2021-07-20, 10:12 PM
HỒI KÝ TAM BỘ NHẤT BÁI (Chương 1)
[b]Chương I
Từ San Francisco đến Garberville
Ngày 16 Tháng 10 Năm 1973. Ngày khởi sự. Hằng Cụ viết:
Sáng hôm nay tất cả mọi người ở Chùa Kim Sơn tiển đưa chúng tôi đến tận công viên nhỏ gần cầu Golden Gate, nơi mà tôi đã bỏ cuộc lúc trước. Không lãng phí chút thời gian nào, tôi bắt đầu lạy ngay về hướng bắc, Thầy Hằng Do đi liền theo sau, trên lưng mang một túi đầy vật dụng. Lúc đó có khoảng hai mươi vị gồm cả Tăng, Ni và cư sĩ vừa đi chung quanh chúng tôi vừa trì niệm chú Ðại Bi gồm 415 âm vần.
Sau khi lạy qua hai con đường, tôi chuẩn bị băng qua đại lộ phía trước của Marina, thì có đoàn xe cứu hỏa chạy đến và ngừng ngay trước mặt. Hơi một chút sửng sờ vì chúng tôi không biết họ đang muốn làm gì, chắc họ cũng thắc mắc về việc chúng tôi đang làm. Ðường lộ khi ấy lại rất nhiều xe cộ nên khó mà băng qua theo kiểu Tam Bộ Nhất Bái, vì vậy tôi cứ đứng tại chỗ mà lạy. Ðược một lúc, thấy cảnh tượng nầy chắc sẽ gây sự chú ý, nên cuối cùng tôi đành quyết định đi qua lộ như thường, rồi sẽ tiếp tục lạy khi tới bên kia đường. Lúc chúng tôi tiến gần đến lối vào cầu thì nhóm xe chữa lửa lúc nãy mới bỏ đi, còn chúng tôi thì tiếp tục cuộc hành trình. Thầy Hằng Do với túi đồ đi trước khoảng vài trăm thước, ở đó lạy, đợi đến khi tôi đi ngang qua, Thầy lại mang túi hành trang lên, đi về phía trước và lạy tiếp....
Lên đến cầu Goden Gate, chúng tôi gặp mối trở ngại đầu tiên. Một viên chức giữ cầu chạy ra nói rằng nếu chúng tôi cứ tiếp tục làm "như thế" để qua cầu thì ông sẽ đuổi chúng tôi ngay.
Ông bảo: "Hoặc là đi như những con người bình thường, bằng không thì không được qua cầu."
Rồi ông nói tiếp: "Mà cái gì vậy? Mấy ông tính làm gì đây?"
Thấy rõ ông ta muốn kiếm chuyện, nên tôi nói: "Ðể chúng tôi suy nghĩ về chuyện đó chút đã."
Nghe thế ông ta lấy làm bối rối và cũng không nói được thêm gì. Lễ lạy tại chỗ được một lúc, thấy không còn cách nào hơn nên chúng tôi quyết định đi qua cầu như "những con người bình thường." Qua đến bên kia cầu là vùng Marin, trong khi tiếp tục lạy tôi chợt nhớ lời Sư Phụ dạy lúc chia tay:
"Ngày mai chỉ trong một niệm là Hằng Cụ và Hằng Do sẽ qua khỏi cầu."
Từ đây chúng tôi dự định sẽ tiến tới bờ biển Stinson và thẳng lên xa lộ Một (Highway 1), cuối đường là giáp vùng Legget, California. Từ đó sẽ chuyển sang xa lộ 101 để thẳng tiến đến trung tâm của tiểu bang Washington rồi sau đó thì vào nội địa Seattle. Dựa theo bản đồ thì chúng tôi hầu như sẽ không gặp đại lộ (free way) nào cả.
Chúng tôi vừa mới qua cầu Golden Gate và dựng lều dưới những lùm cây gần lối vào khu Sausalito.
Ngày 17 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Cụ viết:
Hôm nay trong buổi nắng sáng, chúng tôi rời xa lộ 101 để vào vùng Sausalito. Nhiều đoàn xe như Porsches và Volkswagens chạy vùn vụt ngang qua để vào thành phố lớn làm việc. Khi chúng tôi đến khu phố nhỏ im lìm bên bờ vịnh, tuy hai bên đường đã có nhiều người dừng lại nhìn chòng chọc, nhưng chỉ có một bà cụ đến hỏi chuyện chúng tôi thôi. Ðến trưa, Quả Dung Epstein cùng gia đình và người bạn tên Tom Yager mang đến thức ăn Tàu còn nóng hổi. Tiến sĩ Epstein, giáo sư dạy triết ở trường đại học San Francisco State, tỏ lòng mến mộ về việc làm của chúng tôi. Sau bữa cơm trưa, chúng tôi tiếp tục lạy. Có con chó dại thân đầy ghẻ lở, chạy lon ton vòng quanh theo tôi, vừa rên rỉ vừa tru lên như than thở.
Nói chung, mọi người đều như tránh xa chúng tôi. Có lẽ họ nghĩ rằng đây là một trò ảo thuật quảng cáo gì đó. Tôi tự hỏi không biết có bao nhiêu người ý thức rõ được về những cái hay, có thể biểu hiện trong việc lễ lạy như vầy. Tại Ðông phương, đặc biệt là Ấn Ðộ, Trung Hoa và các nước theo Phật Giáo, lễ lạy là một cách diễn tả sự cung kính, chào hỏi và phục tùng. Trung Quốc thời xưa, xem việc lễ bái gần giống như là sự bắt tay như ở xứ Mỹ ngày nay. Công nhân kính lạy chủ nhân (quý tộc), chủ nhân bái kiến các Lãnh chúa, Lãnh chúa lễ phục Hoàng Ðế, cũng có khi Hoàng Ðế lạy xá những vị Tăng đã giác ngộ và thỉnh cầu sự chỉ dạy cách thức thống trị quốc gia. Tuy nhiên sự lễ lạy đối với chúng tôi lại là phương tiện của thiền định. Phương pháp nầy dẫn đến sự tập trung tư tưởng hơn hết, vì nó không đòi hỏi suy nghĩ hay nói năng gì. Những động tác chầm chậm nhẹ nhàng, lập đi lập lại mới chính là sự luyện tập trong hiểu biết, với chủ ý làm dừng lại những loạn tưởng trong tâm thức. Nhờ vậy tự tánh vốn vượt ngoài cái lý bất nhị sẽ được phơi bày. Tự tánh nầy như hư không, bao trùm tất cả, tức không sanh cũng không diệt. Mục đích tu tập của người Phật tử là để trở về với tự tánh sẵn có của mình. Cho nên thiền tập bằng cách lễ lạy là một trong những phương pháp đưa đến trạng thái đó.
Hôm nay chúng tôi lạy thẳng một mạch xuyên qua thành phố Sausalito được năm dặm đường, và đang dựng lều trong bụi cây, giáp ranh vùng Tamalpais. Ngày mai chúng tôi sẽ tiến lên ngọn đồi cao qua con đường nhỏ ngoằn ngoèo dẫn ra bờ biển.
Ngày 18 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Con đường chật hẹp lại khúc khuỷu và lõm chỏm đầy sỏi đá. Thầy Hằng Cụ biết ngay những viên sỏi đá bén nhọn nầy sẽ càu rách tay và đầu gối, nên chúng tôi phòng ngừa bằng cách xé áo quấn quanh đầu gối.
Mấy hôm trước, cái quần tôi đang mặc trông cũng còn khá lắm, vậy mà bây giờ đã có nhiều chỗ bị mòn mỏng tanh, tôi lại vô ý không đem thêm cái nào để phòng bị. Sáng nay, khi đứng tại chỗ lạy để chờ sư huynh đến thì phía sau đít quần tôi bị tét ra. Cũng may là nhờ có cái y (cà sa) che khuất chỗ rách. Tôi định lát nữa sẽ vá lại, nhưng càng tiếp tục lạy thì nhiều chỗ khác lại càng rách thêm ra. Thế nầy thì hết phương vá víu. Trong mấy ngày qua, người ta đã thấy có hai Tu sĩ Phật Giáo vừa đi vừa lạy trước công chúng, chỉ vậy cũng đủ làm họ sửng sốt rồi, nói chi bây giờ lại trông thấy một ông Thầy tu lễ lạy với cái quần rách đít (tả tơi) thì thật là quá sức tưởng tượng! Chắc tôi sẽ bị bắt về tội phơi bày… bất chánh quá! Gió lạnh biển Thái Bình Dương còn thổi xuyên qua những lỗ rách khiến tôi thêm rét buốt thấu xương. Khi Thầy Hằng Cụ vừa lạy tới, tôi đề cập ngay đến thảm trạng đang cần một cái quần, nhưng sư huynh tôi cũng chẳng làm gì được hơn. Chúng tôi không có dư một cái quần nào và cũng không có tiền để mua quần mới. Nhiều người đi ngang ném cho tôi những cái nhìn thiệt là kỳ cục.
Tôi vác túi hành lý lên và bắt đầu đi về phía trước, đến ngay góc đường đầu tiên, chợt thấy một đống vải màu nâu nằm chắn lối. Mừng quá, tôi chạy tới lượm lên, thì ra là cái quần tây đàn ông, cỡ (size) 34. Ðúng là kích thước của tôi, không nhỏ quá, cũng không lớn quá, rất vừa vặn, thật là chuyện khó tin. Tôi nhảy vào bụi rậm để mặc vào, thật hoàn toàn vừa vặn. Không biết vị Bồ Tát nào, hay ai đó đã để cái quần nầy ngay trên lối đi của tôi. Nhưng dầu sao đi nữa, tôi thật biết ơn vô cùng.
Hôm nay chúng tôi lạy xuyên qua ranh giới Tamalpais được sáu dặm và đang cắm trại trên đồi, giữa những hàng cây Bách Hương. Thật ra chúng tôi không có lều chõng gì mà chỉ có được tấm ni-lon, nhưng vậy cũng đủ để tránh những cơn mưa gió phủ phàng.
Ngày 19 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Trong ba ngày đầu tiên sống ngoài trời của chuyến đi, tôi đã đối diện với hàng triệu hình dạng của cuộc sống, như cây cỏ, côn trùng và súc vật. Dù cho số lượng có nhiều vô số kể, dù dưới mọi hình thể khác nhau, nhưng tất cả không sớm thì muộn đều cũng phải chết. Mọi cuộc sống đều theo một khuôn mẫu là: Sanh, trụ, hoại và không. Sanh là do các yếu tố hữu duyên hợp lại tạo thành thân thể. Trụ là khoảng thời gian những yếu tố nầy còn trong tình trạng hòa hợp. Hoại là khi các yếu tố nầy tan rã. Không là khi sự liên hệ giữa chúng tuyệt nhiên chấm dứt và thân thể đó không còn tồn tại nữa.
Với khung cảnh bao la ngoài trời nầy, tư tưởng tôi không có những bức tường chướng ngại, nên tâm tôi như tủa vút lên tận trời cao và hòa lẫn vào những vì sao. Không có gì cản trở, tôi tiếp tục suy ngẫm đến những câu hỏi bất hủ về kiếp nhân sanh. Tôi là ai? Tôi đang đi về đâu? Các vị Thánh Hiền bảo rằng câu trả lời đang ẩn ở phía bên trong. Vậy thì việc bái hương nầy sẽ là một chuyến đi thuộc về tâm linh đó. Khi nào tôi phá vỡ được cái vỏ hư vọng của bản ngã, thì tất cả những phân biệt trong và ngoài sẽ biến mất, và tôi sẽ thấy thế gian nầy như là chính bản thân tôi. Thế nên đức Phật đã dạy về lòng Từ Bi, một khi biết được rằng bạn thực sự là tất cả, thì bạn sẽ đối xử tốt với tất cả.
Ngày 20 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Mưa tầm tả. Chúng tôi chầm chậm xuống đồi để ra xa lộ Một, khi tiến về hướng bắc, bờ biển Stinson, có ông say rượu hét bảo Thầy Hằng Cụ (từ khoảng cách an toàn): "Ê! Thằng hề. Cút đi!"
Sau một ngày mệt mỏi, chúng tôi dựng lều trên một đồi cỏ nuôi bò, hướng về phía bờ biển. Giờ đây, tôi vừa ghi chép vừa nhìn chăm chăm vào ngọn lửa nhỏ mà chúng tôi đã xoay trở lắm mới nhúm cháy được. Sẽ có ai đó thấy được những làn khói bay ra từ mấy nhánh củi ướt, rồi đến bắt chúng tôi về tội cắm trại bất hợp pháp chăng? Không đâu! Gió biển mạnh đã thổi tan cả rồi! Chúng tôi cũng vẫn dựng lều bằng mấy tấm ni-lon để nghỉ cho qua đêm dài lạnh lẽo. Năm dặm thật là một đoạn đường dài để quỳ lạy. Thầy Hằng Cụ nói là lúc nào cũng thích đi du lịch, nhưng theo tôi nghĩ thì chuyến bái hương nầy còn có giá trị hơn là chuyện đi lang thang không mục đích. Vì hiện tại chúng tôi đang làm một việc có lý do, có mục tiêu. Tôi cảm thấy sự hiện diện của chúng tôi ở ngoài nầy thật là chánh đáng. Khi nghĩ lại cuộc đời mình, tôi cảm thấy thật đã lãng phí bao nhiêu là sức lực, và thời gian vô ích trôi qua, nên tự nguyện với lòng mỗi ngày sẽ tinh tấn hơn.
Ngày 21 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Cơn gió hú thổi qua cây lá khiến chúng tôi thức giấc. Dù trời vẫn còn tối đen, nhưng chúng tôi đã lo thu dọn lều chõng, lần mò trở ra đường. Thầy Hằng Cụ bị trặc lưng khi nhảy qua hàng rào, mặc dù vậy sư huynh tôi cũng ra tới được mặt đường vừa lạnh lẽo, vừa tối thui để bắt đầu lễ lạy.
Khi Hòa Thượng Hư Vân bắt đầu chuyến bái hương, có nhiều Tăng sĩ cũng tháp tùng theo Ngài. Nhưng chẳng bao lâu, vì mệt mỏi nên họ đã phải quay trở về. Bây giờ chúng tôi chỉ mới đi được có năm ngày thôi mà tôi cũng đã thấy rất rõ việc lễ bái một ngàn dặm (tức 1600 km) sẽ còn khó khăn hơn là tôi tưởng. Tin chắc rằng nếu như không phải vì Thầy Hằng Cụ nhất quyết làm việc chánh đáng, nhằm đem lợi ích cho thế gian thì chuyến đi nầy có lẽ sẽ bị dẹp qua một bên rồi.
Gió thổi mạnh làm gãy đứt những nhánh cây to nằm ngổn ngang trên đường. Tiếng nước mưa chảy ầm ầm vào cống rãnh, hòa vang cùng tiếng mưa rơi ào ạt. Chiều nay có ông cảnh sát đến khám xét, xem chúng tôi có phải là tội nhân vượt ngục, hay là bọn khùng điên. Ông bỏ đi với gương mặt thất vọng vì không tìm được lý do để bắt bớ. Chúng tôi căng lên tấm lều đơn sơ gần lối quẹo ra vùng Bolinas.
Ngày 22 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Trời mùa thu vùng biển nầy thật là lạnh lẽo và ướt át. Như những chúng sanh, bò, ngựa, chúng tôi cũng thích nghi ngay vào cuộc sống ở đây. Khi đi qua vùng Five Rivers (Ngũ Hà) có cô gái đem cho trà nóng.
Tôi lại nghĩ về chuyến Du hành nội tâm, thật ra nó có ý nghĩa gì? Nghĩa là chúng ta đừng nhìn ra ngoài, phải quan sát sự diễn biến ngay mỗi ý niệm của mình. Tâm ta nên trở thành những tấm gương, chớ đừng giống như những cái máy chụp hình, chỉ chụp được các vật khác, vì ảnh hưởng đến sự ngược dòng tập trung. Tâm phải được phát triển trên phương diện không bị động khi đương đầu với những xúc cảm. Là Phật tử nên quan sát rằng, mặc dù tâm hoạt động đôi khi cực kỳ phức tạp, nhưng tiến trình của nó có thể phân chia làm hai loại:
Thứ nhất là Chấp trước: Tâm có xu hướng về trạng thái khoái lạc (như trà nóng), và cố duy trì những cảm thọ đó.
Thứ hai là khuynh hướng Chối bỏ: Tâm cố thối lùi những hoàn cảnh bất như ý (như thời tiết ướt lạnh). Tâm bị xao động giữa hai sự đối nghịch nầy, đấy là nguyên nhân làm chúng ta lạc mất trí huệ căn bản, vốn bất động không ô nhiễm, luôn sẵn có trong ta.
Tu hành cốt yếu là trực tâm xoay trở về "bên trong" và tập quan sát những biến chuyển cùng nguyên nhân của nó. Kế đến nên phát triển định lực để khi đối diện bất kỳ những cảnh vui buồn gì, tâm sẽ không bị xao động. Như vậy, dần dần trí tuệ sẽ sanh trưởng. Giờ đây tôi thấy rõ là chính ngoài xa lộ nầy là nơi có rất nhiều cơ hội để khảo nghiệm lại những đạo lý trên.
Ban dịch Việt Vạn Phật Thành
[/b]
[b]Chương I
Từ San Francisco đến Garberville
Ngày 16 Tháng 10 Năm 1973. Ngày khởi sự. Hằng Cụ viết:
Sáng hôm nay tất cả mọi người ở Chùa Kim Sơn tiển đưa chúng tôi đến tận công viên nhỏ gần cầu Golden Gate, nơi mà tôi đã bỏ cuộc lúc trước. Không lãng phí chút thời gian nào, tôi bắt đầu lạy ngay về hướng bắc, Thầy Hằng Do đi liền theo sau, trên lưng mang một túi đầy vật dụng. Lúc đó có khoảng hai mươi vị gồm cả Tăng, Ni và cư sĩ vừa đi chung quanh chúng tôi vừa trì niệm chú Ðại Bi gồm 415 âm vần.
Sau khi lạy qua hai con đường, tôi chuẩn bị băng qua đại lộ phía trước của Marina, thì có đoàn xe cứu hỏa chạy đến và ngừng ngay trước mặt. Hơi một chút sửng sờ vì chúng tôi không biết họ đang muốn làm gì, chắc họ cũng thắc mắc về việc chúng tôi đang làm. Ðường lộ khi ấy lại rất nhiều xe cộ nên khó mà băng qua theo kiểu Tam Bộ Nhất Bái, vì vậy tôi cứ đứng tại chỗ mà lạy. Ðược một lúc, thấy cảnh tượng nầy chắc sẽ gây sự chú ý, nên cuối cùng tôi đành quyết định đi qua lộ như thường, rồi sẽ tiếp tục lạy khi tới bên kia đường. Lúc chúng tôi tiến gần đến lối vào cầu thì nhóm xe chữa lửa lúc nãy mới bỏ đi, còn chúng tôi thì tiếp tục cuộc hành trình. Thầy Hằng Do với túi đồ đi trước khoảng vài trăm thước, ở đó lạy, đợi đến khi tôi đi ngang qua, Thầy lại mang túi hành trang lên, đi về phía trước và lạy tiếp....
Lên đến cầu Goden Gate, chúng tôi gặp mối trở ngại đầu tiên. Một viên chức giữ cầu chạy ra nói rằng nếu chúng tôi cứ tiếp tục làm "như thế" để qua cầu thì ông sẽ đuổi chúng tôi ngay.
Ông bảo: "Hoặc là đi như những con người bình thường, bằng không thì không được qua cầu."
Rồi ông nói tiếp: "Mà cái gì vậy? Mấy ông tính làm gì đây?"
Thấy rõ ông ta muốn kiếm chuyện, nên tôi nói: "Ðể chúng tôi suy nghĩ về chuyện đó chút đã."
Nghe thế ông ta lấy làm bối rối và cũng không nói được thêm gì. Lễ lạy tại chỗ được một lúc, thấy không còn cách nào hơn nên chúng tôi quyết định đi qua cầu như "những con người bình thường." Qua đến bên kia cầu là vùng Marin, trong khi tiếp tục lạy tôi chợt nhớ lời Sư Phụ dạy lúc chia tay:
"Ngày mai chỉ trong một niệm là Hằng Cụ và Hằng Do sẽ qua khỏi cầu."
Từ đây chúng tôi dự định sẽ tiến tới bờ biển Stinson và thẳng lên xa lộ Một (Highway 1), cuối đường là giáp vùng Legget, California. Từ đó sẽ chuyển sang xa lộ 101 để thẳng tiến đến trung tâm của tiểu bang Washington rồi sau đó thì vào nội địa Seattle. Dựa theo bản đồ thì chúng tôi hầu như sẽ không gặp đại lộ (free way) nào cả.
Chúng tôi vừa mới qua cầu Golden Gate và dựng lều dưới những lùm cây gần lối vào khu Sausalito.
Ngày 17 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Cụ viết:
Hôm nay trong buổi nắng sáng, chúng tôi rời xa lộ 101 để vào vùng Sausalito. Nhiều đoàn xe như Porsches và Volkswagens chạy vùn vụt ngang qua để vào thành phố lớn làm việc. Khi chúng tôi đến khu phố nhỏ im lìm bên bờ vịnh, tuy hai bên đường đã có nhiều người dừng lại nhìn chòng chọc, nhưng chỉ có một bà cụ đến hỏi chuyện chúng tôi thôi. Ðến trưa, Quả Dung Epstein cùng gia đình và người bạn tên Tom Yager mang đến thức ăn Tàu còn nóng hổi. Tiến sĩ Epstein, giáo sư dạy triết ở trường đại học San Francisco State, tỏ lòng mến mộ về việc làm của chúng tôi. Sau bữa cơm trưa, chúng tôi tiếp tục lạy. Có con chó dại thân đầy ghẻ lở, chạy lon ton vòng quanh theo tôi, vừa rên rỉ vừa tru lên như than thở.
Nói chung, mọi người đều như tránh xa chúng tôi. Có lẽ họ nghĩ rằng đây là một trò ảo thuật quảng cáo gì đó. Tôi tự hỏi không biết có bao nhiêu người ý thức rõ được về những cái hay, có thể biểu hiện trong việc lễ lạy như vầy. Tại Ðông phương, đặc biệt là Ấn Ðộ, Trung Hoa và các nước theo Phật Giáo, lễ lạy là một cách diễn tả sự cung kính, chào hỏi và phục tùng. Trung Quốc thời xưa, xem việc lễ bái gần giống như là sự bắt tay như ở xứ Mỹ ngày nay. Công nhân kính lạy chủ nhân (quý tộc), chủ nhân bái kiến các Lãnh chúa, Lãnh chúa lễ phục Hoàng Ðế, cũng có khi Hoàng Ðế lạy xá những vị Tăng đã giác ngộ và thỉnh cầu sự chỉ dạy cách thức thống trị quốc gia. Tuy nhiên sự lễ lạy đối với chúng tôi lại là phương tiện của thiền định. Phương pháp nầy dẫn đến sự tập trung tư tưởng hơn hết, vì nó không đòi hỏi suy nghĩ hay nói năng gì. Những động tác chầm chậm nhẹ nhàng, lập đi lập lại mới chính là sự luyện tập trong hiểu biết, với chủ ý làm dừng lại những loạn tưởng trong tâm thức. Nhờ vậy tự tánh vốn vượt ngoài cái lý bất nhị sẽ được phơi bày. Tự tánh nầy như hư không, bao trùm tất cả, tức không sanh cũng không diệt. Mục đích tu tập của người Phật tử là để trở về với tự tánh sẵn có của mình. Cho nên thiền tập bằng cách lễ lạy là một trong những phương pháp đưa đến trạng thái đó.
Hôm nay chúng tôi lạy thẳng một mạch xuyên qua thành phố Sausalito được năm dặm đường, và đang dựng lều trong bụi cây, giáp ranh vùng Tamalpais. Ngày mai chúng tôi sẽ tiến lên ngọn đồi cao qua con đường nhỏ ngoằn ngoèo dẫn ra bờ biển.
Ngày 18 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Con đường chật hẹp lại khúc khuỷu và lõm chỏm đầy sỏi đá. Thầy Hằng Cụ biết ngay những viên sỏi đá bén nhọn nầy sẽ càu rách tay và đầu gối, nên chúng tôi phòng ngừa bằng cách xé áo quấn quanh đầu gối.
Mấy hôm trước, cái quần tôi đang mặc trông cũng còn khá lắm, vậy mà bây giờ đã có nhiều chỗ bị mòn mỏng tanh, tôi lại vô ý không đem thêm cái nào để phòng bị. Sáng nay, khi đứng tại chỗ lạy để chờ sư huynh đến thì phía sau đít quần tôi bị tét ra. Cũng may là nhờ có cái y (cà sa) che khuất chỗ rách. Tôi định lát nữa sẽ vá lại, nhưng càng tiếp tục lạy thì nhiều chỗ khác lại càng rách thêm ra. Thế nầy thì hết phương vá víu. Trong mấy ngày qua, người ta đã thấy có hai Tu sĩ Phật Giáo vừa đi vừa lạy trước công chúng, chỉ vậy cũng đủ làm họ sửng sốt rồi, nói chi bây giờ lại trông thấy một ông Thầy tu lễ lạy với cái quần rách đít (tả tơi) thì thật là quá sức tưởng tượng! Chắc tôi sẽ bị bắt về tội phơi bày… bất chánh quá! Gió lạnh biển Thái Bình Dương còn thổi xuyên qua những lỗ rách khiến tôi thêm rét buốt thấu xương. Khi Thầy Hằng Cụ vừa lạy tới, tôi đề cập ngay đến thảm trạng đang cần một cái quần, nhưng sư huynh tôi cũng chẳng làm gì được hơn. Chúng tôi không có dư một cái quần nào và cũng không có tiền để mua quần mới. Nhiều người đi ngang ném cho tôi những cái nhìn thiệt là kỳ cục.
Tôi vác túi hành lý lên và bắt đầu đi về phía trước, đến ngay góc đường đầu tiên, chợt thấy một đống vải màu nâu nằm chắn lối. Mừng quá, tôi chạy tới lượm lên, thì ra là cái quần tây đàn ông, cỡ (size) 34. Ðúng là kích thước của tôi, không nhỏ quá, cũng không lớn quá, rất vừa vặn, thật là chuyện khó tin. Tôi nhảy vào bụi rậm để mặc vào, thật hoàn toàn vừa vặn. Không biết vị Bồ Tát nào, hay ai đó đã để cái quần nầy ngay trên lối đi của tôi. Nhưng dầu sao đi nữa, tôi thật biết ơn vô cùng.
Hôm nay chúng tôi lạy xuyên qua ranh giới Tamalpais được sáu dặm và đang cắm trại trên đồi, giữa những hàng cây Bách Hương. Thật ra chúng tôi không có lều chõng gì mà chỉ có được tấm ni-lon, nhưng vậy cũng đủ để tránh những cơn mưa gió phủ phàng.
Ngày 19 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Trong ba ngày đầu tiên sống ngoài trời của chuyến đi, tôi đã đối diện với hàng triệu hình dạng của cuộc sống, như cây cỏ, côn trùng và súc vật. Dù cho số lượng có nhiều vô số kể, dù dưới mọi hình thể khác nhau, nhưng tất cả không sớm thì muộn đều cũng phải chết. Mọi cuộc sống đều theo một khuôn mẫu là: Sanh, trụ, hoại và không. Sanh là do các yếu tố hữu duyên hợp lại tạo thành thân thể. Trụ là khoảng thời gian những yếu tố nầy còn trong tình trạng hòa hợp. Hoại là khi các yếu tố nầy tan rã. Không là khi sự liên hệ giữa chúng tuyệt nhiên chấm dứt và thân thể đó không còn tồn tại nữa.
Với khung cảnh bao la ngoài trời nầy, tư tưởng tôi không có những bức tường chướng ngại, nên tâm tôi như tủa vút lên tận trời cao và hòa lẫn vào những vì sao. Không có gì cản trở, tôi tiếp tục suy ngẫm đến những câu hỏi bất hủ về kiếp nhân sanh. Tôi là ai? Tôi đang đi về đâu? Các vị Thánh Hiền bảo rằng câu trả lời đang ẩn ở phía bên trong. Vậy thì việc bái hương nầy sẽ là một chuyến đi thuộc về tâm linh đó. Khi nào tôi phá vỡ được cái vỏ hư vọng của bản ngã, thì tất cả những phân biệt trong và ngoài sẽ biến mất, và tôi sẽ thấy thế gian nầy như là chính bản thân tôi. Thế nên đức Phật đã dạy về lòng Từ Bi, một khi biết được rằng bạn thực sự là tất cả, thì bạn sẽ đối xử tốt với tất cả.
Ngày 20 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Mưa tầm tả. Chúng tôi chầm chậm xuống đồi để ra xa lộ Một, khi tiến về hướng bắc, bờ biển Stinson, có ông say rượu hét bảo Thầy Hằng Cụ (từ khoảng cách an toàn): "Ê! Thằng hề. Cút đi!"
Sau một ngày mệt mỏi, chúng tôi dựng lều trên một đồi cỏ nuôi bò, hướng về phía bờ biển. Giờ đây, tôi vừa ghi chép vừa nhìn chăm chăm vào ngọn lửa nhỏ mà chúng tôi đã xoay trở lắm mới nhúm cháy được. Sẽ có ai đó thấy được những làn khói bay ra từ mấy nhánh củi ướt, rồi đến bắt chúng tôi về tội cắm trại bất hợp pháp chăng? Không đâu! Gió biển mạnh đã thổi tan cả rồi! Chúng tôi cũng vẫn dựng lều bằng mấy tấm ni-lon để nghỉ cho qua đêm dài lạnh lẽo. Năm dặm thật là một đoạn đường dài để quỳ lạy. Thầy Hằng Cụ nói là lúc nào cũng thích đi du lịch, nhưng theo tôi nghĩ thì chuyến bái hương nầy còn có giá trị hơn là chuyện đi lang thang không mục đích. Vì hiện tại chúng tôi đang làm một việc có lý do, có mục tiêu. Tôi cảm thấy sự hiện diện của chúng tôi ở ngoài nầy thật là chánh đáng. Khi nghĩ lại cuộc đời mình, tôi cảm thấy thật đã lãng phí bao nhiêu là sức lực, và thời gian vô ích trôi qua, nên tự nguyện với lòng mỗi ngày sẽ tinh tấn hơn.
Ngày 21 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Cơn gió hú thổi qua cây lá khiến chúng tôi thức giấc. Dù trời vẫn còn tối đen, nhưng chúng tôi đã lo thu dọn lều chõng, lần mò trở ra đường. Thầy Hằng Cụ bị trặc lưng khi nhảy qua hàng rào, mặc dù vậy sư huynh tôi cũng ra tới được mặt đường vừa lạnh lẽo, vừa tối thui để bắt đầu lễ lạy.
Khi Hòa Thượng Hư Vân bắt đầu chuyến bái hương, có nhiều Tăng sĩ cũng tháp tùng theo Ngài. Nhưng chẳng bao lâu, vì mệt mỏi nên họ đã phải quay trở về. Bây giờ chúng tôi chỉ mới đi được có năm ngày thôi mà tôi cũng đã thấy rất rõ việc lễ bái một ngàn dặm (tức 1600 km) sẽ còn khó khăn hơn là tôi tưởng. Tin chắc rằng nếu như không phải vì Thầy Hằng Cụ nhất quyết làm việc chánh đáng, nhằm đem lợi ích cho thế gian thì chuyến đi nầy có lẽ sẽ bị dẹp qua một bên rồi.
Gió thổi mạnh làm gãy đứt những nhánh cây to nằm ngổn ngang trên đường. Tiếng nước mưa chảy ầm ầm vào cống rãnh, hòa vang cùng tiếng mưa rơi ào ạt. Chiều nay có ông cảnh sát đến khám xét, xem chúng tôi có phải là tội nhân vượt ngục, hay là bọn khùng điên. Ông bỏ đi với gương mặt thất vọng vì không tìm được lý do để bắt bớ. Chúng tôi căng lên tấm lều đơn sơ gần lối quẹo ra vùng Bolinas.
Ngày 22 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Trời mùa thu vùng biển nầy thật là lạnh lẽo và ướt át. Như những chúng sanh, bò, ngựa, chúng tôi cũng thích nghi ngay vào cuộc sống ở đây. Khi đi qua vùng Five Rivers (Ngũ Hà) có cô gái đem cho trà nóng.
Tôi lại nghĩ về chuyến Du hành nội tâm, thật ra nó có ý nghĩa gì? Nghĩa là chúng ta đừng nhìn ra ngoài, phải quan sát sự diễn biến ngay mỗi ý niệm của mình. Tâm ta nên trở thành những tấm gương, chớ đừng giống như những cái máy chụp hình, chỉ chụp được các vật khác, vì ảnh hưởng đến sự ngược dòng tập trung. Tâm phải được phát triển trên phương diện không bị động khi đương đầu với những xúc cảm. Là Phật tử nên quan sát rằng, mặc dù tâm hoạt động đôi khi cực kỳ phức tạp, nhưng tiến trình của nó có thể phân chia làm hai loại:
Thứ nhất là Chấp trước: Tâm có xu hướng về trạng thái khoái lạc (như trà nóng), và cố duy trì những cảm thọ đó.
Thứ hai là khuynh hướng Chối bỏ: Tâm cố thối lùi những hoàn cảnh bất như ý (như thời tiết ướt lạnh). Tâm bị xao động giữa hai sự đối nghịch nầy, đấy là nguyên nhân làm chúng ta lạc mất trí huệ căn bản, vốn bất động không ô nhiễm, luôn sẵn có trong ta.
Tu hành cốt yếu là trực tâm xoay trở về "bên trong" và tập quan sát những biến chuyển cùng nguyên nhân của nó. Kế đến nên phát triển định lực để khi đối diện bất kỳ những cảnh vui buồn gì, tâm sẽ không bị xao động. Như vậy, dần dần trí tuệ sẽ sanh trưởng. Giờ đây tôi thấy rõ là chính ngoài xa lộ nầy là nơi có rất nhiều cơ hội để khảo nghiệm lại những đạo lý trên.
Ban dịch Việt Vạn Phật Thành
[/b]