LTP Học Phật Pháp
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Nguyện (3-3)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BB%87n

Nên nhớ:

  1. Phật trí vô biên, 
  2. Phật lực vô cùng, 
  3. Phật tâm vô lượng 
nhưng không độ được người vô duyên.

Muốn cầu giải thoát: Bà con phải học giáo lý, sống chánh niệm .  Chỉ có học giáo lý, sống chánh niệm thì nguyện như vẹt. Vì nó chưa thực sự sợ luân hồi. Nó phải ngán thiệt.

Chúng sanh có 3 hạng: hạng hạ căn (thấy khổ ngán quá, cầu giải thoát); hạng thứ 2: thấy vui mong manh, cái đẹp, cái thích mong manh bèn cầu giải thoát, không muốn chơi trò chơi đó nữa; bậc thượng căn là thấy được sự vô ích vô nghĩa vô duyên của hiện hữu, cầu giải thoát.

  1. Chán "Khổ khổ" - hạ căn . 
  2. Chán "Hoại khổ" - trung căn .
  3. Chán "Hành khổ" - thượng căn. 
Cầu giải thoát không liên quan cảm xúc . 

Thấy mọi thứ ở đời do duyên mà có, có rồi lại mất. Có để mà mất chứ không có cái ý nghĩa gì hết. Các nhà hoạt động chính trị họ hứa tùm lum đó là cách nghĩ thế gian, chứ trong kinh Đức Phật dạy rất rõ: 
  1. có đâu cõi dục bằng cõi trời, 
  2. có đâu trong cõi sắc bằng cõi tịnh cư, 
  3. có đâu trong cõi vô sắc mà bằng phi tưởng phi phi tưởng.
Tôi nhắc lại: phải có học giáo lý, sống chánh niệm để làm một việc thôi: thấy cái cục này là khổ, gánh nặng. tất cả cái gì yêu nhất rồi cũng mất, có 2 cách: một là nó bỏ mình đi, hai là mình bỏ nó mình đi.

Phải liên tục sống như vậy . Trước mắt là bi quan xám xịt . Mới biết đạo nhìn ngán lắm, nghĩ đến cái chết, bất tịnh thì ngán lắm, nhưng nếu liên tục sống trong nhận thức như vậy của hành giả, tuệ quán sẽ có một ngày vẫn tiếp tục thấy như vậy nhưng không còn bi quan nữa mà an lạc. An lạc của người tu không phải mát lạnh, mà là có ngày anh thấy tất cả cái đắng không tồn tại quá 1 sát na, tất cả cái ngọt nó không tồn tại quá 1 sát na. Tất cả chỉ là sự tiếp nối của nhiều sát na thôi. Tất cả trầm uất, trầm cảm là chuỗi ghép nối của vô số sát na tâm lý. Một ngày quý vị sẽ thấy mình chỉ là một nắm cát, một túi hát é, hạt chia thôi.

Mình chỉ là chùm ánh sáng chớp tắt chớp tắt trong từng giây đồng hồ. Phải thấy như vậy. thấy không phải do tuyên truyền nhồi sọ rỉ tai mà tự thân mình thấy như vậy. Chính cái thân này, lúc nóng, lúc lạnh, lúc khó chịu, lúc thoải mái. Còn cái tâm này lúc buồn lúc vui.... Cái chết nó chỉ là sự rời rã của nắm cát thôi. Lúc đó cái chết nó không còn sợ hãi. Anh có càng nhiều, cái anh thích càng nhiều người anh thương càng nhiều, anh càng có nhiều cơ hội để đau khổ.

Chỉ có buông bỏ mới sống an lạc. Chỉ có buông bỏ mới chết thanh thản. Nếu tự xét khả năng buông bỏ của mình quá kém, thì ngay từ bây giờ ráng hạn chế sở hữu những thứ khó buông bỏ. ==> xăm lên người .

Các vị bắt buộc phải thuộc câu thần chú này cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, phải nhớ canh cánh, đau đáu trong lòng mình.
 
Tu là tu tâm không phải tu tướng. Đừng ham ngồi lâu. Cái quan trọng không phải ngồi bao lâu mà khả năng chánh niệm có bền bỉ hay không. 
 
Một ngày mà quý vị chánh niệm được 16 tiếng mà tư thế sinh hoạt lúc đi lúc đứng lúc nằm lúc ngồi tôi quý hơn quý vị ngồi 16 tiếng mà chánh niệm chưa đủ 10 tiếng, mà chưa nói ra khỏi lúc ngồi các vị lăng xăng lăng xăng. Đừng ngu xuẩn mà bì với thánh nhân. Thánh nhân nhập định 7 ngày là thánh nhân. Người ta có bệnh có chết cũng gấp tỷ lần mình. Mình không phải là thánh nhân. đừng có ham ngồi lâu. Quan trọng là: Pháp môn nào phù hợp với mình: Nếu thấy mình tu được theo chánh kinh thì không cần phải có thầy, vì tất cả các thầy đều trao truyền kinh nghiệm cá nhân, mang dấu vết đặc thù.
 
Đầu tiên: mở kinh Tứ Niệm Xứ của Trường bộ - Trung bộ. Đọc sách thiền ít thôi. Tôi dịch kinh nghiệm tuệ quán cho bà con tham khảo, chứ không mong các vị theo đó. "lắm thầy nhiều ma" Đọc để tham khảo thôi. giới thiệu quý vị một số kinh nghiệm "vui vui" của các vị thiền sư . Đừng coi những kinh nghiệm đó là toàn bộ, tất cả của vị thiền sư. Sai.

Bản thân họ lúc này lúc khác . Đừng nghe ông Sơn Nam nói chuyện mà phán đó là toàn bộ cụ Sơn Nam. Sai. Phải đọc, phải gặp, phải sống cùng, mà sống cùng còn phải coi ổng coi mình là bạn bè, là người vong niên, là người qua đường, là hàng xóm,...

chỉ nên dừng lại mức tham khảo, đừng coi đó là tất cả. Như cẩm nang nấu nồi canh chua, nên dừng lại ở mức tham khảo thôi, vì dân miền Tây nấu khác dân Sài Gòn.

Kỳ sau tôi thích giảng gì tôi giảng cái đó. 

Tôi không biết tuần sau tôi sẽ nói cái gì, nhưng mong bà con cứ liên tục gửi về đề nghị. Đề tài mình chỉ 1 chữ thôi. Chữ Thiện, Chữ Ác, ...Chữ Thiện trong đạo Phật nó thậm thâm. Chữ Ác, học một chữ Ác thôi cũng đủ tu đủ thành thánh rồi.


Mục lục các bài giảng

(Hết)
Reply
Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya
1. Kinh Pháp Môn Căn Bản
(Mùlapariyàya sutta)


Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn trú tại (tụ lạc) Ukkattha, trong rừng Subhaga (rừng Hạnh phúc), dưới gốc cây Sa-la vương. Tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo!". - "Bạch Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói: "Này các Tỷ-kheo. Ta sẽ giảng cho các Người "Pháp môn căn bản tất cả pháp". Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói". - "Thưa vâng, bạch Thế Tôn", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

(Phàm phu)
-- Này các Tỷ-kheo, ở đây, có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không được thấy các bậc Chơn nhân, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhân, không tu tập pháp các bậc Chơn nhân, tưởng tri địa đại là địa đại. Vì tưởng tri địa đại là địa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, người ấy nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri địa đại.

Người ấy tưởng tri thủy đại là thủy đại. Vì tưởng tri thủy đại là thủy đại, người ấy nghĩ đến thủy đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với thủy đại, nghĩ đến (tự ngã) như là thủy đại, người ấy nghĩ: "Thủy đại là của ta" - dục hỷ thủy đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri thủy đại.

Người ấy tưởng tri hỏa đại là hỏa đại. Vì tưởng tri hỏa đại là hỏa đại, người ấy nghĩ đến hỏa đại, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với hỏa đại, nghĩ đến (tự ngã) như là hỏa đại, người ấy nghĩ: "Hỏa đại là của ta"- dục hỷ hỏa đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri hỏa đại.

Người ấy tưởng tri phong đại là phong đại. Vì tưởng tri phong đại là phong đại, người ấy nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với phong đại, nghĩ đến (tự ngã) như là phong đại, người ấy nghĩ: "Phong đại là của ta"- dục hỷ phong đại. Vì sao vậy? Ta nói người ấy không liễu tri phong đại.

Người ấy tưởng tri Sanh vật là Sanh vật... Người ấy tưởng tri chư Thiên là chư Thiên... Người ấy tưởng tri Sanh chủ là Sanh chủ... Người ấy tưởng tri Phạm thiên là Phạm thiên... Người ấy tưởng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên... Người ấy tưởng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh thiên... Người ấy tưởng tri Quảng quả thiên là Quảng quả thiên... Người ấy tưởng tri Abhibhù (Thắng Giả) là Abhibhù...

Người ấy tưởng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ... Người ấy tưởng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ... Người ấy tưởng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ... Người ấy tưởng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ...

Người ấy tưởng tri sở kiến là sở kiến... Người ấy tưởng tri sở văn là sở văn... Người ấy tưởng tri sở tư niệm là sở tư niệm... Người ấy tưởng tri sở tri là sở tri...

Người ấy tưởng tri đồng nhất là đồng nhất... Người ấy tưởng tri sai biệt là sai biệt... Người ấy tưởng tri tất cả là tất cả...

Người ấy tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn, người ấy nghĩ đến Niết-bàn, nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn. Nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, người ấy nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói: Người ấy không liễu tri Niết-bàn.

(Vị hữu học)
Này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo, hữu học tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi khổ ách. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy đã không nghĩ đến địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, đã không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, đã không nghĩ: "Ðịa đại là của ta", - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri địa đại.

Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... phong đại... Sanh vật... chư Thiên... Sanh chủ... Phạm thiên... Quang âm thiên... Biến tịnh thiên... Quảng quả thiên... Abhibhù (Thắng Giả)... Không vô biên xứ... Thức vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ... sở kiến... sở văn... sở tư niệm... sở tri... đồng nhất... sai biệt... tất cả...

Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn; vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy đã không nghĩ đến Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, đã không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, đã không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy có thể liễu tri Niết-bàn.

(Bậc A-la-hán - I)
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri địa đại.

Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... phong đại... sanh vật... chư Thiên... Sanh chủ... Phạm thiên... Quang âm thiên... Biến tịnh thiên... Quảng quả thiên... Abhibhù (Thắng Giả)... Không vô biên xứ... Thức vô biên xứ... Vô sở hữu xứ... Phi tưởng phi phi tưởng xứ... sở kiến... sở văn... sở tư niệm... sở tri... đồng nhất... sai biệt... tất cả... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vị ấy đã liễu tri Niết-bàn".

(Bậc A-la-hán - II)
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.

Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có tham dục, nhờ tham dục đã được đoạn trừ.

(Bậc A-la-hán - III)
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.

Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có sân hận, nhờ sân hận đã được đoạn trừ.

(Bậc A-la-hán - IV)
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, có Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát. Vị ấy thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng trí địa đại là địa đại, vị ấy không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.

Vị ấy thắng tri thủy đại... hỏa đại... Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì vị ấy không có si mê, nhờ si mê đã được đoạn trừ.

(Ðấng Như Lai - I)
Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, Ngài không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Ta nói vì Như Lai đã liễu tri địa đại.

Như Lai thắng tri thủy đại... hỏa đại... Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của ta" - không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Ta nói vì Như Lai đã liễu tri Niết-bàn.

(Ðấng Như Lai - II)
Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại. Vì thắng tri địa đại là địa đại, Như Lai không nghĩ đến địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ đến (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: "Ðịa đại là của ta" - không dục hỷ địa đại. Vì sao vậy? Vì Như Lai biết rằng: "Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già và chết đến với loài sinh vật". Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự từ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Như Lai thắng tri thủy đại... hỏa đại... Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn. Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: "Niết-bàn là của Ta" -- không dục hỷ Niết-bàn. Vì sao vậy? Vì Như Lai biết rằng: "Dục hỷ là căn bản của đau khổ, từ hữu, sanh khởi lên, và già chết đến với loài sinh vật". Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói vì Như Lai, với sự diệt trừ hoàn toàn các ái, sự ly tham, sự đoạn diệt, sự xả ly, sự trừ bỏ hoàn toàn các ái, đã chơn chánh giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác."

Như vậy, Thế Tôn thuyết giảng. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn. 

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt


[*]Dựa theo các bản dịch Anh ngữ của Tỳ kheo Nanamoli và Tỳ kheo Thanissaro, đoạn cuối nầy dịch là:




Quote:"Như vậy, Thế Tôn thuyết giảng. Các Tỷ-kheo ấy không hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn."
("That is what the Blessed One said. Displeased, the monks did not delight in the Blessed One's words." -- Bhikkhu Thanissaro

"That is what the Blessed One said. But those bhikkhus did not delight in the Blessed One's words." -- Bhikkhu Nanamoli and Bhikkhu Bodhi)






Quote:Thật ra, trong bản dịch năm 1986, Hòa thượng Minh Châu có chú thích phần này ở cuối bài kinh (trang 19, Trung Bộ Kinh tập I, ấn bản 1986):
"... Các Tỷ kheo không có hoan hỷ khi nghe kinh này, các vị này ngu si và tự hào mình sáng suốt như đức Phật. Rồi đức Phật giảng Mùlapariyàyajàtaka để làm cho các vị này hết kiêu mạn. Sau đức Phật giảng kinh Gotamakasutta (A. i. 276) và các vị này chứng quả A-la-hán..."
Xin xem thêm phần giới thiệu bằng Anh ngữ ("Translator's Introduction") dưới đây để hiểu rõ sự khác biệt đó (và quyển "The Discourse on the Root of Existence", Bhikkhu Bodhi, Buddhist Publication Society, Sri Lanka, 1980).
Reply
Sư Toại Khanh Giảng bài Kinh Pháp Môn Căn Bản 2 (1-3)

Pháp môn căn bản 2

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=93B4E3w9WmY&abt=Ph%C3%A1p+m%C3%B4n+c%C4%83n+b%E1%BA%A3n+2


Quote:Kalama tri ân bạn buithibuukim ghi chép.
15/09/2021 - 01:22 - buithibuukim
TRUNG BỘ KINH
1. KINH PHÁP MÔN CĂN BẢN 2

Chúng ta tạm xong chương trình A tỳ đàm ba cấp: sơ, trung và cao. 

  1. Sơ cấp, chúng ta học về Tâm sở hữu, sắc pháp, Niết bàn, một cách đại lược thôi. 
  2. Trung cấp chúng ta học về nghiệp, về các hạng người, các tầng thiền. 
  3. Phần cao cấp chúng ta học về Duyên hệ, duyên sinh. 
Ba phần mình đã học xong trong ba năm nay. Thiệt tình bản thân tôi cũng chưa bao giờ có thể tưởng tượng rằng kéo dài lớp học được suốt thời gian như vậy. Và tôi phải nhìn nhận rằng lớp học đó một phần nằm ở sự đóng góp của các vị bền bỉ trong suốt ba năm. Mặc dù cuối cùng thì từ sáu bảy chục người mà xuống còn bao nhiêu đây. Bữa nay, suýt nữa là không có cô Thủy với cô Hương nữa, lớp còn có 3 người.

Hướng tiếp theo, nếu các vị còn muốn tiếp tục học thì tôi hướng dẫn thêm ba môn nữa. Tôi không dám nhận chữ ‘dạy’ mà tôi chỉ hướng dẫn các vị cách đọc Kinh Tạng.

Tại sao chúng ta học Kinh tạng? Kinh Tạng là một trong 3 tạng. Đức Phật ngài mất đi để lại cho chúng ta ba tạng là Kinh, Luật và Luận. 

Chữ ‘Luận’ đúng ra tôi không muốn dùng. Chữ Luận là bên Phật giáo Bắc Tông họ ăn gian. Họ tạo ra chữ ‘luận’ để ghép chung với tất cả những bộ sách do đời sau các vị Tổ sư viết. Thí dụ bộ ‘Thành thực luận’ của tổ (...) hay là Trung Quán Luận của Long Thọ, hay ‘Phật sở hành tán’ của tổ Mã Minh, ‘Chế ác luận’ của ngài Huyền Trang v.v... Họ kêu tất cả quyển sách hậu tác đời sau khi Phật không còn nữa là ‘Luận’. 

Một điều tôi rất ghét là họ rất ghét tạng Vi Diệu Pháp của mình. Bởi vì người học tạng Vi Diệu Pháp sẽ không tìm thấy bất cứ một chỗ đứng nào cho cái gọi là Phật giáo Bắc Tông. Đó cũng là lý do tại sao họ không ưa ngài Xá Lợi Phất. Họ viết ra quyển Kinh Duy Ma Cật và Kinh Pháp Hoa là họ chửi ngài Xá Lợi Phất không còn cái giống gì hết. Chúng ta đau lòng nhìn nhận chuyện đó.

Trong ba Tạng thì tạng Kinh nội dung rất là rộng, nhưng mình cần hiểu một cách nôm na là trong phần lớn Kinh tạng trong đó là những bài Kinh mà Đức Phật hoặc chư Thánh tăng giảng dạy cho những người hữu duyên mà các ngài gặp gỡ để tế độ họ giải thoát.

Tạng Luật là những Giới và Luật mà Đức Phật ban hành cho tăng già. 
  1. Giới, hiểu một cách nôm na là tất cả những gì chúng ta không nên làm. 
  2. Luật, là tất cả những gì chúng ta phải làm.
Còn tạng Vi diệu pháp, chữ Phạn là Abhidamma, Tàu họ dịch nhiều cái như ‘Thắng Pháp’, ‘Đệ nhất nghĩa pháp’, ‘Đối Pháp’, ‘Vô thủy pháp’. Đối Pháp là bởi vì tất cả mọi thứ trên đời này gom lại nó chỉ là hai sự thật thôi: là chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối.

Chân lý tương đối là sao? Trái cam, trái cóc, xoài, ổi, mận; đẹp xấu, ngon dở, cao thấp, mập ốm, trắng đen, tất cả những cái đó là sự thật tương đối.

Còn sự thật tuyệt đối là sự thật ở mức độ mình không thể chia chẻ được nữa. Thí dụ mình chưa học chemical thì mình còn nói nước cam, nước chanh, nước đường, nước mía. Nhưng mình học chemical rồi mình thấy trong đó không còn cái gì gọi là nước cam nước chanh hết. Tất cả chỉ là những composision chớ không có gì hết.

Chúng ta học về tạng Kinh, trong Kinh có đưa ra một ví dụ. Tạng Kinh là kêu người ta đến. Người mới vào Đạo không biết gì hết, họ nghe tạng Kinh họ rất là mê. Còn tạng Luật là trói người ta lại. Tức là khi anh thích cái Đạo này rồi thì tôi dùng cái luật cột anh. Còn tạng Vi Diệu Pháp là giết chết người ta. Giết là sao? Trước khi anh đến cái Đạo này anh có những suy nghĩ rất trời ơi. Anh tin là có thượng đế. Anh tin là người mà không tin thượng đế là đời đời sa hỏa ngục. Anh tin là có một linh hồn trường tồn bất biến . Anh tin đủ thứ chuyện. Nhưng khi đến với Vi Diệu Pháp, Vi Diệu Pháp đập tan hoang hết, nói mấy cái đó không có. Tất cả chỉ là Danh và Sắc nó cộng hưởng với nhau trên một quy luật nhân quả. Chỉ vậy thôi, chớ nó không có cái tôi, cái ta. Nói rằng tất cả đều có, có cả một linh hồn, là bậy. Mà nói tất cả đều không, cũng không đúng. Bởi vì quả thật nó có chứ, nó có danh sắc, nó có nhân quả, nhưng cái ‘có’ đó là CÁI CÓ KHÔNG LIÊN HỆ GÌ ĐẾN CÁI TÔI như cách nghĩ của thường tình. Nên trong Kinh mới nói ‘Tạng Kinh là kêu người ta đến. Tạng Luật là trói người ta lại. Còn tạng Vi Diệu Pháp giết chết người ta’. Tức là giết chết cái ngộ nhận của mình.

Tôi đã hướng dẫn các vị đúng ra mình đã đi ngược đó. Nghĩa là mình học cái khó trước, cái dễ sau. Lý do sao tôi làm chuyện đó? Kẹt chỗ là tạng Kinh có rất nhiều vấn đề mà nếu ta không học Vi Diệu Pháp thì người nói đã khó mà người nghe cũng khó. Tôi ví dụ như nay mai mà các vị học hết 152 bài Kinh Trung Bộ, các vị sẽ thấy một chuyện là các vị vừa giật mình mà vừa mang ơn tôi. Là nếu không từng học Vi Diệu Pháp các vị lật ra thấy phần dạy:

“Này các tỳ kheo thế nào là Giới, thế nào là Định, thế nào là Tuệ. Này các tỳ kheo, giới đây gồm bao nhiêu phần, trung giới, tiểu giới và đại giới. 

  1. Thế nào là tiểu giới? Vị tỳ kheo giữ gìn 227 giới không ô nhiễm gọi là tiểu giới. 
  2. Trung giới là vị tỳ kheo không cất giữ vàng bạc, không làm thầy bùa thầy pháp. 
  3. Thế nào là đại giới? Đại giới là vị tỳ kheo từ bỏ tất cả các sở hữu. 
Còn thế nào là Định
Này các tỳ kheo, Định ở đây là 
  1. ly tham, 
  2. ly dục, 
  3. ly ác pháp,
  4. chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh. 
  5. Sau khi vượt khỏi trình độ Sơ thiền vị ấy đạt đến trình độ Nhị thiền. 
  6. Sau khi đạt đến trình độ Nhị thiền vị ấy đạt đến trình độ Tam, Tứ thiền”.
Chưa hết, Ngài còn hướng dẫn thêm:

  1. “Sau khi vượt qua trình độ Sắc giới, này các tỳ kheo, 
  2. cái định học vị tỳ kheo còn được nâng cao bằng các tầng thiền Vô sắc”.
Tôi phải nói rõ nếu không học Vi Diệu Pháp mà nghe Sơ, Nhị, Tam, Tứ mình ‘chết’, không hiểu! 

Bây giờ rất là clear thế này. 
  1. Các vị vừa nghe nói đến người, cõi, tâm, sở hữu các vị biết: Tất cả cái gọi là chúng sanh, từ Phạm thiên cho đến con ruồi con muỗi đều gọi là chúng sanh, dầu cho cõi nào đi nữa, đã là chúng sanh thì chắc chắn nó sẽ nằm trong 12 hạng người, không ra được. 
  2. Còn nếu nói về cõi thì dầu anh ở trên trời dưới đất anh không ra được 31 cõi. 
  3. Còn thế nào là Tam giới? 31 đó chia làm ba khúc, ba tầng. Tầng dưới là 11 cõi, tầng giữa (Sắc giới) là 16, tầng trên nữa là 4 cõi Vô sắc. 
Cho nên nhờ có khái niệm vậy, chỉ chừng nghe Đức Phật nói thế nào là Định: “Này các tỳ kheo ở đây vị tỳ kheo ly dục, ly ác, chứng và trú Sơ thiền trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh”.

Tâm Sơ thiền là sao? Tâm Sơ thiền là cái tâm đầu tiên dẫn mình đi đến tầng Phạm thiên giới đầu tiên. Các vị nghe kịp không? Tôi báo trước, học Trung Bộ mình mất thì giờ, có lẽ tôi dạy hơi trễ.

31 cõi = 11+16+4

Bây giờ 121 tâm + 52 sở hữu + 28 Sắc pháp.

Trong 121 tâm thì ở tầng Vô sắc giới thì bây giờ mình hiểu nôm na tâm Vô sắc giới nằm ở đây, tâm các tầng thiền Sắc giới nằm ở đây. Còn riêng 11 cõi Dục giới này thì nó có đủ trừ ra các tâm quả. Tâm quả đáo đại nó không có. 

Còn nhớ không, tại sao tâm quả đáo đại nó không có? Bởi vì tâm quả đáo đại là cái tâm làm việc tục sanh, tái tục bình nhật. 

Cho nên chỉ cần nói đến tâm linh, tâm thức thôi thì biết rằng 121 + 52. 

Nói đến vật chất thì mình phải hiểu đó là 28 sắc pháp, đơn giản vậy thôi. 

Chỉ cần nghe nói đến ‘người’ là mình biết rằng 
  1. 4 người khổ, 
  2. rồi người lạc, 
  3. rồi người nhị, 
  4. người tam nhân 
  5. cộng với 8 ông thánh nữa. 
Thì tôi nói nếu không hướng dẫn các vị cái khó đó, đối với tôi Vi Diệu Pháp là cái khó mà nó căn bản thì các vị học Tạng Kinh rất là khổ.

Bây giờ chúng ta học bài Kinh đầu tiên trong 152 bài: bài Pháp Môn Căn Bản (Trung Bộ Kinh 1)

BÀI KINH 1 – CĂN BẢN PHÁP MÔN (Mulapariyayasuttam)

(Tôi nhớ bài này đầu tiên tôi học ngài Hộ Giác là cách đây 23 năm rồi. Hồi đó ngài lấy bài này dạy Pali chớ không phải tôi học giáo lý)

Duyên khởi:

Phật ngự tại Ukkattha và lý do Ngài thuyết giảng Kinh này chính là để cải hối 500 vị tỳ kheo đa văn nhưng kiêu mạn. Họ thuộc lòng rất nhiều Phật ngôn và tự cảm thấy không cần thiết phải đi hầu Phật hay lắng nghe chư trưởng lão nữa. (Chư trưởng lão là ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên, ngài Ananda, ngài Ca Diếp v.v...)

Notes: Những bài Kinh nguyên thủy Đức Phật để lại đơn giản lắm. Sau đó các vị thánh tăng các vị làm commentary chú thích rất tường tận. Các vị cho biết tại sao có cái tên thành đó, tại sao có cái tên gì thì các vị nói luôn. Cho nên một người chỉ đi chùa nghe Pháp rồi đủ để tu, một người muốn cảm giác mình được sống trong lòng Đức Phật phải nói là người đọc Kinh tạng.

Thành này kêu là Ukkattha, chữ ‘ukkattha’ có nghĩa là ‘cây đuốc’ là vì thời xưa thành này giống như Cô Tô Đài ở bên Trung Quốc đời nhà Ngô. Ngô Phù Sai làm cho Tây Thi ở. Thành Ukkattha này làm ban đêm nên đốt đuốc sáng rực nên khi làm xong dân chúng kêu thành Ukkattha là cây đuốc, giống VN mình có thành Cổ Loa. ‘Loa’ trong tiếng Hán là ‘con ốc’, cái thành đó xoắn ốc vầy nè.

Ukkattha này dựa vào một sự cố thời Đức Phật có một chỗ là (...) có nghĩa là nghe tiếng con cá sấu kêu lúc người ta đang lập ấp lập thành thì ban đêm cá sấu lên nó kêu. Người ta dựa vào chuyện này đặt tên. Ukkattha là thành phố xây cất vào ban đêm đốt đuốc để xây. Rồi 500 vị này là 500 thanh niên Bà La Môn rất thông minh, học hết chương trình Vệ Đà là toàn bộ kinh kiến thức của Bà La Môn giáo học hết. Giống như mình bây giờ có bằng Ph D vậy đó. Đã vậy vô trong chùa Kinh, Luật, Luận đều học giỏi nên nghĩ rằng mình giỏi, các vị không đi hầu Phật.

Bổn phận của Đức Phật
Trong Kinh nói Đức Phật có 5 bổn phận trong một ngày: 
  1. Buổi sáng đi khất thực. 
  2. Buổi chiều thuyết Pháp cho tứ chúng nghe. 
  3. Buổi tối dạy dỗ chư tăng. 
  4. Giữa khuya trả lời câu hỏi cho thiên chúng thiên nhân. 
  5. Rạng đông Ngài dùng Phật trí quan sát trong tam thiên đại thiên thế giới ai có duyên để Ngài độ, từ một vị Phạm thiên cho đến một con rồng hay một ông lão ăn mày. 
Trong Kinh nói việc làm của Đức Phật ngày nào cũng như ngày nấy, từ năm 35 tuổi cho đến năm 80 tuổi không ngày nào không như vậy trừ ra lúc Ngài nhập Thiền diệt. Nếu Ngài không nhập Thiền diệt Ngài luôn làm đủ 5 chuyện này hết.

Thì 500 vị tỳ kheo này sáng đi bát thì cũng đi bát chung với Phật. Chiều về, Phật thuyết Pháp tứ chúng nghe, mà mấy ổng không nghe. Tối Đức Phật giảng chư tăng nghe mà mấy ổng nghĩ Đức Phật trước sau Ngài cũng nhắc đi nhắc lại có mấy chuyện: 
  1. thu thúc lục căn, 
  2. giữ gìn giới luật, 
  3. tiết độ ăn uống, 
  4. sống chỗ thanh tịnh, 
  5. thường sống tỉnh giác, 
  6. không mê ngủ. 
Thật ra trong giáo pháp chư Phật ba đời chỉ có 6 cái đó thôi. Nói gọn có bao nhiêu chớ không có nhiều. 6 cái này nói tán ra nó thành tám muôn bốn ngàn pháp môn thành ra Tam Tạng:

- Giữ gìn giới luật trong sạch.
- Thu thúc lục căn.
- Tiết độ ăn uống.
- Thường xuyên tỉnh thức.
- Ở trú xứ thanh tịnh.

Tức là vị sa môn chỉ làm sáu chuyện này thôi, từ phàm sang thánh, từ thánh thấp lên thánh cao. 


Thì 500 vị tỳ kheo này ngoài đời giỏi vô đạo giỏi cho nên kiêu ngạo không học nữa. Chư tăng thấy vậy nói với Đức Phật ‘Chúng con thấy 500 vị có giỏi nhưng sao bằng mấy vị trưởng lão, mà mấy vị trưởng lão thuyết Pháp họ không nghe’. 

Ngài Xá Lợi Phất có một người đệ tử A la hán mới 7 tuổi mà ngài đệ tử đó thuyết Pháp là ngài ngồi ngài nghe. Chớ không phải như mình, mình nghĩ lên tới Xá lợi Phất rồi đâu có nghe Pháp. 

Tôi nhớ tôi đọc cái này tôi xúc động. Tôi nhớ đọc xong tôi chạy qua phòng sư huynh khoe trời ơi sao chuyện kỳ vậy. Sư huynh nói hồi đó sư huynh đọc cũng xúc động nữa. 

Có một buổi chiều Đức Phật từ phòng Ngài đi qua hội trường lớn của chư tăng. Thì chư tăng đang bàn chuyện gì, Ngài hỏi ‘Các ngươi đang bàn chuyện gì vậy?’. Thì chư tăng thưa, Ngài mới dựa vào câu chuyện đang bàn đó Ngài mới nói.

Đức Phật đi đến gần của hội trường thì Ngài nghe trong một vị tỳ kheo trẻ tuổi mới xuất gia đang thuyết Pháp. Đức Phật liền đứng im, đợi vị đó giảng vừa xong mới gõ cửa. Chư tăng mở cửa gặp Đức Phật. Trong Tam giới này không ai có tư cách thuyết Pháp mà để ông già đứng kiểu đó hết trơn. Vị tỳ kheo liền quỳ sụp xuống: “BạchThế Tôn, nếu con biết Thiện Thệ đứng ngoài cửa thì dầu cho cái mạng con dứt con cũng không dám nói thêm nửa lời”. Đức Phật nói:

“Nói vậy không chính xác vì chư Phật ba đời, chư Phật mà trở thành chư Phật là vì chư Phật tôn trọng Pháp”.

(Còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng bài Kinh Pháp Môn Căn Bản 2 (2-3)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=93B4E3w9WmY&abt=Ph%C3%A1p+m%C3%B4n+c%C4%83n+b%E1%BA%A3n+2

Tôi khoái câu đó. Ngài nói “Chư Phật mà được là chư Phật là vì đối với Chánh Pháp chư Phật có sự tôn trọng như vậy”. 

Trong Kinh nói có một ông chăn bò ổng lùa bò đi ngang chùa Kỳ Viên, ổng thấy Đức Phật thuyết Pháp ổng thích quá đi. Ổng đứng đó chống cây gậy đứng nghe mà không biết đang chống lên một con ếch. Theo trong Kinh nói con ếch đó từ thân người mới qua nên còn trí giác, nó hiểu. Nó đau quá tính kêu nhưng sợ tiếng kêu làm ồn người ta đang nghe Pháp, cho nên nó chịu trận. Mà ông kia nghe đã quá đè nó chết ngắc. Nó chết nó sanh làm vị thiên tử của trời tên là Manlukadevuta, ‘maluka’ tiếng Phạn là ‘con ếch’. 

(https://vi.glosbe.com/vi/pi/con%20%E1%BA%BFch
maṇḍūka (Pali): con ếch)

Về sau ngài Mục Kiền Liên lên trên đó ngài hỏi ‘Chư tử làm phước gì được sanh lên cõi hào quang nhiều vậy?’. Có vị nói phước thế này thế kia. Thì một vị sư, cái tiếng ngài vang vang hùng dũng lắm, nói “Con chỉ vì lòng tôn trọng Pháp, con đau mà không dám kêu”.

Thời Đức Phật cũng có một ông có đứa con tên là (...). Ổng đang ngồi nghe Pháp thì ở nhà có ăn cướp vô, người nhà chạy tới báo, nói cướp nó đang rình, ổng vẫn ngồi nghe. Lát người nhà báo cướp vô rồi. Ổng hỏi vô tới buồng ta chưa? Chưa thì không sao. Ổng tiếp tục nghe Pháp. Lát cướp vét sạch bách thì ổng nói ‘Nếu đúng là của ta thì không ai lấy được. Nếu ai lấy được thì nó không phải là của ta’. Ổng đợi Phật nói xong, ổng đảnh lễ Đức phật rồi đi ra. 

Chuyện đó có thể khó tin nhưng chuyện này còn khó tin hơn nữa. 

Trong Kinh nói trong thành đó có con chúa Dạ Xoa nó mạnh lắm. Nó là Phật tử, nó biết chuyện đó. Cái đám ăn cướp vừa đem đồ ra khỏi nhà thì gặp Dạ Xoa đánh quá trời. Dạ Xoa nói ‘Lấy ở đâu thì trả đấy’. 

Tôi nhớ hồi còn ở VN có tụng Kinh cho mấy đám bị nhập. Nghe gia đình kể lại, đi Campuchia đi bộ đội đó rồi tham, chùa Miên Phật vàng nhiều lắm. Cái nào bỏ túi bỏ vô ba lô được thì bỏ, cái nào không được mình bẻ đầu bẻ tay vậy đó. Rất nhiều thằng bị. Nó bẻ xong bỏ vô ba lô rồi từ đầu hôm tới sáng nó không ra khỏi cái chùa đó được. Nó đi vòng vòng, vòng vòng .. Sáng bạch ra rồi sư cả bắt nó giao cho công an. Có nhiều thằng lấy xong về nó khùng luôn. 

Người ta nói của phi nghĩa không giữ được. Phải tin chuyện đó. Đó là chưa nói có lời đồn vàng Miên là xài không được. Mình làm ăn giàu cách mấy mình đem về tới Sài Gòn ít bữa, một vài năm nó cũng bị cái gì đó sạch tán mất. Kỳ lắm, nó có cái lời nguyền của tổ tiên họ, vàng Miên là phải người Miên xài. Còn mình mà đem về bị giặc giã, bị lừa bị gạt là mất sạch không còn.

Khi Đức Phật biết chuyện thì kêu chư tăng mời 500 vị tỳ kheo này lại. Ngài chỉ hỏi đơn giản là: ‘Có phải 500 vị giỏi đến mức vậy hay không. Ở ngoài đời học hết cái đó phải không?’

– Dạ, phải. 
– Rồi đi xuất gia thì học được những gì? 
– Dạ, theo chúng con thấy tất cả những gì Thế Tôn vẫn dạy chúng con đã thuộc. 

Ngài nghe vậy Ngài không khen cũng không chê.

Nội dung Kinh:

Đức Phật đã cho gọi 500 vị tỳ kheo này đến. Bằng một Pháp thoại ngắn, Ngài đã mở ra cho họ một chân trời mới mà bằng vào toàn bộ kiến thức bản thân họ vẫn chưa bao giờ có thể nhìn thấy.

Trước hết Đức Phật xác nhận rằng tất cả vạn hữu trong cuộc đời này chỉ là cuộc tuần hoàn sanh diệt của các uẩn. Ở đây Ngài đặc biệt nói nhiều về bốn Đại (đất, nước, lửa, gió). Chẳng hạn Đức Phật xác định rằng cho dầu một người có đa văn quảng kiến đến mấy nhưng nếu thiếu đi công phu tu tập thì họ vẫn tiếp tục là tù nhân, là con thú mắc bẫy, là nạn nhân của chính những thứ mà họ học hiểu, cảm nhận, thưởng thức hay chịu đựng. Ngài dạy rằng do thiếu đi khả năng giác tỉnh theo con đường của các bậc thánh, toàn bộ những buồn vui của một phàm phu chỉ đơn giản là những ngộ nhận được khởi đi từ cái nhìn sai lệch của họ đối với thực tại các Pháp: “Họ thấy họ có bốn đại, bốn đại có trong họ, bốn đại là của họ, hoặc họ là của bốn đại”. 

Từ những ngộ nhận thấp nhứt về bốn đại, Đức Phật lần lượt đề cập đến các Pháp khác ở một bình diện cao hơn, đó là sự hiện hữu của một thiên tử Dục giới (những vị phước nhiều ở cõi Dục, mỗi ông có hàng ngàn người hầu, Tứ đại thiên vương cũng là thiên tử), của các vị Phạm thiên. Ngài nói tất cả đó nếu mà không khéo nó chỉ là sự ngộ nhận thôi. 

Sau cùng Ngài đề cập đến cứu cánh cao nhất của quá trình tu chứng là Niết bàn. Phàm phu có ý hướng giải thoát, nếu không khéo suy tư thì vẫn nghĩ về Niết bàn bằng một cái nhìn ngã chấp, tiếp tục bị tù đày trong đó. Nói gì là những giá trị tu học mà họ thủ đắc được ngay lúc còn sống như giới hạnh, kiến thức, thiền định ...

Notes:

Đức Phật muốn nói rằng kiến thức của các ngươi học nó cũng như vậy thôi. Kiến thức đó các ngươi cảm thấy hãnh diện, cảm thấy hạnh phúc đối với nó là vì các ngươi cảm thấy mình có kiến thức và kiến thức đó ở trong lòng của mình.

Khi ngài Xá Lợi Phật mất, ngài A Nan khóc, Đức Phật khuyên một câu mà tôi mê vô cùng. Ngài nói: “A nan nè, bộ Như Lai chưa từng nói với ngươi cái gì có là nó phải mất hay sao”. Ngài A Nan nói ‘Con nhớ mà con buồn. Tôn giả Xá Lợi Phất là một người cha, người anh, người thầy, sư huynh, một người bạn của con. Bây giờ tôn giả mất, các phương hướng mờ mịt, đối với con tâm trí con yếu ớt muội lược như lau sậy”. Đức Phật mới hỏi “A Nan này, lúc Xá Lợi Phất còn sống, có ngũ uẩn không?’ ...

Giới hạnh những đức độ đó là những cái nên có cho hành trình giải thoát. Chớ nó không phải là cái để mình ôm. Tất cả những kiến thức Phật Pháp đó chỉ là cái bè qua sông. Chớ không phải là cái qua sông rồi mình ôm vác cái bè đi nữa. Tại mình dốt, mình biết Phật Pháp cao diệu quá mình mê. Hiếu học mình mê là đúng nhưng đừng bao giờ mình cảm thấy quá an lạc, quá thoải mái với những cái mình đã học. 

Đức Phật không nói thẳng cho các vị sốc, mà Ngài nói kiểu đó làm mình thấm.

Đức Phật có cách dạy Đạo vui lắm. Ngài kể một câu chuyện như kể cho vui nhưng thực ra Ngài lồng trong đó nội dung rất độc đáo. Chuyện người mù sờ voi bây giờ nhiều nước trong truyện cổ tích của họ đều có nhưng họ không ngờ đó là câu chuyện trong Kinh Phật. Kinh nói ngày xưa có một ông vua nghe nói là người mù bẩm sinh không biết gì hết. Ổng không tin nên cho người dẫn mấy người mù về. Ổng muốn biết cách nhìn của họ về cuộc đời ra sao.Ổng mới cho một con voi đứng đó, nói với mấy người mù: Bây giờ trẫm cho các ngươi rờ con voi, rồi tả lại cho trẫm coi con voi hình dáng nó ra sao. Thì một anh rờ cái đuôi voi nói con voi hình nó giống cây chổi chà . Một anh rờ cái ngà nói con voi giống như bắp chuối. Một anh rờ cái lưng nói con voi giống như tấm phản. Người thì rờ cái chưn nói nó giống như cột nhà. Ông vua ngồi nhìn cười hoài.

Đức Phật nói chúng sanh phàm phu sinh ra trong đời tùy vào môi trường sinh sống, điều kiện văn hóa, điều kiện tập tục, khí hậu thực phẩm và trình độ kiến thức bản thân mà chúng ta có cái nhìn khác nhau về cuộc sống.
 
Các vị biết có rất nhiều người nghĩ những chuyện mà tôi giật mình. Tôi không ngờ trên đời có những người đơn giản như vậy. Có một lần tôi ở dưới quê Mỹ Thuận, năm 95, 96. Có chú thiện nam thân lắm, chú vô phòng tôi thấy tự điển nhiều, Anh Việt, Hán Việt, trong đó có Tự điển tiếng Việt. Thì ảnh hỏi tự điển tiếng Việt là sao? Tôi nói Tiếng Việt mình dùng có những chữ nào nghi nghi thì tra. Ảnh nói tiếng Việt mình người VN có gì lạ đâu mà phải tra. Tôi nghe giật mình. Thì ảnh không viết lách, ảnh không nói chuyện với đám đông, ảnh không biết chuyện dùng chữ rất là quan trọng. Và cái lượng từ ngữ có trong đầu anh tùy vào cái chuyện mà anh biết.

Đức Phật kể ngày xưa có một nhóm người vào rừng tìm lõi trầm. Họ đi vô rừng có nhiều cây trái lạ thích thú họ quên. Hồi nhỏ tôi vô rừng có những trái ngon lắm như trái vú bò, trái cò ke. Thì có một số người đi vô rừng họ không chết vì cái cây mà chết vì cành lá. Có số người không chết vì bông hoa mà họ chết vì vỏ cây ( như được vỏ quế tưởng là đủ rồi). Ngài nói, từ từ cuối cùng có anh chàng khôn ngoan nhứt, ảnh cần tìm cái gì thì trên đường đi mà gặp cái đó ảnh mới đi về. Còn chưa gặp thì ảnh chưa về.

Ngài nói trong cuộc tu, đệ tử Ngài có những vị đi vào trong Đạo đầu tiên gặp danh lợi thì bị ngã. Có hạng khá hơn họ không bị rớt vì danh vì lợi mà bị rớt vì cái khác vì Giới Luật. Khi họ tu họ có đức độ trong sạch đâm ra bị cái bịnh tự thán phỉ tha, phỉ là chửi. Hồi đó tôi có gặp, họ trong sạch mà khi họ trong sạch mình ở gần họ mình rất khó chịu. Trong sạch mà theo của bậc Thánh rất là dễ thương. Có nghĩa là mình trong sạch là đủ rồi. Còn có nhiều vị trong sạch họ muốn cho người khác biết. Tôi có gặp một vài cái hơi khó chịu như vầy. Mình ngồi chung với ổng, Phật tử tới dâng cái gì mà nhỏ vầy nè, kiểu như ly nước thì họ đưa tôi cầm thôi. Mà ổng né ‘ư...’ vầy nè, ổng sợ đụng tay! 

Ngài Ajahn Chah có kể câu chuyện tôi rất thích. Ngài kể có một lần đầu mùa an cư ngài nguyện ‘Trong 90 ngày này tôi sẽ không nhìn bất cứ người đàn bà nào’. Nó qua được 89 ngày. Tới ngày cuối ngài ôm bát nghĩ bây giờ nhìn thử coi sao. Ngài ngước nhìn lên ngay chóc người phụ nữ mà ngài nói có cảm giác dễ sợ lắm, như có một luồng điện xẹt qua. Sau đó ngài về tự ngài suy nghĩ: “Không được, cái Giới là từ ở trong đi ra chớ không phải mình đóng cửa. Mình đóng cửa mà ở trong mình lén lén ngó thì cũng vậy thôi”. Giống như xe bò không chạy mình đập con bò chớ không phải đập cái thùng xe được. 

Riêng trong chuyện này tôi nói bằng kinh nghiệm của tôi. 

Tôi nghĩ rằng để thoát ly cái gì đó thì phải thoát ly bằng chính sự suy tư thấu đáo của mình chớ không phải bằng sự trốn tránh. Phải thấu đáo nó mới buông nó. Người tu mình phần lớn giống như Mỵ Châu, chân đi mà lòng ở lại. Mình nói thôi tôi không tiếp xúc với danh lợi mà mình để ý coi ông nào danh lợi nhiều mình ghét. Tức là mình không dấn thân vào con đường đó nhưng gặp người ta được mình ghét. Cái đó là không phải. Như vậy mình vẫn là Mỵ Châu.

Rồi Ngài nói có hạng khá hơn là giữ giới luật trong sạch nhưng không hề tự hào, không lấy cái giới đó làm khổ mình khổ người. 

Tu đến trình độ khá hơn thì vị đó chứng đắc các tầng thiền: Sơ, nhị tam tứ thiền. Mà khi đắc rồi đam mê trong đó. Tối ngày cứ lo luyện thần thông: trưa nay ăn cơm ở Bắc Cưu Lưu Châu rồi chiều về ghé cõi trời, tối ngủ ở Đông Thắng Thân Châu. Nhiều vị mê cái đó, mê đến mức nhiều vị không. 

Các vị biết Thiền quán trong Tứ Niệm Xứ Đức Phật có dạy 10 pháp Quán niệm, chữ Phạn là (...), chữ Việt là 10 pháp trói buộc. 

Tại sao gọi là trói buộc? Người tu thiền mà còn dính líu tới đồ chúng, thí dụ đã về tiểu bang xa xôi ngồi thiền mà còn nhớ, lo không biết cái đám đệ tử mình giờ làm sao, hoặc là ống gaz, lò sưởi, điện đóm chùa mình... Hoặc là má mình, ba mình, thân quyến mình lâu quá chưa về thăm không biết họ ra sao. 

Tất cả 10 pháp quán niệm, mười, nhưng nói cho dễ nhớ là chỉ có 4 thôi: 
  1. tiền bạc, 
  2. danh vọng, 
  3. tình cảm và 
  4. chuyện riêng bản thân. 
Chuyện riêng bản thân là gì? Là học hỏi: ‘Mình chưa học hết Tam Tạng!’ Thời Đức Phật có nhiều vị vậy đó. Đang hành thiền tự nhiên chực nhớ lại mình chưa học tới đâu hết, hoặc ‘mình chưa có bằng Ph.D’, hoặc ‘mình chưa làm bài homework...’ là khỏi hành thiền luôn. Hoặc là hành thiền mà nghĩ ‘Tại sao mình chậm quá vậy?’, vì hành thiền mà nghĩ đến thần thông thấy mình chậm.

(Còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng bài Kinh Pháp Môn Căn Bản 2 (3-3)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=93B4E3w9WmY&abt=Ph%C3%A1p+m%C3%B4n+c%C4%83n+b%E1%BA%A3n+2

Thời Đức Phật có một vị tỳ kheo tên là Sunacata, ổng đắc được tới Ngũ thiền Sắc giới, nhưng ổng không an lạc bởi vì ổng tối ngày mơ một chuyện là đắc được thiên nhĩ. Tức là ổng có thần thông ổng biết người trước mặt nghĩ cái gì, ổng thấy chư thiên ở xa thấy hết, thấy miệng nhép nhép mà ổng không nghe ổng tức. Ổng vô gặp Đức Phật: “Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có nghe được chư thiên nói hay không?”. Ngài nói được. Ổng nói Ngài dạy cho con. Đức Phật nói ‘Không được’ mà không giải thích. Ổng về ổng luyện thêm thêm cuối cùng nghĩ là Ngài giấu nghề, hoặc là Ngài không biết. Tại sao cái gì cũng đắc mà thiên nhĩ ổng không đắc? Là do cái nghiệp ngày xưa ổng làm nghề búng sạn. Ổng bị què không có tiền ổng lấy lá búng hình con này con kia người ta thấy lạ cho tiền. Một bữa có vị Phật Độc Giác đi ngang ổng nghĩ ông thầy chùa này tứ cố vô thân, mình búng thử ông này coi sao. Ông thầy này nghiệp tới nên ổng búng xuyện tai người này chết. Búng xong rồi ngài không nói gì hết. Ngài biết là nó đã xuyên qua rồi. Với cái tâm lực của vị đắc Lục thông, ngài dùng thần thông Tứ thần túc kềm nó về đến núi Ngài mới Niết bàn. Mấy hôm sau dân làng không thấy ngài đi ngang nữa họ nói sao mấy bữa nay sư phụ không xuống nữa. Ổng mới nói làm sao mà xuống nữa, búng một sạn trổ qua tai rồi. Họ nghe vậy đánh ông này chết ngắc. Ổng chết sanh địa ngục, nhiều đời nhiều kiếp sanh ra kiếp nào cũng bị điếc. Cuối cùng gặp Đức Phật, ổng không bị điếc nhưng lại luyện thông không được do bị cái quả dư.

Cho nên trong đường tu của mình bị 10 cái pháp ‘quái’ (là ‘trói buộc’ không phải quái dị). Bị 10 điều trói buộc cái tâm của mình, trong đó là nghĩ về quyến thuộc, nghĩ về đệ tử, về chùa chiền, thần thông, về kiến thức. Mình nghĩ về những cái đó nên không tu tiến được.

Trong bài Kinh này Đức Phật ngài nói rằng: một vị phàm phu dầu có đa văn quảng kiến, nghe nhiều thấy rộng đến mấy nhưng nếu không khéo suy tư theo cách thế của bậc thánh thì vẫn bị chết, bị tù đày ngay trong chính những gì mình học hiểu. Phật Pháp học là để cởi ra, mà mình học là để mình túm vô. Rồi ai mà nói ngược lại với cái biết của mình thì mình bực. Cái đó là không được. Phải cởi ra, phải nghĩ rằng tại người ta không có duyên học, mà mình có duyên, thôi được rồi, chỉ vậy thôi. Nếu nói rằng người biết mà bực mình với người không biết vậy thì các vị ở cõi trời họ nhìn mình họ còn bực nữa. Bởi họ biết còn nhiều hơn mình nữa. Các vị biết Phật Pháp cõi người bây giờ nó rất yếu, chớ trong Kinh nói cõi trời bây giờ Phật Pháp rất là mạnh. Bởi 100 năm ở cõi người bằng một ngày đêm ở Đao Lợi. Mà Đức Phật ngài mới Niết bàn hơn 2.500 năm thì coi như ở trển mới hai mươi mấy ngày thôi. Có nghĩa là những vị đệ tử Đức Phật ở cõi người, chư tăng, cư sĩ thời Đức Phật chết sanh về cõi trời rất là nhiều. Trong đó có những vị thuộc nằm lòng năm tạng như rừng vậy đó, trùng trùng điệp điệp. Rồi họ nghĩ về mình làm sao? Mình ở đây học ba mớ gặp cái người hỏng biết thì coi thường. Vậy thì những vị trên đó họ coi thường mình mình chịu không?

Những đêm hôm tôi buồn quá, lẻ loi, cô độc quá, tôi nghĩ chư Phật tương lai thiếu gì, tại mình không thấy thôi. Mình nghĩ vậy mình đỡ lẻ loi. Nhiều khi mình có tâm nguyện phục vụ chúng sanh, hoặc cái gì đó mà thấy sao muốn làm mà mình bị khó khăn, bị trở ngại, đời không tri kỷ ‘Chỉ ta ta biết lòng ta ta hay’. Rồi ‘Nam nhi sự nghiệp ư hồ thủy. Hà tất cùng sầu đối cỏ cây’. Mình buồn, sanh ra hỏng ai hiểu mình hết: ‘Sanh bất phùng thời, sanh thời mạt Pháp’... Nhưng tại mình không chịu nghĩ xa, là thiện hữu thiện lữ trong tam giới này nhiều, chư Phật tương lai bây giờ đầy dẫy trong vũ trụ. Mà những người trước mặt mình, những người mình ghét nhứt bây giờ lại là những vị Phật tương lai, mà mình đã không biết mấy chuyện đó. Cho nên mình nghĩ vậy mình sẽ không cô đơn. Phải nói là ngay trong mấy chục năm trở lại đây không có ai bằng ông Gandhi nữa. Nhưng mà điều đó không có nghĩa là không bao giờ không có.

Hiện giờ có thể trong tương lai nhân loại sẽ có những Gandhi, những Lincoln mà bây giờ họ đang là những đứa bé ở trần ở truồng chạy đâu đó ở châu Á mà mình không biết. Tôi nhớ hồi đó có lần tôi đi với sư cậu về Trà Vinh, vô cái sóc Miên. Giác chiều mát mát hai cậu cháu đi lang thang, gặp mấy đứa con nít chăn trâu người Miên nó đen thui tóc quăn mà đen thui, người đất không, nó chạy đuổi trâu đi. Sư cậu tôi nói “Giác Nguyên nhìn tụi nó biết sư nghĩ gì không. Nhìn mấy đứa con nít vậy chớ Pháp sư không đó”. Thiệt người Miên đứa nít nào cũng tu hết. Nó hay lắm. Mình đang đi, đàn bà con gái mà đang chạy xe đạp, gặp mình từ xa xuống xe nép qua một bên lấy nón đứng che cúi xuống vầy nè cho mình đi qua, không có cho mình nhìn mặt đâu. Lễ phép! Còn họ thân thì ‘lục...’ ‘sư cậu’, ‘sư huynh’ không hà, kêu vậy đó. Còn con nít mười, mười hai tuổi ở trần ở truồng chạy ngời ngời ở ngoài đồng. Mà đồng khô hết nước nứt nẻ, mà chạy ngời ngời trên đó. Mình mẩy nó hôi, khét tanh, tay bắt cá bắt cào cào nó chơi. Nhưng chỉ cần nó bước vô chùa nó ngồi chồm hổm là nó đọc Pali rót rót. Còn người lớn tuổi thì vui lắm, hút thuốc mà vô chánh điện cũng hút. Muốn đảnh lễ thì nó để điếu thuốc trên nền, rồi ảnh quỳ ảnh lạy. Lạy mà cái đầu ảnh cách mặt đất cả cây số. Lạy xong lấy điếu thuốc ra ngậm tiếp ngồi nghe thuyết Pháp. Cái nhà của họ trống trước trống sau, bao nhiêu tiền bạc, bao nhiêu công sức của họ đổ hết về chùa. Tất cả các ngôi chùa Miên đều có lịch sử giống nhau. Là ngày xưa họ mời ở đâu bên Miên về một ông sư về ở đó. Cùng nhau họ đắp giữa đồng thành một cái gò, cất cái nhà lá lên cho ông sư ở. Ngày ngày đem cơm cho ông sư ăn. Rồi lâu ngày dài tháng, qua những mùa lúa mới chung đậu tiền bạc nhau lại đắp nền chùa. Chùa Miên nào cũng có ao rộng là tại nó lấy đất ở dưới lên đắp nền chùa. Đàn bà con nít, người già người trẻ đều có cái gánh, gánh kẽo kẹt đổ đất, gánh vậy ba năm thì được nền chùa lớn. Ban ngày nó đi làm đồng, làm rẫy làm ruộng, bắt cá bán. Chiều về trước khi đi tắm lấy quang lấy gánh ra gánh, ba năm như vậy. Mấy sư nói chùa nào cũng vậy hết, ba năm là xong cái nền. Mà vui lắm, sư nói cái cục đất bao lớn vầy nè, gánh ba năm thì thành cái núi chớ hỏng phải cái nhà nữa, cả trăm người mà. Vậy là xong cái chùa. Thương họ lắm! Hỏi họ, họ nói hai lý do tại sao họ tốt với chùa. Một, họ nói sống đây nhiều lắm 70 năm, mà những gì mình làm mình hưởng mấy triệu năm. Họ có niềm tin như vậy. Họ tin nhiều đời, ông nội họ tin như vậy, ông cố họ tin như vậy, ba họ, má họ, anh họ tin như vậy, tới họ họ cũng tin luôn. Đốt họ ra tro họ cũng tin như vậy.

Bị trói buộc tức là khi họ chứng cái đó, nếu không khéo nó thành cái gánh nặng cho họ. Và tất cả những gì mình có hôm nay, hạnh phúc của mình cũng do mình ngộ nhận mà ra. Cái đau khổ mình cũng do ngộ nhận mà ra. Tôi phải nói rõ là tôi rất xấu hổ khi tôi phải trình bày những cái tôi hiểu mà khi tôi làm chưa có hết. Phải nói một phần lý do là, Đức Phật ngài nói đối với các dục có 5 cái cần phải thấy.’Dục’ là những cái làm cho mình enjoy. Ngài nói: “Ta không phủ nhận cuộc đời nó có vị ngọt. Nhưng ta cũng muốn các vị tỳ kheo hiểu rằng bên cạnh các vị ngọt, chuyện đời nó cũng có cái vị đắng. 

Vị tỳ kheo thấy được 
  1. vị ngọt của cuộc đời là phù du, 
  2. thấy được vị đắng của cuộc đời là đáng sợ. 
  3. Từ đó đâm ra nhàm chán. 
  4. Từ nhàm chán có ly tham. 
  5. Từ ly tham đi đến giải thoát”. 
Đó là 5 giai đoạn cần có ở một vị tỳ kheo nhìn ngắm cuộc đời.

Hồi đó tôi không hiểu tôi nói Đức Phật chỉ cần nói cuộc đời này là khổ thôi chớ cần gì Ngài phải nói cuộc đời này có vị ngọt. Mà không phải. Ngài nói một người mà không thấy được cuộc đời này có vị ngọt thì lỡ bữa nào gặp vị ngọt là chết. Mình không thấy bữa nào thấy là mình chết, cho nên phải thấy cái vị ngọt đó. Nhưng cũng biết rằng vị ngọt của nó là vô thường, mà vị đắng cuộc đời là đáng sợ. Mà khi thấy được cái ngọt là vô thường, cái đắng là đáng sợ thì mình mới đi đến tâm trạng thứ ba là ly tham. Từ ly tham đi đến cái yểm ly (xa lánh nó). Từ xa lánh mới đi đến giải thoát. Đó là 5 giai đoạn cần có ở một vị tỳ kheo sống giữa cuộc đời phức tạp này. Giáo Pháp Đức Phật không có phân biệt với cư sĩ. Cái gì chư tăng thấy thì cư sĩ cũng phải thấy như vậy. Bởi đạo quả Niết bàn của một vị tu sĩ với đạo quả Niết bàn của một người cư sĩ không khác nhau. Nên mình nói tất cả Phật tử đều phải như vậy.

Đối với Niết bàn, tại sao hôm nay mình bàn cãi nhau quá nhiều, Phật giáo Bắc Tông đề nghị Phật tử hãy nghĩ đến Tây Phương cực lạc, còn bên Nam Tông thì nói đến Niết bàn, vì sao? Phải nói rõ là chúng ta đang bị mắc trong cái ngộ nhận của phàm phu. Có một bài Kinh tôi nhớ trong một đêm đầu đà ở VN, anh Phật tử hỏi tôi, tôi đem bài Kinh đó ra nói, anh Phật tử nói “Chúng con đến chùa học hỏi bằng thiện chí mà con không ngờ sư Giác Nguyên nói nặng chúng con như vậy”. Thì sư cậu ngồi đó sư cậu nói: “Không, về điểm này thì Sư có thể xác định với chúng cái đó là sư Giác nguyên trích dẫn trong Kinh chớ không phải lời của sư Giác Nguyên”. Bữa đó tôi trích dẫn bài Kinh Đức Phật nói giống như con chó nó bị người ta cột vô chỗ nào thì nó có cắn, có quào, có sủa, có la thì nó cũng lòng vòng trong đó thôi.

Thì phàm phu mình giờ có học nhiều bao nhiêu, biết nhiều bao nhiêu thì tất thảy những cái đó cũng không thoát được cái đó. Cho nên bây giờ mình thắc mắc ấm ức: ‘Tu bây giờ mệt muốn chết luôn, vượt qua cám dỗ cũng mệt, mà vượt qua thử thách cũng mệt, để rồi cuối cùng cái cứu cánh nó chỉ là chấm dứt hết, hỏng có cái gì hết. Vậy thì kỳ quá! Ít ra mình cũng về cái cõi nào đó có ao báu công đức, chim nói Pháp, gió thổi ra tiếng nhạc, chung quanh là ngọc ngà, rồi có chư Phật, có thánh chúng, có Liên hoa cửu phẩm. Rồi ai tu ít ở tầng thấp nhất. Ai tu cao ở tầng cao cao, rồi từ trong bông nở ra, mình bước vô hội chúng của Phật, sống đời đời kiếp kiếp không bị chết mới vui. Có gì đâu rồi lục căn mất tiêu, không còn gì hết!’

Nhưng có điều tại sao có người họ muốn như vậy? Là bởi vì họ thấy rằng ngày nào còn lục căn là ngày đó còn khổ. Tại sao mình mơ được sanh về cực lạc? Là bởi mình chưa thấy cái khổ thực sự của sự hiện diện ngũ uẩn, lục căn. Chớ nếu mình thấy thật sự thì mình không nắm nữa. Với cuộc đời này mình phải ‘mê’ mới giữ được nó. Chớ khi mình ‘tỉnh’ mình không cách gì giữ nó. Tôi nhớ sư cậu tôi có nhiều câu đùa mà tôi nhớ hoài. Sư nói: “Phải nói cũng hên, thánh A la hán không còn sanh tử, chớ nếu tâm hồn vậy mà kêu sống ở cõi đời thì sống bằng cái gì. Bởi vì không tìm ra được cái gì để mà enjoy hết”.

Một người muốn Niết bàn là sao? Trong Kinh nói, một hình ảnh mà tôi cho là hình ảnh này đáng để ghi nhớ. 

Thời Đức Phật có một quan đại thần ổng mê một cô vũ nữ, giống như Hán Vũ Đế mà mê triệu Phi Yến có đôi chân nhỏ. Ổng mê cô vũ nữ này có cái eo nhỏ. Ổng khen hoài, nói ta thương nàng ở cái eo đẹp quá đi. Nàng nghe nàng khoái nên không dám ăn nhiều. Bữa đó nàng múa múa rồi chết trên sàn nhảy, xỉu rồi nó đi luôn. Ông này đau khổ quá, đi phất phơ thất thểu. Lúc đó Đức Phật đang đi bát, đi ngang Ngài nói: “Không lửa nào bằng lửa tham dục. Không đau khổ nào bằng đau khổ đi ra từ tham dục. Ai không còn tham dục người đó không còn bị đau khổ”. 

Ổng nghe xong ổng đắc A la hán luôn.

Tôi muốn nói một chuyện.Tôi hy vọng lớp học mình cứ học Phật Pháp sẽ có lúc quí vị đạt được cái này. Lúc các vị nghe tôi nói, đọc trong Kinh thì không thấm. Mà lúc tự mình mình đụng thì tự nhiên nó thấm. Cái thấm đó là cái thấm của trí Tư. Nếu cái duyên nó đủ nữa thì nó không còn trí Tư nữa mà nó thành trí Tu. Còn bây giờ các vị vô lớp nghe tôi giảng thì dầu cho tôi có thuyết phục các vị được bao nhiêu đi nữa thì chỉ là trí Văn thôi. 

Nhưng sẽ có lúc các vị thấm, thấm đã lắm. 

Thí dụ trong Kinh nói: “Các pháp hữu vi là vô thường, là khổ vô ngã. Đời này cái gì có sanh ra là có mất đi”. Ai học giáo lý căn bản đều biết những câu đó. Nhưng kêu mình lấy cái hiểu để giác ngộ thì khó./.


(Hết)  
Reply
Về bốn quả Thánh và mười kiết sử
Bình Anson (2019)

https://budsas.blogspot.com/2019/06/tom-...-kiet.html

Kinh điển của Phật giáo Sơ kỳ (Nikāya và A-hàm) thường đề cập đến bốn quả vị mà tất cả những người con Phật phải nhắm đến trên đường giải thoát, đưa đến Niết-bàn. Các quả vị nầy được xem như là các dấu mốc – hoặc các chặng đường – trên hành trình thanh lọc tâm ý, tiêu diệt các ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm, cắt đứt mười sợi dây trói buộc chúng sinh vào vòng luân hồi (kiết sử hay thằng thúc, saṁyojana).

Bốn quả vị đó là:

- Dự lưu (Sotāpanna, Tu-đà-hoàn),
- Nhất lai (Sakadāgāmi, Tư-đà-hàm),
- Bất lai (Anāgāmī, A-na-hàm),
- A-la-hán (Arahant, Ứng cúng).

Mười kiết sử là:

- Thân kiến (Sakkāya-diṭṭhi),
- Hoài nghi (Vicikicchā),
- Giới lễ nghi thủ (Sīlabata-parāmāsa)
- Dục ái (Kāma-rāga)
- Sân hận (Vyāpāda),
- Sắc ái (Rūpa-rāga),
- Vô sắc ái (Arūpa-rāga),
- Mạn (Māna),
- Trạo cử vi tế (Uddhacca),
- Si vi tế (Avijjā).

Năm kiết sử đầu gọi là hạ phần kiết sử (orambhāgiya-saṁyojana), năm kiết sử cuối gọi là thượng phần kiết sử (uddhambhāgiya-saṁyojana).

Trong nhiều bài kinh, Đức Phật thường tóm tắt về bốn quả thánh đó như sau:

“... Có những tỳ-khưu là những vị A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn trừ, phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã thành đạt, hữu kiết sử đã được đoạn tận, được giải thoát nhờ chánh trí.

“Có những tỳ-khưu là những vị Bất lai, đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sinh, từ ở đấy được nhập Niết-bàn, không còn phải trở lại đời này nữa.

“Có những tỳ-khưu là những vị Nhất lai, đã đoạn trừ ba kiết sử, đã làm cho muội lược tham, sân, si, sau khi sinh vào đời này một lần nữa, sẽ đoạn tận khổ đau.

“Có những tỳ-khưu là những vị Dự lưu, đã đoạn trừ ba kiết sử, không còn đọa vào ác đạo, chắc chắn sẽ đạt đến giác ngộ.” – (MN 118)

*

Người đạt quả Dự lưu là người đã phá bỏ ba kiết sử đầu tiên: thân kiến, hoài nghi, và giới lễ nghi thủ. Người nầy được xem như là một người đã nhập vào dòng giải thoát, tùy theo hạnh nghiệp và tinh tấn mà chỉ tái sinh làm người hoặc trong các cõi trời, tối đa là bảy kiếp. Người nầy còn được gọi là đã mở "Pháp nhãn", vì người ấy đã bắt đầu có thanh tịnh về quan kiến, đã trực nhận rõ ràng Chánh Pháp của Ðức Phật. Người đó không còn xem mình như là một bản thể riêng biệt và thường tồn, kể cả hình sắc và tâm thức. Người đó không còn một chút nghi ngờ nào về sự hiện hữu và lợi ích của Tam Bảo: không còn hoài nghi về sự giác ngộ của Ðức Phật, không còn hoài nghi về con đường mà Ðức Phật đã vạch ra để đi đến giác ngộ, không còn hoài nghi về những đệ tử của Ngài đã đi theo con đường ấy và đã đạt được sự giải thoát tối hậu. Người ấy cũng không còn có ảo tưởng rằng Niết-bàn có thể đạt được bằng cách ép mình vào các hình thức lễ nghi phiến diện hay các điều lệ ước định nào đó.

Thân kiến (Sakkāya-diṭṭhi), kiết sử đầu tiên, là sự hiểu sai lạc về cái gọi là Tự ngã, hay cái Tôi, đồng hóa nó với một trong năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Trong bài kinh số 44, thuộc Trung bộ (MN 44), Ni sư Dhammadina giảng rằng một người đã đoạn trừ thân kiến là một người “không xem sắc là tự ngã, không xem tự ngã là có sắc, không xem sắc là trong tự ngã, không xem tự ngã là trong sắc”, tương tự như thế đối với bốn uẩn còn lại.

Có người thường hiểu lầm về từ “hoài nghi” dùng ở đây. Tiếng Pali là “vicikicchā”. Ngài Phật Âm (Buddhaghosa), trong bộ luận Thanh Tinh Đạo, nói rằng “vicikicchā” phải hiểu là một thái độ cuồng tín mù quáng, không sẵn sàng tra vấn, học hỏi. Do đó cần phải trừ khử kiết sử nầy. Ðức Phật khuyến khích chúng ta phải biết suy tư, luận giải và chứng nghiệm, vì Pháp là “mời mọi người đến xem xét” (ehipassiko). Ðể rồi chúng ta thấy, biết rõ ràng sự ích lợi của Phật Pháp cho con đường hành trì của ta, và từ đó, ta có một niềm tin vững chắc vào Tam Bảo, không còn thắc mắc, phân vân, hay do dự gì nữa.

Từ “giới lễ nghi thủ” (sīlabata-parāmāsa), có sách ghi là “giới cấm thủ”, cũng thường bị hiểu lầm. Trừ khử “giới lễ nghi thủ” không có nghĩa là một thái độ buông lơi, phóng túng, dễ duôi, không giữ gìn giới hạnh. Trái lại, nó có nghĩa là một thái độ minh triết, xem giới luật như là một phương tiện tốt, cần thiết để luyện tâm, nhưng lại không mù quáng, không quá lệ thuộc vào các hình thức giáo điều. Một người không còn giới lễ nghi thủ là một người lúc nào cũng có giới đức trong sạch, nhưng sống thảnh thơi trong giới luật đạo hạnh, không còn coi đó là một gánh nặng trên con đường hành trì của mình.

Để trừ khử các kiết sử trên, Đức Phật khuyên chúng ta phải nỗ lực thực hành bốn điều: (1) thân cận bậc chân nhân, (2) lắng nghe diệu pháp, (3) như lý tác ý, và (4) thực hành pháp và tùy pháp, như đã ghi trong Tương ưng (SN 55.11):

“Thân cận bậc chân nhân là Dự lưu phần.
Nghe diệu pháp là Dự lưu phần.
Như lý tác ý là Dự lưu phần.
Thực hành pháp và tùy pháp là Dự lưu phần”.

Rồi Ngài giảng về sự liên quan của bốn pháp trên:

– “Này các tỳ-khưu, giao thiệp với bậc chân nhân được viên mãn thì làm viên mãn nghe diệu pháp; nghe diệu pháp được viên mãn thì làm viên mãn lòng tin; lòng tin được viên mãn thì làm viên mãn như lý tác ý; như lý tác ý được viên mãn thì làm viên mãn niệm và tỉnh giác; niệm và tỉnh giác được viên mãn thì làm viên mãn các căn được chế ngự; các căn được chế ngự được viên mãn thì làm viên mãn ba thiện hành; ba thiện hành được viên mãn thì làm viên mãn bốn niệm xứ; bốn niệm xứ được viên mãn thì làm viên mãn bảy giác chi; bảy giác chi được viên mãn thì làm viên mãn minh giải thoát” (AN 10.61).

Về thân cận bậc chân nhân, Ngài giảng:

– “Thế nào là làm bạn với thiện? Ở đây, thiện nam tử sống tại làng hay tại thị trấn. Tại đấy có gia chủ hay con người gia chủ, những trẻ được nuôi lớn trong giới đức, hay những người lớn tuổi được lớn lên trong giới đức, đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ, vị ấy làm quen, nói chuyện, thảo luận. Với những người đầy đủ lòng tin, vị ấy học tập với đầy đủ lòng tin. Với những người đầy đủ giới đức, vị ấy học tập với đầy đủ giới đức. Với những người đầy đủ bố thí, vị ấy học tập với đầy đủ bố thí. Với những người đầy đủ trí tuệ, vị ấy học tập với đầy đủ trí tuệ. Đây gọi là làm bạn với thiện” (AN 8.54).

Rồi Ngài khuyên:

“Nếu thấy bậc hiền trí,
Chỉ lỗi và khiển trách,
Như chỉ chỗ chôn vàng,
Hãy thân cận người trí.
Thân cận người như vậy,
Chỉ tốt hơn, không xấu.” (Dhp 76)

“Chớ thân với bạn ác,
Chớ thân kẻ tiểu nhân.
Hãy thân người bạn lành,
Hãy thân bậc thượng nhân.” (Dhp 78)

Đức Phật đề cập đến 5 lợi ích của việc biết nghe diệu pháp: (1) được nghe điều chưa nghe, (2) làm cho trong sạch điều được nghe, (3) đoạn trừ nghi, (4) làm cho tri kiến chánh trực, và (5) làm cho tâm tịnh tín (AN 5.202).

Trong kinh “Tất cả các lậu hoặc” (MN 2), Đức Phật dạy về pháp như lý tác ý để điều hướng các sự suy nghĩ của mình sao cho có lợi lạc trên đường tu tập, như sau:

– “Này các tỳ-khưu, thế nào là các pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý? Này các tỳ-khưu, những pháp nào do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sinh không sinh khởi, hay dục lậu đã sinh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sinh không sinh khởi, hay hữu lậu đã sinh được trừ diệt, hay vô minh lậu chưa sinh không sinh khởi, hay vô minh lậu đã sinh được trừ diệt, đó là những pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý. Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không cần phải tác ý, tác ý các pháp cần phải tác ý, nên các lậu hoặc chưa sanh không sinh khởi và các lậu hoặc đã sinh được trừ diệt.

Vị ấy như lý tác ý: Ðây là khổ; như lý tác ý: Ðây là khổ tập; như lý tác ý: Ðây là khổ diệt; như lý tác ý: Ðây là con đường đưa đến khổ diệt. Nhờ vị ấy tác ý như vậy, ba kiết sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Này các tỳ-khưu, các pháp ấy được gọi là pháp dùng tri kiến để đoạn trừ các lậu hoặc”.

Khi Tỳ-khưu Kotthika hỏi ngài Trưởng lão Xá-lợi-phất cần phải như lý tác ý thế nào để được giải thoát, ngài đáp:

– “Này Hiền giả Kotthika, tỳ-khưu giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã.

Năm thủ uẩn đó là gì? Đó là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này Hiền giả Kotthika, vị tỳ-khưu giữ giới cần phải như lý tác ý năm thủ uẩn là vô thường, khổ, bệnh hoạn, ung nhọt, mũi tên, bất hạnh, ốm đau, người lạ, hủy hoại, rỗng không, vô ngã” (SN 22.122).

Về thực hành pháp và tùy pháp, ở đây được giảng rộng ra, bao gồm niệm và tỉnh giác, phòng hộ các căn, huân tập ba thiện hành (thân, khẩu, ý), thực hành bốn niệm xứ (thân, thọ, tâm pháp), và phát triển bảy giác chi (niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả).

Trong nhiều bài kinh (Tương ưng, phẩm Dự lưu), Đức Phật thường đề cập đến bốn đặc tính của một vị thánh Dự lưu là: niềm tín thành bất động nơi Đức Phật, nơi Giáo Pháp của Ngài, nơi đoàn thể các vị Thánh Tăng và có giới đức cao thượng, lúc nào cũng được các bậc chân nhân khen ngợi. Trong Tăng chi (AN 10.92), Ngài giảng:

– “Thế nào là thành tựu bốn Dự lưu phần? Ở đây, này Gia chủ, vị thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với Đức Phật: Ðây là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị ấy thành tựu tịnh tín bất động đối với Pháp: Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu. Vị ấy thành tựu tịnh tín bất động đối với chúng Tăng: Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Chân chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được đảnh lễ, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời. Vị ấy thành tựu với những giới đức được các bậc thánh ái kính, không bị phá hủy, không bị bể vụn, không bị điểm chấm, không bị uế nhiễm, đưa đến giải thoát, được bậc trí tán thán, không bị chấp trước, đưa đến thiền định.”

Mặc dù đoạn kinh trên thường được xem là các tiêu chuẩn căn bản của quả Dự lưu, trong kinh điển còn có ghi các danh sách khác, trong đó, tiêu chuẩn về giới hạnh được thay thế bằng tiêu chuẩn bố thí và trí tuệ:

(i) Bài kinh trong Tương ưng SN 55.32 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau: “Lại nữa, vị thánh đệ tử trú ở gia đình, với tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thú từ bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú chia xẻ vật bố thí.”

(ii) Bài kinh trong Tương ưng SN 55.33 ghi tiêu chuẩn thứ tư như sau: “Lại nữa, vị thánh đệ tử có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sinh diệt của các pháp, trí tuệ các bậc thánh thể nhập các pháp, đưa đến chân chánh đoạn tận khổ đau.”

Khi các danh sách liệt kê này được kết hợp lại, chúng ta có được bốn đức tính của vị thánh Dự lưu: (1) đầy đủ lòng tin, (2) đầy đủ giới đức, (3) đầy đủ bố thí, và (4) đầy đủ trí tuệ.

Đó cũng là bốn pháp đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho một cư sĩ Phật tử:

– “Có bốn pháp đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc tương lai cho thiện nam tử. Thế nào là bốn? Đó là đầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ” (AN 8.54).

Ở đây, lòng tin nơi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) không phải chỉ đơn thuần là sự tin tưởng, sùng tín mù quáng. Vị Dự lưu thật sự tín nhiệm, tin tưởng nơi nguyên lý nghiệp quả - nguyên lý của hành động và hậu quả - vì vị ấy đã chứng nghiệm rõ ràng khi bắt đầu nhập dòng thánh.

*

Trong giai đoạn kế tiếp, khi dục ái (tham đắm vào dục giới) và sân hận được trừ khử một cách đáng kể thì người đó đắc quả Nhất lai, nghĩa là có thể còn tái sinh làm người hoặc trong cõi trời dục giới một lần nữa. Khi hai kiết sử dục ái và sân hận được loại bỏ hoàn toàn, thì người ấy vào quả Bất lai, nghĩa là không còn tái sanh vào cõi dục giới nầy nữa. Năm kiết sử đầu tiên nầy gọi là “hạ phần kiết sử” (orambhāgiya-saṁyojana), cột trói chúng ta trong cõi dục.

Người ấy tiếp tục hành trì thanh lọc tâm ý, và tinh tấn trừ khử năm kiết sử còn lại: tham đắm vào cõi sắc (sắc ái), tham đắm vào cõi vô sắc (vô sắc ái), trạo cử vi tế, mạn, và si vi tế. Năm kiết sử nầy gọi là “thượng phần kiết sử” (uddhambhāgiya-saṁyojana), cột trói chúng ta trong cõi sắc và vô sắc. Ở đây, tham đắm vào cõi sắc và cõi vô sắc là sự tham đắm vào bốn tầng thiền-na hữu sắc (rūpa-jhāna) và bốn tầng thiền-na vô sắc (arūpa-jhāna). “Trạo cử vi tế” (uddhacca) là trạng thái vẫn còn một vài giao động nhỏ trước trần cảnh, “mạn” (māna) là các ý tưởng so sánh, và “si vi tế” (avijjā) là một vài dấu vết vô minh ngăn che còn sót lại.

Ðến lúc đó, người ấy đã phá tung tất cả mười sợi dây trói buộc, trừ khử mười loại kiết sử ô nhiễm, lậu hoặc đã đoạn tận, tuệ giác khai mở, không còn tạo nghiệp, không còn phải tái sinh, luân hồi nữa. Nói một cách khác, như đã mô tả trong Trung bộ, bài kinh số 1 (kinh “Pháp môn Căn bản”, MN 1), đối với người ấy: “Các lậu hoặc đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, đạt chánh trí giải thoát.” Người ấy trở thành bậc A-la-hán, đắc đạo quả Niết-bàn, giải thoát rốt ráo tối hậu.

Bình Anson,
Perth, Tây Úc, tháng 11-1998
(Hiệu đính và bổ sung: 2004, 2019)

[Image: nhap%2Bdong.jpg]

Nhập dòng giải thoát



[Image: bon%2Bqua%2Bthanh.jpg]

Bốn quả Thánh



[Image: du%2Bluu.jpg]

Quả Dự Lưu
Reply
Sư Toại Khanh Giảng bài Dễ Duôi và Tinh Tấn (1-2)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BA%A5n

Dễ duôi và Tinh tấn

Trong bài giảng trưa nay, tôi nhắc lại đầy đủ bài pháp thoại mà ngài Pakokku Sayadaw giảng năm 1970 mấy đó. 

Kalama tri ân bạn phamquynhnhu1989 ghi chép.
29/06/2021 - 10:41 - phamquynhnhu1989 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Chúng tôi hơn 1 năm rưỡi nay sống trên núi. Chúng tôi thường đi bộ gần như là mỗi ngày. Trên đây khí hậu tốt, hít thở thoải mái không có khói xăng, bụi bặm, hơi người, dấu vết công nghệ, cơ khí. Có một chuyện cũng đặc biệt đó là người dân miền núi họ sống khép kín và họ có những đặc điểm tâm lý rất lạ là: Sống khép kín, kiệm lời, thường hoài cổ và có chút cực đoan. Nghĩa là có lẽ do họ có chút lớn tuổi vì ở núi, còn người trẻ bỏ núi để đi về phố hết, còn chung quanh chúng tôi người già rất là nhiều, bởi vì tuổi trẻ của họ ở cái thời chưa có công nghệ. Cách đây mấy chục năm về trước họ là những nhà nông, còn con cái họ thì bây giờ có internet nên nó học hành và đi xuống phố mất, còn lại mấy cụ nhà nông họ sống khép kín, lớn tuổi sống với nếp nhà gỗ cheo leo bên sườn núi bốn bề là đá núi cây rừng không. Chúng tôi đi bộ thường gặp những ông bà lão mắt mũi kèm nhèm, lưng còng giống như chữ L vậy đó, lưng khòm xuống có khi có cụ dắt chó, có cụ thì đi 1 mình, có cụ đi không nổi ngồi trước nhà nhìn ra đường . Tôi muốn nói gì?

Tôi kể chuyện rất tào lao, như vậy muốn nói gì? Những khi đi bộ tôi thấy như vậy và sáng nay tôi cũng mới vừa đi bộ về, tôi gặp mấy cụ như vậy, đi đứng cũng mệt mỏi, ngồi yên cũng mệt mỏi, các cụ chỉ chờ chết thôi. Tôi chợt chạnh lòng và nhớ đến một vấn đề của ngài Pakokku Sayadaw, trong một buổi chúc thọ cho người kappiya lớn tuổi. Người Miến họ không có chúc thọ nhưng gia đình bên Anh về, nên gia đình có tổ chức nói đúng là buổi sinh nhật nhưng mà cũng là mừng thọ nên có thỉnh ngài và chư tăng tới và có một thời pháp. Sáng nay khi đi bộ trên đường núi, tôi nhìn thấy các cụ hom hem kèm nhèm, tôi chợt nhớ tới thời pháp đó.

29/06/2021 - 01:36 - phamquynhnhu1989 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Nội dung của thời pháp đó thật ra tôi nhớ đã có chia sẻ với bà con lâu lắm rồi và cũng nhiều lần rồi nhưng không trọn vẹn. Trong bài giảng trưa nay, tôi nhắc lại đầy đủ bài pháp thoại mà ngài Pakokku Sayadaw giảng năm 1970 mấy đó. 


Ngài nói thế này: 

Nhân loại trên thế giới đông lắm, bao nhiêu tỷ vậy đó nhưng trong đó chia ra làm 2 hạng thôi, kể cả con trùn con dế, tất cả chúng sinh gom lại chỉ có 2 hạng thôi:

1. Chết rồi chưa chôn.
2. Chôn rồi chưa chết.


Hôm nay tôi sẽ nói về 2 cái hạng đó:

1. Chết rồi mà chưa chôn là sao? Là ngài nói theo kinh Pháp cú chứ không phải tự ngài nghĩ ra. Kinh Pháp cú nói cái người mà dễ ngươi, người không tinh tấn tu tập thì coi như là chết rồi mà chưa chôn. 


Ngài định nghĩa “dễ duôi” rất dễ nhớ, gồm 5 trường hợp. 
Mình nghe xong thì mình thấy 
  1. mình thuộc về cái hạng nào và 
  2. thứ hai nữa là mình nên làm gì?

(a) Coi thường điều thiện nhỏ rồi không làm: một năm như vậy chỉ đến chùa làm lễ dâng y, khi nào làm đại thí chủ, khi nào mời thỉnh cao tăng, khi nào mời thỉnh tăng ni về đông rần rần thì họ mới ra tay làm phước, nhưng mà trong đời sống thường nhật thường ngày phước nhỏ nhỏ thì họ coi thường không làm.

Phước nhỏ là gì? Cái chuyện vào chùa một ngày cuối tuần không cần ai biết mình là đại gia, giỏi giáo lý, hành thiền lâu năm, hành giả Miến Điện mới về v.v... Không cần. Ngày cuối tuần hoặc ngày rỗi rảnh đến chùa, lặng lẽ thôi hỏi sư trụ trì hoặc nhà bếp: cái chổi, đồ hốt rác đâu rồi âm thầm đi quét chùa. Rồi đi hỏi mượn cái dẻ lau giặt sạch lau lại những cái băng ngồi cho đại chúng. Hoặc thấy người ta ở chánh điện đông, nếu mà nhà chùa có speaker (loa thuyết pháp) thì mình có thể không cần vào trong chen chúc trong mùa covid làm chi, âm thầm bên ngoài sắp xếp giày dép cho người ta cũng là công đức. Đừng bắt chước ông kia , ổng nói mỗi lần ổng stress thì ổng vô chùa làm đảo lộn lung tung mấy đôi dép của mấy người đi chùa rồi ổng đứng quan sát coi người ta ra người ta rối cỡ nào. Ổng nói nhìn mặt của mấy người đi kiếm dép stress tự nhiên ổng cũng giảm stress. Cái chiêu đó thì không nên chơi, cái chiêu đó thì không có được nha, giảm stress kiểu đó thì kẹt lắm.

Nhiều lắm quý vị, có những công đức vô danh âm thầm xuống bếp ngồi lặt rau không cần ai biết mình là gì hết, lặng lẽ xách cái chổi hoặc mấy cái xô nước đi vô mấy cái cầu của đại chúng chùi rửa rồi lặng lẽ đi về. Người ta có cho cơm thì ăn không cho thì thôi, kiếm cơm hàng cháo chợ ăn xong rồi về nhà. Không chê phước nhỏ là vậy. Trong 5 cái đặc điểm của người chết rồi đó là chê điều thiện nhỏ rồi không làm. Tôi nói thiệt với các vị theo trong A Tỳ Đàm thì cái phước lớn nằm ở tâm mình, nằm ở đối tượng mà mình thực hiện, chứ nó không nằm ở cái gì mà phải quay phim chụp hình.

Thí dụ đối tượng khả kính:

- Một là đối tượng có đức độ.
- Hai là đối tượng tập thể.
- Ba là cái đối tượng họ đang thực sự có nhu cầu cho đúng lúc, hoặc người ta đang bị bệnh.

Trong tạng Luật có một câu mà tôi nghĩ rất đáng để xăm lên mình: "Này các Tỷ-kheo, ai chăm sóc người bệnh, người ấy chăm sóc Ta". Cái câu đó đọc vô tôi thấy khiếp, mà sao cái câu ấy tôi không thấy Phật tử Nam Tông nhắc đến trong tạng Luật. Tại vì lúc ấy các vị Tỷ-kheo nhiều khi sống chung với nhau lúc khoẻ mạnh thì không có gì, tới hồi bệnh thì bỏ cù bấc cù bơ. "Các ngươi không có cha mẹ, vợ con, anh em, thân bằng quyến thuộc bên cạnh. Các ngươi không thương lấy nhau thì ai mà thương, đặc biệt là khi đói lạnh bệnh hoạn. Này các Tỷ-kheo, ai chăm sóc người bạn đồng tu bị bệnh thì vị Tỷ-kheo đó coi như là đang chăm sóc Ta vậy".

Nhiều khi mấy cái đó mình coi thường, mình không thèm làm, mình toàn kiếm mấy cái lớn chuyện không à. Thật ra cái gọi công đức lớn nó không ầm ĩ. Nãy giờ tôi kể các vị thấy không, những điều kiện để làm nên 1 công đức lớn quay phim chụp hình không thấy. Trong khi mình hiểu cái lớn ở đây là cái để quay phim chụp hình, cái mà để quan sát bằng mắt được, thì đó gọi là công đức lớn. Nhưng mà không. Trong A Tỳ Đàm nói chưa chắc cái lấy mắt thấy được hoặc quay phim chụp hình được là lớn. Mà lớn là tâm mình lúc đang làm chuyện đó thật sự vì trí tuệ, vì từ tâm, vì cảm thông, vì chia sẻ, vì bao dung không toan tính, không cầu danh trục lợi. Đó là cái tâm của người đang làm.

Thứ hai là đối tượng có 3: 

  1. tập thể, 
  2. đức độ, 
  3. đang có nhu cầu.
Mấy điều kiện này cộng lại làm nên công đức lớn. Mà mình không biết chuyện đó mình cứ đi kiếm tìm cơ hội làm phước lớn không à. Thí dụ như mình cất cái chùa to, bỏ thiệt là nhiều tỷ nhưng mà mình quên rằng: tiền thì lớn thiệt, công trình nó lớn thiệt đó, để lại dấu ấn trong lòng thiên hạ lớn thiệt, sâu đậm thiệt, lừng lẫy thiệt, lung linh lấp lánh thiệt đó chùa lớn thiệt, nhưng mấy cái đó toàn là mấy cái quay phim chụp hình được. Cái này mới khó: số tiền và công sức mình bỏ ra bao nhiêu, nó có hội đủ các điều kiện mà tôi vừa nói hay không? Tâm mình lúc đang làm và đối tượng mình nhắm tới?

Thí dụ, đặt bát cúng dường vị đang khất thực thì mình chỉ nghĩ đang kéo dài tuổi thọ chánh pháp, đây là người đang hoằng pháp. 


Hoằng pháp có nhiều cách: 
  1. học pháp, 
  2. hành pháp và 
  3. hoằng pháp, 
đều là hoằng pháp hết. Thì lúc đó một chén cơm, một quả chuối, một củ khoai để vô bình bát cũng là công đức lớn. Mình không biết, mình cứ đi tìm những cái mà ầm ĩ, rầm rộ, huyên náo, náo nhiệt thì mình mới chịu ra tay.

Tại sao mình như vậy? Vì mình không hiểu, không học giáo lý chính vì vậy nên mình mới có sự phân biệt cái này là phước lớn cái kia là phước nhỏ, hễ cái nào lớn thì mình mới làm. Mà lớn ở đây là mình định nghĩa theo cái kiểu ầm ĩ, náo nhiệt là sai rồi. Lớn ở đây là nó hội đủ các điều kiện mà tôi vừa nói: Tâm mình lúc thực hiện và đối tượng là ai?

Bỏ ra bạc tỷ mà sân si suốt mùa, tôi không tin đó là công đức lớn, tôi không tin. Bỏ ra mấy tỷ mà vô gây gổ với trụ trì, đối phó với những người tị hiềm, những người thù ghét ganh tỵ với mình...Vô sân si, sao thấy tiền hồi đầu chùa thông báo công trình là 8 tỷ mà sao cuối cùng nó độn lên là 13 tỷ, rồi vật tư, đại dịch covid tùm lum chuyện, gia đình mình không vui...Mình ham làm việc lớn, cuối cùng trong suốt thời gian 18 tháng, 12 tháng thi công đó không có phước gì hết, công đức đâu không thấy mà chỉ thấy sân si không à.

Chưa kể chuyện nữa là trong lúc đang bỏ tiền cho chùa A, tự nhiên bất mãn nghe ai nói ra nói vào hối hận, liếc mắt qua chùa B nói, biết vậy tôi đi qua chùa B cất rồi làm chùa B. Hồi xưa mình phát cái đạo tâm đối với ông A, bây giờ ước gì mình không có hứa để chuyển qua ông B, ông C, ông F, ông N...Ông này mình thấy mình nản quá, cái chùa này mình thấy mình nản quá. Cho nên đừng có ham làm công đức lớn, mà cái lớn là lớn ở đâu chứ không phải lớn do mặt mũi công trình, tầm vóc công trình chưa đủ đâu.

Cho nên dấu hiệu đầu tiên của người không tinh tấn tu học là coi thường điều thiện mà mình thấy là nhỏ, mặc dù cái nhỏ lớn ở đây là mình chưa có tìm hiểu kỹ. Mình không biết nhỏ là sao, mà lớn là sao? Cái quy mô công đức không nằm ở cái người ta nhìn thấy được đâu, mình không biết mình cứ tưởng quy mô của công đức nằm ở chỗ quay phim chụp hình được. Cái đó là cái sai. Cái quy mô của công đức thật sự là nằm ở chỗ chỉ mình mình biết thôi, nó vô hình vô tướng.

(b) Coi thường cái ác nhỏ rồi không tránh. Mình ngồi tán gẫu bàn về chính trị, xã hội, văn nghệ, thơ ca, lịch sử, phong cảnh,...mình thấy đâu có làm gì đâu bậy. Mình đâu chửi cha mắng mẹ, đâu làm gì ác đâu, đâu có đốt nhà giết người cướp của gì đâu, ngồi nói chuyện rất đàng hoàng lịch sự...mấy cái đó đâu có tội lỗi gì nhưng mà thật ra để làm những chuyện đó mình thuần túy xài toàn những tâm bất thiện không; tham, sân, si không à, bởi vì chuyện tào lao, chuyện ngồi lê đôi mách, buôn dưa lê. 


Ở ngoài đời trong nhãn quan thế nhân, của xã hội thì cái đó không phạm pháp. Nhưng trong cái nhìn nhà Phật, 
  1. phiếm luận là cái chuyện bất thiện, 
  2. nói chuyện xấu người khác là bất thiện, 
  3. nói gây chia rẽ phá đoàn kết là chuyện bất thiện 
mà mình không có ngờ, mình nghĩ nói chuyện chơi một chút mà có gì đâu.

Sẵn tôi hỏi nhỏ bà con, mình hỏi rất nhỏ, hỏi rất khẽ thôi: "Các vị có để ý không? Bản chất khoái nói xấu của người Việt nó lớn bằng trời". 


Các vị không tin thì tôi ví dụ nha: Có nguyên một chuyến xe 10 người, thử thời mà các vị nhắc tới người nào không có trong xe là cả xe nhao nhao nhao, người góp 1 câu, dầu đó là ông sư hay cư sĩ không cần biết . Mình thử đi. Tôi đưa một ví dụ về chiếc xe chứ tôi không nói dưới đất vì chỗ này tôi có dụng ý. Xe đang chạy bon bon trên đường, các vị móc thử một ông sư hay một cư sĩ nào đó mình nói xấu là mình thấy số người hưởng ứng đông lắm.

Chưa đâu, cái này mới ghê nè, trong 10 người đó tự nhiên có 1 người đi xuống xe. Người ấy vừa xuống xong là các vị để ý coi là 9 người còn lại thường bàn về cái người vừa xuống xe. Tin tôi đi . Để ý coi có không, tôi thề đó. 

Tiếp tục là trên xe còn 9 người, đúng không ? 

Xe chạy thêm 15 hay 20 cây số thì tên tiếp theo nó đi xuống. Tên đó vừa xuống thì phải biết rằng sau lưng còn nguyên 1 đống nó chơi mình ở phía sau. Tin tôi đi, cái người mình nó hèn từ huyết quản, nó hèn 4000 năm văn hiến rồi. Cứ như vậy nó nói tới chừng còn 7, 6, 5. Nó nói chừng nào còn 2, 3 đứa nó ngủ thì mới tha mình thôi.

Ai trong nước mà đi đoàn đi nhóm từ thiện mà mướn xe thì coi xem tôi nói có đúng không. Cứ một người xuống xe là cái đám còn lại nó nói xấu, mà mình đâu có biết đó là tội lỗi. Nãy trên xe thì quàng vai bá cổ, anh chị dạo này sao, chị dạo này sao, lâu quá không có dịp thăm à nghe...Nó nói đã lắm mà chỉ cần mình bước xuống xe 1 cái là nó bàn cho mình điên. Mà 9 mang, 8 mạng trên xe không để ý rằng lát nữa đây mình phải là nạn nhân tiếp theo. 

Nó độc như vậy .

Nó độc lắm, mà đây là dấu hiệu của người không tinh tấn tu học. Tức là họ coi thường điều ác nhỏ . 

Cầm ly nước sôi trong tay hất tạt không quan sát thì đó là 1 việc ác. Góp lời nói xấu người khác là việc ác. Góp chuyện nói đề tài tào lao, vô bổ là chuyện ác. Cái đầu vẩn vơ những chuyện tào lao là việc ác. Nói theo kinh. Vì sao? Nhiều cái ác nhỏ cộng lại làm thành cái ác lớn. Một, hai câu nói sau lưng người khác mình nghĩ không đáng gì nhưng tại sao mình không nghĩ chính câu nói đó nó phá tan nát người ta mà mình đâu có biết.

Tui nè, khơi khơi không quen biết ông Kiên, ông Nhân gì hết, tự nhiên có ai đó trong 1 buổi đi xe chung họ nói xấu mấy ổng. Tôi nhắc lại là tôi không có ân oán gì với mấy ổng hết. Mà tự nhiên bữa đó trong chuyến xe, trong buổi họp nào đó người ta đè ra nói xấu. Họ nói 10 mà tôi tỉnh táo lắm thì tôi tin 3, tôi ví dụ là tôi thuộc loại tỉnh táo đó nha, có trí óc, có suy tư đó. Rồi bữa sau trong 1 chuyến xe khác nó nói 10 thì tôi tin 3, 2x3 =6. Rồi một ngày nào đó ông Kiên và ông Nhân có chuyện gõ cửa tôi, các vị nghĩ tôi có giúp không? Khó lắm, anh trong lòng tôi anh tệ quá, anh có 6 điểm trừ thì giúp cái gì. Mà thật ra vì đâu tôi từ chối mấy ổng? Là bởi vì những cái chuyện buôn dưa lê của cái đám người vô công rỗi nghề ngày hôm trước đó.

Mà có biết ông Kiên, ông Nhân nhờ tôi giúp gì không? Một ông nhờ tôi giúp đạo tràng Brisbane, 1 ông nhờ giúp đạo tràng Sydney. Tôi đang ví dụ thôi nha chứ chuyện này không có. Mà chỉ vì những lời buôn dưa lê đó mà tôi từ chối, và đâu phải chỉ có mình tôi từ chối, lẽ ra cũng có nhiều người khác giúp 2 ông này rồi. Nhưng mà không, họ nghe sao không biết rồi họ bỏ. Mình đâu có biết rằng những cái góp lời bữa đó trên xe nó phá nát đạo trạng Brisbane và Sydney các vị có biết không. Mình đâu có biết, mình thấy người ta nói mà mình chỉ góp lời vậy thôi. Nói chơi mà mình nghĩ nó không có cái gì đâu mà 8 cái, 10 cái, 15 cái không gì đâu đó nó quất cho thành 1 núi rác đè chết 2 ông đó.

Cho nên cái điều thứ hai đó là coi thường điều ác nhỏ rồi không tránh. Mà các vị thấy nãy giờ tôi chọn toàn cái nhỏ nhỏ không à: Nói chia rẻ, nói sau lưng, 1 suy nghĩ vớ vẩn, 1 câu chuyện phím luận, phím đàm. Các vị bước ra ngoài xã hội các vị thấy cái chuyện đó rất là bình thường, dưới đánh giá xã hội không là tội ác, càng không phải làm phạm pháp, bất quá nó là chuyện không hay vậy thôi. Từ góc độ phấp luật tôi thấy từ 1-2 câu nói xấu đâu có gì đâu phạm pháp, nhưng mấy cái đó nó ác ngầm mà mình không ngờ được. Mà cái người bất thiện thì cái dấu hiện đầu tiên của họ là: Coi thường điều thiện nhỏ mà không làm. Thứ hai là coi thường điều ác nhỏ rồi không tránh.

© Cái thứ 3, dấu hiệu người bất thiện là: Không tranh thủ niềm vui để sống thiện. Nghĩa là lúc đang có tiền, có sức khoẻ, đang còn tuổi trẻ, đang có điều kiện để hoạt động, lại không tranh thủ cơ hội tốt lành để làm thiện, để tu học. 


Tôi thí dụ bây giờ nói cái chuyện tu thiền mà cứ nói chờ già mới tu, con tôi ra trường mới tu, chờ cháu nội học xong high school, về hưu mới tu thiền v.v...Đó là dấu hiệu người bất thiện bởi vì chúng ta biết mà, thời gian không chờ ai hết, đặc biệt là cái chết rất là bất trắc khó lường.

Bài giảng trưa nay tôi coi như đánh đáo vậy đó, trúng trật tôi chưa biết nhưng tôi nghĩ nghe được bài giảng trưa nay mà chấp nhận thì tôi nghĩ khó. Nhưng mà tôi vẫn giảng, biết đâu có ai đó 1-2 người trong thời giảng này, hoặc có người nghe lại, biết đâu giúp được 1 vài người là tôi vui lắm. Cho nên ngay khi mình còn trẻ, khoẻ, còn tiền bạc, có điều kiện, đang may mắn về tình duyên, khó bao giờ mà mình nghĩ tới đạo lắm.

Tôi giảng nhiều nơi, tui hỏi bà con, bà con nói thiệt tôi nghe. Câu này tôi hỏi ở Cali cũng có, ở Houston cũng có, tôi hỏi: 


-- Đến học với tôi các vị đâu có được đồng xu cắc bạc hay danh lợi gì không đúng không?
-- Đúng, tụi con tới đây học không được gì hết, chỉ được giáo lý thôi. 

Nhưng mà cho tui hỏi câu thứ 2: 

-- Nếu mỗi ngày thu nhập, các vị có thu nhập $20.000 thì các vị có thời gian cũng như có ý muốn tới đây học lớp này không? Các vị đừng có nói dóc, cứ can đảm đi. 

Tui thấy có người im ru cúi mặt xuống vân vê tà áo, có người thì ngó mông bên cửa sổ để tránh không trả lời. 

Tôi còn chỉ 1 cái cô già mà xấu quắc ngồi ở xéo xéo tôi:

-- Còn cô? Cô tụt lại 40 tuổi, nhan sắc của cô mấp mé Á Hâu, thu nhập của cô tháng $20.000 thì cô có quỡn mà cô mặc áo lam áo tràng lết tới đây học không? 

Không. Trong khi đó tôi giả định là cô lùi lại 40 tuổi là cô 25 đi, mỗi tháng cô có $20.000, nhưng mà 2 cái đó đâu có chắc là cô không có chết . Cô vẫn tiếp tục sống nay chết mai đó chứ, nhưng khi ấy thì cô thấy cuộc đời này đáng tin lắm.

Cho nên thường mình đến với đạo: nhẹ là có chút gì đó thất vọng về đời sống mới tìm đến với đạo. Chuyện này lát nữa tôi mới nói, bây giờ tôi đang nói cái chuyện này trước. Có nghĩa là thường chúng ta có khuynh hướng không tận dụng cơ hội tốt, tôi tránh không dùng chữ "cơ hội tốt" bằng "không tận dụng niềm vui để sống thiện, tu tập". Đây là cái dấu hiệu thứ ba của người bất thiện.

(d) Không tận dụng nỗi đau buồn để tu tập. Thí dụ lúc mình vui, mình đang đẹp, có nhiều thằng nó tán mình, mình đang có thu nhập cao, mình đang có tuổi trẻ sức khoẻ mình tu không nổi thì đúng rồi. Ấy vậy mà khi bị bệnh, già, nhà đang có chuyện buồn, gia đạo đang trục trặc, cơ thể đang có vấn đề... mình vẫn tiếp tục không lấy nó làm động cơ. 


Tôi nói thật bà con, tôi chưa bao giờ dám nhận tôi là tinh tấn tu học. Nhưng tôi nhận là người có chánh giác vì mỗi lần nghe lói lói, mỗi lần nghe nó đau lạ lạ là tôi nghĩ tới cái chết, nghĩ đến chuyến đi mịt mù trước mắt.

Tôi nhắc lại là hiện tại không biết ai đồn sao thì tôi không biết. Chứ thực tại cái gì của Kalama là của Kalama, chứ bản thân tôi hiện giờ tôi là 1 tu sĩ nên không có thu nhập. Thỉnh thoảng bà con thương thì bà con cho chút đỉnh thì cái này tôi nói thiệt là chỉ có chút đỉnh chứ không có nhiều, người ta toàn cho Kalama không chứ tôi không có. Tại sao tôi nói rõ như vậy ? Bởi vì các vị nhìn tướng tôi là các vị biết. Tôi không có sức khoẻ, tôi cao 1m6, nặng 50 ký mà tôi có vấn đề tùm lum về sức khỏe mà thu nhập không có. Các vị nghe tôi kể về bản thân thấy ớn chưa?

Ấy vậy mà, với những gì tôi đang có trước mắt đủ để khiến tôi thấy tiếc về cuộc đời này quý vị biết không? Tôi thí dụ: chỗ ở của tôi có thể nói là chỗ đẹp, tôi ở trên núi với độ cao 1200 mét. Tôi đang giảng cho bà con mà trước mặt tôi là 3 ngọn núi cao của Châu Âu đó là: ngọn Jungfrau, ngọn Mönch và ngọn Eiger. Những ngọn này đều cao trên 3000 mét hết, tuyết phủ quanh năm 4 mùa, hiện giờ chỗ tôi đang ở đang nóng nhưng mà 3 ngọn đó trước mặt tôi vẫn đang phủ tuyết trắng rất là đẹp. Bên dưới trước mắt tôi là hồ Thun đẹp lộng lẫy, nước xanh như ngọc quanh năm . Các vị lát nữa vào internet đánh chữ Interlaken là thấy nó đẹp như thế nào.


[Image: Interlaken-Swiss-Alps.jpg]

Interlaken

Tôi không có sức khoẻ, nhân dáng ngoại hình, tiền bạc, cái gì cũng không. Chỉ vì 1 chỗ ở thôi, mà đâu phải là chỗ ở của tôi, chỗ của người ta vậy mà tôi còn tiếc mà. Cái cơ hội mà mình biết một chút Phật Pháp, nói đàng hoàng không hề có 1 cái ý khiêm tốn. Tôi vẫn nhận tôi là người biết chút ít Phật pháp, có 1 trú xứ như thế này ở tuổi đời 53, cao 1m6, nặng 50kg vậy mà tôi còn tiếc. 


Tuy nhiên, chính vì cái tiếc nên mỗi lần nghe đau lạ lạ, đau lói lói là tôi giật mình. 

Bây giờ tắt thở một cái liệu mình có tìm lại cái hoàn cảnh, cái điều kiện như hiện giờ mình đang có hay không ? 

Không phải dễ đâu quý vị, mang được thân người không phải dễ đâu. Xin lỗi cho tôi nói nặng nha: được làm con chó nhà giàu là đã không có dễ rồi chứ đừng có nói là làm con người.

Cho nên cái dấu hiệu thứ 4 của người dễ duôi là gì? Là không biết tận dụng nỗi khổ niềm đau để mà tu tập. Tôi nhắc lại 4 điều đầu:

- Coi thường điều thiện nhỏ rồi không làm.
- Coi thường điều ác nhỏ rồi không tránh.
- Không tận dụng niềm vui, điều kiện tốt để tu tập.
- Không biết tranh thủ nỗi khổ niềm đau để tu tập. (Tôi sẽ giảng kỹ ở phần sau)

(e) Tôi đặc biệt tâm đắc cái thứ 5 đó là: Không biết quý thời gian. Dấu hiệu nổi bật ở người dễ duôi, ở cái người không có tinh tấn tu học là phí thời gian.

Mình liếc lên đồng hồ mình coi bây giờ là mấy giờ rồi. Người tu học miên mật tinh tấn, người đang theo đuổi pháp học là 7 giờ sáng tới giờ cơm trưa là họ phải có cái gì đó bỏ vào trong đầu. Tra tra, lật lật, nghiên cứu ghi chép. Nếu pháp hành chánh niệm tuệ quán, thì từ 7 giờ trở đi là hành giả sơ cơ trong ngày quan sát coi mình chánh niệm được bao nhiêu thời gian. Còn hành giả tinh tấn thì ngược lại, xem trong ngày mình có bao nhiêu lần thất niệm, phóng dật bao nhiêu thời gian. Hoặc nói cách khác: "Nhà nghèo coi tháng mình ăn ngon bao nhiêu lần, nhà giàu thì coi tháng mình ăn dở bao nhiêu lần".

Giống như một chuyến tàu chở hàng viễn dương (tàu đi nhiều nước) thì ông chủ tàu thuê 1 ông thuyền phó và 1 ông thuyền trưởng. Trên thuyền có 1 quyển số ghi là Nhật Ký Hải Hành, nghĩa là có chuyện gì xảy ra thì thuyền trưởng thuyền phó ghi chép trong đó. Lúc tàu gần về tới bến thì ông thuyền trưởng lật quyển nhật ký ra coi ông thuyền phó ghi cái gì. Ông thuyền phó ghi thế này: "Hôm nay là ngày cuối tháng mà ông thuyền trưởng đã say xỉn 21 ngày". Ghi như vậy là về ông chủ hãng ổng đuổi. Thì ông thuyền trưởng thấy như vậy mới rút 1 cây viết ghi 1 câu thôi: "Hôm nay là ngày cuối tháng, thuyền phó không uống rượu". Các vị có hiểu không? Một câu thôi, ổng không có cần nói xấu, chỉ ghi 1 câu rất là tốt: "Hôm nay là ngày cuối tháng và thuyền phó không uống rượu". Các vị biết về là ông chủ hãng đuổi ai rồi, chắc chắn một là ổng đuổi cả 2, mà nếu phải đuổi 1 thì tui nghi chắc đuổi ông thuyền phó quá. Nếu là tôi chắc tôi đuổi thuyền phó.

"Nhà nghèo coi tháng mình ăn ngon bao nhiêu lần, nhà giàu thì coi tháng mình ăn dở bao nhiêu lần". Người sơ cơ thì coi 1 ngày mình chánh niệm được bao nhiêu, còn người ngon lành thì họ coi ngày họ thất niệm bao nhiêu. Tức là họ đi tìm cái ít chứ không ai đi tìm cái nhiều hết. Nhớ nha.

Phải nói cái người có dấu hiệu nổi bật ở người không tinh tấn tu học dù đó là tăng ni hay tu sĩ nam nữ nói chung, cái dấu hiệu nổi bật đó là họ không có quý thời gian. Các vị biết không, tôi nói chắc phải cả triệu lần rồi: 1 tời 100 đo la đổi ra 5 tờ 20, giá trị của 5 tờ ấy tuyệt đối như nhau dù trong 5 tờ ấy có tờ mới tờ cũ, tờ rách tờ lành, tờ dơ tờ sạch. Tuy nhiên nếu đời người gồm 100 năm và chia thành 5 lần 20 thì tôi xin bảo đảm cái giá trị của 5 lần 20 đó không giống nhau.

29/06/2021 - 06:15 - phamquynhnhu1989 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Thí dụ như 20 năm đầu mình đâu có biết gì đâu, mình ngu cho tới tuổi 18 mà, cho nên 20 năm đầu gọi là 20 năm ngu; 20 tiếp theo học hành và lập nghiệp, tức là năm 40 tuổi đó; từ 40 cho đến 60 là an hưởng những gì mình gầy dựng; sau 60 thì có là tỷ phú đi nữa thì tui cho quý vị thêm 10 năm chứ thật ra tôi nghĩ tới 70 cũng hết pin rồi. Cho nên, người ta nói tuổi 50 là xấu đẹp giống nhau vì ai mặt cũng nhăn hết; tuổi 70 là giàu nghèo giống nhau vì lúc đó đâu có ăn uống gì được; nhưng mà tới 80-90 thì nam nữ giống nhau vì lúc đó mình nhìn đối phương mình đâu còn muốn gì nữa.

Tôi thấy cái đó đúng. Hồi nhỏ mình còn quan trọng giàu, nghèo, đẹp, xấu. Nhưng mà càng lớn mình nói nó hơi đau lòng, nói cũng hơi xúc phạm nhiều người, chứ tôi thấy mặt đã nhăn thì đẹp xấu giống nhau. Đàn ông đẹp cách mấy mà râu bạc rồi là tôi thấy mệt rồi đó. Tôi lúc này râu tóc bạc rất là nhiều . Từ mùa covid là tôi bạc nhanh lắm.

Cho nên, dấu hiệu thứ 5 của người dễ duôi là coi rẻ thời gian, không biết trân quý thời gian. Cái cách dùng thời gian của mỗi người mình có thể đoán ra được con người của họ. Tin tôi đi, câu này không ngoa mà đúng như vậy. Muốn biết một người có nhiều cách trong đó có 1 cách, hãy nhìn cách họ sử dụng thời gian trong một ngày tôi đoan chắc ta có thể biết được con người đó như thế nào. Tôi nhắc lại lần nữa, để biết được con người ra sao thì có nhiều cách lắm, 1001 cách nhưng trong đó có 1 cách mà tôi đang nói tới đây, đó là nhìn cách người ta sử dụng thời gian. Ngay khi mình còn có 1 trí nhớ tốt bén nhậy, khi còn sức khỏe có thể ngồi lâu, đi bộ, dẻo dai bền bỉ được. Ngay cái thời điểm đó mà mình không biết tận dụng cho việc hữu ích thì tôi e rằng có một ngày mà mình không còn đi bộ được nữa, không còn ngồi lâu được nữa, không còn nhớ tốt được nữa, và trí phân tích của mình nó bị chậm lục không còn bén nhậy thì lúc đó đã quá muộn rồi.

Tổng cộng lại người dễ duôi, người sống ác có 5 đặc điểm:

  1. Coi thường điều thiện nhỏ rồi không làm
  2. Coi thường điều ác nhỏ rồi không tránh.
  3. Không biết tranh thủ điều kiện tốt để sống thiện.
  4. Không biết tranh thủ nghịch cảnh để sống thiện.
  5. Không biết quý thời gian.

Trong cái buổi sinh nhật mừng thọ đó thì Ngài Pakokku có trích dẫn các kinh điển, đặc biệt là bài kệ kinh Pháp cú bài kệ dễ duôi - là của kẻ đã chết rồi. Ngài trích dẫn để giảng cho gia đình ông Kappiya.

2. Đặc điểm người tinh tấn tu học, có 2 cách :

- Một là lật ngược lại những cái điều của người dễ duôi. Cái người dễ duôi là coi thường điều thiện nhỏ rồi không làm, còn cái người tinh tấn là không coi cái điều thiện nào là nhỏ hết, có cơ hội là làm vì chúng ta biết rằng : 

  1. trên đời, việc đáng làm nhất là việc thiện trước mắt, 
  2. đối tượng đáng để mình sống tốt đó là đối tượng trước mắt và 
  3. thời điểm tốt nhất để mình sống thiện đó là thời điểm trước mắt. 
Tất cả phải trước mắt hết mới được, cho nên cái đặc điểm đầu tiên của người sống thiện là trong mắt họ không có điều thiện nào là nhỏ nên họ không bỏ sót.

Chư Phật Chánh Đẳng Giác có 1 điểm đặc biệt trong suốt thời gian tu tập Ba La Mật lúc còn là Bồ Tát, không bỏ điều thiện nào Ngài bỏ nên khi Ngài thành Phật thì các Ngài có tất cả những gì tốt đẹp nhất. Nếu mình không có học kinh điển, không có suy ngẫm về ân đức của Phật, không coi kỹ kinh sách thì mình không có tin. Tại sao Đức Phật có quá nhiều oai lực, quá nhiều đức độ, quá nhiều phước báu, được chư thiên nhân loại trong vô lượng vũ trụ uy ngưỡng kính lạy. Đặc biệt là tôi coi trong kinh có rất nhiều người sẵn sàng cúng dường với tất cả gia sản cho Đức Phật, cái lòng của họ đối với Ngài họ dám bỏ ngai vua để đi tu theo Ngài. Chưa hết có rất là nhiều người vì thương Phật mà dám bỏ tánh mạng cho Ngài họ cũng bỏ.

Và tôi, tôi không có đi theo trào lưu nguyện thành Chánh Đẳng Giác như hiện này nó đang rần rần trong nước. Nhưng có 1 điều mà tôi biết chắc, nếu tôi gặp được vị Chánh Đẳng Giác ngay lúc này thì trong trường hợp cần thiết tôi nghĩ là tôi không có tiếc tánh mạng cho Ngài. Các vị nghĩ đi một người không có quen biết gì với mình hết mà có vô số kẻ xa lạ sẵn sàng chết vì mình, cái con người đó đâu phải tầm thường, và Đức Phật là người như vậy. Trước mặt Ngài, người không có đức tin thì tôi không nói, nhưng người có niềm tin nơi Ngài, cái gì tận hiến cho Ngài người ta không tiếc, kể cả cái mạng người ta cũng không tiếc. Đặc biệt ai cũng tham sống sợ chết nhưng mà trước mặt Đức Phật, các vị thánh đệ tử thì không cần nói rồi nhưng mà nói người phàm, có nhiều vô số người phàm dám vì Ngài mà họ chết. Một con người như vậy không phải dễ tìm đâu, một con người có thể khiến người khác chết vì mình một cách vui vẻ.

(còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng bài Dễ Duôi và Tinh Tấn (2-2)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BA%A5n

Chỉ vì lời dạy của Ngài mà pháp sư Huyền Trang đã đi muôn dặm để ghi chép lại lời dạy của Ngài. Chỉ vì lời dạy của Ngài mà bao nhiêu thế hệ trong suốt mấy nghìn năm một mình đơn thân vào rừng sâu núi thẳm để đầu đà, khổ hạnh trong đó. Chỉ vì lời dạy của Ngài mà biết bao nhiêu người coi cái mạng mình, sự nghiệp không là gì hết. Cái này đâu phải là đơn giản, Đức Phật vĩ đại như thế nào, mà muốn trở thành con người vĩ đại như vậy thì chuyện gì tốt lành Ngài cũng không bỏ.

Trong kinh nói, Ngài tu tập thiền định, bố thí, trai giới, phục vụ, hướng dẫn quần chúng làm lành. Trong vô số kiếp Ngài tu cho mình và giúp quần chúng, trong vô số kiếp việc lớn việc nhỏ hễ thiện là Ngài làm. Đặc điểm của người thiện là như vậy nên khi thành Phật Ngài có tất cả. Ngay cái lúc Ngài còn là Bồ Tát lúc vừa lọt lòng là Phạm thiên Ngũ Tịnh cư xuống bồng Ngài rồi trao lại cho các vị dục thiên và nhân loại. Các vị tưởng tượng, phạm thiên - là thánh A Na Hàm phải xuống bồng Ngài. Để có được cái đặc biệt đó là việc thiện nào Ngài cũng làm hết, Ngài không có chê.

- Cái thứ hai, Ngài không coi điều ác nhỏ nào mà không tránh. Các vị xem kỹ bài Tướng kinh/ Đại nhân tướng trong Trường Bộ (Trường Bộ 30). Trong Trường Bộ chỉ có 32 bài nên các vị dò mục lục là thấy liền, trong đó có nói Ngài có bao nhiêu tướng tốt và những cái tướng ấy không phải ngẫu nhiên có, đều do các hạnh lành của Ngài trong nhiều đời quá khứ trong vô lượng kiếp. Mình đọc tròn đó có nhiều cái hạnh lành đặc biệt lắm mà mình không để ý.

Thí dụ như 
  1. Ngài không nhìn ngang liếc xéo người khác, 
  2. Ngài chỉ nhìn người khác bằng tình thương, bằng lòng từ bi
  3. còn nhắm mà giận quá thì đừng có nhắm đừng có nhìn ai hết. Ngài không nhìn người khác bằng ánh mắt như vậy cho nên khi thành Phật Ngài có cặp mắt đẹp lắm, kẻ thù nhìn cặp mắt Ngài phải nao lòng.  
  4. Thứ hai Ngài không có tranh thủ góp lời nói xấu ai hết nên khi thành Phật thì giọng nói của Ngài rất hay.
29/06/2021 - 09:57 - phamquynhnhu1989 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Ngài có 
  1. hàm răng rất là đẹp, 
  2. màu da rất là sáng, 
  3. giọng nói của Ngài rất là du dương, trong kinh nói giọng nói của Đức Phật đặc biệt lắm. 
Trong kinh nói, có 3 thứ âm thanh: 
  1. âm thanh của Phạm thiên có thể làm rung động lòng người. 
  2. Âm thanh thứ hai là của vị Chuyển Luân Vương và Phật Chánh Đẳng Giác có thể làm người ta nao lòng.
  3. Thứ ba tiếng hót của Ca Lăng Tần Già - đây là con chim quý ở trong Tuyết Sơn. Nó quý ở chỗ là khi nó cất tiếng hót thì con thú lớn rượt thú nhỏ nó nghe tiếng đó nó đứng yên và nó quên đi tìm mồi, đối với nó khi nghe được tiếng chim hay hơn là tìm mồi bỏ bụng. Và con thú nhỏ bị rượt đang chạy bán mạng mà nghe tiếng chim đó thì nó đứng yên nó nghe, tiếng hót quá hay đi.
Cho nên, trong kinh nói, đời vua A Dục có bà hoàng hậu được ông thợ săn hiến con chim Ca Lăng Tần Già mà ổng bắt trong núi sâu, ổng nói con chim này nó quý lắm và kể những đặc điểm của nó. Ổng tặng cho bả xong thì hoàng hậu thưởng ổng số tiền lớn và ổng dặn hoàng hậu muốn con chim hót phải cho nó ăn xoài chín, bả lựa xoài tốt nhất ngon nhất cho nó ăn mà nó không hót. Bả mới kêu ông thợ săn vô để hỏi, thì ổng bảo nó phải gặp đồng loại nó mới hót. Bả mới nói con chim này là con chim quý, bắt được 1 con đã khó thì làm gì bắt được con thứ hai mà đồng loại. Có người hiến kế, nói con thứ hai tìm không ra thôi thì bây giờ lấy gương đồng đánh bóng lên để trong lồng chim, thì con chim nó nhìn vô trong cái gương nó tưởng là con thứ hai thế là nó có cảm hứng nó hót. Lúc nó cất tiếng hót rất hay thì bả nghe tiếng chim bả mới nghĩ, trong kinh ghi rằng: "Tiếng nói của Đức Phật du dương như tiếng của Phạm thiên - phạm âm, hoặc có thể ai chưa từng nghe tiếng Phạm thiên mà nghe tiếng chim Ca Lăng Tần Già hót có thể hình dung ít nhiều giọng nói của Đức Phật, như vậy thì giọng nói của Đức Phật hay cỡ nào. Đây chỉ là tiếng của 1 con chim thôi, còn tiếng của 1 vị Chánh Đẳng Giác còn hay cỡ nào nữa".

Có rất nhiều vị pháp sư nói bà nghĩ tới đây bà hoan hỷ quá bà đắc đạo, không phải, nói tắt thì nói như vậy nhưng nói đầy đủ là phải nói thế này: " Lúc ấy bà suy nghĩ thế này, Thế Tôn đã tạo vô lượng công đức cho nên kiếp cuối khi thành Phật mới có được âm thanh đó. Ấy vậy mà nay, cái duyên nhân lành đó và quả lành đó nay đã không còn nữa, các pháp hữu vi đúng là vô thường, mọi thứ do duyên mà có và có rồi phải mất, và Thế Tôn cũng đã viên tịch ở Kusinara". Bà nghĩ như vậy bà hiểu được 4 đế và bà chứng Sơ Quả - Tu Đà Hườn.

Tôi quay lại trong kinh nói 32 tướng tốt của Đức Phật có được là nhờ Ngài có được nhiều đức lành, chẳng hạn như Ngài không nói đâm thọc, không nói lời độc ác, nên sanh ra Ngài có giọng nói rất tốt. Đức Phật có may mắn có nhiều hạnh lành lạ lắm, các vị nghe cho kỹ: Khi Ngài bước vô đám đông Ngài quan sát coi cái người này, tánh tình như vậy thì mình nên cư xử sao cho họ vui. Tánh người này nóng nảy thì mình cư xử sao, tánh người này yếu mềm thì phải cư xử sao, rồi người này bệnh thì mình phải cư xử sao, cái người này già thì đi đứng mình phải sắp xếp sao để họ đi được với mình cho thoải mái. Nói chung là Ngài luôn cư xử chuyện nho nhỏ thôi dầu là đám đông hay vài ba người bên cạnh thì Ngài luôn tìm cách cư xử sao cho mọi người bên cạnh được thoải mái. Đặc điểm của Đức Phật trong lúc luân hồi là như vậy.

Rồi có cơ hội học đạo với các bậc hiền trí, với chư hiền thánh là Ngài học, có cơ hội tu thiền là tu thiền, có cơ hội bố thí hay giúp người là Ngài làm. Bên cạnh đó cứ ở bên cạnh ai là Ngài tìm cách giúp cho người ta sống được thoải mái. Cho nên khi thành Phật tất cả hạnh lành Ngài có hết , Ngài không có chê hạnh nào nhỏ mà bỏ. 

Đặc biệt là bất thiện Ngài cũng không coi nhẹ việc bất thiện nào không nhỏ rồi không tránh. Không hoáy huýt, lườm liếc, không góp lời nói xấu đâm thọc chia rẻ gây mất đoàn kết, không làm ai khó chịu khi bên cạnh mình dù là chuyện nhỏ xíu thôi. Mình đâu ở không mình chiều người ta, nhưng mà không, việc ác tránh được thì tránh, việc thiện làm được thì làm.

- Đặc điểm thứ ba của lành là tận dụng điều kiện tốt để sống thiện. Cái này tôi không người giải thích nhiều.

- Cái thứ tư là tận dụng nỗi khổ niềm đau để sống thiện.

- Cái thứ năm, đặc điểm của người lành là biết quý thời gian, biết tranh thủ. Bởi vì thời gian như con nước, một đi không quay lui, một đi không trở lại. Chúng ta có thể cháy 10 cái nhà và cất lại 20 cái nhà, chúng ta mất 10 ký vàng có thể tìm lại 100 ký vàng, cái gì cũng tìm ra được nhưng thời gian thì không. Thời gian không bao giờ chúng ta tìm lại được 1 giờ đồng hồ đã mất, chuyện đó không bao giờ có. Dầu chúng ta là tỷ phú, chúng ta có 1000 tỷ đô la, có 1000 tỷ euro đi nữa. Cả hành tinh đầy ắp kim cương chúng ta là chủ, chúng ta giàu như Ác Ma thiên tử, như là Thiên Vương Đế Thích, như là Chuyển Luân Thánh Vương nhưng chúng ta cũng không thể nào tìm lại được 1 giờ đã mất.

Cho nên trong tinh thần Phật Pháp thì phút giây nào cũng là phút giây cuối cùng. Lần gặp gỡ nào cũng là lần gặp gỡ cuối cùng. Hôm nay chúng ta gặp nhau, ba ngày sau chúng ta gặp lại nhau đã là con người khác, còn con người của 3 ngày trước đã chết đã mất đã không còn nữa. Chẳng qua do sự tiếp nối danh sắc mà cái người đó hôm nay mình thấy còn sống, chứ thật ra con người trong cả 2 phương diện tâm sinh lý của 3 ngày trước đã không còn nữa. Hôm nay cái con người mà chúng ta gặp lại cũng tiếp tục là Lê Văn Tèo đó thì tình trạng tâm sinh lý nó đã không giống với Lê Văn Tèo của 3 ngày trước. Cho nên đặc điểm của người tinh tấn tu học là biết quý thời gian

Thấy các vị rỗi rảnh hẹn đi với người này, hẹn đi làm cái này cái kia mà mình quan sát mình thấy cái việc đó không cần thiết, chỉ vì cảm xúc nhất thời, chỉ vì niềm vui trước mắt thì mình biết ngay người đó là người dễ duôi. Chứ người tinh tấn họ quý thời gian lắm, họ quý như người trọng thương quý máu của mình.

Chưa hết, ngài Pakokku còn triển khai 1 cái rất là sâu, bởi vì Ngài là thiền sư mà. Ngài khi giảng về đặc điểm của người sống thiện thì Ngài có đúc kết lại thế này: "Ngài nói tất cả khổ trên thế gian này, tất cả mọi hiện hữu trên đời này đều là khổ hết. Tất cả nụ cười, nước mắt, gai góc và hoa hồng, tất cả hiện hữu đều là khổ hết. Và con đường duy nhất dẫn đến giải thoát đau khổ chính là thấy được cái khổ đế thì mới lìa được tập đế, có lìa tập đế mới chứng diệt đế. Hành trình thấy khổ trừ tập ấy có tên gọi là đạo đế."

Các vị nghe tôi nói đạo đế mà không hề nhắc đến Bát Chánh Đạo mới ghê. Tôi nhắc lại, muốn thành Thánh thì anh phải chứng ngộ 4 đế, mà thấy được 4 đế thì đầu tiên anh phải thấy được mọi thứ là khổ. Tiếp theo nếu mọi thứ là khổ thì bất cứ cái gì mình thích cũng đều là thích trong khổ. Khi mình thấy mình thích trong khổ thì mình mới từ bỏ để không thích nữa, như vậy thấy được khổ thì mới trừ được tập. Cái hành trình thấy khổ trừ tập này thì bắt buộc anh phải vận dụng Bát Chánh Đạo mới làm được cái chuyện đó, anh phải tu Tứ Niệm Xứ cũng có nghĩa là tu tập 37 Bồ Đề Phần. Anh phải tu Tứ Niệm Xứ thì anh mới thấy được cái khổ 1 cách rốt ráo danh sắc đang sanh diệt. Như vây mình thấy được mọi thứ là khổ thì mới bỏ được cái khổ. Mà bỏ bằng cách nào? Bằng cách là không tiếp tục thích trong khổ nữa, bởi vì thích trong khổ là đầu tư thêm cái khổ mới.

Ngài nói chúng sanh trong đời có 3 hạng. Tôi đang giảng về người lành mà .

Đặc điểm của người lành là: 
  1. Không chê điều thiện nhỏ rồi không làm, 
  2. không coi nhẹ điều ác nào là nhỏ rồi không tránh, 
  3. tranh thủ cơ hội tốt để tu tập, 
  4. biết tranh thủ điều cay đắng để tu tập và 
  5. biết trân quý từng phút thời gian. 
Xong rồi Ngài mới triển khai trân quý là sao thì Ngài mới giải thích về 3 cái khổ. 

Tất cả vũ trụ đều nằm trong 3 cái khổ này:

  1. Khổ đầu tiên là khổ khổ: tức là tất cả những gì làm cho ta khó chịu, Sự có mặt của tất cả những gì làm cho ta khó chịu về thân tâm. Trời đang nóng là khổ khổ. Mở máy lạnh lên đang tận hưởng tự nhiên điện cúp hoặc cái máy lạnh nó hư thì cái sung sướng nó mất đi, thì cái đó được gọi là hoại khổ. Nghĩa là sự có mặt của cái khó chịu là khổ và sự vắng mặt của cái dễ chịu cũng là khổ.
  2. Khổ thứ hai là hoại khổsự vắng mặt tất cả những gì làm ta dễ chịu. Một cái hoa đó đang đẹp tự nhiên ai đi qua làm gãy cái hoa. Cái tâm mình hồi nãy đang vui mà bây giờ nó không còn vui nữa thì đó cũng là hoại khổ - sự biến mất niềm vui.
  3. Cái thứ ba thì khó thấy đó là hành khổ: Bản chất lệ thuộc các điều kiện để có mặt cũng là khổ (Hành khổ). Khoan nói đắng hay ngọt, sướng hay khổ, chỉ nói đến cái tính chất lệ thuộc các điều kiện cũng là khổ.
Thí dụ muốn ăn được bữa ăn thì mình nói đơn giản là cứ quăng tiền ra, bước vô nhà hàng là tôi có ăn. Hoặc tôi móc cái phone ra order nhà hàng đem tới cho tôi, nhưng đó là nói vắn tắt, còn nói cho đầy đủ là: Ở đâu mình có tiền để mua phone, có sẵn tiền trong nhà bank để mình thanh toán thẻ hoặc rút tiền mặt. Ở đâu mà có tiền? Nội nghĩ hành trình làm sao có tiền, chưa hết. Phải làm bao nhiêu việc cực khổ để có tiền và mình phải có được sức khỏe, mới có được cái nhà, mới có được bàn ghế, để bây giờ mình mới móc phone gọi người ta mang đồ ăn tới cho mình. Chứ bây giờ mình chạy honda grab mà 2 vợ chồng với 4 đứa con trong nhà mái tôn thấp lè tè trong cái khu lao động nóng le lưỡi, thì các vị tưởng tượng làm sao có cái chuyện bóc phone ra kêu nhà hàng đem cơm đến cho mình. Giả sử cũng được chứ không phải không, nhưng mà vậy nè, nó bưng cơm tới mà ăn trong điều kiện như vậy các vị nuốt nổi không? Cho nên cái chỗ ngồi sạch sẽ, mát mẻ, thơm tho, mát lạnh, muốn có được cái bữa ăn như vậy không phải dễ đâu. Nó phải lệ thuộc rất nhiều các điều kiện.

Chưa hết mình phải có sức khỏe, chứ mình bị đau thận, gan, thần kinh, đau mắt, đau mũi, đau họng...thì làm sao mà mình tận hưởng bữa ăn đó được. Cho nên đừng có tưởng mình có tiền là có bữa ăn ngon. Sai. Trước hết phải hỏi cơ thể mình trước, nó phải ok từ trên đầu cho tới gót chân không bị bệnh thì mình mới có bữa ăn ngon được. Rồi mới hỏi tới túi tiền, túi tiền nó báo bữa ăn này không thành vấn đề. Chưa hết trong gia đạo phải bình yên, chứ mình đang ăn mà có kẻ dằn mâm xán chén, đánh chó đuổi mèo sao mà ăn. Rồi xóm hàng giờ đó mở nhạc ầm ầm, đá banh vào cổng mình rồi sao mình ăn. Có nghĩa là từ xã hội, láng giềng, gia đạo, sức khoẻ bản thân, túi tiền của mình rồi tất cả đều phải ok hết. Cuối cùng món nhà hàng đem tới vừa miệng mình, máy lạnh không hư nữa, nhà cửa sạch sẽ...cộng hết những điều kiện đó lại chúng ta mới có bữa ăn ngon. Về suy nghĩ coi tôi nói có đúng không? Chỉ một bữa ăn ngon quá nhiều phức tạp.

Như vậy tính chất lệ thuộc các điều kiện là một diện mạo thứ ba của thế giới. 

Thế giới gồm có 3 diện mạo: 
  1. Diện mạo thứ nhất của thế giới là sự có mặt của những thứ làm cho ta khó chịu về thân về tâm. 
  2. Diện mạo thứ hai là sự vắng mặt của đôi khi, hoặc thường khi nó làm cho ta dễ chịu. 
  3. Diện mạo thứ ba là lệ thuộc các điều kiện. 
Đây là 3 cái khổ: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ. Hành ở đây không phải là hành hạ mà là hữu vi, sự cấu tạo - Build.

Ngài nói chúng sanh trong đời có vô số nhưng gom lại có 2 hạng : 
  1. Hạng không tu và 
  2. hạng có tu. 
Ngài không nói đến hạng không tu, bởi vì nãy nói hạng không tu có 5 đặc điểm đó.

Ngài đang nói tới cái hạng có tu, có lòng cầu giải thoát cũng chia làm 3 hạng: 
  1. Thượng căn, 
  2. trung căn, 
  3. hạ căn.
+ Hạng hạ căn: khi khổ bầm dập te tua cay đắng mới bắt đầu nghĩ đến chuyện tu, mới bắt đầu nghĩ đến chán đời.

+ Hạng trung căn: không chờ bầm dập mà chỉ cần thấy cái gì héo úa tàn phai là tu rồi. Trong kinh dạy có 4 loại ngựa:

* Loại ngựa thứ nhất: chỉ cần vỗ nhẹ nó là nó chạy.

* Loại ngựa thứ hai: thấy cái dáng roi thì mới chạy.

* Loại ngựa thứ ba: phải đập cho nó đau thì nó mới chạy.

* Loại ngựa thứ tư: giết nó chết thì nó cũng không thèm chạy.

Trong kinh nói, chúng sanh trong đời có nhiều hạng như vậy:

* Hạng thứ nhất : nghe câu kinh hợp lý là tu.

* Hạng thứ hai: phải gặp ở đâu đó, nghe ở đâu đó chuyện đời tang thương, sóng thần, khủng bố, covid tùm lum hết thì nó nghe nản nó mới tu.

* Hạng thứ ba: đợi chuyện đó xảy ra trên người của nó, trong dòng họ, trong gia đình sát sườn của nó thì nó mới tu ;

* Hạng thứ tư: là trời có sập xuống nó cũng không thèm tu.

Ở đây cũng vậy, người hạ căn là thấy khổ bầm dập nó mới chịu tu. Hạng thứ hai là chỉ cần họ nhìn thấy hạnh phúc mong manh, hoa héo, dòng nước cạn, một con suối khô, một đám lửa rừng cháy mùa hạ là đã tu rồi.

Trong kinh kể ngài Ca Diếp làm chủ trang trại lớn đến mức phải cưỡi ngựa để chăm sóc. Buổi trưa hè nóng gắt Ngài đi ngựa có khăn nón đàng hoàng, cưỡi tuấn mã mang giày vàng, đai lưng nạm ngọc... đi thăm trang trại mà Ngài thấy người làm công mồ hôi nhễ nhại, quần áo rách bươn, những luống cày luống đất mới vỡ ra thì có trùn có dế bò ra. Rồi mấy con chim trên trời sà xuống ăn, chim lớn giành mồi chim nhỏ, chim lớn hơn nó giành chim nhỏ hớn... Ngài nhìn thấy Ngài mệt quá, Ngài nghĩ: Trời đất ơi! kiếm được chén cơm, manh áo mà cực vậy hả trời. Biết bao nhiêu chúng sanh vì miếng cơm manh áo, còn mình là chủ trang trại đây nè mà vì mồ hôi nước mắt của những chúng sanh khác đổi được chén cơm cho mình. Ngài nản lắm nên Ngài quyết định đi tu.

Nhưng mà chưa, gia đình ép Ngài lấy vợ thì Ngài cũng phải lấy nhưng các vị biết chuyện về Ngài rồi. Ngài chán quá Ngài không muốn lấy vợ, bây giờ từ chối thì ba má buồn. Ngài giàu lắm nên Ngài mới cho người đúc một tượng do Ngài chỉ đạo. Ngài đòi hỏi lỗ mũi, cái môi, lỗ tai, con mắt, chân mày phải như vầy, tóc cuộn xoắn. Coi như Ngài vẽ ra cô này coi như chỉ ở trên trời xuống. Ngài nói khi nào có được cô như vậy thì con lấy, còn không có thì con không lấy, chứ đâu phải là con chống đối cha mẹ rồi con không lấy vợ đâu, cha mẹ đừng có buồn bởi vì điều kiện con khó lắm.

30/06/2021 - 06:17 - phamquynhnhu1989 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Thì cha mẹ mới cho người đi tìm và gặp được người đẹp lộng lẫy y chang như vậy: mắt, tai, mũi, răng, cằm y chang mà có phần đẹp hơn vì do là người thật việc thật mà. Ngài nghe là Ngài thối thần rồi nên Ngài mới viết lá thơ nhờ người đưa cho bả thế này: " Gia tài của ta thì nàng biết rồi, ăn 15 kiếp chưa có hết, chỉ cần nàng đóng kịch là lấy ta làm vợ thôi thì nàng ăn hết, ta chỉ là 1 bóng mờ sa mạc bên cạnh thôi được không, đừng có bắt ta làm chồng theo nghĩa đen có được không. Ta van nàng đấy, hãy tha cho ta?" Trong lúc thơ đi thì có 1 lá thơ của nàng viết lại cũng y chang như vậy, nói là: " Chàng biết mà, nhà thiếp không có nghèo. Tụi mình cũng sàn sàn nhau, thiếp lấy chồng không vì cái gì hết chỉ vì nhà ép nên thiếp lấy chứ thiếp không có 1 lý do gì để lấy, chỉ vì cha mẹ thôi. Thiếp van chàng, chàng có quyền lấy thê thiếp bao nhiêu tuỳ ý . Đừng bắt thiếp làm vợ theo nghĩa đen."
 
Hai lá thơ chạm nhau trên đường, hai người từ trên phạm thên xuống mà, ly dục tuyệt đối.

Khi Ngài lật ra thơ ra là Ngài biết rồi, gặp đúng đối thủ, bả xin Ngài đừng bắt bả làm vợ nghĩa đen. Và bả đọc lá thơ của Ngài là đừng bắt anh phải làm chồng nghĩa đen. Mừng lắm, đêm động phòng 2 người lấy 1 vòng hoa tươi để chính giữa, bên kia là đầu sông bên đây là cuối sông, sáng mai thức dậy hoa bên nào héo bên đó là hèn. Có nghĩa là không có sáp vô đó, ghê không? Mình đọc mà mình thấy tiếc luôn đó. Ngài thì tránh qua 1 bên sợ đụng vào hoa nó héo kỳ mà nàng cũng tránh qua 1 bên sợ đụng vào hoa héo nó kỳ. Đêm động phòng 2 người không chạm vào nhau sáng hoa vẫn tươi. Sau đó 2 người diễn được có mấy bữa chịu không thấu, nói thôi bây giờ diễn như vầy hoài mệt thôi đi tu thiệt luôn cho rồi.

Thì mới dắt nhau mặc đồ nâu sòng đi, đi tới ngã 3 Ngài mới nói thế này: "Đi đâu người ta cũng nói tụi mình đẹp đôi, mà đi tu mà đẹp đôi là chết rồi. Thôi thì bây giờ mỗi người một ngã, đứa nào tìm được đạo giải thoát trước thì đi tìm người kia. Trong kinh nói đại địa này có thể gánh được bao nhiêu núi sông, kênh rạch, bao nhiêu đất đá, con người, nhưng không gánh nổi 2 con người vĩ đại với nhân cách trác việt và thoát tục đó, đại địa chấn động.

Lúc ấy Đức Thế Tôn biết được Ngài ngồi bên 1 góc cây lề đường chờ Ngài Ca Diếp tới. Ngài Ca Diếp vừa nhìn thấy Đức Phật thì Ngài quỳ sụp xuống không cần nghe Đức Phật nói gì và không cần trải qua sự đắn đo suy nghĩ. Vừa gặp Phật như đã hẹn, Ngài lấy trán chạm vào chân Đức Phật và nói câu này: "Thế Tôn là bậc đạo sư của con và con là đệ tử của Ngài". Và cuộc đời xuất gia của Ngài bắt đầu từ đó. Đương nhiên sau đó thì vị hôn thê của Ngài nghe đồn thiếu gia Pipphali (là thế danh của Ngài) đã xuất gia với Thế Tôn Gotama. Và nàng hơn ai hết nàng là tri kỷ nên nàng hiểu, với đầu óc như Pipphali mà bái sư người nào thì người đó không phải là tầm thường.

Nàng tên là Bhaddha Kapilani. Thời Đức Phật có nhiều Bhaddha lắm:

- Bhaddha Kapilani là vị hôn thê của Ngài Ca Diếp đệ nhất đầu đà.

- Bhaddha Kaccana là tên ngoại hiệu của bà Da-du-đà-la.

- Bhadda Kudalakesa.

Cả 3 vị đều là vị đại thánh Ni thời Đức Phật. Đại thánh ni nghĩa là đã tu tập rất nhiều kiếp và đã có những đặc hạnh biệt hạnh rất đặc biệt.

Đối với Ngài chỉ cần thấy 1 đoá hoa héo, chỉ cần thấy 1 giọt mồ hôi, 1 con côn trùng, con dế bị chim ăn là đủ để đi tu rồi.

Cho nên Ngài Pakokku nói khổ trên đời có 3:

- Hạ căn: là phải bị bầm dập bản thân thì họ mới tu.
- Trung căn: chỉ cần thấy cái hoa héo, một cuộc hôn nhân tan vỡ, 1 ngọn lửa cháy nhà, 1 dinh thự sụp đổ là đủ để đi tu rồi.
- Thượng căn: không cần phải tan nát, không cần phải đắng cay, không cần phải nhìn thấy cái gì héo úa tàn phai. Chỉ cần quan sát khía cạnh lệ thuộc các điều kiện là chán rồi.

Giấc trưa nắng chang chang, bậc thượng căn họ quan sát trước 1 khách sạn 5 sao, phía sau lưng nó là biển là vịnh có 1 loạt du thuyền sang trọng. Từ trên chiếc Rolls & Royce bước xuống 1 cặp nam thanh nữ tú tài tử giai nhân. Ngài chỉ cần nhìn thấy liệu trên 7 tỷ người trên hành tinh này có bao nhiêu người được như cặp này. Bậc thương căn họ suy nghĩ như vậy. Và liệu cái cuộc hôn nhân này giả định đã lấy nhau rồi thì nó kéo dài được bao lâu. Một cuộc hôn nhân phải nói là mỹ mãn nhưng nó phải lệ thuộc 1001 điều kiện, mình không chán người ta thì người ta cũng chán mình. Bên cạnh chàng có 1 tỷ cô nàng tuyệt đẹp và bên cạnh nàng có 1 tỷ chàng tuyệt đẹp, liệu cuộc hôn nhân này cả 2 sẽ kéo dài được bao lâu. Liệu họ có thể có nhau và giữ được nhau bao lâu, đó là nói về hôn nhân. Còn nói về tài sản, giàu bằng trời thì chuyện phá sản hoàn toàn có thể.

Thứ ba là nói về sức khoẻ, trưa nay tay trong tay 2 người tuyệt đẹp dắt nhau vào tiền sảnh 5 sao để lát nữa đi du thuyền, tối nay đi phi cơ ngoài biển. Nhưng mà có ai biết được 3 giờ chiều nay 1 trong 2 người phải đi cấp cứu không? Tôi đã nói lúc nãy rồi, 1 bữa ăn trưa mà đàng hoàng nó phải lệ thuộc 1001 điều kiện nói chi là 1 cuộc hôn nhân bằng vàng của 1 cặp phối ngẫu thượng lưu. Thấy vậy chứ không phải vậy đâu quý vị. Có biết bao nhiêu cuộc hôn nhân như thái tử Charles và nàng Diana vậy đó, thấy số 1 nhưng mà rã là rã. Rồi mình thấy như gia đình ông Bill Gates, mình thấy tưởng như gia đình bằng kim cương mà nó muốn rã thì nó rã.

[Image: the-Gates.jpg]
Gia đình Bill Gates

Cho nên hôm nay tôi nhìn có mấy hạng người trong đời mà tôi thấy là tôi nể. Đó là:

- Hạng thứ nhất: những vị ly dục, chơn tu, lìa bỏ thế gian.

- Hạng thứ hai để cho tui cúi đầu đó là những người dám lập gia đình. Tôi nói thật hoàn toàn bằng nghĩa đen không hề có ý châm chích, mai mỉa, cái người để cho tôi phải cúi đầu là người có cái gan dám lấy vợ lấy chồng.

Bởi vì mình có nhau được bao nhiêu? Chưa kể là qua trung gian mai mối, cha mẹ, người thân. Hai đứa tìm hiểu nhau đó mà mình có với nhau được bao nhiêu, có nhau rồi mình ngồi mình nghĩ bên cạnh bà vợ mình 1 ngày có bao nhiêu người bằng bả và hơn bả. Và ông chồng cũng vậy, bên cạnh 1 người đàn bà có biết bao nhiêu người đàn ông hơn chồng của mình. Chỉ chừng đó có đủ để giữ được nhau hay không? Chưa kể là sức khoẻ của 2 người. Chưa kể là khả tài chánh mong manh lắm, ba cái thị trường chứng khoán, stock nó muốn lên thì lên muốn xuống thì xuống như thuỷ triều vậy. Tài sản, tình yêu, sức khoẻ, tánh mạng, quan hệ xã hội, chức tước quyền lực...Không phải tôi đang lảm nhảm đọc bài thánh kinh mà đó là sự thật, nó mong manh vô cùng.

Đừng bắt tôi phải nói thật, trong số những người Phật tử mà tôi biết có rất nhiều cặp, họ đè tôi ra họ kể chứ làm sao tôi biết. Có nhiều cặp là vì con mà họ ráng họ gồng, chờ con 18 tuổi mới cho con biết chứ bây giờ họ đã ly thân rồi. Ly thân có 2 trường hợp: một là chính thức, hai là 2 người thoả thuận với nhau, người ngoài không biết đi đâu cũng tay trong tay anh anh em em. Chưa kể có những gia đình vì sĩ diện, họ phá sản mà không muốn cho người khác biết là họ bệ rạc lắm rồi.

Nản lắm quý vị, sức khoẻ, tình cảm, tài chánh...mấy cái đó rất là mong manh nên 1 bậc thượng trí khi họ nhìn mấy cái này lệ thuộc các điều kiện nên họ nản lắm. Nhìn 1 chén cơm mà nghĩ đến chuyện lệ thuộc các điều kiện, vì đâu mà có 1 chén cơm, nhờ đâu mà có được chén cơm, họ nản lắm. Họ nhìn thấy 1 giò lan, mình thấy thì mình khen đẹp nhưng bậc thượng trí họ chỉ nghĩ: "Để có được giò lan này phải cần bao nhiêu điều kiện, họ nghĩ tới đó mà họ nản".

Lúc nãy tôi nói rồi, 1 cặp phối ngẫu thượng lưu trong 1 bối cảnh vàng soi, lấp lánh, lung linh như vậy mà 1 bậc thượng trí họ nhìn vô họ nản. Bởi vì họ biết nhìn đâu cũng có vấn đề hết quý vị. Các vị biết trong giới của Hollywood toàn là Celebrity như Brad Pitt và Angelina Jolie kinh khủng lắm, nó rối như là canh hẹ mà người ngoài không biết. Chỉ thấy họ trong những sự kiện chói lòa, rực rỡ, vàng son, hoa tươi, đèn màu mà mình không hề biết rằng phía sau nó tan nát ở trỏng.

Thế giới này nếu 1 bậc thượng trí họ không cần nhìn thấy những giọt nước mắt. Họ không cần nhìn thấy những giọt máu. Họ chỉ cần nhìn thẳng vào những cái vàng son và đặt 1 dấu hỏi: "Những cái này liệu nó được bao lâu và từ đâu mà nó có. Bậc thiện trí chỉ nghĩ đến điều thứ ba này và đủ để tu tập".

Như vậy trưa nay tôi chỉ nhắc lại pháp thoại ngài Pakokku về định nghĩa người lành và người ác.

Ok. Chúc các vị một ngày vui và hẹn gặp lại tuần sau.


Mục lục các bài giảng

(Hết)
Reply
Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya
3. Kinh thừa tự Pháp
(Dhammadàyàda sutta)

_____________________________________

Trung Bộ 3 - Kinh Thừa Tự Pháp


Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Khi ở tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo",
 
--"Bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. 

Thế Tôn nói:

-- Này các Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự Pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng thương tưởng các Ngươi và Ta nghĩ: "Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự Pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật?". Và này các Tỷ-kheo, nếu các Ngươi là những người thừa tự tài vật của Ta, không phải là những người thừa tự Pháp, thì không những các Ngươi trở thành những người mà người ta nói: "Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự Pháp", mà cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: "Cả thầy và trò đều là những người thừa tự tài vật, không phải là những người thừa tự Pháp".

Và này các Tỷ-kheo, nếu các Ngươi là những người thừa tự Pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật, thời không những các Ngươi trở thành những người mà người ta nói: "Cả Thầy và trò là những người thừa tự Pháp, không phải là những người thừa tự tài vật", mà cả Ta cũng trở thành người mà người ta nói: "Cả Thầy và trò đều là những người thừa tự Pháp, không phải là những người thừa tự tài vật". 

Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy là những người thừa tự Pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng thương tưởng các Ngươi và Ta nghĩ: "Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự Pháp của Ta, không phải là những người thừa tự tài vật?".

Này các Tỷ-kheo, ở đây, một thời Ta ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ý, và còn lại đồ ăn tàn thực của Ta đáng được quăng bỏ. Khi ấy có hai Tỷ-kheo đến, đói lả và kiệt sức. Ta có thể nói với hai vị ấy: "Này các Tỷ-kheo, Ta ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ý, và còn lại đồ ăn tàn thực này của Ta đáng được quăng bỏ. Nếu các Ngươi muốn, hãy ăn đi. Nếu các Ngươi không muốn ăn, Ta sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ không có cỏ xanh, hay Ta sẽ bỏ xuống chỗ nước không có chúng sanh trong ấy". 

Rồi một Tỷ-kheo có thể nghĩ như sau: "Nay Thế Tôn ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ý; và đây là đồ ăn tàn thực của Thế Tôn, đáng được quăng bỏ. Nếu chúng ta không ăn, Thế Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ không có cỏ xanh, hay sẽ bỏ xuống chỗ nước không có chúng sanh trong ấy. Nhưng Thế Tôn có dạy như sau: "Này các Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự Pháp của Ta, đừng là người thừa tự tài vật". Ðây là loại tài vật; món đồ ăn này, ta hãy không ăn loại đồ ăn này và trải qua đêm ngày hôm nay, bị đói lả và kiệt sức". Rồi vị ấy không ăn loại đồ ăn này và trải qua đêm ngày ấy, đói lả và kiệt sức. 

Tỷ-kheo thứ hai nghĩ như sau: "Thế Tôn ăn đã xong, thỏa mãn, đầy đủ, đã chấm dứt buổi ăn, tự cảm thỏa thích, vừa ý; và đây là đồ ăn tàn thực của Thế Tôn, đáng được quăng bỏ. Nếu chúng ta không ăn, Thế Tôn sẽ quăng đồ ăn ấy tại chỗ không có cỏ xanh, hay sẽ bỏ xuống chỗ nước không có chúng sanh trong ấy. Vậy ta hãy ăn loại đồ ăn này, trừ bỏ đói lả và kiệt sức, và trải qua đêm ngày hôm nay như vậy". Rồi vị ấy ăn loại đồ ăn ấy, trừ bỏ đói lả và kiệt sức, và trải qua đêm ngày hôm ấy như vậy. 

Này các Tỷ-kheo, dầu cho Tỷ-kheo này, sau khi ăn loại đồ ăn ấy, trừ bỏ đói lả và kiệt sức, và trải qua đêm ngày hôm ấy như vậy, nhưng đối với Ta, Tỷ-kheo đầu tiên đáng được kính nể hơn, và đáng được tán thán hơn. 

Vì sao vậy? Vì như vậy sẽ đưa đến cho Tỷ-kheo ấy, trong một thời gian lâu ngày, ít dục, biết đủ, khổ hạnh, dễ nuôi dưỡng, tinh cần, tinh tấn. Do vậy, này các Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự Pháp của Ta, đừng là người thừa tự tài vật.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Nói xong, Thế Tôn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi vào tịnh xá. 

Lúc ấy, Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất), sau khi Thế Tôn đi chẳng bao lâu, liền gọi các Tỷ-kheo: "Này các Hiền giả Tỷ-kheo!"
-- "Thưa vâng Hiền giả", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta. 

Tôn giả Sariputta nói:

"Này các Hiền giả, như thế nào vị Ðạo sư sống viễn ly mà các đệ tử không tùy học viễn ly? Và như thế nào vị Ðạo sư sống viễn ly và các đệ tử tùy học viễn ly?" 

--"Này Hiền giả, chúng tôi từ xa lại để được hiểu nghĩa lý câu nói này từ Tôn giả Sariputta. Lành thay, nếu Tôn giả Sariputta thuyết giảng nghĩa lý câu nói ấy. Sau khi được nghe Tôn giả Sariputta thuyết giảng, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì" 
--"Chư Hiền, vậy hãy nghe và khéo tác ý, ta sẽ giảng" 
--"Thưa vâng, Hiền giả", những Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta. 

Tôn giả Sariputta nói như sau:

-- Này chư Hiền, ở đây vị Ðạo Sư sống viễn ly mà các đệ tử không tùy học viễn ly. Những pháp nào vị Ðạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ, và họ sống trong sự đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly.

Này chư Hiền, các Thượng Tọa Tỷ-kheo có ba trường hợp đáng bị quở trách. 

  1. Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ tử không tùy học viễn ly. Ðó là trường hợp thứ nhất, các Thượng Tọa Tỷ-kheo đáng bị quở trách. 
  2. Và những pháp nào vị Ðạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ. Ðó là trường hợp thứ hai, các Thượng Tọa Tỷ-kheo đáng bị quở trách. 
  3. Và họ sống đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly. Ðó là trường hợp thứ ba, các Thượng Tọa Tỷ-kheo đáng bị quở trách. 

Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỷ-kheo do ba trường hợp này đáng bị quở trách.

Này chư Hiền, các Trung tọa Tỷ-kheo có ba trường hợp đáng bị quở trách, ... (như trên)...

Này chư Hiền, các vị mới thọ Tỷ-kheo có ba trường hợp đáng bị quở trách.
 
  1. Vị Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ tử không tùy học viễn ly. Ðó là trường hợp thứ nhất, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng bị quở trách. 
  2. Và những pháp nào vị Ðạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ không từ bỏ. Ðó là trường hợp thứ hai, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng bị quở trách. 
  3. Và họ sống đầy đủ, lười biếng, dẫn đầu về đọa lạc, bỏ rơi gánh nặng sống viễn ly. Ðó là trường hợp thứ ba, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng bị quở trách. 

Này chư Hiền, các vị mới thọ Tỷ-kheo do ba trường hợp này, đáng bị quở trách.

Này chư Hiền, như vậy là những trường hợp vị Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ tử không tùy học viễn ly.

Và như thế nào, vị Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly? Này chư Hiền, vị Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly. Những pháp nào, vị Ðạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ; và họ không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về sống viễn ly.

Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỷ-kheo có ba trường hợp đáng được tán thán. 

  1. Vị Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly. Ðó là trường hợp thứ nhất, các Thượng Tọa Tỷ-kheo đáng được tán thán. 
  2. Và những pháp nào vị Ðạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ. Ðó là trường hợp thứ hai, các Thượng tọa Tỷ-kheo đáng được tán thán. 
  3. Và họ không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về sống viễn ly. Ðó là trường hợp thứ ba, các Thượng Tọa Tỷ-kheo đáng được tán thán. 

Này chư Hiền, các Thượng tọa Tỷ-kheo do ba trường hợp này, đáng được tán thán.

Này chư Hiền, các Trung tọa Tỷ-kheo có ba trường hợp đáng được tán thán. ... (như trên)...

Này chư Hiền, các vị mới thọ Tỷ-kheo có ba trường hợp đáng được tán thán. 
  1. Vị Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly. Ðó là trường hợp thứ nhất, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng được tán thán. 
  2. Và những pháp nào vị Ðạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy họ từ bỏ. Ðó là trường hợp thứ hai, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng được tán thán.
  3.  Và họ không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng, họ bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc và dẫn đầu về viễn ly. Ðó là trường hợp thứ ba, các vị mới thọ Tỷ-kheo đáng được tán thán. 

Này chư Hiền, các vị mới thọ Tỷ-kheo do ba trường hợp này, đáng được tán thán.

Này chư Hiền, như vậy là những trường hợp vị Ðạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly.

Ở đây, này chư Hiền, 
  1. tham là ác pháp, và 
  2. sân cũng là ác pháp. 

Có một con đường Trung đạo diệt trừ tham và diệt trừ sân, khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và này chư Hiền con đường Trung đạo ấy là gì - (con đường) khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? 

Đó là con đường Thánh tám ngành, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Này chư Hiền, đó là con đường Trung đạo, khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

Ở đây, này chư Hiền, 
  1. phẫn nộ là ác pháp và 
  2. hiềm hận cũng là ác pháp, 
  3. giả dối là ác pháp và 
  4. não hại cũng là ác pháp, 
  5. tật đố là ác pháp và 
  6. xan lẫn cũng là ác pháp,
  7. man trá là ác pháp và 
  8. phản bội cũng là ác pháp, 
  9. ngoan cố là ác pháp và 
  10. bồng bột nông nổi cũng là ác pháp, 
  11. mạn là ác pháp và 
  12. tăng thượng mạn cũng là ác pháp, 
  13. kiêu là ác pháp và 
  14. phóng dật cũng là ác pháp. 

Có một con đường Trung đạo diệt trừ kiêu và diệt trừ phóng dật, khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Và này chư Hiền, con đường Trung đạo ấy là gì - (con đường) khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn? 

Ðó  con đường Thánh tám ngành, tức là: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Này chư Hiền, đó là con đường Trung đạo khiến (tịnh) nhãn sanh, khiến (chân) trí sanh, hướng đến tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.

Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời giảng của Tôn giả Sariputta.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Reply
Sư Toại Khanh Giảng Trung Bộ Kinh 3 - Kinh Thừa Tự Pháp (1-2)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=F-LyY1XtLwE&abt=Th%E1%BB%ABa+t%E1%BB%B1+ph%C3%A1p

TRUNG BỘ KINH
3. KINH THỪA TỰ PHÁP
(Dhammadàyàda sutta)

https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung03.htm

Đức Phật ngụ tại chùa Kỳ Viên (Xá Vệ) và nhìn thấy đông đảo chư tỳ kheo, phàm tăng sống phóng túng trong điều kiện thoải mái do các đệ tử đem lại. Bài Kinh này là một Pháp thoại mang nội dung sách tấn chư tăng.

Nội dung Kinh: “Đức Phật dạy rằng Ngài thiết tha mong mỏi tất cả đệ tử tăng tục của Ngài phải là những người kế thừa di sản tâm linh của Ngài, không trở thành những người kế thừa bất cứ thứ gì ngoài ra Chánh Pháp”. Ngài Xá Lợi Phất đã giải thích câu nói ngắn gọn của Đức Phật bằng một giải thích rộng rãi rằng một vị tỳ kheo đích thực phải là người có được lý tưởng sống tương tự như bậc Đạo sư của mình ở ba nét căn bản:

- Đức Phật là bậc thành tựu hạnh viễn ly và chúng tỳ kheo cũng hoan hỷ với nếp sống viễn ly.
- Tất cả thế lợi mà Đức Phật vẫn cảnh báo cũng phải được từ bỏ.
- Đời sống của vị tỳ kheo phải luôn ở chiều hướng đi lên

Ngài Xá Lợi Phất xác định con đường duy nhứt để thực hiện một nếp sống có đủ ba nội dung này, vị tỳ kheo nhất thiết phải tu tập Bát Thánh Đạo và mục đích của hành trình này là sự đoạn tận phiền não.

Cái duyên khởi gần để Đức phật thuyết giảng bài Kinh này đơn giản là, có hai vị tỳ kheo về hầu Phật. Mà lúc đó trễ giờ rồi cả hai vị đều không ăn uống gì hết vì lỡ buổi. Thì Đức Phật mới nói khi nãy ta ăn còn dư chút ít thực phẩm, vị này nếu muốn cứ dùng. Một vị thì không dùng. Một vị thì nghĩ nếu mình không dùng thì mình đói mình không tu được, nên dùng. 

Đức Phật không phải giống như mình cho xong rồi nói. 

Ở đây tôi không muốn làm mất thì giờ quí vị tôi kể lại một chuyện thôi. Phàm phu mình thì lúc mình thọ Tam quy ngũ giới thì chư tăng hay nhắc với mình là quý đạo hữu quy y là quy y với Tam Bảo, sư hoặc là thầy hoặc là chúng tôi chỉ là người đại diện thôi. Các vị quy y không phải là từ đây về sau mang pháp danh chúng tôi đặt rồi nhớ buổi lễ hôm nay rồi cứ khư khư trong đầu là đệ tử của riêng tôi. Nếu cứ mỗi Phật tử vào chùa làm lễ quy y với ông thầy nào thì nghĩ ông thầy đó của mình thì ngoài ra không là cái gì để tôi tôn trọng hết, ai cũng nghĩ vậy thì Phật giáo không còn là Phật giáo nữa. Nó thành manh mún.

Có những Phật tử họ nghe họ hiểu, họ làm theo cách hiểu của họ. Có người họ coi vị thầy đó như thầy khai tâm cho mình rồi sau đó họ đối với những vị nào cũng như vậy thôi. Nhưng có những người đối với vị nào cũng vậy là vì họ hiểu đúng lời của vị thầy. Có những người không phải do tâm hồn họ rộng rãi mà do đức tin họ là một thứ đức tin lang chạ. 

Ở VN tôi biết có một bà giận ông thầy của bả là ông sư Nam Tông, bả đi qua chùa Bắc Tông. Bả đi qua vậy bả còn khoe để chọc tức ông thầy. Có mấy người họ nói sao đi tùm lum vậy, thì bả mới nói hồi đó sư dạy mà, sư nói quy y là mình không chấp ai hết. Cho nên phàm phu mình luôn luôn ôm vào chữ nghĩa. Tôi biết tôi nói vầy có một số vị hiểu lầm. Rồi có ông sư ổng nói quy y với tôi nhưng không có nghĩa là của tôi, vậy mà mai này mình biết họ đi tùm lum, mình buồn.

Cách đây không lâu tôi có biết một vị hòa thượng, không phải chùa mình. Tôi ở chung phòng với vị đó. Vị hòa thượng đó thân quen với hòa thượng mình. Tôi và vị đó xài chung một rest room. Thiệt tình tôi trọng thì có trọng nhưng nói đến chuyện rest room thì làm sao mình không dùng được. Nó rất phiền. Tôi vô dùng xong đi ra thì vị đó đang coi tivi, trong phòng thì không có ghế, chỉ có cái giường thôi. Vị đó thấy tôi ra mới nói ngồi chơi xíu. Tôi mới nói dạ được, con đứng rồi con về phòng. Thật ra tôi cũng không muốn coi nữa, thấy vị kia ngồi một mình buồn có vẻ muốn tôi ở lại, nên tôi đứng, thì vị đó mới nói ‘Cứ ngồi đi, không sao đâu, tôi cho phép’. Tôi nói dạ được rồi, để con tự nhiên. Sau khi tôi nói thì vị đó nói: ‘Nhưng phải vậy chớ mới có trật tự’! Cái người phàm mình nó là như vậy. Các vị nghe kịp không? Mình nói ra như vậy nhưng có cái chấp rồi đó.

Nhưng Đức Phật thì không như vậy. Nãy giờ tôi kể các vị nghe lung tung để tôi muốn nói đến Đức Phật. Đức Phật không phải người (xin lỗi tôi phải xài chữ hơi phàm với Ngài), Ngài không phải người nói đằng đông làm đằng tây. Ngài kêu các vị ăn thì Ngài kêu thật lòng. Ngài muốn nhắc cái gì thì Ngài cũng mượn cớ Ngài nhắc luôn. Thì khi vị kia ăn xong thì Ngài mới nói ‘Trong cái Pháp ta nhân sự kiện hôm nay ta muốn nói với các tỳ kheo một chuyện’. Thì chuyện xảy ra hồi trưa chỉ có hai vị tỳ kheo, nhưng đến chiều Ngài mới nói với chư tăng. Ngài nói “Một người đệ tử đích thực của Như Lai phải là người kế thừa di sản tinh thần”. Vì sao? Vì mấy hôm nay chưa có duyên để nói. Lúc này có đông đảo chư tăng, có những vị phàm tăng bị hệ lụy vào đệ tử. Đệ tử đi đâu xa về có gì cũng tôi cúng cho thầy của tôi. Rồi có nhiều vị đam mê thích thú trong đó. Được thì họ thích thú tham ái, không có thì buồn, sân hận. Đức Phật Ngài suy nghĩ Ngài muốn có dịp để Ngài nói. Hôm nay có sự kiện như vậy. Đó là duyên khởi của bài Kinh Thừa Tự.

Chúng ta thừa nhận rằng chúng ta làm nô lệ cho cảm giác phù du của mình. Bữa nay tôi nói một chuyện hơi đau lòng. Thí dụ mình đi tu, phần lớn tu sĩ xuất thân từ nhà nghèo. Những vị tu lâu với những vị hòa thượng đời trước, dân miền ngoài học rất là giỏi, dân miền Nam tánh lè phè. Có một chuyện rất đau lòng là chúng ta đi tu nói theo lý tưởng là cầu Đạo giải thoát. Mà thật ra phần lớn phải nói chúng ta càng tu thì ông Phật trong lòng càng nhỏ. Một chuyện rất buồn nữa là hòi xưa tu sĩ thì ít bố thí. Phật tử họ có cái chấp mà giờ xin lỗi giờ đốt ra tro họ cũng không bỏ được. Họ nói bố thí là Phật tử bố thì chớ không phải ông sư bố thí. Sư là ‘xả phú cầu bần xả thân cầu đạo’ có gì mà bố thí. 

Không phải, nói vậy không đúng. 

Trong Kinh Đức Phật Ngài nói rằng vị tỳ kheo chơn chánh nhứt là vị không có tài sản. Tuy nhiên không có tài sản chỉ là một phần rất là nhỏ của công phu tu hành thôi. Nhớ cái này. Mà phần còn lại phải là tâm hồn hào sảng. Anh không có gì để sở hữu đó là cái tốt, anh tu mà; nhưng cái lòng anh lúc nào cũng phải mở rộng. Chớ không phải nói anh tu anh không có tài sản lòng anh khép lại, bởi vì anh không có gì hết trơn, lòng anh khép lại thì đó là cái bậy. Tu sĩ phải là người rộng rãi nhứt mặc dù là người nghèo nhứt. Nếu ai đó hỏi các vị thế nào là một tu sĩ Phật giáo Nguyên Thủy. Các vị phải nói rằng tu sĩ PG Nguyên Thủy phải nói là nghèo nhứt nhưng cũng là người rộng rãi nhứt trên thế giới. Đó mới là người đệ tử Đức Phật.

Thế nào là người nghèo nhứt? Trong Luật, vị tỳ kheo một món ăn cũng không được giữ qua đêm. Một người ăn mày ngoài đời còn được giữ món ăn qua đêm, chớ vị tỳ kheo dầu đói dầu no cũng không được giữ qua đêm. Tới khi mặt trời đứng bóng anh không được phép giữ cho dù là một hột mè, một miếng muối, miếng đường nếu nó đã được dùng cho thức ăn buổi sáng. Đây là keo đường, sáng nay tôi đã múc trong đây để nấu ăn thì kể từ giây phút đó keo đường đã trở thành thực phẩm buổi sáng. Buổi chiều tôi không được quyền lấy keo đường này để pha sữa uống. Ác vậy đó! Hủ muối hồi sáng tôi đã dùng để nêm nếm rồi đó thì giác chiều tôi không được dùng hủ muối đó cho cái gì khác.

Trong một không khí thân mật tôi mới nói ra một chuyện rất thật mặc dù nó là một sự thực đau lòng. Có nhiều Phật tử họ đến hỏi tôi bằng thiện chí: Tại sao Phật Pháp bây giờ chư tăng không được như ngày xưa. Nếu họ hỏi đàng hoàng thì tôi giải thích ‘tùy hoàn cảnh mà’. Nhưng nếu họ hỏi ác ý thì tôi nói thế này ‘Ông sư bây giờ không được như ông sư hồi xưa thì Phật tử bây giờ không được như Phật tử hồi xưa’. Cái đó đúng. Mình tu bê bối không thể đổ thừa Phật tử mình nhưng Phật tử giờ không như hồi xưa. Phật tử hồi xưa họ có thể vì Đạo họ bán mạng. Phật tử bây giờ không có. Phật tử bây giờ biết ông sư bê bối thì đi la làng lên, mà cái la đó không phải vì bảo vệ Đạo, mặc dù họ nhân danh Đạo. Thật ra họ la làng vì đụng chạm đến cái gì đó của họ, một tình cảm riêng tư hoặc một quyền lợi nào đó của họ. Phật tử bây giờ nghe nói ông sư giữ giới không giữ tiền, xin lỗi các vị chớ bỏ mặc. Ông sư nào bây giờ đại phước mới được giữ giới không giữ tiền, giới không giữ vàng bạc châu báu. Ông sư đại phước mới giữ được cái giới đó. Như trường hợp ngài Panio ngài tuyên bố là không giữ tiền thì thiếu gì người support cho Ngài. Tôi nói thiệt ngoài ngài Panio ra người khác nói không giữ tiền là chết. Có một vị đại đức tôi rất kính phục. Kính phục bằng cái đầu cái trán của tôi trước chân vị ấy, mà vị ấy đi hơi quá đà trong chuyện giới luật. Vị đó không giữ tiền, mà các ngài du học bên Thái Lan về nước thuyết Pháp Phật tử lên cho tiền thì Ngài nạt cho một trận. Ngài nói làm cho mấy ông sư hư. Có một bà Phật tử nói câu tôi nghe mát ruột: ‘Bạch Ngài, như Ngài ngài không nhận thì đi đâu có người lo, mấy ông sư nhỏ đó mà không nhận tiền là chết’. Phật tử một năm họ đi đến chùa có mấy ngày thôi, hoặc một tháng lên một lần. Vậy nửa đểm nửa hôm mình bị cảm, bị sốt hỏng lẽ xuống pharmacy xin nó. Tôi nói thật tôi không tin pharmacy. Cô có tưởng tượng cảnh ông sư không giữ tiền mỗi lần bịnh chạy xuống pharmacy xin không? Chuyện đó không có. Phải có ít tiền để xoay trở những trường hợp đó. Rất là khó. Người đại phước mới giữ được trọn vẹn Giới đó. Hoặc như tôi tuyên bố chùa Pháp Luân không giữ thức ăn ban đêm, nhưng mà sáng phải có người vào, hoặc ở đây phải có xóm làng Phật tử để tôi đi bát. Chứ còn quanh chùa Pháp Luân đây hoàn toàn không có chỗ nào để tôi đi bát cả. Chưa kể khí hậu khắc nghiệt. Nó nóng thì nóng không chịu nổi. Nó lạnh cũng không chịu nổi. Mà trong đây chúng tôi không được phép giữ thức ăn trong chùa là chết. Mà nên nhớ đúng luật hiện chùa Pháp Luân có bốn vị tỳ kheo mà không vị nào được phép giữ hết, chớ đừng nói hòa thượng hay là tôi, không ai được giữ hết. Nếu đúng luật như vậy thì tỳ kheo cũng không được nhóm bếp nhóm lửa nữa. Như lần đó Đức Phật tắm rửa cho vị tỳ kheo bị bịnh, Ngài nói ngài A Nan đi xin nước nóng ở ngoài làng về, chớ ngài A Nan không được nhóm lửa. Nhưng xã hội thời đó ok chuyện đó. Như bên Thái Lan giờ có bịnh viện cho chư tăng. Chớ còn VN không có bịnh viện cho chư tăng mà để mấy ông sư không giữ tiền là chết.

Tôi trở lại chuyện, tức là chúng ta luôn luôn làm nô lệ cho những cảm giác phú du. Khi đi vào chùa, mình nói đơn giản là cầu đạo giải thoát. Nhưng thật ra lâu ngày khi mình lớn lên, mình có điều kiện trở thành một vị trụ trì, một vị Pháp sư có tiền có bạc, có uy tín thì mình không có can đảm để mình nhớ lại rằng cái mục đích thực sự của đời tu mình là cái gì, mình không dám nhớ! Bởi vì nhớ thì mình thấy tủi hổ vì không đi được tới đâu hết. Phải nói thế này: dầu chúng ta là người không đủ can đảm nhớ tới cứu cánh đời tu mình là cái gì, nhưng chúng ta cũng phải nhớ lấy một chuyện. Nếu cách đây 30 năm, 50 năm, 100 năm, 200 năm, 300 năm, 1.000 năm, 2.000 năm mà không có những vị chơn tu thì hôm nay chúng ta (tôi đó), chúng tôi sẽ không phải là những tu sĩ nhàn hạ như vầy đâu. Các vị biết những ngày đầu đem Phật giáo vào VN, ngài Bửu Chơn, Hộ Tông các ngài rất là cực. Các ngài đi phải đi làm sao, đứng phải đứng làm sao, ăn, nói, cư xử với mọi người làm sao. Bởi các ngài đem Đạo về mà. Nhờ các ngài được như vậy, lúc đó bác sĩ , kỹ sư họ theo Đạo mình con số không biết nào mà kể. Các ngài sinh hoạt theo Nam Tông, ăn uống không giống ai hết, nhưng thu phục rất nhiều người. Khi Phật giáo VN đã có cái nền trên đất nước rồi thì thế hệ sau chúng tôi đi lên.

Trong bài Kinh này Đức Phật nói rằng hãy là những người thừa tự Pháp, đừng thừa tự tài sản, đừng thừa tự bất cứ cái gì thuộc về vật chất. Cái giá trị thực sự của một vị tu sĩ không phải là trụ trì được một ngôi chùa mà giá trị thực sự là cái gì đó rất tâm linh.Tôi có thể nói với các vị một chuyện mà ngay bây giờ có thể các vị không thấm thía, nhưng về nhà có thể thấy ra. Nếu tôi năm 70 hoặc 80 tôi làm trụ trì chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Xá Lợi, chùa Ấn Quang, chùa Già Lam hoặc một ngôi chùa nào nổi tiếng trong Sài Gòn, tôi chết rồi, lịch sử Phật giáo VN sẽ không ghi một trang nào về tôi cả. Nếu có ghi thì ghi một dòng thôi. Kể lại lịch sử ngôi chùa thì họ điểm lại một hàng thôi nếu tôi không có một di sản gì về tinh thần. Cho nên giá trị một vị tu sĩ không phải là nắm một ngôi chùa lớn. Nếu hôm nay tôi có được 1.000 đệ tử tôi dám bảo đảm với các vị sau khi tôi chết mười năm không ai nhắc đến tên tôi nếu tôi chỉ có 1.000 đệ tử. Mà chỉ cần tôi dịch một cuốn Kinh, hoặc tôi trở thành một thiền sư gương mẫu cho đại chúng thì khi tôi chết rồi tôi sẽ được bất tử trong lòng dân tộc, trong lòng Phật tử VN. Điều đó cho thấy giá trị đích thực một tu sĩ nằm ở tinh thần chớ không ở vật chất. Bên Bắc Tông có bốn chữ ‘Truyền đăng tục diệm’ (nối đèn tiếp lửa), từ thế hệ trước qua thế hệ sau giống như truyền đăng (đèn này mồi qua đèn kia) và ‘tục diệm’ là đuốc này nối qua đuốc kia, gọi là truyền đăng tục diệm. Nếu khéo suy nghĩ mình sẽ hiểu mình có một niềm vui rất lớn là giữa các vị với chúng tôi và với Đức Phật có một quan hệ rất chặt chẽ.

Các vị thọ giới từ ai? Thí dụ cô thọ giới từ ngài Hộ Giác. Mà ngài Hộ Giác thì thọ giới tỳ kheo từ Campuchia. Mà Phật giáo Campuchia được bắt nguồn từ đâu? Nó cũng lòng vòng. Chúng ta đọc sử mới biết một chuyện rất giựt mình. Lịch sử Phật giáo luôn luôn là một sự luân lưu. Chư tăng Tích Lan rất hãnh diện vì họ đất Phật. Đức Phật từng đến Tích Lan mà. Chính ngài Mahinda con ruột của vua A Dục, ngài là vị A la hán, ngài đã truyền Đạo từ Ấn Độ qua Tích lan, cho nên chư tăng Tích Lan rất hãnh diện Đạo họ là Đạo gốc.Tôi nói này các vị nghe giật mình. Nay mai tôi hướng dẫn về giáo sử tôi sẽ hướng dẫn các vị chuyện này. Có một dạo tích Lan không có Phật giáo, không có chư tăng. Hôm nay nói tới Phật giáo ai cũng biết tới Tích Lan (Srilanka), nhưng ít ai biết có một dạo Tích Lan không có chư tăng.

Tích Lan một đảo nhỏ ở Ấn Độ dương, kế Ấn Độ, có một dạo vua Tích Lan phải cho người qua Miến Điện mời chư tăng Miến Điện hoặc có lúc mời chư tăng Thái Lan qua. Đó là lý do tại sao hôm nay bên Tích Lan Phật giáo chia ra ba nhánh, trong đó có nhánh Chiangma Nikaya, là bộ phái Phật giáo bắt nguồn từ Thái Lan. Chư tăng phái đó đi ra đường không quấn kín, mà là bỏ cái này ra. Bên Thái Lan giờ cũng hai nhóm. Nhóm Anyka với nhóm Thamayooth, thì có nhóm ra đường quấn kín, có nhóm họ cũng quấn nhưng bỏ cái này. Rồi có nhóm đi ra đường không cho xài dù. Có nhóm cho xài dù nhưng không phải dù bình thường mà nó là cái lá sen. Lá sen che cái nào héo thì vụt rồi lấy cái khác che.

Cho nên lịch sử Phật giáo Tăng già mình là sự luân lưu là bởi vì cái gốc mình từ Ấn Độ qua Tích Lan. Đầu thế kỷ XX chư tăng Tích Lan phải đi ngược trở về Ấn Độ để đem Phật giáo về, là một chuyện. Phật giáo Tích Lan bây giờ có lúc nó đem từ bên Thái Lan, Miến Điện qua. 

Còn chuyện này quí vị nghe giựt mình nữa. Phật giáo Nam Tông VN như tui nè, là gốc từ các ngài mang ở Miên về. Nhưng sau 75, Pôn Pốt nó giết không còn một mống. Tui nói là một mống chớ không phải hai mống. Tui nói một mống cũng không còn. ( ... mất âm thanh), bên Campuchia, đợt đó họ có mời ngài Hộ Giác mà ngài Hộ Giác không đi. Trong kỳ đó là ngài Giới Nghiêm, ngài Bửu Phương, ngài Thiện Tâm, ngài Bửu Châu, đại khái năm sáu vị của mình qua bên đó làm lễ truyền giới. Tức là nó luân lưu. Ngày xưa đạo mình do các ngài VN qua tu bên Miên. Chính mình bây giờ, Phật giáo Campuchia bây giờ là do VN cho lại. Đó là sự luân lưu. Làm sao có chuyện đó được?

Chúng ta nhớ rằng đó là truyền đăng tục diệm của Tăng già. Giữa chúng ta đối với Đức Phật có quan hệ là sao? Trong chuỗi dài lịch sử, không bao giờ có một quãng cách giữa vị tỳ kheo này với vị tỳ kheo này. Chư tăng tu là buông bỏ hết, nhưng cái gốc gác rất quan trọng. Là sư thọ giới với ai. Chúng tôi không biết sư mà biết thầy sư, rồi thầy của thầy mình. Rồi thầy của thầy của thầy của thầy ... đi ngược riết mình sẽ đụng Đức Phật. Như ngài Hộ Giác, tôi tu sa di với ngài Tịnh Sự. Thầy ngài Tịnh Sự là một vị bên Thái Lan, thì qua đây tôi tu tỳ kheo với ngài Hộ Giác. Hồi xưa thầy của ngài Hộ Giác là một vị Campuchia. Mà vị thầy đó chắc chắn là có thầy nữa. Rồi cứ chồng chồng đi ngược hoài mình nắm sợi dây cứ phăng phăng vậy sẽ gặp Đức Phật. Trong suốt cuộc luân lưu đó nó là gì? Nó là sự truyền thừa lẫn nhau bằng di sản tâm linh.

Tôi lập lại cho các vị nghe: Lào, Thái Lan, Campuchia là đất nước chùa tháp. Ấy thế mà khi Campuchia bị Pôn Pốt vừa diệt chủng vừa tàn phá đạo Phật như vậy, những ngôi chùa, những ngôi tháp cao ngất đó không thể tiếp nối được truyền thống chư tăng, mà phải chư tăng mới tạo ra chư tăng. Các vị nghe kịp không? Ngày xưa lúc tôi ra Đà Nẵng tôi nghe sư trụ trì ngoài đó nói một câu. Tôi khen chùa đó lớn, Phật giáo Bắc Tông cất cái chùa này hay quá. Sư trụ trì đang ăn, sư nói “Cất chùa lớn không hay bằng tạo tăng tài”. Sư bồi thêm câu “Tăng tài tạo chùa lớn chớ chùa lớn không thể tạo ra tăng tài”. Exactly!

Cho nên đó là vì sao Đức Phật nói “Hãy kế thừa di sản tâm linh của ta”. Người Tàu có câu “Để cho con cái nghề quý hơn để cho con rương vàng”. Giờ các vị không cho tôi học, tới 18 tuổi không học hành gì hết. Rồi các vị chết thì sao? Cái rương vàng đó ăn riết nó mòn, cho tôi cái nghề đi. Vàng có thể bị cháy nhà, bị động đất nó mất chớ cái nghề nó không mất. Tôi nhớ có một câu danh ngôn của Á Rập rất là hay: “Cuộc đời là một hành trình đi qua sa mạc. Ta chỉ nên giữ lại cho mình cái gì thật sự cần thiết và không thể bị mất”.

Mình phải nói rằng chùa to Phật lớn cũng là bề thế, là gương mặt của Phật giáo. Nhưng phải nhìn nhận rằng nếu trong tâm linh tăng chúng, trong tâm linh Phật tử không có đạo Phật thì chùa to Phật lớn chẳng đi về đâu. 

Bữa đó có một sư huynh đọc một bài báo của New York Time nhét trong hành lý . Sư đi nước ngoài về sư lấy cho tôi coi. Trong đó có nói là các nhà thờ thiên Chúa hôm nay ở Tây phương phần lớn ở trong trạng thái empty là không có Cha cũng không có tín đồ. Họ xài chữ empty, chữ đó nặng lắm: tan hoang sự nghiệp rồi. Tức là nhu cầu tôn giáo nó trở nên xa lạ với người ta. Nó không đáp ứng được gì cho người ta cả, thế là người ta buông. Các vị thấy không. Rồi mai này có chuyện buồn, khi mà đạo Chúa không còn hấp dẫn người ta nữa, thì nhà thờ trước đây cất lớn bao nhiêu thì hôm nay nỗi buồn cho các Cha càng lớn bấy nhiêu. Chẳng thà nhà thờ nhỏ nhỏ bây giờ mình bán làm từ thiện cà phê. Còn đằng này các vị biết những nhà thờ ở châu Âu nó lớn không có can được. Có lần tôi coi hình chụp một quán cà phê ở Áo, kế bên là một vương cung thánh đường. Tôi nhìn tỉ lệ giữa con người và nhà thờ đó, nó không phải tòa nhà nữa mà nó là cái núi. Bên châu Âu có những nhà thờ không phải là cái nhà mà nó là cái núi. Cái nhà ban đêm mù mù mình không thấy đường mà chỉ thì nó là cái núi chớ không phải nhà thờ nữa.

Tui muốn nói ở đây một chuyện. Đó là giá trị đích thật của đạo Phật nó nằm ở tinh thần. Chúng ta phải nhận rằng Phật giáo đem lại cho mình một sự cứu rỗi không giống sự cứu rỗi bên Thiên chúa. Phật giáo còn tồn tại thì Phật giáo giúp cho nhiều người thoát khỏi những cơn đau phải nói là dễ sợ. Tôi biết một chuyện, tức là có rất nhiều lần tôi không có ý tự sát nhưng cái buồn nó lớn đến mức nó đủ welcome tôi chết. Những lúc nó lên cao trào tôi không nói, nhưng phải nói khi nó hơi lắng xuống một chút tui chực nhớ một vấn đề trong Phật Pháp, tui có cảm giác giống như một giọt nước trôi về thác nước. 

Giá trị Đạo Phật nó dễ sợ lắm. 

Cho nên hôm nay mình không thể gói trọn suy nghĩ của mình, mà mình phải nhớ rằng: Ông sư mang tiếng là một sứ giả Như Lai, nhưng thật ra bản thân mình là người Phật tử, mình cũng là sứ giả Như Lai. Mình còn đến chùa học Phật Pháp. Trong tâm linh mình còn có Phật, còn có chỗ đứng của Tam Bảo, thì ngày đó chúng sanh còn nhờ cậy.

Tôi nói một chuyện các vị chắc chắn phải đồng ý với tôi. 

Các vị nói rằng: "Tui là nữ, đã mang thân nữ rồi lại lớn tuổi, lại là cư sĩ thì đối với sứ mạng hoằng Pháp tôi là cái gì mà sư lại thổi phồng tôi quá?" 

Tôi hỏi các vị một câu: "Nếu người Phật tử nào cũng nghĩ như vậy thì có ai đi chùa Pháp Luân nữa?" 

Không! Ở đây đừng nói ông đó ổng cúng nhiều lắm, ổng xứng đáng đi chùa còn tôi vắng mặt ở chùa không sao. Tôi xin thưa ai mà nghĩ vậy là dốt vô cùng. Tại vì sao cái ông A đó chủ tiệm vàng mà ổng đi chùa Pháp Luân. Là vì ổng thấy nhiều người đi chùa Pháp Luân ổng mới đi theo, tôi nói rõ như vậy. Ông chủ tiệm vàng ổng sẽ không đi chùa nào vắng như Bà Đanh đâu. 

Các vị nghe kịp không? Chính sự có mặt của mình về mặt căn bản ngôn ngữ nó có giá trị tâm linh mình không nói, nhưng sự góp mặt của mình nó rất là quan trọng. Đời kỳ lắm chùa nào đông người ta mới đi. Hỏng tin bữa nào tôi mở cái chùa các vị thấy biết liền. Không ai đi thì nó ế luôn, mà nó đông rồi nó đông luôn, có trớn nó đông luôn. Giống như ca sĩ, đừng có bệ rạc quá, hút xách chè chén tôi hỏng nói, họ cứ giữ mức bình bình, họ đã nổi tiếng rồi nổi luôn. Như Khánh Ly, Lệ Thu bây giờ, thậm chí mượn cái tên nói chiều nay có Khánh Ly, Lệ Thu là mua vé nó dễ hơn, trơn hơn, bán vé tiện hơn, nhanh hơn. Còn mà để cái tên lạ hoắc dầu nó có đẹp gì nữa cũng ế.

Cho nên mình nói sự có mặt của mình có giá trị rất lớn. Tôi có kể các vị một câu chuyện, tôi quen một vị bên Cali. Có lần đi xe bus bên VN nó chật không như bên Mỹ. Cái xe đó của Tiệp Khắc nó đóng cửa bằng hơi, tự động nó kêu cái xì. Khi sư lên đông quá chen qua lấn lại, nó đẩy sư văng ra cửa thì cũng vừa lúc đó cái cửa khép lại, nguyên cườm tay nằm ở trỏng. Thì lúc đó đông quá không ai thấy ai hết, đi xe đó phải có tài của Trần Hưng Đạo đại phá quân Mông, quân Mông không hà. Thì cô thu ngân cổ lùa mọi người dồn lại chừa chỗ trống ở cửa cho người lên. Cổ lùa ai chớ ông sư cổ lùa không được, cổ mới nạt: ‘Ông thầy này đã nói rồi, nói tránh cái cửa trạm tới cho người lên mà ông đứng đây’. Thì ổng nói rất nhỏ nhẹ. Phải nói trời sanh ổng, chớ gặp tui là chết rồi, ổng đẹp trai lắm (cái đó cũng là phương tiện hoằng Pháp), mà học trường Lasalle Taberd, râu quai nón . Tui dốt tiếng Pháp nghe ổng nói nhỏ nhẹ lắm. Người ta nạt ổng, ổng nói: “Cô à, tay tôi bị kẹt”.Trời đất ơi, cổ thấy thì xe nó chạy lâu rồi. Cổ đập ‘xe ngừng, xe ngừng!’. Cổ nói ‘Sao thầy không nói”. Ổng nói: “Nói đâu có ai nghe”. Giờ đó mà cũng nhỏ nhẹ: “Được cô, hồi nãy tôi muốn nói mà nói đâu có ai nghe”. Thì xuống trạm tới thì cửa mở ra. Trên xe ai cũng xuýt xoa, mà toàn mấy bà mấy cô: “Trời, vậy mới tu đó”. 

Bây giờ tôi lớn tôi nghĩ bụng nhiều khi chỉ ngón tay không mà người ta khen tu. Còn mình tu hoài người ta không thấy. Khi sư kể tôi nghe chuyện đó thì lúc tôi còn nhỏ lắm. Sư nói theo tui tai nạn đó cũng là một cơ hội hoằng Pháp. Rất là hay!

Nên các vị đừng nói với tui, tui là đàn bà, là cư sĩ, tôi học dốt. No! Ngón tay, hoằng Pháp đó. Về sau người ta ra đường người ta nhớ chuyện ngón tay ông sư người ta xúc động. Thậm chí ngoài đường đối với thầy chùa người ta có tôn trọng. Ở Mỹ tôi không nói, mà ở VN bốn hạng sau đây mà đụng tới thì phiền lắm: đàn bà, con nít, ông già và thầy chùa (nói chung là tu sĩ).

Đức Phật đã ra đi rồi nhưng Ngài để lại cho mình một ngọn lửa. Ngọn lửa vẫn âm thầm cháy. Khi nào mình cảm thấy lạnh lẽo giữa cuộc đời này hãy nhớ rằng ngọn lửa của Ngài đã tắt trong lòng mình rồi. Ngày nào mình còn thấy ấm áp trong lòng Tam bảo thì ngày đó ngọn lửa của Ngài truyền lại cho mình nó còn đó. Tại sao mình thấy cô độc, thấy lẻ loi, cô đơn, lạnh lẽo, là lúc mình hãy nhớ rằng ngọn lửa Đức Phật trao lại cho mình mất rồi, nó đang cháy ở chỗ khác.

Tôi vẫn thường nhắc quí vị câu Kinh mà Đức Phật nói cho vị tỳ kheo (câu Pali): “Ai thấy Pháp là người đó thấy ta”. Có nghĩa là Đức Phật nói Ngài với Pháp là một. Từ đó chúng ta có thể suy diễn thêm mà không sai ý Phật. Tức là khả năng tu học của mình đến đâu thì hình ảnh Đức Phật trong lòng mình đẹp đến bao nhiêu. Tại sao thời gian có thời gian rất dài mình không đi chùa, có một thời gian rất dài Kinh điển Phật Pháp không ảnh hưởng đến tâm của mình? Bởi vì lúc đó Đức Phật trong lòng mình không còn là Đức Phật 32 tướng tốt nữa. 

Mình phải học hỏi, phải suy tư thế nào đó mà Đức Phật trong lòng mình đủ để lôi kéo mình trở về với đời sống tu học, thì lúc đó Đức phật trong lòng mình là một Đức Phật có đủ 32 tướng tốt. Còn có những lúc mình không muốn đi chùa nữa, mình hãy nhớ rằng Đức Phật trong lòng mình đã có vấn đề. 

Người Tàu nói “Nê Phật bất độ thủy. Mộc Phật bất độ hỏa. Kim Phật bất độ lô”. (Ông Phật bằng đất kỵ nước. Ông phật bằng gỗ kỵ lửa. Ông Phật bằng kim loại nói chung kỵ thợ bạc). ‘Lô’ là cái lò thợ bạc. Tại sao mình sống mà quên Phật, là tại vì Phật mình bằng đất. 

Tôi kể hoài câu chuyện bà sư cô với ông Phật muội đen. Là khi mình thờ Phật mà thờ với một tâm hồn như thế nào đó mà Phật mình không giống Phật người ta. Mà khi ông Phật mình không giống Phật người ta thì mình làm biếng tu lắm. Tại sao? Vì mình tu dưới ánh sáng của Ngài, mà Ngài không đẹp tự nhiên mình làm biếng tu. 

Hồi nãy tôi nói đẹp trai cũng là một phương tiện hoằng Pháp chớ hỏng phải không. Các vị biết những gì tôi học về Đức Phật tôi ngồi tôi nghĩ thôi. Bất cứ lúc nào tôi muốn niệm Phật tôi niệm. 

--ooOoo--

Hôm nào, chắc là năm sau tôi hướng dẫn các vị qua bài Kinh Kanmayu. Bài Kinh đó là một bức tranh vẽ Đức Phật. 

Ông đó là Bà La Môn, 120 tuổi. Ổng chấp lắm, ổng nghĩ ổng sẽ tìm hiểu qua Đức Phật là người như thế nào để ổng đi theo coi có đáng không. 

Ổng để ý cách Ngài ăn. Tôi nhớ nhiêu tôi kể quí vị nghe. Đức Thế Tôn khi đi không quá nhanh không quá chậm; nói không quá lớn không quá nhỏ. Hội chúng bao nhiêu thì âm thanh Ngài vừa đủ cho bấy nhiêu người nghe. Khi đi đến nhà có thí chủ đứng đó Ngài mới bước vào, thí chủ vắng mặt Ngài không bước vô nhà. Tức là bây giờ mình mời Ngài, mà Ngài đến trước cửa rồi mà mình không thấy Ngài thì Ngài đứng đó. Mình đi ra mình ‘Bạch Thế Tôn’ thì Ngài mới vô. 

Khi nhận thức ăn Ngài chỉ nhận vừa đủ số thức ăn mà Ngài biết rằng sẽ ăn hết chớ Ngài không nhận dư. Khi Ngài nhận nước để rửa bát, chính tay Ngài rửa chớ không phải như chư tăng bây giờ, Đức Phật rửa bát tại chỗ. Nếu gia đình thí chủ đó lớn. Nếu không, Ngài ôm bát dơ đi về dọc đường rửa chỗ ao, hồ, sông rạch, ruộng đồng ở đâu đó. Có những gia đình thí chủ đủ nước cho 2.000 vị thì Ngài nhận nước. Trong đó tả chi tiết là Thế Tôn rửa bát, lúc Thế Tôn ăn không có tiếng động và lúc Thế Tôn rửa bát cũng không có tiếng động. Mà Đức Thế Tôn rửa bát như thế nào đó mà khi bát rửa xong bát sạch cũng là lúc tay sạch. Và không đổ một giọt nước ra ngoài để khi đức Thế Tôn đứng dậy từ chuyện Ngài ăn tới chuyện rửa bát không để lại một chuyện phiền nhỏ cho thí chủ. Ăn không rớt cơm, rửa bát không rớt nước, đứng dậy rời chỗ ngồi khô ráo sạch sẽ. 

Khi có gia đình thí chủ thỉnh Ngài thuyết Pháp, Ngài sẽ tùy duyên sự của buổi đó mà Ngài nói Pháp. Và không bao giờ nói quá ngắn để cho người ta phải hụt hẫng, mà cũng không nói quá dài để người ta ngán. Đi ngước mắt không nhìn quá xa. Nhìn nói theo trong Kinh là vừa đủ hai cây cung (đơn vị người Ấn Độ khoảng một sải tay), không nhìn xa hơn. 

Rồi bữa sáng nào Ngài không đi tế độ thì Ngài đóng cửa phòng. Còn bữa sáng nào Ngài không đi đâu không ra khỏi phòng thì Ngài mở cửa ra. Ngài A Nan mà thấy cửa mở thì ngài đi thông báo chư tăng ‘Hôm nay tất cả chúng ta đi bát chung với Thế Tôn’. Nhưng hôm nào cửa phòng Ngài đóng thì ngài A Nan sẽ nói với chư tăng ‘Hôm nay các vị muốn đi đâu thì đi’. Còn riêng Ngài thì đứng chờ, Đức Phật kêu thì Ngài đi. Đức Phật không kêu thì Ngài ôm bát đi một mình. Tức là cách cư xử của Ngài đặc biệt như vậy. Đó là chưa kể trong Kinh nói cặp mắt Ngài đẹp. Hồi nhỏ tôi nghĩ làm sao đem mắt thần so sánh mắt bò, có lúc tôi để ý nhìn con bò con, nó hiền mà mắt dễ thương nhìn không có giận được.

(Còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Trung Bộ Kinh 3 - Kinh Thừa Tự Pháp (2-2)

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=F-LyY1XtLwE&abt=Th%E1%BB%ABa+t%E1%BB%B1+ph%C3%A1p

Tôi muốn nói một chuyện là khi mình biết nhiều về Đức Phật, đó là bài Kinh nói về tướng hảo, cái tế hạnh uy nghi của Đức Phật nhưng mà chưa đủ. Mình hiểu về Phật pháp của Ngài, mỗi khi mình có một cơn nóng giận mà mình không control được, mình chực nhớ Đức Phật đối với những cơn giận này Ngài không có. Hoặc những lần lửa tham dục mình nó cháy phừng mình nhớ rằng Phật không có cái đó. Các vị hãy tưởng tượng , một lần mình nhịn nó khó cỡ nào, mà Ngài đã nhịn như vậy từ vô số kiếp rồi. Khi nghĩ về Đức Phật như vậy, sự niệm Phật của mình mới có hiệu quả. 

Nói chung mỗi lần mình gặp chướng duyên thì phải nhớ tới Ngài. Mấy bữa mình nghĩ lửa có thể cháy trong tim mình được, nó đốt cháy cả người mình mình phải nhớ là Ngài không có cái đó. 

Có một lần một vị cư sĩ bị bịnh nặng Đức Phật đến thăm, (gia đình mời), Ngài nói một câu thế này: 
“Bây giờ con chỉ cần nhớ ba điều: 
  1. Đức Thế Tôn là người đã vượt qua nỗi khổ mà con đang chịu. 
  2. Thứ hai, giáo Pháp là con đường dẫn đến sự chấm dứt nỗi khổ mà con đang chịu. 
  3. Chư tăng là người đang thực hành con đường dẫn đến sự chấm dứt những nỗi khổ mà con đang chịu”.
 
Đây là kinh nghiệm mai mốt bị bịnh nhớ. Đau quá thì hãy nhớ:

“Đức Phật là người đã vượt qua nỗi đau này. Giáo Pháp Đức Phật là con đường dẫn đến sự vắng mặt nỗi đau này. Tăng chúng, tăng già đệ tử Thế Tôn là người đang đi trên con đường dẫn đến sự chấm dứt nỗi đau này”.

Mình truyền đăng tục diệm là làm sao kế thừa ngọn lửa, ngọn đuốc mà Đức Phật đã để lại cho mình. Cuộc đời nó vốn lạnh lẽo, tăm tối. Lòng người lạnh lẽo. Quan trọng là lúc nào mình thấy trong lòng mình vắng mặt ngọn lửa mình không thấy đường, hãy nhớ rằng tại sao mình còn tha thiết với chùa, tha thiết với Tam Bảo, thì lúc đó là trong lòng mình còn có một Đức Phật. Đời tu mình ra sao cũng được nhưng hãy nhớ: dầu mình có phạm lỗi lầm gì thì thời gian phạm lỗi đó chỉ mười mấy hai chục phút thôi. Nhưng cái quan trọng là ngọn lửa đó mình không được 100% thì nghĩ rằng trong một ngày mình dành cho Đức Phật năm ba tiếng đồng hồ ngọn lửa của Ngài cháy trong lòng mình thì coi như mình đã làm được bài Kinh Thừa Tự Pháp.

Khi Đức Phật nói rằng hãy làm người thừa tự Pháp, đừng làm kẻ thừa tự tài sản Như Lai thì ngài Xá Lợi Phật đã giảng rằng: Thừa tự Pháp có nghĩa là Đức Phật là bậc Đạo sư của mình, ngài tán thán sống viễn ly, hạnh một mình thì mình đệ tử cũng phải viễn ly, điều gì Đức Phật dạy bỏ mình bỏ. Điều thứ ba nữa là - . Lúc ngài Rahula được 7 tuổi, Đức Phật về thăm hoàng cung. Bà Dadu đứng ở trên lầu nhìn xuống nói con đi theo xin Ngài, Ngái có nhiều gia tài, vì Ngài là người duy nhứt ở quốc gia này biết được các hầm châu báu chôn ở đâu. Đức Phật thấy ngài Rahula đi theo màNgài im lặng. Ngài Rahula nói: “Bạch Thế Tôn, con đi bên Thế Tôn bóng mát của Ngài con thấy mát hơn một ngàn bóng cây trong rừng”. Rahula làm theo lời mẹ đến bên chân Đức Phật thỏ thẻ “Thế Tôn - ánh Đạo vàng. Bóng cha sao mát hơn ngàn bóng cây”. Đức Phật ngài nói “Đi về chùa nghe”, thì ngài Rahula lấp sấp lấp sấp đi theo. Về đến nơi Ngài nói với ngài Xá Lợi Phất “Cho tu đi”. Thì Rahula hiếu học lắm, một ngày ra trước chùa có đống cát, nắm mớ cát thảy lên “Bữa nay tôi sẽ học bao nhiêu đây”. Đệ nhất về hiếu học là ngài Rahula.

(dò tới đây 0:48:53)

Có đêm chư tăng về đông lắm không có chỗ ngủ. Lúc đó luật cấm không cho sa di ngủ với tỳ kheo, ngài ra ngoài xin ngủ. Khuya Phật đi Phật gõ cửa, luật cấm là không được phép bước vào nhà tắm nhà tiêu mà quên gõ cửa. Luật của Đức Phật rất giống cách lịch sự của hoàng phái bởi vì Đức Phật là một ông vua, cho nên tỳ kheo giữ đúng luật bản thân tỳ kheo đã là sang rồi. Tỳ kheo giữ 250 là sang lắm. Ăn không khua. Ăn mà khua là phạm, húp rột rột là phạm. Hồi nhỏ tôi học là ‘Ăn là không húp rột rột. Ta phải học tập là ta không ăn mà lách chách cái miệng’. Một ngàn ông ăn mà êm re.

Vua A Xà Thế một đêm thấy trăng đẹp quá vua nói đêm nay ta muốn đi tìm vị tu sĩ nào đó để hỏi Đạo, trăng thơ mộng quá chớ còn hưởng dục lạc thì trẫm đã chán rồi. Thì mỗi ông quan hướng dẫn lại ông thầy này thầy kia. Trong đó có một ông nói ‘Lại gặp đức Phật đi’. Do duyên lành vua nghe tới chữ ‘Phật’ vua thích, đi thử. Vua ngồi trên xe đi đến cái chỗ mà xe không chạy được nữa thì vua xuống vua đi bộ. Vua đi một hồi từ từ tới chỗ vắng quá vua sợ, vua hỏi tới chưa. Quan nói còn chút nữa. Đi càng vô sâu ổng nắm chặt hỏi tới chưa. –Tới rồi. Vua hỏi ‘ Đức Thế Tôn ở chỗ nào?’.

-Ngài đang ngồi chỗ đó đó.
-Hồi nãy ngươi nói với ta là đông đảo chư tăng lắm mà.
-Phải, trên một ngàn vị.

Vua nói Trời, hơn một ngàn người ngồi đây. Có phải khanh muốn hại trẫm không (vì dắt vua tới chỗ vắng). Trên 1.000 người chỗ đó mà không có một tiếng ho. Tức là cái hội chúng của Đức Phật ngài huấn luyện, cách ăn mặc thì huấn luyện theo Hoàng phái, mà kỷ luật trong hội chúng thì theo kỷ luật của quân đội. Các vị tưởng tượng, một người vừa hoàng phái mà cộng với quân đội thì xuất sắc cỡ nào. Đó là lý do khi mình tiếp xúc với vị hòa thượng nó không giống như ngoài đời. Như ngày xưa tôi đi dự lễ các chùa cái ông sư xuất gia lúc lớn tuổi nó khác với vị hòa thượng. Cách đi đứng không giống, có nhiều vị lên ăn, ăn xong có cái bánh ít ngon quá, bỏ vô trong túi đem về. Chớ hòa thượng thì không có. Các vị hòa thương không có. Lạ lắm, cái con mắt không giống người ta. Cái cách đi đứng không giống người ta. Mà các vị phản ứng khi mình đến mình chào cũng không giống. Nó có cái oai của ổng.

Tôi biết một vị sĩ quan hồi đó ổng đi Biệt động, một lần có ông tướng vùng xuống thị sát mà không báo trước. Ổng ở trên xe Jeep ổng đi xuống bốn người, một tài xế với ba người nữa đều mặc uniform giống nhau, không sao không siếc gì hết. Nhưng ông trung úy ổng nói với tôi: nhìn cái mặt biết sư. Đi đứng không giống ai hết trơn. Mới nhìn không biết. Nhưng lúc ổng đi vô ăn uống, cách ổng đi ổng nhìn, ác cái là ông đó còn thấp hơn người đi chung nữa, tướng hơi nhỏ con, mà nhìn không lầm được. Con mắt người ta bậc chính nhân con mắt không láo liên. Nhìn thẳng hà, chỉ nhìn chỗ đáng nhìn, chỗ nên nhìn, nói cái đáng nói và đi như đáng đi. Tàu nói “Quân tử bất nhập trù phòng” (Quân tử không xuống bếp). Nói như vậy không có nghĩa chúng tôi xuống bếp thì chúng tôi là tiểu nhân. Nhưng đại khái là không xuống chỗ của phụ nữ nếu nó không cần thiết.

Tôi kể các vị nghe một chuyện, nó vừa xảy ra trong đầu thì tôi kể. Hồi nãy tôi kể chuyện ông sư bạn, giờ kể chuyện ông anh ruột ở VN, sư huynh của sư trụ trì. Chỉ có cặp mắt sư mà sư độ được cả gia đình, quí vị có nghe chuyện đó không? Sư thuyết Pháp trong vườn sâu, đi bằng đò vô mà nhà đó toàn con gái không. Sư ăn xong, các vị nhìn vị đó thì sẽ thương, sư nhỏ mà sư đi đẹp lắm. Ngồi hồi sư nói ‘Sư muốn đi nhà tắm chút’. Thì gia đình chỉ đường cho đi. Hồi nãy họ mời sư thuyết Pháp vì sư là vị Pháp sư duy nhứt ở miền Tây VN. Nhưng sau khi từ rest room sư đi ra trở vô thì cả nhà, bà má bà cụ của nhà đó bả khen hoài. Từ đó sư thành một ứng cử viên sáng giá. Bả khen kiểu bà già trầu: ‘Người ta vậy mới là một ông sư chớ’. Từ ở nhà trên đi xuống nhà dưới không ngó hai bên phòng, không nhìn là không nhìn, cửa phòng thì cái mở cái khép, không nhìn. Trên đi xuống dưới đúng cái chỗ làm việc gì của mình xong rồi đi lên, hai bên không có nhìn.

Trong đời tôi có gặp một số vị, ngài Hộ Giác cái cách mà ngài đi ra chỗ đám đông mình học được. Một vị nữa là hòa thượng Minh Châu, vị này đặc biệt. Ngài nhỏ người, thấp, ngũ đoản mà cái gì cũng ngắn ngắn mà cách đi đứng chỉ vừa đủ thôi. Tôi nói hoài tu là gì? Tu là cái gì cũng vừa đủ cả, đó là tu. Dùng cặp mắt vào cái việc phải dùng, lỗ tai chỉ dùng vào việc phải dùng. Mũi, lưỡi, thân cũng dùng vào việc phải dùng. Tâm mình cũng dùng vào việc phải dùng. Ngoài ra cái gì không cần thiết, bỏ. Nếu ai hỏi tu là gì, ta có thể nói:
“Tu là dùng lục căn đúng chỗ. Chỗ nào không cần thiết không dùng”.

Muốn giải thoát đừng nói ông Tư bà Tám đạo gì đạo khoai đạo chuối , đạo dừa, không cần. Chỉ nói tu theo Đức Phật là chỉ dùng sáu căn vào chỗ nên dùng, ngoài ra không dùng. Ngài Nan Đa đệ nhất thu thúc lục căn, ngài có hạnh thế này: khi Ngài đi ngài muốn ngước lên nhìn thì trong bụng, trong đầu Ngài có suy nghĩ ‘Ta sẽ không có phiền não khi ta nhìn’. Nghĩ vậy xong Ngài mới ngước. Rồi khi xoay người lại Ngài nghĩ trong bụng ‘Ta sẽ không có phiền não khi ta nhìn về hướng này’. Nghĩ như vậy thì Ngài mới nhìn. Người mà sống trong tình trạng nó warming liên tục như vậy thật là thanh tịnh. Nói chung là mình đừng có bàn thiền gì cao siêu. Thiền là vậy. Chỉ sử dụng lục căn vào chỗ cần sử dụng đúng mức cần thiết. Các vị có giảng về Bát Thánh Đạo, về Thất Giác Chi cho nó cao siêu. Không cần cao siêu, cứ nói gọn thôi: Tu thiền, nội dung Phật Pháp chính là tu Tứ Niệm Xứ, mà nội dung Tứ Niệm Xứ đó là sử dụng lục căn đúng như mức cần thiết. Cái gì dư không dùng.

Có lần Đức Phật nói: “Thà mắt không thấy đường còn tốt hơn dùng mắt để khởi tham sân. Thà tai không nghe còn hơn để tai khởi tham sân. Thà mũi bị nghẹt còn hơn vì nó mà khởi tham sân. Thà để lưỡi mình bị mất vị giác còn hơn . Thà nằm ngủ còn hơn để khởi tham sân”.

Đức Phật nói với ông Bahya: “Thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, ngửi chỉ là ngửi, nếm chỉ là nếm”.

Tại sao mình không thành thánh, là bởi vì mình không làm được những gì mình đã học, không làm được những gì mình đã hiểu. Thật ra tất cả những điều mình vừa nói, bây giờ dầu mình có học hết Tam Tạng, mình nói về Pháp tu thì cũng nói bao nhiêu đó thôi. Còn các vị có nghe tôi nói rằng dùng lục căn đúng chỗ là sao? Tức là con mắt để thấy đường thì cái gì cần thiết nhìn thì nhìn. Còn lỗ tai cũng chỉ dùng ở đúng mức cần thiết thôi. Thí dụ , nói ‘Nhìn mặt sư sao tôi không ưa’, mình nghĩ ‘Ờ không ưa thì thôi’. Chớ mình không cần thiết về suy nghĩ tại sao người ta không ưa mình. Trên đời này làm sao mình sống vừa lòng hết mọi người. Hoặc các vị biết có lúc tôi bị sốc mắc cười. Chuyện này là chuyện riêng của tôi. Có bữa ngài hòa thượng ngồi đây, sư huynh, ngài Bửu Phương, sư Trí Tịnh với tôi, ngồi nói chuyện bình thuờng thôi. Có vị Phật tử (tôi giấu tên người đó) họ rót nước cho mỗi người một ly, đến ly của tôi vừa nhỏ vừa mẻ. Buồn chứ! Hồi nãy cô hỏi tôi nhìn vừa đủ là nhìn sao, thì tôi nói trường hợp đó. Cái ly là đựng nước, mà quả thật mình có nước uống là được rồi, là hết rồi, không cần phải bàn là tại sao họ lấy cái ly xấu nhứt cho mình. Khi mà mình nghĩ tới chuyện tại sao họ lấy ly xấu nhứt cho mình, chắc là họ ghét mình , lúc đó là mình dùng lục căn nó over rồi. Vấn đề là chỗ đó. Tức là đến đây thôi, chớ mình đi mình nghĩ xa rồi mình buồn.

Tôi muốn mượn chuyện này nói là nếu tôi đúng là vị hành giả tôi thấy tôi biết là tôi thấy thì tôi không buồn. Nhưng vì tôi thấy mà tôi dùng lục căn tôi quá mức cần thiết, cho nên tôi buồn. Tôi chỉ mượn câu chuyện để nói là tu thiền nghĩa là mình dùng lục căn của mình đúng và đủ. Đúng là đúng chỗ và đủ là nó không vượt qua cái mức mình phải bớt khổ. Tôi vẫn nói trên mấy thời Pháp. Chúng ta khổ là vì chúng ta không phân biệt được cái mình cần và cái mình thích. Tu thiền chính là mình biết cái nào là mình cần, cái nào là mình thích. Nên nhớ tu thiền là dùng lục căn đúng chỗ. Cái chỗ nào thấy nó không cần dùng thì mình . Tôi dám bảo đảm 99% cái khổ trên cuộc đời này là do mình dùng lục căn nó over, nó sai. Chớ thật ra đời sống nó không ngọt cũng không đắng. Tại vì mình dùng over mình thấy nó ngọt hoặc thấy nó đắng. Như Đức Phật, ngài Xá Lợi Phất, các Ngài không ham sống cũng không sợ chết. Đối với các ngài cái gì nó đúng thì thôi.

Tôi nhớ Tàu có câu “Quân tử tình như đạm thủy”, câu đó họ dùng trong chỗ khác, nhưng ở đây tôi muốn nói trong ý nghĩa khác. Quân tử tình như đạm thủy là cái tình của người quân tử giống như nước lạnh. Tức là chè cháo ngon thiệt, thơm thiệt nhưng mình để qua hai đêm là nó thiu, trừ ra mình để trong tủ lạnh. Tui nói để ngoài nhe, thì chè cháo hai đêm là hư, nhưng nước lạnh chỉ cần quí vị đậy lại thôi, đừng để bụi lọt vô, thì 10 năm sau 20 năm sau cũng ok.

Mình tu mình giữ lòng mình như nước vậy đó, tức là mình không cần thiết phải bỏ thêm gia vị: tôi phải tế nhị, tôi phải lịch sự, tôi phải mua lòng người này làm vừa lòng người kia. Thật ra những cái đó trong đời sống nó là con dao hai lưỡi, nó làm cho mình vui được thì cũng chính nó làm cho mình buồn được. Thí dụ các vị giúp đỡ tôi giúp chỉ để mà giúp thôi, không có cái hậu ý gì trong đó hết, khi tôi nhận sự giúp đỡ chỉ là nhận mà không có ý gì khác, thì giống như nước lạnh không có gì hết. Nhưng nếu mình bỏ vào đó những gia vị: ờ chắc họ thương mình, họ có vấn đề với mình. Chỉ cần lúc cư xử với tôi các vị có ý đó và lúc tôi nhận sự giúp đỡ tôi cũng có ý đó thì cái ân tình bấy giờ không còn là nước lạnh mà nó là chè với cháo, nó hấp dẫn nhưng mà nó không bền.

Còn đối với Đức Phật và các vị La hán các vị không màu mè, cho nên muôn đời các vị vẫn vậy. Dù Đức Phật có sống triệu tuổi, mình ở gần Ngài ngàn năm thì Ngài cũng đối với mình như vậy không thêm không bớt. Ông Đề Bà Đạt Đa ổng nóng nảy lắm. Ổng nói với Kokalica: ‘Ta muốn gặp Thế Tôn’. Kokalica không hiểu, nói ‘Thế Tôn làm sao tha thứ được cho thầy’. Đề Bà Đạt Đa mới nói ‘Ngươi không biết Ngài bằng ta đâu. Ta hại Ngài mà trong lòng Thế Tôn thì ta hay Rahula không có khác’. Ổng ghét Ngài nhưng ổng hiểu Ngài. Mình sống trên đời mình không thể khiến cho mọi người thương mình, nhưng có thể khiến cho mọi người không khinh mình. Đức Phật không phải là người được tất cả chúng sanh thương mến. Điều đó chắc quí vị biết mà. Sao cô dòm tôi với ánh mắt nghi ngờ chuyện đó à. Cô có biết chuyện đó không? Đức Phật không phải một người mà ai cũng thương Ngài đâu nhưng họ không khinh Ngài vì Ngài không làm gì họ khinh hết. Đức Phật và chư thánh chỉ đơn giản một chuyện là đời cần tới đâu Ngài làm tới đó. Đời sống của Ngài cái gì cần phải làm, cái gì cần phải nói, cần phải suy tư thì Ngài cũng nói gì cần nói, làm gì cần làm, suy tư gì cần suy tư, ngoài ra không gì. Còn đối với người không over như vầy thì buồn vui của đời sống không tác động được họ. Vì cái nhận nó tới đó thôi, không nhận hơn nữa. Cái tâm hồn các vị giống như cái miệng mình. Còn tâm hồn mình giống như thùng rác. Cái miệng mình chỉ nhận cái gì ngon ngọt và nó cần thiết, còn cái lòng phàm phu mình giống như cái thùng rác. Cái thùng rác có thể bỏ vào đó những đồ ngon những đồ dở, đồ thơm đồ thúi. Còn lòng các bậc thánh giống như cái miệng: về lượng thì không nhận over, về phẩm chỉ nhận cái gì thôi. Còn phàm phu mình , cái thùng rác có thể chứa over. Thùng rác chùa Pháp Luân nó chứa một tấn. Rồi có lúc xe nó tới đổ, sư huynh mấy ngài đi vắng, nhằm khi chùa không có lễ, tới lúc nó vô đổ trời ơi mình thấy mình tiếc đó. Cũng một lần đổ mà loe hoe hai ba cọng thun gì ở trỏng.

Trả lời Phật tử: (học tới bữa nay còn hỏi nữa). Tựa đề bài Kinh là Thừa Tự Pháp. Trong mỗi bài Kinh có hai phần: số I là duyên khởi (nhân duyên Ngài thuyết Kinh), số II là nội dung Kinh. Rồi trong lòng nó có gì mình cần kể ra thì mình gạch đầu dòng xài số Ả Rập./.


(Hết)
Reply
Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya

130. Kinh Thiên sứ
(Devadùta sutta)

https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung130.htm




Như vầy tôi nghe.


Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà viên), tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc).


Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:


-- Ví như, này các Tỷ-kheo, có hai nhà có cửa; ở đây, một người có mắt đứng chính giữa có thể thấy những người đi vào nhà, đi ra khỏi nhà, đi qua, đi lại. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, thấy các chúng hữu tình chết đi sanh lại, hạ liệt, cao sang, đẹp trai, xấu hình, thiện thú, ác thú, tùy theo hạnh nghiệp của họ, và Ta nghĩ: 


  1. "Các bậc hữu tình này do thành tựu thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành, không công kích các bậc Thánh, có chánh kiến, thọ trì nghiệp phù hợp chánh kiến, các vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, Thiên giới, ở đời này. 
  2. Hay các vị hữu tình này, do thành tựu thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành, không công kích các bậc Thánh, có chánh kiến, thọ trì nghiệp phù hợp với chánh kiến, các vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh ra giữa loài Người. 
  3. Còn các hữu tình, do thành tựu thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, công kích các bậc Thánh, có tà kiến, thọ trì nghiệp phù hợp với tà kiến, các vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi ngạ quỹ (pettivisaya). 
  4. Hay các hữu tình này, do thành tựu thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, công kích các bậc Thánh, có tà kiến, thọ trì nghiệp phù hợp tà kiến, các hữu tình ấy sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào các loại bàng sanh
  5. Hay các hữu tình này, do thành tựu thân ác hành... Sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, Ðịa ngục".


Này các Tỷ-kheo, các người coi giữ Ðịa ngục, sau khi bắt giữ người ấy với nhiều cánh tay, dẫn người ấy đến trước vua Yama và thưa:


"-- Tâu Ðại vương, người này không có từ tâm, không xứng là Sa-môn, không xứng là Bà-la-môn, không kính trọng các vị lớn tuổi trong gia đình. Ðại vương hãy trừng phạt nó ! "


Thiên sứ 1:  con nít nhỏ
Này các Tỷ-kheo, vua Yama, chất vấn người ấy, cật vấn, thẩm vấn người ấy về Thiên sứ thứ nhất: "Này người kia, Ngươi có thấy Thiên sứ thứ nhất đã hiện ra giữa loài Người không?"

Người ấy nói: "Thưa Ngài, không thấy". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: "Này Người kia, Ngươi có thấy giữa loài Người có đứa con nít nhỏ, yếu ớt, nằm ngửa, nằm rơi vào giữa phân và nước tiểu của nó hay không?" Người ấy đáp: "Thưa Ngài, có thấy". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: "Này người kia, tuy Ngươi là người có ý thức và lớn tuổi, nhưng Ngươi không có nghĩ: "Ta bị sanh chi phối, ta không thoát khỏi sanh; ta hãy làm điều thiện về thân, khẩu và ý". Người ấy đáp: "Thưa Ngài, tôi không có thể làm, vì tôi phóng dật". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: "Này người kia, nếu vì phóng dật nên Ngươi không làm điều thiện về thân, khẩu, ý; chắc chắn chúng sẽ làm cho Ngươi, này Người kia, tùy theo sự phóng dật ấy của Ngươi. Vì rằng đây là một ác nghiệp của Ngươi, không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải do anh làm, không phải do chị làm, không phải do bạn và thân hữu làm, không phải do bà con huyết thống làm, không phải do Sa-môn, Bà-la-môn làm, không phải do chư Thiên làm. Ác nghiệp ấy chính do Ngươi làm, chính Người phải cảm thọ quả báo việc làm ấy".


Thiên sứ 2: người già lão
Này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn, cật vấn và thẩm vấn người kia về Thiên sứ thứ nhất, vua Yama mới chất vấn, cật vấn, thẩm vấn về Thiên sứ thứ hai: "Này người kia, Ngươi có thấy giữa loài Người, Thiên sứ thứ hai hiện ra không?" Người ấy đáp: "Thưa Ngài, không thấy". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người kia: "Này Người kia, Ngươi có thấy người đàn bà hay người đàn ông tám mươi tuổi, hay chín mươi tuổi, hay một trăm tuổi, già yếu, cong như nóc nhà, lưng còm, chống gậy, vừa đi vừa run, bệnh hoạn, tuổi trẻ đã qua mất, răng rụng, tóc sói, da nhăn, run rẩy, với tay chân bạc màu?" Người ấy đáp: "Thưa Ngài, có thấy".

Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: "Này Người kia, tuy Ngươi là người có ý thức và lớn tuổi, nhưng Ngươi không có nghĩ: "Ta bị già chi phối, ta không thoát khỏi già; ta hãy làm điều thiện về thân, khẩu và ý". Người ấy đáp: "Thưa Ngài, tôi không có thể làm, vì tôi phóng dật, thưa Ngài". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: "Này Người kia, nếu vì phóng dật nên Ngươi không làm điều thiện về thân, khẩu, ý; chắc chắn chúng sẽ làm cho Ngươi, này Người kia, tùy theo sự phóng dật của Ngươi. Vì rằng đây là một ác nghiệp của Ngươi, không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải do anh làm, không phải do chị làm, không phải do bạn và thân hữu làm, không phải do bà con huyết thống làm, không phải do Sa-môn, Bà-la-môn làm, không phải do chư Thiên làm. Ác nghiệp ấy chính do Ngươi làm, chính Ngươi phải cảm thọ quả báo sự làm ấy".


Thiên sứ 3: người bị bệnh
Này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn, cật vấn, thẩm vấn người kia về Thiên sứ thứ hai, vua Yama mới chất vấn, cật vấn, thẩm vấn về Thiên sứ thứ ba: "Này Người kia, Ngươi có thấy giữa loài Người, Thiên sứ thứ ba hiện ra không?" Người ấy đáp: "Thưa Ngài không thấy". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người kia: "Này Người kia, Người có thấy người đàn bà hay người đàn ông bị bệnh hoạn, khổ não, bị bệnh trầm trọng nằm rơi vào trong nước tiểu và phân của mình, cần người khác nâng dậy, cần người khác dìu nằm xuống?" Người ấy đáp: "Thưa Ngài, có thấy".

Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với nó: "Này Người kia, tuy Ngươi là người có ý thức và lớn tuổi, nhưng Ngươi không có nghĩ: "Ta bị bệnh chi phối, ta không thoát khỏi bệnh; ta hãy làm điều thiện về thân, khẩu và ý". Người ấy đáp: "Thưa Ngài, tôi không có thể làm, vì tôi phóng dật, thưa Ngài". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: "Này Người kia, nếu vì phóng dật nên Ngươi không làm điều thiện, về thân, khẩu, ý; chắc chắn chúng sẽ làm cho Ngươi, này Người kia, tùy theo sự phóng dật của Ngươi. Vì rằng đây là một ác nghiệp của Ngươi, không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải do anh làm, không phải do chị làm, không phải do bạn bè thân hữu làm, không phải do bà con huyết thống làm, không phải do Sa-môn, Bà-la-môn làm, không phải do chư Thiên làm. Ác nghiệp ấy chính do Ngươi làm, chính Ngươi phải cảm thọ quả báo việc làm ấy".


Thiên sứ 4: tội nhân
Này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn, cật vấn thẩm vấn người kia về Thiên sứ thứ ba, vua Yama mới chất vấn, cật vấn, thẩm vấn về Thiên sứ thứ tư: "Này người kia, Ngươi có thấy giữa loài Người, Thiên sứ thứ tư hiện ra không?" Người ấy đáp: "Thưa Ngài, không thấy". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người kia: "Này người kia, Ngươi có thấy giữa loài Người, các vua chúa sau khi bắt được tên trộm cướp có phạm tội, liền áp dụng nhiều hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy... họ lấy gươm chặt đầu?". Người ấy nói: "Thưa Ngài, có thấy".

Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: "Này Người kia, tuy Ngươi là người có ý thức và lớn tuổi, nhưng Ngươi không có nghĩ: "Thật sự những ai làm các ác nghiệp, họ phải chịu những hình phạt sai khác, ngay trong hiện tại như vậy, huống nữa là về đời sau! Ta hãy làm điều thiện về thân, khẩu, ý". Người ấy đáp: "Thưa Ngài, tôi không có thể làm, vì tôi phóng dật, thưa Ngài". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với nó: "Này Người kia, nếu vì phóng dật nên Ngươi không làm điều thiện về thân, khẩu, ý; chắc chắn chúng sẽ làm cho Ngươi, này người kia, tùy theo sự phóng dật của Ngươi. Vì rằng đây là một ác nghiệp của Ngươi, không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải do anh làm, không phải do chị làm, không phải do bạn bè thân hữu làm, không phải do bà con huyết thống làm, không phải do Sa-môn, Bà-la-môn làm, không phải do chư Thiên làm. Ác nghiệp ấy chính do Ngươi làm, chính Ngươi phải cảm thọ quả báo việc làm ấy".


Thiên sứ 5: người chết
Này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn, cật vấn, thẩm vấn người kia về Thiên sứ thứ tư, vua Yama mới chất vấn, cật vấn, thẩm vấn về Thiên sứ thứ năm: "Này Người kia, Ngươi có thấy giữa loài Người, Thiên sứ thứ năm hiện ra không? "Người ấy đáp: "Thưa Ngài, không thấy". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: "Này Người kia, Ngươi có thấy giữa loài Người, người đàn bà hay người đàn ông chết đã được một ngày, hai ngày hay ba ngày, sưng phồng lên, xanh xám lại, rữa nát ra?" Người ấy nói: "Thưa Ngài, có thấy".

Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: "Này Người kia, tuy Ngươi là người có ý thức và lớn tuổi, nhưng Ngươi không có nghĩ: "Ta bị chết chi phối, ta không thoát khỏi chết; ta hãy làm điều thiện về thân, khẩu và ý". Người ấy đáp: "Thưa Ngài, tôi không có thể làm, vì tôi phóng dật, thưa Ngài". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: "Này Người kia, nếu vì phóng dật nên Ngươi không làm điều thiện về thân, khẩu ý; chắc chắn chúng sẽ làm cho Ngươi, này Người kia, tùy theo sự phóng dật của Ngươi. Vì rằng đây là một ác nghiệp của Ngươi, không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải do anh làm, không phải do chị làm, không phải do bạn bè thân hữu làm, không phải do bà con huyết thống làm, không phải do Sa-môn, Bà-la-môn làm, không phải do chư Thiên làm. Ác nghiệp ấy chính là Ngươi làm, chính Ngươi phải cảm thọ quả báo việc làm ấy".
Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn, cật vấn, thẩm vấn, người ấy về Thiên sứ thứ năm, vua Yama giữ im lặng.


Hình phạt đóng 5 cọc:
Rồi này các Tỷ-kheo, các người coi giữ Ðịa ngục bắt người ấy chịu hình phạt gọi là năm cọc (Pancavidhabandhanam), họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào một bàn tay, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn tay thứ hai, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn chân, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn chân thứ hai, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào giữa ngực, Người ấy ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.


Này các Tỷ-kheo, các người coi giữ Ðịa ngục bắt người ấy nằm xuống và lấy búa chặt người ấy. Người ấy ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.


Hình phạt Búa chặt:
Này các Tỷ-kheo, các người coi giữ Ðịa ngục dựng ngược người ấy chân phía trên, đầu phía dưới và lấy búa chặt người ấy. Người ấy ở đây cảm thọ.. chưa tiêu trừ.
Này các Tỷ-kheo, các người coi giữ Ðịa ngục cột người ấy vào một chiếc xe, kéo người ấy chạy tới chạy lui trên đất được đốt cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở đây cảm thọ... chưa được tiêu trừ.


Hình phạt than cháy đỏ:
Rồi này các Tỷ-kheo, các người coi giữ Ðịa ngục đẩy người ấy lên, kéo người ấy xuống một sườn núi đầy than hừng, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở đây cảm thọ... chưa được tiêu trừ.


Hình phạt vạc dầu
Rồi này các Tỷ-kheo, các người coi giữ Ðịa ngục dựng ngược người ấy chân phía trên, đầu phía dưới và quăng người ấy vào một vạc dầu bằng đồng nung đỏ, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở đây bị nấu với bọt nước sôi sùng sục, khi thì trôi nổi lên trên, khi thì chìm xuống đáy, khi thì trôi dạt ngang. Người ấy ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.


Mô tả Đại Địa Ngục:
Rồi này các Tỷ-kheo, những người coi giữ Ðịa ngục quăng người ấy vào Ðại địa ngục. Này các Tỷ-kheo, Ðại địa ngục ấy có bốn góc, bốn cửa, chia thành phần bằng nhau, xung quanh có tường sắt, mái sắt lợp lên trên. Nền Ðịa ngục bằng sắt nung đỏ, chảy đỏ rực, đứng thẳng, luôn có mặt, rộng một trăm do tuần.


Phía Đông của Đại Địa Ngục:
Này các Tỷ-kheo, từ tường phía Ðông của Ðại địa ngục ấy, những ngọn lửa bừng cháy lên được thổi tạt đến tường phía Tây. 


Những ngọn lửa bừng cháy lên từ tường phía Tây được thổi tạt đến tường phía Ðông. Những ngọn lửa bừng cháy lên từ tường phía Bắc được thổi tạt đến tường phía Nam. Những ngọn lửa bừng cháy lên từ tường phía Nam được thổi tạt đến tường phía Bắc. Những ngọn lửa bừng cháy lên từ phía Dưới, được thổi tạt lên phía Trên. Những ngọn lửa bừng cháy lên từ phía Trên, được thổi tạt xuống phía Dưới. Người ấy ở đây cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.


Phía Tây của Đại Địa Ngục:
Này các Tỷ-kheo, rồi có một thời rất lâu dài, khi cửa phía Ðông của Ðại địa ngục được mở ra. Người ấy chạy vào đấy rất nhanh và mau lẹ. Khi người ấy chạy rất nhanh và mau lẹ, da ngoài bị cháy, da trong bị cháy, thịt bị cháy, dây gân bị cháy, xương bị khói xông đen. Sự trốn thoát của người ấy là như vậy. Này các Tỷ-kheo, dù cho người ấy có cố gắng rất nhiều, cửa vẫn đóng chống lại người ấy. Tại đây người ấy cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.


Rồi này các Tỷ-kheo, có một thời rất lâu dài, khi cửa phía Tây được mở ra... cửa phía Bắc được mở ra... cửa phía Nam được mở ra. Người ấy liền chạy vào đấy rất nhanh và mau lẹ. Khi người ấy chạy rất nhanh và mau lẹ, da ngoài bị cháy, da trong bị cháy, thịt bị cháy, dây gân bị cháy, xương bị khói xông đen. Sự trốn thoát của người ấy là như vậy. Này các Tỷ-kheo, dầu cho người ấy có cố gắng rất nhiều, cửa vẫn đóng chống lại người ấy. Tại đây người ấy cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi các ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.
Rồi này các Tỷ-kheo, có một thời rất lâu dài, khi cửa phía Ðông được mở ra, người ấy liền chạy vào đấy rất nhanh và mau lẹ... sự trốn thoát của người ấy là như vậy. Người ấy đi ra khỏi cửa Ðịa ngục ấy.


Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Ðại địa ngục là Ðại Phấn nị Ðịa ngục (Guthaniraya). Người ấy rơi vào Ðịa ngục này. Này các Tỷ-kheo, tại Phấn nị Ðịa ngục ấy, các chúng sanh với miệng như mũi kim cắt đứt da ngoài; sau khi cắt đứt da ngoài, chúng cắt đứt da trong; sau khi cắt dứt da trong, chúng cắt đứt thịt; sau khi cắt đứt thịt, chúng cắt đứt dây gân; sau khi cắt đứt dây gân, chúng cắt đứt xương; sau khi cắt đứt xương, chúng cắt đứt xương tủy. Ở đây, người ấy cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.


Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Ðại địa ngục Phấn nị ấy là Ðại địa ngục Nhiệt khôi (Than hừng - Kukkulaniraya). Người ấy rơi vào ở đấy. Ở đấy, người ấy cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.


Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Ðại địa ngục Nhiệt khôi là Ðại Châm thọ lâm (Sambalivanam) cao một do tuần, với những gai nhọn dài mười sáu ngón tay, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Họ bắt người ấy leo lên, leo xuống. Ở đấy, người ấy cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.


Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Đại Châm thọ lâm là Ðại Kiếm diệp lâm (Rừng lá gươm - Asipattavanta). Người ấy vào trong ấy. Ở đấy, các lá cây, do gió lay động, cắt đứt tay của người ấy, cắt đứt chân, cắt đứt tay chân, cắt đứt tai, cắt đứt mũi, cắt đứt tai mũi. Ở đây, người ấy cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mạng chung cho đến khi ác cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.

Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Đại Kiếm diệp lâm là Ðại Khôi hà (Sông vôi - Kharodakanadi). Người ấy rơi vào trong ấy. Tại đấy, người ấy bị trôi thuận theo dòng nước, người ấy bị trôi ngược lại dòng nước, người ấy trôi thuận theo, ngược lại dòng nước. Tại đấy, người ấy cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung, cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.

Rồi này các Tỷ-kheo, những người coi giữ Ðịa ngục, câu người ấy lên với móc câu, đặt người ấy trên đất và nói với người ấy: "Này Người kia, Ngươi muốn gì?" Người ấy nói: "Thưa các Ngài, tôi đói bụng". Rồi này các Tỷ-kheo, các người coi giữ Ðịa ngục lấy cọc sắt nung đỏ cạy miệng người ấy và nhét vào miệng người ấy những cục đồng nung đỏ, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Môi người ấy bị cháy, miệng bị cháy, cổ họng bị cháy, ngực bị cháy. Và kéo theo một ruột lớn, ruột nhỏ, các cục đồng ấy rơi ra ngoài từ phía dưới. Ở đấy, người ấy cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mạng chung, cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.

Rồi này các Tỷ-kheo, các người coi giữ Ðịa ngục nói với người ấy: "Này Người kia, Ngươi muốn gì?" Người ấy nói: "Thưa các Ngài, tôi khát nước". Rồi này các Tỷ-kheo, các người coi giữ Ðịa ngục lấy cọc sắt nung đỏ cạy miệng người ấy ra, và đổ vào miệng người ấy nước đồng nấu sôi, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Môi ngươi ấy bị cháy, miệng bị cháy, cổ họng bị cháy, ngực bị cháy. Và kéo theo ruột lớn, ruột nhỏ, nước đồng sôi ấy chảy ra ngoài từ phía dưới. Người ấy ở đấy cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mạng chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ.

Rồi này các Tỷ-kheo, các người coi giữ Ðịa ngục lại quăng người ấy vào Ðại địa ngục.

Một thời xưa lắm, này các Tỷ-kheo, vua Yama suy nghĩ như sau: "Những ai làm ác nghiệp ở đời, phải thọ lãnh những hình phạt sai khác như vậy. Mong rằng ta được làm người, và Như lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, và ta có thể hầu hạ Thế Tôn, và Thế Tôn thuyết pháp cho ta, và ta có thể thông hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng".

Này các Tỷ-kheo, điều Ta đang nói không phải Ta nghe từ một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác; nhưng điều Ta đang nói chỉ được Ta biết mà thôi, chỉ được Ta thấy mà thôi, chỉ được Ta hiểu mà thôi.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Sau khi Thiện thệ nói như vậy, bậc Ðạo Sư lại nói thêm như sau:

Quote:Dầu Thiên sứ báo động,
Thanh niên vẫn phóng dật,
Họ ưu buồn lâu dài,
Sanh làm người hạ liệt.

Ở đây bậc Chân nhân,
Ðược Thiên sứ báo động,
Không bao giờ phóng dật,
Trong diệu pháp bậc Thánh.

Thấy sợ trong chấp thủ,
Trong hiện hữu sanh tử.
Ðược giải thoát chấp thủ,
Sanh tử được đoạn trừ,
Ðược yên ổn an lạc,
Ngay hiện tại tịch tịnh,
Mọi oán hận sợ hãi,
Các vị ấy vượt qua,
Mọi đau đớn sầu khổ,
Họ đều được siêu thoát.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Reply
Sư Toại Khanh Giảng Thương Mình hay Mình Thương (1-3)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...B0%C6%A1ng

Thương Mình hay Mình Thương


19/10/2020 - 10:46 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
KALAMA TRI ÂN CÔ HỒ THỊ VUI GHI CHÉP

Tôi không biết gọi tên đề tài bài giảng trưa nay là gì, nhưng tôi rất muốn bắt đầu bài giảng bằng một câu hỏi rất đời:
Tôi hỏi rồi các vị tự trả lời, chứ chúng ta không thể trả lời trực tiếp với nhau ở đây được:
Có bao giờ các vị tự hỏi: Nếu phải đứng trước một câu hỏi như sau mình sẽ phải trả lời như thế nào?

Nếu phải về sống với một người thương mình và sống với người mình thương thì mình chọn cái nào?

Câu hỏi rất đời nhưng rất Phật pháp. khi trả lời ,chúng ta có cơ hội quay lại vấn đề giáo lý rất quan trọng
Khác biệt giữa phàm phu và bậc thánh là phàm phu không phân biệt được cái thích và cái cần, còn bậc thánh phân biệt rất rõ.

Cho nên trong đời sống này và nhiều kiếp luân hồi chúng ta cứ nhầm lẫn giữa 2 điều đó.

Cùng lúc nhiều mối lái tới tìm mình thì mình không biết chọn cái nào.
Một bên thương mình mà mình không thương, còn một bên mình thương mà không thương mình, chọn cái nào?

Đôi khi chúng ta 
  1. đặt vấn đề thích hay không mà 
  2. không đặt vấn đề cần hay không.

Đối với một vấn đề ta có 3 điều để từ chối:

1/ Đó là sự vật, sự việc, người mà chúng ta ghét;
2/ Đó là cái chúng ta không thích;
3/ Cái đó có hại cho mình, thì không còn thích/ghét nữa, mà có hại sẽ từ chối nó;
4/ Cái đó không có lợi cho mình, dù thích hay không

Tiếp theo, Tôi muốn nói đến 4 trường hợp hành nhân/hành giả. Cuộc đời này giả định là một hành trình, một cuộc đi, một chuyến viễn trình.

Chúng ta chắc chắn là 1 trong 4 trường hợp:
1/ Đeo một gùi hành lý đầy những thứ không cần thiết.
2/ Đeo một túi hành lý toàn thứ cần thiết
3/ Chỉ đeo ba lô không có đồ đạc gì;
4/ không đeo ba lô nhưng có chỗ để đến.

Có thể nói, một người không biết Phật pháp thường ở Nhóm 1: đeo hành lý mà toàn thứ không cần thiết, chưa kể có hại cho mình.

Đa phần chúng ta đầu tư thật nhiều cho thứ không cần thiết. Đó là con người, còn động vật cấp thấp thì cả đời chúng chỉ biết kiếm tìm, gồng gánh thực phẩm, kiếm tìm chỗ ở, và giao phối.


Nhóm 2: biết lựa chọn để chuẩn bị túi hành lý gồm thứ cần thiết, là những phàm phu nghe Phật pháp, biết trau dồi chánh niệm,...

Nhóm 3: Chỉ đeo túi hành lý không có đồ đạc gì, như những vị xuất gia, cư sĩ từ chối đời sống tiện nghi sống đời tay trắng. Không cưu mang gì nhưng trên vai còn cái túi. Ngay bây giờ, tuy cái gì họ cũng buông, nhưng còn phàm phu nên cái túi hành lý trước mắt vẫn còn. Nhưng hễ còn cái túi thì sẽ có vật để đựng.

người quen, vai u thịt bắp nhưng đeo túi nhỏ và hơi nữ, nói : vì biết tật của mình nên mang cái túi nhỏ,chỉ bỏ cái thứ gọn gọn nhỏ nhỏ thôi.

Còn đeo túi lớn là nhét đủ thứ.

Khi còn chỗ để chứa thì sớm muộn sẽ có cái để nhét vô nhưng trước mắt là không có.
Như Ngài Xá Lợi Phất có lần nói "Ta không thiết tha sự sống, cũng không thiết tha sự chết. Ta chỉ không muốn trái còn xanh nó rụng"

Bài giảng trưa nay đặc biệt nhấn mạnh TƯ LƯƠNG.
Tùy thuộc vào nền tảng mỗi người mà chúng ta chọn cái gì.
Có những khía cạnh mà trước đây chưa kịp đào sâu.

Đối tượng buổi giảng thứ 2 là những người sơ cơ chưa từng học qua Giáo lý. Các vị có khái niệm: Tại sao mình đến với Đạo, và đến làm gì?

Tùy thuộc nền tảng tâm thức chúng ta trong từng đời, kiếp sống mà chúng ta có chuẩn bị gì. Đó là bước 1.
Bước 2: trên nền tảng hành trang kiếp này, sẽ quyết định phần hành trang chúng ta sẽ mang trong kiếp sau.

Bài cũ đã đề cập: Có 4 mối quan hệ nhân quả: 

1/ Mối quan hệ Nhân đưa đến Quả (mối quan hệ Nhân- Quả thuần túy)
Thí dụ: Đức Phật, Ngài có phước lớn là có vô số người sẵn sàng chết cho Ngài. Ngay bản thân tôi, nếu được gặp Đức Phật, nếu phải chết cho Ngài tôi sẵn sàng.
Dù tôi là người sợ chết. Khi bà con sợ hãi, bà con cứ tâm nguyện là: Mạng này con cúng cho Thế Tôn, cho Tam Bảo. Nếu con còn cái mạng thì con xin phụng sự cho Tam Bảo,
cho hoằng dương Chánh Pháp. Nếu được gặp Đức Thế Tôn, thì con sẵn sàng cúng cái mạng này. Kể cả khi thực hành thiền.
Tại sao Đức Phật có phước đó? Vì nhiều đời, Cái gì giúp được cho người khác là Ngài giúp, kể cả với cả tánh mạng.

2/ Mối quan hệ giữa Quả với Nhân.
Quan hệ thứ 2 của Nhân Quả là Mối quan hệ giữa Quả với Nhân. Bệnh do 5 lý do:
1/ do căn quả, tiền nghiệp (do nghiệp kiếp trước);
2/ do sinh hoạt không hợp lý (có những công việc phải đứng/ngồi quá nhiều,....);
3/ do thực phẩm (thuốc men đầy đủ nhưng ăn tầm bậy nên bị bệnh);
4/ do tâm lý (trầm uất, sợ hãi, nóng giận, ghen tuông,.... nhiều quá là điều kiện tạo ra bệnh);
5/ do ngoại lực tác động (nắng, gió, mưa, sương, bị côn trùng cắn,...)

Do bệnh hoạn nhiều nên người không yên, làm gì cũng không được. 
Bệnh là nhân dẫn đến quả là mình là người khó khăn, khó gần, khó ưa; 
Nhân là đời trước mình có minh sư thiện hữu nên quả là đời này mình có trí.

3/ Mối quan hệ giữa Nhân - Nhân
Mối quan hệ 3: Mối quan hệ giữa Nhân - Nhân (Thường cận y duyên), có nghĩa là người thường sống với tâm lành thì chính tâm lành này là nền tảng tâm thức cho tâm lành khác... Lối mòn tâm tư là thiện nhiều thì chính thiện này nuôi thiện mới, mà ác nhiều thì ác này sẽ nuôi ác mới. Cho nên, luôn luôn sống chánh niệm, quan sát thì chúng ta mới có tác động tốt giữa nhân lành này với nhân lành khác.

"thói quen chính là bản tính thứ 2"

Nếu có cơ hội thì chọn sống với người mình thương hay với người thương mình?
Nếu nhiều đời sống với cái thiện là cái mình thương.

  1. Tâm lành khó có,nhưng nó là cái thương mình. 
  2. Tâm xấu dễ có nhưng nó là cái mình thương. Có lúc thương cái thằng không ra gì thì phải tỉnh táo mà buông nó.
Ngày xưa, các cụ có hôn nhân áp đặt, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó.... Hồi nhỏ, tui thấy điều đó hơi nhiều .
Tới tuổi này, tôi thấy nó không phải hay 100% nhưng cũng không dở hết, bởi vì "đương cuộc giả mê"

Chuyện người thì sáng còn chuyện mình thì quáng. Tuổi trẻ ăn chưa no lo chưa tới, nhiều khi thương người không đáng, chẳng qua mình vừa mắt cái điểm nào đó, nhưng nó không đủ cho mình nương tựa một đời.

Cho nên mới cần bố mẹ bình tĩnh, khách quan.

(Còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng Thương Mình hay Mình Thương (2-3)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...B0%C6%A1ng

Tại sao chúng ta phải Nghe Pháp? Tại sao cần Minh Sư Thiện Hữu? Bước vào dòng sanh tử, chúng ta ai cũng là cô cậu mới lớn, mà khi cần quyết định, có lúc chúng ta có chỗ nhầm, cho nên cần Minh sư thiện hữu.

Có 3 loại trí: Trí Văn, Trí Tư, Trí Tu.

Điều kiện tiên quyết, cần và đủ là chúng ta phải có kiến thức giáo lý căn bản (văn), trên nền tảng đó chúng ta mới có khả năng suy tư, tu tập.

"Tùng thiện như đăng, tùng ác như băng"

[color=var(--primary-text)](Người xưa dạy: "Tùng thiện như đăng, tùng ác như băng". Có nghĩa là làm việc thiện khó như leo lên núi, còn làm việc ác dễ như trượt xuống dốc. Cái khó mà làm được thì cả đời đứng trên đỉnh cao thênh thang gió lộng, cái dễ duôi mà đắm chìm thì cả đời dù ngẩng đầu cũng chỉ thấy ngang ngọn cỏ dưới chân.)[/color]

Trượt núi có thể sẩy chân nhưng lên núi không thể sẩy chân mà cần cố gắng, kể cả đi lạc thì có cố gắng mới lên được đỉnh núi.

Nên chọn người mình thương hay chọn người thương mình? Mượn câu hỏi đó để nói về Phật Pháp.

Phật dạy rất rõ, có một pháp môn là Trạch pháp giác chi. Trạch là lựa. Mình hơn con thú ở chỗ là mình có khả năng chọn lựa. Còn con thú sống theo bản năng.

Tây có câu: Mỗi người đều có khả năng và bản năng. Bản năng mình cứ nhắm mắt đi theo, còn khả năng thì phải vun bồi.

Trong kinh có nói 2 trường hợp: lợi trước mắt, lợi về sau. Đa phần chúng ta chọn cái thích nên không quan tâm cái lợi, nếu có thì quan tâm lợi trước mắt.

Người Phật tử thứ thiệt, khi gặp cái xấu phải nhớ: Đây là quả xấu từ nhân xấu, đừng tạo nhân xấu nữa.

Nếu gặp điều tốt thì nhớ đây là quả lành từ nhân lành. Tiếp tục tạo nhân lành.

Tôi không màng kiến thức, sức khỏe,.. các vị tới đâu, nhưng nếu các vị có điều kiện nghe một bài giảng bất cứ của ai là các vị may mắn hơn hàng tỷ người trên hành tinh này. Vì có cả tỷ người trên hành tinh này không có cơ hội nghe những đề tài mang tính gợi ý, đề nghị cho đời sống tâm linh tinh thần, vì ăn còn không có, bị bệnh,.. bản thân là người độn căn, họ không có dịp nghe bài nói chuyện của ai đó mang nội dung hỗ trợ,gợi ý, khơi gợi cho đời sống tâm linh. 

Mỗi lần được điều gì nên nhớ đó là quả lành của nghiệp lành quá khứ, hôm nay có được sức khỏe, tiền bạc, tiếng tăm, ... là quả lành của thiện nghiệp trong quá khứ.

Khi nhớ thường xuyên như vậy thì thấy cái thiện rất gần mình, thấy cái thiện nó thương mình. Điều thiện chính là người thương mình. Cái bất thiện là điều mình thương nó mà nó không thương mình.

Có nhiều người, điều kiện làm lành nó khó lắm. Ai cũng đồng ý tâm lành khó hơn tâm ác.

Nhớ tự hỏi:

Mình đang thương ai? Thương người thương mình hay thương người mình thương? Nếu thương người mình thương phải xét lại coi nó có lợi hay có hại.

Đây là gợi ý hay cho đời sống hôn phối, và đời sống hàng ngày này. Tất thảy đều dựa trên câu tự vấn đó.

Theo trong kinh, bất cứ Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác nào, nguyên thủy đều giống y chang chúng ta, khi chưa sơ phát Bồ Đề Tâm, thì các Ngài như mình thôi.

Nhưng do gần gũi minh sư thiện hữu, do 3 trí Văn - Tư - Tu, do có: 
  1. Đại Bi - có lòng thương vạn loại chúng sinh, 
  2. Đại Trí - hiểu rằng có mặt ở đời là khổ, 
  3. khi cả 2 cái này đến mức độ đủ tạo ra Đại Hùng - Đại Lực
Đủ để các ngài phát nguyện thành Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, kể từ giây phút đó trở đi thì khuynh hướng thiện pháp trong Bồ Tát nhiều hơn.

Chính tâm lành này làm nền tảng cho tâm lành khác.

Chính vì chúng ta sống nhiều với thiện tâm thì thiện tâm trước thành lực đẩy cho thiện tâm sau.

Mình thường sống hào sảng rộng rãi thì làm nền tảng cho đời sau kiếp khác.

Có người họ thấy người khác khổ họ chịu không được, nhờ nhiều đời được sống gần minh sư thiện hữu, họ có từ tâm, có tâm bi mẫn với người khác, nên có được tấm lòng nhạy cảm với cái khổ của người khác.

Còn có người không có tâm đó là do nhiều kiếp họ không có tâm từ bi.

Hành trình một người chứng đạo, Bồ Tát:
Lúc đầu ác nhiều hơn thiện - Thiện Ác bằng nhau (có cơ hội làm ác, làm thiện là làm liền, bằng nhau, còn mình là có cơ hội làm ác thì làm liền mà làm thiện thì chưa chắc)

Còn chuyện mấy vị làm đệ tử ai mấy chục năm nó chỉ là nhãn hiệu thôi quý vị, chưa chắc mình là người biết tận dụng cơ hội làm thiện, cho nên phải xét lại. Chúng ta vẫn nằm trong nhóm 1: Ác nhiều hơn thiện.

Còn nhóm 2: Thiện - Ác bằng nhau. 
Hạng 3 là số 1: Thiện nhiều hơn Ác. Có cơ hội làm thiện làm liền, nhưng trong 100 cơ hội làm ác thì chỉ lỡ tay vài vụ thôi.

Thánh nhân là người chỉ làm thiện thôi.

Phần lớn chúng sanh phàm phu là Ác nhiều hơn thiện, nhưng đừng nghe vậy rồi mất tự tin. Chúng ta có biết mình là ai mà không dám tin mình là người nhóm 2, không thuộc 1 phần trăm nhóm 2?

Vấn đề là mình có nỗ lực hay không thôi.

Chỉ có Trời mới biết ai tu nhiều hơn ai. Phật - Thánh Niết Bàn hết rồi. Dù bữa nay quý vị là bà cụ tối nay tắt thở, tái sinh về Miến Điện, rồi làm một vị sư thần đồng, thì 20 năm sau tôi 70 tuổi thì tôi gặp quý vị là tôi hết hồn rồi.

Cơ duyên của mình trong nhiều đời, khi chín muồi là dễ lắm.

Toàn bộ đời sống của mình luôn phải tự vấn: Mình đang theo người thương mình hay người mình thương?

Do túc duyên nhiều đời, mình thương cái thiện hay thương cái ác. Thì dù thương cái ác thì nhớ là Cái thiện là cái thương mình dù mình thương hay không.

Bồ Tát càng tu thì từ nhóm 1 (Ác nhiều hơn Thiện) lên nhóm 2 (Thiện Ác bằng nhau) rồi lên nhóm 3 (Thiện nhiều hơn Ác).

Cái nhảy nhóm nó mới giỏi.

Trong tâm thức của chúng sinh, 
  1. buổi đầu chúng ta nghĩ cái thích và không thích, 
  2. rồi từ từ tới Lợi và Hại, 
Tới đây có 3 bước:

1. Quan tâm Thích hay Không Thích
2. Quan tâm cái Thiện, Ác
3. Khi cái Thiện thành bản năng, thành tự nhiên --> Thiện nhiều hơn Ác.

Ví dụ: định nghĩa về Từ Bi Hỉ Xả mà có người Phật tử khóa học nào cũng học mà gặp lại hỏi trả lời trớt quớt à.

Buổi đầu mình thuộc nhóm đi theo, quan tâm cái thích cái ghét; Tới nhóm 2 quan tâm thiện, ác; Tới nhóm 3: thành tự nhiên.

Họ là người học đạo, giữ giới, tu thiền,... rất đơn giản.

(còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Thương Mình hay Mình Thương (3-3)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...B0%C6%A1ng

Rất nhiều người cho tới bây giờ họ cứ tưởng "hành thiện, lánh ác, giữ lòng lành" là nguyên tắc, kỹ thuật của Đức Phật dạy. Thật ra đó là luật vũ trụ.

Đức Phật là người nhắc lại những quy tắc, định lý đó. Ngài chỉ dạy cho mình cái nguyên tắc của trời đất vậy đó.

Chúng ta hãy bỏ đi nhãn hiệu "Phật tử", chỉ coi đó là khoa học thôi.

Tại sao cái thiện là người mình thương mà cũng thương mình ?

Tôi không biết các vị làm lành sẽ trổ quả lúc nào, nhưng tôi tin chắc 1000% là tâm lành đầu tiên làm quý vị an lạc. Đây là lý do các bạn xem điều lành là điều thương mình, còn quý vị có thương nó không thì tùy quý vị.

Tôi không cần biết chừng nào thiện pháp trổ quả, nhưng chỉ cần có lòng lành là lập tức được an lạc.

Khi anh sống bằng trí tuệ, từ tâm, thiền định, kham nhẫn thì ngay lúc đó anh đã được an lạc rồi

Cho nên hạnh phúc không phải là đích đến (destination) mà là hành trình (journey).

Bản thân cuộc sống thiện là niềm vui rồi.
 .
Dầu quý vị có già, bệnh, xấu,.. cỡ nào thì khi sống với lòng lành thì quý vị được an lạc

Đó là lý do vì sao từ Pali gọi lành là Kusala = Thiện = khéo léo.

Vì có ai trong đời này mà không thích sướng sợ khổ?

Khi muốn được sướng không khổ thì phải sống với tâm lành, khéo.

Muốn nồi canh ngon thì phải nấu đúng mới ngon.

Nếu mà đứa nào trên đời này đều tập trung vào cái chuyện đó (ăn ngon mặc đẹp, tiền bạc, quyền lực...) thì thế giới này là địa ngục đúng không?

Cứ quan sát mấy xứ chậm tiến cái gì công cộng nó gỡ nó mang về, phá cho banh-ta-lông, nhà nhà người người thi nhau xả rác, đốn cây, đừng hòng tìm đồ đã mất, thì tưởng tưởng xứ sở mà ai cũng sống vậy thì không đáng sống.

Nơi đáng sống là nơi: Của rơi không sợ bị mất.

Sống sao mà tạo nhân lành để được quả lành, và từ quả lành thì có điều kiện tiếp tục tạo nhân lành khác, và từ nhân lành này là điều kiện hỗ trợ cho nhân lành kia.

Kể từ sau bài giảng này, bà con phải tự hỏi mình: Mình đang sống với ai đây? Với người thương mình hay người mình thương? NGười mình thương là ai Thiện hay ác?

Còn kẻ thương mình thì luôn là Thiện, không phải Ác.

Tùy căn cơ mỗi người mà Ác, Thiện là cái nào là cái mình thích.

Phải tập luyện thường xuyên.

Sống thiện là niềm vui, là quyền lợi của mình

Niềm vui của kẻ nhận luôn nhỏ hơn niềm vui của người cho .

Chỉ có sống chánh niệm anh mới thấy được điều đó: Sống thiện là niềm vui, là quyền lợi; niềm vui kẻ nhận luôn nhỏ hơn niềm vui người cho.

Chỉ sống chánh niệm mới thấy: tâm lành là niềm vui hơn là quả lành
 
Làm lành là cơ hội hạnh phúc, là an lạc.
 
Làm lành, sống thiện là an lạc
 
Niềm vui từ tâm lành lớn hơn quả lành
 
Tây nó có câu hay lắm: Kiếm được tiền là khả năng, cách xài tiền là văn hóa.

Anh phải có nền tảng văn hóa nhất định anh mới có cách xài tiền có ý nghĩa.

Một thằng ăn cướp, buôn lậu, chơi bài,... đều có khả năng kiếm tiền.

Nhưng cách xài tiền là phải xét lại, xài tiền đúng là văn hóa

Luôn tự hỏi: Sống với người mình thích hay người thích mình.

Làm cách nào?

Chỉ bằng một tâm niệm: Yoniso manasikara = khéo suy tư. Bản thân chuyện sống thiện là hạnh phúc.

Tâm thiện xuất hiện lúc nào là hạnh phúc lúc đó.

Và niềm vui của nhân thiện luôn an toàn hơn quả thiện, quả lành.

Chúc quý vị một ngày vui.

(Hết)
Mục lục các bài giảng
Reply