2019-03-05, 02:04 PM
Chúa Giêsu và Mười Điều Răn
Jack Mahoney SJ8/6/2012
Ông Môsê lên gặp Thiên Chúa. Từ trên núi, Đức Chúa gọi ông và phán: “Ngươi sẽ nói với nhà Giacóp, sẽ thông báo cho con cái Israel thế này: Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai Cập thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim bằng, mà đem đến với Ta. Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta. Vì toàn cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân thánh. Đó là những lời ngươi sẽ nói với con cái Israel
Jack Mahoney SJ8/6/2012
“Mười điều răn” là đoạn Kinh Thánh nổi tiếng nhất. Được trình bày trong Sách Thánh của người Do Thái rằng chính Thiên Chúa đã trực tiếp mạc khải cho họ, mười điều răn sau đó đã được Kitô giáo đồng hóa và chiếm một vị trí quan trọng trong suy tư luân lý Kitô giáo và quảng đại quần chúng trong nhiều thế kỷ [1]. Có hai bản mười điều răn trong Cựu Ước: bản cũ hơn được viết trong sách Xuất Hành chương 20, nằm trong bối cảnh lịch sử sơ thời của dân Do Thái; bản khác mới hơn ở sách Đệ Nhị Luật chương 5, được trình bày dưới hình thức nhắc lại lịch sử trong lời di ngôn của ông Môisen.
Độc giả ngày nay khi đọc Mười Điều Răn có thể nhầm lẫn nếu họ không nhận ra hai bản được đánh số khác nhau. Cách dễ nhất để nhận ra sự khác nhau này là bắt đầu từ phần cuối. Truyền thống Hy Lạp, phái Calvin, Cải Cách và các truyền thống Anh giáo theo bản cũ hơn, bản Xuất Hành (Xh 20, 2-17), kết thúc chỉ với một điều răn (câu 17), ngăn cấm ước muốn gia sản của người khác, gồm cả vợ của họ, và như vậy buộc phải làm tròn tổng số là mười bằng cách chia điều răn đầu tiên cấm thờ lạy thần thánh ngoại giáo thành hai, biến việc cấm thờ lạy ngẫu tượng thành điều răn thứ hai. Trái lại, Thánh Augustinô, các truyền thống Công giáo và Tin Lành Luther theo bản sau này trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 5, 6-21), kết thúc với hai điều cấm “ước muốn” khác nhau: trước hết là vợ hàng xóm và kế đến là tài sản của ông ta. Bản này mở đầu bằng một điều răn duy nhất cấm thờ thần ngoại lai cũng như các hình tượng tạc (của Thiên Chúa). Cách đánh số khác nhau này giải thích tại sao Giáo hội Công giáo Roma ngày nay gán những vấn đề luân lý tính dục vào điều răn thứ sáu, trong khi Anh giáo cho đó là điều răn thứ bảy. Tiện thể, điều này mở đầu cho việc nhìn nhận phẩm giá của người phụ nữ Do Thái, mặc dù vẫn còn dưới hình thức sơ khai là phân biệt người phụ nữ với tài sản của người chồng và cho người phụ nữ một giới răn riêng biệt. Điều này nói lên sự phát triển theo dòng lịch sử của Mười Điều Răn trong sách Xuất Hành và Đệ Nhị Luật.
Nội dung của Mười Điều Răn chia thành hai nhóm lệnh luân lý nền tảng và những bổn phận do Thiên Chúa quy định: nhóm đầu ngắn gọn dành riêng cho việc thờ phượng Thiên Chúa cách tuyệt đối, tôn kính Thánh Danh Thiên Chúa, giữ ngày Sabát, ngày của Chúa; nhóm thứ hai bao quát hơn nhằm đến những bổn phận phải tôn trọng những người thân cận, trước hết là cha mẹ già nua tuổi tác, cấm sát nhân, ngoại tình, bắt cóc (sau này được khái quát hóa là trộm cắp), vu khống, ước muốn và chiếm đoạt vợ và tài sản của người khác (trong sách Xuất Hành thì cả hai được gộp chung thành một). Những luật điều cá nhân được khai triển và áp dụng thay đổi tùy theo hiện trạng, trong phụng vụ ngày lễ và qua giáo huấn của các ngôn sứ [2]. Ngày nay, Mười Điều Răn được xem như những điều luật bảo vệ các giá trị cơ bản của con người, ít tính lịch sử và nhiều tính lý thuyết hơn như: những giá trị về tôn giáo, sự sống, hôn nhân, tự do, thanh danh và tài sản. Lúc đầu, Mười Điều Răn chẳng liên hệ gì đến nhân quyền – đây chỉ là một triển khai triết lý về sau này – nhưng cũng đã hình thành một nền tảng để biện luận cho một lý thuyết về nhân quyền [3].
Ban đầu, Mười Điều Răn không có thẩm quyền luân lý do bất kỳ một sức mạnh đạo đức nội tại nào, nhưng chỉ do ý muốn của Thiên Chúa như là một luật lệ, có Thiên Chúa đóng vai trò tác nhân chính trong “giao ước”, hay hòa ước, mà Ngài tự do ký kết với dân Do Thái mới, được thành lập sau khi chạy thoát khỏi Ai Cập. Về phía người Do Thái, bằng lời thề trọng thể, họ cam kết tuân giữ “những lời của giao ước, mười điều răn” (Xh 34, 28). Người ta chú giải rằng cam kết này được rập khuôn theo những hòa ước chính trị cổ xưa giữa các bậc đế vương và những quốc gia chư hầu: trước hết là lời mở đầu và bản liệt kê những ân huệ trong quá khứ (‘Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ…’ [Xh 20, 2]); tiếp đến là các điều kiện cơ bản (Mười Điều Răn); và kết thúc với lời chúc lành hay chúc dữ nếu tuân giữ hay vi phạm (Đnl 11), bản văn phải được gìn giữ cẩn thận trong thánh điện (hòm bia giao ước, Xh 25, 16). Tất cả mọi sự được tóm tắt trong Xh 19, 3-6:
Ông Môsê lên gặp Thiên Chúa. Từ trên núi, Đức Chúa gọi ông và phán: “Ngươi sẽ nói với nhà Giacóp, sẽ thông báo cho con cái Israel thế này: Các ngươi thấy Ta đã xử với Ai Cập thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim bằng, mà đem đến với Ta. Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta. Vì toàn cõi đất đều là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân thánh. Đó là những lời ngươi sẽ nói với con cái Israel
Tôi Không Phãi Người Tội Lỗi Bình Thường ....Mà Là Người Rất Tội Lỗi ....Rất Rất Tội Lỗi .....
Xin Cám Ơn !