2021-05-19, 03:31 PM
Tích Truyện Pháp Cú
(Phẩm 01-26, Kệ 1-423)
Nguyên tác: “Buddhist Legends”,
Eugène Watson Burlingame
Tranh Vẽ: Mr. P. Wickramanayaka
(Phẩm 01-26, Kệ 1-423)
Nguyên tác: “Buddhist Legends”,
Eugène Watson Burlingame
Tranh Vẽ: Mr. P. Wickramanayaka
Tự khiển trách mình với ba câu kệ xong, Trưởng lão thoa thuốc lên mũi, lại tiếp tục ngồi như trước, rồi Ngài vào làng khất thực. Y sĩ trông thấy hỏi:
- Thưa Tôn giả, Ngài có thoa thuốc vào mũi?
- Có.
- Ngài thấy thế nào?
- Vẫn đau như trước.
- Thưa Tôn giả, Ngài có ngồi khi thoa thuốc hay nằm xuống?
Trưởng lão im lặng. Y sĩ hỏi lại mấy lần, Trưởng lão vẫn không nói một lời. Y sĩ bảo:
- Ngài không chịu làm điều phải làm để lành bệnh. Vì vậy Ngài không nên xin thuốc, và tôi cũng sẽ không chế thuốc cho Ngài. Tôi không còn cách nào hơn.
Bị y sĩ từ chối chữa bệnh, Trưởng lão trở về tịnh xá, tự dặn dò: "Tỳ-kheo, dầu cho thầy bị y sĩ từ bỏ, chớ từ bỏ tư thế ngồi của mình".
Như con bệnh nan y,
Y sĩ thôi chữa trị,
Chắc chắn gặp tử thần,
Pàlita, sao còn tán tâm?
Tự khiển trách mình với bài kệ trên, Trưởng lão lại tiếp tục thiền định. Vào cuối đêm đôi mắt Ngài mù hẳn, các lậu đồng thời hết sạch. Ngài chứng A-la-hán an trú trong an lạc của Minh sát tuệ. Rồi Ngài vào liêu ngồi nghỉ. Ðến giờ khất thực, các Tỳ-kheo đến bên Trưởng lão thưa:
- Bạch Tôn giả, đã đến giờ chúng ta đi bát.
- Ðến giờ rồi ư, chư hiền hữu?
- Thưa vâng.
- Thế thì các thầy hãy đi.
- Còn Ngài, thưa Tôn giả?
- Mắt tôi đã mù.
Họ nhìn vào mắt Ngài và mắt họ đẫm lệ:
- Ðừng lo ngại, chúng con sẽ săn sóc Ngài.
Họ an ủi Trưởng lão, và sau khi xong bổn phận hành thiền, họ vào làng khất thực.
Không thấy Trưởng lão, dân làng hỏi thăm:
- Bạch quý thầy, Tôn giả Trưởng lão của chúng con đâu?
Khi rõ sự việc, họ gởi cháo về cúng dường Ngài. Sau đó, từng người một đem thức ăn đến đảnh lễ Trưởng lão, lăn mình dưới chân Ngài, không ngớt than khóc. Rồi họ an ủi Ngài:
- Thưa Tôn giả, xin đừng lo lắng, chúng con sẽ săn sóc Ngài.
Từ đó, dân làng đều đặn gởi cháo đến tịnh xá. Trưởng lão thường răn nhắc sáu mươi Tỳ-kheo, và các Tỳ-kheo đều tuân hành theo lời Ngài, nghiêm chỉnh đến nỗi vào ngày giải hạ tất cả đều chứng A-la-hán và đắc thần thông.
Cuối mùa an cư, vì muốn gặp Phật, các Tỳ-kheo thưa với Trưởng lão xin đi. Trưởng lão không tránh khỏi đăm chiêu: "Ta nay sức yếu, trên đường về lại đi qua khu rừng có nhiều ma quỷ. Nếu ta cùng đi, các thầy sẽ nhọc công và không thể khất thực. Ta sẽ để họ đi trước".
Và Ngài bảo:
- Các thầy hãy đi trước.
Các Tỳ-kheo thắc mắc:
- Nhưng còn Tôn giả?
- Tôi ốm yếu, đường đi phải băng qua khu rừng có nhiều ma quỷ, nếu tôi cùng đi các thầy sẽ nhọc công. Các thầy hãy đi trước.
- Không được, thưa Tôn giả. Chúng con chỉ đi cùng Ngài.
- Xin các thầy đừng làm thế, tôi chẳng vui lòng. Nếu em tôi gặp các thầy và hỏi thăm tôi, hãy bảo là tôi mù mắt, nó sẽ gởi người đến và dẫn tôi về. Hãy nhân danh tôi chào mừng đấng Thập Lực và tám mươi vị Ðại Trưởng lão.
Nói xong, Tôn giả bảo họ ra đi. Bắt buộc phải lên đường, các Tỳ-kheo đành xin phép Trưởng lão vào làng khất thực rồi lên đường.
Dân làng mời ngồi, dâng thức ăn, năn nỉ ở lại; nhưng biết các Tỳ-kheo phải về gặp Phật, họ đành khóc lóc tiễn đưa. Du hành một thời gian, các thầy đến Kỳ Viên và nhân danh Trưởng lão chào mừng Ðạo sư cùng tám mươi vị Ðại Trưởng lão. Xong các thầy đi khất thực, qua nhà gia chủ em của Trưởng lão. Gia chủ nhận ra các thầy ngay, thân mật đón tiếp, mời ngồi và hỏi thăm Trưởng lão.
Các Tỳ-kheo kể lại những gì đã xảy ra. Người em lăn mình trên đất, than khóc mếu máo, không biết phải làm sao bây giờ.
Các Tỳ-kheo vỗ về:
- Trưởng lão muốn có ai đến đưa Ngài về.
- Thưa, đây là Pàlita, con của chị con. Xin gởi nó đi!.
- Ðể nó đi không ổn vì đường nhiều nguy hiểm. Nếu cho nó xuất gia thì an toàn hơn.
Người em bằng lòng.
Thế là các thầy làm lễ xuất gia cho chàng trai, dạy anh ta cách thức đắp y v.v.. trong vòng hai tuần, rồi chỉ đường cho anh ta đi.
Băng qua nhiều làng mạc, một hôm thầy Sa-di trẻ gặp một cụ già tại cổng làng đó và hỏi thăm:
- Chào cụ, cụ có biết một tu viện ẩn cư nào gần đây không?
- Thưa Tôn giả, có.
- Ai sống ở đó?
- Có một Trưởng lão tên Pàlita.
- Hãy chỉ cho tôi đường đến đó.
- Tôn giả là ai?
- Tôi là con của em gái vị ấy.
Cụ già liền dẫn thầy đến nơi ẩn cư. Thầy tới đảnh lễ Trưởng lão, và trong hai tuần làm đủ bổn phận từ việc lớn đến việc nhỏ đối với Trưởng lão, chăm sóc Ngài thật tận tụy. Rồi thầy đề nghị với Trưởng lão:
- Thưa Tôn giả, cậu của con mong được gặp Ngài.
Chúng ta hãy trở về.
- Tốt lắm, hãy nắm lấy gậy của ta.
Và như thế tay không rời gậy, cả hai người một già một trẻ đi vào làng. Dân làng tìm hết cách thuyết phục Trưởng lão ở lại nhưng vô hiệu, họ đành khóc lóc đưa đi một đoạn đường. Họ đi đến ngôi làng kế cận ở ven rừng tên là Katthanagara, và lần bước ra khỏi làng.
Bỗng từ xa cất tiếng hát của một cô gái đang gom củi. Thầy Sa-di chợt cảm thấy yêu mến ngay tiếng hát trong trẻo (Ðức Thế Tôn đã từng dạy: "Này các Tỳ-kheo! Chưa từng có âm thanh nào khác thâu nhiếp con tim người nam bằng tiếng người nữ"). Và quá xao xuyến thầy liền buông đầu gậy ra thưa với Trưởng lão:
- Thưa Tôn giả, chờ con một lát. Con bận một chút việc.
Nói xong thầy tất tả đi về hướng cô gái. Trông thấy thầy, nàng ngừng hát và thầy phạm giới tà hạnh với cô gái. Trưởng lão đợi thầy Sa-di hồi lâu chưa thấy trở lại, đoán ngay có điều bất thường, có tiếng hát phụ nữ và chú Sa-di lại đi lâu quá, chắc đã phạm giới rồi.
Thầy Sa-di sau đó trở về bên Trưởng lão, hối hả giục Ngài tiếp tục lên đường:
- Thôi ta đi, thưa Tôn giả.
Trưởng lão nghiêm giọng:
- Này Sa-di, con đã phạm tội phải không?
Thầy im lặng, và dù được hỏi lần nữa thầy vẫn nín khe. Trưởng lão răn tiếp:
- Một kẻ tội lỗi như chú không bao giờ được nắm đầu gậy của ta.
Thầy Sa-di quá ăn năn, cởi chiếc y vàng, khoác áo thế tục, cúi đầu nhận lỗi:
- Thưa Tôn giả, trước đây con là thầy tu, nay trở lại làm cư sĩ. Con đi tu chẳng phải do tín tâm, chỉ vì sợ những bất trắc dọc đường. Giờ thì chúng ta đi thôi.
Trưởng lão vẫn không đổi ý:
- Một kẻ xấu ác, dù là bậc xuất gia hay tại gia vẫn là kẻ xấu ác. Khi là Sa-di chú không giữ được phạm hạnh, thì liệu chú có là người tốt khi làm cư sĩ không ? Một kẻ tội lỗi như chú không bao giờ được nắm đầu gậy của ta.
-Tôn giả ! Ðường đầy ma qủy, Ngài lại mù, làm sao Ngài lại ở đây được ?
- Chú đừng lo việc ấy. Ta có nằm chết ở đây hay đi đâu chăng nữa, cũng không có gì quan trọng. Ta không đi với chú.
Nói xong, Trưởng lão ngâm đoạn kệ sau:
Ôi ánh sáng mắt ta đã mất!
Con đường dài mệt mỏi xiết chi.
Ði cùng với kẻ ngu si,
Thà rằng nằm xuống chẳng đi, không màng.
Ôi ánh sáng mắt ta đã mất!
Con đường dài mệt mỏi xiết chi.
Ði cùng với kẻ ngu si,
Thà rằng phải chết, chẳng đi, không màng.
Chú nghe những lời này, hối hận, nghẹn ngào, cất tiếng than:
- Con đã phạm một tội ghê gớm, một lỗi lầm kinh khủng.
Rồi khóc lóc vặn vẹo đôi tay, chú lao vào rừng mất dạng.
Ðức hạnh của Trưởng lão làm cho ngai vàng Ðế Thích dài sáu mươi dặm, rộng năm mươi dặm, dày mười lăm dặm, rực rỡ màu hoa hồng đỏ, tự động hạ thấp khi Ðế Thích ngồi, vương cao khi Ðế Thích đứng, bỗng nhiên nóng bỏng lên. Ðế Thích giật mình không hiểu ai có thể hắt ngài ra khỏi ngai như thế này, và quan sát thế gian, với thiên Nhản Ngài thấy Trưởng lão. Người xưa kể rằng:
Ðế Thích có ngàn mắt,
Làm thanh tịnh mắt thần.
Pàla ghét tội lỗi,
Làm thanh tịnh tâm thân.
Ðế Thích có ngàn mắt,
Làm thanh tịnh mắt thần.
Pàla sùng giới luật,
An lạc trong đạo tâm.
Ðế Thích tự nhủ: "Nếu ta không đến giúp một Trưởng lão ghê tởm tội lỗi và tôn sùng giới luật như vậy, thì đầu ta sẽ bể làm bảy mảnh. Ta sẽ đến giúp Ngài".
Vậy là:\
Ðế Thích có ngàn mắt,
Thống lãnh hết chư thiên,
Ðến ngay trong khoảnh khắc,
Bên Cakkhupàla.
Và Ðế Thích bay đến Trưởng lão. Khi đến gần, Ngài kéo lê chân.. Trưởng lão bèn hỏi:
- Ai đó?
- Tôi, một bộ hành.
- Này thiện tín, ngươi đi đâu vậy?
- Ðến Xá-vệ, thưa Tôn giả.
- Hãy tiếp tục lộ trình.
- Nhưng thưa Tôn giả, Ngài đi đâu?
- Tôi cũng đến đó.
- Tốt quá, vậy thì chúng ta cùng đi.
- Này bạn, tôi ốm yếu, đi với tôi bạn sẽ chậm trễ.
- Tôi không có việc gì gấp. Hơn nữa nếu đi với Ngài, tôi sẽ được công đức vì đã làm một trong mười điều thiện. Ta hãy cùng đi, thưa Tôn giả!
Nghĩ rằng đây là một người ngoan đạo, Trưởng lão bằng lòng:
- Tốt lắm, hãy nắm lấy đầu gậy của tôi.
Ðế Thích y lời và làm phép thâu ngắn đoạn đường để họ đến Kỳ Viên kịp trong chiều ấy. Và rồi tiếng kèn, trống và những nhạc cụ khác nổi lên bên tai, Trưởng lão ngạc nhiên:
- Tiếng ấy ở đâu?
- Ở Xá-vệ.
- Này thiện tín, lần trước tôi đi lâu lắm mới đến, sao kỳ này nhanh vậy?
- Thưa Tôn giả, tôi biết một lối đi tắt.
Trưởng lão hiểu ngay đây không phải là người thường mà là một vị trời.
Phạm thiên có ngàn mắt,
Thống lãnh hết chư thiên,
Thâu ngắn đi khoảng cách,
Ðến Xá-vệ thật nhanh.
Rồi Ðế Thích dẫn Trưởng lão đến một túp lều bằng lá và cỏ, nơi người em của Trưởng lão dựng riêng cho anh mình ở tạm, để Trưởng lão ngồi trên giường, và hóa thành anh bạn đến thăm người em. Anh bạn này kêu lên khi đến nhà:
- Bạn Pàla!
Pàla chào bạn:
- Gì vậy bạn?
- Anh có biết Trưởng lão đã về chưa?
- Chưa! Ngài về thật sao?
- Quả vậy, tôi vừa từ nơi ẩn cư về, thấy Trưởng lão đang ngồi trong lều của anh.
Nói xong anh bạn ra đi.
Vị gia chủ bèn đi đến lều cỏ. Vừa trông thấy Trưởng lão, anh gieo mình xuống chân Ngài, lăn trên đất khóc lóc:
- Con biết mà, Trưởng lão! Vì thế con không muốn để người đi tu.
Hàn huyên thăm hỏi xong, gia chủ bèn trả tự do cho hai nô lệ, cho chúng xuất gia làm đệ tử Trưởng lão để trông nom Ngài. Anh dặn dò:
- Nhớ về làng lấy cháo và thức ăn, chăm lo săn sóc Trưởng lão.
Hai tân Sa-di chăm sóc Trưởng lão hết sức tận tụy, làm đủ các bổn phận từ việc lớn đến việc nhỏ.
Ngày nọ, một nhóm thầy Tỳ-kheo ở xứ khác đến kính viếng Phật. Sau khi lễ Phật và thăm tám mươi Ðại Trưởng lão, họ đi tham quan tịnh xá. Ðến thất của Trưởng lão Cakkhupàla họ bàn nhau đến vấn an Ngài. Chiều hôm đó họ định vào thăm, nhưng một cơn bão dữ dội nổi lên, họ đành quay về và hẹn sáng hôm sau trở lại. Cơn mưa lớn kéo dài suốt canh một, đến canh hai thì dứt. Trưởng lão, một con người giàu nghị lực đã quen kinh hành, lần xuống hàng hiên vào canh năm, và vô tình giẫm chết rất nhiều côn trùng bò lổn ngổn trên nền đất ẩm. Các thầy Tỳ-kheo ngụ tại đó không quét dọn sớm, nên khi các thầy Tỳ-kheo ở xa đến thăm Trưởng lão, thấy đủ loại côn trùng nằm chết rải rác ngoài hàng hiên. Họ kinh ngạc lên tiếng:
- Ai đã bước đi trên lối này?
Và được trả lời:
- Thưa Tôn giả, Thầy chúng tôi.
Họ bực bội nói:
- Xem một Tỳ-kheo kìa! Khi ông ấy sáng mắt thì nằm ngủ và không tạo tội. Còn bây giờ mù mắt lại nghĩ: "Tôi sẽ kinh hành". Và đã giết chừng ấy côn trùng. Ông ấy nghĩ mình làm đúng, nhưng thật chẳng đúng tí nào.
Rồi họ bỏ đi và bạch với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Trưởng lão Cakkhupàla nghĩ "Tôi sẽ kinh hành", và đã giết hại nhiều côn trùng.
Thế Tôn gạn hỏi lại:
- Nhưng các ông có thấy ông ấy giết không?
- Thưa không thấy.
- Thực sự các ông không thấy ông ấy giết, cũng vậy, ông ấy không thấy côn trùng. Này Tỳ-kheo! Người giải thoát các lậu hoặc, không còn ý sát sanh.
- Bạch Thế Tôn, vị ấy chắc chứng A-la-hán, vậy do đâu mà bị mù?
- Này các Tỳ-kheo, đó là vì lỗi lầm trong một kiếp quá khứ.
- Sao thế, bạch Thế Tôn, vị ấy đã làm gì?
- Các ông hãy lắng nghe!
Chuyện quá khứ
1-A. Người Ðàn Bà Và Ông Thầy Thuốc Ðộc Ác.
Thuở xưa, khi vua Kàsi lên ngôi ở Ba-la-nại, có một thầy thuốc đi dạo xóm làng chữa bệnh. Gặp một người đàn bà đau mắt, ông hỏi:
- Bà sao vậy?
- Tôi không thấy rõ.
- Tôi sẽ chữa cho bà.
- Xin thầy làm ơn chữa giùm.
- Bà sẽ trả công cho tôi thế nào?
- Nếu thầy chữa được cho tôi mắt sáng và khỏe mạnh lại như xưa, tôi và luôn cả con trai con gái tôi sẽ hầu hạ thầy.
- Tốt lắm.
Rồi ông kê toa cho thuốc. Chỉ sau một lần dùng thuốc, đôi mắt của người đàn bà sáng lại. Hạnh phúc vừa đến nhưng lại kèm theo nỗi lo âu mãi lởn vởn trong đầu: "Mình hứa làm nô lệ cho ông thầy, cả các con mình cũng phải làm. Nhưng xem ra lão ấy chẳng tử tế đâu. Chà! Làm sao bây giờ đây? Phải tìm cách để gạt lão mới được". Kịp đến lúc thầy thuốc trở lại hỏi thăm bệnh tình, bà làm ra vẻ khổ sở:
- Trước đây mắt tôi đau ít, nay lại đau dữ dội hơn bao giờ.
Ông thầy đoán ngay là bà ta muốn lừa mình để quỵt tiền công chữa bệnh. Ông tức giận lầm bầm: "Ðược rồi, ta chẳng cần mụ trả công, ta sẽ cho mụ mù luôn". Và ông bỏ đi ngay không nói một lời, trước cặp mắt ngơ ngác của người đàn bà thất hứa.
Ông thầy thuốc về nhà, kể lại cho bà vợ nghe cho hả tức. Vợ ông lặng thinh, còn ông thì tức tốc bào chế một thứ thuốc mỡ khác, mang đến cho người đàn bà và dặn thoa vào mắt. Người đàn bà làm theo chẳng chút nghi ngờ và ánh sáng đôi mắt vụt tắt.
Ông thầy thuốc đó chính là Cakkhupàla.
(Hết Chuyện Quá Khứ)
- Này các Tỳ-kheo! Ðệ tử ta làm ác nên bị ác nghiệp theo đuổi mãi mãi, vì việc ác đi theo người làm ác như bánh xe lăn theo chân con bò kéo xe.
Kể chuyện xong, đấng Pháp Vương, như một vị vua đóng dấu ấn bằng con triện hoàng gia lên sắc dụ đã được niêm phong, tuyên đọc bài kệ sau:
(1) Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo.
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo.
- Thưa Tôn giả, Ngài có thoa thuốc vào mũi?
- Có.
- Ngài thấy thế nào?
- Vẫn đau như trước.
- Thưa Tôn giả, Ngài có ngồi khi thoa thuốc hay nằm xuống?
Trưởng lão im lặng. Y sĩ hỏi lại mấy lần, Trưởng lão vẫn không nói một lời. Y sĩ bảo:
- Ngài không chịu làm điều phải làm để lành bệnh. Vì vậy Ngài không nên xin thuốc, và tôi cũng sẽ không chế thuốc cho Ngài. Tôi không còn cách nào hơn.
Bị y sĩ từ chối chữa bệnh, Trưởng lão trở về tịnh xá, tự dặn dò: "Tỳ-kheo, dầu cho thầy bị y sĩ từ bỏ, chớ từ bỏ tư thế ngồi của mình".
Như con bệnh nan y,
Y sĩ thôi chữa trị,
Chắc chắn gặp tử thần,
Pàlita, sao còn tán tâm?
Tự khiển trách mình với bài kệ trên, Trưởng lão lại tiếp tục thiền định. Vào cuối đêm đôi mắt Ngài mù hẳn, các lậu đồng thời hết sạch. Ngài chứng A-la-hán an trú trong an lạc của Minh sát tuệ. Rồi Ngài vào liêu ngồi nghỉ. Ðến giờ khất thực, các Tỳ-kheo đến bên Trưởng lão thưa:
- Bạch Tôn giả, đã đến giờ chúng ta đi bát.
- Ðến giờ rồi ư, chư hiền hữu?
- Thưa vâng.
- Thế thì các thầy hãy đi.
- Còn Ngài, thưa Tôn giả?
- Mắt tôi đã mù.
Họ nhìn vào mắt Ngài và mắt họ đẫm lệ:
- Ðừng lo ngại, chúng con sẽ săn sóc Ngài.
Họ an ủi Trưởng lão, và sau khi xong bổn phận hành thiền, họ vào làng khất thực.
Không thấy Trưởng lão, dân làng hỏi thăm:
- Bạch quý thầy, Tôn giả Trưởng lão của chúng con đâu?
Khi rõ sự việc, họ gởi cháo về cúng dường Ngài. Sau đó, từng người một đem thức ăn đến đảnh lễ Trưởng lão, lăn mình dưới chân Ngài, không ngớt than khóc. Rồi họ an ủi Ngài:
- Thưa Tôn giả, xin đừng lo lắng, chúng con sẽ săn sóc Ngài.
Từ đó, dân làng đều đặn gởi cháo đến tịnh xá. Trưởng lão thường răn nhắc sáu mươi Tỳ-kheo, và các Tỳ-kheo đều tuân hành theo lời Ngài, nghiêm chỉnh đến nỗi vào ngày giải hạ tất cả đều chứng A-la-hán và đắc thần thông.
Cuối mùa an cư, vì muốn gặp Phật, các Tỳ-kheo thưa với Trưởng lão xin đi. Trưởng lão không tránh khỏi đăm chiêu: "Ta nay sức yếu, trên đường về lại đi qua khu rừng có nhiều ma quỷ. Nếu ta cùng đi, các thầy sẽ nhọc công và không thể khất thực. Ta sẽ để họ đi trước".
Và Ngài bảo:
- Các thầy hãy đi trước.
Các Tỳ-kheo thắc mắc:
- Nhưng còn Tôn giả?
- Tôi ốm yếu, đường đi phải băng qua khu rừng có nhiều ma quỷ, nếu tôi cùng đi các thầy sẽ nhọc công. Các thầy hãy đi trước.
- Không được, thưa Tôn giả. Chúng con chỉ đi cùng Ngài.
- Xin các thầy đừng làm thế, tôi chẳng vui lòng. Nếu em tôi gặp các thầy và hỏi thăm tôi, hãy bảo là tôi mù mắt, nó sẽ gởi người đến và dẫn tôi về. Hãy nhân danh tôi chào mừng đấng Thập Lực và tám mươi vị Ðại Trưởng lão.
Nói xong, Tôn giả bảo họ ra đi. Bắt buộc phải lên đường, các Tỳ-kheo đành xin phép Trưởng lão vào làng khất thực rồi lên đường.
Dân làng mời ngồi, dâng thức ăn, năn nỉ ở lại; nhưng biết các Tỳ-kheo phải về gặp Phật, họ đành khóc lóc tiễn đưa. Du hành một thời gian, các thầy đến Kỳ Viên và nhân danh Trưởng lão chào mừng Ðạo sư cùng tám mươi vị Ðại Trưởng lão. Xong các thầy đi khất thực, qua nhà gia chủ em của Trưởng lão. Gia chủ nhận ra các thầy ngay, thân mật đón tiếp, mời ngồi và hỏi thăm Trưởng lão.
Các Tỳ-kheo kể lại những gì đã xảy ra. Người em lăn mình trên đất, than khóc mếu máo, không biết phải làm sao bây giờ.
Các Tỳ-kheo vỗ về:
- Trưởng lão muốn có ai đến đưa Ngài về.
- Thưa, đây là Pàlita, con của chị con. Xin gởi nó đi!.
- Ðể nó đi không ổn vì đường nhiều nguy hiểm. Nếu cho nó xuất gia thì an toàn hơn.
Người em bằng lòng.
Thế là các thầy làm lễ xuất gia cho chàng trai, dạy anh ta cách thức đắp y v.v.. trong vòng hai tuần, rồi chỉ đường cho anh ta đi.
Băng qua nhiều làng mạc, một hôm thầy Sa-di trẻ gặp một cụ già tại cổng làng đó và hỏi thăm:
- Chào cụ, cụ có biết một tu viện ẩn cư nào gần đây không?
- Thưa Tôn giả, có.
- Ai sống ở đó?
- Có một Trưởng lão tên Pàlita.
- Hãy chỉ cho tôi đường đến đó.
- Tôn giả là ai?
- Tôi là con của em gái vị ấy.
Cụ già liền dẫn thầy đến nơi ẩn cư. Thầy tới đảnh lễ Trưởng lão, và trong hai tuần làm đủ bổn phận từ việc lớn đến việc nhỏ đối với Trưởng lão, chăm sóc Ngài thật tận tụy. Rồi thầy đề nghị với Trưởng lão:
- Thưa Tôn giả, cậu của con mong được gặp Ngài.
Chúng ta hãy trở về.
- Tốt lắm, hãy nắm lấy gậy của ta.
Và như thế tay không rời gậy, cả hai người một già một trẻ đi vào làng. Dân làng tìm hết cách thuyết phục Trưởng lão ở lại nhưng vô hiệu, họ đành khóc lóc đưa đi một đoạn đường. Họ đi đến ngôi làng kế cận ở ven rừng tên là Katthanagara, và lần bước ra khỏi làng.
Bỗng từ xa cất tiếng hát của một cô gái đang gom củi. Thầy Sa-di chợt cảm thấy yêu mến ngay tiếng hát trong trẻo (Ðức Thế Tôn đã từng dạy: "Này các Tỳ-kheo! Chưa từng có âm thanh nào khác thâu nhiếp con tim người nam bằng tiếng người nữ"). Và quá xao xuyến thầy liền buông đầu gậy ra thưa với Trưởng lão:
- Thưa Tôn giả, chờ con một lát. Con bận một chút việc.
Nói xong thầy tất tả đi về hướng cô gái. Trông thấy thầy, nàng ngừng hát và thầy phạm giới tà hạnh với cô gái. Trưởng lão đợi thầy Sa-di hồi lâu chưa thấy trở lại, đoán ngay có điều bất thường, có tiếng hát phụ nữ và chú Sa-di lại đi lâu quá, chắc đã phạm giới rồi.
Thầy Sa-di sau đó trở về bên Trưởng lão, hối hả giục Ngài tiếp tục lên đường:
- Thôi ta đi, thưa Tôn giả.
Trưởng lão nghiêm giọng:
- Này Sa-di, con đã phạm tội phải không?
Thầy im lặng, và dù được hỏi lần nữa thầy vẫn nín khe. Trưởng lão răn tiếp:
- Một kẻ tội lỗi như chú không bao giờ được nắm đầu gậy của ta.
Thầy Sa-di quá ăn năn, cởi chiếc y vàng, khoác áo thế tục, cúi đầu nhận lỗi:
- Thưa Tôn giả, trước đây con là thầy tu, nay trở lại làm cư sĩ. Con đi tu chẳng phải do tín tâm, chỉ vì sợ những bất trắc dọc đường. Giờ thì chúng ta đi thôi.
Trưởng lão vẫn không đổi ý:
- Một kẻ xấu ác, dù là bậc xuất gia hay tại gia vẫn là kẻ xấu ác. Khi là Sa-di chú không giữ được phạm hạnh, thì liệu chú có là người tốt khi làm cư sĩ không ? Một kẻ tội lỗi như chú không bao giờ được nắm đầu gậy của ta.
-Tôn giả ! Ðường đầy ma qủy, Ngài lại mù, làm sao Ngài lại ở đây được ?
- Chú đừng lo việc ấy. Ta có nằm chết ở đây hay đi đâu chăng nữa, cũng không có gì quan trọng. Ta không đi với chú.
Nói xong, Trưởng lão ngâm đoạn kệ sau:
Ôi ánh sáng mắt ta đã mất!
Con đường dài mệt mỏi xiết chi.
Ði cùng với kẻ ngu si,
Thà rằng nằm xuống chẳng đi, không màng.
Ôi ánh sáng mắt ta đã mất!
Con đường dài mệt mỏi xiết chi.
Ði cùng với kẻ ngu si,
Thà rằng phải chết, chẳng đi, không màng.
Chú nghe những lời này, hối hận, nghẹn ngào, cất tiếng than:
- Con đã phạm một tội ghê gớm, một lỗi lầm kinh khủng.
Rồi khóc lóc vặn vẹo đôi tay, chú lao vào rừng mất dạng.
Ðức hạnh của Trưởng lão làm cho ngai vàng Ðế Thích dài sáu mươi dặm, rộng năm mươi dặm, dày mười lăm dặm, rực rỡ màu hoa hồng đỏ, tự động hạ thấp khi Ðế Thích ngồi, vương cao khi Ðế Thích đứng, bỗng nhiên nóng bỏng lên. Ðế Thích giật mình không hiểu ai có thể hắt ngài ra khỏi ngai như thế này, và quan sát thế gian, với thiên Nhản Ngài thấy Trưởng lão. Người xưa kể rằng:
Ðế Thích có ngàn mắt,
Làm thanh tịnh mắt thần.
Pàla ghét tội lỗi,
Làm thanh tịnh tâm thân.
Ðế Thích có ngàn mắt,
Làm thanh tịnh mắt thần.
Pàla sùng giới luật,
An lạc trong đạo tâm.
Ðế Thích tự nhủ: "Nếu ta không đến giúp một Trưởng lão ghê tởm tội lỗi và tôn sùng giới luật như vậy, thì đầu ta sẽ bể làm bảy mảnh. Ta sẽ đến giúp Ngài".
Vậy là:\
Ðế Thích có ngàn mắt,
Thống lãnh hết chư thiên,
Ðến ngay trong khoảnh khắc,
Bên Cakkhupàla.
Và Ðế Thích bay đến Trưởng lão. Khi đến gần, Ngài kéo lê chân.. Trưởng lão bèn hỏi:
- Ai đó?
- Tôi, một bộ hành.
- Này thiện tín, ngươi đi đâu vậy?
- Ðến Xá-vệ, thưa Tôn giả.
- Hãy tiếp tục lộ trình.
- Nhưng thưa Tôn giả, Ngài đi đâu?
- Tôi cũng đến đó.
- Tốt quá, vậy thì chúng ta cùng đi.
- Này bạn, tôi ốm yếu, đi với tôi bạn sẽ chậm trễ.
- Tôi không có việc gì gấp. Hơn nữa nếu đi với Ngài, tôi sẽ được công đức vì đã làm một trong mười điều thiện. Ta hãy cùng đi, thưa Tôn giả!
Nghĩ rằng đây là một người ngoan đạo, Trưởng lão bằng lòng:
- Tốt lắm, hãy nắm lấy đầu gậy của tôi.
Ðế Thích y lời và làm phép thâu ngắn đoạn đường để họ đến Kỳ Viên kịp trong chiều ấy. Và rồi tiếng kèn, trống và những nhạc cụ khác nổi lên bên tai, Trưởng lão ngạc nhiên:
- Tiếng ấy ở đâu?
- Ở Xá-vệ.
- Này thiện tín, lần trước tôi đi lâu lắm mới đến, sao kỳ này nhanh vậy?
- Thưa Tôn giả, tôi biết một lối đi tắt.
Trưởng lão hiểu ngay đây không phải là người thường mà là một vị trời.
Phạm thiên có ngàn mắt,
Thống lãnh hết chư thiên,
Thâu ngắn đi khoảng cách,
Ðến Xá-vệ thật nhanh.
Rồi Ðế Thích dẫn Trưởng lão đến một túp lều bằng lá và cỏ, nơi người em của Trưởng lão dựng riêng cho anh mình ở tạm, để Trưởng lão ngồi trên giường, và hóa thành anh bạn đến thăm người em. Anh bạn này kêu lên khi đến nhà:
- Bạn Pàla!
Pàla chào bạn:
- Gì vậy bạn?
- Anh có biết Trưởng lão đã về chưa?
- Chưa! Ngài về thật sao?
- Quả vậy, tôi vừa từ nơi ẩn cư về, thấy Trưởng lão đang ngồi trong lều của anh.
Nói xong anh bạn ra đi.
Vị gia chủ bèn đi đến lều cỏ. Vừa trông thấy Trưởng lão, anh gieo mình xuống chân Ngài, lăn trên đất khóc lóc:
- Con biết mà, Trưởng lão! Vì thế con không muốn để người đi tu.
Hàn huyên thăm hỏi xong, gia chủ bèn trả tự do cho hai nô lệ, cho chúng xuất gia làm đệ tử Trưởng lão để trông nom Ngài. Anh dặn dò:
- Nhớ về làng lấy cháo và thức ăn, chăm lo săn sóc Trưởng lão.
Hai tân Sa-di chăm sóc Trưởng lão hết sức tận tụy, làm đủ các bổn phận từ việc lớn đến việc nhỏ.
Ngày nọ, một nhóm thầy Tỳ-kheo ở xứ khác đến kính viếng Phật. Sau khi lễ Phật và thăm tám mươi Ðại Trưởng lão, họ đi tham quan tịnh xá. Ðến thất của Trưởng lão Cakkhupàla họ bàn nhau đến vấn an Ngài. Chiều hôm đó họ định vào thăm, nhưng một cơn bão dữ dội nổi lên, họ đành quay về và hẹn sáng hôm sau trở lại. Cơn mưa lớn kéo dài suốt canh một, đến canh hai thì dứt. Trưởng lão, một con người giàu nghị lực đã quen kinh hành, lần xuống hàng hiên vào canh năm, và vô tình giẫm chết rất nhiều côn trùng bò lổn ngổn trên nền đất ẩm. Các thầy Tỳ-kheo ngụ tại đó không quét dọn sớm, nên khi các thầy Tỳ-kheo ở xa đến thăm Trưởng lão, thấy đủ loại côn trùng nằm chết rải rác ngoài hàng hiên. Họ kinh ngạc lên tiếng:
- Ai đã bước đi trên lối này?
Và được trả lời:
- Thưa Tôn giả, Thầy chúng tôi.
Họ bực bội nói:
- Xem một Tỳ-kheo kìa! Khi ông ấy sáng mắt thì nằm ngủ và không tạo tội. Còn bây giờ mù mắt lại nghĩ: "Tôi sẽ kinh hành". Và đã giết chừng ấy côn trùng. Ông ấy nghĩ mình làm đúng, nhưng thật chẳng đúng tí nào.
Rồi họ bỏ đi và bạch với Phật:
- Bạch Thế Tôn! Trưởng lão Cakkhupàla nghĩ "Tôi sẽ kinh hành", và đã giết hại nhiều côn trùng.
Thế Tôn gạn hỏi lại:
- Nhưng các ông có thấy ông ấy giết không?
- Thưa không thấy.
- Thực sự các ông không thấy ông ấy giết, cũng vậy, ông ấy không thấy côn trùng. Này Tỳ-kheo! Người giải thoát các lậu hoặc, không còn ý sát sanh.
- Bạch Thế Tôn, vị ấy chắc chứng A-la-hán, vậy do đâu mà bị mù?
- Này các Tỳ-kheo, đó là vì lỗi lầm trong một kiếp quá khứ.
- Sao thế, bạch Thế Tôn, vị ấy đã làm gì?
- Các ông hãy lắng nghe!
Chuyện quá khứ
1-A. Người Ðàn Bà Và Ông Thầy Thuốc Ðộc Ác.
Thuở xưa, khi vua Kàsi lên ngôi ở Ba-la-nại, có một thầy thuốc đi dạo xóm làng chữa bệnh. Gặp một người đàn bà đau mắt, ông hỏi:
- Bà sao vậy?
- Tôi không thấy rõ.
- Tôi sẽ chữa cho bà.
- Xin thầy làm ơn chữa giùm.
- Bà sẽ trả công cho tôi thế nào?
- Nếu thầy chữa được cho tôi mắt sáng và khỏe mạnh lại như xưa, tôi và luôn cả con trai con gái tôi sẽ hầu hạ thầy.
- Tốt lắm.
Rồi ông kê toa cho thuốc. Chỉ sau một lần dùng thuốc, đôi mắt của người đàn bà sáng lại. Hạnh phúc vừa đến nhưng lại kèm theo nỗi lo âu mãi lởn vởn trong đầu: "Mình hứa làm nô lệ cho ông thầy, cả các con mình cũng phải làm. Nhưng xem ra lão ấy chẳng tử tế đâu. Chà! Làm sao bây giờ đây? Phải tìm cách để gạt lão mới được". Kịp đến lúc thầy thuốc trở lại hỏi thăm bệnh tình, bà làm ra vẻ khổ sở:
- Trước đây mắt tôi đau ít, nay lại đau dữ dội hơn bao giờ.
Ông thầy đoán ngay là bà ta muốn lừa mình để quỵt tiền công chữa bệnh. Ông tức giận lầm bầm: "Ðược rồi, ta chẳng cần mụ trả công, ta sẽ cho mụ mù luôn". Và ông bỏ đi ngay không nói một lời, trước cặp mắt ngơ ngác của người đàn bà thất hứa.
Ông thầy thuốc về nhà, kể lại cho bà vợ nghe cho hả tức. Vợ ông lặng thinh, còn ông thì tức tốc bào chế một thứ thuốc mỡ khác, mang đến cho người đàn bà và dặn thoa vào mắt. Người đàn bà làm theo chẳng chút nghi ngờ và ánh sáng đôi mắt vụt tắt.
Ông thầy thuốc đó chính là Cakkhupàla.
(Hết Chuyện Quá Khứ)
- Này các Tỳ-kheo! Ðệ tử ta làm ác nên bị ác nghiệp theo đuổi mãi mãi, vì việc ác đi theo người làm ác như bánh xe lăn theo chân con bò kéo xe.
Kể chuyện xong, đấng Pháp Vương, như một vị vua đóng dấu ấn bằng con triện hoàng gia lên sắc dụ đã được niêm phong, tuyên đọc bài kệ sau:
(1) Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo.
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo.
Còn tiếp theo.
Budsas.org