2025-11-25, 07:39 PM
[181] Bốn sanh loại (Yoni), chủng loại chúng sanh:
1. Thai sanh (Jalābuja), loài sanh ra từ bào thai mẹ, từ dạ con tử cung. Như là con người và một số động vật bàng sanh (trâu, bò v.v...)
2. Noãn sanh (Aṇḍaja), loài sanh ra từ vỏ trứng. Như là loài chim và một số loài bò sát (rắn, rồng, cá v.v...).
3. Thấp sanh (Saṃsedaja), loài sanh ra từ chỗ ẩm thấp, nhơ nhớp. Như là các loại côn trùng (ruồi, muỗi, sâu bọ v.v...).
4. Hóa sanh (Opapātika), loài sanh ra bằng cách tự nhiên hiện hình có thân tướng đầy đủ, không phải qua môi trường nuôi lớn. Hạng hóa sanh như là chúng sanh chư thiên, ngạ quỉ, Atula, địa ngục và một số loài bàng sanh.
Trong bốn sanh loại trên, riêng về loài hóa sanh vì sắc pháp vi tế nên khi mệnh chung thì tự nhiên biến mất. Cũng như lúc sanh ra tự nhiên xuất hiện.
[182] Bốn pháp siêu lý (Paramatthadhamma):
1. Tâm (Citta), là pháp thực tính có trạng thái biết cảnh, nhận thức đối tượng.
2. Sở hữu tâm (Cetasika), là pháp thực tính cấu tạo tâm thức, tương ưng với tâm, trên bốn phương diện: đồng sanh, đồng diệt, đồng biết cảnh, và đồng nương sắc vật..
3. Sắc pháp (Rūpa), pháp thực tính thuộc vật chất, bất tri cảnh, có tính chất biến động lệ thuộc vào thời tiết, vật thực...
4. Níp-bàn (Nibbāna), là pháp thực tính vắng lặng tịch tịnh, đoạn diệt sự hiện hữu uẩn, không có sự đau khổ.
Bốn pháp này gọi là pháp siêu lý vì ý nghĩa cùng tột, cảnh của tuệ cao, một sự thật hiển nhiên không đổi khác dù quá khứ hay hiện tại hay vị lai. Do đó cũng gọi là pháp chân đế (Paramatthasacca), cũng còn gọi là pháp thực tính (Sabhāvadhamma) vì là pháp có trạng thái thật.
Xem [496] tâm, [494] tâm sở, [488] sắc pháp, [40] níp-bàn.
[183] Bốn nguyên tố vật chất (Dhātu) cũng gọi là sắc đại hiển (Mahābhūta, bhūtarūpa):
1. Địa giới (Paṭhavīdhātu), nguyên tố đất, là sắc thực tính có trạng thái cứng hoặc mềm, nguyên tố tạo ra hình thể của các sắc pháp khác.
2. Thủy giới (Āpodhātu), nguyên tố nước, là sắc thực tính có trạng thái kết dính, quến tụ... làm cho các sắc pháp bọn được gom lại.
3. Hỏa giới (Tejodhātu), nguyên tố lửa, là sắc thực tính có trạng thái nóng hoặc lạnh; có tính năng đốt cháy, làm cho các sắc pháp khác biến đổi.
4. Phong giới (Vāyodhātu), nguyên tố gió, là sắc thực tính có trạng thái di động, chuyển động, có tính năng làm cho các sắc pháp khác co giãn chuyển dịch.
Bốn nguyên tố sắc này gọi là sắc đại hiển vì là căn bản của vật chất, cấu tạo vật chất, hiện hữu trong mọi vật chất.
[184] Bốn nghiệp xứ giới (Dhātukammaṭ-ṭhāna), đề mục tu tiến phân biệt tứ đại, xác định thân này theo bốn nguyên tố:
1. Xác định địa giới (Paṭhavīdhātuvavaṭṭhāna), tức là sự xác định thành phần trong thân thuộc nguyên chất đất, có tính thô phù. Như xác là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, trực tràng, bao tử, phẩn, óc.
2. Xác định thủy giới (Āpodhātuvavaṭṭhāna), tức là sự xác định thành phần trong thân thuộc nguyên chất nước, tính thể lỏng. Như là mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ cục, nước mắt, dầu da, nước miếng, nước mũi, nước nhờn, nước tiểu.
3. Xác định hỏa giới (Tejodhātuvavaṭṭhāna), tức là sự xác định thành phần trong thân thuộc nguyên tố lửa, thể đốt tính nóng. Như thân nhiệt, chất đốt tế bào, chất nóng tiêu hóa vật thực v.v...
4. Xác định phong giới (Vāyodhātuvavaṭṭhāna), tức là sự xác định thành phần trong thân thuộc nguyên tố gió, tính chuyển động. Như là hơi thở, gió thổi lên (ợ hơi), gió thổi xuống (đánh rắm), gió di chuyển trong ruột, trong bụng v.v...
Bốn nghiệp xứ giới này còn được gọi là Catu-dhātuvavaṭṭhāna (sự xác định bốn chất), cũng gọi là dhātumanasikāra (sự tác ý nguyên tố). Đây là một thiền án tu tập, thuộc cả Chỉ tịnh và Minh sát.
[185] Bốn đại cứ pháp (Mahāpadesa), bốn cơ sở dựa vào đó mà tuyên bố pháp luật:
1. Y cứ Đức Phật (Buddhāpadesa), dựa vào Đức Phật để tuyên bố pháp luật, như là vị tỳ-kheo nói rằng: "Chính tôi được nghe từ miệng Đức Thế Tôn, thuyết đây là pháp, đây là luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư"
2. Y cứ Tăng chúng (Saṅghāpadesa), tức là dựa vào tăng đoàn để tuyên bố pháp luật, như là vị tỳ-kheo nói rằng: "Tại chỗ kia, tôi được thọ trì với tăng chúng như vầy: đây là pháp, đây là luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư"
3. Y cứ nhiều bậc trưởng lão (Sambahulattherāpadesa), tức là dựa vào nhiều vị trưởng lão là bậc đa văn có danh tiếng để tuyên bố pháp luật, như là vị tỳ-kheo nói rằng: "Tại chỗ kia có nhiều bậc trưởng lão đa văn, tôi được thọ trì từ các bậc ấy dạy: đây là pháp, đây là luật, đây là lời của bậc Đạo Sư".
4. Y cứ một vị trưởng lão (Ekatherāpadesa), tức là dựa vào một vị trưởng lão danh tiếng nào đó để tuyên bố pháp luật, như vị tỳ-kheo nói rằng: "Tại chỗ kia, có vị trưởng lão đa văn làu thông kinh điển, tôi đã được nghe từ miệng vị ấy dạy: đây là pháp, đây là luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư".
Nếu nghe vị tỳ-kheo tuyên bố pháp luật dựa trên bốn đại cứ pháp này thì chớ vội tín thọ, cũng chớ vội bác bỏ, mà hãy ghi nhận rồi đối chiếu so sánh kinh luật, nếu thấy hợp lý thì thọ trì, bằng không đúng thì bỏ qua.
[186] Bốn đại cứ pháp theo luật (Mahāpadesa):
1. Điều mà Đức Phật không ngăn cấm, nhưng nếu điều ấy không thuận lẽ đạo thì không nên làm. (Yaṃ appaṭikkhittaṃ tañce akappiyaṃ anulometi, taṃ na kappati).
2. Điều mà Đức Phật không ngăn cấm, nhưng nếu điều ấy thuận lẽ đạo thì làm được (Yaṃ appa-ṭikkhittaṃ tañce kappiyaṃ anulometi, taṃ kappati).
3. Điều mà Đức Phật chưa cho phép, nhưng nếu điều ấy không thuận lẽ đạo thì không nên làm (Yaṃ ananuññātaṃ tañce akappiyaṃ anulometi, taṃ na kappati).
4. Điều mà Đức Phật chưa cho phép, nhưng điều ấy thuận lẽ đạo thì làm được (Yaṃ ananuññātaṃ tañ-ce kappiyaṃ anulometi, taṃ kappati).
Trong bốn điều cứ pháp trên, có hai điều chưa ngăn cấm làm (appaṭikkhittaṃ) và hai điều chưa cho phép làm (ananuññātaṃ).
Cả bốn điều này có ý nghĩa rằng các sự việc chưa hình thành giới luật mà Đức Phật đã chế định, nhưng vị tỳ-kheo trước khi làm các việc ấy phải nên cân nhắc xem có thích hợp với tinh thần tu tập hay không, rồi mới làm. Nếu nghĩ rằng điều ấy không có trong giới luật, rồi làm hoặc không làm thì ắt bị đời khiển trách (lokavajja).
Đức Phật đưa ra bốn đại cứ pháp này để tạo điều kiện cho chư tăng dễ hành xử.
[187] Bốn điểm tựa trong việc tu tập (Apassenadhamma), pháp cơ sở tu hành:
1. Suy xét rồi thọ dụng, (Saṅkhāy' ekaṃ paṭiseveti), tức là đối với tứ sự (y phục, vật thực, sàng tọa, thuốc trị bệnh) nên thọ dụng sau khi quán tưởng.
2. Suy xét rồi kham nhẫn (Saṅkhāy' ekaṃ adhivāseti), tức là đối với nghịch cảnh khổ thọ xảy đến phải kham nhẫn bằng cách suy quán.
3. Suy xét rồi né tránh (Saṅkhāy' ekaṃ parivajjeti), tức là những chỗ nguy hại đến tính mạng hay phạm hạnh, cần phải cân nhắc rồi tránh né chỗ ấy.
4. Suy xét rồi khử trừ (Saṅkhāy' ekaṃ paṭivinodeti), tức là đối với phiền não ác bất thiện pháp nên thẩm sát rồi diệt trừ đi.
Bốn pháp apassena này cũng được gọi là Upanissaya (y chỉ pháp).
Vị hành giả sau khi dùng trí quán xét mới thọ dụng, hoặc kham nhẫn, hoặc né tránh, hoặc trừ khử, như vậy sẽ làm cho không sanh những ác bất thiện pháp chưa sanh, làm cho diệt mất những ác bất thiện pháp đã sanh, làm cho sanh khởi các thiện pháp chưa sanh, và làm cho tăng trưởng các thiện pháp đã sanh.
Vị tỳ-kheo có đầy đủ bốn điểm tựa này và năm vũ khí: Tín, tàm, quý, cần, tuệ; Vị ấy được gọi là bậc cụ túc y chỉ (Nissayasampanno).
[188] Bốn truyền thống bậc thánh (Ariyavaṃsa):
1. Tri túc với y phục (Cīvarasantosa)
2. Tri túc với vật thực (Piṇḍapātasantosa)
3. Tri túc với sàng tọa (Senāsanasantosa)
4. Vui thích tu tập thiện pháp và đoạn trừ ác pháp (Bhāvanāpahānārāmatā).
Trong bốn truyền thống này, đối với các món vật dụng thì tri túc (biết đủ), nhưng đối với đức tính tu tập thì không nên biết đủ mà phải vui thích.
Tri túc trong vật dụng tức là biết độ lượng khi thọ dụng, không tìm cầu bất chánh, khi có được không tham đắm; không có được cũng không phiền muộn.
Trong Cūlaniddesa (Nd2) trình bày bốn truyền thống bậc Thánh trong đó điều thứ tư là "Tri túc với thuốc trị bệnh". Như vậy pháp truyền thống này là sự tri túc bốn món vật dụng. Nên hiểu là chư thánh đoạn lậu đã viên mãn thiện pháp và đã tuyệt trừ phiền não do đó các ngài không cần vui thích trong sự tu tập và đoạn trừ ác pháp nữa, mới nói rằng bốn pháp truyền thống này là tri túc bốn món vật dụng.
[189] Bốn món vật dụng (Paccaya), nhu cầu của đời sống vị xuất gia:
1. Y phục (Cīvara), gồm y ca sa, vải mặc che thân.
2. Vật thực (Piṇḍapāta), gồm thức ăn và thức uống nuôi sống thân mạng.
3. Sàng tọa (Senāsana), gồm chỗ nằm, chỗ ngồi, luôn cả trú xứ, chỗ ngụ tránh mưa nắng.
4. Thuốc trị bệnh (Gilānapaccayabhesajja), gồm các thứ thuốc uống, thuốc thoa.
Đối với bốn vật dụng, bậc xuất gia thiểu dục tri túc được Đức Phật khuyên dạy nên nương theo như sau:
a) Y phấn tảo (Paṃsukūlacīvara), là y được may bằng vải mà người đời quăng bỏ. Tuy nhiên y cà sa của thí chủ cúng dường cũng cho phép thọ nhận.
b) Vật thực hành khất (Piṇḍiyālopabhojana), là thức ăn có được khi đi khất thực theo xóm làng. Tuy nhiên nếu có người mời đến cúng dường trai tăng, vẫn cho phép nhận lời.
c) Trú xứ cội cây (Rukkhamūlasenāsana), là chỗ ngụ dưới gốc cây, ngoại trừ thời gian mùa mưa thì phải ở trong mái lợp che kín. Tuy nhiên nếu có người cư sĩ tạo tịnh thất liêu cốc cúng dường, thì vẫn được phép nhận.
d) Thuốc nước tiểu (Pūtimuttabhesajja), là dùng nước đái bò để làm thuốc trị bệnh. Tuy nhiên, nếu có thí chủ cúng dường dược phẩm khác, thậm chí là đường sữa... vẫn được phép dùng để làm thuốc.
[190] Bốn loại tháp thờ (Cetiya):
1. Xá lợi tháp (Dhātucetiya), tháp thờ xương cốt trà tỳ của Đức Phật.
2. Vật dụng tháp (Paribhogacetiya), tháp thờ các di vật mà bình sinh Đức Phật thường dùng hoặc vật có liên hệ đến ngài. Như y bát, tọa cụ, hoặc cây bồ đề, bốn chỗ động tâm.
3. Giáo lý tháp (Dhammacetiya), tháp tôn thờ kinh điển Phật ngôn.
4. Tượng tháp (Uddesikacetiya), nơi tôn trí hình tượng của Phật.
KhA. 222; J.IV. 228.
1. Thai sanh (Jalābuja), loài sanh ra từ bào thai mẹ, từ dạ con tử cung. Như là con người và một số động vật bàng sanh (trâu, bò v.v...)
2. Noãn sanh (Aṇḍaja), loài sanh ra từ vỏ trứng. Như là loài chim và một số loài bò sát (rắn, rồng, cá v.v...).
3. Thấp sanh (Saṃsedaja), loài sanh ra từ chỗ ẩm thấp, nhơ nhớp. Như là các loại côn trùng (ruồi, muỗi, sâu bọ v.v...).
4. Hóa sanh (Opapātika), loài sanh ra bằng cách tự nhiên hiện hình có thân tướng đầy đủ, không phải qua môi trường nuôi lớn. Hạng hóa sanh như là chúng sanh chư thiên, ngạ quỉ, Atula, địa ngục và một số loài bàng sanh.
Trong bốn sanh loại trên, riêng về loài hóa sanh vì sắc pháp vi tế nên khi mệnh chung thì tự nhiên biến mất. Cũng như lúc sanh ra tự nhiên xuất hiện.
D.III.230; M.I.73
[182] Bốn pháp siêu lý (Paramatthadhamma):
1. Tâm (Citta), là pháp thực tính có trạng thái biết cảnh, nhận thức đối tượng.
2. Sở hữu tâm (Cetasika), là pháp thực tính cấu tạo tâm thức, tương ưng với tâm, trên bốn phương diện: đồng sanh, đồng diệt, đồng biết cảnh, và đồng nương sắc vật..
3. Sắc pháp (Rūpa), pháp thực tính thuộc vật chất, bất tri cảnh, có tính chất biến động lệ thuộc vào thời tiết, vật thực...
4. Níp-bàn (Nibbāna), là pháp thực tính vắng lặng tịch tịnh, đoạn diệt sự hiện hữu uẩn, không có sự đau khổ.
Bốn pháp này gọi là pháp siêu lý vì ý nghĩa cùng tột, cảnh của tuệ cao, một sự thật hiển nhiên không đổi khác dù quá khứ hay hiện tại hay vị lai. Do đó cũng gọi là pháp chân đế (Paramatthasacca), cũng còn gọi là pháp thực tính (Sabhāvadhamma) vì là pháp có trạng thái thật.
Xem [496] tâm, [494] tâm sở, [488] sắc pháp, [40] níp-bàn.
Comp. 81.
[183] Bốn nguyên tố vật chất (Dhātu) cũng gọi là sắc đại hiển (Mahābhūta, bhūtarūpa):
1. Địa giới (Paṭhavīdhātu), nguyên tố đất, là sắc thực tính có trạng thái cứng hoặc mềm, nguyên tố tạo ra hình thể của các sắc pháp khác.
2. Thủy giới (Āpodhātu), nguyên tố nước, là sắc thực tính có trạng thái kết dính, quến tụ... làm cho các sắc pháp bọn được gom lại.
3. Hỏa giới (Tejodhātu), nguyên tố lửa, là sắc thực tính có trạng thái nóng hoặc lạnh; có tính năng đốt cháy, làm cho các sắc pháp khác biến đổi.
4. Phong giới (Vāyodhātu), nguyên tố gió, là sắc thực tính có trạng thái di động, chuyển động, có tính năng làm cho các sắc pháp khác co giãn chuyển dịch.
Bốn nguyên tố sắc này gọi là sắc đại hiển vì là căn bản của vật chất, cấu tạo vật chất, hiện hữu trong mọi vật chất.
D.I.214; Vism.443; Comp.154
[184] Bốn nghiệp xứ giới (Dhātukammaṭ-ṭhāna), đề mục tu tiến phân biệt tứ đại, xác định thân này theo bốn nguyên tố:
1. Xác định địa giới (Paṭhavīdhātuvavaṭṭhāna), tức là sự xác định thành phần trong thân thuộc nguyên chất đất, có tính thô phù. Như xác là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, trực tràng, bao tử, phẩn, óc.
2. Xác định thủy giới (Āpodhātuvavaṭṭhāna), tức là sự xác định thành phần trong thân thuộc nguyên chất nước, tính thể lỏng. Như là mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ cục, nước mắt, dầu da, nước miếng, nước mũi, nước nhờn, nước tiểu.
3. Xác định hỏa giới (Tejodhātuvavaṭṭhāna), tức là sự xác định thành phần trong thân thuộc nguyên tố lửa, thể đốt tính nóng. Như thân nhiệt, chất đốt tế bào, chất nóng tiêu hóa vật thực v.v...
4. Xác định phong giới (Vāyodhātuvavaṭṭhāna), tức là sự xác định thành phần trong thân thuộc nguyên tố gió, tính chuyển động. Như là hơi thở, gió thổi lên (ợ hơi), gió thổi xuống (đánh rắm), gió di chuyển trong ruột, trong bụng v.v...
Bốn nghiệp xứ giới này còn được gọi là Catu-dhātuvavaṭṭhāna (sự xác định bốn chất), cũng gọi là dhātumanasikāra (sự tác ý nguyên tố). Đây là một thiền án tu tập, thuộc cả Chỉ tịnh và Minh sát.
D.II. 294; M.I.185; M. III.240; Vism. 347.
[185] Bốn đại cứ pháp (Mahāpadesa), bốn cơ sở dựa vào đó mà tuyên bố pháp luật:
1. Y cứ Đức Phật (Buddhāpadesa), dựa vào Đức Phật để tuyên bố pháp luật, như là vị tỳ-kheo nói rằng: "Chính tôi được nghe từ miệng Đức Thế Tôn, thuyết đây là pháp, đây là luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư"
2. Y cứ Tăng chúng (Saṅghāpadesa), tức là dựa vào tăng đoàn để tuyên bố pháp luật, như là vị tỳ-kheo nói rằng: "Tại chỗ kia, tôi được thọ trì với tăng chúng như vầy: đây là pháp, đây là luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư"
3. Y cứ nhiều bậc trưởng lão (Sambahulattherāpadesa), tức là dựa vào nhiều vị trưởng lão là bậc đa văn có danh tiếng để tuyên bố pháp luật, như là vị tỳ-kheo nói rằng: "Tại chỗ kia có nhiều bậc trưởng lão đa văn, tôi được thọ trì từ các bậc ấy dạy: đây là pháp, đây là luật, đây là lời của bậc Đạo Sư".
4. Y cứ một vị trưởng lão (Ekatherāpadesa), tức là dựa vào một vị trưởng lão danh tiếng nào đó để tuyên bố pháp luật, như vị tỳ-kheo nói rằng: "Tại chỗ kia, có vị trưởng lão đa văn làu thông kinh điển, tôi đã được nghe từ miệng vị ấy dạy: đây là pháp, đây là luật, đây là lời dạy của bậc Đạo Sư".
Nếu nghe vị tỳ-kheo tuyên bố pháp luật dựa trên bốn đại cứ pháp này thì chớ vội tín thọ, cũng chớ vội bác bỏ, mà hãy ghi nhận rồi đối chiếu so sánh kinh luật, nếu thấy hợp lý thì thọ trì, bằng không đúng thì bỏ qua.
D.II. 123; A. II.167.
[186] Bốn đại cứ pháp theo luật (Mahāpadesa):
1. Điều mà Đức Phật không ngăn cấm, nhưng nếu điều ấy không thuận lẽ đạo thì không nên làm. (Yaṃ appaṭikkhittaṃ tañce akappiyaṃ anulometi, taṃ na kappati).
2. Điều mà Đức Phật không ngăn cấm, nhưng nếu điều ấy thuận lẽ đạo thì làm được (Yaṃ appa-ṭikkhittaṃ tañce kappiyaṃ anulometi, taṃ kappati).
3. Điều mà Đức Phật chưa cho phép, nhưng nếu điều ấy không thuận lẽ đạo thì không nên làm (Yaṃ ananuññātaṃ tañce akappiyaṃ anulometi, taṃ na kappati).
4. Điều mà Đức Phật chưa cho phép, nhưng điều ấy thuận lẽ đạo thì làm được (Yaṃ ananuññātaṃ tañ-ce kappiyaṃ anulometi, taṃ kappati).
Trong bốn điều cứ pháp trên, có hai điều chưa ngăn cấm làm (appaṭikkhittaṃ) và hai điều chưa cho phép làm (ananuññātaṃ).
Cả bốn điều này có ý nghĩa rằng các sự việc chưa hình thành giới luật mà Đức Phật đã chế định, nhưng vị tỳ-kheo trước khi làm các việc ấy phải nên cân nhắc xem có thích hợp với tinh thần tu tập hay không, rồi mới làm. Nếu nghĩ rằng điều ấy không có trong giới luật, rồi làm hoặc không làm thì ắt bị đời khiển trách (lokavajja).
Đức Phật đưa ra bốn đại cứ pháp này để tạo điều kiện cho chư tăng dễ hành xử.
Vin.I.250.
[187] Bốn điểm tựa trong việc tu tập (Apassenadhamma), pháp cơ sở tu hành:
1. Suy xét rồi thọ dụng, (Saṅkhāy' ekaṃ paṭiseveti), tức là đối với tứ sự (y phục, vật thực, sàng tọa, thuốc trị bệnh) nên thọ dụng sau khi quán tưởng.
2. Suy xét rồi kham nhẫn (Saṅkhāy' ekaṃ adhivāseti), tức là đối với nghịch cảnh khổ thọ xảy đến phải kham nhẫn bằng cách suy quán.
3. Suy xét rồi né tránh (Saṅkhāy' ekaṃ parivajjeti), tức là những chỗ nguy hại đến tính mạng hay phạm hạnh, cần phải cân nhắc rồi tránh né chỗ ấy.
4. Suy xét rồi khử trừ (Saṅkhāy' ekaṃ paṭivinodeti), tức là đối với phiền não ác bất thiện pháp nên thẩm sát rồi diệt trừ đi.
Bốn pháp apassena này cũng được gọi là Upanissaya (y chỉ pháp).
Vị hành giả sau khi dùng trí quán xét mới thọ dụng, hoặc kham nhẫn, hoặc né tránh, hoặc trừ khử, như vậy sẽ làm cho không sanh những ác bất thiện pháp chưa sanh, làm cho diệt mất những ác bất thiện pháp đã sanh, làm cho sanh khởi các thiện pháp chưa sanh, và làm cho tăng trưởng các thiện pháp đã sanh.
Vị tỳ-kheo có đầy đủ bốn điểm tựa này và năm vũ khí: Tín, tàm, quý, cần, tuệ; Vị ấy được gọi là bậc cụ túc y chỉ (Nissayasampanno).
D. III. 224, 270; A.IV.354; A.V.30.
[188] Bốn truyền thống bậc thánh (Ariyavaṃsa):
1. Tri túc với y phục (Cīvarasantosa)
2. Tri túc với vật thực (Piṇḍapātasantosa)
3. Tri túc với sàng tọa (Senāsanasantosa)
4. Vui thích tu tập thiện pháp và đoạn trừ ác pháp (Bhāvanāpahānārāmatā).
Trong bốn truyền thống này, đối với các món vật dụng thì tri túc (biết đủ), nhưng đối với đức tính tu tập thì không nên biết đủ mà phải vui thích.
Tri túc trong vật dụng tức là biết độ lượng khi thọ dụng, không tìm cầu bất chánh, khi có được không tham đắm; không có được cũng không phiền muộn.
Trong Cūlaniddesa (Nd2) trình bày bốn truyền thống bậc Thánh trong đó điều thứ tư là "Tri túc với thuốc trị bệnh". Như vậy pháp truyền thống này là sự tri túc bốn món vật dụng. Nên hiểu là chư thánh đoạn lậu đã viên mãn thiện pháp và đã tuyệt trừ phiền não do đó các ngài không cần vui thích trong sự tu tập và đoạn trừ ác pháp nữa, mới nói rằng bốn pháp truyền thống này là tri túc bốn món vật dụng.
D.III.224; A.III.27; Nd2 107.
[189] Bốn món vật dụng (Paccaya), nhu cầu của đời sống vị xuất gia:
1. Y phục (Cīvara), gồm y ca sa, vải mặc che thân.
2. Vật thực (Piṇḍapāta), gồm thức ăn và thức uống nuôi sống thân mạng.
3. Sàng tọa (Senāsana), gồm chỗ nằm, chỗ ngồi, luôn cả trú xứ, chỗ ngụ tránh mưa nắng.
4. Thuốc trị bệnh (Gilānapaccayabhesajja), gồm các thứ thuốc uống, thuốc thoa.
Đối với bốn vật dụng, bậc xuất gia thiểu dục tri túc được Đức Phật khuyên dạy nên nương theo như sau:
a) Y phấn tảo (Paṃsukūlacīvara), là y được may bằng vải mà người đời quăng bỏ. Tuy nhiên y cà sa của thí chủ cúng dường cũng cho phép thọ nhận.
b) Vật thực hành khất (Piṇḍiyālopabhojana), là thức ăn có được khi đi khất thực theo xóm làng. Tuy nhiên nếu có người mời đến cúng dường trai tăng, vẫn cho phép nhận lời.
c) Trú xứ cội cây (Rukkhamūlasenāsana), là chỗ ngụ dưới gốc cây, ngoại trừ thời gian mùa mưa thì phải ở trong mái lợp che kín. Tuy nhiên nếu có người cư sĩ tạo tịnh thất liêu cốc cúng dường, thì vẫn được phép nhận.
d) Thuốc nước tiểu (Pūtimuttabhesajja), là dùng nước đái bò để làm thuốc trị bệnh. Tuy nhiên, nếu có thí chủ cúng dường dược phẩm khác, thậm chí là đường sữa... vẫn được phép dùng để làm thuốc.
Vin.I.58.
[190] Bốn loại tháp thờ (Cetiya):
1. Xá lợi tháp (Dhātucetiya), tháp thờ xương cốt trà tỳ của Đức Phật.
2. Vật dụng tháp (Paribhogacetiya), tháp thờ các di vật mà bình sinh Đức Phật thường dùng hoặc vật có liên hệ đến ngài. Như y bát, tọa cụ, hoặc cây bồ đề, bốn chỗ động tâm.
3. Giáo lý tháp (Dhammacetiya), tháp tôn thờ kinh điển Phật ngôn.
4. Tượng tháp (Uddesikacetiya), nơi tôn trí hình tượng của Phật.
KhA. 222; J.IV. 228.


