanh thiên nhất đóa vân,Hồng lô nhất điểm tuyết,Thượng uyển nhất chi hoa,Dao trì nhất phiến nguyệt.Y ! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết !

Dịch nghĩa:
Một đám mây trên trời xanhMột bông tuyết trong lò lửa đỏMột nhành hoa trong vườn thượng uyểnMột vầng trăng Dao TrìÔi ! Mây tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết !

Ý rằng: trên trời có một đám mây, trong lò lửa có một bông tuyết, trong vườn hoa có một nhành hoa, trong hồ nước có một mặt trăng! than ôi! mây tan hết, tuyết tan rồi, hoa tàn héo, trăng không tròn![8]

Câu đố chết ngườiSửa đổi

Khi sứ bộ bái biệt vua Nguyên Vũ Tông để về nước, thì họ ra câu đố hiểm hóc:

Có một chiếc thuyền, trong đó có vua, thầy học, và cha mình (quân, sư, phụ) bơi đến giữa sông chẳng may gặp sóng lớn đắm thuyền. Khi ấy ngươi ở trên bờ ra cứu, nhưng chỉ có thể cứu được một người thôi, thế thì ngươi cứu ai?

Vào thời kỳ đó, trả lời sai sẽ bị tội phanh thây, chém đầu hoặc lưu giữ lại, dẫn đến nước Việt mất nhân tài. Nhưng ông đã trả lời:

Thần đứng trên bờ, thấy thuyền bị đắm, tất phải vội vã nhẩy xuống sông bơi ra cứu, hễ thần gặp ai trước thì thần cứu người ấy trước, bất kể người ấy là vua, thầy học hay cha mình.

Cuối cùng ông được ra về.
[Image: 250px-Den_Mac_Dinh_Chi.jpg]
Đền thờ Mạc Đĩnh Chi ở quê hương
Reply
#15
( tiếp theo)

GIA ĐÌNH

  • Tổ tiên là Mạc Hiển Tích đỗ khoa Thái học sinh năm Bính Dần đời vua Lý Nhân Tông sinh ra Mạc Hiển Đức, Hiển Đức sinh Hiển Tuấn, Hiển Tuấn sinh Đĩnh Kỳ. Mạc Đĩnh Kỳ sinh Mạc Đĩnh Chi [4].

  • Mạc Đĩnh Chi sinh ra Mạc Cao, Mạc Cao sinh ra Mạc Thuý, Mạc Thuý sinh ra Mạc Tung, dời sang ở xã Lan Khê, huyện Thanh Hà rồi sinh ra Mạc Bình, Mạc Bình lại dời sang xã Cổ Trai, huyện Nghi Dương rồi trú tại đó. Bình sinh ra Mạc Hịch, Mạc Hịch lấy con gái trưởng của Đặng Xuân người cùng xã, sinh được ba con trai, con trưởng là Mạc Đăng Dung, con thứ là Mạc Đốc Tín, con út là Mạc Quyết. Mạc Đăng Dung có sức khoẻ, vì đỗ võ cử, được sung vào quân túc vệ, đến đây phong cho chức này[5]. Mạc Đăng Dung sau làm vua - Thái tổ của triều Mạc.

  • Năm 1406, nhà Minh xâm lược nước Đại Ngu, Mạc Địch, Mạc Thúy, Mạc Viễn và Nguyễn Huân mạo nhận là họ Mạc đều là những kẻ bất đắc chí, đón hàng quân Minh, người Minh đều trao cho quan chức. Sau Mạc Thúy làm đến Tham chính; Mạc Địch làm đến Chỉ huy sứ; Mạc Viễn làm đến Diêm vận sứ; Huân làm đến Bố chính; (Thúy, Địch, Viễn là cháu Mạc Đĩnh Chi).[5]


Hậu duệ ở Triều TiênSửa đổi

Trong thời gian đi sứ Trung Hoa, sứ bộ nước Việt giao lưu rất thân thiết với sứ bộ nước Cao Ly. Sự tương đồng hoàn cảnh của hai nước trước cường quốc Trung Hoa, cùng với tài năng của Mạc Đĩnh Chi làm sứ thần Cao Ly mến mộ. Vị sứ thần Cao Ly đã mời ông sang chơi và gả cháu gái cho ông. Người thiếp này sinh được 1 nữ, và lần ông đi sứ thứ hai thì sinh 1 nam, từ đó lập ra một dòng họ ở bên đó.[9][10][11]

Một hậu duệ của ông đã tìm đến Việt Nam, bút đàm hán tự với ông Lê Khắc Hoè. Sau đó ông Hòe có viết bài "Người Triều Tiên đi bán sâm là hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi", muốn tìm họ Mạc để nhận họ, đăng trên An Nam tạp chí số 4 năm 1926 [b]. Sau này Vũ Hiệp sưu tập và đăng trên tạp chí Nghiên cứu Sử số 2, 1996 tại Sài Gòn.

(Xin mời các bạn tìm đọc thêm về cụ Trạng Mạc Đĩnh Chi trong Wikipedia.)
Reply