2025-07-12, 11:14 PM
[114] Ba y chỉ, ba chỗ nương (Tisaraṇa), đối tượng qui y của hàng cư sĩ:
1. Đức Phật (Buddha), vị đã tự giác ngộ, chân chánh, là bậc Đạo sư của trời, người.
2. Giáo Pháp (Dhamma), lời dạy của Đức Phật, Phật ngôn, kim chỉ nam để tu tập.
3. Tăng chúng (Saṅgha), chư tỳ-kheo đệ tử Phật, những vị thừa hành lời dạy của Đức Phật, là phước điền của chúng sanh.
Ba đối tượng y chỉ cao quí này còn được gọi là Tam Bảo (Ratanattaya). Xem [115].
Những ai có lòng tin niệm tưởng ân đức tam bảo, nương tam bảo làm hướng đạo như thế gọi là qui y tam bảo.
Kh.1.
[115] Ba ngôi báu, tam bảo (Ratanattaya):
1. Phật bảo (Buddharatana), Đức Phật như là báu vật vì đức hạnh cao quí của Ngài.
2. Pháp bảo (Dhammaratana), giáo pháp như là báu vật vì khả năng thiết thực và hướng thượng.
3. Tăng bảo (Saṅgharatana), tăng chúng đệ tử Phật như là báu vật vì sự thanh tịnh và uy lực.
Tam bảo là chỗ nương cao quí của chúng sanh, là đối tượng qui y của hàng cư sĩ.
Kh.1.
[116] Ba đạt tri (Pariññā), sự biến tri, sự liễu tri; sự hiểu biết thấu đáo:
1. Trí đạt tri (Ñātapariññā), là sự liễu tri do hiểu biết tướng riêng biệt của các pháp, như là biết rõ "Sắc có đặc tính bị bức não, Thọ có đặc tính bị tác động v.v..."
2. Thẩm đạt tri (Tīraṇapariññā), là sự liễu tri do thẩm sát tướng phổ thông của các pháp hữu vi, như là thẩm sát "Sắc là vô thường, thọ là vô thường v.v..."
3. Trừ đạt tri (Pahānapariññā), là sự liễu tri do đoạn trừ nghịch tưởng, điên đảo kiến, như đoạn trừ tưởng kiến thấy là thường do nhận thấy tướng vô thường v.v...
Ba sự đạt tri này là trí hiệp thế, có cảnh là năm uẩn, có phận sự là biến tri khổ đế, thuộc về Kiến tịnh, Đoạn nghi tịnh, Đạo phi đạo tri kiến và Hành lộ tri kiến tịnh.
Phân theo tuệ minh sát thì như sau:
Trí đạt tri là lãnh vực hai tuệ minh sát, tức tuệ xác định danh sắc và tuệ duyên đạt.
Thẩm đạt tri là lãnh vực hai tuệ minh sát, tức tuệ phổ cập tướng và tuệ tiến thoái.
Trừ đạt tri là lãnh vực 9 tuệ minh sát: tức tuệ diệt một, tuệ kinh úy, tuệ quá tội, tuệ phiền yểm, tuệ dục thoát, tuệ quyết ly, tuệ hành xả, tuệ thuận lưu và tuệ chuyển tộc.
Xem chín tuệ quán [438], mười sáu tuệ quán [484].
Nd1.53, Vism.606
[117] Ba sự tu tiến (Bhāvanā), sự tu tiến theo đề mục thiền hay nghiệp xứ:
1. Tu tiến sơ khởi (Parikammabhāvanā), tức là sự tu tiến bước đầu, bước chuẩn bị, như là ghi nhận các dạng hoàn tịnh (Kasina) chẳng hạn, là sự xác định sơ tướng (Parikammanimitta). Sự tu tập suy niệm về ân Đức Phật v.v... cũng nằm trong pháp tu tiến sơ khởi, vì bước đầu luyện tập tâm an trú.
2. Tu tiến cận hành (Upacārabhāvanā), tức là sự tu tiến thuần thục đến cận định, nghĩa là chú tâm theo một đề mục khắng khít cho đến khi sanh khởi Tợ tướng (Paṭibhāganimitta) đồng thời năm triền cái cũng lắng xuống. Cấp tu tiến này vẫn còn là định dục giới, nương theo cả 40 đề mục; cận hành tu tiến sẽ chấm dứt ở sát na diệt của tâm Chuyển tộc (Gotrabhū) trong lộ tâm đắc thiền.
3. Tu tiến an chỉ (Appanābhāvanā), tức là sự tu tiến đạt đến tâm thiền định (Jhāna), một trạng thái định kiên cố hay tâm đổng lực thiền sanh tiếp nối Gotrabhū. Định này sanh khởi do nương theo 30 đề mục trừ 10 tùy niệm. Định sơ thiền sanh khởi do 25 đề mục là 10 hoàn tịnh, 10 đề mục bất mỹ, từ, bi, hỷ, phạm trú, 1 thân hành niệm, 1 số tức quan. Định nhị thiền sanh khởi do 14 đề mục là 10 hoàn tịnh, từ, bi, hỷ, phạm trú, 1 số tức quan. Định tam thiền và định tứ thiền cũng như nhị thiền. Định ngũ thiền sanh khởi do 12 đề mục là 10 hoàn tịnh, 1 xả vô lượng tâm, 1 số tức quan. Định vô sắc thiền sanh khởi do 1 trong 4 đề mục vô sắc.
Comp. 203.
[118] Ba học pháp (Sikkhā), cũng thường gọi là tam học (Tisikkhā), pháp nền tảng tu tập để tăng tiến, để đạt đến níp-bàn:
1. Tăng thượng giới học (Adhisīlasikkhā), sự học tập trau giồi giới hạnh chân chánh, làm nền tảng tăng tiến tâm định.
2. Tăng thượng tâm học (Adhicittasikkhā), sự tu tập về tâm thiền kiên cố, làm nền tảng tăng tiến tuệ minh sát.
3. Tăng thượng tuệ học (Adhipaññāsikkhā), sự tu tập phát triển trí tuệ thẩm sát thực tướng danh sắc để đạt đến tri kiến thanh tịnh, giác ngộ giải thoát.
Ba học pháp này gọi tóm tắt là Giới, Định, Tuệ, tức là Tam học.
D.III.220; A.I.229.
[119] Ba diệu pháp, ba tinh hoa của chánh pháp (Saddhamma):
1. Pháp học (Pariyattidhamma), tức là những Phật ngôn cần phải học hiểu, gồm chín phần giáo lý hay tam tạng kinh điển.
2. Pháp hành (Paṭipattidhamma), tức là đường lối cần phải tu tập thực hành, như trì giới, thu thúc lục căn, thọ pháp đầu đà, tu tiến chỉ tịnh, tu tiến minh sát.
3. Pháp thành (Paṭivedhadhamma), tức là mục đích cần phải đạt đến, như thiền định, Đạo Quả. Điều này cũng gọi là Adhigamasaddhamma - pháp chứng đạt
Vin.A. 225; Ā.V. 33.
[120] Ba loại pháp thực tính (Dhamma):
1. Pháp thiện (Kusaladhamma), pháp có tính chất tốt đẹp, thành nhân lành cho quả vui, pháp có căn thiện tương ưng. Pháp thiện gồm 37 tâm thiện và 38 tâm sở phối hợp.
2. Pháp bất thiện (Akusaladhamma), pháp có tính chất xấu, uế nhiễm, là nhân cho quả khổ, pháp có căn bất thiện tương ưng. Pháp bất thiện gồm 12 tâm bất thiện và 27 tâm sở phối hợp.
3. Pháp vô ký (Abyākatadhamma), pháp có tính chất phi thiện phi bất thiện, pháp không thành nhân tạo quả. Gồm có pháp vô ký danh (Nāma abyākata) là 52 tâm quả, 20 tâm tố, cùng 38 tâm sở phối hợp và níp-bàn, có pháp vô ký sắc (Rūpa abyākata), tức là 28 sắc pháp.
Các chi pháp trong đây, xem thêm [496] [494] [488] [40]
Dhs. 91, 180, 234.
[121] Ba pháp cố định, ba định luật (Dhammaniyāma) cũng gọi là ba tướng phổ thông (Sāmaññalakkhaṇa):
1. Chư hành vô thường (Sabbe saṅkhārā aniccā), tức là mọi pháp hữu vi không thường hằng, luôn luôn biến đổi.
2. Chư hành khổ não (Sabbe saṅkhārā dukkhā), tức là mọi pháp hữu vi có tính bất ổn, khó chịu, không kham nổi vì trạng thái biến động.
3. Chư pháp vô ngã (Sabbe dhammā anattā), tức là mọi pháp thực tính dù là hữu vi hay vô vi cũng đều là phi ngã, không phải là bản ngã hiện hữu.
Ba pháp này là một qui luật hiển nhiên của vạn pháp, dù Đức Phật không xuất hiện, không tuyên bố, qui luật ấy vẫn chi phối các pháp ở đời.
A.I. 285.
[122] Ba ấn chứng thiền (Nimitta), dấu hiệu hay tướng sanh để xác định giai đoạn tu tiến nghiệp xứ:
1. Biến tác tướng (Parikammanimitta) cũng gọi là sơ tướng hay chuẩn bị tướng, tức là ấn chứng sơ khởi, tướng sanh ở giai đoạn đầu. Sau khi xác định đề mục nghiệp xứ như là hình dạng kasiṇa v.v... vị hành giả chú mục vào đó và ghi nhận rõ hình dạng đề mục. Sự kiện này gọi là Biến tác tướng. Tướng này áp dụng cho cả 40 đề mục.
2. Thủ trì tướng (Uggahanimita), cũng gọi là thô tướng, tức là ấn chứng do thuần thục nhập tâm vào đề mục, đây là tướng sanh ở giai đoạn hai. Nghĩa là khi chú mục vào mọi án xứ tu tập thì gọi là biến tác tướng, rồi khi nhắm mắt lại tác ý vẫn thấy rõ án xứ ấy, đây gọi là Thủ trì tướng. Thủ trì tướng sanh lên cũng với tất cả 40 đề mục.
3. Tương tợ tướng (Paṭibhāganimitta), cũng gọi là quang tướng. Tức là ấn chứng phát sanh từ Thủ trì tướng (thô tướng), tướng này làm sáng lên đề mục, ghi nhận đề mục một cách tinh khiết không thấy tỳ vết. Tương tợ tướng sẽ sanh khởi khi tâm đạt tới cận định. Tương tợ tướng chỉ sanh đối với 22 đề mục là 10 kasiṇa, 10 asubha, 1 thân hành niệm, và 1 niệm số tức quan.
Comp.203; Vism. 125.
[123] Ba sự đoạn trừ (Pahāna):
1. Trấn phục đoạn trừ (Vikkhambhanapahāna), tức là trừ phiền não bằng cách áp chế, đè nén. Nghĩa là sự áp chế phiền não bằng tâm thiền, khi hành giả nhập thiền thì trong suốt thời gian ấy phiền não không sanh.
2. Nhất thời đoạn trừ (Tadaṅgapahāna), tức là trừ phiền não bằng cách đối trị, thí dụ như đang khi tuệ phân tích danh sắc sanh khởi thì phiền não thân kiến được trừ khử ngay lúc ấy... Sự đoạn trừ này chỉ tạm thời khi sát na thiện đang có mặt.
3. Triệt tiêu đoạn trừ (Samucchedapahāna), tức là sự đoạn trừ phiền não bằng trí thánh đạo. Sự đoạn trừ này là tuyệt trừ phiền não không còn phát sanh nữa.
Xem thêm [305] năm pháp đoạn diệt.
Vism. 693.
[124] Ba pháp nghiệt chướng (Papañcadhamma); pháp chướng ngại khiến không thể nhập chân lý, pháp lệch hướng chánh đạo:
1. Ái tham (Taṇhā), sự tham muốn ái nhiễm danh lợi hay mong mỏi sự tái sanh.
2. Tà kiến (Diṭṭhi), sự cố chấp sai lầm, quan niệm tà thuyết; hiểu sai chân lý.
3. Ngã mạn (Māna), sự kiêu ngạo, tự đắc, tự cao, hoặc tự ti mặc cảm.
Trong A tỳ đàm bộ Vibhaṅga, nói đến ba pháp Papañca như sau: dục vọng (chanda), ngã mạn (māna), và tà kiến (micchādiṭṭhi) .
Nd1. 280 ; Vbh. 393; Nett.37-38.
[125] Ba bậc Dự lưu (Sotāpanna), ba hạng Thánh Tu-đà-huờn:
1. Nhất chủng sanh (Ekabījī), là bậc Dự lưu mà chỉ sanh lại cõi dục giới một lần nữa rồi đắc đến A-la-hán và viên tịch.
2. Lục chủng sanh (Kolaṅkola), là bậc Dự lưu mà còn sanh cõi dục từ hai đến sáu lần nữa mới đắc A-la-hán và viên tịch.
3. Thất chủng sanh (Sattakkhattuparama), là bậc Dự lưu mà phải sanh lại cõi dục cho đến bảy lần (mức định chót), mới đắc A-la-hán và viên tịch. Đây là hạng Dự lưu chậm nhất.
Sở dĩ được phân ra như vậy vì căn cứ vào pháp ngũ quyền (indriya) của vị Dự lưu mạnh, hay trung bình, hoặc yếu.
A.I.233; IV. 380; V.120; Pug.3,16,74.


