2022-03-28, 03:34 PM
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
27. Kinh Khởi thế nhân bổn
(Agganna sutta)
--ooOoo--
27. KINH KHỞI THẾ NHÂN BỔN
128. TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO ĐỨC PHẬT GIẢNG KINH KHỞI THẾ NHÂN BỔN?
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại nước Xá-Vệ (Savatthi), nơi giảng-đường Lộc-Mẫu (Migàtamàtu) trong vườn Thành-Tín viên-lâm (Pubhàràma). Lúc bấy giờ vào buổi chiều, sau khi thiền-tịnh, Thế-Tôn đang đi đến giảng-đường, thì có hai tân Tỳ-kheo là Vàsettha (Bà-tất-tra) và Bhàradvàja (Bà-la-đoạ) đến thưa-thỉnh.
Nhơn nói về các Bà-la-môn tự-hào cho rằng giai-cấp của họ là cao-qúi nhứt, sanh ra từ cửa miệng của đấng Phạm-Thiên và chê-bai các giai-cấp khác sanh ra từ bàn chơn của vị nầy, đức Phật mới thuyết Kinh Khởi Thế Nhân Bổn để giảng rõ sự chuyển-thành của thế-giới nầy từ lúc sơ-nguyên cho tới khi phân-chia ra thành các giai-cấp trong xã-hội. Ngài nói: ''Trong bốn giai-cấp, vị Tỳ-kheo là bậc A-la-hán, lậu-hoặc đã diệt-tận, đạt tới chánh-trí giải-thoát. Vị ấy được gọi là tối-thượng trong tất cả giai-cấp.''
129. NỘI-DUNG KINH KHỞI THẾ NHÂN BỔN.
A.- Ý Chánh: Các hữu-tình từ cõi Quang-Âm thiên đến thế-giới nầy, lần lần bị các ác-pháp làm ô-nhiễm, phân ra bốn giai-cấp. Trái với quan-niệm tự-tôn của giai-cấp Bà-la-môn, chỉ có các bực Sa-môn đắc quả A-la-hán mới là tối-thượng.
B.- Phân đoạn: Kinh có thể chia ra ba phần:
1. Phần I: Bà-la-môn chỉ trích việc Vàsettha đi tu:
- Thế-Tôn hỏi Vàsettha, vốn thuộc gia-tộc Bà-la-môn xuất-gia, đã bị các Bà-la-môn chỉ-trích việc đi tu theo giai-cấp Sa-môn như thế nào?
- Vàsettha nói quan-niệm tự-tôn về giai-cấp của Bà-la-môn cho rằng họ sanh từ cửa miệng đấng Phạm-Thiên, còn các giai-cấp khác sanh từ bàn chơn vị nầy.
- Đức Phật bảo, Bà-la-môn do thai-sanh, sao lại bảo là sanh ra từ cửa miệng của Phạm-Thiên;
- Trong bốn giai-cấp: Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phệ-xá và Thủ-đà-la, giai-cấp nào cũng có người thiện, kẻ ác; chỉ có vị Tỳ-kheo đắc A-la-hán mới là tối-thượng.
- Vua Ba-tư-nặc kính-trọng Như-Lai, đó là vì vua biết kính-trọng Pháp tối-thượng.
2. Phần II: Thế-giới nầy ở giai-đoạn chuyển-thành:
- Có nhiều chúng-sanh hữu-tình từ cõi Quang-Âm-thiên thác-sanh qua thế-giới nầy. Họ tự có hào-quang, nuôi sống bằng hỷ, phi hành trên không;
- Sau nhiều ngàn năm, loài hữu-tình đó nếm vị đất thấy ngon, ăn vào, từ đó ánh hào-quang của họ bị mất đi, và mặt trời hiện ra, có ngày đêm và thời-tiết;
- Sau nhiều ngàn năm, hương vị đất biến mất, có nấm đất nổi lên, rồi lần-lượt các loại cây leo, sau đến các loại lúa. Vì nuôi sống bằng các chất đó, thân-thể họ trở nên cứng-rắn, sắc đẹp có sai-biệt nhau, có nam-tánh, nữ-tánh rồi sanh ra các hạnh dâm.
- Lần lần các ác-pháp xuất-hiện: tích-trữ thực-phẩm, trộm cắp và tranh-đấu bằng gậy, đá...
Có nhiều hữu-tình họp nhau lại, chọn người đứng-đắn, được tôn-trọng nhứt, để ủy-nhiệm ra cầm đầu họ. Do đó xuất-hiện các danh-từ Mahà-Sammato (Mahà= lớn; sammato=ủy-nhiệm), Khattiya (Sát-đế-lợi= chủ ruộng vườn) Ràja (Vua= bực làm cho người khác hoan-hỉ với Pháp). Từ đó danh-từ Khattiya, Sát-đế-lợi, trở thành giai-cấp cao nhứt trong xã-hội xưa.
- Có nhiều hữu-tình loại-bỏ các ác-pháp, cất chòi lá trong rừng để tu thiền. Họ được gọi là Bà-la-môn (Bràhmana) và danh-từ Jhàyakà, tu Thiền, xuất hiện. Có người trong hạng nầy không tu Thiền, đi xuống thị-xã để làm sách (ghi thành các tập Kinh Vệ-đà). Từ đó danh-từ Bràhmana, Bà-la-môn, trở thành giai-cấp thứ hai trong xã-hội, hoặc họ tu Thiền, hoặc họ phúng-tụng Kinh-sách Vệ-đà.
- Một số hữu-tình làm các nghề-nghiệp khác như săn bắn hoặc các nghề hèn-mọn. Do đó hai danh-từ Vessà (Phệ-xá= các nghề sai-khác) và Suddà (Thủ-đà-la =các nghề hèn-mọn) trở thành hai giai-cấp thấp nhứt trong xã hội xưa.
3. Phần III: Các vị xuất-gia làm Sa-môn:
- Trong bốn giai-cấp: Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà-la, giai-cấp nào cũng có người từ bỏ gia-đình, xuất-gia làm Sa-môn;
- Họ theo Chánh-Pháp tu-tập, giữ gìn chánh-hạnh, khi chết được sanh lên cõi Trời.
- Trong bốn giai-cấp nầy, có vị Tỳ-kheo tu-tập Bảy Giác-chi, diệt-trừ hoàn-toàn các ác-pháp, ngay trong cõi đời nầy, chứng quả-vi A-la-hán, được gọi là tối-thượng trong tất cả các giai-cấp.
Đức Phật kết thúc bài Kinh bằng cách đọc lên bài Kệ được vua Trời Đại-Phạm tuyên-thuyết:
Chúng-sanh tin giai-cấp
Sát-đế-lợi tối-thắng.
Ai đủ cả Trí, Đức,
Tối-thắng giữa Nhơn, Thiên.
130. TRÍCH-ĐOẠN: THẾ-GIỚI TỪ SƠ-NGUYÊN ĐẾN KHI PHÂN-CHIA THÀNH CÁC GIAI-CẤP.
... Nầy Vàsettha, các loại hữu-tình ấy hội-họp lại và than phiền: Nầy các bạn, các ác-pháp đã hiện ra giữa các loài hữu-tình. Chúng ta trước kia (từ cõi Quang-âm-thiên đến đây) do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào-quang, phi-hành trên hư-không, sống trong sự quang-vinh và sống như vậy trong một thời-gian khá dài... Sau (đó) vị của đất hiện ra, ... có sắc, có hương và có vị. Chúng ta bắt đầu bẻ đất từng cục bằng tay để ăn. Vì bẻ đất bằng tay từng cục để ăn, nên hào-quang biến mất; ... mặt trời, mặt trăng hiện ra, các chùm sao hiện ra..., nên ngày, đêm hiện ra, ... nên thời-tiết và năm hiện ra. Chúng ta thưởng-thức vị đất, lấy đất làm món ăn trong một thời-gian khá dài. Khi các ác-pháp khởi lên giữa chúng ta, vị đất biến mất, nấm đất hiện ra. Nấm đất nầy có sắc, có hương, có vị. Chúng ta bắt đầu thưởng-thức nấm đất ấy,... trong một thời-gian khá dài. Vì các ác-pháp khởi lên giữa chúng ta nên nấm đất biến mất;... có cây leo hiện ra, ... biến mất nên lúa mọc tại khoảng trống hiện ra, không có cám, không có vỏ, có mùi thơm và hột trơn nhẵn... những hữu-tình ấy... lấy lúa làm chất ăn, trong một thời-gian khá dài, ... thân-hình họ trở nên cứng-rắn hơn và sắc đẹp của họ lại càng sai-biệt. Về phái nữ, nữ-tánh xuất hiện, về phái nam, nam-tánh xuất hiện... Do sự kuyến-ái, họ làm các hạnh dâm...
... Có vị hữu-tình bản-tánh biếng-nhác, giữ gìn phần của mình, đánh cắp phần của người khác, và thưởng-thức phần ấy. Người ta bắt người ấy, quở-trách ... đập anh ta bằng tay, ... bằng đá, bằng gậy. Nầy Vàsettha, bắt đầu như vậy, lấy của không cho xuất hiện, quở trách xuất hiện, nói láo xuất-hiện, hình-phạt đập đánh xuất hiện...
... Nầy Vàsettha, các loại hữu-tình ấy hội-họp lại (và bàn-tính): Chúng ta hãy đề-cử một người có sắc đẹp nhứt, được ái-mộ nhứt, (đứng ra) khiển-trách khi đáng khiển-trách, hay tẩn-xuất khi đáng tẩn-xuất. Chúng ta sẽ dành cho Người một phần lúa của chúng ta... Do đó người được lựa chọn là Mahà-sammato, bực đại-diện được ủy-nhiệm và danh-từ Khattiya, Sát-đế-lợi, (chủ ruộng vườn) được khởi lên. (Sau đó), có các vị cất chòi trong rừng để tu Thiền..., đó là các Bràhmana, Bà-la-môn, và danh-từ nầy khởi lên từ đó. (Về sau nữa) các hữu-tình chọn các nghề-nghiệp khác, nên danh-từ Vessà, Phệ-xá, xuất-hiện; và các người làm nghề hạ-tiện nên danh-từ, Suddà, Thủ-đà-la được xuất-hiện... Trong bốn giai-cấp nầy, chỉ có các vị Tỳ-kheo tu-tập theo Pháp, sống chế-ngự thân, miệng, ý, tu-tập Bảy Giác-chi, đắc quả A-la-hán, diệt-tận các lậu-hoặc, nên được gọi là tối-thượng trong tất cả giai-cấp ...
131. HỌC KINH KHỞI THẾ NHÂN BỔN NÊN CHÚ-Ý ĐẾN ĐIỂM NÀO?
1. Cũng như Kinh Ba-Lê, (kinh số 23 trong Trường-Bộ Kinh), Kinh Khởi-Thế Nhân Bổn bàn về thời-kỳ sơ-nguyên của thế-giới nầy, nhưng chú-trọng nhiều hơn đến lối sinh-hoạt và sự phân-chia giai-cấp của các chúng-sanh. Đây là bản Kinh quan-trọng, được xem như là bản trần-thuyết chánh-thức của đức Phật về nguồn-gốc của thế-giới nầy. Tuy nhiên, như đức Phật thường nhắc đi nhắc lại, Ngài biết các tri-kiến nầy và nói ra cho các vị Tỳ-kheo để biết mà thôi, chớ Ngài không hề chấp-trước vào các tri-kiến ấy; và nhờ chẳng chấp-trước nên tâm Ngài mới được hoàn-toàn an-tịnh.
2. Kinh nầy nhằm đả-phá quan-niệm tự-tôn của giai-cấp Bà-la-môn, nghĩ sằng rằng họ từ cửa miệng đấng Đại-Phạm Thiên sanh ra, còn các giai-cấp khác sanh từ nơi bàn chơn của vị ấy. Sao họ lại chẳng biết sự thai-sanh của loài người, từ bụng mẹ sanh ra?
3. Điểm son chói-lọi nhứt trong lịch-sử nhơn-loại là Phật-giáo đã đi tiền-phong trong vấn-đề xoá bỏ giai-cấp xã-hội. Trong Giáo-hội của đức Phật, vị đệ-tử thọ-giới Tỳ-kheo trước được coi cao hơn kẻ thọ-giới sau. Trong hàng đệ-tử, có đủ bốn hạng giai-cấp, như các vị hoàng-tử vừa mới xuất-gia vẫn phải kính-lễ người thợ cạo cũ của họ đã thọ-giới Tỳ-kheo trước họ.
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong-tn3.htm
--ooOoo--
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Khởi Thế Nhân Bổn (1-2)
Kinh Khởi Thế Nhân Bổn
Quote:Kalama tri ân bạn- loantrinhtp & buithibuukim ghi chép.23/02/2022 - 02:00 - loantrinhtp
Sáng nay chúng ta học tiếp bài kinh Khởi Thế Nhân Bổn. Có đôi điều phải nói sơ qua trước khi đi vào nội dung bài kinh, tức là từ góc nhìn của cái người sinh trưởng trong thời đại khoa học, liếc mắt qua cái nội dung bài kinh này ở Chánh văn thì có đôi điều, đôi chỗ chúng ta có thể khó mà hình dung, khó mà chấp nhận, chẳng hạn như nói về cái buổi đầu sáng thế, tức là buổi đầu hình thành cái gọi là thế giới này. Nhiều lần chúng tôi đã có nói qua cái cosmology tức là vũ trụ quan của Phật giáo Nguyên thủy nó không có giống với Bà la môn giáo, cũng không giống với Cơ đốc giáo, không giống với nhiều cái tôn giáo khác.
Ở đây chúng tôi đã có nhiều lần nói là cái trái đất của mình nó chỉ là một cái hạt lựu trong cái trái lựu gồm nhiều hạt, và có vô lượng cái trái lựu như vậy. Vô lượng có nghĩa là đếm không xiết đếm không xuể, không có thể kể ra cái số lượng vũ trụ bằng con số mà mình có thể hình dung nhe. Cho nên khái niệm đầu tiên là cái hành tinh của mình nó chỉ là một hạt lựu trong trái lựu và có vô lượng trái lựu như vậy. Và mỗi trái lựu như vậy nó trải qua 4 giai đoạn thành-trụ-hoại-không. Nói nôm na là giai đoạn hình thành của nó rồi giai đoạn phôi kết của nó (buổi đầu đó), rồi sau đó bắt đầu có mặt trời mặt trăng, các vì sao và hôm nay chúng ta biết ánh sáng của các vì sao thực ra nó là phản quang của mặt trời, kể cả mặt trăng cũng vậy, cái mà mình thấy ánh sáng ở các thiên thể đó chỉ là cái ánh sáng mặt trời và cái ánh sáng đó muốn tới được trái đất của mình phải trải qua thời gian rất là dài mặc dù tốc độ ánh sáng rất là nhanh, nó tới 300.000km/s nhe. Cho nên khi mà nói rằng có sự xuất hiện của mặt trời, mặt trăng, của các tinh tú, các vì sao thì mình phải hiểu ngầm với một cái sự kết hợp như vậy đó.
Mỗi một cái trái lựu, tức mỗi một cái hành tinh như chúng ta đang sống ở đây nè thì nó cũng có một cái buổi đầu hình thành, hình thành như các vị biết thấy trong Chánh kinh, tức là mỗi một lần cái hành tinh của mình nó có mặt là nó phải trải qua những cái giai đoạn do duyên nghiệp của chúng sinh cộng với nguyên tắc vận hành của vũ trụ, của pháp hữu vi nói chung.
Tôi không gọi hành tinh mà gọi là trái lựu á, mỗi trái lựu như vậy nó có cái buổi bắt đầu, bắt đầu đây không hiểu theo nghĩa thế gian được, bắt đầu là sự hình thành một cái mới và trước đó, ở cái không gian trước đó nó đã có một cái khác và cái đó nó bị hoại đi, hoại bằng cách là nó bị lửa cháy hoặc nước làm cho tan rã hoặc gió làm cho băng hoại nhe. Cứ 7 lần hoại bằng lửa thì có một lần hoại bằng nước, 7 lần hoại bằng nước thì có một lần hoại bằng gió. Hoại bằng lửa có nghĩa là tự nhiên xuất hiện mặt trời thứ 2, 3, 4, 5, 6, 7 và với nhiệt độ của 7 mặt trời cùng lúc nung nấu thì chẳng những hành tinh này mà suốt toàn bộ những cõi Dục thiên lên tới cõi Sơ thiền nó đều cháy rụi hết. Còn hoại bằng nước nó lên tới cõi Nhị thiền. Hoại bằng gió nó lên tới hết cõi Tam thiền. Đây là những khái niệm trong kinh quý vị học cho biết, có thể thấy trong Chánh văn nhe.
Sau khi nó hoại rồi thì cái chỗ trống, cái chỗ mà trước đây nó là hành tinh đó thì nó chỉ còn là một khoảng không tăm tăm mù mù, cái khoảng không đó nó kéo dài một thời gian rất là dài, thời gian đó được gọi là không kiếp, thành-trụ-hoại-không thì cái không đó nó kéo dài một thời gian dài tương đương với cái thời gian mà nó hình thành trái đất mới thế giới mới. Nó hình thành bằng cách nào? Tức là có một trận mưa lớn, trận mưa lớn đó nó tự nhiên xuất hiện và bao nhiêu nước nó dồn lại một chỗ hình thành nên một khối lơ lửng đen ngòm và hoàn toàn trong bóng tối. Thì khối nước này mỗi lúc theo thời gian nó cô đặc lại, nó đông cứng lại, dần dần nó thành ra là trái đất, lúc đó mọi thứ vẫn là mịt mù, trước khi mà trái đất hoại á thì những chúng sinh trên hành tinh này nè họ tự nhiên theo cái quy luật họ tu tập. Có một số khá đông họ tu tập thiền định họ sinh về cái cõi Quang âm thiên, một cái tầng Phạm thiên nằm ngoài sức hủy hoại của lửa, phần còn lại những chúng sinh nào không thể sanh về cõi Phạm thiên thì họ chuyển qua một cái vũ trụ khác, chuyển qua một cái vũ trụ khác, chuyển qua một cái vũ trụ khác… rồi cứ như vậy mà vần xoay đi từ nơi này sang nơi khác.
10/03/2022 - 03:28 - loantrinhtp
Còn những chúng sanh nào sanh về cõi Quang âm thiên sau một thời gian họ mới sanh trở xuống làm nhân loại, trong hình hài của nhân loại họ có hào quang. Và họ xuất hiện bằng cách nào? Không có phải do cha sanh mẹ tạo mà là tự nhiên xuất hiện, trong Kinh gọi là Hóa sinh. Có nghĩa là tiên tổ của nhân loại buổi đầu xuất hiện trên trái đất này bằng hình thức tự xuất hiện, tiếng Pali gọi là Opapātika, có nghĩa là Hóa sinh, họ có hào quang và họ di chuyển bằng thần thông, thần thông này không phải do thiền định mà thần thông này do phước nghiệp, tiếng Pali gọi là (kammavipākajā iddhi) có nghĩa là thần thông do nghiệp sinh. Giống như là thần thông của Ngạ quỷ, Atula, Càn Thác Bà những cái hạng đó họ có thần thông, thần thông đó không phải do thiền định mà là do cái phước nghiệp sanh vào chủng loại đó tự nhiên họ có những khả năng đó, đi xuyên tường, xuyên đất, độn thổ, lặn nước, bay chỗ này chỗ kia như ý… thì cái phần Chánh văn các vị thấy rồi.
Từ chỗ sống bằng niềm hoan hỷ của tự tâm dần dần họ tình cờ họ ăn, họ nếm lại cái đất, đất lúc mới hình thành nó có vị ngon, nếm rồi từ đó họ có cái lòng tham đắm và hào quang nó mất đi, từ cái hào quang nó mất đi nó có mặt trời, mặt trăng bla bla bla…
Đó là cái đại khái, một lát nữa tôi sẽ quay lại cái này nhe. Còn bây giờ thì tôi quay lại Chánh kinh. Chánh kinh kể rằng một thời Thế Tôn ở tại ngôi chùa tên là chùa Đông Phương, mà chùa này là của bà Visākha, bà Visākha là một đại thí chủ tín nữ, giống như ông Cấp Cô Độc đại thí chủ bên nam giới vậy đó, tức là bên thiện nam có ông Cấp Cô Độc đệ nhất đàn tín, thì bên tín nữ thì có bà Visākha là đệ nhất đàn tín. Cách đây 100 nghìn đại kiếp bà cũng đã từng quỳ dưới chân một Đức Phật và bà nguyện trở thành một vị đại thí chủ cho một Đức Phật nào đó trong tương lai và do cái phước nghiệp đó sau nhiều đời sanh tử cuối cùng mới đến đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì nàng sanh lại làm một tiểu thư trong một gia đình rất là giàu có, giàu ghê lắm, ông ngoại của Visākha coi như là giàu có muôn hộ, tính theo cái thời đó đó như vậy là tỷ phú đó, tức là không thể giàu hơn nữa, giàu lắm.
Hồi nhỏ lúc 7 tuổi nàng đi chùa nàng nghe Pháp rồi nàng đắc Tu đà quờn, lúc đó mới 7 tuổi à. Rồi tới hồi lớn lên đi lấy chồng, lấy cậu công tử tên là Puṇṇakavaddhana có nghĩa là Phước Trí. Trong Kinh nói nàng mạnh lắm, cái sức mạnh của nàng bằng 5 con voi và tuy mạnh như vậy nhưng mà nàng không có cái cơ bắp giống như vận động viên, vẫn tiếp tục mảnh mai, người dong dẩy thon gọn chứ không phải cơ bắp trùng trục như nam giới mặc dù nàng rất là mạnh. Thì trong Kinh nói nàng mạnh đến mức mà ví dụ như là nàng có có thể dùng sức mạnh của mình chặn đứng một con voi đang chạy tới, chiều cao nàng không bằng nhưng cái sức á, nàng có thể lấy ngón tay nàng chận cái trán con voi làm cho nó chết tại chỗ, cái sức mạnh như vậy đó. Đây cũng là cái chuyện đọc cho biết vậy thôi chứ còn tui không có ý kiến về cái này nhe.
Và đặc biệt là nàng có một cái ngoại diện rất là đẹp, tóc đẹp, da đẹp, răng đẹp rồi cơ thể đầy đặn đúng chỗ, có nghĩa là chỗ nào cần thẳng thì thẳng, cần cong thì cong chỗ nào cần lõm thì lõm chỗ nào cần nhô thì nhô, đại khái như vậy, tôi kể kỹ như vậy vì chính vì trong Kinh nói như vậy. Thật đẹp, có nghĩa chỗ nào cần đầy chỗ nào cần khuyết thì nó được phân bố hợp lý. Da đẹp, da của nàng không ai bì được hết. Răng đẹp, tóc đẹp, tứ chi đều đẹp cho nên nàng được đặt cái tên là Visākha. Vi ở đây có nghĩa là visesa là đặc biệt-special, còn sakha ở đây có nghĩa là tay chân tứ chi nói chung tay chân đầu đều đẹp hết gọi chung 4 cái đó lại, hai tay hai chân đầu gọi là sakha nhe. Vì cả 5 cái đều đẹp hết cho nên gọi là Visākha. Visākha có nghĩa là kiều diễm hay là tuyệt mỹ, hay là thiên kiều hay là … chữ Visākha nó có nghĩa là vậy đó. Thì nàng lớn lên nàng đi lấy chồng, có một lần đó… tại vì nàng đã đắc Tu đà quờn lúc 7 tuổi rồi cứ vậy thỉnh thoảng đi chùa, rồi đi lấy chồng thì đi vào làm dâu trong một gia đình không có đức tin Phật pháp, chuyện dài lắm tôi chỉ kể vắn tắt thôi, và nàng đã tìm đủ cách để mà đưa ông cha chồng vào đạo và ông cha chồng ổng tên là Migāra, ổng thương ổng quý nàng, ổng mang ơn nàng đã giúp ổng trở về với Chánh pháp cho nên ổng gọi nàng là mẹ, ổng nói rằng trong cái quan hệ xã hội thì con là con dâu của bố nhưng trong đời sống tinh thần thì bố coi con giống như người mẹ tái tạo ra bố, cho nên bố có thể xem con như người mẹ vậy đó, từ đó nàng Visākha có một cái ngoại hiệu là (Migāramātā) Migāradhatu có nghĩa là má hay mẹ của ông Migāra.
Rồi có lần nàng đi chùa rồi cái nàng đem theo một cái áo, người nàng khoác một cái áo được kết toàn bằng bảo châu mà quý không, bảo thạch ngọc quý, thì cái áo đó nặng lắm, trong Chú giải có kể rõ kim cương nặng bao nhiêu, ngọc trai nặng bao nhiêu, mã não, hổ phách bla bla bla… nặng bao nhiêu, bao nhiêu, cái áo nặng lắm, chỉ có một mình nàng có thể khoác được cái áo đó, trùm từ trên đầu trùm cho tới cái mu bàn chân, bà con có biết cái mu bàn chân? Bàn chân mình nó có cái lưng của nó đó gọi là cái mu bàn chân nhe. Tiếng Pali gọi là pādapiṭṭhiya, piṭṭhi là cái lưng, pada là cái chân, pādapiṭṭhi có nghĩa là cái mu bàn chân, từ ở trên đầu trùm xuống tới dưới, cái áo nặng lắm, rồi khi nàng khoác cái áo đó vào đến chùa nàng nghĩ rằng trước mặt Thế Tôn và chư Thánh Tăng mà mình mặc cái áo có vẻ se sua thế này nó không có hợp đạo, cho nên nàng mới tháo cái áo ra nàng đưa cho cô hầu giữ rồi nàng ăn mặc đơn giản vào lạy Phật, nghe Pháp, đảnh lễ Chư Tăng, cúng dường bla bla… Xong rồi thì nàng mới đi về, lúc đi về ra khỏi chùa rồi nàng mới nhớ cái áo mới kêu cái cô hầu hỏi cô hầu cái áo đâu rồi, cô hầu mới nói chết rồi, em bỏ quên cái áo trong chùa rồi, thì nàng mới nói nàng hầu thế này: Nếu em trở vào mà em thấy cái áo nó nằm ở chỗ nào đó thì mình lấy, nhưng nếu mà Chư Tăng đã chạm tới, Chư Tăng đã lấy cái áo đó đem cất dùm thì chị không có mặc cái áo đó được nữa mà cái áo đó Chư Tăng đã chạm tay vô thì chị cúng luôn. Đó là Kinh nói, bởi vì nàng đã là một vị Tu đà quờn, kể cho bà con nghe chuyện này không hề có cái ý xúi bà con làm như vậy, mai mốt bỏ quên đồ trong chùa rồi mấy sư đem cất dùm cái mình cúng luôn, tui cái vụ này hông có xúi nhe. Ví dụ như quý vị cúng một cái túi LV, Gucci mấy ông sư lấy mấy cái đó làm cái gì nhe. Cho nên là cái cô hầu cổ quay vô thì thấy mất áo, thì gặp Ngài Anan, Ngài Anan hỏi: Có phải trở lại lấy cái áo hay không? Bả nói phải, cô chủ kêu con vô lấy cái áo - Cái áo ta cất dùm rồi (cái đồ quý mà hổng có để tùm lum). Ngài mới đưa cho cổ cái áo thì cổ mới đem về đưa cho Visākha, cổ nói là Ngài Anan đã giữ như vậy, thì cổ nói không được rồi, cái áo này chị phải làm phước luôn, bây giờ Chư Tăng làm sao mà nhận cái này được, thế là bả mới phát mãi, có nghĩa là bả đem bán đấu giá cái áo đó, bán cái áo đó được 9 triệu đồng vàng, kinh khủng chưa, 9 triệu đồng vàng, nàng mới lấy cái số tiền đó nàng cất cái chùa, một cái chùa rất là lớn, theo như trong đây kể đó hả chỉ riêng cái dãy lầu, tầng trệt là 500 phòng, cái tầng trên 500 phòng tổng cộng lại là 1.000 phòng, rồi chưa kể là trong đó có đủ thứ hết. Trong chùa đó bên cạnh cái dãy lầu này nàng còn cất bao nhiêu là cái công trình khác, gọi theo cái từ của mình bây giờ là cái building, là cứ 500 cái này 500 cái kia 500 cái nọ bla bla… nguyên một cái miếng đất mà Đông Phương Tự nó lớn đến mức mà coi như là phải mất 4 tháng mới đi hết cái chùa đó, nhớ nhe, nhớ cái đó, nếu mà đi hết từng phòng á thì phải mất 4 tháng, cái chùa Đông Phương của Visākha đó. Còn riêng cái chùa Kỳ Viên của ông Cấp Cô Độc nếu mà đi hết các phòng phải mất tới 9 tháng, nhe.
Mà hôm nay chúng ta về Ấn Độ chúng ta vô chùa Kỳ Viên chúng ta thấy một mảnh đất nhỏ xíu, điều đó cho thấy 2 chuyện: thứ nhất là miếng đất nguyên thủy nó to hơn miếng đất bây giờ rất là nhiều, bây giờ người ta chỉ thu gọn trong một miếng nhỏ thôi, tức là họ thấy chỗ nào nó còn có cái tàn tích kiến trúc thì người ta gom gọn cái đó để mà cho du khách tham quan chứ thật ra miếng đất nguyên thủy của chùa Kỳ Viên nó lớn lắm, bởi vì trong đây nói đi 9 tháng mới hết cái chùa Kỳ Viên, hết các phòng á. Đông Phương của Visākha đó là phải mất tới 4 tháng mới đi hết các phòng, còn chùa Kỳ Viên thì phải mất 9 tháng mới đi hết các phòng. Các vị có thể không tin thì tôi nói luôn là cái Tử Cấm Thành của Trung Quốc á nó có tới 9.999 phòng, các vị tưởng lấy con số 9.999 các vị chia cho 365 các vị coi coi nó mất bao nhiêu năm, hình như khoảng 20-21 năm gì đó, riêng cái Tử Cấm Thành, nhiều lắm. Còn ở đây mỗi ngày một phòng 9 tháng mới hết, chùa lớn lắm. Rồi chuyện kể tới đó thôi.
20/03/2022 - 07:27 - buithibuukim
20:38
Chánh Kinh ghi: một thời Thế Tôn ở ngôi chùa Pubbarama, ngôi lầu Migara (lầu có 1.000 phòng). Lúc bấy giờ Vasettha và Bharadvaja sống giữa các tỳ kheo và muốn trở thành tỳ kheo. Hai vị này là ai? – Chú giải nói hai vị này là hai vị Bà la môn còn rất nhỏ tuổi, chưa được 20 tuổi, cho nên không được thọ giới Tỳ kheo mà phải thọ giới sa di. Chánh Kinh không nói chuyện này.
Trong Đạo mình có ba trường hợp không phải là tỳ kheo nhưng được sống chung giữa các tỳ kheo:
1- Titthiyaparivasam: mình là ngoại đạo mà trong thời gian tập sự tu theo Phật giáo.
2- Apattiparivasam: là tỳ kheo phạm trọng giới đang trong thời gian phục hồi giới phẩm, trong lúc đó không còn là tỳ kheo 100% nhưng vẫn còn được phép sống bên cạnh các tỳ kheo.
3- Aparipunnavassatta: là mình chưa đủ tuổi thọ giới tỳ kheo nhưng mình phải là Sa di. Trường hợp này vẫn được sống bên cạnh tỳ kheo.
Hai vị Sa di này xuất thân từ gia đình thế gia vọng tộc, giàu có muôn hộ (mỗi người có 400 triệu đồng vàng). Họ đều tinh thông Tam Vệ Đà, và trở thành Phật tử lúc nghe được bài Kinh Vasattha (trong Trung bộ Kinh, bài 98). Sau đó họ nghe bài Kinh Tam Minh (của Trường bộ Kinh, bài 13) thì họ quyết định đi xuất gia luôn.
Buổi chiều nay khi họ nhìn thấy Thế Tôn từ trên lầu bước xuống đi kinh hành trong bóng mát tòa lầu thì họ đi theo sau lưng Ngài. Thấy vậy, Ngài hỏi: "Các ngươi xuất thân từ Bà la môn rồi đi tu như vầy có bị người ta nói gì hay không?" Họ nói: "Dạ có, họ chửi tụi con dữ lắm, họ chửi thế này thế kia bla bla bla …Họ nói dòng dõi Bà la môn cao quý mà bây giờ tụi con bỏ sáng mà về tối, bỏ cao mà về thấp. Họ bảo tụi con không chịu theo Tam Vệ Đà mà đi theo Thế Tôn rồi đầu cạo trọc lóc, ôm bát ăn xin, bla bla bla. …"
Đức Phật mới nói rằng thật ra giai cấp là khái niệm sai lầm. Làm gì có chuyện giai cấp nào cao hơn giai cấp nào. Giá trị thật sự của con người không nằm ở chỗ xuất thân.
Chỗ này mình mượn bên Tăng Chi Bộ một chút: Đức Phật ngài dạy ngọn lửa được đốt lên từ loại gỗ nào thì lửa cũng là lửa. Một người dầu có xuất thân thế nào nhưng khi biết được Chánh Pháp, tu học hành trì đàng hoàng, thì chính đời sống Đạo nghiệp tâm linh đó là ngọn lửa. Còn xuất thân của họ không quan trọng bằng Đạo nghiệp họ có được. Cũng giống như lửa được nhen lên từ loại gỗ nào thì gỗ đó không quan trọng, lửa nào cũng nóng giống nhau. Quan trọng là có lửa hay không. Đó là trong Tăng Chi.
Trở lại bài Kinh này, Đức Phật ngài dạy giá trị mỗi cá nhân nằm ở Chánh Pháp mà người đó sở hữu được, hành trì được, hàm dưỡng được chớ không phải là xuất thân của người đó. Ngài nói giống như vua Pasenadi cũng dòng vua như Thế Tôn, cũng là người chủ quản một quốc độ như Thế Tôn trước khi xuất gia. Nhưng sở dĩ vua Pasenadi đối với Thế Tôn có một lòng kính tin tuyệt đối là bởi vì vua nghĩ đến giá trị Chánh Pháp. Vua nghĩ đến việc Thế Tôn thành tựu những Pháp tánh, những hạnh lành mà vua không có được. Thế là vua có một niềm kính tin Thế Tôn khó ngờ.
Trong Tương Ưng kể rằng một ngày vua đến thăm Phật trung bình 5 lần. Có nhiều lần vua thương Thế Tôn, kính Thế Tôn đến mức vua quỳ xuống, vua lấy cái môi của mình mà hôn lên bàn chân Thế Tôn với tất cả niềm thương kính vô bờ. Một ông vua mà đi lạy một ông vua khác mà bây giờ lại hết là vua rồi thì quý vị nghĩ coi nó lạ cỡ nào. Phải nói rằng dòng Thích Ca là một bộ tộc nhỏ. Cũng là một vương quốc nhưng nhỏ so với xứ Kosala của vua Pasenadi. Trong 16 xứ của Ấn Độ đương thời thì Kosala là xứ giàu nhứt, mạnh nhứt về kinh tế, chính trị, quân sự. Ấy vậy mà vị quốc vương Kosala, vua Pasenadi, đối với Thế Tôn một niềm kính tin như vậy đó.
Nên Đức Phật ngài dạy rằng giá trị mỗi con người nằm ở Chánh Pháp chớ không phải xuất thân. Ngài xác định với hai vị Sa di như vậy xong Ngài nói thêm: Bà La Môn cho rằng giai cấp vua chúa được sanh ra từ ngực của Phạm thiên, giai cấp Bà la môn được sanh ra từ miệng của Phạm thiên. Giai cấp thương gia được sanh ra từ đầu gối, giai cấp tiện dân được sanh ra từ bàn chân Phạm thiên. Ngài nói quan điểm này là sai. Vì các ngươi cũng thấy rõ rồi. Thấy rằng các nữ Bà La Môn cũng đi lấy chồng, cũng gần gũi đàn ông, có mang rồi sanh con. Gia cấp nào cũng do cha sanh mẹ đẻ chớ đâu từ Phạm thiên tạo ra.
Rồi nhân từ chỗ nói về giai cấp, Ngài mới nói nguồn gốc từ đâu mà có khái niệm giai cấp. Ngài kể chuyện hình thành thế giới, từ buổi đầu sáng thế mọi sự nó ra sao. Và tôi xin nhắc lại lần nữa chữ ‘sáng thế’ đây là sự bắt đầu của một kiếp trái đất. Mai này trái đất bị hoại đi thì một trái đất khác hình thành thế vào chỗ trống đó. Chớ không phải nói đầu tiên tuyệt đối, mà chỉ của giai đoạn trái đất này thôi.
Thì đầu buổi giảng tôi có nói sơ sơ rồi. Trái đất mình tồn tại một thời gian nào đó thì nó tự động biến mất. Thời gian tồn tại đó là kiếp trụ. Khi nó bị băng hoại tan rã thì là kiếp hoại. Khi nó hoại mất thì còn là khoảng không tăm tăm mù mù không có gì hết gọi là kiếp không. Kiếp không kéo dài đến một lúc nào đó sẽ qua giai đoạn kiếp thành, là sự hình thành trái đất mới ở vào vị trí cũ. Mỗi giai đoạn vậy (thành, trụ, hoại, không) dài bằng nhau. Cứ như vậy, từ miên viễn thiên thu, từ bao đời kiếp thì thế giới vận hành theo trật tự đó.
Chúng ta cũng biết là có vô số trái lựu trôi nổi trong khoảng không bao la không bờ mé đó. Theo mô tả trong Kinh, mỗi vũ trụ có một mặt trăng một mặt trời.
*1.000 vũ trụ hợp thành => Tiểu thiên thế giới.
*2.000 tiểu thiên => Trung thiên thế giới
*3.000 trung thiên => Đại thiên thế giới
Có vô số đại thiên như vậy. Cứ một nhóm (group) ngàn tỷ đại thiên như vậy một lần nó tiêu hoại bị hư là hư một lúc. Nó hoại như vậy. Nó hoại xong trên chỗ trống đó lại hình thành cái mới. Và có rất nhiều cái ngàn tỷ như vậy, chớ không phải ngàn tỷ này là hết! Các vị hỏi bao nhiêu mới đi hết cái giới hạn? – Thì không! Trong Kinh không hề nói cái giới hạn của cái gọi là thế giới. Mà các vị tưởng tượng đi, làm sao có giới hạn được. Bởi vì nếu mình nói rằng hết cái này thì không còn nữa, vậy đằng sau nó là cái gì? – Chỉ nghĩ vậy thôi đã đủ điên rồi!
(còn tiếp)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh



![[Image: vote.png]](https://i.postimg.cc/X75q5Fsv/vote.png)