2022-03-20, 05:39 PM
Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
19. Kinh Ðại Ðiển Tôn
(Mahàgovinda sutta)
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong19.htm
Digha Nikaya
19. Kinh Ðại Ðiển Tôn
(Mahàgovinda sutta)
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong19.htm
--ooOoo--
19. KINH ĐẠI ĐIỂN-TÔN
097. TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO ĐỨC PHẬT GIẢNG KINH ĐẠI ĐIỂN-TÔN?
Vào một thời kia, đức Phật ngụ tại núi Linh-Thứu (Gijjhakùta), gần thành Vương-xá (Ràjagaha), có vị Trời Càn-thát-bà (Gandhabba), tên là Ngũ-Kế (Pancasikha) đến yết-kiến, xin tường-thuật lại với Thế-Tôn, các điều đã nghe tại buổi lễ Bố-tát tại Thiện-Pháp-đường trên cõi Trời Ba-mươi-ba.
Ngũ-Kế kể lại, chư Thiên sau khi nghe Thiên-chủ Đế-Thích (Sakka) trình-bày tám pháp như-thật của Thế-Tôn, thì có vị Đại-Phạm Thiên-vương xuất-hiện và thuật lại tiểu-sử của vị Bà-la-môn Đại Điển-tôn (Mahà Govinda). Vị nầy có một thời chấp-chánh lo quốc-sự rất vẹn-toàn, sau xuất-gia tu-hành và đem giáo-lý ra giúp nhiều đệ-tử tu-tập được sanh lên cõi Trời Đại-Phạm.
Đức Phật bảo, Bà-la-môn Đại Điển-tôn chính là tiền-thân của Ngài; giáo-lý Ngài dạy vào thời ấy chỉ đưa người tu-hành sanh lên cõi Trời Phạm mà thôi, còn nay Ngài đã chứng-đắc ngôi-vị Phật, với giáo-pháp Bát-Chánh-Đạo, Ngài chỉ rõ con đường phạm-hạnh đưa đến an-tịnh, thắng-trí, giác-ngộ và Niết-Bàn.
098. NỘI-DUNG KINH ĐẠI ĐIỂN-TÔN.
Phần lớn nội-dung Kinh Đại Điển-tôn chép lại lời tường-thuật của vị Càn-thát-bà, về con đường sanh lên cõi Trời Đại-Phạm. Đức Phật chỉ giảng một phần ngắn vào cuối Kinh, nói về con đường Phạm-hạnh đưa tới sự giác-ngộ, giải-thoát và chứng-đắc Niết-Bàn.
A.- Ý Chánh: Đường-tu Bà-la-môn chỉ đưa đến việc tái-sanh lên cõi Trời Đại-Phạm, còn chưa được hoàn-mãn bằng đường-lối giác-ngộ và giải-thoát hoàn-toàn trong giáo-lý của đức Phật.
B.- Phân đoạn: Kinh nầy chia ra ba phần:
1. Phần I: Cảnh Trời Ba-mươi-ba trong dịp lễ Bố-tát
- Ngũ-Kế đến yết-kiến đức Phật;
- Quang-cảnh Thiện-Pháp-đường khi vị Trời Đế-Thích giảng tám pháp như-thật của Thế-Tôn;
2. Phần II: Vua Trời Phạm thuật lại tiểu-sử của Đại Điển-Tôn:
- Vị Đại-Phạm Thiên-vương xuất hiện;
- Tiểu-sử của Bà-la-môn Đại Điển-Tôn, theo lời tường-thuật của vị Trời Đại-Phạm;
- Đại Điển-Tôn chấp-chánh;
- Đại Điển-Tôn tịnh-cư, tu Thiền-định;
- Vị Đại-Phạm Thiên xuất-hiện và chỉ-dạy Đại Điển-Tôn;
- Công-đức giáo-hoá của tu-sĩ Đại Điển-Tôn;
3. Phần III: Đại Điển-Tôn là tiền-thân của đức Phật:
- Đức Phật cho biết, Đại Điển-Tôn chính là tiền-thân của Đức Phật;
- Đức Phật so-sánh hai đường-tu giữa Bà-la-môn và Phật-giáo.
099. TRÍCH-ĐOẠN: 8 PHÁP NHƯ-THẬT CỦA THẾ-TÔN
''...Nầy chư Thiên-hữu !
- ... Như-Lai dấn thân vì hạnh-phúc cho chúng sanh, vì an-lạc cho chúng sanh, vỉ lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh-phúc, vì an-lạc cho loài Trời và loài Người ...
- ... một vị Giảng-sư thuyết-pháp hướng-thượng...
- ... một vị khéo giải-thích các pháp thiện, bất-thiện, có tội, không có tội, ...
- ... một vị khéo giải-thích con đường hướng đến Niết-Bàn...
- ... một vị sống chung một niềm hoà-hợp, lạc-trú
- ... một vị sống thọ-hưởng các lợi-dưỡng với tâm không kiêu-mạn...
- ... một vị nói gì thời làm vậy, làm gì thời nói vậy
- ... một vị đã vượt khỏi nghi-ngờ, diệt-trừ do-dự.
- Nay ta hỏi Phạm-Thiên ...
Ta hỏi điều nghi-ngờ,
Người khác đều muốn biết.
An-trú tại chỗ nào,
Tu-tập tại chỗ nào,
Để chứng quả bất-tử?
- Chính tại Phạm-Thiên-giới:
Nầy Ngươi Bà-la-môn !
Ai bỏ ngã, ngã-sở,
Tâm chuyên-chú nhứt-cảnh,
Tu tập đại-bi tâm,
Thoát-ly mọi xú-uế,
Lánh xa mọi tà-dục,
An-trú ở nơi đây !
Để chứng quả bất-tử,
Chính tại Phạm-Thiên-giới.
101. HỌC KINH ĐẠI ĐIỂN-TÔN, CHÚ-Ý ĐIỂM NÀO?
1. Người tu-hành sơ-cơ thường mong-cầu được tái-sanh lên cõi trời để hưởng sung-sướng. Nhưng khi hết phước ở cõi trời, cũng vẫn phải tái-sanh lại trong vòng Luân-hồi; nếu chẳng biết lo tu-tập thêm, có thể sa vào các đường ác. Mục-tiêu tối-thượng của Giáo-lý nhà Phật là thoát khỏi vĩnh-viễn cảnh sanh-tử Luân-hồi, với sự giác-ngộ và giải-thoát hoàn-toàn cùng sự chứng-đắc vảo cảnh an-tịch của Niết-Bàn.
2. Trong bài Kệ được trích-dẫn trên đây, có câu: ''Tâm chuyên-chú nhứt cảnh'' hơi khó hiểu. Câu nầy được Kinh giải-thích như sau: ''Tâm chuyên nhứt cảnh, thưa Tôn-giả, câu ấy tôi hiểu. Trong đời có người lựa chỗ an-trú thanh-vắng, một khu rừng, một gốc cây, một ngọn núi, một hang cốc, một bãi tha-ma, một sơn-lâm, giữa trời không, một đống rơm. Thưa Tôn-giả, như vậy tôi hiểu nghiã tâm chuyên nhứt cảnh.''
https://budsas.net/uni/u-kinh-truongbo/truong-tn2.htm
--ooOoo--
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Đại Điển Tôn và Kinh Đại Hội (1-4)
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=bhhreUUtIa0&abt=Đại+Điển+Tôn+-+Đại+Hội
Đại Điển Tôn Đại Hội
Quote:Kalama tri ân bạn buithibuukim ghi chép.
07/02/2022 - 01:15 - buithibuukim
KINH ĐẠI ĐIỂN TÔN - (Mahagovindasuttam)
Maha: lớn
Govinda: con bò chúa, con bò đầu đàn (gava: con bò + inda : chúa, trùm)
Tuy nhiên đây là tên người.
Thiên Tử Pancasikha thương công chúa Surivavacchasa:
Nội dung: lần đó có một vị trời, vị thiên tử chủng loại Càn thát bà đàn ca hát xướng rất giỏi. Vị này đến núi Linh Thứu lễ Phật và kể hầu Ngài câu chuyện cũ trong một lần Pháp hội trên cõi Đao Lợi. Các vị nào có đọc Kinh Đế Thích Sở Vấn của Trường Bộ hoặc các vị có đọc qua bài viết của chúng tôi có tựa đề là ‘Bản tình ca duy nhứt trong Kinh điển Pali’ thì có lẽ các vị còn nhớ nhân vật này.
Trong thời Thế Tôn mới thành Đạo chưa kịp đi hoằng Pháp, có một thân một mình chưa có học trò đệ tử gì hết, thì ông Pancasikha này đến lễ Phật. Ổng ôm một cây đàn bằng gỗ beluva (tên một loại danh mộc) đến hát cúng dường Đức Phật. Nội dung bài hát đó là những lời nhắn gửi của ổng cho một người tình ổng rất thương. Đó là cô Suriyavacchasa, con gái của vua càn thát bà Timbaru. Cô này không thương ổng mà đem lòng yêu một người khác là con trai của thiên tử Matali, là người đánh xe cho thiên vương Đế Thích.
Đời xưa trong một tiền kiếp thời Đức Phật Ca Diếp thì Pancasikha là một đứa bé mục đồng có tâm lành. Đi chăn bò chăn dê cho người ta mà rủ bè bạn thấy đường hư thì sửa, thấy cầu gãy thì dựng lại, thấy người cơ nhỡ, già cả, neo đơn thì giúp này giúp kia, giúp được gì thì giúp, tức chăn bò mà có lòng hào sảng, vị tha. Làm lành vậy nhưng yểu mệnh, khi chết rồi tánh ham chơi vẫn còn nên về trời sanh vào chủng loại Càn thát bà và xuất hiện trong hình dáng của một vị tiên đồng. Cả đời như vậy bao nhiêu triệu năm trôi qua vẫn sống trong hình dáng của một tiên đồng (tiên mà là tiên thiếu nhi) đầu có 5 chỏm tóc đào. Chỉ riêng vàng ngọc đeo trên người là hàng ngàn tấn. Đẹp vậy mà có điều trẻ con, rồi đem lòng thương cô Suriyavacchasa. Rồi buồn tình sáng tác bài hát, đại khái nói là giống như người tu tìm đến Đạo giải thoát tha thiết Niết bàn thế nào thì ta cũng nhớ thương nàng như vậy.
Khi Đế Thích xuống hầu Phật, Đế Thích trước cái chết thì sợ, không biết chết rồi đi về đâu . Vua cùng với Pancasikha này xuống trần gặp Phật. Đêm đó Ngài đang ở trong cái hang núi. Vì lòng tôn kính Thế Tôn nên Đế Thích không dám trực tiếp tới mà kêu Pancasikha đi vô trước xin phép Đức Phật. Gặp thế Tôn rồi Pancasikha mới nhắc lại chuyện xưa. Là ngày đó trong thời gian của chư thiên thì không có bao nhiêu nhưng thời gian của nhân loại thì cũng hơi lâu lâu nhiều năm. Khi Thế Tôn mới thành Đạo dưới gốc bồ đề ,con có đến con hát cúng dường bài hát như bài hồi nãy con mới vừa hát. Ổng hát lại bài hát đó lần nữa .
Đức Phật hỏi: "Ngươi học ở đâu, ai dạy bài hát có nội dung vừa đời vừa đạo vừa trầm luân vừa gỉai thoát như vậy ?"
Ổng Pancasikha mới nói: "Dạ. Đó là do con thương Phật, con kính Phật cộng với nỗi thất tình cộng ghép lại con ra bài hát đó thôi. Bạch Thế Tôn, đêm nay Thiên vương Đế Thích muốn hầu Thế Tôn mà sai con đến thưa với Đức Thế Tôn để xin phép trước."
Thì khi Đức Phật cho phép, Thiên vương Đế Thích mới đi vào hỏi Đạo, Và Đức Phật giảng xong bài Kinh “Đế Thích Sở Vấn” (chúng ta sẽ học trong thời gian sắp tới). Sau khi nghe xong thì Thiên vương Đế Thích chết tại chỗ (do tuổi thọ đến đó đã mãn) rồi tái sanh trở lại làm Thiên vương Đế Thích trong một hình hài mới. Khổ nỗi trên cõi trời vị trời mà sống mãn kiếp rồi hay là mới lên trên đó thì hình dáng giống nhau y chang, không có trẻ hơn mà cũng không già đi. Nên vị này chết rồi tái sinh trở lại trong cương vị Đế Thích ngay trước mặt Đức Phật. Chuyện đó chỉ có hai người là Thế Tôn và bản thân vua trời Đế Thích biết thôi. Lúc đó thiên vương Đế Thích đã chứng quả Dự lưu rồi.
Để cảm ơn Pancasikha đã tiến dẫn xin phép cho mình vào hầu Phật bữa đó, vua Thiên vương có hứa là bằng vào uy tín và quyền lực của mình, vua sẽ can thiệp cho Pancasikha được cưới Suriyavacchasa như một cách trả ơn vậy.
Bắt đầu bài Kinh có nói đến nhân vật Pancasikha thì tôi điểm sơ cho bà con nghe là vậy.
Núi Linh Thứu : Tàu dịch là Linh Sơn để nghe có vẻ linh thiêng, vì chữ ‘thứu’ có nghĩa ‘con kên kên’ – Mỹ dịch là Vuture’s peak (đỉnh núi của con kên kên).
Pancasikha kể lại một kỳ Pháp hội trên cõi Đao Lợi mà ông có mặt:
Đêm nay trên núi Linh Thứu thì Pancasikha đến lễ Phật, và kể hầu Ngài một câu chuyện đã xảy ra trong một kỳ Pháp hội trên cõi Đao Lợi mà ông có mặt. Trong buổi Pháp hội đó có Tứ thiên vương của cõi Tứ thiên vương lên, và Đế Thích, nghĩa là chư thiên ở hai cõi Dục thiên thấp nhất họp mặt nhau.
Trong buổi Pháp hội đó (như hôm qua chúng tôi nói), mỗi tháng chư thiên đều có 8 ngày thuyết Pháp.
Người thuyết là
- vị Phạm thiên nào đó hay là
- Đế Thích, hay
- một vị thiên tử nào đó,
- một tỷ kheo nào đó từ cõi người.
- thời mà Giáo Pháp còn thì có thể có vị tỳ kheo dưới đây lên, như ngài Mục Kiền Liên chẳng hạn.
- Còn thời không có Giáo Pháp thì có thể Phạm thiên Đế Thích hoặc thiên tử nào đó thuyết.
Đế Thích giảng về 8 Pháp đặc biệt của Đức Phật:
1. Đức Như Lai sống với lòng thương đời.
2. Nội dung chánh Pháp được Thế Tôn thuyết giảng hội đủ 6 đặc điểm, thường được gọi là hồng ân Pháp Bảo (bài Svakkhato …).
3. Pháp Phật có nội dung rõ ràng, dễ hiểu, dễ theo.
4. Con đường và cứu cánh hành trì luôn là một, không mâu thuẫn chống trái nhau.
5.Thầy trò là một dòng chảy không phân biệt, không chia lìa.
6. Phật nhận kính lễ cúng dường với tâm buông bỏ.
7. Nói và làm đi đôi.
8. Lời dạy hiện tại của Ngài nhất quán với truyền thống chánh Pháp 3 đời và bản thân
Ngài không còn chút gì nghi hoặc về điều mình làm và nói. Điều này rất khó. Thí dụ hôm nay vị Pháp sư giỏi gì thì giỏi thì cũng có chỗ kẹt, chưa đọc cái đó thì không biết. Như ngài Xá Lợi Phất có lần ngài tán thán Đức Phật:
“Bạch Thế Tôn, con nghĩ rằng trong quá khứ và trong tương lai không bao giờ có một vị nào vĩ đại hơn Thế Tôn, nhiều lắm là bằng thôi chớ không thể nào hơn được”
Đức Phật hỏi ngược lại rằng: "Xá Lợi Phất có biết gì về Giới – Định – Tuệ và sự giải thoát của chư Phật trong ba đời mười phương hay không mà Xá Lợi Phật nói như vậy ?"
Ngài Xá Lợi Phất nói: “Dạ, trong cảnh giới chư Phật thì con không có khả năng biết được. Con chỉ biết truyền thống chung của chư Phật, những nét lớn của chư Phật đó là đều hành trì Bốn Niệm Xứ mà thành Đạo. Con chỉ biết vậy thôi”.
Có nghĩa là ngài Xá Lợi Phất cũng còn có chỗ không biết. Nhưng riêng Đức Phật nói riêng và chư Phật ba đời mười phương nói chung thì các Ngài HOÀN TOÀN KHÔNG CÓ CHỖ NÀO KHÔNG BIẾT.
Trong Kinh còn ghi rõ có những tình huống mà Đức Phật suy nghĩ rằng khi gặp hoàn cảnh như thế này thì chư Phật quá khứ đã làm sao? Có vị nào gặp hoàn cảnh như thế này chưa, và trong trường hợp đó thì chư Phật đã làm sao? Ngài suy nghĩ vậy không phải Ngài không biết. Nhưng đó là truyền thống mà chư Phật, chữ Tathagata là Như Lai ( có nghĩa là đến với cuộc đời này và rời khỏi cuộc đời này theo cái cách của chư Phật ba đời, luôn luôn giống nhau không có khác, hoàn toàn không nghi hoặc). Chính vì hoàn toàn không còn điểm gì nghi ngờ hoang mang nữa hết nên lời dạy của Ngài hoàn toàn nhất quán xuyên suốt trùng khớp với chánh Pháp ba đời mười phương.
(Còn tiếp)
⏱️
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh
Diễn đàn tuy ảo, nhưng nghiệp quả có thật
Sư Toại Khanh (Giác Nguyên) Giảng Kinh



![[Image: vote.png]](https://i.postimg.cc/X75q5Fsv/vote.png)