2022-01-22, 01:41 AM
Bodhgaya, Nơi Đức Phật Giác Ngộ
1.1 Cách để đi đến nơi:
Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) nằm trong bang Bihar, cách Patna 105 km bằng đường bộ và Varsanasi 230 km bằng đường bộ.
1.2 Ý Nghĩa Tôn Gíao (2), (16), (26)
Sau ‘Cuộc Từ Bỏ Vĩ Đại’, Bồ-tát đã đến gặp 2 đạo sư tu khổ hạnh là Alara Kalama và Udakka Ramaputta, những vị thầy này đã dạy cho Người tu chứng được những tầng thiền Vô Sắc Giới. Mặc dù những cảnh giới chứng đạt được đó là những cảnh giới cao nhất vào lúc bấy giờ, nhưng Người vẫn không thỏa mãn, vì những cảnh giới đó không dẫn đến Niết-Bàn (Nibbana). Sau khi từ giã họ, Người tìm đến một hang động vắng vẻ trên một ngọn đồi có tên là Đồi Dhongra. Ở đó Người đã thực hành những pháp tu khổ hạnh, đau đớn và vô ích, trong vòng 6 năm trời, có thể chỉ còn lại bộ xương gầy guộc và Người gần như sắp chết. Sau nhận thấy sự vô ích của việc tu hành xác, Người quyết định đi theo Con Đường Trung Đạo và bắt đầu ăn uống trở lại để hồi phục sức khỏe. 5 người bạn tu khổ hạnh kia nghĩ rằng người đã bỏ cuộc và bắt đầu quay lại việc hưởng lạc, nên họ đã từ bỏ Người. Bấy giờ, Bồ-tát bắt đầu cuộc đấu tranh một mình đi tìm sự giác ngộ. Một ngày trước ngày Trăng Tròn tháng Wesak, trong khi mang bình bát đứng dưới một cây Banyan chuẩn bị đi khất thực, một thiếu nữ tên là Sujata đã đến dâng món cháo nấu bằng gạo với sữa trong một cái đĩa bằng vàng. Thiếu nữ Sujata là con của một tộc trưởng của ngôi làng Senanigama sát bên. Sau khi dùng xong món cháo, Bồ-tát mang cái đĩa vàng ra bờ sông Neranjara (Ni-Liên-Thuyền) và nói lên rằng:“Nếu Ta có thể thành công trở thành một vị Phật, hãy cho chiếc đĩa này trôi ngược dòng nước, còn nếu không thể thành, hãy để chiếc đĩa trôi xuôi dòng”– và Người quăng cái đĩa vàng xuống sông. Chiếc đĩa nổi lên giữa dòng sông và trôi ngược dòng nước, được khoảng 80 cubits (37m) rồi chìm xuống theo dòng nước xoáy. Buổi chiều hôm đó, trên đường Bồ-tát đi đến Cây Bồ-Đề, người cắt cỏ tên là Sotthiya đã mang đến nắm cỏ dâng cho Bồ-tát để Người làm chỗ ngồi thiền dưới gốc cây Bồ-Đề. Bồ-tát ngồi xếp tréo chân hoa sen, mặt quay về hướng Đông, Người kiên quyết một lòng và nói rằng:“Dù cho da, gân, xương khô héo. Dù cho thịt và máu có khô cạn. Ta quyết sẽ không rời khỏi chỗ ngồi cho đến khi ta chứng ngộ thành Phật”.
Đến đây đỉnh điểm cuối cùng của những pháp tu Hoàn Thiện (Ba-la-mật) mà Người đã hoàn thành trong vô lượng kiếp (aeons), mà không có một chúng sinh nào, ngay cả Ma Vương và đạo quân gây chết chóc của Ma Vương cũng không thể nào làm cho Đức Phật phân tán hay rời khỏi chỗ ngồi này. Chỗ ngồi Aparajita này không thể bị làm lung lay, không thể bị phá được, Ma Vương không thể nào phá hoại được. (Aparajita: Không thể làm lung lay, không lúc nào có thể phá thế được. Hán Việt thường dịch là: Chỗ ngồi “Minh Vương Vô Năng Thắng”).
Khi Ma Vương (Mara) đến thách thức và quấy nhiễu, Bồ-tát liền đưa tay phải chạm xuống mặt đất và hô to trái đất minh chứng cho 30 pháp Hoàn Thiện (Ba-la-mật) của người. Ngay lập tức, trái đất rền vang, rung chuyển và làm phân tán Ma Vương và đạo quân của Ma Vương.
Sau đó, tâm Người tĩnh lặng và trong sạch, vào canh một, Người chứng đạt được (1) Trí Lực Biết Rõ Quá Khứ, như nhớ rõ, biết rõ những kiếp trước sau của mình và người khác, về mặt thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai. (Hán Việt đọc là:‘Túc Mạng Minh’).
Vào Canh hai, vào ngay nửa đêm, Người chứng đạt được (2) Nhãn Lực Nhìn Thấy Rõ Quá Khứ, Hiện tại & Tương Lai, như nhìn thấy rõ được những kiếp trước sau của mình và người khác, về mặt không gian. (Hán Việt đọc là: ‘Thiên Nhãn Minh’).
Và cuối cùng, vào canh ba, Người chứng đạt (3) Trí Thấy Được Nguyên Nhân & Con Đường Kết Thúc Sinh Tử, không còn ô nhiễm và bất tịnh, không còn ‘rơi’, ‘rớt’ vào cõi sinh tử nào nữa. (Hán Việt đọc là:‘Lậu Tận Minh’) – (Xem thêm Hoa Vô Ưu, tập I của HT. Thích Thanh Từ).
☼ Một Đức Phật Chánh Đẳng, Chánh Giác (Samma-sambuddho) đã xuất hiện trên thế gian vào ngày Trăng Tròn của tháng Wesak năm 588 trước CN.
1.3 Bối cảnh Lịch Sử (9), (27)
Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) là nơi giác Ngộ tối thượng của Đức Phật, là nơi thiêng liêng nhất trên trái đất đối với tất cả phật Tử. Trong suốt thời gian Đức Phật còn tại thế, địa danh nằm bên bờ Neranjara (Ni-Liên-Thuyền) này được gọi là Uruvela. Vua Asoka là người đầu tiên xây đền thờ ở nơi thánh địa này. Một bức chân dung về Đền Thờ của Vua Asoka xây và những cơ ngơi khác dduocj xây ở khu vực Bodhgaya đã được tìm thấy trong một bức phù điêu trên bảo Tháp Bharhut Stupa ở Madhya, Pradesh. Bắt đầu từ chuyến viếng thăm lần đầu tiên bởi vua Asoka vào năm 259 trước CN, vô số những người hành hương đã liên tục đến chiêm bái cái nôi Phật giáo này suốt 1.500 năm qua. Sau đó, thời gian những thánh tích này bị tàn phá bởi đội quân Hồi giáo vào thế kỷ 13 là khoảng thời gian gián đoạn dòng người hành hương đến Bodhgaya. Dharmasvamin, một nhà hành hương Tây Tạng đã thăm Bodhgaya vào năm 1234 sau CN. Ông đã chứng kiến quang cảnh điêu tàn của nơi này và đã ghi lại như sau:
“Chỉ thấy có 4 tu sĩ còn ở lại (trong chùa). Một sư nói rằng: ‘Thật không lành’. Tất cả đã bỏ chạy trong nổi khiếp sợ trước đội quân của Turushka. Họ (những nhà sư) bít kín cổng trước Tháp Đại Bồ-Đề (Mahabodhi) bằng gạch và trám chặt bằng vữa. Gần đó, họ xây một tượng khác để thay thế.”
Khi Phật giáo suy tàn tại Ấn Độ, người Miến Điện đã đến cứu ngôi Tháp Đại Bồ-Đề thoát khỏi bàn tay phá hoại. Họ sửa chữa lại ngôi Tháp Đại Bồ-Đề ít nhất 3 lần suốt từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 15. Lần sửa chữa sau cùng là những năm 1472-1492.
Từ đó về sau, Bồ-Đề Đạo Tràng đã bị quên lãng và ngôi Tháp Đại Bồ-Đề ngày càng hoang phế. Với điều kiện thuận lợi về vị trí, ông Gosain Giri, một tu sĩ khổ hạnh Hindu giáo đã xây dựng một ngôi đền Hindu tại Bồ-Đề Đạo Tràng năm 1590. Sự có mặt của ngôi đền này đã làm cho Bồ-Đề Đạo Tràng rơi vào tay những Mahants của Hindu người không phải Phật tử và giai đoạn phi Phật giáo bắt đầu.
Năm mươi năm sau, năm 1861, ngài Cunningham đã gặp những Mahants của giáo hội Hindu và những môn đồ tổ chức những nghi lễ phi Phật giáo tại Tháp Đại Bồ-Đề. Hơn thế nữa, mặc dù tổ chức này tuyên bố Tháp Đại Bồ-Đề và vùng đất quanh đó là của riêng họ nhưng họ chưa từng bao giờ sửa sang lại ngôi Tháp lịch sử này. Ngài (Sir) Edwin Arnold, tác giả của quyển ‘Light of Asia’ đã viếng thăm Tháp Đại Bồ-Đề Mahabodhi vào năm 1885 và đã đăng thuật lại những nghi lễ này trên tờ báo Daily Telegraph ở London như sau:
“Thế giới Phật giáo đã, thật sự, lãng quên tâm điểm thiêng liêng nhất và đáng quan tâm nhất này- Đó là một Mecca, một Jerusalem, của cả triệu giáo đoàn của phương Đông, khi tôi lưu lại Buddhagaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) cách đây vài năm. Tôi cảm thấy thật đau buồn khi thấy những nông dân Maharatta đang hành lễ ‘Sharaddh (hay Shrada)’ ở nơi đó, và hàng ngàn di tích quý giá bằng đá chạm khắc bằng tiếng Phạn nằm chất đống xung quanh”.
Ghi chú: Shrada là một tập tục sau cùng của người Hindu, khi hành lễ, những câu thần chú và câu kệ được tụng thay cho người chết, với niềm tin rằng sẽ giải thoát linh hồn khỏi thế gian và sẽ được tái sinh ở cõi trời.
1.4 Tỳ kheo hộ pháp Anagarika Dharmapala & Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi) (5), (23)
Cuộc đấu tranh giành lại quyền chăm nom và kiểm soát Tháp đại Bồ-Đề bởi những người Phật tử bắt đầu từ ngày 22 tháng Giêng, 1891 sau khi vị Tỳ kheo Anagarika Dharmapala từ Tích Lan đến thăm Bodhgaya. Nhìn thấy cảnh thánh tích thiêng liêng nhất này bị lãng quên và bị xúc phạm, ngài đã phát tâm nguyện: “Tôi sẽ làm việc để cho thánh địa thiêng liêng này trở thành được chăm nom bởi những Tỳ kheo của chúng ta”.
Bước đầu tiên, ngài thành lập Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi Society) ở Bồ-Đề Đạo Tràng vào ngày 31 tháng Năm, 1891 để huy động những sự ủng hộ cho mục đích cao cả của mình. Sau đó, ông thỉnh mời những Tỳ kheo từ Tích Lan đến ở lại Bồ-Đề Đạo Tràng, gồm có: ngài Chandajoti, ngài Sumangala, ngài Pemmananda và ngài Sudassana. Họ đến Bồ-Đề Đạo Tràng vào tháng Bảy, 1891 và ngự lại ở Nhà Khách Miến Điện. Khi Mahant (đạo sĩ đạo Hindu, chỉ người đang cai quản Tháp Đại Bồ-Đề) đang nắm quyền sở hữu đất của khu Bồ-Đề Đạo Tràng Bodhgaya, ông ta đã từ chối, không chấp nhận sự có mặt của những Tỳ kheo Phật giáo, và vào tháng hai, 1893, 2 Tỳ kheo đã bị người của ông ta đánh đập nặng nề. Hai năm sau, năm 1895, khi ngài Anagarika Dharmapala đang cố gắn một bức hình Phật (những Phật tử Nhật Bản đã dâng tặng cho ngài) lên tầng trên của Tháp, ngài đã bị người của Mahant tấn công và ngăn cản. Vì vậy ngài phải đem bức hình về để tại nhà khách Miến Điện. Mahant Hindu và những tổ chức đạo Hindu đó vẫn không chịu và họ đã tìm cách đẩy bức hình Phật ra khỏi Nhà Khách Miến Điện, nhưng chính phủ đã can thiệp. Vào năm 1906, Mahant đó đệ đơn kiện và tìm cách trục xuất những Tỳ kheo ra khỏi Nhà Khách Miến Điện. Và cuộc đấu tranh pháp lý này giữa Mahant Ấn giáo và những Tỳ kheo Phật giáo đã kéo dài đến tận năm 1949, khi chính quyền Bang Bihar đã ra Đạo Luật Quản Lý Tháp việc Quản Lý Buddha Gaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) sẽ được chuyển qua Ủy Ban Quản Lý của chính quyền. Đạo Luật đưa ra 2 điều đáng phản đối, đó là: Ủy Ban Quản Lý gồm 9 người, trong đó đa số phải là người Hindu, và những thành viên Phật giáo khác trong ủy ban phải là người Ấn Độ. Mặc dù Hội Đại Bồ-Đề đã phản đối, Dự Luật vẫn được thông qua với một tu chỉnh là Ban Cố Vấn (Advisory Board) phải có đa số là người Phật giáo và không nhất thiết phải là người Ấn Độ. Điều này có nghĩa là: Những người Phật giáo chỉ có thể cố vấn cho Ủy ban Quản Lý, nhưng quyết định cuối cùng vẫn thuộc về quyền của ban quản lý là người Hindu!.
Đối với Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi Society), điều đó giống như một thứ ngụy biện, khi mà Tháp Đại Bồ-Đề (Mahabodhi Temple) lại được quản lý bởi những phần tử không phải là Phật tử, thử tưởng tượng xem sẽ ra sao nếu một đền thờ Hồi giáo, một nhà thờ Thiên Chúa giáo, một ‘Sikh gurdwara’ hay đền thờ đạo Hindu lại được kiểm soát bởi những người thuộc tôn giáo khác. Trong bài viết của mình “Lời Thề Nguyện Vẫn Còn Đó” ở Sambodhi, 1996, Đại Đức Pannarama Mahathera, Tỳ kheo phụ trách Hội Đại Bồ-Đề lúc bấy giờ, nay đã quá cố, đã tiết lộ một sự thật mỉa mai là ngay cả Ban Cố Vấn (Advisory Board) đã được cho là gồm đa số là những người Phật giáo, nhưng chỉ có được 11 người, trong khi đó bên phi Phật giáo lại chiếm đến 14 người!. Đã đến lúc cần phải thay thế những người bên đa số phi Phật giáo kia bằng những người Phật giáo đa số, như luật định đã được đưa ra trước kia. Những lời Thề Nguyện đó của các Tỳ kheo vẫn chưa được đáp ứng cho đến tận ngày hôm nay.
1.5 Những Điểm cần Thăm Viếng (26), (27), (31), (32)
Tháp đại Bồ-Đề có một lịch sử lâu đời. Những cuộc khai quật bởi Ngài Cunningham vào năm 1872 cho thấy có 3 giai đoạn xây dựng của tháp này.
Giai đoạn thứ nhất công trình do vua Asoka xây dựng vào thế kỷ 3 trước CN, được gọi là Đền Bồ-Đề (Bodhi Shrine), như được minh họa trong bức phù điêu gắn trên Tháp Bharhut Stupa vào thế kỷ 2 trước CN.
Giai đoạn thứ hai là công trình trùng tu Tháp Bồ-Đề nguyên thủy (Bodhi Shrine) được thực hiện bởi 2 nữ Phật tử mộ đạo là Surangi và Nagadevi, những người vợ của Vua triều đại Sunga.
Giai đoạn thứ ba là công trình trùng tu xây dựng do Huviska, vua của vương quốc Kusana vào thế kỷ 2 sau CN. Những hình tượng Phật đều xuất thân từ giai đoạn này. Những đền Tháp được xây dựng để thiết đặt những hình, tượng này. Ngài Cunningham cho rằng, toàn bộ Tháp Đại Bồ-Đề, như được thấy ngày nay, chủ yếu là công trình của Vua Huviska (năm 111-138 sau CN). Vì tháp được xây dựng lại trên cơ sở nền tháp nguyên thủy của vua Asoka, nên Tòa Kim Cương (Vajrasana Throne), vị trí ngồi thiền và Giác Ngộ của Đức Phật, vẫn được giữ nguyên như nguyên thủy. Vào thế kỷ 7, việc trùng tu đã được thực hiện và gắn thêm những phiến đá ba-zan xây trên tòa cũ bằng thạch cao. Vào thế kỷ 19, cuộc đại trùng tu được tiến hành, dưới sự giám sát của những nhà chuyên môn Cunningham, Beglar và R. L. Mitra, khôi phục lại Tháp Bồ-Đề, sau nhiều thế kỷ bị tàn phá bởi những người Hồi giáo và sự bỏ lơ của những Mahant ngoại đạo. Công trình huy hoàng mà chúng ta nhìn thấy hôm nay là kết quả của những tấm lòng mộ đạo và những sự đóng góp vô cùng quý hiếm.
Tháp Đại Bồ-Đề đương nhiên là một công trình huy hoàng và nổi bật nhất trong khu vực Thánh Địa Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng). Cao 52m, với tổng diện tích phần nền móng hình vuông là 231 m2, mỗi cạnh vuông là 15.2 m2 (50 feet), bao gồm một tháp lớn hình kiểu kim tự tháp và 4 tháp nhỏ nằm ở 4 góc, là những mô hình thu nhỏ của tháp lớn.(Hình 9). Cổng chính quay về hướng Đông, phía trước bên ngoài cổng là một cổng chào bằng đá do vua Asoka xây, được chạm khắc rất tinh xảo. Những khoảng trống âm tường của cả 2 mặt vách của Bảo Tháp đều có khắc hình tượng Phật. Gian đại Chánh Điện (Sanctum) ở tầng trệt sau khi đi qua một lối đi có mái vòm vòng cung, hai bên là cầu thang bằng đá dẫn lên một điện thờ nhỏ hơn nằm ở tầng một. Ngay sau khi tiến vào đại Chánh Điện, chúng ta sẽ gặp ngay một tượng Phật bằng đá mạ vàng trong tư thế ngồi với tay phải tiếp đất (bhumi phassa-mudra) trong ngày Giác Ngộ.
Chỉ cần ngắm nhìn bức tượng Phật lộng lẫy, trái tim của người hành hương chắc chắn sẽ khởi sinh niềm hoan hỷ và thành kính!. Đó là kết quả của lòng tin và lòng kính đạo của người hành hương trong việc làm theo lời khuyên dạy của Đức Phật là “nên đến viếng thăm và chiêm bái với lòng thành kính”.
Bức tượng Phật bằng đá mạ vàng được làm từ thế kỷ 10 sau CN. Ở đây, Đức Phật được miêu tả trong tư thế ngồi trên (miếng lót) tọa cụ, thay vì trên một đài sen. Tọa cụ được đặt trên một bệ dài lớn hơn, dày hơn, trên mặt vách dày hơn đó có khắc hình lần lượt sư tử, voi. Tư thế ngồi trên tọa cụ là nét chung được tìm thấy ở rất nhiều hình, tượng Phật khác ở Đông Ấn Độ, có thể được làm theo kiểu của bức tượng này. Nhiều người đã không biết được rằng bức tượng này đã không được đặt ở đây trong những cuộc khảo cổ xung quanh khu vực Buddhagaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) bởi chính quyền thuộc địa của người Anh lúc bấy giờ. Theo một bài báo viết về “Những Tượng Điêu Khắc Bồ-Đề Đạo Tràng ở Sambodhi, 1993” (Buddhagaya Sculptures in the Sambodhi, 1993), R. L. Mitra đã ghi rằng, bức tượng đã bị đặt trong khu vực của Mahant. Sau đó theo yêu cầu của Ngài Cunningham và Beglar, (những nhà khảo cổ học tiến hành cuộc đại trùng tu, như đã nói ở phần trên), bức tượng đã được dời qua đặt tại vị trí hiện tại trong Chánh Điện. Nhờ công đức và sự can thiệp của 2 người đáng kính này, bức tượng đã được đặt vào nơi đúng đắn ở Chánh Điện cho những người hành hương sau này được chiêm bái, thay vì như trước đây bị lãng quên, lãng phí ở trong bên khu vực của Mahant đạo Hindu.
2) Cây Bồ-Đề (Bodhidruma)
Cây Bồ-Đề (Bodhi), nơi Đức Phật ngồi tọa thiền bên dưới và chứng đạt Giác Ngộ Tối Thượng, đứng ở phía sau Tháp Đại Bồ-Đề. Đó là một cây Tất-Bát-La (thuộc họ Ficus religiosa), tiếng Pali gọi là cây “assattha”, có nghĩa là an lạc.
Truyền thuyết nói rằng cây này mọc lên cùng lúc Đức Phật đản sinh, như là một loại đồng sinh (sahajata) của Người vậy – (tiếng Anh: co-natal). Theo nhiều luận giảng, nhiều vị Phật khác nhau cũng đắc đạo khi ngồi dưới một gốc cây, bất cứ loại cây nào mà vị Phật đó chọn, và mỗi cây đó đều trở thành cây Bồ-Đề, tức là cây Giác Ngộ trong cõi của vị Phật đó. Trong cõi này, cây Tất-Bát-La trở thành Cây Giác Ngộ hay Cây Bồ-Đề và chỉ có Cây Bồ-Đề của Đức Phật Cồ-Đàm là được tôn kính. Di tích Cây Bồ-Đề này là tượng trưng giống nhau cho tất cả chư Phật. Người ta tin rằng không nơi nào trên thế gian này có thể hỗ trợ cho uy nghi của sự Giác Ngộ của Đức Phật. Nền đất ở đây rất chắc, không hề bị lung lay, di chuyển ngay cả khi trái đất rung chuyển thế gian để xua đuổi Ma Vương và đội quân của ông ta đến để thách thức, phá rối nhằm làm cho vị Bồ-tát phải rời bỏ chỗ ngồi Giác Ngộ. Ngay cả Vua Trời Sakka Devaraja cũng không thể bay qua ngang cây Bồ-Đề. Lực hút siêu nhiên ở nơi đó được gọi là Trung tâm điểm hay cái Rốn của Trái Đất.
Vào thời xưa những vị Vua và thường dân đã đến nơi này để suy tôn cây Bồ-Đề. Vì cây Bồ-Đề trở thành đối tượng được tôn vinh của những Phật tử, nên lẽ tự nhiên cây trở thành mục tiêu phá hủy bởi những kẻ thù hằn Phật giáo. Theo Ngài Huyền Trang, Cây Bồ-Đề đầu tiên lại bị chặt phá bởi Vua Asoka, nhưng sau này, nhà Vua ân hận, đã chăm bón lại Cây Bồ-Đề bằng cách tưới tẩm nước hương thơm và sữa tươi vào rễ cây. Nhà Vua thể hiện lòng thành kính sâu sắc đối với cây Bồ-Đề, đến nỗi một hoàng hậu đương triều lúc đó của nhà Vua là Tissarakkha, đã trở nên ghen tị với Cây Bồ-Đề và đã cho người lén lút phá hủy cây. Nhà Vua lại tiếp tục làm sống lại cây. Sau đó, nhà Vua cho xây bức tường cao 3m xung quanh cây để bảo vệ. Sau khi sự sụp đổ của triều đại đế chế Maurya vào thế kỷ 2 trước CN, vua của triều đại Sunga, Pusyamitra, là kẻ tra tấn Phật giáo, lại phá hủy Cây Bồ-Đề. Nhưng một cây con của chính Cây Bồ-Đề nguyên thủy được mang về từ Tích Lan, và được trồng lại đúng ngay chỗ ấy. Vào thế kỷ 6 sau CN, Sasanka, một vua Hindu, lại chặt phá Cây Bồ-Đề, nhưng sau đó, một cây con của Cây Bồ-Đề lại được mang về từ Tích Lan và được trồng lại bởi nhà Vua Purvavarma của nước Magadha (Ma-kiệt-đà), và ông cũng đã cho xây bức tường cao 7.3m để rào Cây Bồ-Đề lại. Bức tường này chỉ còn lại 6.1m khi Ngài Huyền Trang viếng thăm trong lịch sử.
Đến năm 1876, Cây Bồ-Đề già bị ngã đổ trong một trận bão và một cây con của Cây Bồ-Đề được trồng lại chính ngay chỗ cũ bởi Ngài Cunningham. Đến nay, Cây Bồ-Đề này đã 135 tuổi.
3) Tòa Kim Cương (Vajrasana)
Tòa Kim Cương (Vajrasana) nằm giữa Cây Bồ-Đề và Tháp Đại Bồ-Đề. Điểm này đánh dấu đích thực ngay chỗ ngồi của Đức Phật lúc chứng đạt sự Giác Ngộ Tối Thượng. Hiện nay, chỗ này được đánh dấu bằng một tảng đá sa thạch dài 2.3m, rộng 1.3m và dày 0.9m (Hình 10). Những người hành hương khi đến thánh điểm thuận lợi (đầy hộ niệm) này nên dành thời gian để quán chiếu công hạnh của Đức Phật để tăng trưởng tròn đầy lòng tin và sự an lạc có được nhờ chánh niệm để phát triển trí tuệ minh sát.
4) Đức Phật Ở Lại 7 Chỗ sau khi Giác Ngộ
Sau khi giác ngộ thành Phật vào đêm Trăng Tròn tháng Wesak, đến rạng sáng, Đức Phật đã thầm reo lên khúc ca vui mừng, hỷ lạc viên mãn. Ngài quyết định tiếp tục ngồi trên Tòa Kim Cương (Vajrasana), chỗ ngồi bất bại và tối thắng trước cuộc chiến với Ma Vương và Người đã thành tựu viên mãn mọi ước nguyện trước đây, bao gồm cả đại nguyện thành Phật. Đó là thời điểm cả thế gian trời, người còn ghi nhớ đến tận ngày nay. Và sau đó, Đức Phật nhịn đói luôn suốt bảy tuần và lưu lại bên dưới và xung quanh khu vực gần gốc Cây Bồ-Đề.
(i) Tuần Lễ Đầu Tiên: Đức Phật Tọa Thiền Trên Tòa Kim Cương (Pallanka Sattaha)
Trong suốt bảy ngày của tuần lễ đầu tiên, Đức Phật ngồi yên một tư thế, trải nghiệm niềm An Lạc của Sự Giải Thoát. Sau 7 ngày, ra khỏi định an lạc đó và suy tưởng về Thuyết Duyên Khởi (Paticca Samuppada) suốt một đêm.
(ii) Tuần Lễ Thứ Hai: Đức Phật Ngắm Nhìn Cây Bồ-Đề (Animisa Sattaha)
Trong tuần thứ hai, để tỏ lòng tri ân sâu sắc đối với cây Bồ-Đề đã che chở cho Người suốt thời gian thiền hành để thành Đạo, Ngài đã đứng chăm chú ngắm nhìn cây Bồ-Đề suốt một tuần liền mà không hề nháy mắt (Animisalocana). Về sau, chính nơi này, vua Asoka đã dựng lên một tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana Cetiva và đến nay vẫn còn. (Hình 11).
(iii) Tuần Lễ Thứ Ba: Đức Phật Đi Hành Thiền (Cankama Sattaha)
Trong suốt tuần thứ ba, Đức Phật đi kinh hành lên xuống trên quãng đường gần cây Bồ-Đề, sau này được gọi là “Đường Kinh Hành Ngọc Báu” (Ratana Cankamana: đường kinh hành ngọc báu). (Hình 12).
(iv) Tuần lễ Thứ Tư: Đức Phật Ngự Trong Bảo Điện (Ratanaghara Sattaha)
Trong tuần lễ thứ tư, Đức Phật ngồi tham thiền trong thất, được gọi là “Bảo Thất” (Ratanaghara: nghĩa là cái phòng bằng ngọc báu, trong ý nghĩa “cái phòng quý báu”) để suy niệm về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), triết giảng về những Chân lý Tuyệt đối, tột cùng liên quan đến phạm trù danh và sắc (tâm và vật chất). Trong khi Đức Phật quán chiếu về triết lý sâu sắc và vi diệu là Luận Thuyết về Nhân Duyên (Patthana, tiếng Anh: Conditional Relations), Người vui mừng và khởi sinh niềm hỷ lạc thật lớn lao trong tâm Toàn Trí cvuaR Người, làm phát quang bên trong sắc thân, Kinh sách ghi nhận rằng, tâm và thân Người phát sáng một vầng hào quang sáu màu – xanh, vàng, trắng, đỏ, hồng và luồng ánh sáng kết hợp 5 màu đó. Vị trí của Bảo Thất này được đánh dấu bằng một Điện Tháp, phía trước có một bia đá có khắc chữ ghi lại nơi Đức Phật đã ngồi và suy niệm về thuyết Nhân Duyên (Patthana). Điện Tháp này cũng nằm trong khuôn viên Tháp Đại Bồ-Đề, sát bên hướng Bắc của Đường Kinh Hành Ngọc Báu (Cankama). (Hình 13).
v) Tuần lễ Thứ Năm: Đức Phật Ngồi Dưới Cây Ajapala Banyan Nigrodha (Ajapala Sattaha)
Trong tuần thứ năm, Đức Phật ngồi dưới cây Ajapala Banyan để suy niệm về Giáo Pháp và thấm nhuần niềm hạnh phúc của sự giải thoát. (Ajapala có nghĩa là “chỗ của người chăn dê”. Cây Banyan là một loại cây đa, cây này là nơi những người chăn dê trong vùng thường ngồi nghỉ trong khi thả cho bầy dê ăn cỏ). Vào cuối tuần, khi Ngài xuất ra khỏi trạng thái siêu thế ấy, có một vị Bà-la-môn ngã mạn (Huhumka Jakita) đến gần và hỏi Người rằng “đứng về phương diện nào và những điều kiện nào ông ta có thể trở thành một thánh nhân (Brahmana)?”. Đức Phật đã trả lời và chỉ ra những phẩm chất cần có của một Bà-la-môn đích thực nên có. Vị trí di tích này được đánh dấu bằng một bia đá bảng hiệu gắn trên cột bê-tông, có khắc chữ ghi chú để tưởng niệm. (Hình 14).
vi) Tuần lễ Thứ Sáu: Đức Phật Ngồi Dưới Cây Mucalinda (Mucalinda Sattaha)
Tuần thứ sáu, Đức Phật đến ngồi dưới cây Mucalinda, gọi theo tên của Mãng Xà Vương (cây thuộc họ Barringtonia acutangula). Lúc bấy giờ, trời giông bão, gió lạnh mù mịt kéo dài suốt bảy ngày. Truyền thuyết kể lại rằng, Mucalinda, Vua Rắn từ dưới hồ nước đi lên, dùng thân quấn quanh người Đức Phật và lấy cái mỏ to che trên đầu Đức Phật để che chở, bảo vệ cho Người. Vị trí di tích cũng là Ao Mucalinda (Ao Mãng Xà Vương) ngày nay, ở phía Nam và gần bên Tháp Đại Bồ-Đề. (Hình 15).
vii) Tuần Thứ Bảy: Đức Phật Ngồi Dưới Cây Rajayatana (Rajayatana Sattaha)
Tuần thứ bảy, Đức Phật đến ngồi dưới cây Rajayatana, (thuộc họ Buchanania latifolia) gần Tháp Đại Bồ-Đề. Lúc đó có hai người lái buôn tên là Tapussa và Bhallika đến từ Ukkala (Orissa) dâng lên cúng dường Đức Phật bánh gạo nếp và mật ong. Sau khi Đức Phật thọ trai bữa ăn xong, hai người quỳ lạy dưới chân Người và xin được quy y nương tựa vào Đức Phật và Giáo Pháp của Người. Họ trở thành những Phật Tử cư sĩ đầu tiên, quy y vào Phật & Pháp (Nhị Bảo). Sau lúc đó, Đức Phật đưa tay lên đầu và lấy 8 sợi tóc của mình để tặng cho 2 Phật tử đầu tiên. Sau này, hai anh em trở về lại Miến Điện với xá lợi tóc quý giá đó, sau này xá lợi tóc đó được đặt thờ trong ngôi Chùa Shwedagon Pagoda ở thủ đô Yangon. Vị trí di tích này, ở phía Nam Tháp Đại Bồ-Đề, được đánh dấu bằng một bia đá bảng hiệu gắn trên cột bê-tông, có khắc chữ ghi chú để tưởng niệm. (Hình 16).
5) Nhà Của Cô Sujata Kuti
Trước khi Giác Ngộ, vị Bồ-tát đã ở gần bờ sông Neranjara (Ni-Liên-Thuyền) trong hang động Dungeswari. Hang động này ở trên một ngọn đồi, tên là Đồi Dhongra, cách Bồ-Đề Đạo Tràng khoảng 1 giờ đi bộ. Sau khi trải qua 6 năm tu hành khổ hạnh một cách đau đớn và vô ích, Người quyết định đi theo con đường Trung Đạo và bắt đầu đi về hướng Rừng Uruvela gần ngôi làng Senanigama, ở đây, chúng ta có thể thấy được khu di tích ‘Nhà của cô Sujata’, nằm trên một dãi đất nhỏ. Trong làng, chúng ta cũng có thể thăm một Miếu Thờ, dưới bóng một cây Banyan, trong đó có những tượng miêu tả cảnh Cô Sujata dâng cháo gạo sữa cho Bồ-tát vào ngày trước đêm Người giác ngộ thành Phật. (Hình 19).
6) Rừng Uruvela
Khu vực, trước kia là rừng, bây giờ là một khu cây cỏ mọc, gần chỗ Miếu Thờ Sujata. Tại đây, chúng ta có thể thấy một di tích xây có một cái giếng cạn. (Hình 20). Nơi đây được tin là ‘hầm lửa’ của ba anh em nhà Ca Diếp Kassapa, những Jalita búi tóc thờ thần lửa có đến 1 ngàn đệ tử. Ở đây, Đức Phật cũng đã hàn phục một con rắn, ẩn núp trong hầm lửa. Sự thu phục người anh Ca Diếp (Kassapa Uruvela) đã mất nhiều thời gian hơn. Đức Phật đã phải dùng đến thần thông mới thuyết phục và chuyển hóa những Jalita thờ thần lửa được. Sau khi Uruvela Kassapa (Hán Việt đọc: Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) trở thành đệ tử của Đức Phật, 2 người em, Nadi và Gaya, cùng những đệ tử của họ cũng đi theo. Sau khi nghe Phật thuyết giảng Kinh Lửa, một ngàn Tỳ kheo mới vừa được thọ giáo vào Tăng đoàn đã đều trở thành A-la-hán (Arahants).
7) Pragbodhi, Nơi Bồ-tát thực hành Tu Khổ Hạnh 6 năm
Trước khi Giác Ngộ, Bồ-tát đã ở bên bờ hữu ngạn sông Neranjara (Ni Liên Kiền) trong một khu rừng gần Pragbodhi, phía trước đồi Bồ Đề (Bodhi). Truyền thuyết kể rằng Người sống trong một hang động nhỏ có tên là Dungeswari, nằm ngang dốc lên đỉnh đồi. Sau khi đã thực hành việc tu khổ hạnh, hành xác 6 năm trời, Người quyết định đi theo con đường Trung Đạo, và đến khu rừng Uruvela gần ngôi làng Senanigama, tức ngôi làng Bakraur ngày nay. Chúng ta leo lên một đoạn dốc đứng dẫn đến một ngôi chùa nhỏ tên là Chùa Hang Động Dungeswari do những nhà sư Tây Tạng trông nom. Bên
trong hang động Dungeswari, (Hình 18), có một bức tượng vị Bồ-tát với thân hình chỉ còn lại xương, sau 6 năm hành xác, khổ hạnh. Đồi Pragbodhi (rất nhiều khu di tích trên nhưng ngọn núi nhỏ, người ta vẫn gọi là đồi) ngày nay gọi là đồi Dhongra, (Hình 17), cách làng về phía Đông Bắc khoảng 1 dặm Anh (1.6 km), cách khoảng 30 phút lái xe đến Rajgir (thành Vương-xá).
8) Những Chùa & Tu Viện ở Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng)
Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) là cái nôi của Phật giáo. Trong khu vực chiếm khoảng 15km2, nhưng trong một diện tích nhỏ này có đến 30 tu viện và cơ sở đại diện cho nhiều quốc gia Phật giáo trên thế giới, trong một cộng đồng Phật giáo nhỏ ở đây. Một cuộc thăm viếng đến những ngôi Chùa ở đây sẽ giúp cho chúng ta hiểu được Phật giáo được thực hành ở những nước khác nhau như thế nào, theo văn hóa địa phương của họ, mà vẫn theo đúng Phật Pháp. Ở đó cũng có một trung tâm Thiền Minh Sát Vipassana, chẳng hạn như trong Chùa Miến Điện (Burmese Vihara) và Trung Tâm Thiền Quốc tế. Danh sách những tên, những đền, chùa, tu viện Phật giáo và cơ sở Phật giáo được ghi trong Chương Trình Lưu Niệm Buddha Mahotsav 1999 theo thứ tự chữ cái như sau:
Tăng Đoàn Toàn Ấn Độ (All India Bhikkhu Sangha), Trung Tâm Văn Hóa Phật giáo Châu Á (Asian Buddhist Culture Centre), Chùa Bangladesh (Bangladesh Temple), Ban Quản Lý Bồ-Đề Đạo Tràng (Buddhagaya Temple Management Committee), Chùa Miến Điện (Burmese Vihara), Chùa Trung Hoa (Chinese Temple), Chùa Đại Tạng Kinh Nhật Bản (Đaijokyo Japanese Buddhist Temple), Trung Tâm Thiền Pháp Giác (Dhamma Bodhi Meditation Centre), Qũy Từ Thiện Drikyug (Drikyug Charitable Trust), Chùa Druk Nawag Thupten Choeling, Chùa Nhật Bản Indosan Nipponjee (Indosan Nipponjee Japanese Temple), Trung Tâm Thiền Quốc Tế (International Meditation Centre), Chùa Jambunad Vihar, Chùa Karma Temple, Chùa Triều Tiên, Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi Society), Dự Án Di-Lặc (Maitreya Project), Chùa Nav Bauddha Vihar, Chùa Panch Sheela Vihar, Viện Văn Hóa Trí Tuệ Root (Root Institute for Wisdom Culture), Chùa Hoàng Gia Bhutan (Royal Bhutan Temple), Tu Viện Thích Ca (Sakya Monastery), Hội Văn Hóa và Phúc Lợi Tam Bồ-Đề (Sambodhi Welfare and Cultural Society), Tu Viện Shechen Monastery, Chùa Đài Loan (Taiwan Temple), Chùa Tamang Nepal Temple, Hội Bharat Thái Lan (Thai Bharat Society), Chùa Thái Lan Bodhi Kam, Chùa Tây Tạng (Tibetan Temple), Trung Tâm Trailokya Centre, Chùa Việt Nam Quốc Tự và Chùa Thái Lan (Wat Thai).
Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) nằm trong bang Bihar, cách Patna 105 km bằng đường bộ và Varsanasi 230 km bằng đường bộ.
1.2 Ý Nghĩa Tôn Gíao (2), (16), (26)
Sau ‘Cuộc Từ Bỏ Vĩ Đại’, Bồ-tát đã đến gặp 2 đạo sư tu khổ hạnh là Alara Kalama và Udakka Ramaputta, những vị thầy này đã dạy cho Người tu chứng được những tầng thiền Vô Sắc Giới. Mặc dù những cảnh giới chứng đạt được đó là những cảnh giới cao nhất vào lúc bấy giờ, nhưng Người vẫn không thỏa mãn, vì những cảnh giới đó không dẫn đến Niết-Bàn (Nibbana). Sau khi từ giã họ, Người tìm đến một hang động vắng vẻ trên một ngọn đồi có tên là Đồi Dhongra. Ở đó Người đã thực hành những pháp tu khổ hạnh, đau đớn và vô ích, trong vòng 6 năm trời, có thể chỉ còn lại bộ xương gầy guộc và Người gần như sắp chết. Sau nhận thấy sự vô ích của việc tu hành xác, Người quyết định đi theo Con Đường Trung Đạo và bắt đầu ăn uống trở lại để hồi phục sức khỏe. 5 người bạn tu khổ hạnh kia nghĩ rằng người đã bỏ cuộc và bắt đầu quay lại việc hưởng lạc, nên họ đã từ bỏ Người. Bấy giờ, Bồ-tát bắt đầu cuộc đấu tranh một mình đi tìm sự giác ngộ. Một ngày trước ngày Trăng Tròn tháng Wesak, trong khi mang bình bát đứng dưới một cây Banyan chuẩn bị đi khất thực, một thiếu nữ tên là Sujata đã đến dâng món cháo nấu bằng gạo với sữa trong một cái đĩa bằng vàng. Thiếu nữ Sujata là con của một tộc trưởng của ngôi làng Senanigama sát bên. Sau khi dùng xong món cháo, Bồ-tát mang cái đĩa vàng ra bờ sông Neranjara (Ni-Liên-Thuyền) và nói lên rằng:“Nếu Ta có thể thành công trở thành một vị Phật, hãy cho chiếc đĩa này trôi ngược dòng nước, còn nếu không thể thành, hãy để chiếc đĩa trôi xuôi dòng”– và Người quăng cái đĩa vàng xuống sông. Chiếc đĩa nổi lên giữa dòng sông và trôi ngược dòng nước, được khoảng 80 cubits (37m) rồi chìm xuống theo dòng nước xoáy. Buổi chiều hôm đó, trên đường Bồ-tát đi đến Cây Bồ-Đề, người cắt cỏ tên là Sotthiya đã mang đến nắm cỏ dâng cho Bồ-tát để Người làm chỗ ngồi thiền dưới gốc cây Bồ-Đề. Bồ-tát ngồi xếp tréo chân hoa sen, mặt quay về hướng Đông, Người kiên quyết một lòng và nói rằng:“Dù cho da, gân, xương khô héo. Dù cho thịt và máu có khô cạn. Ta quyết sẽ không rời khỏi chỗ ngồi cho đến khi ta chứng ngộ thành Phật”.
Đến đây đỉnh điểm cuối cùng của những pháp tu Hoàn Thiện (Ba-la-mật) mà Người đã hoàn thành trong vô lượng kiếp (aeons), mà không có một chúng sinh nào, ngay cả Ma Vương và đạo quân gây chết chóc của Ma Vương cũng không thể nào làm cho Đức Phật phân tán hay rời khỏi chỗ ngồi này. Chỗ ngồi Aparajita này không thể bị làm lung lay, không thể bị phá được, Ma Vương không thể nào phá hoại được. (Aparajita: Không thể làm lung lay, không lúc nào có thể phá thế được. Hán Việt thường dịch là: Chỗ ngồi “Minh Vương Vô Năng Thắng”).
Khi Ma Vương (Mara) đến thách thức và quấy nhiễu, Bồ-tát liền đưa tay phải chạm xuống mặt đất và hô to trái đất minh chứng cho 30 pháp Hoàn Thiện (Ba-la-mật) của người. Ngay lập tức, trái đất rền vang, rung chuyển và làm phân tán Ma Vương và đạo quân của Ma Vương.
Sau đó, tâm Người tĩnh lặng và trong sạch, vào canh một, Người chứng đạt được (1) Trí Lực Biết Rõ Quá Khứ, như nhớ rõ, biết rõ những kiếp trước sau của mình và người khác, về mặt thời gian quá khứ, hiện tại, tương lai. (Hán Việt đọc là:‘Túc Mạng Minh’).
Vào Canh hai, vào ngay nửa đêm, Người chứng đạt được (2) Nhãn Lực Nhìn Thấy Rõ Quá Khứ, Hiện tại & Tương Lai, như nhìn thấy rõ được những kiếp trước sau của mình và người khác, về mặt không gian. (Hán Việt đọc là: ‘Thiên Nhãn Minh’).
Và cuối cùng, vào canh ba, Người chứng đạt (3) Trí Thấy Được Nguyên Nhân & Con Đường Kết Thúc Sinh Tử, không còn ô nhiễm và bất tịnh, không còn ‘rơi’, ‘rớt’ vào cõi sinh tử nào nữa. (Hán Việt đọc là:‘Lậu Tận Minh’) – (Xem thêm Hoa Vô Ưu, tập I của HT. Thích Thanh Từ).
☼ Một Đức Phật Chánh Đẳng, Chánh Giác (Samma-sambuddho) đã xuất hiện trên thế gian vào ngày Trăng Tròn của tháng Wesak năm 588 trước CN.
1.3 Bối cảnh Lịch Sử (9), (27)
Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) là nơi giác Ngộ tối thượng của Đức Phật, là nơi thiêng liêng nhất trên trái đất đối với tất cả phật Tử. Trong suốt thời gian Đức Phật còn tại thế, địa danh nằm bên bờ Neranjara (Ni-Liên-Thuyền) này được gọi là Uruvela. Vua Asoka là người đầu tiên xây đền thờ ở nơi thánh địa này. Một bức chân dung về Đền Thờ của Vua Asoka xây và những cơ ngơi khác dduocj xây ở khu vực Bodhgaya đã được tìm thấy trong một bức phù điêu trên bảo Tháp Bharhut Stupa ở Madhya, Pradesh. Bắt đầu từ chuyến viếng thăm lần đầu tiên bởi vua Asoka vào năm 259 trước CN, vô số những người hành hương đã liên tục đến chiêm bái cái nôi Phật giáo này suốt 1.500 năm qua. Sau đó, thời gian những thánh tích này bị tàn phá bởi đội quân Hồi giáo vào thế kỷ 13 là khoảng thời gian gián đoạn dòng người hành hương đến Bodhgaya. Dharmasvamin, một nhà hành hương Tây Tạng đã thăm Bodhgaya vào năm 1234 sau CN. Ông đã chứng kiến quang cảnh điêu tàn của nơi này và đã ghi lại như sau:
“Chỉ thấy có 4 tu sĩ còn ở lại (trong chùa). Một sư nói rằng: ‘Thật không lành’. Tất cả đã bỏ chạy trong nổi khiếp sợ trước đội quân của Turushka. Họ (những nhà sư) bít kín cổng trước Tháp Đại Bồ-Đề (Mahabodhi) bằng gạch và trám chặt bằng vữa. Gần đó, họ xây một tượng khác để thay thế.”
Khi Phật giáo suy tàn tại Ấn Độ, người Miến Điện đã đến cứu ngôi Tháp Đại Bồ-Đề thoát khỏi bàn tay phá hoại. Họ sửa chữa lại ngôi Tháp Đại Bồ-Đề ít nhất 3 lần suốt từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 15. Lần sửa chữa sau cùng là những năm 1472-1492.
Từ đó về sau, Bồ-Đề Đạo Tràng đã bị quên lãng và ngôi Tháp Đại Bồ-Đề ngày càng hoang phế. Với điều kiện thuận lợi về vị trí, ông Gosain Giri, một tu sĩ khổ hạnh Hindu giáo đã xây dựng một ngôi đền Hindu tại Bồ-Đề Đạo Tràng năm 1590. Sự có mặt của ngôi đền này đã làm cho Bồ-Đề Đạo Tràng rơi vào tay những Mahants của Hindu người không phải Phật tử và giai đoạn phi Phật giáo bắt đầu.
Năm mươi năm sau, năm 1861, ngài Cunningham đã gặp những Mahants của giáo hội Hindu và những môn đồ tổ chức những nghi lễ phi Phật giáo tại Tháp Đại Bồ-Đề. Hơn thế nữa, mặc dù tổ chức này tuyên bố Tháp Đại Bồ-Đề và vùng đất quanh đó là của riêng họ nhưng họ chưa từng bao giờ sửa sang lại ngôi Tháp lịch sử này. Ngài (Sir) Edwin Arnold, tác giả của quyển ‘Light of Asia’ đã viếng thăm Tháp Đại Bồ-Đề Mahabodhi vào năm 1885 và đã đăng thuật lại những nghi lễ này trên tờ báo Daily Telegraph ở London như sau:
“Thế giới Phật giáo đã, thật sự, lãng quên tâm điểm thiêng liêng nhất và đáng quan tâm nhất này- Đó là một Mecca, một Jerusalem, của cả triệu giáo đoàn của phương Đông, khi tôi lưu lại Buddhagaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) cách đây vài năm. Tôi cảm thấy thật đau buồn khi thấy những nông dân Maharatta đang hành lễ ‘Sharaddh (hay Shrada)’ ở nơi đó, và hàng ngàn di tích quý giá bằng đá chạm khắc bằng tiếng Phạn nằm chất đống xung quanh”.
Ghi chú: Shrada là một tập tục sau cùng của người Hindu, khi hành lễ, những câu thần chú và câu kệ được tụng thay cho người chết, với niềm tin rằng sẽ giải thoát linh hồn khỏi thế gian và sẽ được tái sinh ở cõi trời.
1.4 Tỳ kheo hộ pháp Anagarika Dharmapala & Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi) (5), (23)
Cuộc đấu tranh giành lại quyền chăm nom và kiểm soát Tháp đại Bồ-Đề bởi những người Phật tử bắt đầu từ ngày 22 tháng Giêng, 1891 sau khi vị Tỳ kheo Anagarika Dharmapala từ Tích Lan đến thăm Bodhgaya. Nhìn thấy cảnh thánh tích thiêng liêng nhất này bị lãng quên và bị xúc phạm, ngài đã phát tâm nguyện: “Tôi sẽ làm việc để cho thánh địa thiêng liêng này trở thành được chăm nom bởi những Tỳ kheo của chúng ta”.
Bước đầu tiên, ngài thành lập Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi Society) ở Bồ-Đề Đạo Tràng vào ngày 31 tháng Năm, 1891 để huy động những sự ủng hộ cho mục đích cao cả của mình. Sau đó, ông thỉnh mời những Tỳ kheo từ Tích Lan đến ở lại Bồ-Đề Đạo Tràng, gồm có: ngài Chandajoti, ngài Sumangala, ngài Pemmananda và ngài Sudassana. Họ đến Bồ-Đề Đạo Tràng vào tháng Bảy, 1891 và ngự lại ở Nhà Khách Miến Điện. Khi Mahant (đạo sĩ đạo Hindu, chỉ người đang cai quản Tháp Đại Bồ-Đề) đang nắm quyền sở hữu đất của khu Bồ-Đề Đạo Tràng Bodhgaya, ông ta đã từ chối, không chấp nhận sự có mặt của những Tỳ kheo Phật giáo, và vào tháng hai, 1893, 2 Tỳ kheo đã bị người của ông ta đánh đập nặng nề. Hai năm sau, năm 1895, khi ngài Anagarika Dharmapala đang cố gắn một bức hình Phật (những Phật tử Nhật Bản đã dâng tặng cho ngài) lên tầng trên của Tháp, ngài đã bị người của Mahant tấn công và ngăn cản. Vì vậy ngài phải đem bức hình về để tại nhà khách Miến Điện. Mahant Hindu và những tổ chức đạo Hindu đó vẫn không chịu và họ đã tìm cách đẩy bức hình Phật ra khỏi Nhà Khách Miến Điện, nhưng chính phủ đã can thiệp. Vào năm 1906, Mahant đó đệ đơn kiện và tìm cách trục xuất những Tỳ kheo ra khỏi Nhà Khách Miến Điện. Và cuộc đấu tranh pháp lý này giữa Mahant Ấn giáo và những Tỳ kheo Phật giáo đã kéo dài đến tận năm 1949, khi chính quyền Bang Bihar đã ra Đạo Luật Quản Lý Tháp việc Quản Lý Buddha Gaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) sẽ được chuyển qua Ủy Ban Quản Lý của chính quyền. Đạo Luật đưa ra 2 điều đáng phản đối, đó là: Ủy Ban Quản Lý gồm 9 người, trong đó đa số phải là người Hindu, và những thành viên Phật giáo khác trong ủy ban phải là người Ấn Độ. Mặc dù Hội Đại Bồ-Đề đã phản đối, Dự Luật vẫn được thông qua với một tu chỉnh là Ban Cố Vấn (Advisory Board) phải có đa số là người Phật giáo và không nhất thiết phải là người Ấn Độ. Điều này có nghĩa là: Những người Phật giáo chỉ có thể cố vấn cho Ủy ban Quản Lý, nhưng quyết định cuối cùng vẫn thuộc về quyền của ban quản lý là người Hindu!.
Đối với Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi Society), điều đó giống như một thứ ngụy biện, khi mà Tháp Đại Bồ-Đề (Mahabodhi Temple) lại được quản lý bởi những phần tử không phải là Phật tử, thử tưởng tượng xem sẽ ra sao nếu một đền thờ Hồi giáo, một nhà thờ Thiên Chúa giáo, một ‘Sikh gurdwara’ hay đền thờ đạo Hindu lại được kiểm soát bởi những người thuộc tôn giáo khác. Trong bài viết của mình “Lời Thề Nguyện Vẫn Còn Đó” ở Sambodhi, 1996, Đại Đức Pannarama Mahathera, Tỳ kheo phụ trách Hội Đại Bồ-Đề lúc bấy giờ, nay đã quá cố, đã tiết lộ một sự thật mỉa mai là ngay cả Ban Cố Vấn (Advisory Board) đã được cho là gồm đa số là những người Phật giáo, nhưng chỉ có được 11 người, trong khi đó bên phi Phật giáo lại chiếm đến 14 người!. Đã đến lúc cần phải thay thế những người bên đa số phi Phật giáo kia bằng những người Phật giáo đa số, như luật định đã được đưa ra trước kia. Những lời Thề Nguyện đó của các Tỳ kheo vẫn chưa được đáp ứng cho đến tận ngày hôm nay.
1.5 Những Điểm cần Thăm Viếng (26), (27), (31), (32)
1) Tháp Đại Bồ-Đề hay Tháp Đại Giác (Mahabodhi Temple)
Tháp đại Bồ-Đề có một lịch sử lâu đời. Những cuộc khai quật bởi Ngài Cunningham vào năm 1872 cho thấy có 3 giai đoạn xây dựng của tháp này.
Giai đoạn thứ nhất công trình do vua Asoka xây dựng vào thế kỷ 3 trước CN, được gọi là Đền Bồ-Đề (Bodhi Shrine), như được minh họa trong bức phù điêu gắn trên Tháp Bharhut Stupa vào thế kỷ 2 trước CN.
Giai đoạn thứ hai là công trình trùng tu Tháp Bồ-Đề nguyên thủy (Bodhi Shrine) được thực hiện bởi 2 nữ Phật tử mộ đạo là Surangi và Nagadevi, những người vợ của Vua triều đại Sunga.
Giai đoạn thứ ba là công trình trùng tu xây dựng do Huviska, vua của vương quốc Kusana vào thế kỷ 2 sau CN. Những hình tượng Phật đều xuất thân từ giai đoạn này. Những đền Tháp được xây dựng để thiết đặt những hình, tượng này. Ngài Cunningham cho rằng, toàn bộ Tháp Đại Bồ-Đề, như được thấy ngày nay, chủ yếu là công trình của Vua Huviska (năm 111-138 sau CN). Vì tháp được xây dựng lại trên cơ sở nền tháp nguyên thủy của vua Asoka, nên Tòa Kim Cương (Vajrasana Throne), vị trí ngồi thiền và Giác Ngộ của Đức Phật, vẫn được giữ nguyên như nguyên thủy. Vào thế kỷ 7, việc trùng tu đã được thực hiện và gắn thêm những phiến đá ba-zan xây trên tòa cũ bằng thạch cao. Vào thế kỷ 19, cuộc đại trùng tu được tiến hành, dưới sự giám sát của những nhà chuyên môn Cunningham, Beglar và R. L. Mitra, khôi phục lại Tháp Bồ-Đề, sau nhiều thế kỷ bị tàn phá bởi những người Hồi giáo và sự bỏ lơ của những Mahant ngoại đạo. Công trình huy hoàng mà chúng ta nhìn thấy hôm nay là kết quả của những tấm lòng mộ đạo và những sự đóng góp vô cùng quý hiếm.
Tháp Đại Bồ-Đề đương nhiên là một công trình huy hoàng và nổi bật nhất trong khu vực Thánh Địa Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng). Cao 52m, với tổng diện tích phần nền móng hình vuông là 231 m2, mỗi cạnh vuông là 15.2 m2 (50 feet), bao gồm một tháp lớn hình kiểu kim tự tháp và 4 tháp nhỏ nằm ở 4 góc, là những mô hình thu nhỏ của tháp lớn.(Hình 9). Cổng chính quay về hướng Đông, phía trước bên ngoài cổng là một cổng chào bằng đá do vua Asoka xây, được chạm khắc rất tinh xảo. Những khoảng trống âm tường của cả 2 mặt vách của Bảo Tháp đều có khắc hình tượng Phật. Gian đại Chánh Điện (Sanctum) ở tầng trệt sau khi đi qua một lối đi có mái vòm vòng cung, hai bên là cầu thang bằng đá dẫn lên một điện thờ nhỏ hơn nằm ở tầng một. Ngay sau khi tiến vào đại Chánh Điện, chúng ta sẽ gặp ngay một tượng Phật bằng đá mạ vàng trong tư thế ngồi với tay phải tiếp đất (bhumi phassa-mudra) trong ngày Giác Ngộ.
Chỉ cần ngắm nhìn bức tượng Phật lộng lẫy, trái tim của người hành hương chắc chắn sẽ khởi sinh niềm hoan hỷ và thành kính!. Đó là kết quả của lòng tin và lòng kính đạo của người hành hương trong việc làm theo lời khuyên dạy của Đức Phật là “nên đến viếng thăm và chiêm bái với lòng thành kính”.
Bức tượng Phật bằng đá mạ vàng được làm từ thế kỷ 10 sau CN. Ở đây, Đức Phật được miêu tả trong tư thế ngồi trên (miếng lót) tọa cụ, thay vì trên một đài sen. Tọa cụ được đặt trên một bệ dài lớn hơn, dày hơn, trên mặt vách dày hơn đó có khắc hình lần lượt sư tử, voi. Tư thế ngồi trên tọa cụ là nét chung được tìm thấy ở rất nhiều hình, tượng Phật khác ở Đông Ấn Độ, có thể được làm theo kiểu của bức tượng này. Nhiều người đã không biết được rằng bức tượng này đã không được đặt ở đây trong những cuộc khảo cổ xung quanh khu vực Buddhagaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) bởi chính quyền thuộc địa của người Anh lúc bấy giờ. Theo một bài báo viết về “Những Tượng Điêu Khắc Bồ-Đề Đạo Tràng ở Sambodhi, 1993” (Buddhagaya Sculptures in the Sambodhi, 1993), R. L. Mitra đã ghi rằng, bức tượng đã bị đặt trong khu vực của Mahant. Sau đó theo yêu cầu của Ngài Cunningham và Beglar, (những nhà khảo cổ học tiến hành cuộc đại trùng tu, như đã nói ở phần trên), bức tượng đã được dời qua đặt tại vị trí hiện tại trong Chánh Điện. Nhờ công đức và sự can thiệp của 2 người đáng kính này, bức tượng đã được đặt vào nơi đúng đắn ở Chánh Điện cho những người hành hương sau này được chiêm bái, thay vì như trước đây bị lãng quên, lãng phí ở trong bên khu vực của Mahant đạo Hindu.
2) Cây Bồ-Đề (Bodhidruma)
Cây Bồ-Đề (Bodhi), nơi Đức Phật ngồi tọa thiền bên dưới và chứng đạt Giác Ngộ Tối Thượng, đứng ở phía sau Tháp Đại Bồ-Đề. Đó là một cây Tất-Bát-La (thuộc họ Ficus religiosa), tiếng Pali gọi là cây “assattha”, có nghĩa là an lạc.
Truyền thuyết nói rằng cây này mọc lên cùng lúc Đức Phật đản sinh, như là một loại đồng sinh (sahajata) của Người vậy – (tiếng Anh: co-natal). Theo nhiều luận giảng, nhiều vị Phật khác nhau cũng đắc đạo khi ngồi dưới một gốc cây, bất cứ loại cây nào mà vị Phật đó chọn, và mỗi cây đó đều trở thành cây Bồ-Đề, tức là cây Giác Ngộ trong cõi của vị Phật đó. Trong cõi này, cây Tất-Bát-La trở thành Cây Giác Ngộ hay Cây Bồ-Đề và chỉ có Cây Bồ-Đề của Đức Phật Cồ-Đàm là được tôn kính. Di tích Cây Bồ-Đề này là tượng trưng giống nhau cho tất cả chư Phật. Người ta tin rằng không nơi nào trên thế gian này có thể hỗ trợ cho uy nghi của sự Giác Ngộ của Đức Phật. Nền đất ở đây rất chắc, không hề bị lung lay, di chuyển ngay cả khi trái đất rung chuyển thế gian để xua đuổi Ma Vương và đội quân của ông ta đến để thách thức, phá rối nhằm làm cho vị Bồ-tát phải rời bỏ chỗ ngồi Giác Ngộ. Ngay cả Vua Trời Sakka Devaraja cũng không thể bay qua ngang cây Bồ-Đề. Lực hút siêu nhiên ở nơi đó được gọi là Trung tâm điểm hay cái Rốn của Trái Đất.
Vào thời xưa những vị Vua và thường dân đã đến nơi này để suy tôn cây Bồ-Đề. Vì cây Bồ-Đề trở thành đối tượng được tôn vinh của những Phật tử, nên lẽ tự nhiên cây trở thành mục tiêu phá hủy bởi những kẻ thù hằn Phật giáo. Theo Ngài Huyền Trang, Cây Bồ-Đề đầu tiên lại bị chặt phá bởi Vua Asoka, nhưng sau này, nhà Vua ân hận, đã chăm bón lại Cây Bồ-Đề bằng cách tưới tẩm nước hương thơm và sữa tươi vào rễ cây. Nhà Vua thể hiện lòng thành kính sâu sắc đối với cây Bồ-Đề, đến nỗi một hoàng hậu đương triều lúc đó của nhà Vua là Tissarakkha, đã trở nên ghen tị với Cây Bồ-Đề và đã cho người lén lút phá hủy cây. Nhà Vua lại tiếp tục làm sống lại cây. Sau đó, nhà Vua cho xây bức tường cao 3m xung quanh cây để bảo vệ. Sau khi sự sụp đổ của triều đại đế chế Maurya vào thế kỷ 2 trước CN, vua của triều đại Sunga, Pusyamitra, là kẻ tra tấn Phật giáo, lại phá hủy Cây Bồ-Đề. Nhưng một cây con của chính Cây Bồ-Đề nguyên thủy được mang về từ Tích Lan, và được trồng lại đúng ngay chỗ ấy. Vào thế kỷ 6 sau CN, Sasanka, một vua Hindu, lại chặt phá Cây Bồ-Đề, nhưng sau đó, một cây con của Cây Bồ-Đề lại được mang về từ Tích Lan và được trồng lại bởi nhà Vua Purvavarma của nước Magadha (Ma-kiệt-đà), và ông cũng đã cho xây bức tường cao 7.3m để rào Cây Bồ-Đề lại. Bức tường này chỉ còn lại 6.1m khi Ngài Huyền Trang viếng thăm trong lịch sử.
Đến năm 1876, Cây Bồ-Đề già bị ngã đổ trong một trận bão và một cây con của Cây Bồ-Đề được trồng lại chính ngay chỗ cũ bởi Ngài Cunningham. Đến nay, Cây Bồ-Đề này đã 135 tuổi.
3) Tòa Kim Cương (Vajrasana)
Tòa Kim Cương (Vajrasana) nằm giữa Cây Bồ-Đề và Tháp Đại Bồ-Đề. Điểm này đánh dấu đích thực ngay chỗ ngồi của Đức Phật lúc chứng đạt sự Giác Ngộ Tối Thượng. Hiện nay, chỗ này được đánh dấu bằng một tảng đá sa thạch dài 2.3m, rộng 1.3m và dày 0.9m (Hình 10). Những người hành hương khi đến thánh điểm thuận lợi (đầy hộ niệm) này nên dành thời gian để quán chiếu công hạnh của Đức Phật để tăng trưởng tròn đầy lòng tin và sự an lạc có được nhờ chánh niệm để phát triển trí tuệ minh sát.
4) Đức Phật Ở Lại 7 Chỗ sau khi Giác Ngộ
Sau khi giác ngộ thành Phật vào đêm Trăng Tròn tháng Wesak, đến rạng sáng, Đức Phật đã thầm reo lên khúc ca vui mừng, hỷ lạc viên mãn. Ngài quyết định tiếp tục ngồi trên Tòa Kim Cương (Vajrasana), chỗ ngồi bất bại và tối thắng trước cuộc chiến với Ma Vương và Người đã thành tựu viên mãn mọi ước nguyện trước đây, bao gồm cả đại nguyện thành Phật. Đó là thời điểm cả thế gian trời, người còn ghi nhớ đến tận ngày nay. Và sau đó, Đức Phật nhịn đói luôn suốt bảy tuần và lưu lại bên dưới và xung quanh khu vực gần gốc Cây Bồ-Đề.
(i) Tuần Lễ Đầu Tiên: Đức Phật Tọa Thiền Trên Tòa Kim Cương (Pallanka Sattaha)
Trong suốt bảy ngày của tuần lễ đầu tiên, Đức Phật ngồi yên một tư thế, trải nghiệm niềm An Lạc của Sự Giải Thoát. Sau 7 ngày, ra khỏi định an lạc đó và suy tưởng về Thuyết Duyên Khởi (Paticca Samuppada) suốt một đêm.
(ii) Tuần Lễ Thứ Hai: Đức Phật Ngắm Nhìn Cây Bồ-Đề (Animisa Sattaha)
Trong tuần thứ hai, để tỏ lòng tri ân sâu sắc đối với cây Bồ-Đề đã che chở cho Người suốt thời gian thiền hành để thành Đạo, Ngài đã đứng chăm chú ngắm nhìn cây Bồ-Đề suốt một tuần liền mà không hề nháy mắt (Animisalocana). Về sau, chính nơi này, vua Asoka đã dựng lên một tháp kỷ niệm gọi là Animisalocana Cetiva và đến nay vẫn còn. (Hình 11).
(iii) Tuần Lễ Thứ Ba: Đức Phật Đi Hành Thiền (Cankama Sattaha)
Trong suốt tuần thứ ba, Đức Phật đi kinh hành lên xuống trên quãng đường gần cây Bồ-Đề, sau này được gọi là “Đường Kinh Hành Ngọc Báu” (Ratana Cankamana: đường kinh hành ngọc báu). (Hình 12).
(iv) Tuần lễ Thứ Tư: Đức Phật Ngự Trong Bảo Điện (Ratanaghara Sattaha)
Trong tuần lễ thứ tư, Đức Phật ngồi tham thiền trong thất, được gọi là “Bảo Thất” (Ratanaghara: nghĩa là cái phòng bằng ngọc báu, trong ý nghĩa “cái phòng quý báu”) để suy niệm về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), triết giảng về những Chân lý Tuyệt đối, tột cùng liên quan đến phạm trù danh và sắc (tâm và vật chất). Trong khi Đức Phật quán chiếu về triết lý sâu sắc và vi diệu là Luận Thuyết về Nhân Duyên (Patthana, tiếng Anh: Conditional Relations), Người vui mừng và khởi sinh niềm hỷ lạc thật lớn lao trong tâm Toàn Trí cvuaR Người, làm phát quang bên trong sắc thân, Kinh sách ghi nhận rằng, tâm và thân Người phát sáng một vầng hào quang sáu màu – xanh, vàng, trắng, đỏ, hồng và luồng ánh sáng kết hợp 5 màu đó. Vị trí của Bảo Thất này được đánh dấu bằng một Điện Tháp, phía trước có một bia đá có khắc chữ ghi lại nơi Đức Phật đã ngồi và suy niệm về thuyết Nhân Duyên (Patthana). Điện Tháp này cũng nằm trong khuôn viên Tháp Đại Bồ-Đề, sát bên hướng Bắc của Đường Kinh Hành Ngọc Báu (Cankama). (Hình 13).
v) Tuần lễ Thứ Năm: Đức Phật Ngồi Dưới Cây Ajapala Banyan Nigrodha (Ajapala Sattaha)
Trong tuần thứ năm, Đức Phật ngồi dưới cây Ajapala Banyan để suy niệm về Giáo Pháp và thấm nhuần niềm hạnh phúc của sự giải thoát. (Ajapala có nghĩa là “chỗ của người chăn dê”. Cây Banyan là một loại cây đa, cây này là nơi những người chăn dê trong vùng thường ngồi nghỉ trong khi thả cho bầy dê ăn cỏ). Vào cuối tuần, khi Ngài xuất ra khỏi trạng thái siêu thế ấy, có một vị Bà-la-môn ngã mạn (Huhumka Jakita) đến gần và hỏi Người rằng “đứng về phương diện nào và những điều kiện nào ông ta có thể trở thành một thánh nhân (Brahmana)?”. Đức Phật đã trả lời và chỉ ra những phẩm chất cần có của một Bà-la-môn đích thực nên có. Vị trí di tích này được đánh dấu bằng một bia đá bảng hiệu gắn trên cột bê-tông, có khắc chữ ghi chú để tưởng niệm. (Hình 14).
vi) Tuần lễ Thứ Sáu: Đức Phật Ngồi Dưới Cây Mucalinda (Mucalinda Sattaha)
Tuần thứ sáu, Đức Phật đến ngồi dưới cây Mucalinda, gọi theo tên của Mãng Xà Vương (cây thuộc họ Barringtonia acutangula). Lúc bấy giờ, trời giông bão, gió lạnh mù mịt kéo dài suốt bảy ngày. Truyền thuyết kể lại rằng, Mucalinda, Vua Rắn từ dưới hồ nước đi lên, dùng thân quấn quanh người Đức Phật và lấy cái mỏ to che trên đầu Đức Phật để che chở, bảo vệ cho Người. Vị trí di tích cũng là Ao Mucalinda (Ao Mãng Xà Vương) ngày nay, ở phía Nam và gần bên Tháp Đại Bồ-Đề. (Hình 15).
vii) Tuần Thứ Bảy: Đức Phật Ngồi Dưới Cây Rajayatana (Rajayatana Sattaha)
Tuần thứ bảy, Đức Phật đến ngồi dưới cây Rajayatana, (thuộc họ Buchanania latifolia) gần Tháp Đại Bồ-Đề. Lúc đó có hai người lái buôn tên là Tapussa và Bhallika đến từ Ukkala (Orissa) dâng lên cúng dường Đức Phật bánh gạo nếp và mật ong. Sau khi Đức Phật thọ trai bữa ăn xong, hai người quỳ lạy dưới chân Người và xin được quy y nương tựa vào Đức Phật và Giáo Pháp của Người. Họ trở thành những Phật Tử cư sĩ đầu tiên, quy y vào Phật & Pháp (Nhị Bảo). Sau lúc đó, Đức Phật đưa tay lên đầu và lấy 8 sợi tóc của mình để tặng cho 2 Phật tử đầu tiên. Sau này, hai anh em trở về lại Miến Điện với xá lợi tóc quý giá đó, sau này xá lợi tóc đó được đặt thờ trong ngôi Chùa Shwedagon Pagoda ở thủ đô Yangon. Vị trí di tích này, ở phía Nam Tháp Đại Bồ-Đề, được đánh dấu bằng một bia đá bảng hiệu gắn trên cột bê-tông, có khắc chữ ghi chú để tưởng niệm. (Hình 16).
5) Nhà Của Cô Sujata Kuti
Trước khi Giác Ngộ, vị Bồ-tát đã ở gần bờ sông Neranjara (Ni-Liên-Thuyền) trong hang động Dungeswari. Hang động này ở trên một ngọn đồi, tên là Đồi Dhongra, cách Bồ-Đề Đạo Tràng khoảng 1 giờ đi bộ. Sau khi trải qua 6 năm tu hành khổ hạnh một cách đau đớn và vô ích, Người quyết định đi theo con đường Trung Đạo và bắt đầu đi về hướng Rừng Uruvela gần ngôi làng Senanigama, ở đây, chúng ta có thể thấy được khu di tích ‘Nhà của cô Sujata’, nằm trên một dãi đất nhỏ. Trong làng, chúng ta cũng có thể thăm một Miếu Thờ, dưới bóng một cây Banyan, trong đó có những tượng miêu tả cảnh Cô Sujata dâng cháo gạo sữa cho Bồ-tát vào ngày trước đêm Người giác ngộ thành Phật. (Hình 19).
6) Rừng Uruvela
Khu vực, trước kia là rừng, bây giờ là một khu cây cỏ mọc, gần chỗ Miếu Thờ Sujata. Tại đây, chúng ta có thể thấy một di tích xây có một cái giếng cạn. (Hình 20). Nơi đây được tin là ‘hầm lửa’ của ba anh em nhà Ca Diếp Kassapa, những Jalita búi tóc thờ thần lửa có đến 1 ngàn đệ tử. Ở đây, Đức Phật cũng đã hàn phục một con rắn, ẩn núp trong hầm lửa. Sự thu phục người anh Ca Diếp (Kassapa Uruvela) đã mất nhiều thời gian hơn. Đức Phật đã phải dùng đến thần thông mới thuyết phục và chuyển hóa những Jalita thờ thần lửa được. Sau khi Uruvela Kassapa (Hán Việt đọc: Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) trở thành đệ tử của Đức Phật, 2 người em, Nadi và Gaya, cùng những đệ tử của họ cũng đi theo. Sau khi nghe Phật thuyết giảng Kinh Lửa, một ngàn Tỳ kheo mới vừa được thọ giáo vào Tăng đoàn đã đều trở thành A-la-hán (Arahants).
7) Pragbodhi, Nơi Bồ-tát thực hành Tu Khổ Hạnh 6 năm
Trước khi Giác Ngộ, Bồ-tát đã ở bên bờ hữu ngạn sông Neranjara (Ni Liên Kiền) trong một khu rừng gần Pragbodhi, phía trước đồi Bồ Đề (Bodhi). Truyền thuyết kể rằng Người sống trong một hang động nhỏ có tên là Dungeswari, nằm ngang dốc lên đỉnh đồi. Sau khi đã thực hành việc tu khổ hạnh, hành xác 6 năm trời, Người quyết định đi theo con đường Trung Đạo, và đến khu rừng Uruvela gần ngôi làng Senanigama, tức ngôi làng Bakraur ngày nay. Chúng ta leo lên một đoạn dốc đứng dẫn đến một ngôi chùa nhỏ tên là Chùa Hang Động Dungeswari do những nhà sư Tây Tạng trông nom. Bên
trong hang động Dungeswari, (Hình 18), có một bức tượng vị Bồ-tát với thân hình chỉ còn lại xương, sau 6 năm hành xác, khổ hạnh. Đồi Pragbodhi (rất nhiều khu di tích trên nhưng ngọn núi nhỏ, người ta vẫn gọi là đồi) ngày nay gọi là đồi Dhongra, (Hình 17), cách làng về phía Đông Bắc khoảng 1 dặm Anh (1.6 km), cách khoảng 30 phút lái xe đến Rajgir (thành Vương-xá).
8) Những Chùa & Tu Viện ở Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng)
Bodhgaya (Bồ-Đề Đạo Tràng) là cái nôi của Phật giáo. Trong khu vực chiếm khoảng 15km2, nhưng trong một diện tích nhỏ này có đến 30 tu viện và cơ sở đại diện cho nhiều quốc gia Phật giáo trên thế giới, trong một cộng đồng Phật giáo nhỏ ở đây. Một cuộc thăm viếng đến những ngôi Chùa ở đây sẽ giúp cho chúng ta hiểu được Phật giáo được thực hành ở những nước khác nhau như thế nào, theo văn hóa địa phương của họ, mà vẫn theo đúng Phật Pháp. Ở đó cũng có một trung tâm Thiền Minh Sát Vipassana, chẳng hạn như trong Chùa Miến Điện (Burmese Vihara) và Trung Tâm Thiền Quốc tế. Danh sách những tên, những đền, chùa, tu viện Phật giáo và cơ sở Phật giáo được ghi trong Chương Trình Lưu Niệm Buddha Mahotsav 1999 theo thứ tự chữ cái như sau:
Tăng Đoàn Toàn Ấn Độ (All India Bhikkhu Sangha), Trung Tâm Văn Hóa Phật giáo Châu Á (Asian Buddhist Culture Centre), Chùa Bangladesh (Bangladesh Temple), Ban Quản Lý Bồ-Đề Đạo Tràng (Buddhagaya Temple Management Committee), Chùa Miến Điện (Burmese Vihara), Chùa Trung Hoa (Chinese Temple), Chùa Đại Tạng Kinh Nhật Bản (Đaijokyo Japanese Buddhist Temple), Trung Tâm Thiền Pháp Giác (Dhamma Bodhi Meditation Centre), Qũy Từ Thiện Drikyug (Drikyug Charitable Trust), Chùa Druk Nawag Thupten Choeling, Chùa Nhật Bản Indosan Nipponjee (Indosan Nipponjee Japanese Temple), Trung Tâm Thiền Quốc Tế (International Meditation Centre), Chùa Jambunad Vihar, Chùa Karma Temple, Chùa Triều Tiên, Hội Đại Bồ-Đề (Maha Bodhi Society), Dự Án Di-Lặc (Maitreya Project), Chùa Nav Bauddha Vihar, Chùa Panch Sheela Vihar, Viện Văn Hóa Trí Tuệ Root (Root Institute for Wisdom Culture), Chùa Hoàng Gia Bhutan (Royal Bhutan Temple), Tu Viện Thích Ca (Sakya Monastery), Hội Văn Hóa và Phúc Lợi Tam Bồ-Đề (Sambodhi Welfare and Cultural Society), Tu Viện Shechen Monastery, Chùa Đài Loan (Taiwan Temple), Chùa Tamang Nepal Temple, Hội Bharat Thái Lan (Thai Bharat Society), Chùa Thái Lan Bodhi Kam, Chùa Tây Tạng (Tibetan Temple), Trung Tâm Trailokya Centre, Chùa Việt Nam Quốc Tự và Chùa Thái Lan (Wat Thai).
tuniemxu.org