Người về qua cõi phù vân ... Nghiêng vai trút gánh phong trần bỏ đi...

[15] [190] Bốn loại tháp thờ (Cetiya): - Kho Tàng Pháp Học
#25
[169] Bốn pháp thuộc phần thù thắng (Visesabhāgiyā dhammā):

Tức là bốn pháp ly ách (Visaṃyoga):

1. Ly dục ách (Kāmayogavisaṃyogo), tức là sự tách ly đối với dục ách phược.
2. Ly hữu ách (Bhavayogavisaṃyogo), tức là sự tách ly đối với hữu ách phược.
3. Ly kiến ách (Diṭṭhiyogavisaṃyogo), tức là sự tách ly đối với kiến ách phược.
4. Ly vô minh ách (Avijjāyogavisaṃyogo), tức là sự tách ly đối với vô minh ách phược.

D. III. 276

[170] Bốn pháp khó thể nhập (Duppaṭivijjhā dhammā):

Đây là bốn loại định (Samādhi):

1. Thối phần định (Hānabhāgiyasamādhi), tức là thiền định mà không toàn hảo, định ấy làm thành cảnh phiền não cho tâm, làm cho hành giả bị thối thất, bị tổn giảm. Như người đắc sơ thiền sau khi xuất thiền bị dục tưởng chi phối, tham luyến với thiền định đã chứng, đó gọi là thối phần định.
2. Trụ phần định (Ṭhitibhāgiyasamādhi), tức là trạng thái thiền định bế tắc, không thối giảm cũng không tiến triển. Như vị hành giả chứng sơ thiền, thấy sơ thiền là thanh tịnh tinh lương rồi hoan hỷ thỏa thích nên dừng lại ở đó, không tiến triển cũng không thối giảm. Đây gọi là trụ phần định.
3. Thắng phần định (Visesabhāgiyasamādhi), là thiền định làm cơ sở cho sanh khởi bậc thiền cao hơn. Như vị hành giả chứng sơ thiền rồi tác ý đến nhị thiền vô tầm là thanh tịnh tinh lương lấy đó làm cảnh tác ý tưởng vô tầm, nên khi xuất sơ thiền thì chứng nhị thiền. Vì định sơ thiền ấy làm nền tảng đắc chứng nhị thiền cao hơn, thù thắng hơn, nên gọi đó là thắng phần định.
4. Quyết trạch phần định (Nibbedhabhāgiya-samādhi), là thiền định làm cơ sở đắc chứng thánh đạo. Như vị hành giả đắc sơ thiền, xuất thiền an trú với tuệ quán yếm ly (Nibbidāñāṇa), nhàm chán chi thiền vẫn bị hoại, tác ý đến trạng thái ly tham tịch tịnh níp-bàn nhờ vậy mà chứng thánh đạo. Do đó định sơ thiền này được gọi là quyết trạch phần định.

D.III. 277.

[171] Bốn pháp cần sanh khởi (Uppādetabbā dhammā):

Đây là bốn loại trí (Ñāṇa):
1. Pháp trí (Dhammañāṇa), tức là trí trong bốn đạo bốn quả.
2. Y lệ trí (Anvayañāṇa), tức là trí nhận thức tánh đồng của các vị thắng tri tứ đế, dù ở quá khứ hay vị lai cũng đường lối giống nhau.
3. Biến hành trí (Pariccañāṇa), tức là trí biết rõ tâm tư của chúng sanh khác một cách tường tận.
4. Thế tục trí (Sammatiñāṇa), tức là trí tuệ thông thường, trí ngoài ra ba loại trí trên đây.

D.III.277, Vbh.825.

[172] Bốn pháp cần thắng tri (Abhiññeyyā dhammā):

Đây là bốn thánh đế (Ariyasaccāni), bốn sự thật kỳ diệu, bốn chân lý mà bậc thánh giác ngộ:
1. Khổ thánh đế (Dukkhaṃ ariyasaccaṃ), hay khổ đế (Dukkhasacca). Chân lý về sự khổ, tình trạng khổ hiển nhiên. Như sanh già bệnh chết, oán hội ngộ, ái biệt ly, cầu biết đắc, tóm lại ngũ thủ uẩn là khổ. Xem [331] ngũ uẩn.
2. Khổ tập thánh đế (Dukkhasamudayo ariya-saccaṃ), hay tập đế (Samudayasacca). Chân lý về nhân phát sanh khổ, tập khởi của khổ. Tức là lòng tham muốn, ái luyến, bám chấp chỗ này chỗ kia, gồm có dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Xem [75] ba pháp cần đoạn trừ.
3. Khổ diệt thánh đế (Dukkhanirodho ariya-saccaṃ), hay diệt đế (Nirodhasacca). Chân lý về sự diệt khổ. Một trạng thái đoạn diệt hoàn toàn khát ái, không còn thủ truớc, vô nhiễm, an tịnh và giải thoát, tức là níp-bàn.
4. Khổ diệt đạo lộ thánh đế (Dukkhanirodha-gāminīpaṭipadā ariyasaccaṃ), hay đạo đế (Magga-sacca). Chân lý về con đường đưa đến diệt khổ, pháp thực hành để đạt đến níp-bàn. Tức là bát chánh đạo, con đường trung đạo, gồm có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Xem [400] bát chánh đạo.
Bốn thánh đế này được Đức Phật thuyết trong bài pháp đầu tiên khởi điểm công cuộc hoằng hóa, gọi là bài kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattanasutta), bài pháp này cũng gọi là pháp thoại đề cao (Sāmukkaṃsikā dhammadesanā), vì là pháp môn quan trọng hằng được chư Phật xiển dương.

D.III.277, S.V.421, Vbh.99, Vin.I.9.

[173] Bốn pháp cần tác chứng (Sacchikātabbā dhammā).

Đây là bốn Sa môn quả (Sāmaññaphala):
1. Dự lưu quả (Sotāpattiphala), hay quả vị Tu-đà-huờn, tầng thánh quả thứ nhất trong bốn thánh quả.
2. Nhất lai quả (Sakadāgāmiphala), hay quả vị Tư-đà-hàm, tầng thánh quả thứ hai trong bốn thánh quả.
3. Bất lai (Anāgāmiphala), hay quả vị A-na-hàm, tầng thánh quả thứ ba trong bốn thánh quả.
4. Ưng cúng quả (Arahattaphala), hay quả vị A-la-hán, tầng thánh quả cao nhất trong bốn thánh quả.
Gọi 4 quả vị này là Sa môn quả, nghĩa là quả báo Sa môn, kết quả của việc thực hành Sa-môn pháp. Đây là loại Sa môn quả tối thượng so với Sa môn quả khác như lợi đắc, được cung kính...
Bốn Sa môn quả này là Quả siêu thế (Lokuttaraphala), được thành tựu do vô gián nghiệp duyên của tâm Đạo trợ sanh.

D.III.227, Vbh.335

[174] Bốn loại hành (Saṅkhāra), tính chất tạo tác, tính năng động:

1. Hữu vi hành (Saṅkhatasaṅkhāra), là pháp bị cấu tạo bởi duyên hệ, có tính biến diệt đổi thay; như có câu Sabbe saṅkhārā aniccā, chư hành vô thường - Hành trong câu này là tâm, tâm sở, sắc pháp.
2. Tối vi hành (Abhisaṅkhatasaṅkhāra), là hành bị cấu tạo bởi nghiệp thủ, tức là chỉ cho sắc nghiệp và tâm quả hiệp thế.
3. Tác động hành (Abhisaṅkharaṇakasaṅkhāra), là hành năng tạo tác, hình thành nghiệp chủng tử đào tạo tâm quả hiệp thế và sắc nghiệp. Đây chỉ cho tư tâm sở tương ưng tâm bất thiện và thiện hiệp thế.
4. Cần thắng hành (Payogābhisaṅkhāra), là hành vi hoạt động của thân và tâm. Đây chỉ cho cần tâm sở trợ cho mọi hành động.

Vism.527.

[175] Bốn phận sự trong tứ đế, việc cần làm đối với tứ thánh đế (Ariyasaccesu kiccāni):

1. Sự biến tri (Pariññā), là phận sự đối với khổ đế, khổ thánh đế cần phải biến tri (Dukkhaṃ ariya-saccaṃ pariññeyyaṃ), nghĩa là sự khổ ở đời, cần phải hiểu biết tận tường.
2. Sự đoạn trừ (Pahāna), là phận sự đối với tập đế, khổ tập thánh đế cần được đoạn trừ (Dukkhasa-mudayo ariyasaccaṃ pahātabbaṃ), nghĩa là ái tham nguồn cội đau khổ, cần phải trừ diệt.
3. Sự tác chứng (Sacchikiriyā), là phận sự đối với diệt đế, khổ diệt thánh đế cần được tác chứng (Dukkhanirodho ariyasaccaṃ sacchikātabbaṃ), nghĩa là níp-bàn, trạng thái vắng lặng sự khổ đau, cần phải chứng ngộ.
4. Sự tu tập (Bhāvanā), là phận sự đối với đạo đế, khổ diệt đạo lộ thánh đế cần được tu tập (Dukkhanirodhagāminī paṭipadā ariyasaccaṃ bhāve-tabbaṃ), nghĩa là bát chánh đạo, con đường đến diệt khổ, cần phải thực hành tu tập.

Vin.I.10; S.V.422.

[177] Bốn thứ Đạo quả (Magga):

Đạo (Magga) là thánh trí đoạn trừ phiền não; quả (phala) là thánh trí an tịnh phiền não. Tâm đạo là nhân, tâm quả là thành quả của tâm đạo. Đạo quả là pháp siêu thế có níp-bàn là cảnh sở tri. Gồm bốn thứ:
1. Đạo quả Tu-đà-huờn (Sotāpattimagga, Sotāpattiphala), hay Đạo quả dự lưu, cũng gọi là sơ đạo sơ quả. Bậc thánh trí này tuyệt trừ 3 kiết sử là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ.
2. Đạo quả Tư-đà-hàm (Sakadāgāmimagga, Sakadāgāmiphala), hay Đạo quả nhất lai, cũng gọi là Nhị đạo Nhị quả. Bậc thánh trí này giảm trừ 2 kiết sử là dục ái và sân.
3. Đạo quả A-na-hàm (Anāgāmimagga, Anāgāmiphala), hay là Đạo quả bất lai, cũng gọi là Tam đạo Tam quả. Bậc thánh trí này tuyệt trừ 2 kiết sử đã muội lược là dục ái và sân.
4. Đạo quả A-la-hán (Arahattamagga, Arahattaphala), hay Đạo quả ưng cúng, cũng gọi là Tứ đạo Tứ quả. Bậc thánh trí tuyệt trừ 5 thượng phần kiết sử là ái sắc, ái vô sắc, ngã mạn, phóng dật và vô minh. Đây là bậc thánh trí cao tột, hoàn toàn giải thoát.

Vbh. 335, Comp.78.

[177] Bốn bậc thiền sắc giới (Rūpajhāna):

1. Sơ thiền (Paṭhamajhāna), là tầng thiền có năm chi: tầm, tứ, hỷ, lạc và định. Sơ thiền là một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh.
2. Nhị thiền (Dutiyajhāna), là tầng thiền có ba chi: hỷ, lạc và định. Nhị thiền là một trạng thái hỷ lạc do định sanh.
3. Tam thiền (Tatiyajhāna), là tầng thiền có hai chi: lạc và định. Tam thiền là một trạng thái xả niệm lạc trú.
4. Tứ thiền (Catutthajhāna), là tầng thiền có hai chi: xả và định. Tứ thiền là một trạng thái xả niệm thanh tịnh.
Theo Abhidhamma (Vi diệu pháp) phân loại thiền sắc giới có 5 tầng: Sơ thiền (Tầm, tứ, hỷ, lạc, định); nhị thiền (tứ, hỷ, lạc, định); tam thiền (hỷ, lạc, định) tứ thiền (lạc và định); ngũ thiền (xả và định).

M.I.40.

[178] Bốn bậc thiền vô sắc (Arūpajhāna):

1. Thiền không vô biên xứ (Akāsānañcāyatana), một trạng thái thiền vượt qua mọi sắc tưởng, an trú tâm định, với tác ý tưởng "Hư không không biên giới".
2. Thiền thức vô biên xứ (Viññānañcāyatana), một trạng thái thiền chứng do vượt qua tưởng không vô biên xứ, với tác ý tưởng "Thức tâm không biên giới".
3. Vô sở hữu xứ (Ākiñcaññāyatana), một trạng thái thiền chứng do vượt qua tưởng thức vô biên xứ, với tác ý rằng "Không có chi cả".
4. Phi tưởng phi phi tưởng (Nevasaññānāsaññāyatana), một trạng thái thiền chứng do vượt qua tưởng vô sở hữu xứ, với tác ý "Không có tưởng cũng không phải không có tưởng", cũng là một trạng thái thiền vô sắc vi tế dường như không có tâm nhưng không phải là không có tâm.
Thiền vô sắc bốn bậc đều có hai chi thiền là Xả và Định. Do dựa theo đề mục thiền mà phân loại, và cùng lấy tên gọi thiền vô sắc mà định danh cho bốn cõi phạm thiên vô sắc.

D.III.224; IV.227.

[179] Bốn địa vức (Bhūmi), phạm vi hay lãnh vực của danh sắc:

1. Địa vức dục giới (Kāmāvacarabhūmi), phạm vi gồm 54 tâm dục giới cùng 52 tâm sở hợp tâm dục giới, và 28 sắc pháp, cũng kể luôn 11 cõi dục.
2. Địa vức sắc giới (Rūpāvacarabhūmi), phạm vi gồm 15 tâm sắc giới cùng 35 tâm sở hợp tâm sắc giới, cũng kể luôn 16 cõi phạm thiên sắc giới.
3. Địa vức vô sắc giới (Arūpāvacarabhūmi), phạm vi gồm 12 tâm vô sắc giới cùng 30 tâm sở hợp tâm vô sắc giới, cũng kể luôn 4 cõi vô sắc giới.
4. Địa vức siêu thế (Lokuttarabhūmi), cũng gọi là địa vức phi hệ thuộc (Apariyapannabhūmi), phạm vi gồm 20 tâm đạo, 20 tâm quả siêu thế, cùng 36 tâm sở hợp tâm siêu thế, kể luôn níp-bàn.

Ps.I83

[180] Bốn cõi (Bhūmi), cõi chúng sanh, phạm vi tái sanh:

1. Cõi đọa lạc (Apāyabhūmi), là cõi khổ của những chúng sanh bị quả ác nghiệp, những cõi này không có sự tiến hóa, chịu nhiều đau khổ. Gồm 4 cõi là địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, Atula.
2. Cõi dục thiện thú (Kāmasugatibhūmi), tức là cõi vui dục giới, là những cõi của chúng sanh thọ quả phước do tạo thiện nghiệp như bố thí, trì giới... có sự an vui hưởng dục lạc. Gồm 7 cõi là 6 cõi chư thiên và cõi nhân loại.
3. Cõi sắc giới (Rūpāvacarabhūmi), tức là cõi của các Phạm thiên đã từng chứng đắc thiền sắc giới. Gồm có 16 cõi là 3 cõi sơ thiền, 3 cõi nhị thiền, 3 cõi tam thiền và 7 cõi tứ thiền.
4. Cõi vô sắc giới (Arūpāvacarabhūmi), tức là cõi của các Phạm thiên đã chứng thiền vô sắc. Gồm có 4 cõi.
Xem [489] ba mươi mốt cõi.

Budsas
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply


Messages In This Thread
RE: [15] Hai pháp thuộc phần hạ liệt (Hānabhāgiyādhammā): - Kho Tàng Pháp Học - by Xí Xọn - 2025-10-28, 10:46 PM