2021-05-30, 10:27 PM
Tích Truyện Pháp Cú
(Phẩm 01-26, Kệ 1-423)
Nguyên tác: “Buddhist Legends”,
Eugène Watson Burlingame
Tranh Vẽ: Mr. P. Wickramanayaka
(Phẩm 01-26, Kệ 1-423)
Nguyên tác: “Buddhist Legends”,
Eugène Watson Burlingame
Tranh Vẽ: Mr. P. Wickramanayaka
[b]3. Chàng Mập Tissa
[/b]
Nó mắng tôi, đánh tôi...
Lời giáo huấn này đức Ðạo sư dạy Trưởng lão Tissa lúc Ngài trú tại tịnh xá Kỳ Viên.
Hình như Ðại đức Tissa là con trai người cô của Phật. Xuất gia khi đã lớn tuổi, lại thêm dáng người mập mạp, Tissa ưa thích lợi dưỡng và sự tôn kính riêng cho Phật. Y áo của Ðại đức lúc nào cũng giặt ủi láng bóng, và ông luôn luôn ngồi giữa giảng đường tinh xá.
Một hôm, vài du tăng đến viếng Thế Tôn và tưởng Tissa là một Ðại Trưởng lão, họ xin được đặc ân hầu hạ, chùi chân cho Tissa v.v.. Ðại đức im lặng.
Lúc ấy một thầy tăng trẻ tuổi hỏi:
- Ngài được mấy hạ?
Tissa trả lời:
- Chưa có hạ nào cả. Tôi già rồi mới xin xuất gia.
Thầy tăng buột miệng:
- Ông Tỳ-kheo tồi! Ông cứ tưởng mình là quan trọng. Gặp các vị Ðại Trưởng lão này, ông cư xử chẳng lễ độ một chút nào. Khi họ xin hầu hạ ông các thứ, ông im lặng nhận lời. Ông lại không tỏ ra một chút ân hận về tư cách tồi tệ của mình!
Nói rồi, vị tăng búng tay cái tách.
Lòng kiêu hãnh của một người thuộc giai cấp chiến sĩ nổi dậy, Tissa gắt gỏng:
- Các ông đến gặp ai?
- Chúng tôi đến thăm đấng Ðạo sư.
- Nhưng đối với ta, các ông cũng phải tìm hiểu xem người này là ai chứ? Ta sẽ giết tiệt dòng họ các ông!
Nói một mạch cho hả hơi, rồi Tissa đi đến chỗ Phật buồn rầu khóc lóc. Ðấng Ðạo sư thấy vậy mới hỏi:
- Tissa, sao vậy? Sao ông đến đây tèm lem nước mắt, sầu khổ thế kia?
Các du tăng trước đây có bàn với nhau không dám để Tissa đi một mình e gây nhiều chuyện rắc rối, nên đi theo Tissa, đến đảnh lễ đức Ðạo sư và cung kính ngồi một bên.
Tissa nghe Phật hỏi liền đáp:
- Bạch Thế Tôn, những Sa-môn này lăng mạ con.
- Nhưng ông đang ngồi ở đâu?
- Ở giữa giảng đường tinh xá, bạch Thế Tôn!
- Khi những Sa-môn này đến, ông có thấy họ không?
- Con có thấy họ, bạch Thế Tôn!
- Ông có đứng dậy chào họ không?
- Thưa Thế Tôn, không.
- Ông có đỡ giùm đồ đạc giúp họ không?
- Bạch Thế Tôn, không. Con không đỡ giùm đồ đạc cho họ.
- Ông có sẵn lòng phục vụ họ không? Và mời nước uống không?
- Không, bạch Thế Tôn! Con không phục vụ cũng chẳng mời nước uống.
- Ông có đem tọa cụ đến mời ngồi và chùi chân cho họ không?
- Thưa không, Thế Tôn!
- Tissa, ông nên làm các việc trên đối với những Sa-môn lớn tuổi, vì ai không làm thế sẽ không được quyền ngồi giữa tịnh xá. Chỉ có ông là đáng bị rầy. Hãy xin lỗi những Sa-môn này đi!
- Nhưng họ đã lăng mạ con, Thế Tôn! Con sẽ không xin lỗi họ.
- Tissa, chớ làm như vậy. Chỉ có ông mới đáng bị rầy. Xin lỗi họ đi!
- Con không xin lỗi họ, Thế Tôn!
Các Sa-môn bạch Phật:
- Ông ấy thật là cứng đầu, thưa Thế Tôn!
Ðức Ðạo sư trả lời:
- Này các Sa-môn, đây chẳng phải là lần thứ nhất ông ấy cứng đầu. Kiếp trước ông ấy cũng đã bướng bỉnh như thế.
- Chúng con đã rõ tính ương ngạnh của ông ấy trong hiện tại, bạch Thế Tôn. Nhưng còn kiếp trước ông đã làm gì?
- Này các Sa-môn hãy lắng nghe!
Và đức Phật kể câu chuyện.
Chuyện quá khứ
3A. Devala và Nàrada
Vào thuở nọ, dưới triều một vị vua ở Ba-la-nại, có một nhà tu khổ hạnh tên là Devala sau tám tháng ở Hy-mã-lạp-sơn về thành kiếm muối và giấm. Ông cũng muốn về ở gần thành phố trong bốn tháng mùa mưa.
Gặp hai chú bé nơi cổng thành, ông hỏi:
- Các Sa-môn đến thành phố thường ngủ đêm tại đâu?
- Nơi nhà người thợ gốm, thưa Tôn giả.
Thế là Devala đi đến nhà người thợ gốm, đứng trước cửa hỏi:
- Gia chủ! Nếu người bằng lòng, tôi sẽ nghỉ lại một đêm trong nhà người.
Thợ gốm mở rộng cửa mời:
- Ban đêm tôi không làm việc, nhà lại rộng: xin Tôn giả cứ ngủ tại đây.
Devala vừa vào nhà và ngồi xuống thì có một ẩn sĩ khác tên Nàrada cũng từ Hy-mã-lạp-sơn đến xin tá túc. Người thợ gốm, với lòng tử tế và hiếu khách đối với các Sa-môn, lo lắng không biết vị ẩn sĩ đến trước có chịu ngủ chung với vị mới đến hay không, nên khéo léo bảo Nàrada:
- Nếu vị ẩn sĩ đến trước đồng ý thì xin mời Ngài.
Và Nàrada Nàrada đến gặp Devala nói:
- Thưa thầy, nếu thầy đồng lòng, tôi xin ngủ lại đây một đêm.
Devala hoan hỷ:
- Nhà còn rộng, xin mời thầy vào và ngủ lại một bên này.
Rồi Nàrada bước vào, ngồi phía sau Devala. Họ chào hỏi nhau một cách thân thiện. Ðến giờ ngủ, trước khi nằm xuống, Nàrada cẩn thận ghi nhớ chỗ của Devala và vị trí cửa ra vào. Nhưng Devala, thay vì ngủ đúng chỗ của mình, lại nằm ngay giữa lối đi. Hậu quả là khi Nàrada bước ra ngoài ban đêm, ông đạp nhằm bím tóc của Devala. Tức thì nhà khổ hạnh la toáng lên:
- Ối! Ai dẫm lên bím tóc ta?
Nàrada từ tốn trả lời:
- Thưa thầy, tôi.
Devala, giọng nóng nảy tiếp tục la:
- Ðồ đạo đức giả! Ngươi là đồ rừng rú. Ngươi đã đạp lên tóc ta!
- Thưa thầy, tôi không biết thầy nằm ở đây. Xin thứ lỗi cho tôi!.
Rồi Nàrada bước ra, để lại Devala một mình khóc lóc như bị ai bóp vỡ tim.
Chưa hết. Sau đó, Devala xoay ngược người lại, nằm xuống, đặt đầu vào chỗ ban nãy đã để chân, cố ý để Nàrada giẫm lên mình.
Nàrada bước vào, lòng dặn lòng hồi nãy mình đã lỡ xúc phạm vị đạo sĩ, lần này mình sẽ đi mé dưới chân người.
Tất nhiên là khi vừa bước vào, Nàrada dẫm ngay lên cổ Devala. Tức thì Devala hét ầm lên:
- Trời! Ai đó?
Nàrada vội vàng nói:
- Thưa thầy, tôi.
Devala lần này càng kêu to:
- Ðồ đạo đức giả! Lần đầu ngươi dẫm lên tóc ta, lần này ngươi đạp lên cổ ta. Ta sẽ nguyền rủa ngươi!
- Thưa thầy, tôi không đáng bị khiển trách. Tôi không biết thầy nằm ở phía này. Khi bước vào tôi đã hết sức dè dặt, tự nhắc nhở phải cẩn thận, đi phía dưới chân đạo sĩ, tránh xúc phạm người. Xin thầy thứ lỗi cho tôi!
Devala vẫn la oai oái:
- Ðồ đạo đức giả! Ta sẽ nguyền rủa ngươi.
- Ðừng làm vậy, thưa thầy!
Mặc những lời thiết tha xin lỗi của Nàrada, Devala vẫn rủa tiếp:
- Mặt trời có ngàn tia sáng, có trăm ánh lửa xua tan bóng tối. Sáng mai vào lúc mặt trời mọc, đầu ngươi sẽ vỡ làm bảy mảnh.
Nàrada đáp:
- Thầy, tôi đã giải bày hết lời là không phải lỗi tại tôi, thầy vẫn chẳng chịu nghe. Ðầu kẻ có lỗi sẽ vỡ làm bảy mảnh chớ không phải đầu người vô tội.
Tức thì Nàrada đọc lời nguyền sau:
- Mặt trời có ngàn tia sáng, có trăm ánh lửa xua ta bóng tối. Sáng mai vào lúc mặt trời mọc, đầu người sẽ vỡ làm bảy mảnh.
Ẩn sĩ Nàrada có đại thần thông, có thể thấy suốt tám mươi tiểu kiếp: bốn mươi tiểu kiếp quá khứ và bốn mươi tiểu kiếp tương lai. Vì vậy ông thấy lời nguyền sẽ rớt trúng ngay ông thầy khổ hạnh bạn mình. Ông cảm thấy thương xót, và vì vậy làm phép không cho mặt trời mọc.
Không thấy mặt trời mọc, dân chúng tụ tập trước cổng cung vua, rên rỉ:
- Tâu Ðại vương, mặt trời không mọc nữa! Ngài là vua, làm sao cho mặt trời mọc giùm chúng tôi với!
Nhà vua xét lại những hành động, lời nói và ý nghĩ của mình, thấy chẳng có điều gì sai trái, nên không hiểu nguyên nhân nào mặt trời không mọc. Nhà vua suy đoán rằng đây có thể là do tu sĩ cãi cọ bất hòa với nhau nên hỏi thăm, và liền cầm đuốc đi đến nhà thợ gốm cúi chào Nàrada, cung kính ngồi xuống một bên và nói:
- Bạch ngài Nàrada, dân xứ Diêm-phù-đề không thể sinh hoạt như bình thường. Tại sao bóng đêm bao trùm thế giới? Xin trả lời câu hỏi của tôi.
Nàrada kể lại toàn bộ câu chuyện và hậu quả của lời nguyền.
Vua hỏi tiếp:
- Nhưng thưa Tôn giả, làm sao ông ta có thể thoát chết?
- Ông ấy sẽ thoát chết nếu xin lỗi tôi.
Vua bắt Devala phải xin lỗi Nàrada. Nhưng Devala một mực ngoan cố:
- Tâu Ðại vương, ông bạn này đã dẫm lên tóc tôi và đạp lên cổ tôi. Không đời nào tôi thèm xin lỗi đồ đạo đức giả đó!
Vua vẫn khẩn thiết yêu cầu Devala:
- Xin lỗi đi, Tôn giả! Ðừng làm như vậy!
- Ðại vương, tôi không thèm xin lỗi.
- Ðầu Ngài sẽ bể làm bảy mảnh!
- Mặc kệ! Tôi cũng không xin lỗi.
Lần này vua gằn giọng:
- Ông vẫn không chịu xin lỗi phải không?
Thế rồi nhà vua nắm lấy tay, chân, bụng và cổ nhà ẩn sĩ, bắt cúi đầu dưới chân Nàrada. Nàrada lòng cởi mở:
- Hãy đứng lên thầy! Tôi đã tha lỗi cho thầy!
Rồi Nàrada tâu với vua:
- Ðại vương, ẩn sĩ này không chịu xin lỗi tôi. Hãy đem ông ta đến một cái hồ gần thành, đặt một cục đất sét trên đầu ông, bắt ông ta đứng dưới nước ngập cổ.
Vua y lời. Nàrada còn dặn thêm khi ông làm phép cho mặt trời mọc trở lại, Devala hãy lặn xuống nước và trồi lên nơi khác rồi đi đi!
Quả đúng như rằng, ngay khi ánh mặt trời lóe lên thì chạm vào cục đất sét làm vỡ thành bảy mảnh. Tức thì Devala lặn xuống nước, trồi lên nơi khác và đi mất.
Thế Tôn kết thúc câu chuyện:
- Này các Tỳ-kheo! Nhà vua lúc ấy là Ananda, Devala là Tissa, còn Nàrada chính là Ta. Thuở đó Tissa cũng cứng đầu như vậy.
Rồi đức Ðạo sư dạy Trưởng lão Tissa như sau:
- Tissa! Nếu một Tỳ-kheo cho phép mình nghĩ rằng người này người kia mắng tôi, người này người kia đánh đập tôi, người này người kia đánh bại tôi, cướp giật của tôi, ông ấy sẽ hận thù không nguôi. Nhưng nếu Ty-kheo ấy không ôm ấp những ý nghĩ như vậy, thù hận sẽ nguôi ngoai.
Nói xong Phật đọc Pháp Cú:
(3) Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi,
Ai ôm biềm bận ấy,
Hận thù không thể nguôi.
[b](4) Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi,
Không ôm biềm bận ấy,
Hận thù được tự nguôi.[/b]
[/b]
Nó mắng tôi, đánh tôi...
Lời giáo huấn này đức Ðạo sư dạy Trưởng lão Tissa lúc Ngài trú tại tịnh xá Kỳ Viên.
Hình như Ðại đức Tissa là con trai người cô của Phật. Xuất gia khi đã lớn tuổi, lại thêm dáng người mập mạp, Tissa ưa thích lợi dưỡng và sự tôn kính riêng cho Phật. Y áo của Ðại đức lúc nào cũng giặt ủi láng bóng, và ông luôn luôn ngồi giữa giảng đường tinh xá.
Một hôm, vài du tăng đến viếng Thế Tôn và tưởng Tissa là một Ðại Trưởng lão, họ xin được đặc ân hầu hạ, chùi chân cho Tissa v.v.. Ðại đức im lặng.
Lúc ấy một thầy tăng trẻ tuổi hỏi:
- Ngài được mấy hạ?
Tissa trả lời:
- Chưa có hạ nào cả. Tôi già rồi mới xin xuất gia.
Thầy tăng buột miệng:
- Ông Tỳ-kheo tồi! Ông cứ tưởng mình là quan trọng. Gặp các vị Ðại Trưởng lão này, ông cư xử chẳng lễ độ một chút nào. Khi họ xin hầu hạ ông các thứ, ông im lặng nhận lời. Ông lại không tỏ ra một chút ân hận về tư cách tồi tệ của mình!
Nói rồi, vị tăng búng tay cái tách.
Lòng kiêu hãnh của một người thuộc giai cấp chiến sĩ nổi dậy, Tissa gắt gỏng:
- Các ông đến gặp ai?
- Chúng tôi đến thăm đấng Ðạo sư.
- Nhưng đối với ta, các ông cũng phải tìm hiểu xem người này là ai chứ? Ta sẽ giết tiệt dòng họ các ông!
Nói một mạch cho hả hơi, rồi Tissa đi đến chỗ Phật buồn rầu khóc lóc. Ðấng Ðạo sư thấy vậy mới hỏi:
- Tissa, sao vậy? Sao ông đến đây tèm lem nước mắt, sầu khổ thế kia?
Các du tăng trước đây có bàn với nhau không dám để Tissa đi một mình e gây nhiều chuyện rắc rối, nên đi theo Tissa, đến đảnh lễ đức Ðạo sư và cung kính ngồi một bên.
Tissa nghe Phật hỏi liền đáp:
- Bạch Thế Tôn, những Sa-môn này lăng mạ con.
- Nhưng ông đang ngồi ở đâu?
- Ở giữa giảng đường tinh xá, bạch Thế Tôn!
- Khi những Sa-môn này đến, ông có thấy họ không?
- Con có thấy họ, bạch Thế Tôn!
- Ông có đứng dậy chào họ không?
- Thưa Thế Tôn, không.
- Ông có đỡ giùm đồ đạc giúp họ không?
- Bạch Thế Tôn, không. Con không đỡ giùm đồ đạc cho họ.
- Ông có sẵn lòng phục vụ họ không? Và mời nước uống không?
- Không, bạch Thế Tôn! Con không phục vụ cũng chẳng mời nước uống.
- Ông có đem tọa cụ đến mời ngồi và chùi chân cho họ không?
- Thưa không, Thế Tôn!
- Tissa, ông nên làm các việc trên đối với những Sa-môn lớn tuổi, vì ai không làm thế sẽ không được quyền ngồi giữa tịnh xá. Chỉ có ông là đáng bị rầy. Hãy xin lỗi những Sa-môn này đi!
- Nhưng họ đã lăng mạ con, Thế Tôn! Con sẽ không xin lỗi họ.
- Tissa, chớ làm như vậy. Chỉ có ông mới đáng bị rầy. Xin lỗi họ đi!
- Con không xin lỗi họ, Thế Tôn!
Các Sa-môn bạch Phật:
- Ông ấy thật là cứng đầu, thưa Thế Tôn!
Ðức Ðạo sư trả lời:
- Này các Sa-môn, đây chẳng phải là lần thứ nhất ông ấy cứng đầu. Kiếp trước ông ấy cũng đã bướng bỉnh như thế.
- Chúng con đã rõ tính ương ngạnh của ông ấy trong hiện tại, bạch Thế Tôn. Nhưng còn kiếp trước ông đã làm gì?
- Này các Sa-môn hãy lắng nghe!
Và đức Phật kể câu chuyện.
Chuyện quá khứ
3A. Devala và Nàrada
Vào thuở nọ, dưới triều một vị vua ở Ba-la-nại, có một nhà tu khổ hạnh tên là Devala sau tám tháng ở Hy-mã-lạp-sơn về thành kiếm muối và giấm. Ông cũng muốn về ở gần thành phố trong bốn tháng mùa mưa.
Gặp hai chú bé nơi cổng thành, ông hỏi:
- Các Sa-môn đến thành phố thường ngủ đêm tại đâu?
- Nơi nhà người thợ gốm, thưa Tôn giả.
Thế là Devala đi đến nhà người thợ gốm, đứng trước cửa hỏi:
- Gia chủ! Nếu người bằng lòng, tôi sẽ nghỉ lại một đêm trong nhà người.
Thợ gốm mở rộng cửa mời:
- Ban đêm tôi không làm việc, nhà lại rộng: xin Tôn giả cứ ngủ tại đây.
Devala vừa vào nhà và ngồi xuống thì có một ẩn sĩ khác tên Nàrada cũng từ Hy-mã-lạp-sơn đến xin tá túc. Người thợ gốm, với lòng tử tế và hiếu khách đối với các Sa-môn, lo lắng không biết vị ẩn sĩ đến trước có chịu ngủ chung với vị mới đến hay không, nên khéo léo bảo Nàrada:
- Nếu vị ẩn sĩ đến trước đồng ý thì xin mời Ngài.
Và Nàrada Nàrada đến gặp Devala nói:
- Thưa thầy, nếu thầy đồng lòng, tôi xin ngủ lại đây một đêm.
Devala hoan hỷ:
- Nhà còn rộng, xin mời thầy vào và ngủ lại một bên này.
Rồi Nàrada bước vào, ngồi phía sau Devala. Họ chào hỏi nhau một cách thân thiện. Ðến giờ ngủ, trước khi nằm xuống, Nàrada cẩn thận ghi nhớ chỗ của Devala và vị trí cửa ra vào. Nhưng Devala, thay vì ngủ đúng chỗ của mình, lại nằm ngay giữa lối đi. Hậu quả là khi Nàrada bước ra ngoài ban đêm, ông đạp nhằm bím tóc của Devala. Tức thì nhà khổ hạnh la toáng lên:
- Ối! Ai dẫm lên bím tóc ta?
Nàrada từ tốn trả lời:
- Thưa thầy, tôi.
Devala, giọng nóng nảy tiếp tục la:
- Ðồ đạo đức giả! Ngươi là đồ rừng rú. Ngươi đã đạp lên tóc ta!
- Thưa thầy, tôi không biết thầy nằm ở đây. Xin thứ lỗi cho tôi!.
Rồi Nàrada bước ra, để lại Devala một mình khóc lóc như bị ai bóp vỡ tim.
Chưa hết. Sau đó, Devala xoay ngược người lại, nằm xuống, đặt đầu vào chỗ ban nãy đã để chân, cố ý để Nàrada giẫm lên mình.
Nàrada bước vào, lòng dặn lòng hồi nãy mình đã lỡ xúc phạm vị đạo sĩ, lần này mình sẽ đi mé dưới chân người.
Tất nhiên là khi vừa bước vào, Nàrada dẫm ngay lên cổ Devala. Tức thì Devala hét ầm lên:
- Trời! Ai đó?
Nàrada vội vàng nói:
- Thưa thầy, tôi.
Devala lần này càng kêu to:
- Ðồ đạo đức giả! Lần đầu ngươi dẫm lên tóc ta, lần này ngươi đạp lên cổ ta. Ta sẽ nguyền rủa ngươi!
- Thưa thầy, tôi không đáng bị khiển trách. Tôi không biết thầy nằm ở phía này. Khi bước vào tôi đã hết sức dè dặt, tự nhắc nhở phải cẩn thận, đi phía dưới chân đạo sĩ, tránh xúc phạm người. Xin thầy thứ lỗi cho tôi!
Devala vẫn la oai oái:
- Ðồ đạo đức giả! Ta sẽ nguyền rủa ngươi.
- Ðừng làm vậy, thưa thầy!
Mặc những lời thiết tha xin lỗi của Nàrada, Devala vẫn rủa tiếp:
- Mặt trời có ngàn tia sáng, có trăm ánh lửa xua tan bóng tối. Sáng mai vào lúc mặt trời mọc, đầu ngươi sẽ vỡ làm bảy mảnh.
Nàrada đáp:
- Thầy, tôi đã giải bày hết lời là không phải lỗi tại tôi, thầy vẫn chẳng chịu nghe. Ðầu kẻ có lỗi sẽ vỡ làm bảy mảnh chớ không phải đầu người vô tội.
Tức thì Nàrada đọc lời nguyền sau:
- Mặt trời có ngàn tia sáng, có trăm ánh lửa xua ta bóng tối. Sáng mai vào lúc mặt trời mọc, đầu người sẽ vỡ làm bảy mảnh.
Ẩn sĩ Nàrada có đại thần thông, có thể thấy suốt tám mươi tiểu kiếp: bốn mươi tiểu kiếp quá khứ và bốn mươi tiểu kiếp tương lai. Vì vậy ông thấy lời nguyền sẽ rớt trúng ngay ông thầy khổ hạnh bạn mình. Ông cảm thấy thương xót, và vì vậy làm phép không cho mặt trời mọc.
Không thấy mặt trời mọc, dân chúng tụ tập trước cổng cung vua, rên rỉ:
- Tâu Ðại vương, mặt trời không mọc nữa! Ngài là vua, làm sao cho mặt trời mọc giùm chúng tôi với!
Nhà vua xét lại những hành động, lời nói và ý nghĩ của mình, thấy chẳng có điều gì sai trái, nên không hiểu nguyên nhân nào mặt trời không mọc. Nhà vua suy đoán rằng đây có thể là do tu sĩ cãi cọ bất hòa với nhau nên hỏi thăm, và liền cầm đuốc đi đến nhà thợ gốm cúi chào Nàrada, cung kính ngồi xuống một bên và nói:
- Bạch ngài Nàrada, dân xứ Diêm-phù-đề không thể sinh hoạt như bình thường. Tại sao bóng đêm bao trùm thế giới? Xin trả lời câu hỏi của tôi.
Nàrada kể lại toàn bộ câu chuyện và hậu quả của lời nguyền.
Vua hỏi tiếp:
- Nhưng thưa Tôn giả, làm sao ông ta có thể thoát chết?
- Ông ấy sẽ thoát chết nếu xin lỗi tôi.
Vua bắt Devala phải xin lỗi Nàrada. Nhưng Devala một mực ngoan cố:
- Tâu Ðại vương, ông bạn này đã dẫm lên tóc tôi và đạp lên cổ tôi. Không đời nào tôi thèm xin lỗi đồ đạo đức giả đó!
Vua vẫn khẩn thiết yêu cầu Devala:
- Xin lỗi đi, Tôn giả! Ðừng làm như vậy!
- Ðại vương, tôi không thèm xin lỗi.
- Ðầu Ngài sẽ bể làm bảy mảnh!
- Mặc kệ! Tôi cũng không xin lỗi.
Lần này vua gằn giọng:
- Ông vẫn không chịu xin lỗi phải không?
Thế rồi nhà vua nắm lấy tay, chân, bụng và cổ nhà ẩn sĩ, bắt cúi đầu dưới chân Nàrada. Nàrada lòng cởi mở:
- Hãy đứng lên thầy! Tôi đã tha lỗi cho thầy!
Rồi Nàrada tâu với vua:
- Ðại vương, ẩn sĩ này không chịu xin lỗi tôi. Hãy đem ông ta đến một cái hồ gần thành, đặt một cục đất sét trên đầu ông, bắt ông ta đứng dưới nước ngập cổ.
Vua y lời. Nàrada còn dặn thêm khi ông làm phép cho mặt trời mọc trở lại, Devala hãy lặn xuống nước và trồi lên nơi khác rồi đi đi!
Quả đúng như rằng, ngay khi ánh mặt trời lóe lên thì chạm vào cục đất sét làm vỡ thành bảy mảnh. Tức thì Devala lặn xuống nước, trồi lên nơi khác và đi mất.
Thế Tôn kết thúc câu chuyện:
- Này các Tỳ-kheo! Nhà vua lúc ấy là Ananda, Devala là Tissa, còn Nàrada chính là Ta. Thuở đó Tissa cũng cứng đầu như vậy.
Rồi đức Ðạo sư dạy Trưởng lão Tissa như sau:
- Tissa! Nếu một Tỳ-kheo cho phép mình nghĩ rằng người này người kia mắng tôi, người này người kia đánh đập tôi, người này người kia đánh bại tôi, cướp giật của tôi, ông ấy sẽ hận thù không nguôi. Nhưng nếu Ty-kheo ấy không ôm ấp những ý nghĩ như vậy, thù hận sẽ nguôi ngoai.
Nói xong Phật đọc Pháp Cú:
(3) Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi,
Ai ôm biềm bận ấy,
Hận thù không thể nguôi.
[b](4) Nó mắng tôi, đánh tôi,
Nó thắng tôi, cướp tôi,
Không ôm biềm bận ấy,
Hận thù được tự nguôi.[/b]
4. Không Lấy Oán Trả Oán
Với hận diệt hận thù...
Phật dạy Pháp Cú này cho một người hiếm muộn, lúc Ngài ngụ tại tinh xá Kỳ Viên.
Một người kia, sau khi cha chết, một mình lo liệu gánh vác tất cả việc nhà cửa ruộng vườn, lại còn chăm sóc bà mẹ.
Mẹ bảo anh:
- Con ạ, mẹ sẽ kiếm cho con một cô vợ trẻ.
Người con hiếu thảo bèn thưa:
- Mẹ thân yêu, đừng nói thế. Ước ao duy nhất của con là được phụng dưỡng mẹ suốt đời.
- Con ơi, mẹ không muốn một mình con phải gánh vác hết mọi việc trong nhà ngoài ruộng, hãy để mẹ kiếm vợ cho con.
Anh ta từ chối đôi ba phen, rồi đành im lặng bằng lòng. Bà mẹ hớn hở rời khỏi nhà, định đi đến một nhà nọ kiếm con dâu đem về.
Anh ta bèn hỏi mẹ:
- Mẹ định đến nhà ai vậy?
Bà lão giơ tay chỉ:
- Ðến nhà kia kìa!
Anh ta không để mẹ đi đến nhà theo dự định, mà chỉ cho bà một nhà khác anh thích hơn. Vậy là bà đến nhà con mình thích, chọn nàng dâu rồi lựa ngày làm lễ cưới. Rủi thay lại gặp một nàng dâu không sinh đẻ. Bà mẹ nóng lòng bế cháu nên vội vã bảo anh con trai:
- Con ạ, con đã bảo mẹ đem về người vợ do con tự chọn, nhưng cô ấy lại chẳng sinh đẻ. Gia đình không con cái sẽ lụn bại, giống dòng sẽ tuyệt tự. Con hãy để cho mẹ kiếm một nàng dâu khác nghe con!
Anh con trai có vẻ không bằng lòng nên lắc đầu:
- Xin mẹ đừng nói nữa!
Nhưng bà mẹ vẫn nhai đi nhai lại điệp khúc cũ nên lọt vào tai cô vợ hiếm muộn. Lòng cô ngổn ngang trăm mối. Chắc chắn là con phải vâng lời mẹ thôi, nếu bà già kiếm được một người dễ sinh nở thì cô sẽ bị nhà chồng xem thường, coi như đầy tớ. Chi bằng chính cô chọn vợ cho chồng.
Thế là người đàn bà hiếm muộn đi đến nhà nọ kiếm một cô gái cho chồng. Nhưng vừa hở môi bà đã gặp sự chống đối của cha mẹ cô gái. Họ hỏi gặng lại bà:
- Này, bà nói cái gì thế?
Người đàn bà không con trả lời:
- Thú thật ông bà thương, tôi chẳng may xấu số không sinh đẻ, mà gia đình không con sẽ tuyệt tự. Nếu con gái ông bà về nhà tôi sinh được con trai, cô ấy sẽ là bà chủ quán xuyến hết cả gia sản. Xin ông bà hãy cho tôi cưới cô nhà về cho chồng tôi.
Cuối cùng người đàn bà đã thuyết phục được cha mẹ cô gái và rước cô về nhà. Dù đã làm được theo ý mình, người đàn bà hiếm con vẫn không an tâm, cứ lo sợ đối thủ sinh con, sẽ là bà chủ trong nhà. Rồi bà đến nói với đối thủ của mình:
- Nè em! Hễ em có thai thì cho chị biết nhé!
Cô kia ngoan ngoãn trả lời:
- Dạ.
Và như lời hứa, ngay khi mang thai cô đến báo cho người vợ cả biết. Hằng ngày vợ cả thường tự tay nấu cháo cho đối thủ mình ăn. Thế là từ hôm đó bà bỏ vào cháo một ít thuốc phá thai. Kết quả đối thủ của bà bị sẩy thai. Lần thứ hai, người vợ sau cũng lại báo tin cho vợ cả khi mang thai. Vợ cả làm như lần trước và cô này lại sẩy thai nữa. Các bà hàng xóm thấy cô vợ sau ngây thơ, nên vừa thương tình vừa tò mò mới hỏi thăm:
- Có phải đối thủ của chị thọc gậy bánh xe chị không?
Và khi nghe kể lại sự vụ, họ bảo:
- Ðồ ngốc, sao chị dại dột như vậy? Bả sợ chị chiếm ưu thế trong gia đình nên trộn thuốc phá thai cho chị ăn. Lần sau đừng có nói cho bả biết nữa nghe chưa!
Lần thứ ba người vợ sau không nói gì cả, nhưng bà hiếm con thấy bụng người vợ sau ngày càng to liền hỏi:
- Sao em có thai mà không nói cho chị biết?
Bà vợ sau thật thà nghĩ sao nói vậy:
- Chính chị mang tôi về đây, vậy mà hai lần rồi chị làm tôi hư thai. Tại sao tôi phải nói với chị kia chứ?
Bà không con thất vọng: "Hỏng, thế là ta thua rồi!". Từ đó bà theo dõi, chờ cơ hội đối thủ thiếu cảnh giác lại ra tay, vì bà vẫn chưa chịu thua.
Khi đứa bé trong bụng mẹ đã thành hình, bà cả thừa một dịp nọ trộn thuốc cho bà vợ sau ăn, nhưng vì hình thể đã đầy đủ nên thai nhi không bị hư, mà lại kẹt ngang cổ tử cung. Ngay sau đó bà mẹ đau bụng dữ dội và cảm thấy giờ chết đến nơi. Bà la hoảng lên:
- Mày giết tao! Chính mày mang tao về và cũng chính mày giết ba đứa con của tao. Giờ tao sắp chết, kiếp sau tao sẽ thành quỷ dạ xoa ăn thịt con mày!
Nguyền rủa rồi bà tắt hơi và lại sanh vào nhà ấy thành một con mèo. Còn ông chồng lúc ấy tóm bà vợ không con, nạt nộ:
- Chính mày làm tan nát gia đình tao.
Rồi ông dùng cùi chỏ, đầu gối.. đánh đập bà tàn nhẫn. Sau trận đòn, người vợ cả ốm nặng rồi chết, lại cũng sinh vào nhà ấy thành một con gà mái.
Như vậy bà vợ sau tái sinh là con mèo, vợ cả là con gà. Khi gà mái đẻ trứng, mèo đến ăn sạch hết. Ba lần như vậy gà mái cất tiếng:
- Ðã ba lần mày ăn trứng con tao, bây giờ mày còn chực ăn luôn cả tao. Kiếp sau tao sẽ ăn thịt mày và con mày.
Nguyền như vậy rồi nó chết và sinh làm con beo cái. Còn mèo sinh làm con nai cái. Ba lần nai cái sinh con, ba lần beo đến nuốt tươi. Khi sắp chết, nai cái lại nguyền rủa:
- Ba phen ác thú này nuốt sống con ta và giờ nó định nhai luôn cả ta nữa. Kiếp sau ta sẽ nhai nuốt nó và con nó! Rồi nai cái tái sinh là quỷ Dạ-xoa và beo chết đi đầu thai thành một cô gái dòng tôn quý ở Xá-vệ. Lớn lên, cô gái lập gia đình sống bên nhà chồng tại một khu xóm nhỏ gần cổng thành. Một thời gian sau cô có con. Quỷ Dạ-xoa biến thành một người bạn thân đến thăm cô gái và hỏi người nhà:
- Bạn tôi đâu?
- Ở phòng trong, cô ấy vừa sinh hạ một đứa bé.
Da-xoa hớn hở hỏi tiếp:
- Con trai hay con gái vậy? Tôi muốn thăm chị ấy.
Rồi tất tả bước vào trong, giả vờ nhìn ngắm đứa bé và nhanh tay chộp lấy nhai nuốt xong đi ra. Lần thứ hai, quỷ cũng nuốt tươi con của người vợ trẻ như vậy. Ðến lần thứ ba, thấy bụng đã lớn cô vợ trẻ thủ thỉ với chồng:
- Anh à, tại đây có một con quỷ Dạ-xoa đã nuốt chết hai đứa con của chúng ta và trốn thoát. Lần này tôi định trở về nhà để sinh nở.
Lúc bấy giờ đến phiên quỷ Dạ-xoa đi kéo nước (Da-xoa thay phiên nhau kéo nước từ hồ Anottatta đổ lên nguồn, mãn hạn bốn hay năm tháng chúng được thả về, nếu không bị chết vì kiệt sức). Ngay khi vừa được thả ra, quỷ Da-xoa liền chạy đến gặp người vợ trẻ hỏi:
- Bạn tôi đâu rồi?
Người trong nhà đáp:
- Chị chẳng gặp cô ấy đâu. Có một con quỷ Dạ-xoa đã ăn thịt những đứa con cô ấy sinh ra trong nhà này. Vì vậy cô ấy đi về nhà cha mẹ ruột rồi.
Quỷ lầm bầm:
- Dù có chạy đằng trời, nó cũng không thoát khỏi tay ta!
Nôn nóng vì thù hận, Dạ-xoa tức tốc đi vào thành.
Ðến ngày lễ đặt tên, bà mẹ tắm rửa và đặt tên cho đứa bé xong, thưa với chồng:
- Ông à, bây giờ chúng ta hãy trở về nhà.
Cô vợ ẵm con đi bên cạnh chồng. Trên con đường băng ngang tinh xá, khi đến hồ nước của tinh xá, người vợ trẻ giao con cho chồng và xuống hồ tắm. Cô tắm xong, đến phiên chồng, và cô ngồi đợi gần đó và cho con bú. Ngày lúc ấy quỷ Dạ-xoa xuất hiện. Cô vợ trông thấy nhận ra nó, lập tức la lên:
- Ông ơi! Ðến đây mau! Con quỷ đây nè!
Sợ chồng đến không kịp, cô xoay người đâm đầu chạy vào tinh xá. Lúc ấy đức Ðạo sư đang thuyết pháp giữa chúng hội. Người vợ trẻ đặt con dưới chân Phật thưa:
- Con xin cúng dường Ngài đứa bé này. Xin hãy cứu lấy nó!
Quỷ cũng rượt theo tới nơi. Thiên thần Sumana khi đó đang trú tại hốc cửa bên trên cổng tinh xá, liền ngăn quỷ Dạ-xoa lại không cho vào. Ðức Ðạo sư bảo Trưởng lão A-nan:
- A-nan, ngươi hãy ra gọi quỷ Dạ-xoa vào đây!
Trưởng lão y lệnh. Người vợ vừa thấy quỷ lo sợ, kêu lên thất thanh:
- Nó đó, thưa Thế Tôn.
Ðức Ðạo sư dạy:
- Hãy để nó vào. Ðừng làm ồn!
Dạ-xoa bước vào, đứng trước Phật. Phật hỏi:
- Sao ngươi làm như vậy? Nếu không gặp một vị Phật như Ta, ngươi sẽ ôm ấp mối hận đến ngàn đời, không khác gì con Rắn và con Cáo run rẩy giận dữ, như Quạ và Cú. Sao ngươi lấy oán trả oán? Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù.
Và đức Phật đọc Pháp Cú:
(5) Với hận diệt hận thù,
Ðời này không có được,
Không hận diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu.
Nghe dứt bài kệ, Dạ-xoa liền đắc quả Dự lưu. Phật bảo người đàn bà đưa đứa bé cho Dạ-xoa. Người đàn bà vẫn còn sợ, không dám đưa. Nhưng sau khi Phật cho biết là không cần phải đề phòng, bà ta mới dám trao. Dạ-xoa nhận đứa bé trong tay, ôm hôn âu yếm rồi trả lại cho mẹ nó, xong bắt đầu khóc. Nghe Phật hỏi tại sao, Dạ-xoa liền thưa:
- Thưa Thế Tôn! trước đây con hết sứ xoay sở mà chẳng đủ ăn. Giờ con không biết sẽ sống ra sao.
Phật an ủi Dạ-xoa, rồi quay sang người mẹ, Ngài dạy:
- Hãy cho Dạ-xoa ở trong nhà con và nuôi bằng loại cháo ngon nhất.
Người đàn bà vâng lện đưa Dạ-xoa về nhà, cho ở trên cây kèo giữa và nuôi bằng loại cháo ngon. Khi đến mùa đập lúa, máy đập vọt lên vọt xuống, Dạ-xoa sợ máy đập vào đầu nên nói với bạn không thể ở đây thêm, và xin đi nơi khác. Dạ-xoa lần lượt được cho ở trong chòi để máy đập lúa, chỗ giếng nước, lò bánh mì, kho phân, đống tro và cổng làng, nhưng không chịu ở đâu hết, luôn cằn nhằn: chỗ thì máy đập lúa nâng lên e rằng chẻ đầu ra làm hai, chỗ thì tụi nhóc tiểu bậy, chỗ thì đàn chó nằm dài, hoặc bầy trẻ phóng uế, có khi liệng rác, chỗ thì trai làng đến xem bói. Vì thế cô ta đưa Dạ-xoa về một nơi yên tĩnh ngoài làng, mỗi ngày đều mang cháo ngon đến cho ăn.
Một hôm Dạ-xoa nói với bạn mình:
- Năm nay trời sẽ mưa nhiều, nên trồng lúa ở nơi khô ráo.
Có khi Dạ-xoa cho biết:
- Năm nay hạn hán, nên trồng lúa nơi ẩm thấp.
Lúa của người khác bị hư vì lúc úng lúc hạn, nhưng lúa của người đàn bà trẻ thì bội thu. Dân làng ngạc nhiên đến hỏi cô:
- Này chị, lúa của chị chẳng bị úng, chẳng bị hạn. Chị làm mùa dường như biết trước thời tiết. Phải vậy không?
Cô ta đáp:
- Tôi có người bạn là Dạ-xoa cho tôi biết trước sự thay đổi thời tiết, và tôi trồng lúa trên đất cao hay đất thấp tùy theo sự chỉ dẫn của chị ấy. Các bạn không thấy sao, ngày nào tôi cũng mang cháo ngon và các loại thức ăn đến cho chị ấy. Nếu các bạn làm như tôi cũng sẽ được trúng mùa.
Dân làng lập tức tôn vinh Dạ-xoa. Và từ đó Dạ-xoa chăm sóc mùa màng cho mọi người, nhận được nhiều quà biếu và được nhiều người tôn kính. Dạ-xoa tạo nên thông lệ bữa ăn tám món, còn được duy trì mãi đến nay.
Với hận diệt hận thù...
Phật dạy Pháp Cú này cho một người hiếm muộn, lúc Ngài ngụ tại tinh xá Kỳ Viên.
Một người kia, sau khi cha chết, một mình lo liệu gánh vác tất cả việc nhà cửa ruộng vườn, lại còn chăm sóc bà mẹ.
Mẹ bảo anh:
- Con ạ, mẹ sẽ kiếm cho con một cô vợ trẻ.
Người con hiếu thảo bèn thưa:
- Mẹ thân yêu, đừng nói thế. Ước ao duy nhất của con là được phụng dưỡng mẹ suốt đời.
- Con ơi, mẹ không muốn một mình con phải gánh vác hết mọi việc trong nhà ngoài ruộng, hãy để mẹ kiếm vợ cho con.
Anh ta từ chối đôi ba phen, rồi đành im lặng bằng lòng. Bà mẹ hớn hở rời khỏi nhà, định đi đến một nhà nọ kiếm con dâu đem về.
Anh ta bèn hỏi mẹ:
- Mẹ định đến nhà ai vậy?
Bà lão giơ tay chỉ:
- Ðến nhà kia kìa!
Anh ta không để mẹ đi đến nhà theo dự định, mà chỉ cho bà một nhà khác anh thích hơn. Vậy là bà đến nhà con mình thích, chọn nàng dâu rồi lựa ngày làm lễ cưới. Rủi thay lại gặp một nàng dâu không sinh đẻ. Bà mẹ nóng lòng bế cháu nên vội vã bảo anh con trai:
- Con ạ, con đã bảo mẹ đem về người vợ do con tự chọn, nhưng cô ấy lại chẳng sinh đẻ. Gia đình không con cái sẽ lụn bại, giống dòng sẽ tuyệt tự. Con hãy để cho mẹ kiếm một nàng dâu khác nghe con!
Anh con trai có vẻ không bằng lòng nên lắc đầu:
- Xin mẹ đừng nói nữa!
Nhưng bà mẹ vẫn nhai đi nhai lại điệp khúc cũ nên lọt vào tai cô vợ hiếm muộn. Lòng cô ngổn ngang trăm mối. Chắc chắn là con phải vâng lời mẹ thôi, nếu bà già kiếm được một người dễ sinh nở thì cô sẽ bị nhà chồng xem thường, coi như đầy tớ. Chi bằng chính cô chọn vợ cho chồng.
Thế là người đàn bà hiếm muộn đi đến nhà nọ kiếm một cô gái cho chồng. Nhưng vừa hở môi bà đã gặp sự chống đối của cha mẹ cô gái. Họ hỏi gặng lại bà:
- Này, bà nói cái gì thế?
Người đàn bà không con trả lời:
- Thú thật ông bà thương, tôi chẳng may xấu số không sinh đẻ, mà gia đình không con sẽ tuyệt tự. Nếu con gái ông bà về nhà tôi sinh được con trai, cô ấy sẽ là bà chủ quán xuyến hết cả gia sản. Xin ông bà hãy cho tôi cưới cô nhà về cho chồng tôi.
Cuối cùng người đàn bà đã thuyết phục được cha mẹ cô gái và rước cô về nhà. Dù đã làm được theo ý mình, người đàn bà hiếm con vẫn không an tâm, cứ lo sợ đối thủ sinh con, sẽ là bà chủ trong nhà. Rồi bà đến nói với đối thủ của mình:
- Nè em! Hễ em có thai thì cho chị biết nhé!
Cô kia ngoan ngoãn trả lời:
- Dạ.
Và như lời hứa, ngay khi mang thai cô đến báo cho người vợ cả biết. Hằng ngày vợ cả thường tự tay nấu cháo cho đối thủ mình ăn. Thế là từ hôm đó bà bỏ vào cháo một ít thuốc phá thai. Kết quả đối thủ của bà bị sẩy thai. Lần thứ hai, người vợ sau cũng lại báo tin cho vợ cả khi mang thai. Vợ cả làm như lần trước và cô này lại sẩy thai nữa. Các bà hàng xóm thấy cô vợ sau ngây thơ, nên vừa thương tình vừa tò mò mới hỏi thăm:
- Có phải đối thủ của chị thọc gậy bánh xe chị không?
Và khi nghe kể lại sự vụ, họ bảo:
- Ðồ ngốc, sao chị dại dột như vậy? Bả sợ chị chiếm ưu thế trong gia đình nên trộn thuốc phá thai cho chị ăn. Lần sau đừng có nói cho bả biết nữa nghe chưa!
Lần thứ ba người vợ sau không nói gì cả, nhưng bà hiếm con thấy bụng người vợ sau ngày càng to liền hỏi:
- Sao em có thai mà không nói cho chị biết?
Bà vợ sau thật thà nghĩ sao nói vậy:
- Chính chị mang tôi về đây, vậy mà hai lần rồi chị làm tôi hư thai. Tại sao tôi phải nói với chị kia chứ?
Bà không con thất vọng: "Hỏng, thế là ta thua rồi!". Từ đó bà theo dõi, chờ cơ hội đối thủ thiếu cảnh giác lại ra tay, vì bà vẫn chưa chịu thua.
Khi đứa bé trong bụng mẹ đã thành hình, bà cả thừa một dịp nọ trộn thuốc cho bà vợ sau ăn, nhưng vì hình thể đã đầy đủ nên thai nhi không bị hư, mà lại kẹt ngang cổ tử cung. Ngay sau đó bà mẹ đau bụng dữ dội và cảm thấy giờ chết đến nơi. Bà la hoảng lên:
- Mày giết tao! Chính mày mang tao về và cũng chính mày giết ba đứa con của tao. Giờ tao sắp chết, kiếp sau tao sẽ thành quỷ dạ xoa ăn thịt con mày!
Nguyền rủa rồi bà tắt hơi và lại sanh vào nhà ấy thành một con mèo. Còn ông chồng lúc ấy tóm bà vợ không con, nạt nộ:
- Chính mày làm tan nát gia đình tao.
Rồi ông dùng cùi chỏ, đầu gối.. đánh đập bà tàn nhẫn. Sau trận đòn, người vợ cả ốm nặng rồi chết, lại cũng sinh vào nhà ấy thành một con gà mái.
Như vậy bà vợ sau tái sinh là con mèo, vợ cả là con gà. Khi gà mái đẻ trứng, mèo đến ăn sạch hết. Ba lần như vậy gà mái cất tiếng:
- Ðã ba lần mày ăn trứng con tao, bây giờ mày còn chực ăn luôn cả tao. Kiếp sau tao sẽ ăn thịt mày và con mày.
Nguyền như vậy rồi nó chết và sinh làm con beo cái. Còn mèo sinh làm con nai cái. Ba lần nai cái sinh con, ba lần beo đến nuốt tươi. Khi sắp chết, nai cái lại nguyền rủa:
- Ba phen ác thú này nuốt sống con ta và giờ nó định nhai luôn cả ta nữa. Kiếp sau ta sẽ nhai nuốt nó và con nó! Rồi nai cái tái sinh là quỷ Dạ-xoa và beo chết đi đầu thai thành một cô gái dòng tôn quý ở Xá-vệ. Lớn lên, cô gái lập gia đình sống bên nhà chồng tại một khu xóm nhỏ gần cổng thành. Một thời gian sau cô có con. Quỷ Dạ-xoa biến thành một người bạn thân đến thăm cô gái và hỏi người nhà:
- Bạn tôi đâu?
- Ở phòng trong, cô ấy vừa sinh hạ một đứa bé.
Da-xoa hớn hở hỏi tiếp:
- Con trai hay con gái vậy? Tôi muốn thăm chị ấy.
Rồi tất tả bước vào trong, giả vờ nhìn ngắm đứa bé và nhanh tay chộp lấy nhai nuốt xong đi ra. Lần thứ hai, quỷ cũng nuốt tươi con của người vợ trẻ như vậy. Ðến lần thứ ba, thấy bụng đã lớn cô vợ trẻ thủ thỉ với chồng:
- Anh à, tại đây có một con quỷ Dạ-xoa đã nuốt chết hai đứa con của chúng ta và trốn thoát. Lần này tôi định trở về nhà để sinh nở.
Lúc bấy giờ đến phiên quỷ Dạ-xoa đi kéo nước (Da-xoa thay phiên nhau kéo nước từ hồ Anottatta đổ lên nguồn, mãn hạn bốn hay năm tháng chúng được thả về, nếu không bị chết vì kiệt sức). Ngay khi vừa được thả ra, quỷ Da-xoa liền chạy đến gặp người vợ trẻ hỏi:
- Bạn tôi đâu rồi?
Người trong nhà đáp:
- Chị chẳng gặp cô ấy đâu. Có một con quỷ Dạ-xoa đã ăn thịt những đứa con cô ấy sinh ra trong nhà này. Vì vậy cô ấy đi về nhà cha mẹ ruột rồi.
Quỷ lầm bầm:
- Dù có chạy đằng trời, nó cũng không thoát khỏi tay ta!
Nôn nóng vì thù hận, Dạ-xoa tức tốc đi vào thành.
Ðến ngày lễ đặt tên, bà mẹ tắm rửa và đặt tên cho đứa bé xong, thưa với chồng:
- Ông à, bây giờ chúng ta hãy trở về nhà.
Cô vợ ẵm con đi bên cạnh chồng. Trên con đường băng ngang tinh xá, khi đến hồ nước của tinh xá, người vợ trẻ giao con cho chồng và xuống hồ tắm. Cô tắm xong, đến phiên chồng, và cô ngồi đợi gần đó và cho con bú. Ngày lúc ấy quỷ Dạ-xoa xuất hiện. Cô vợ trông thấy nhận ra nó, lập tức la lên:
- Ông ơi! Ðến đây mau! Con quỷ đây nè!
Sợ chồng đến không kịp, cô xoay người đâm đầu chạy vào tinh xá. Lúc ấy đức Ðạo sư đang thuyết pháp giữa chúng hội. Người vợ trẻ đặt con dưới chân Phật thưa:
- Con xin cúng dường Ngài đứa bé này. Xin hãy cứu lấy nó!
Quỷ cũng rượt theo tới nơi. Thiên thần Sumana khi đó đang trú tại hốc cửa bên trên cổng tinh xá, liền ngăn quỷ Dạ-xoa lại không cho vào. Ðức Ðạo sư bảo Trưởng lão A-nan:
- A-nan, ngươi hãy ra gọi quỷ Dạ-xoa vào đây!
Trưởng lão y lệnh. Người vợ vừa thấy quỷ lo sợ, kêu lên thất thanh:
- Nó đó, thưa Thế Tôn.
Ðức Ðạo sư dạy:
- Hãy để nó vào. Ðừng làm ồn!
Dạ-xoa bước vào, đứng trước Phật. Phật hỏi:
- Sao ngươi làm như vậy? Nếu không gặp một vị Phật như Ta, ngươi sẽ ôm ấp mối hận đến ngàn đời, không khác gì con Rắn và con Cáo run rẩy giận dữ, như Quạ và Cú. Sao ngươi lấy oán trả oán? Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù.
Và đức Phật đọc Pháp Cú:
(5) Với hận diệt hận thù,
Ðời này không có được,
Không hận diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu.
Nghe dứt bài kệ, Dạ-xoa liền đắc quả Dự lưu. Phật bảo người đàn bà đưa đứa bé cho Dạ-xoa. Người đàn bà vẫn còn sợ, không dám đưa. Nhưng sau khi Phật cho biết là không cần phải đề phòng, bà ta mới dám trao. Dạ-xoa nhận đứa bé trong tay, ôm hôn âu yếm rồi trả lại cho mẹ nó, xong bắt đầu khóc. Nghe Phật hỏi tại sao, Dạ-xoa liền thưa:
- Thưa Thế Tôn! trước đây con hết sứ xoay sở mà chẳng đủ ăn. Giờ con không biết sẽ sống ra sao.
Phật an ủi Dạ-xoa, rồi quay sang người mẹ, Ngài dạy:
- Hãy cho Dạ-xoa ở trong nhà con và nuôi bằng loại cháo ngon nhất.
Người đàn bà vâng lện đưa Dạ-xoa về nhà, cho ở trên cây kèo giữa và nuôi bằng loại cháo ngon. Khi đến mùa đập lúa, máy đập vọt lên vọt xuống, Dạ-xoa sợ máy đập vào đầu nên nói với bạn không thể ở đây thêm, và xin đi nơi khác. Dạ-xoa lần lượt được cho ở trong chòi để máy đập lúa, chỗ giếng nước, lò bánh mì, kho phân, đống tro và cổng làng, nhưng không chịu ở đâu hết, luôn cằn nhằn: chỗ thì máy đập lúa nâng lên e rằng chẻ đầu ra làm hai, chỗ thì tụi nhóc tiểu bậy, chỗ thì đàn chó nằm dài, hoặc bầy trẻ phóng uế, có khi liệng rác, chỗ thì trai làng đến xem bói. Vì thế cô ta đưa Dạ-xoa về một nơi yên tĩnh ngoài làng, mỗi ngày đều mang cháo ngon đến cho ăn.
Một hôm Dạ-xoa nói với bạn mình:
- Năm nay trời sẽ mưa nhiều, nên trồng lúa ở nơi khô ráo.
Có khi Dạ-xoa cho biết:
- Năm nay hạn hán, nên trồng lúa nơi ẩm thấp.
Lúa của người khác bị hư vì lúc úng lúc hạn, nhưng lúa của người đàn bà trẻ thì bội thu. Dân làng ngạc nhiên đến hỏi cô:
- Này chị, lúa của chị chẳng bị úng, chẳng bị hạn. Chị làm mùa dường như biết trước thời tiết. Phải vậy không?
Cô ta đáp:
- Tôi có người bạn là Dạ-xoa cho tôi biết trước sự thay đổi thời tiết, và tôi trồng lúa trên đất cao hay đất thấp tùy theo sự chỉ dẫn của chị ấy. Các bạn không thấy sao, ngày nào tôi cũng mang cháo ngon và các loại thức ăn đến cho chị ấy. Nếu các bạn làm như tôi cũng sẽ được trúng mùa.
Dân làng lập tức tôn vinh Dạ-xoa. Và từ đó Dạ-xoa chăm sóc mùa màng cho mọi người, nhận được nhiều quà biếu và được nhiều người tôn kính. Dạ-xoa tạo nên thông lệ bữa ăn tám món, còn được duy trì mãi đến nay.
Còn tiếp theo
https://www.budsas.org/uni/u-kinh-phapcu-ev/ttpc01b.htm