Người về qua cõi phù vân ... Nghiêng vai trút gánh phong trần bỏ đi...

Hành Trình Của Một Linh Hồn
#17
CHƯƠNG CHÍN (tiếp theo)

Một tuần sau.

Tôi có thể tả dài dòng nhiều chuyện xẩy ra trong tuần này nhưng tôi không muốn làm bạn chán, nên sẽ chọn ra trong các chuyện sự việc nào xem ra là quan trọng hay lý thú.

Vào tối THỨ HAI tôi tới được nhà của Daphne, thấy nàng mời bạn bè đến giải trí. Tôi được giới thiệu với mấy người trong nhóm, chuyện trở nên hứng thú về thời sự trên thế giới, và thấy họ hiểu biết rất nhiều về các đề tài ấy. Họ chiếu phim cho tôi coi, mô tả những khu vườn nhà trong thung lũng này. Chúng đẹp hơn bất cứ gì tôi đã thấy trước đây. Khi được cho thấy khu vườn để tự nhiên không có tay người xếp đặt, tôi thấy tinh linh tí hon cao không quá 12 – 15 cm, nhẩy nhót trong và ngoài phim. Khi chúng đáp xuống một bông hoa, cành hoa khẽ rung lên như có một con bướm lớn hay con ong đậu vào. Tinh linh có hình ảnh giống hệt những tiên nữ vẽ trong chuyện mà trẻ con mọi lứa tuổi ưa thích, ngoại trừ một khác biệt quan trọng là tuyệt nhiên chúng không có cánh. Điều này dễ hiểu vì nói cho hợp lý thì cánh không cần thiết chút nào ở cảnh mà tinh linh cư ngụ.

Sang tối THỨ BA, tôi ra khỏi thể xác dự tính lên cảnh thứ ba lần nữa, nhưng khi lơ lửng ngay trên giường nơi cơ thể đang nằm, chuyện đầu tiên tôi nghe là giọng của Charles theo kiểu nói đặc biệt của nhà binh. Em bảo:

– Tới lúc anh phải đi với em nghe. Kể từ đêm mà anh và ông bạn Ấn Độ của anh đi London với em, em đã tới đây ít nhất ba lần, lần nào thì xác cũng có đó mà anh đi đâu mất biệt. Em không biết anh bỏ đi đâu nên không thể theo. Lần này em quyết định tới sớm để bảo đảm là bắt kịp anh.

Tôi nói.

– Charles này, anh xin lỗi. Anh không biết là chú tìm anh, tại anh quá đỗi bận rộn và những gì được thấy làm anh thích quá.

– Mình lên phòng trên lầu nhỏ của anh đi, em nhớ nó là chỗ anh thích nhất. Charles bảo, rồi ta sẽ nói chuyện dài như ngày xưa.

– Chú nói phải đó, mình đi.

Thế rồi chúng tôi cùng đi lên phòng kín của tôi, chuyện vãn về những ngày đã qua và tôi kể phần nào những gì đã xẩy ra cho tôi cho đến ngày hôm nay.

Charles nói.

– Em rất mừng là anh may mắn gặp được Acharya, tại em lo lắng sau khi qua đời, thấy anh vô cùng rầu rĩ và thiểu não. Em ráng hết sức mình để nói chuyện với anh nhưng không làm cho anh nghe được. Hai chúng ta thân nhau biết bao hồi còn nhỏ, dù rằng anh luôn luôn già khú đế hơn em. Em thương anh biết chừng nào từ ngày anh chỉ em chơi đá banh, dạy cho em bài học đầu tiên cách nắm khúc côn cầu. Cuộc đời mới ngộ làm sao ! Em thường nghĩ là sống để tìm thú vui và sống hết mình càng nhiều càng tốt, rồi về sau cưới cô nàng xinh đẹp nào đó, sinh con đẻ cái tạo gia đình. Hồi mới gặp Acharya ông làm em chú ý về sự kiện rằng người ta vẫn y vậy sau khi chết, chỉ có cảnh sống là khác thôi và em thấy quả đúng như vậy.

– Phải, tôi đáp. Anh nghe Acharya thuật là em không buồn cho lắm. Ông nói em đã kết bạn với một cô vừa mới qua đời. Phải thế không ?

Hắn có đỏ mặt không hay là tôi tưởng tượng ?

– Đúng, có chuyện đó, Charles nói. Em nghĩ có cô bạn để đi loanh quanh đó đây sẽ làm qua ngày giờ. Trong trường hợp cô này em chắc nó sẽ gợi lòng kiêu hãnh của em vì cô tưởng em tài giỏi lắm, chỉ vì em biết vài điều hơn cô. Hồi ở cõi trần đời cô không vui mấy nên em nghĩ đi rong chơi chỗ này chỗ nọ, xem múa hát, ăn nhà hàng là chuyện thích thú lúc này.

– Ô, Charles. Tôi nói, có điều anh muốn hỏi em. Khi bỏ thể xác rồi và sang cảnh này thì có còn liên hệ tình dục được chăng ?

Lần này tôi tin chắc là hắn đỏ mặt nhưng hắn nói ngay:

– Có chứ, có việc đó và em nghĩ có đa số người làm nhưng nó không giống như cõi trần. Chuyện này dẫn tới chuyện kia y như vậy và trước kia lúc còn sống, nếu anh hỏi câu này em sẽ ngượng ngùng kể cho anh nghe chuyện tình yêu thầm kín của em, thì bây giờ cũng vậy, em vẫn cảm thấy ngượng ngùng khi nói về chuyện ấy.

Tôi bảo.

– Anh không có ý tò mò chuyện riêng tư, chỉ muốn có càng nhiều chi tiết càng tốt về sự khác biệt giữa cảnh sống cõi trần và cõi tình cảm, và ở những cảnh khác nhau của cõi sau. Anh có kể em nghe việc gặp lại Daphne ở cảnh cao nơi cô đang học nhạc. Hồi cô còn sống anh rất quí mến cô, và hẳn sẽ hỏi cô làm vợ ngay vừa khi đủ sức cưới vợ. Tuy Daphne và anh chưa thành hôn với nhau, anh cảm thấy là tình thân trong sạch tiếp tục ở những cảnh cao này sẽ không những kéo dài trong suốt quãng đời ở cõi tình cảm của cô với anh, mà còn tạo nhiều lợi ích to lớn cho cả hai trong kiếp tới. Để tối nào đó em đi theo và anh sẽ giới thiệu em với Daphne nhé ?

– Được, em thích lắm. Charles đáp.

Tôi đề nghị tối thứ năm và hắn ưng thuận.

Charles cho hay hắn vừa mới tiếp xúc được với ba của chúng tôi lúc gần đây, ông qua đời mấy năm về trước. Theo lời mô tả của hắn tôi cho là ba tôi đang sống ở cảnh thứ hai. Charles kể là hắn gặp ba ở chỗ trồng toàn hoa hồng, tôi nhớ hồi tôi còn nhỏ tính của ba là vậy; hắn nói lần mới đây khi gặp lại ông, ba tỏ ra buồn rầu vì con chó nhỏ tự nhiên đến ở với ông nay đột ngột biến mất, ba cho là nó đi lạc. Tôi giải thích với Charles việc thực sự đã diễn ra nhưng hắn không tỏ ra chú ý cho lắm. Hai chúng tôi tiếp tục trò chuyện cho tới khi có một cảm giác bồn chồn lạ lùng đến với tôi. Tôi chỉ có giờ bảo Charles đừng quên thứ năm và rồi tỉnh dậy trên giường, không nhớ mình đã về làm sao.

Tối THỨ TƯ tôi có kinh nghiệm đáng sợ nhất, có ác mộng với Daphne dự phần trong đó. Dường như Daphne và tôi ở trong một hang tối. Vì lý do nào đó chúng tôi không thể thoát khỏi một con vật giống như con khỉ đột dữ dằn, ngồi trên sàn gần chúng tôi, mắt long lên sòng sọc nhìn vào Daphhe, thấy rõ là nàng hấp dẫn nó theo một cách ghê gớm chi đó. Tôi biết là trong giấc mơ tôi muốn bảo vệ Daphne, nhưng con khỉ đột to lớn mạnh khủng khiếp làm tôi biết là không sao chống cự lại. Có vẻ nó thấy ngộ nghĩnh chuyện chúng tôi muốn trốn lánh, vì nó la rống và cười hăng hắc khi chúng tôi bỏ chạy cuống cuồng trong hang, tìm đường thoát nạn.

Ngay cả trong giấc mơ tôi thấy mồ hôi trán nhỏ giọt và tôi ráng nghĩ tới Achrya, với hy vọng là thầy sẽ đến cứu, nhưng chẳng có gì xẩy ra và làm chúng tôi phải chịu trận. Một lúc sau con khỉ đột đứng dậy tiến lại Daphne, đưa cánh tay lông lá chộp lấy nàng, và bắt đầu kéo nàng về phía đầu kia của hang. Daphne la hét chống lại hết sức mình, trong cảnh tuyệt vọng tôi đâm bổ vào con vật kinh khiếp và dù không có vũ khí, tôi cố gắng lấy tay bóp cổ nó với hy vọng làm con vật quay sang chú tâm vào tôi. Cho tới bây giờ làm như tôi vẫn còn ngửi được hơi thở hôi hám của nó, vì giữa chừng cuộc vật lộn thì tôi tỉnh dậy trên giường, mồ hôi dầm dề với chăn mền quấn rối quanh thân. Tôi không hiểu chút nào ý nghĩa của sự việc, tôi sẽ kiểm lại với Daphne càng sớm càng tốt với hy vọng biết đôi chút về chuyện này.

Sang tối THỨ NĂM tôi bắt đầu công việc của người cứu trợ nơi cõi trung giới. Đây là tối mà tôi đã xếp đặt để mang Charles lên cảnh thứ ba. Charles tới trễ và khi đến thì lộ vẻ lo lắng, vì hắn bảo một người bạn của hắn là Bill Fletcher bị bắn rơi, và tử nạn trong một vụ phi cơ địch thả bom ở London. Em kêu tôi đi cùng với em để giúp đỡ, chúng tôi lập tức đi London ngay. Charles biết chỗ để tìm Bill, và sự trợ giúp của chúng tôi được ba người cứu trợ hăng hái mà thiếu kinh nghiệm ở cõi tình cảm hoan nghênh. Sau khi cả bọn cố công hết sức trong hai tiếng đồng hồ, Bill chịu nghe và dùng ý chí thoát khỏi thể sinh lực, lập tức trở thành một người khác hẳn. Charles và tôi lo cho anh chàng, chúng tôi đi cùng với anh đến nhà và làm những gì có thể làm, để chuẩn bị người vợ trẻ của anh với tin báo tử mà cô sẽ nhận vào sáng hôm sau.

Kế đó Charles muốn ở lại với Bill, nói rằng hắn biết rõ anh ta đang đau khổ như thế nào, tôi quay trở lại chỗ thả bom để xem còn có thể giúp điều gì khác nữa. Một xe cứu thương chạy ngang qua và tôi quyết định đi theo nó. Xe chạy về một bệnh viện lớn của London và một cái cáng được cẩn thận khiêng vào bệnh viện, trên đó một cô gái trẻ đang nằm. Cũng cô gái ấy nhưng trong thể tình cảm đang đi bên cạnh cái cáng, với dáng điệu hớt hơ hớt hãi. Sau khi khám nghiệm, thể xác của cô được mang tới một khu đã đầy bệnh nhân mới vào lúc gần đây.

Việc diễn ra gọn gàng, không hối hả và thật là hữu hiệu khiến tôi thán phục, cô gái được đặt vào giường và có thu xếp để tiếp máu cho cô. Cô cuống cuồng tìm cách liên lạc với bác sĩ và y tá đang săn sóc thể xác bất tỉnh của mình, nhưng sau một lúc ngắn cô chịu nghe tôi nói. Tôi nói cô sẽ không sao đâu, vì trực giác tôi thấy vậy. Tôi bảo nếu cô bình tĩnh và đứng qua một bên xem chuyện diễn ra thì có ích cho cô hơn, cùng lúc hãy dùng ý chí của mình để phụ vào nỗ lực của bác sĩ và điều dưỡng viên. Bây giờ ngồi đây xem lại tôi không biết tại sao mình lại đề nghị với cô như thế. Tôi không hề biết là nói vậy sẽ có giúp gì được cho cô hay không, nhưng tôi thấy nên nói như vậy thế là tôi làm ngay.

Tôi có thể thấy rõ là có một sợi dây mỏng bằng chất ether, nối dài giữa thể tình cảm của cô với thể xác đang nằm trên giường ở bệnh viện, nên biết là cô chưa chết và tin chắc là cô sẽ không bị thiệt mạng. Tôi ở lại với cô nói chuyện suốt đêm, sau đó cô kể là căn nhà của mình nằm cạnh căn nhà bị trúng bom, và cô hết sức lo âu về số phận của bà mẹ lớn tuổi. Tôi bắt đầu chỉ cô đôi điều hiểu biết mà tôi vừa mới được dạy cho hay.

Có nhiều người cứu trợ cõi tình cảm đi lại trong khu, và một người trong bọn tôi chưa gặp bao giờ cho biết anh tên Jim và khen ngợi nỗ lực của tôi, anh bảo ước sao có thêm nhiều người có hiểu biết cần thiết để giúp trong những vụ cấp cứu tương tự.

Sang tối THỨ SÁU tôi có kinh nghiệm thật độc đáo tới mức phải tả lại chi tiết sinh hoạt trong đêm đó. Tôi gặp Daphne trong phòng của nàng ở Học Viện. Chuyện đầu tiên tôi hỏi là việc thấy nàng trong ác mộng của tôi, nhưng nàng đoan chắc là không có dự vào ác mộng đó. Hai chúng tôi quyết định thử tự mình đi lên cảnh kế là cảnh thứ tư, nhưng chúng tôi gặp vấn đề là không ai trong hai đứa tôi biết mốc điểm nào để tượng hình trong trí. Chúng tôi ngồi bên ngoài học viện và tập trung tư tưởng, tôi ráng nghĩ đến một bệnh viện tâm thần như Achrya đã nói mà không có gì xảy ra. Tôi ước sao có Acharya để giúp và hẳn tôi đã tạo ra hình tư tưởng của ông, vì khi nỗ lực lần sau của chúng tôi bị thất bại, tôi nghe có tiếng cười nhẹ sau lưng và thấy ông đứng ở đó. Ông bảo sẽ giúp chúng tôi và cho chúng tôi những mốc điểm ở từng cảnh mà chúng tôi phải nhớ nằm lòng.

Chúng tôi nắm tay thầy và khi mở mắt ra, thấy khung cảnh mà tôi không sao tả xiết, vì nó là một trong những thung lũng tuyệt đẹp mà tôi được biết. Một phần nơi ấy là rừng, đất phủ cỏ dầy nhiều mầu xinh đẹp như ở Nam Phi, sờ vào êm tay; mọc lẫn với cỏ là hoa dại tràn lan rực rỡ. Lẫn lộn vào có hoa chuông xanh, hồng đất, thủy tiên, uất kim hương, hồng dại, lưu ly, hoa anh túc (poppies) mầu đỏ hết sức tươi khó mà tưởng tượng được. Tôi không biết có còn thiếu loại hoa dại nào chăng, vì mặt đất khắp nơi là một tấm thảm đầy màu sắc, diễm lệ tới độ làm ta nín thở, sững người kinh ngạc.

– Tôi nghĩ hai bạn sẽ hài lòng với mốc điểm này. Acharya nói, vì nó có tên là Vườn Tiên (The Fairy Glen). Có thể tả nó như là cái nôi của thế giới thiên thần vì thung lũng này là nơi cư dân của đường tiến hoá đó trở về, sau khi làm xong phận sự giao phó cho chúng. Tôi đề nghị trong tương lai khi có dịp hai bạn lên xem xét thung lũng này một cách yên lặng và kín đáo, vì thiên thần có cách riêng của các ngài để giữ không cho người thiếu hiểu biết vào. Các ngài tạo nên bức tường dầy bằng chất liệu cõi trung giới khiến cho không ai có thể nhìn xuyên qua, ngay cả khi họ biết là có chỗ như thế. Ở cảnh này tường như vậy có tác dụng giống như tường gạch ở cõi trần.

Chúng tôi lại nắm tay nhau lần nữa và dùng ý chí sang cảnh kế, cảnh thứ năm. Khi mở mắt tôi thấy hết sức lạ lùng là đứng ở giữa nơi như sa mạc, chỉ có điều cỏ mọc khắp nơi thay vì cát. Đằng xa là một thành phố vĩ đại có nhiều tháp nhọn và tháp canh, chung quanh tường cao lớn bao bọc. Bên trên thành phố có vật gì rọi xuống giống như mặt trời, vì nó tỏa ra ánh sáng cho mọi tòa nhà làm chúng chiếu rực rỡ vàng óng ánh.

– Này hai bạn, đó là Kim Đô (Golden City), vị thầy hướng dẫn nói, và tôi khuyên các bạn nên tới thăm, tìm hiểu về nó. Bạn sẽ thấy trong đó có tất cả những gì mà người ta đã nghĩ ra, hay tưởng tượng về Thiên đàng theo sự hiểu biết của dân gian, và được các giáo sĩ, mục sư của Thiên Chúa giáo nói tới nhiều. Trọn cả đô thị là một hình tư tưởng vĩ đại, và bạn sẽ gặp trong đó hình tư tưởng của Thượng đế Chúa Cha, của Đức Chúa và 12 tông đồ của ngài, cùng nhiều vị thánh mà giáo hội giảng dạy.
Kế tiếp chúng tôi nắm tay nhau và dùng ý chí đi lên cảnh thứ sáu. Chỉ trong tích tắc chúng tôi đứng ở bờ hồ có tường đá cao bao bọc. Đằng xa bên trái có một khe thông rất nhỏ, tôi tự hỏi nó sẽ dẫn tới đâu.

– Hãy nhớ kỹ trong đầu hình ảnh này, Acharya khuyên. Hồ này được dùng chính yếu cho người muốn có sự yên tĩnh tuyệt đối để làm việc đặc biệt của họ. Có một môn phái trên thế giới tiến hóa hoàn toàn nhờ tham thiền. Trong lúc sống họ được dạy dỗ là có nơi này, tương tự như người Thiên Chúa giáo được dạy có chỗ gọi là Thiên đàng. Những thuyền con mà bạn thấy được người tới đây dùng, khi thuyền đi trên hồ thì chúng không qua mặt được nhau. Ấy là vì có những dòng nước ngầm bên dưới khiến thuyền đi vòng hết trọn hồ, mỗi thuyền trôi 24 tiếng đồng hồ (theo giờ cõi trần) thì quay về chỗ cũ, và cuộc tham thiền của những người này cần đúng bấy nhiêu thời gian để hoàn tất.

"Tôi thấy bạn để ý đến khe thông bên trái, nó dẫn tới một cái hồ tương tự nhưng nhỏ hơn, cũng có vách đá cao bao quanh. Hồ đó do một người tới đây ngụ tạo ra. Một hôm buổi tham thiền của họ bị phá rối vì nhiều người khác dùng hồ này cùng lúc. Hình tư tưởng mà họ sinh ra mạnh đến nỗi tạo thành một cái hồ cho riêng mình. Ở đây tôi nói khẽ với các bạn gần như là thì thầm, vì nếu nói với giọng bình thường bạn sẽ nghe nó vang dội quanh hồ như tiếng sấm. Người chung quanh biết về đặc tính này nên cẩn thận không hề gây ra tiếng động nào. Vì tính chất lạ lùng ấy người ta gọi hồ là The Waters of Perpetual Silence. Giờ tôi phải rời các bạn, bạn có thể quay trở lại và không cần tôi giúp mà chẳng sợ gặp khó khăn nào."

Như ông tiên đoán, Daphne và tôi trở lại những chặng đã qua không chút khó khăn, nhưng khi về cảnh thứ tư và thấy lại Vườn Tiên lần nữa, hai tôi quyết định nán lại chơi một lúc. Chúng tôi để ý thấy có dấu hiệu hoạt động rộn rịp trong thung lũng, làm như sắp có buổi lễ diễn ra. Dường như có đến hàng ngàn dân cư tụ tập trong thung lũng. Chúng tôi ngồi xuống nhìn, có vài 'viên chức' để ý đến chúng tôi và khi một người trong bọn tiến về hướng chúng tôi, chúng tôi nghĩ chắc là sẽ bị mời ra khỏi nơi đây, nhất là Acharya đã báo trước rằng loài người không phải lúc nào cũng được hoan nghênh tới chỗ này.

Một vị với dáng điệu thong thả và thật đường hoàng bay từ từ đến chúng tôi, ông có cái đầu thanh nhã rất trí thức và lộ phẩm cách tinh thần, làm chúng tôi tự động đứng dậy khi ông bay tới. Y phục của ông trông lạ mắt, nó giống như của một quan chức triều đình Trung Hoa. Mầu sắc của chiếc áo khoác dài hết sức tuyệt mỹ, còn hình thêu trên áo thì rõ ràng là hình nhiều bông hoa dại nở trong thung lũng. Nét mặt ông không tỏ vẻ là chúng tôi sẽ gặp rắc rối nên hai tôi mỉm cười đáp lại, hy vọng là thái độ của mình sẽ trấn an ông. Việc xẩy ra sau đó có hơi lạ lùng một chút vì nó là cuộc trò chuyện diễn ra mà không lời nào thốt lên, câu hỏi và câu trả lời theo nhau, cái nọ sau cái kia, mau lẹ hơn là khi phải dùng lời để diễn tả.

Tôi cảm nhận là ông hỏi có thể làm gì được cho hai tôi. Tôi đáp lại chỉ bằng cách tư tưởng tự nó lộ ra trong trí, rằng Daphne là người thường trú ở cõi tình cảm còn tôi vẫn còn thể xác ở côi trần, và có mặt ở đây vào lúc thể xác ngủ yên. Có vẻ như ông hiểu hoàn toàn, và nói là ông được vị Chủ Lễ (Chief) sai mời gọi chúng tôi đi gặp ngài. Chúng tôi tỏ ý rất sẵn lòng theo ông và lập tức tiến về lễ đài ở trung tâm. Khi đến gần, tôi thấy là dân cư đứng ngồi chung quanh một khoảng trống lớn hình tròn. Hoa dại xỏ xâu lại với nhau thành dây được giăng ra để ngăn đám đông, và tôi không khỏi so sánh nét mỹ lệ của 'hàng rào' loại này với hàng rào ta dùng dưới thế.

Bên trong vòng tròn có một khán đài được dựng nên, làm hoàn toàn bằng những cụm rêu lớn mầu lục với cây cột lớn ở mỗi góc, cột làm bằng hoa dại đủ màu đủ cỡ đan quấn vào nhau; ngay cả mái bên trên khán đài cũng làm bằng một loại dương xỉ rất thanh nhã, giống loại dương xỉ mỏng manh (maiden–hair) mọc ở cõi trần. Trọn cảnh cho ra hình ảnh hết sức thanh tú, rêu trên sàn của khán đài được sắp xếp thành nhiều ghế có lưng, trông rất dễ chịu làm người ta lập tức muốn ngồi vào. Phía trước có hai ghế lớn gần giống như hai cái ngai và tuy chúng cũng làm bằng rêu, nhưng lại có nét tinh xảo khéo léo hơn những ghế khác.

Trong khi chúng tôi chờ vị 'Chủ Lễ' xuất hiện, người hướng dẫn là ông vừa nói, cho hay vài chuyện sắp xẩy ra. Ý chính của những chuyện này là đám đông tụ tập nơi đây để chứng kiến một lễ tốt nghiệp. Ông giải thích rằng ngày giờ tới cho một nhóm tinh linh tiến sang giai đoạn kế trong cuộc tiến hóa của chúng là trở thành thiên thần, chúng phải chứng tỏ về khả năng thông thạo của mình tại một trong những buổi lễ như thế này. Khi 'Hội đồng Giám Khảo' hài lòng với sinh vật thì chúng biến đổi từ tinh linh sang thiên thần với nhiều trách nhiệm hơn. Ông cho hay các linh hồn trẻ tiến hóa theo một trong ba đường làm việc đặc biệt:

1– Đường quyền lực, làm việc bằng Âm nhạc và Màu sắc.

2– Hướng dẫn loài thảo mộc, cây cỏ biến đổi và tiến bộ nhờ thiên thần thí nghiệm ở cõi trung giới; và

3– Làm việc với loài người.

Ông giải thích là tinh linh chung đụng rất thường với người, nhất là với trẻ con. Chúng thường chơi đùa với trẻ nhỏ qua đời và lên cõi trung giới, dạy các em cách sử dụng chất liệu mềm dẻo ở cõi trung giới để giống như cho chúng sống với chuyện thần tiên của các em, bằng cách nếu các em muốn có hình ảnh của bất cứ nhân vật tưởng tượng nào, và hình này hiện hữu bao lâu mà tư tưởng của người dự chuyện vẫn duy trì vào đó.

Tôi được làm cho hiểu rằng cảnh này ở cõi trung giới là dành cho thiên thần, giống như cõi trần dành cho loài người. Chim chóc trở về nơi đây trong khoảng thời gian giữa hai kiếp sống, y như thú vật sau khi chết cư ngụ ở cảnh thứ sáu và thứ bẩy, lúc chúng chờ đợi tái sinh xuống trần. Chim cũng như cá, bướm và nhiều sinh vật có cánh khác, cuối cùng chuyển sang làm tinh linh và là một phần của đường tiến hoá thiên thần. Chúng không hề là một phần của đường tiến hoá nhân loại.

Tới đây có một nhóm từ bìa rừng đi ra, nếu tôi có tưởng tượng về chiếc thảm thần trong chuyện thần tiên ra sao thì đây chính là nó ! Nhóm gồm hai nhân vật chính, cả hai ngồi xếp bằng trên vật chỉ có thể tả là chiếc thảm nghi lễ, bay cách mặt đất chừng một thước, ở mỗi góc phía trước thảm những con chim ngậm trong mỏ nhiều sợi dây kết hoa đủ mầu sắc tưởng tượng, và trong khi chúng bay đằng trước làm như kéo chiếc thảm đi, những thiên thần dự vào cuộc diễn hành bay uy nghi hai bên thảm. Nhiều con chim nhỏ hơn bay tới lui, thả rơi cánh hoa hồng trên đường mà đoàn diễn hành vừa đi qua; mỗi con chim bay sà xuống mặt đất, dùng mỏ nhón lấy cánh hoa hồng từ những bụi hồng mọc khắp nơi, rồi lập tức bay về vị trí của nó ở đàng trước cuộc diễn hành và từ đó thả cánh hoa rơi xuống. Trong lúc cuộc diễn hành chậm rãi tiến bước, bầu không khí tràn ngập tiếng ca hát véo von từ cổ họng của hàng ngàn con chim đủ mọi loại.

Đoàn diễn hành tới chỗ, hai nhân vật chính yếu được tiền hô hậu ủng bước lên hai chiếc ngai dành sẵn cho họ trên khán đài, vị đầu tiên là vị Chủ Lễ, ngài tỏ ý muốn hai tôi cũng ngồi tại khán đài. Daphne được cho một ghế bên tay phải của ngài, còn tôi ngồi một ghế ngay bên trái của vị Đạo Trưởng. Trước khi nghi lễ thực sự bắt đầy, một dàn hoà tấu lớn gồm toàn là thiên thần chơi nhạc, bản nhạc hết sức vui tươi và cung điệu nhịp nhàng. Khi ban hoà tấu chơi xong thì có yên lặng trở lại, ngay cả vô số chim cũng không phát ra bất cứ tiếng ríu rít nào.

Thiên thần xướng thanh tiến vào vòng trong và với chiếc kèn nhỏ bằng bạc, loan báo phần đầu của buổi lễ. Một nhóm nhỏ gồm các tinh linh đi vào khu lễ đài, và tuy không một lời nào thốt ra, câu hỏi đi từ vị chánh chủ khảo sang nhóm này. Nó liên hệ đến việc biểu lộ của âm thanh, tượng trưng bằng dòng sông lững lờ trôi, chậm rãi chảy qua rừng với cây cao ở hai bên bờ sông. Lập tức nhóm lấy ra các loại sáo, tiêu và một loại guitar trông lạ mắt. Chúng bắt đầu chơi và tôi thấy tư tưởng chậm chạp thành hình, vẽ ra chính xác điều chúng nỗ lực mô tả bằng âm thanh. Ngay sau phần này là một lệnh khác muốn chúng tạo ra nhạc diễn tả thời tiết. Tức khắc nhạc cụ thay đổi, chúng mang ra nhiều cái trống, một bộ chập chõa và hai cái tiêu hay sáo lớn trông rất lạ, gần giống như kèn oboe.

Chúng chơi đàn và dù không nhìn vào hình tư tưởng với đường nét thật rõ ràng trước mặt, ta nhận ra không khó chủ đề của bài nhạc đang chơi là một trận bão biển. Ta gần như có thể nghe được tiếng răng rắc của cột buồm và dây buồm, căng cứng lên vì sức gió. Sấm chớp cũng có phần của nó và khi nhóm này chơi xong, đám đông nhất loạt đứng dậy như một khối, giơ tay lên trời thay vì vỗ tay và reo hò như con người thường làm. Đó là tất cả những việc mà nhóm đầu được yêu cầu biểu diễn, và tôi tin chắc là chúng qua được kỳ thi.

Nhóm thứ hai này được loan báo vào sân, chỉ có năm người trong bọn. Chúng được yêu cầu trưng ra cho thấy kết quả của việc ghép cây, áp dụng cho cả hoa, bụi cây nhỏ và những loại trái cây khác nhau. Câu trả lời lập tức hiện ra như là hình tư tưởng, cho thấy rõ ràng sự thay đổi về kích thước và màu sắc. Chúng cũng được hỏi những loại hoa nào có thể được trồng chung với nhau trong một luống, và những loại nào diệt trừ một hay nhiều loại khác. Rồi câu hỏi liên quan đến việc luân canh (trồng hoa màu này sau hoa màu kia trong năm sao cho có lợi nhất) và tại sao nó lại cần thiết. Xem ra nhóm thứ hai này cũng làm vừa lòng cả ban giám khảo và đám đông.

Chiếc kèn bạc vang lên lần nữa, khi ấy nhóm thứ ba gồm một số tinh linh rất nhỏ tiến vào vòng tròn, và các vị giám khảo tạo ra hình tư tưởng là ba trẻ nhỏ. Chúng là hình tiêu biểu của trẻ con người Anh khoảng 5 cho tới 7 tuổi, liến thoắng với nhau về câu chuyện thần tiên Cô bé Lọ Lem. Lập tức các tinh linh nhập cuộc với ba em nhỏ, tranh cãi ai sẽ đóng vai chính, khi việc này được giải quyết xong tôi để ý là các tinh linh đóng những vai mà trẻ con thường không thích chơi, chúng trở thành hai cô chị xấu xí và ông bố khó chịu, nhường vai cô bé Lọ Lem, bà tiên là mẹ đỡ đầu và hoàng tử lại cho các em nhỏ. Câu chuyện thần tiên được diễn ra một cách ngắn gọn, nhưng khúc mà bà tiên hóa phép ra chiếc xe ngựa và y phục của Lọ Lem biến đổi thì diễn ra rất thực, thực hơn bất cứ cái gì đã từng diễn ra ở cõi trần. Tôi tưởng tượng là lòng không ích kỷ mà tinh linh biểu lộ là điều làm cho chúng đậu hay rớt kỳ thi.

Sau một lúc nghỉ ngắn với nhạc vui tươi, tất cả thành viên của ba nhóm dự thi được gọi trở vào sân, thiên thần xướng thanh báo hiệu việc này với chiếc kèn bằng bạc của mình. Các giám khảo tụ lại quanh vị Chủ Lễ và vị Đạo Trưởng để họp với nhau như thể bàn bạc về điều họ vừa chứng kiến, và sau vài phút vị chánh chủ khảo đứng trước mặt vị Chủ Lễ, được ngài ưng thuận cho các tinh linh thăng chức vào hàng ngũ thiên thần.

Kế đó vị Đạo Trưởng đứng dậy, cúi chào vị Chủ Lễ và trịnh trọng đi ra sân nơi các tinh linh đang đứng. Đây là lần đầu tiên lời nói được dùng, vị Đạo Trưởng giơ hai tay lên khỏi đầu, khấn nguyện bằng ngôn ngữ lạ tai mà tôi đã nghe ở sân cỏ thuộc cảnh thứ ba. Thiên thần xướng thanh khi đó trao cho ngài một thanh kiếm lớn, lưỡi chiếu sáng chói trong ánh sáng trong trẻo của cõi trung giới. Nâng kiếm lên trời, ngài nói thêm đôi lời và chậm rãi đi về tinh linh đầu tiên đứng trong một hàng dài trước mặt. Vị này đặt thanh gươm lên đầu tinh linh đó và nói hai chữ dường như có nghĩa 'Thượng Đế phù hộ cho con' (tại sao tôi nghĩ như vậy thì tôi không biết). Trong lúc tôi ngắm nhìn, hình dáng của tinh linh khi ấy như là một ông lão nhỏ bé biến thành hình một cô gái trẻ. Chuyện y vậy cũng xảy ra cho tất cả những tinh linh tốt nghiệp. Vài tinh linh nam trở thành nam thiên thần trong khi những kẻ khác đổi phái tính. Tất cả những hình hài mới tạo đều có bề ngoài non trẻ.

Tôi sắp nói lời cám ơn vị Chủ Lễ đã cho chúng tôi cơ hội tuyệt diệu này thì bỗng nhiên tôi cảm biết cơ thể gọi về, và cảm thấy mình tỉnh dậy trên giường ở Colombo.

Sang tối THỨ BẨY khi ra khỏi thân xác, tôi thấy Jim, người cứu trợ ở cõi tình cảm mà tôi đã gặp ở bịnh viện tại London, đang chờ tôi. Anh tới để nhờ trợ giúp. Anh kể rằng anh rất thán phục cách tôi đối phó với trường hợp của cô gái tên Mary hồi tối ngày thứ năm, và nghĩ tôi có thể giúp nhiều hơn. Cô gái này nghe một người khách vô ý tứ khi đến thăm nói mẹ cô đã thiệt mạng trong trận dội bom, cô sầu não quá tới mức không ai an ủi được. Bởi cô còn một em gái nhỏ tên Irene mới 7 tuổi, nếu Mary cũng qua đời nữa thì quả là thảm kịch. Tôi rất mừng được cho cơ hội này để thực hành những gì vừa mới biết. Khi chúng tôi đến bịnh viện, tôi thấy cơ thể nóng sốt của Mary lăn lộn qua lại trên giường, còn chính cô thì đi tới đi lui trong khu, hai tay vò đầu như đang suy nghĩ nát óc.

Thấy tôi đến cô mừng rỡ và khi tôi dỗ dành an ủi, cô bình tĩnh lại. Tôi dùng tư tưởng tạo ra cái ghế salon thoải mái và trong lúc hai chúng tôi ngồi ở đó, tôi giúp cô theo những gì tôi biết được nhờ Acharya chỉ dạy trước đây. Tôi hướng dẫn câu chuyện về Irene, và vạch ra là đứa bé sẽ bị đau khổ rất nhiều nếu cả mẹ và chị cùng mất đi. Tôi nói chắc với Mary – với thẩm quyền mà tôi không có – là cô sống sót nếu có nỗ lực, và nếu chịu làm vậy cô vẫn có thể tiếp xúc được với mẹ cô trong lúc ngủ. Cô hỏi là tôi sẽ giúp cô chăng, tôi hứa sẽ làm như lời và thế là nhận phần nào trách nhiệm vào người. Tôi bảo sẽ trở lại vào tối hôm sau.

Sang tối CHỦ NHẬT, Mary ngồi chờ tôi và rất bình tĩnh. Tôi đề nghị đi thăm mẹ cô. Tôi chỉ cho cô thấy việc di chuyển dễ dàng ra sao ở cõi trung giới và chẳng mấy chốc, cách đi lại này làm cô thắc mắc cũng như thích thú. Cô dẫn tôi tới toà nhà nhiều căn là chỗ cô cư ngụ. Chúng tôi thấy Irene trong một căn nhà của hàng xóm, bên cạnh giường em là bà mẹ đang ngồi, tìm cách dỗ dành đứa trẻ khóc nức nở không thể thấy được bà. Mới đầu bà mẹ thảng thốt tưởng Mary cũng đã thiệt mạng, nhưng khi bà ý thức là chuyện không phải như thế và cô có thể săn sóc cho Irene, bà bình tĩnh trở lại. Tôi để ba mẹ con nói chuyện và sau khi dàn xếp để có thể gặp lại về sau này, tôi quay trở lại bệnh viện. Tôi nhìn Jim và những bạn đồng sự của anh làm việc, ghi nhớ cách thức của họ.

Khi Mary, mẹ cô và Irene đi vào, tôi dành trọn buổi tối ráng giúp họ theo cách mà Acharya đã giúp tôi. Bà mẹ là người chưa tiến hoá lắm, tôi nghe một người cứu trợ cõi trung giới nói là phải mất hai ngày mới thuyết phục được bà dùng ý chí tách mình ra khỏi thể sinh lực. Cuối cùng có vẻ như bà hiểu rằng dây ràng buộc với gia đình không bị cắt đứt, và bà vẫn có thể gặp các con vào buổi tối. Điều này làm bà vui vẻ nhiều hơn. Tôi nghĩ bà sẽ hài lòng trong một thời gian với cuộc sống ở cảnh thứ nhất. Chuyện chót tôi làm trước khi quay về thể xác, là dùng quyền năng ý chí mà tôi có để gây ấn tượng cho Irene rằng khi thức dậy, em phải nhớ đôi điều về những gì được chỉ dẫn trong khi ngủ.

còn tiếp
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
[-] The following 1 user Likes Lục Tuyết Kỳ's post:
  • TanThu
Reply


Messages In This Thread
RE: Hành Trình Của Một Linh Hồn - by JayM - 2024-06-08, 10:21 PM
RE: Hành Trình Của Một Linh Hồn - by Lục Tuyết Kỳ - 2024-06-13, 11:00 AM