LTP Học Phật Pháp
Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya

145. Kinh Giáo giới Phú-lâu-na
(Punnovàda sutta)


Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-Lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc).

Rồi Tôn giả Punna (Phú-lâu-na), vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Punna bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn giáo giới với lời giáo giới vắn tắt cho con, để con có thể, sau khi nghe Thế Tôn, sống một mình, nhàn tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

-- Vậy này Punna, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

--ooOoo--

Từ sự tập khởi của dục hỷ, là sự tập khởi của khổ

Tôn giả Punna vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

-- Này Punna, có những sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú trong ấy, thời do hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú, dục hỷ sanh; và này Punna, Ta nói rằng, từ sự tập khởi của dục hỷ, là sự tập khởi của khổ.

Này Punna, có những tiếng do tai nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú trong ấy, thời do hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú, dục hỷ sanh; và này Punna, Ta nói rằng, từ sự tập khởi của dục hỷ, là sự tập khởi của khổ. 

Này Punna, có những hương do mũi nhận thứcliên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú trong ấy, thời do hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú, dục hỷ sanh; và này Punna, Ta nói rằng, từ sự tập khởi của dục hỷ, là sự tập khởi của khổ. 

Này Punna, có những vị do lưỡi nhận thứcliên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú trong ấy, thời do hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú, dục hỷ sanh; và này Punna, Ta nói rằng, từ sự tập khởi của dục hỷ, là sự tập khởi của khổ. 

Này Punna, có những cảm xúc do thân nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú trong ấy, thời do hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú, dục hỷ sanh; và này Punna, Ta nói rằng, từ sự tập khởi của dục hỷ, là sự tập khởi của khổ.  

Này Punna, có những pháp do ý nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ, tán thưởng, chấp thủ và an trú trong ấy, thời do hoan hỷ, tán thưởng, chấp thủ và an trú tham đắm, dục hỷ sanh; và này Punna. Ta nói rằng, từ sự tập khởi của dục hỷ, là sự tập khởi của khổ.

--ooOoo--

Diệt tận dục hỷ là sự diệt tận đau khổ

Này Punna, có những sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán thưởng, không chấp thủ và an trú, thời dục hỷ diệtNày Punna, Ta nói rằng, từ sự diệt tận dục hỷ là sự diệt tận đau khổ.

Này Punna, có những tiếng do tai nhận thứckhả ái, khả lạc, khả hỷ, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán thưởng, không chấp thủ và an trú, thời dục hỷ diệtNày Punna, Ta nói rằng, từ sự diệt tận dục hỷ là sự diệt tận đau khổ.

Này Punna, có những hương do mũi nhận thứckhả ái, khả lạc, khả hỷ, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán thưởng, không chấp thủ và an trú, thời dục hỷ diệtNày Punna, Ta nói rằng, từ sự diệt tận dục hỷ là sự diệt tận đau khổ.

Này Punna, có những vị do lưỡi nhận thứckhả ái, khả lạc, khả hỷ, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán thưởng, không chấp thủ và an trú, thời dục hỷ diệtNày Punna, Ta nói rằng, từ sự diệt tận dục hỷ là sự diệt tận đau khổ.

Này Punna, có những cảm xúc do thân nhận thứckhả ái, khả lạc, khả hỷ, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán thưởng, không chấp thủ và an trú, thời dục hỷ diệtNày Punna, Ta nói rằng, từ sự diệt tận dục hỷ là sự diệt tận đau khổ. Này Punna, Ta nói rằng, từ sự diệt tận dục hỷ là sự diệt tận đau khổ.

Này Punna, có những pháp do ý nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán thưởng, không chấp thủ và an trú, thời dục hỷ diệt. Này Punna, Ta nói rằng, từ sự diệt tận dục hỷ là sự diệt tận đau khổ.

--ooOoo--
Sống ở quốc độ Sunaparanta

Này Punna, Ông sẽ sống ở quốc độ nào, nay Ông đã được Ta giáo giới với lời giáo giới vắn tắt?

-- Bạch Thế Tôn, nay con đã được Thế Tôn giáo giới với lời giáo giới vắn tắt, có một quốc độ tên là Sunaparanta (Tây Phương Du-na Quốc), con sẽ sống tại đấy.

-- Này Punna, người nước Sunaparanta là hung bạo. Này Punna, người nước Sunaparanta là thô ác. Này Punna, nếu người nước Sunaparanta diệt tận dục hỷ là sự diệt tận đau khổ. này Punna, tại đấy Ông sẽ như thế nào?

-- Bạch Thế Tôn, nếu người nước Sunaparanta mắng nhiếc con, nhục mạ con, thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: "Thật là hiền thiện, người nước Sunaparanta này! Thật là chí thiện, người nước Sunaparanta này! Vì rằng họ không lấy tay đánh đập ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.

-- Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunaparanta lấy tay đánh đập Ông, thời này Punna, tại đấy Ông sẽ nghĩ như thế nào?

-- Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy tay đánh đập con; thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: ""Thật là thiện, người nước Sunaparanta này! Thật là chí thiện, người nước Sunaparanta này! Vì rằng họ không lấy các cục đất ném đánh ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy! Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.

-- Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunapa ranta lấy các cục đất ném đánh Ông, thời này Punna, tại đấy Ông sẽ nghĩ thế nào?

-- Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy cục đất ném đánh con; thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: "Thật là hiền thiện, các người nước Sunaparanta! Thật là chí thiện, các người nước Sunaparanta! Vì rằng họ không lấy gậy đánh đập ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.

-- Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunaparanta lấy gậy đánh đập Ông, thời này Punna, tại đấy Ông nghĩ thế nào?

-- Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy gậy đánh đập con; thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: "Thật là hiền thiện, các người nước Sunaparanta! Thật là chí thiện, các người nước Sunaparanta! Vì rằng họ không lấy dao đánh đập ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.

-- Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunapa ranta lấy dao đánh đập Ông, thời này Punna, tại đấy Ông nghĩ thế nào?

-- Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy dao đánh đập con; thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: "Thật là hiền thiện, các người nước Sunaparanta! Thật là chí thiện, các người nước Sunaparanta! Vì rằng họ không lấy dao sắc bén đoạt hại mạng ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.

-- Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunaparanta lấy dao sắc bén đoạt hại mạng Ông, thời này Punna, tại đấy Ông nghĩ thế nào?

-- -Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunapa ranta sẽ lấy dao sắc bén đoạt hại mạng con; thời tại đấy con sẽ nghĩ như sau: "Có những đệ tử của Thế Tôn, ưu phiền và nhàm chán thân thể và sinh mạng đi tìm con dao (để tự sát). Nay ta khỏi cần đi tìm đã được con dao ấy". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy, con sẽ nghĩ như vậy.

-- Lành thay, lành thay, này Punna! Này Punna, Ông có thể sống trong nước Sunaparanta, khi Ông có được đầy đủ sự nhiếp phục và an tịnh này. Này Punna, Ông nay hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.

--ooOoo--
Nhập Niết Bàn

Rồi Tôn giả Punna, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, dọn dẹp sàng tọa, lấy y bát, rồi ra đi, đi đến nước Sunaparanta. Tiếp tục du hành, Tôn giả Punna đi đến nước Sunaparanta. Tại đây, Tôn giả Punna sống trong nước Sunaparanta. Rồi Tôn giả Punna nội trong mùa an cư mùa mưa ấy, nhiếp được khoảng năm trăm nam cư sĩ; cũng trong mùa an cư mùa mưa ấy, nhiếp độ khoảng năm trăm nữ cư sĩ; cũng trong mùa an cư mùa mưa ấy, chứng được Tam minh. Sau một thời gian, Tôn giả Punna mệnh chung.

Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, Thiện nam tử Punna ấy, sau khi được Thế Tôn giáo giới với bài giáo giới vắn tắt đã mệnh chung. Sanh thú của vị ấy là gì? Ðời sau của vị ấy là thế nào?

-- Này các Tỷ-kheo, Thiện nam tử Punna là bậc Hiền trí. Vị ấy thực hành pháp và tùy pháp. Vị ấy không phiền nhiễu Ta với những câu hỏi về pháp. Này các Tỷ-kheo, Thiện nam tử Punna đã nhập Niết-bàn.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt


Chân thành cám ơn anh HDC và nhóm Phật tử VH đã có thiện tâm gửi tặng ấn bản điện tử.
(Bình Anson hiệu đính, dựa theo bản Anh ngữ "The Middle Length Discourses of the Buddha", Tỳ kheo Nanamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, 1995).
15-07-2004
Reply
Trung Bộ kinh -TK Pháp Quang - buổi 5 (07/06/2020) - kinh số 145



Reply
Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt


Chương V - Năm Pháp





XIII. Phẩm Bệnh

(I) (121) Người Bệnh
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàlì, tạo Ðại Lâm, ...

... roll down sẽ thấy

...


(IV) (144) Tại Rừng Tikandaki


1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàketa, tại rừng Tikandaki. Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

- Này các Tỷ-kheo!

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

--ooOoo--

Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

2. - Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo thỉnh thoảng sống với tưởng ghê tởm đối với các vật không ghê tởm!

Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo thỉnh thoảng sống với tưởng không ghê tởm đối với vật ghê tởm!

Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo thỉnh thoảng sống với tưởng ghê tởm đối với các vật không ghê tởm và ghê tởm!

Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo thỉnh thoảng sống với tưởng không ghê tởm đối với các vật ghê tởm và không ghê tởm!

Lành thay, này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sau khi từ bỏ cả hai vật không ghê tởm và ghê tởm, trú xả, chánh niệm tỉnh giác!

Và này các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích gì, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể trú với tưởng ghê tởm đối với vật không ghê tởm?

3. "Mong rằng, đối với các pháp khả ái, tham chớ có khởi lên nơi ta".

Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nên sống với tưởng ghê tởm đối với vật không ghê tởm.

--ooOoo--

Và này các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích thế nào, Tỷ-kheo nên sống với tưởng không ghê tởm đối với vật ghê tởm?

4. "Mong rằng đối với các pháp đáng sân hận, lòng sân chớ có khởi lên nơi ta".

Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nên sống với tưởng không ghê tởm đối với vật ghê tởm. 

--ooOoo--

Và này các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích thế nào, Tỷ-kheo nên sống với tưởng ghê tởm đối với vật không ghê tởm, và ghê tởm?

5. "Mong rằng đối với các pháp khả ái, lòng tham chớ có khởi lên nơi ta. Mong rằng đối với các pháp đáng sân hận, lòng sân chớ có khởi lên nơi ta". 

Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nên sống với tưởng ghê tởm đối với vật không ghê tởm và ghê tởm.

--ooOoo--

Và này các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích thế nào, Tỷ-kheo nên sống với tưởng không ghê tởm đối với vật ghê tởm và không ghê tởm?

6. "Mong rằng đối với các pháp đáng được sân hận, lòng sân chớ khởi lên nơi ta".

Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nên sống với tưởng không ghê tởm đối với vật ghê tởm và không ghê tởm.

--ooOoo--

Và này các Tỷ-kheo, do duyên lợi ích thế nào, Tỷ-kheo sau khi từ bỏ cả hai vật không ghê tởm và ghê tởm, trú xả, chánh niệm tỉnh giác?

7. "Mong rằng dầu là vật gì, tại chỗ nào và như thế nào, đối với các pháp khả ái, lòng tham chớ có khởi lên nơi ta! Mong rằng dầu là vật gì, tại chỗ nào là như thế nào, đối với các pháp đáng được sân hận, lòng sân chớ có khởi lên nơi ta! Mong rằng dầu là vật gì, tại chỗ nào và như thế nào, đối với các pháp có thể làm cho si mê, lòng si không khởi lên nơi ta!".

Do duyên lợi ích  này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sau khi từ bỏ cả hai vật không ghê tởm và ghê tởm, trú xả, chánh niệm tỉnh giác.



(V) (145) Con Ðường Ðến Ðịa Ngục


1. - Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị quăng vào địa ngục. Thế nào là năm?

2. Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, đắm say trong rượu men, rượu nấu.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng bị quăng vào địa ngục.

3. Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng được sanh lên Thiên giới. Thế nào là năm?

4. Từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu.

Thành tựu năm pháp này, này các Tỷ-kheo, như vậy tương xứng được sanh lên Thiên giới.

--ooOoo--


Con đường đến địa ngục !!!! Sư Toại Khanh giảng(rất hay)


Reply
Sư Toại Khanh Giảng 24 Duyên Hệ (1-2)
 
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=lAjDdyoaT5I&abt=24+Duy%C3%AAn+H%E1%BB%87

(LTP: Toàn bài giảng này không nói gì đến 24 duyên hệ.)

Kalama tri ân bạn dieulienhoa67 & vuihtv ghi chép bài giảng
26/03/2020 - 06:54 - dieulienhoa
 
Phật giáo mình á, Mình có tin vào chuyện nghiệp báo, tin vào chuyện tái sinh Nhưng mà mình biết một cách mơ hồ thôi; ví dụ như về nghiệp báo, mình biết là làm lành thì được phúc, làm ác thì bị đọa, bị khổ. Chỉ biết như vậy thôi! 
 
Trong khi đó là cái biết của mình mà nó càng sơ sài chừng nào thì niềm tin của mình cũng đại khái chừng đó. Biết đại khái thì niềm tin sơ sài. 
 
Mà tôi đã nói rồi bây giờ bà con còn khỏe, ở đây có người còn trẻ, còn khỏe. Mình thấy kiến thức Phật pháp biết được thì tốt, không biết được thì thôi. Đại khái mình hiểu vị Phật người Ấn Độ là được rồi. Làm lành lánh dữ, rồi cái ngáp ngáp, có chuyện gì rước thầy bà về tụng cho một chầu là xong. 
 
Tôi biết nhiều người hiểu đạo kiểu đó rồi đi chơi cho nó sướng. đeo cẩm thạch cho đỏ tay, rồi móng tay móng chân, kẻ chân mày, kẻ môi kẻ mắt tùm lum hết trơn, rồi cái chết thì dặn người nhà: liệm má nhớ làm cho má đẹp một chút rồi mời mấy sư tới tụng. 
 
Hưởng cho đã rồi nếu làm kiểu đó chết mà siêu được thì tôi chết liền. tôi không có tin nha.
 
Thật ra đó, chuyện mà siêu hay không siêu, nó không phải do bài tụng của mấy Thầy. Mà siêu hay không là siêu, mình siêu cái lúc còn khỏe là siêu lúc đó đó. Tôi vẫn nói hoài: Nước có thể khí, thể lỏng và thể đặc. Nước thể khí luôn luôn nó có khuynh hướng bốc lên. Nước thể lòng luôn tìm chỗ thấp nó chảy xuống.
 
01:58
07/06/2020 - 08:51 - vuihtv
 
Thì nếu mình sống với cái tâm thái nhẹ nhàng thì khi mình tắt hơi là nó bốc hơi à, khỏi phải tụng niệm gì hết. Các vị về nấu nồi nước sôi lên là tự động nó sôi là hơi nó bốc lên. Tôi chưa thấy cái nước nào mà hơi nó đi xuống đất. Tôi chưa gặp. Nhưng mà nước ở thể lỏng thì nó khác. Cũng là cái ấm nước đó mà phần nào là air thì nó đi lên, mà phần nào liquid thì nó đi xuống. Chuyện đương nhiên rồi.
 
Hôm qua đến giờ mình học về giáo lý mười hai duyên khởi là cùng lúc chúng ta học về nghiệp báo lẫn tái sinh. 
 
Nghiệp báo là sao mà tái sinh là sao?
 
Tất cả chúng sinh từ Phạm Thiên, Đế Thích xuống tới con trùng, con dế đều có điểm giống nhau là sống bằng sáu căn. Và sáu căn nó tồn tại là bằng cách tiếp xúc với sáu trần.
Cái này không ghi không có được nè. 
 
Thế giới này được gọi là ảo là bởi vì hai lẽ: 
  1. Cái thứ nhứt, nó không có cái gì mà gọi là nam nữ người tốt kẻ xấu không có cái gì mà gọi núi non kênh rạch đất đá. Không có. Mà tất cả chỉ gồm có sáu thứ cộng lại thôi. Một đó là: đất nước lửa gió là 4, hư không và thức là sáu. Là lục đại. Mình học có bốn đại thôi, mà thật ra nó là lục đại. Cho nên đất nước lửa gió, hư không và thức là sáu thì sáu cái này nó cộng lại làm ra cái gọi là chúng sinh, làm ra cái gọi là vũ trụ. Ảo là ảo vậy đó. Nó là đồ ráp.
  2. Cái thứ hai phải ghi nè. Cái thứ nhứt thế giới này được tạo ra bằng lục đại ngoài lục đại thì không có cái gì là ông A, bà B, con mèo, con chó, con giun, con dế. Không có nha. Và chính lục đại đó nó làm nên 12 thứ sau đây: là sáu căn và sáu trần.
 
Này là thuốc Ấn Độ. Hôm nay là trên đây là tui là trụ sở Liên Hiệp Quốc. Mới uống một bịch thuốc Đại Hàn chiều nay, trà thì trà Đài Loan .  Hôm nay không biết tôi đi về đâu đây nè. Chắc ra ngoài đường đứng chạng hảng thôi. Đang giỡn mà. ...Nghiêm túc từ đầu.
 
Thế giới này được gọi là thế giới ảo là vì hai lẽ: lẽ thứ nhứt là tất cả là đồ ráp, ráp là vậy đó, do nó được lục đại làm nên phân ra là sáu căn và sáu trần. Gạch đầu dòng thứ nhất, Bản chất thế giới chỉ là lục đại cộng lại tạo ra sáu căn và sáu trần.
 
Gạch đầu dòng thứ hai, tôi biết tôi nói này nhiều người rất là sốc nhưng mà không nói không được. 
 
Sáu trần chỉ được gọi là sáu trần khi nó được sáu căn biết. 
Và sáu căn chỉ được gọi là sáu căn khi nó biết là sáu trần. 
 
Có nghĩa là nó giả mà trong giả luôn đó. 
 
Có hiểu không? Tức là sáu căn sáu trần nó chỉ là lục đại thôi: đất nước lửa gió hư không và thức là nó là đồ giả rồi mà cái giả thứ hai là lục căn chỉ được gọi là lục căn khi nó có biết sáu trần mà sáu trần được gọi là sáu trần khi nó là đối tượng của sáu căn. Tôi chứng minh: 
 
Tôi hỏi các vị vậy chứ, cái này nó là trần nào trong sáu trần, sắc thinh khí vị xúc, nó là trần nào? Này tôi giảng rồi. Nó là sáu trần. vì cô có thể thấy nó hay không? Có thể biết bằng lỗ tai không? Có thể ngửi hay không? Bả lắc đầu. Thương quá ha. Mình có thể ngửi nó không? Rồi mình có le lưỡi mình liếm, sờ chạm nó được không? Rồi mình liệng qua một bên mình nghĩ về nó có được không? 
 
Như vậy nó là sáu trần đúng không. Và khi mà mình nằm trong phòng mình ngủ, nó nằm ngoài này. Thì lúc đó đối với mình nó có là sáu trần không? Mình nằm mình ngủ trong phòng. Sai luôn. Nó không là trần nào hết. Tức là tôi để nó đây nè, tôi vô trong phòng tôi ngủ. Thì lúc bây giờ đối với tôi nó không là cái trần nào hết. Nó là cái trần của người khác của cái người nào đang biết nó. Ví dụ như con kiến nó đang bò lên đây, thì đối với con kiến nó là bờ đê vì nó to lắm. Nhưng nếu có người nào đó đang dùng nó để đánh chuông thì nó là cái dùi chuông. Mà trong khi mới lúc nãy tôi mới nói nó là sáu trần của tui, mà giờ tui vô nằm tui ngủ hoặc tui thức mà tui làm chuyện khác tui không còn biết về nó thì nó trở thành trần của ai đang biết về nó. Có hiểu không?
 
Như vậy, sáu trần chỉ được gọi là sáu trần khi nó là đối tượng của sáu căn. Và ngược lại, sáu căn cũng chỉ được gọi là sáu căn khi nó nhận biết được sáu trần. 
 
Nếu bà con không tin, các vị lại nhà quàn Vĩnh Phước thì cũng mắt tai mũi lưỡi đó mà còn là căn hay không? Bởi vì lúc đó không còn khả năng nhận biết sáu trần nữa. Có hiểu không? Mà nếu lúc đó chưa vô hòm nó nằm mà nó vẫn mở mắt nó nháy.... hiểu không? Cho nên sáu trần chỉ được gọi là sáu trần khi nó là đối tượng của sáu căn và sáu căn chỉ được gọi là sáu căn khi nó biết sáu trần. Rồi ôn được rồi đó. Thì như vậy, tôi nhắc lại cả thế giới này chỉ là con số mười hai đó thôi.
 
Và sanh tử là gì? Sanh tử có nghĩa là do vô minh trong bốn đế không biết được rằng: sáu căn sáu trần là của nợ, là gánh nặng, là khổ. Mà mình cứ thấy cái trần nào khó chịu mình giải quyết bằng cách đi tìm trần khác. Có hiểu không ? chính vì mình giải quyết cái khổ như vậy, giống như khát nước mà đi uống nước muối vậy đó. Còn có người bất mãn cuộc hôn nhân ly dị lấy thằng khác. The same.
 
Người ta nói: 
 
Đàn ông là lần đầu mà lấy vợ đó là mạo hiểm. 
Lấy được vợ mà không ly dị là nghị lực. 
Mà ly dị được vợ là sáng suốt. 
Mà ly dị rồi mà lấy lại lần nữa là u mê. 
 
Lấy mà không bỏ là nghị lực, lần đầu tiên lấy là mạo hiểm. Mà ly dị rồi mà còn dám vớt bà nữa lại là u mê. 
 
Mà tui biết tui nói các vị nhiều người tự ái. Mà nói thiệt là ở trong chăn mới biết chăn có rận. Nó khổ kinh dị lắm. Tui không có gia đình mà, tui chỉ là một tu sĩ, mà chỉ bị mấy cái Phật Tử mà họ hộ trì tui đó mà họ quần là tui đủ khùng rồi. Họ giúp mình chỗ ở, họ giúp mình điện nước. Trong thời gian họ giúp đó mà họ thấy ai trẻ hơn họ, ngó được hơn họ là họ không thèm giúp nữa. Mà xui cái là người ta chỉ đến thăm vậy thôi. Bà kia chỉ hỏi có câu : "Ở đây điện nước sao sư ?"  Bả đứng kế, bả nghe được cái vậy là bà kia vừa đi về cái là bả lại bả đưa tui nguyên một chồng bill : "Tháng này tự xử ." 
 
Khủng khiếp như vậy. Mà nếu xin lỗi ngoài đời mình ngủ với nhau nó còn lớn chuyện nữa. Đó là mới thức thôi đó.
 
Cho nên, cái chuyện đầu tiên là do vô minh trong bốn đế, không biết sáu căn sáu trần là khổ, nên người ta đã trốn khổ tìm vui bằng cách là hoạt động thiện hoặc là ác
 
  1. Có người trốn khổ tìm vui bằng sát sanh, săn bắn, câu cá, bài bạc, shopping, nấu ăn tùm lum hết. Đó là cách trốn khổ tìm vui. 
  2. Cách thứ hai là người ta trốn khổ tìm vui là đi vào chùa ngồi thiền nghe pháp tụng kinh để kiếp sau khá hơn. 
 
Mà họ không biết rằng, kiếp sau có khá hơn thì cũng là một cách quay lại con đường cũ. Vì trong kinh nói: "Cảnh giới nào cũng chỉ là những con đường trong khu rừng." Và những ai đã từng đi rừng, đi park thì biết. Cái chỗ có gai và chỗ không có gai cách nhau có 1 mét thôi. Nghe kịp không ? Các vị có dám nói với tôi là các vị đang trong một con đường mòn trong rừng các vị an toàn hơn cái đứa trong bụi hay không ? Khi màn đêm phủ xuống, con cọp nó đâu có thèm biết trong đường mòn hay trong bụi, nó nghe cái mùi thịt là nó tới thôi. Con rắn nó cắn mọi người, mà nó đâu có cắn người nào trong bụi mà nó tha cái người đi trên đường đúng không? Trong rừng mà. Đúng không ?
 
Cho nên trong kinh nói, cảnh giới nào thì cũng chỉ là những nơi chốn ẩn nấp trong một khu rừng hoang mà thôi. Mà khi màn đêm nó phủ xuống thì không có nơi nào trong khu rừng là an toàn hết. Hiểu không ? Chẳng qua là mình thấy mình thấy chỗ mình là gò đất hơi cao cao, còn cái bà này bà ở nơi chỗ sình, mình thấy mình hơn bả. Nhưng màn đêm phủ xuống thì gò cao hay bãi sình thì hình như the same. Hoặc trong kinh còn một ví dụ nữa, đó là. A quên phải nói chuyện này: Chính vì cái chuyện vô rừng cho nên nó có cái chữ Nibbana là ra khỏi rừng. 
 
Chữ Nibbana có nhiều nghĩa lắm . Một là ra khỏi rừng . Nó còn có nghĩa nữa là chữa lành vết thương. Chữ Nibbana ở đây còn có nghĩa thứ ba nữa là tháo gỡ cái gì đã được đan dệt. Sự tháo gỡ, tháo bung ra cái gì được đan dệt. Có hiểu không ?
 
  1. Nghĩa một của chữ nibbana là ra khỏi rừng
  2. Nghĩa hai là sự chữa lành vết thương
  3. Cái nghĩa thứ ba là sự tháo gỡ những gì đã được đan dệt
 
Bởi vì thế giới này sự tồn tại của những chúng sinh chỉ là sự cộng ghép của những gì được đan dệt. Có đúng vậy không ta ?
 
Cuộc đời của quý vị chỉ là sự đan dệt của bốn thứ : Thiện – Ác – Buồn – Vui. 
  1. Niềm vui của đời này là quả lành của việc thiện đời trước. 
  2. Nỗi khổ đời này, buồn khổ đời này là quả xấu của những việc ác đời trước. 
  3. Cái ác đời này là nhân của khổ đời sau. 
  4. Cái thiện đời này là nhân của vui sướng đời sau. 
 
Như vậy cả quý vị trong một đời, một tháng, một năm, một tuần, một giờ, và trong từng phút các vị sống với hai thứ nhân – quả, thiện – ác thì thiện ác buồn vui nó cứ đan xen lẫn nhau. 
 
Chính nó đan xen như vậy, chúng ta cứ luẩn quẩn, chúng ta ra không có được. Chính vì vậy, Niết bàn là Nibbana là sự tháo gỡ những cái gì được đan dệt. Mình không có tiếp tục đan nữa, mình chỉ tháo bung bung nó ra. Ai đó từng nhìn thấy một cái cuộn chỉ rối mới thấy. Mình nhìn cái rối mình mệt rồi. Cái gì được tháo gỡ mình thấy khỏe. Tui thấy ai mà dẹp cái bụi rậm, tui nhìn cái bụi rậm được dẹp tui thích lắm. Tui nhìn cái cuộn chỉ mà rối là tui mệt lắm. 
 
Cho nên 
  1. Niết bàn là tháo dỡ cái gì đan dệt, rối rắm. 
  2. Thứ hai, Niết Bàn là sự chữa lành vết thương. 
  3. Thứ ba, Niết Bàn là sự ra khỏi rừng. Nibbana là ra khỏi rừng.
 
Và khi mình không hiểu rằng mình đang có mặt trong một khu rừng hoang, mình không hiểu rằng mình đang bị rất là nhiều thương tích, mình không hiểu rằng mình là một cái gì đó rất là rối rắm. Thì mình mới bắt đầu có cái sự đầu tư hết cái này tới cái khác. 
 
Tôi nói rất là nhiều lần, nếu bà con biết rằng bà con đang bị kẻ thù truy sát, bà con đang bị nhà nước, pháp luật truy nã, bà con biết rằng bà con đang bị một chứng nan y thời kỳ cuối, bà con biết rằng bà con đang bị chủ nợ kiếm tìm, nếu mà mình biết rằng mình đang bị ở trong một trong những hoàn cảnh ấy thì tôi nghĩ rằng là bà con không có cái hứng thú đi shopping đúng không ? 
 
Như vậy tại sao mình có cái gan đi shopping ? Bởi vì mình biết mình ok. Hiểu không ? 
 
Tại sao mình yêu đời được, bởi vì là mình không ngờ rằng mình đang bị rất nhiều chủ nợ rượt mà mình không biết. Có biết chủ nợ đó là ai không ? Tuổi già, cái bệnh, cái chết, sự sa đọa. Mà đó là những chủ nợ thứ dữ không đó. Khi mình lọt lòng mẹ thì trong hình hài một đứa bé nó đã ẩn tàng trong đó một cái tuổi già hom hem gầy yếu, nó đã ẩn tàng trong đó những chiếc băng ca của bệnh viện, những dao mổ, những ngọn đèn không hắt bóng, operation room đó. Biết hả ? Trong hình hài một đứa bè nó đã ẩn tàng những thứ đó mà mình không biết. Các vị tưởng tượng là giờ mình còn duyên gặp nhau ở đây, chứ mình không biết là nay mai ai sẽ là người được nằm trên một cái giường trên cái bánh xe được y tá đẩy vào, rồi trước khi vào, nếu mình chưa hôn mê, mình nhìn lại mình thấy người thân họ đứng bên ngoài cửa họ vẫy tay, họ đâu có theo mình được. thì may mắn trở ra mà không may mắn thì đi thẳng ra Vĩnh Phước kiếm bà Kim bà chủ nhà quàn. 
 
Tôi biết bà chủ kia có con chó. Bả cưng lắm. Nó chết. Bả bỏ ra ngàn đô làm cái bia, nơi đây đời đời an nghỉ con chó dấu yêu của trẫm. Chắc có lẽ bây giờ còn. Cái bia nó nằm ở trước nhà quàn. Tui còn nhớ nó. Hồi đó bên đây đi đám ma hoài à. Kiếm tiền đổ xăng. Hỏi Tụng kinh chi thầy. Kiếm tiền đổ xăng. Hỏi mua xăng chi thầy. Để đi đám ma. Đi đám ma chi ? Kiếm tiền đổ xăng. Mà đổ xăng chi ? Kiếm tiền đi đám ma. Bởi vì sao ? Bởi vì hai con một hột. Bả nghe bả nhớ cái chuyện đó. Có ai biết chuyện đó không ? Ở đây có người mới tới họ không biết.
 
Tức là, đời sống của mình là một cái hành trình của con kiến nó tha cái gạo thôi. Cứ hai con một hột, hai con một hột. 
 
  • Sáng ra đi làm, 
  • đi làm có tiền bỏ vô nhà băng, 
  • bỏ vô nhà băng để có tiền đi làm,
  • đi làm có tiền bỏ vô nhà băng, 
  • tiền nó vô nhà băng 
  • thì lấy cái tiền nhà băng đó 
  • đi mua gạo, 
  • mua gạo ăn, 
  • ăn để đi làm, 
  • đi làm rồi bỏ tiền nhà băng. 
  • Tiền vô nhà băng 
  • rồi từ nhà băng lấy tiền mua gạo ăn 
  • rồi đi làm lấy tiền bỏ nhà băng 
 
mà nó cứ như vậy vòng vòng cứ « hai con một hột hai con một hột » lâu lâu nó có chen vô một vài cái giọt mật hạnh phúc.
 
Trong kinh kể hình ảnh nghe khiếp lắm .  Có cái anh anh đang ngủ. Thì ảnh đang ngủ trong một cái căn nhà nghe tiếng đập cửa thì ảnh liếc ra ảnh thấy những kẻ thù lâu năm của ảnh đã tìm tới nơi ảnh nấp, cho nên anh tông cửa chạy. khi đang chạy thì anh lọt xuống một cái giếng cạn. Ảnh lọt là ảnh sợ lắm. lọt xuống thì phản xạ ảnh chụp được gì ảnh chụp. Thì ảnh chụp được cái rễ cây. Kẻ thù đang rượt ở trên. Anh đang đu tòng teng trên cái rễ cây mà dưới chân anh là nguyên một bầy rắn độc. Mà cái rễ cây mà anh đang đu là nó có hai con chuột, nó đang cạp. Con chuột nó đang cạp thì một con chuột trắng, một con chuột đen nó cạp. Mà con chuột nó cạp đứt thì ảnh lọt xuống ổ rắn. Mà giờ ảnh sợ ảnh leo trở lên thì kẻ thù đang chờ ở trên. Lúc mà ảnh đang tiến thoái lưỡng nan tự nhiên có một cái tổ ong ở trên nó bị vỡ có vài cái giọt mật nó nhiễu xuống thì ngọt thiệt. Hiểu không ?
 
Câu chuyện đó là câu chuyện ví dụ. Trong kinh nói chúng ta bị cái già, cái bệnh, cái chết nó rượt đuổi. và cái sợi dây đu tòng teng tượng trưng cho cái hơi thở mà chúng ta còn sống. Mà hai con chuột tượng trưng cho ngày đêm đang gặm nhấm mạng sống của mình. Dưới chân mình bầy rắn đó tượng trưng cho tứ đại đang trong tình trạng xáo trộn. Mình sẵn sàng bệnh mà. Trên đầu mình là bao nhiêu thứ cái tai nạn, tai ương già bệnh chết. Mà cái sợi dây mình đu hơi thở là mạng sống mà trong khi hai con chuột ngày và đêm nó đang gặm cái mạng sống. Mật ngọt là những cái vị ngọt lâu lâu mới có một lần: shopping, du lịch, gặp người thân, thăm người nam, nhổ tóc sâu, lâu lâu nó lọt thấy đã. mà chỉ vì mấy giọt mật đó mà quên bầy rắn dưới chân. Quên hai con chuột đang cạp cái dây. Quên một lũ cầm mã tấu đang trên đầu. Câu chuyện rất là khiếp. Tức là mình chỉ vì vài giọt mật mà mình quên sạch nguyên bầy rắn, hai con chuột và một đám kẻ thù. Hai con chuột đó là ngày và đêm nó đang gặm gặm gặm tuổi đời của mình. Nếu mà thấy các vị mới khiếp. Các vị biết hình trôn ốc không ? Nếu bây giờ mình có cái hình trôn ốc thật là lớn. Cái băng chuyền của phi trường mà nó chuyển hàng hóa đó. Nếu bây giờ mà có cái băng chuyền hình dạng trôn ốc thiệt là lớn, trên cái băng chuyền để cái quan tài để tên mình là mình từng phút mình mới lúc đó mình mới khiếp.
 
Chiều dài đó tới đây 8000 cây số, mỗi phút nó di chuyển khoảng chừng 1feet mà 8000km thôi cho 8000 miles đi. Mỗi phút nó di chuyển được 1 feet thì lúc đó mình mới thấy nó di chuyển rất nhanh. 8000 miles là xa lắm. mình biết là nó lên tới nơi là mình tắt thở rồi. Là mình chán chứ không có cái gì hết. Hiểu hả ? tức là 8000 miles mà một chiếc xe di chuyển mà một giờ đi 1feet thì quá chậm đúng không ? mà nếu là cái quan tài của mình thì quý vị thấy là nó đi rất là nhanh. Và lúc đó quý vị thấy 8000 miles hình như không có dài lắm, không có lâu lắm. Nó bò từ từ từng chút.
 
Cho nên sẵn bữa nay tôi phải nói một chuyện công đức vô lượng cho tôi và cho người nghe . Đó là, tôi nói một câu thôi về Phật đạo. Tại sao thành Phật lâu như vậy mà có người dám nguyện ? Là bởi vì, Đại Bi, Đại Trí và Đại Dũng của con người ấy. Tôi đang nói về Phật đạo. Đại Trí là sao ? Đại Bi là sao ? Vị ấy thấy là cái thế giới này nó đau khổ quá.
 
  1. Đau khổ không đáng sợ 
  2. mà thấy niềm u mê trong cái đau khổ mới là cái đáng sợ
 
Hiểu không ? Cái đau khổ nó đáng sợ thiệt nhưng u mê, đam mê trong cái đau khổ nó mới đáng sợ. Và Ngài thấy là cái người như Ngài không có nhiều. 
 
Lúc Ngài khởi tâm Đại Bi . Ngài nghĩ rằng là 
  1. nếu mà mình là một vị Phật thì mình sẽ độ được nhiều người lắm. Đó là Đại Bi. 
  2. Mà để hiểu được cái chuyện thế giới này là khổ là phải có cái Đại Trí. 
  3. Khi hiểu được thế giới với Đại Trí thì ngài có cái Đại Bi, khi Đại Trí, Đại Bi cộng lại nó ra cái Đại Dũng. 
 
Bi – Trí – Dũng đó là ba cái nền tảng của một vị Bồ Tát. Nhưng mà cái tôi muốn nói ở đây là tại sao Bồ Tát không thấy có mấy chục a tăng kỳ là lâu.
 
Một a tăng kỳ là 10 lũy thừa 140 mà muốn thành phật thì thời gian nhanh nhứt là 20 a tăng kỳ - thời gian hành ba la mật của hạnh trí tuệ, hạnh Đức tin là bốn chục a tăng kỳ, Bồ Tát Di Lạc là 80 a tăng kỳ. Mà mỗi a tăng kỳ đại kiếp chứ không phải a tăng kỳ kiếp sống. Đại kiếp là kiếp trái đất á, mà mỗi a tăng kỳ là 10 lũy thừa 140. Có nghĩa là một con số 1 và 140 con số không. Mà trong khi tỷ là chỉ có 9 số không thôi, phải không? Triệu sáu số 0. Mà cái này nó là 140 con số không. Lâu lắm chứ. Nhưng mà tại sao Ngài không có thấy sợ ? Tại vì hai lẽ:
1.  Thứ nhứt thương quá. Thương quá để giúp cho con. Thương cho bầy con khổ mà vì nó lăn lóc không thấy lâu. Hiểu không ? ai làm mẹ mới biết. Thương con không thấy nó lâu. Thứ hai, cái đó là vì đại bi mà không thấy lâu.
2.  Thứ hai, là vì đại trí mà không thấy lâu. Là sao ? Thì hồi nãy tôi nói, lâu hay mau là do cái cảm giác của mình. 8000 miles mà mỗi tiếng cái quan tài nó bò đi có 1 feet. Nếu đó là chiếc xe thì đó là chậm, nếu đó là tốc độ của một người đi bộ thì rất chậm, một tiếng đồng hồ đi được có 1feet quá chậm đúng không ? Nhưng nếu là cái quan tài của mình thì hình như hơi nhanh, thậm chí mình còn muốn nó đứng yên nữa kìa. Phải không ? Thì Bồ Tát cũng vậy. khi mà thương chúng sinh thì nguyện thành Phật để độ chúng sinh. Chỉ nghĩ đến cái chuyện thành Phật . 
 
Tại sao phải thành Phật mới độ được ? Thì có nhiều lý do.
 
Trải qua vô lượng kiếp tu hành như vậy, thì Phật có rất nhiều hạnh lành. Mà những cái hạnh lành đó trở thành phương tiện để Phật độ sinh. Có những chúng sanh họ thấy cần Ngài đẹp thì Ngài đẹp số một. Có những chúng sanh họ chỉ nể ngài khi họ biết Ngài về vật chất không ai bằng. Có hiểu không ? Có những người họ biết Ngài trí tuệ không ai bằng, thiền định không ai bằng, kham nhẫn không ai bằng, từ bi không ai bằng. Những cái đó đều phải không ai bằng hết thì mới độ được cái người đó. Nghe kịp không? 
 
Thì Ngài phải tu mấy chục a tăng kỳ mới được ba cái chữ : không ai bằng. Cho nên 
- chuyện đầu tiên là Ngài phải có tất cả các hạnh lành
- Và cái thứ hai, vì đã có tất cả hạnh lành thì trong đó có cái hạnh là hạnh trí tuệ
 
Đức Phật ngài nhìn tất cả chúng sinh Ngài biết họ từ đâu tới, họ hợp với cái gì, họ có đủ duyên giác ngộ hay không, và nếu có duyên giác ngộ thì họ nghe cái gì hợp ? 
 
Cho nên sẵn bữa nay tôi nói luôn. Năm nay tôi 50. Hồi tôi còn trẻ tôi thích lý luận còn học a tỳ đàm, học ba cái danh sắc, tùm lum. Nhưng đến bây giờ mỗi lần tôi bị đau quá, hoặc là mỗi lần máy bay mà nó bị xóc, nó chao rồi nó rớt á tôi chỉ nghĩ có hai chuyện : 
  1. đây là nắm cát nó sắp bung ra, 
  2. thứ hai tôi chỉ niệm thôi: mettayo thôi, là Di Lặc từ tôn. 
 
Có bề gì là tại tui trễ duyên với Đức Phật Thích Ca rồi. Mà tôi tin, tôi có cái niềm tin lạ lắm, với cái hiểu của tôi, thì tôi gặp Đức Phật Di Lạc ít nhất mình cũng lụm được cái sơ quả. Kiếm cái kệ, lụm cái bỏ túi rồi chạy. Tối thiểu là được cái sơ quả.
 
Sơ quả chắc chắn là khỏe rồi. Nước vô máng xối là hết đường đi rồi đó. Nó chỉ có con đường đi xuống. Cho nên mới có chữ Nhập Lưu. Nhập lưu là nước vô cái dòng chảy không còn đường đi nữa. 
 
Gặp ngài ngài nhìn là ngài biết liền. nhưng mà nhớ cái này, Chư Phật có ba điều không có làm được, đó là : biết căn cơ của chúng sanh nhưng không thể độ người vô duyên. Nghe kịp không ? 
 
Cho nên Phật Trí vô biên - Phật lực vô cùng - Phật tâm vô lượng không thể độ người vô duyên. 
 
Ba cái vô đó cộng lại xử không nổi cái vô duyên. Phật Trí thì vô cùng Phật Lực thì vô biên mà Phật Tâm vô lượng mà không độ được cái tên mà vô duyên. Bởi vì nếu mà Ngài độ được cái tên đó thì ngày nay không có ai mà ngồi đây hết trơn. Chư Phật đã độ sạch bách rồi. Nhưng mà khổ cái là không. Nhớ chỗ đó.
 
(Còn tiếp)
 
Reply
(tt và Hết) Sư Toại Khanh Giảng 24 Duyên Hệ (2-2)

 
https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=...H%E1%BB%87
 
Cho nên Chư Phật biết mình căn cơ như thế nào nhưng mà nếu không có cái chủng bồ đề thì Ngài chỉ nhìn mình và ngài xót xa giùm mình chớ không có độ được. Nhớ cái đó. 
 
Cho nên á, xét về cái thời gian nó lâu hay mau là ngoài cái thời gian vật lý nó còn cái thời gian tâm lý. Hiểu không ? Mình ở cạnh cái người mình thương, mình có mặt ở chỗ mình thích thì một tiếng đồng hồ rất là ngắn. Mình ở cạnh người mình ghét, ở cái chỗ mình không khoái thì tiếng đồng hồ nó rất là lâu. Ví dụ như chờ xe bus thì một tiếng đồng hồ nó rất là lâu, nhưng cũng ở cái trạm xe bus đó, mình gặp lại người bạn mình thương, đứng cạnh người mình thích thì một tiếng đó mình muốn zục cái đồng hồ luôn chớ đứng hoài đó. Nhưng mà có nhiều khi mười lăm phút nó lâu ghê gớm.
 
Các vị biết tui nói pháp nghe um xùm vậy chớ tui thiếu kiên nhẫn lắm. Bắt tui chờ, tui ghét lắm. Cho nên đó cũng là một cái hay. Dầu tôi có phải lòng ai mà người đó bắt tui chờ thì ba lần là bye bye. You go your sugar, I go my sugar. 
 
Bắt tui chờ tui chịu không nổi vì nó nhiều lý do lắm. 
  1. Thứ nhứt tôi rất quý thời gian. 
  2. Thứ hai, họ trễ ba lần tôi nghĩ rằng họ đã không tôn trọng thời gian. 
  3. Chưa kể họ không tôn trọng mình.
 
mà một người không tôn trọng mình, không tôn trọng thời gian thì không có cái lý do gì mình nên tiếp tục với họ nữa.  Bởi vì thời gian mà người này không biết tôn trọng thì người này sống kiểu gì? Thời gian nó mong manh lắm. 
 
Sẵn đây tôi nói luôn. Tôi nói hoài cái chuyện này. Một trăm đồng đổi ra năm tờ hai chục. Giá trị của năm tờ đó tuyệt đối đúng nhau, đúng không ? Nhưng nếu cuộc đời chúng ta chia thành nhiều lần hai mươi thì mỗi cái hai mươi đó nó có giá trị khác nhau đúng không ? Có hiểu tôi nói gì không ?
 
Tại vì cái hai mươi năm đầu là hai mươi năm ngu. Khoa học nói một phần ba đời người là ngủ. Trừ Ngu với Ngủ là mình còn được bao nhiêu ? Dễ sợ chưa ? 

Trong lúc đó, trừ lúc bệnh, trừ lúc bận rộn, trừ lúc bực bội, trừ lúc bla bla bla, trừ hết, cuối cùng thời gian mà mình có thể sống vui vẻ, sống hữu ích không có bao nhiêu hết. Trừ cái lúc hai mươi năm ngu và một phần ba ngủ, nội thấy ngu với ngủ, còn hiếm lắm. 
 
Bởi vì sẽ có một ngày quý vị quý từng giờ đồng hồ, quý vị có biết không ? Đó là lúc vô nước biển, chờ người xa về mà rút ống. Lúc đó một tiếng quý vô cùng. Lúc ký tên vô mấy cái will đó quý dữ lắm. Bây giờ, mình muốn đốt thời gian, thì nghĩ đến lúc mình kiếm từng giờ đồng hồ. 
 
Chưa hết. Nếu mà có một phép lạ nào đó mà nó giúp mình có thể bỏ tiền ra mua từng giờ đồng hồ để sống thì quý vị có dám bỏ cả gia tài để mua không ? Thấy chưa ? Lúc đó mình mua mình tính từng giờ. Nếu mà có thể dùng cả gia tài để mà mua thời gian sống, tui nghĩ 99% mặc xà lỏn ra đường, miễn là được sống thôi.
 
Tôi nhớ có cái ông cụ đó ổng đi tập khí công trong park.

Ổng gặp một anh thanh niên treo cổ tự tử . Ổng hỏi: "Tại sao muốn chết ?" 

Ảnh mới nói: "Cuộc đời con là cuộc đời thất bại : người yêu bỏ con, con bị mất job, gia đình không có muốn nhìn mặt con. Con còn gì để con sống ?" 

Ông cụ mới nói: "Cậu muốn chết thì cậu chết tôi không có cản vì đó là cái quyền của cậu, nhưng mà tôi chỉ nói cậu một chuyện là tôi nhìn cậu chết tôi tiếc lắm. Bởi vì trong mắt tôi, cậu là một triệu phú đẹp trai, trẻ khỏe đẹp trai."

Anh chàng mới nói: "Cháu mới nói cháu bị mất job mà bác nỡ lòng nào bác đùa cháu là triệu phú ?" 

Thì ông mới nói: "Cậu nhìn hàm răng của tôi nè . Tôi là người vừa huýt gió vừa đánh răng, cậu biết không ? Đó là răng giả. Mà phải trải qua bao nhiêu lần đau đớn ở phòng nha sĩ cuối cùng tôi cũng không giữ được hàm răng. Tốn bao nhiêu tiền, chịu đau đớn, mất thời gian. Đau đớn – tiền bạc – và thời gian mà cuối cùng tôi phải làm răng giả . Mà hàm răng cậu quá đẹp mà tôi nghĩ là răng thiệt. Thứ hai tôi đã tốn biết bao nhiêu tiền mà tháng nào tôi cũng phải đi bác sĩ . Tui nhìn tướng cậu thì chắc lâu lắm rồi cậu không đi gặp bác . Cậu ngon quá. Tôi thèm được mái tóc như cậu. Tôi thèm được cơ bắp vạm vỡ như cậu. Tôi thèm được tuổi trẻ như cậu. Cậu có biết không ? Tôi sẵn sàng bỏ tất cả để tôi được là một người thanh niên nghèo đói mà trẻ trung như cậu. Cậu có biết nhiều tỷ phú trên hành tinh này họ sẵn sàng bỏ cả trăm tỷ để họ quay lại lúc hai mươi tuổi như cậu, ba mươi tuổi như cậu."  

Cậu thanh niên cậu nghe vậy thì tất nhiên là cậu không chết nữa. 

Chúng ta có rất nhiều cái quý mà chúng ta không biết quý. Ví dụ như thời gian, sức khỏe.  Các vị có biết không? 
 
Bây giờ, tôi về đây tôi ngồi đây giảng mà bà con dám ngồi theo tôi là bà con ngon lành lắm. Yeah. Bà con không có cần phải cơ bắp tập tạ chạy bộ chỉ cần ngồi đây. Tôi ngạc nhiên là tôi ngồi tới đâu, bà con ngồi tới đó. Ngồi chỗ tôi ít ra cái phần chân nó dễ hơn bà con ngồi xếp bằng. Bà con gồng như vậy. Có nhiều người tôi thấy là họ không đi toa-let luôn. Cái đó là bà con khỏe lắm. Cái đó rất là quý. Bởi vì, năm sau chưa chắc. Mình phải mừng là mình đang có sức khỏe và có thời gian. Cho nên phải quý thời gian, quý sức khỏe. 
 
Ông Harikumi (LTP: Haruki Murakami ?) là một văn hào của Nhật đương đại, ông được giải Nobel nhiều lần lắm .  Dĩ nhiên ông giàu lắm, tên ông là một thương hiệu bán sách, cái tên ông đã là một pano quảng cáo. Các nhà xuất bản trả tác quyền cho ông rất là cao. Ông giàu lắm. Ông là triệu phú. 
 
Một phóng viên đến hỏi ông là: "Ông đã thành công về sự nghiệp, tiền bạc. Tuổi trẻ chúng cháu muốn ông chia sẻ cảm nhận về tiền bạc. Ông nghĩ gì về tiền bạc." 
 
Ổng nói: "Tôi cần tiền chứ tôi không có mê tiền." 
 
Phóng viên hỏi tiếp: "Cháu thấy bác cũng đơn giản quá mà. Bác cần tiền để làm gì ?"
 
Ổng nói: "Tôi cần tiền để tôi không phải mất thời gian viết lách. Hiểu không ? Tôi muốn dùng thời gian của tôi để mà viết, mà suy tư. Thay vì người ta không có tiền thì người ta phải đi làm, thì tôi đang cần tiền để tôi không làm mất thời gian của chuyện viết lách." 
 
Người ta cần tiền để người ta mua thời gian. Tôi thích cái câu đó lắm. Tôi cần tiền chứ tôi không có mê tiền. Và tiền mà tôi cần chỉ để tôi không có phải mất thời gian cho việc đi kiếm nó. 
 
Các vị đang có một cái rất là quý đó là thời gian. 
 
Nếu bây giờ có người hỏi tôi tôi quý cái gì nhất thì tôi vẫn trả lời hai chữ là thời gian và sức khỏe. Bởi vì mình còn ngồi được là mừng. Mình đang sở hữu một kho vàng. Kho vàng nghĩa đen, không phải nghĩa bóng. Có hiểu nghĩa đen không ? Bởi vì chỉ cần bà con trục trặc là bà con tốn biết bao nhiêu tiền. Tự nhiên bây giờ bà con có thể ăn ngon miệng, ngủ ngon giấc, có thể ngồi thẳng lưng và đầu óc đủ tỉnh táo đủ hứng thú để nghe người ta nói đạo thì cái đó là bà con đang rất là giàu về cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nhiều người nghe tôi nói tưởng đâu là nghĩa bóng. Nghĩa đen. Vì bây giờ chỉ cần trục trặc ở Mỹ là mấy chục ngàn đó. 
 
Kỳ đó tôi đi cấp cứu ở Jackson Hill. Ba giờ sáng xe emergency đến chở tôi đi, một giờ chiều nó thả tôi về. Chín ngàn. Ba giờ sáng - Một giờ chiều thả ẻm ra không được một viên thuốc. Chín ngàn. Mà không bệnh hoạn. Nó bị bao tử đọ’ . Nó xét thấy không có bệnh là nó cho về. Hên là có bảo hiểm chớ không là treo cổ rồi. Cho nên, sau cái đó thì tôi mới thấy thì ra cái quý nhất không phải cái gì hết mà là sức khỏe và thời gian. Vì chỉ có hai cái đó mình mới có thể sống một cách ý nghĩa. 
 
Nói đúng ra đó cái ý nghĩa cao nhất của đời sống là thấy được cái vô nghĩa của đời sống nhưng mà để thấm thía cái sự vô nghĩa ấy là cái chuyện đầu tiên mình phải có sức khỏe, phải có thời gianVà tôi đọc được cái thống kê này tôi rất là mừng. Người ta nói rằng mỗi giờ hourly trên thế giới này, tiền bạc thời gian và công sức của nhân loại đổ ra hơn phân nửa là cho những điều không cần thiết. Mỗi giờ thì tiền bạc, thời gian, và công sức mà nhân loại đổ ra hơn phân nửa là không cần thiết.
 
Rồi giờ tôi quay lại bài học, do vô minh trong bốn đế . Không biết cuộc đời nó te tua nó tan tác như nãy giờ tôi nói, cho nên người ta mới chạy trốn khổ này bằng cách người ta invest một cái khổ khác. Nghe kịp không ? Và khi mà người ta tạm thời, tôi dùng chữ tạm thời, họ tạm thời trốn chạy thành công cái khổ a, họ gọi tên cái trốn chạy đó là hạnh phúc
 
Và ngày hôm qua tôi nói rồi, đời sống này không có hạnh phúc mà nó chỉ có giải pháp. There is no any happiness but solution. Thế giới này không có hạnh phúc mà chỉ có giải pháp. Câu đó tôi rất là thích. Câu của bà Ajahn Naeb á. Bà nói như vậy. Thế giới này không có hạnh phúc mà chỉ có giải pháp. Có nghĩa là chạy trốn thành công một cái khổ thì ta bèn gọi sự thành công đó là hạnh phúc. 
 
Ta đang đói mà ta giải quyết được cái đói thì ta gọi nó là hạnh phúc. Ăn ngon là một cái hạnh phúc. Ngả được cái lưng là hạnh phúc. Gặp được cái người mình trông đợi là hạnh phúc. Giải quyết được một mớ lo là hạnh phúc. Đang ngứa mà gãi được là hạnh phúc. Ai từng bị lác thì biết. Đó là Kinh nói. 
 
Kinh nói: Hạnh phúc và đau khổ nó là một cái mụt ghẻ mụt lác, càng gãi thì nó càng lở, mà càng lở thì nó càng ngứa, mà càng ngứa thì càng gãi, mà càng gãi thì càng đã, mà nó càng đã thì càng ngứa, mà càng ngứa thì càng gãi. Mà cả đời mình ai cũng bị lác. Chẳng qua lác ướt hay là lác khô.
 
Lác ướt, lác khô đều là lác
Lác khô đi trước, lác ướt theo sau
Hai lác gặp nhau, tha hồ mà gãi.
 
Mà cứ mỗi một lần mà bà con giải quyết được một cái khổ là một lần bà con thấy hạnh phúc. Cho nên Hạnh phúc chỉ là solution. Nó chỉ là một cái giải pháp. Có hiểu như vậy thì mình mới hiểu: Ồ tại sao kinh dạy Đời là bể khổ. 
 
Chữ Khổ đây hôm qua tôi nói rồi, đó là. Khổ ở đây của Đạo Phật không chỉ có nghĩa là suffering hay là pain. Mà Khổ đây gồm có ba: 
  1. một, cái thứ nhất nó là pain là suffering. Đúng. 
  2. Nhưng mà cái khổ ở nghĩa thứ hai, có nghĩa là unstable, không có bền. 
  3. Cái khổ thứ ba là conditioned. Có nghĩa là tính lệ thuộc các điều kiện. 
 
Cả ba cái này đều là khổ hết. Cái khổ đầu tiên là pain là suffering ai cũng hiểu. Nghĩa thứ hai là unstable, impermanent, chỉ riêng cái chuyện không bền nó đã là khổ rồi. Nghe kịp không? 
 
Hoặc là nói cho dễ nhớ, sự có mặt của vị đắng là khổ, sự vắng mặt của cái ngọt cũng là khổ và cái thứ ba, cái tình trạng lệ thuộc các điều kiện đã là khổ. 
 
Hôm qua tôi nói rồi, nó đắng cỡ nào nó ngọt cỡ nào đó là khổ, nhưng mà chỉ riêng cái tính lệ thuộc các điều kiện ngày hôm qua tôi nói á. 
 
Các vị tưởng tượng mỗi ngày các vị được ai đó hầu hạ như là cha như là mẹ như là ông hoàng nhưng khổ một nỗi cái sự sung sướng ấy nó lệ thuộc vào rất là nhiều điều kiện. Nghe kịp không? Chặng hạn như, tôi nói lạc đề một chút, thời Phật có một ông vua rất là nổi tiếng, ông vua Pasenadi . Ổng là một đế vương cai trị đất nước là cái vương quốc rộng nhất trong mười sáu cái vương quốc Ấn Độ thời đó. Có cái đêm đó ông nằm mơ . Ổng thấy một loạt mười sáu giấc mơ rất là kỳ. 
 
Giấc mơ thứ nhất ổng thấy là ổng thấy người ta lấy cái mâm vàng mà người ta hứng nước tiểu của một con chó. Con chó nó tiểu thì lấy mâm hứng. 
Rồi ông thấy một trái bầu khô nó bị chìm mà cục đá nó nổi. 
Rồi ổng nằm mơ ổng thấy có một hồ nước, giữa nó đục mà ven bờ nó trong. Rất là lạ. 
Rồi ổng nằm mơ ổng thấy có một bầy bò mà mấy con bò mẹ rượt bú mấy con bò con. 
Rồi ổng thấy một bầy cọp bị bò nó rượt thì ổng thấy lạ lắm. 
Ổng thấy một con rắn le lưỡi chẻ ngang ra đó. 
 
Sáng dậy, ổng thấy sợ quá. Mà những giấc mơ hiện ra rất là rõ. Rõ lắm. ổng biết không phải là mình mệt mỏi mà đây là cái gì đây nè. Ổng vô ổng hỏi Phật . Phật nói, vì vua là một đại nhân nên những vấn đề thế giới nó được chiêu cảm vào trong giấc ngủ để báo trước cái vận mệnh của thế giới sau này. Vì vua là một vị Phật tương lai mà. 
 
Thì cái điều thứ nhứt, ổng thấy người ta lấy cái mâm vàng mà hứng nước tiểu con chó là điềm báo sau này đệ tử của ngài sẽ đem giáo pháp để đổi danh lợi. 

Trái bầu nó nổi mà đá nó chìm tượng trưng cho sau này những người tài người trí, người đức là phải luồn cúi những đứa tiểu nhân tào lao để sống. Mà nó đúng. Bây giờ gian hùng là làm cha mà lương thiện. “Thiệt thà thẳng thắn thường thua thiệt” mà “lọc lừa lươn lẹo lại lên lương”. Cái đó thì xã hội bây giờ nó như vậy đó. 

Rồi ổng thấy mấy con bò mẹ nó rượt bú mấy con bò con, cái này mới đau lòng nè, về sau các bậc cha mẹ, ông bà phải lòn cúi, mua lòng con cháu để được nó phụng dưỡng. Còn ông bà cà chớn là nó .. 
 
Rồi ổng thấy một cái ông đó ổng bện dây thừng, ông ngồi trên ghế ông bện mà ông bện bao nhiêu thì con chó dưới ghế, nó nuốt hết, con chó cái. người đàn ông đang ngồi bện dây thừng mà ông bện bao nhiêu thì con chó cái nó nuốt hết. Thì điềm báo sau này đàn ông sau này sẽ có tình trạng các đại gia, đàn ông á, bỏ bê vợ nhà mà cung phụng vợ bé như là cuộc sống Việt Nam bây giờ. Việt Nam là một đất nước, mà thủ đô nhỏ nhưng mà cái thủ đô đó có những chuyện rất đặc biệt. Có những con hẻm rất là nhỏ nhưng lại có những villa rất là lớn. Villa rất là lớn chứa những bà vợ rất là nhỏ của những ông cán bộ rất là lớn. Những ông cán bộ rất là lớn thất thoát tài sản rất là lớn nhưng trách nhiệm rất là nhỏ. Đại khái, sẽ có một ngày mà các đại gia có bao nhiêu tiền đem cung phụng cho nữ sắc. Mà cái chuyện đó là vấn nạn của toàn cầu chứ không phải chuyện của một vài cá nhân. Sẽ có một ngày mà một nửa thế giới nằm trong tay những người đàn bà lẳng lơ, và gợi cảm. Mà cái chuyện đó ngày xưa không có. Mà các vị nghe có thấy bi kịch không? Một nửa thế giới này, hoặc là một phần ba một phần tư đã đủ chết rồi. Một phần ba một phần tư thế giới này nằm trong tay những người đàn bà lẳng lơ và gợi cảm. Tức là họ chi phối cả chính trị, văn hóa, xã hội, tôn giáo. Đó là bi kịch của thế giới. 
 
Tôi nói lạc đề.
 
Đó là dầu các vị có được ai cung phụng như cha như mẹ như ông hoàng, nhưng việc cung phụng ấy phải lệ thuộc các điều kiện, cái ấy cũng là khổ. Đúng không? Thì tôi mới kể cái chuyện ông vua nằm mơ đó, ổng thấy một bầy bò mẹ bò lớn mà phải rượt đuổi những con nghé, con bê để mà bú. Thì đó là cái điềm sau này những ông bà cha mẹ phải biết cúi đầu trước con cháu để mà được tụi nó đoái hoài. Thì đó là một cái sự thật. Cho nên không biết ai đó họ đăng lên mạng những lời khuyên mà tui nói nhỏ, nói lớn người trẻ họ nghe họ giận. 
 
Đây là những lời khuyên cho những người lớn tuổi Việt Nam: đừng dại dột giao hết gia tài cho con khi lớn tuổi. Mình còn có cái nhà ở Westminster, mình có cái shop ở Galleria thì nó còn lui tới nó chăm sóc .  Chứ còn mà mình giao hết cho nó là đứa cả nó đá đứa ba, thằng ba nó đá qua thằng tư, thằng tư nó đá qua thằng út . Đến cuối cùng là mình ra ngoài đường mình ở. Cái chuyện này có thiệt.
 
(Hết)
Reply
Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt 

Chương VI - Sáu Pháp

VI. Ðại Phẩm

https://www.budsas.org/uni/u-kinh-tangch...6-0612.htm

(I) (55) Sona


Roll down từ từ sẽ thấy ...
-----------------

(II) (86) Chướng Ngại
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, dầu có nghe diệu pháp, không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?
2. Thành tựu nghiệp chướng, thành tựu phiền não chướng, thành tựu dị thục chướng, không có lòng tin, không có ước muốn, và ác tuệ.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, dầu có nghe pháp, không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.
3. Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, nếu có nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?
4. Không thành tựu nghiệp chướng, không thành tựu phiền não chướng, không thành tựu dị thục chướng, có lòng tin, có ước muốn, và có trí tuệ.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, nếu có nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.

(III) (87) Nghiệp Chướng
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, dầu có nghe diệu pháp, cũng không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?
2. Ðoạn mạng sống của mẹ; đoạn mạng sống của cha; đoạn mạng sống của A-la-hán; với ác tâm làm Như Lai chảy máu; phá hòa hiệp Tăng; ác tuệ, si mê, câm ngọng.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, dầu cho có nghe diệu pháp, không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.
3. Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, được nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?
4. Không đoạn mạng sống của mẹ; không đoạn mạng sống của cha; không đoạn mạng sống của A-la-hán; không với ác tâm làm Như Lai chảy máu; không phá hòa hợp Tăng; có trí tuệ, không si mê, câm ngọng.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, nếu được nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.

(IV) (88) Không Ưa Nghe
1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, dầu được nghe diệu pháp, cũng không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?
2. Khi Pháp và Luật được Như Lai thuyết giảng, không ưa nghe, không có lóng tai, không có an trú tâm liễu giải, nắm giữ điều không lợi ích, bỏ qua điều lợi ích, không thành tựu tùy thuận nhẫn nhục.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, dầu cho có nghe diệu pháp, không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.
3. Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, nếu được nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?
4. Khi Pháp và Luật được Như Lai thuyết giảng, có ưa nghe, có lóng tai, có an trú tâm liễu giải, nắm giữ điều lợi ích, bỏ qua điều không lợi ích, thành tựu tùy thuận nhẫn nhục.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, nếu được nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.

(V) (89) Cần Phải Ðoạn Tận
1. - Không đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng tri kiến đầy đủ. Thế nào là sáu?
2. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham đưa đến đọa xứ, sân đưa đến đọa xứ, si đưa đến đọa xứ. Không đoạn tận sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng tri kiến đầy đủ.
3. Ðoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, có thể chứng tri kiến đầy đủ. Thế nào là sáu?
4. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham đưa đến đọa xứ, sân đưa đến đọa xứ, si đưa đến đọa xứ. Ðoạn tận sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể chứng tri kiến đầy đủ.

(VI) (90) Chứng Ðược Ðoạn Tận
1. - Sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, được người đầy đủ tri kiến đoạn tận. Thế nào là sáu?
2. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham đưa đến đọa xứ, sân đưa đến đọa xứ, si đưa đến đọa xứ. Sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, được người đầy đủ tri kiến đoạn tận.

(VII) (91) Làm Cho Sanh Khởi
1. - Một người đầy đủ tri kiến, này các Tỷ-kheo, không có thể làm cho sanh khởi sáu pháp. Thế nào là sáu?
2. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham đưa đến đọa xứ, sân đưa đến đọa xứ, si đưa đến đọa xứ. Một người đầy đủ tri kiến, này các Tỷ-kheo, không có thể làm cho sanh khởi sáu pháp này.

(VIII) (92) Bậc Ðạo Sư
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu trường hợp không thể xảy ra. Thế nào là sáu?
2. Người đầy đủ tri kiến không thể sống không tôn kính, không tùy thuận bậc Đạo Sư; người đầy đủ tri kiến không thể sống không tôn kính, không tùy thuận chánh pháp; người đầy đủ tri kiến không thể sống không tôn kính, không tùy thuận chúng Tăng; người đầy đủ tri kiến không thể sống không tôn kính, không tùy thuận học pháp; người đầy đủ tri kiến không thể rơi trở lại vào những vấn đề không nên trở lại; người đầy đủ tri kiến không thể làm cho sanh khởi hữu thứ tám.
Này các Tỷ-kheo, đây là sáu trường hợp không thể xảy ra.

(IX) (93) Hành
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu trường hợp không thể xả ra. Thế nào là sáu?
2. Người đầy đủ tri kiến không thể chấp nhận bất cứ hành nào là thường còn; người đầu đủ tri kiến không thể chấp nhận bất cứ hành nào là lạc; người đầy đủ tri kiến không thể chấp nhận bất cứ hành nào là ngã; người đầy đủ tri kiến không thể làm hành động vô gián; người đầy đủ tri kiến không thể làm cho thanh tịnh với những lễ nghi đặc biệt; người đầy đủ tri kiến không thể đi tìm các vị đáng được cúng dường ngoài chư Tăng.
Này các Tỷ-kheo, đây là sáu trường hợp không thể xảy ra.

(X) (94) Mẹ
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu trường hợp này không thể xảy ra. thế nào là sáu?
2. Người đầy đủ tri kiến không thể đoạn mạng sống của mẹ; người đầy đủ tri kiến không thể đoạn mạng sống của cha; người đầy đủ tri kiến không thể đoạn mạng sống của vị A-la-hán; người đầy đủ tri kiến không thể với ác tâm làm Như Lai phải chảy máu; người đầy đủ tri kiến không thể phá hòa hợp Tăng; người đầy đủ tri kiến không thể đề cử một vị Ðạo Sư khác.
Này các Tỷ-kheo, có sáu trường hợp này không thể xảy ra.

(XI) (95) Tự Làm
1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu trường hợp này không thể xảy ra. Thế nào là sáu?
2. Người đầy đủ tri kiến không thể trở lui lại quan điểm lạc khổ do tự mình làm; người đầy đủ tri kiến không thể trở lui lại quan điểm lạc khổ do người khác làm; người đầy đủ tri kiến không thể trở lui lại quan điểm lạc khổ do tự mình làm, do người khác làm; người đầy đủ tri kiến không thể trở lui lại quan điểm lạc khổ không do tự mình làm, do tự nhiên sanh; người đầy đủ tri kiến không thể trở lui lại quan điểm lạc khổ không do tự mình làm và không do người khác làm, do tự nhiên sanh. Vì cớ sao?
Này các Tỷ-kheo, đối với người có đầy đủ tri kiến, nhân và các pháp do nhân sanh đã khéo thấy.
Này các Tỷ-kheo, có sáu trường hợp này không thể xảy ra.
 
X. Phẩm Lợi Ích

(I) (96) Sự Xuất Hiện
1. - Này các Tỷ-kheo, sự xuất hiện của sáu sự kiện khó tìm được ở đời. Thế nào là sáu?
2. Sự xuất hiện của Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác khó tìm được ở đời; sự xuất hiện của người thuyết giảng Pháp và Luật do Như Lai tuyên thuyết khó tìm được ở đời; sự tái sanh trong Thánh xứ khó tìm được ở đời; không khiếm khuyết các căn khó tìm ở đời; không si mê, không câm ngọng khó tìm ở đời; ước muốn thiện pháp khó tìm được ở đời.
Này các Tỷ-kheo, sự xuất hiện của sáu sự kiện khó tìm được ở đời.

(II) (97) Các Lợi Ích
1. - Có sáu lợi ích, này các Tỷ-kheo, khi chứng ngộ quả Dự lưu. Thế nào là sáu?
2. Sự quyết định đối với diệu pháp không có bị thối đọa; không có bị đau khổ; làm các việc bị sanh tử hạn chế; thành tựu trí tuệ; không cùng chia sẻ với các dị sanh; nguyên nhân và các pháp do nhân sanh được khéo thấy.
Có sáu lợi ích này, này các Tỷ-kheo, khi chứng ngộ quả Dự lưu.
Reply
Sư Toại Khanh Giảng KTC 6.86 Chướng Ngại và các Kinh Khác (1-4)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BA%A1i

KTC.6.89 Chướng Ngại

1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, dầu có nghe diệu pháp, không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?

  1. Thành tựu nghiệp chướng, 
  2. thành tựu phiền não chướng, 
  3. thành tựu dị thục chướng, 
  4. không có lòng tin,
  5. không có ước muốn, và 
  6. ác tuệ.

Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, dầu có nghe pháp, không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.


2. Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, nếu có nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?

  1. Không thành tựu nghiệp chướng,
  2. không thành tựu phiền não chướng, 
  3. không thành tựu dị thục chướng, 
  4. có lòng tin, 
  5. có ước muốn, và 
  6. có trí tuệ.

Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, nếu có nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.

Quote:Kalama tri ân công đức đao hữu PhoNgheo & ElTeeTee ghi chép bài giảng.

25/07/2019 - 07:17 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Hôm nay chúng ta học kinh 86 Chướng Ngại. Trong kinh này Đức Phật ngài dạy rằng là khi bị mắc vào 6 cái trở ngại này thì không thể nào chứng thánh được. Cái cách nói trong kinh "quyết định tánh trong chánh pháp" có nghĩa là chứng thánh, tối thiểu là tu đà hườn. 

Cái đầu tiên ở đây là trong bản tiếng Việt mình thấy để chữ "thành tựu". Nghe nó rất là khó hình dung bởi vì đây là nói đến cái chuyện không nên có. Chuyện không nên có mà lại dùng cái chữ "thành tựu" ở đây là hơi khó. Thôi thì bây giờ mình dùng ngôn ngữ bình thường. Tức là đây Đức Phật nói đến 6 cái trở ngại mà một người "mắc phải" mấy cái đó thì không thể nào chứng thánh được.


1/ Nghiệp Chướng: có nghĩa là 5 tội đại nghịch

Cái trở ngại đầu tiên là bị ngăn trở bởi nghiệp chướng. Ở đây bà con người Việt chắc có nghe chữ nghiệp chướng này thường lắm: "Chuyện đó là chuyện nghiệp chướng. Khổ! Nghiệp chướng". Mình cứ nói "nghiệp chướng" không mà mình không hiểu nghiệp chướng theo như trong kinh nói. Đó là nghiệp chướng tôi phải chịu, tôi phải trả thôi. Ở đây có 6 cái trở ngại khiến cho một người không thể chứng thánh được, không thể nào đi xa trong Phật pháp được.

Trước khi nói xa hơn có lẽ tôi phải quẹo qua một chút. Có tất cả 4 hạng người đến với Phật pháp.

  1. ugghatitaññū Hạng đầu tiên chỉ nghe một câu đã đắc.
  2. vipacitaññū Hạng thứ hai nghe trọn một pháp thoại mới đắc.
  3. neyyo Hạng thứ ba phải hướng dẫn tu tập từng bước mới đắc.
  4. padaparamo Hạng thứ tư tối đa chỉ dừng lại ở chữ nghĩa bài vở.
Tổng cộng là 4 hạng người. Ở đây mình gọi là không đi xa trong Phật pháp là sao? Các vị cứ nhìn vô đó quý vị thấy.

Hạng thứ nhất là ugghatitannu. Như ngài Xá Lợi Phất hoặc nhiều người khác trong thời Đức Phật, nhiều vị thánh đặc biệt lắm, chỉ cần nghe có một câu thôi là họ chứng thánh.

Thí dụ như có vị quan đại thần, ổng đang đau buồn khủng khiếp vì người ái thiếp mới mất. Nhớ thương quá chịu không nổi, muốn điên lên được. Thì lúc đó Đức Phật Ngài nhìn thấy ổng vậy thì Ngài chỉ đọc có 4 câu kệ thôi:

"Thương yêu sanh lo sợ
Thương yêu sanh sầu muộn
Người không còn thương yêu
Không lo không sầu muộn."

Khi ông quan đại thần ổng nghe như vậy thì ổng lập tức đắc A La Hán liền tại chỗ! Trong khi mình nghe cái đó thì làm sao mình có thể đắc đạo được đây. Nhưng mà riêng ổng, ổng nghe cái câu: "Do thương yêu sanh ra lo sợ, sinh ra sầu khổ. Không còn thương yêu nữa thì không còn lo âu sầu muộn." Ổng nghe như vậy lập tức ổng hiểu lý tứ đế, lý 12 duyên khởi, lập tức ổng chứng thánh. Cả 2 giáo lý cực kỳ sâu sắc đó là giáo lý nền tảng của Phật pháp. Giáo lý tứ đế và 12 duyên khởi nằm trong một bài kệ bốn câu đó thôi.

Cái hạng này gọi là hạng ugghatitannu. Hạng thứ nhất này chỉ nghe một câu thôi là đắc. Như ngài Xá Lợi Phất chỉ nghe một câu ngắn cực kỳ tối nghĩa mơ hồ: "Vạn pháp do duyên sinh, vạn pháp do duyên diệt." Đức Thế Tôn đã nói rõ duyên sinh và duyên diệt ấy. Ngài vừa nghe xong liền đắc.

Hoặc ngài Bahiya. "Này Bahiya, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, ngửi, nếm, đụng chỉ là ngửi, nếm, đụng, suy tư chỉ là suy tư. Ở đây chỉ có sự có mặt của các căn và các trần chớ không có người nào nhận biết các căn các trần. Các căn trần là vô ngã. Mà các trần là vô ngã, các căn cũng là vô ngã. Đời sống chỉ là sự gặp gỡ của căn và trần thôi." Thì ngài nghe như vậy lập tức ngài tấp vô gốc cây bên lề đường ngài ngồi nhắm mắt trong vòng 3 giây ngài chứng A La Hán liền tức thì.

Cái hạng thứ hai là vipacitannu là người phải nghe cả bài pháp dài mới đắc. Nghe một bài pháp dài mới đắc cũng không có mệt mỏi gì với họ cho lắm. Bởi vì tôi cho một thời pháp tối đa là một tiếng đồng hồ là cùng, là họ đắc thôi. Nhưng không bằng hạng thứ nhất. Hạng thứ 2 phải nghe luôn thời pháp dài.

Cái hạng thứ 3 là hạng neyyo có nghĩa là hạng này phải được hướng dẫn, cạo đầu, đắp y, mang bát, đi đứng, nói năng, sinh hoạt chừng mực theo lề phép của sa môn. Hướng dẫn 1 ngày 2 ngày, 1 tuần 2 tuần, 1 tháng 2 tháng, một năm, nhiều năm. Từng bước từng bước vậy đó. Vạch rõ cái này nên, cái này không nên, cái này phải chỉnh sửa, cái này phải phát triển, cái này phải thêm cái này phải bớt. Một thời gian dài như cậy đó. Dĩ nhiên dài hay ngắn, dài bao nhiêu tùy người. Có người phải mất 3 tháng, 6 tháng, có người mất 1, 2 tháng, có người 5 năm, 10 năm, 50 hay 70 năm. Cái đó khó nói lắm. Nhưng vẫn phải xếp vào cái hạng neyyo. Có nghĩa là đối với hạng người này một thời pháp không đủ để họ đắc. Phải có hướng dẫn kìm kẹp. Cái chữ neyya đây nghĩa là cần có hướng dẫn kềm kẹp.

Cái hạng thứ tư là hạng kém nhất, padaparamo. "Paramo" là tối đa. "Pada" là chữ nghĩa, từ chương. Có nghĩa là hạng này tối đa chỉ dừng lại ở mức chữ nghĩa từ chương thôi, chứ hạng này không có tài nào mà đắc. Bây giờ có đem họ lên núi, đào hang nhét họ vào trong đó, ba lần lấp cửa hang lại, chờ 80 năm nữa cũng không đắc. Tới cỡ như vậy. Thì trường hợp thứ tư này được gọi là "không thể thành quyết định tánh trong thiện pháp". Hạng này là như vậy đó.

Quyết định tánh là sao? Ở đây quý vị nghe chữ "quyết định tánh" quý vị có thể thấy khó hiểu. Chỗ này cần phải giải thích. 

Chữ niyāma nghĩa là sao? Niyāma ở đây có nghĩa là không có thể quay lui được nữa, không có thể tụt lùi được nữa. Như vậy điều đó chỉ có thể ở bậc thánh trở lên, từ tu đà hườn trở lên thôi. Còn như chúng ta, thiện pháp của chúng ta không thể nào là niyāmana. Bởi vì cái thiện pháp của chúng ta chưa tới cái mức là không thể quay lui. Chúng ta chưa tới, chưa đâu. Nó có nhiều lý do lắm. 

Thí dụ:
  1. bây giờ có ai đó nó lấy cây nó gõ cái boong lên đầu mình. "Boong" một cái là mình khùng, là rồi. Phật pháp coi như là xong. Nó gõ một cái boong là coi như xong rồi. Bấy giờ quý vị ghét tôi, quý vị gõ cái boong là xong luôn nhé. Đó là khùng. 
  2. Còn hai nữa là mình tắt thở một cái là qua cõi khác, qua kiếp khác mình trở thành Hồi giáo, Ấn giáo, Thiên chúa giáo gì đó là xong. Một là bị tâm thần, hai là chết . 
  3. Cái thứ 3 nữa là khi mình bị cám dỗ thử thách nào đó quá sức chịu đựng của mình thì mình có thể bỏ đạo. Nhớ như vậy. Phàm phu mình thấy ghê lắm. 
  4. Chưa kể bản thân mình bữa nay mình thờ Phật, mình nói pháp, mình làm lung tung hết, tối về tự nhiên nó mắc cái chứng khùng chứng điên gì ai biết. Tức là nó nghĩ tầm bậy tầm bạ, hoang mang, nghi hoặc, rồi nó tự có những thắc mắc mà không giải quyết được. Thế là trong vòng 3 giây mắc phải một cái tà kiến nghiêm trọng nào đó là rồi, chỉ có trời biết thôi nghe. Nhớ nhé. Cho nên mình chưa đạt được niyāmana, tức là quyết định tánh trong thiện pháp. Có nghĩa là thiện pháp của mình nó chập chờn mở/tắt, on/off vậy đó. Ghê lắm. Thiện pháp phàm phu tin không được, không có tin được. 
Cho nên tăng, chư tăng có nhiều nghĩa: tăng hành chánh, tăng đoàn thể. 
  1. Tăng hành chánh có nghĩa là gồm các vị cạo đầu đắp y. Y bát đầy đủ sống sinh hoạt thì trường hợp đó gọi là tăng hành chính, phàm tăng nhưng có tu hành trong sạch giới luật trong sạch, y bát trang nghiêm nhưng vẫn gọi là tăng hành chính thôi. Có nghĩa là thấy vậy nhưng bên trong chưa chắc vậy. 
  2. Tăng thứ 2 gọi là tăng bản thể. Chỉ cho các bậc thánh dù là cư sĩ nhé. Dù là cư sĩ. 
Ở đây trong room này thế nào cũng có mấy người đơ đơ đơ đơ không biết, họ thắc mắc kinh nào kinh nào cư sĩ mà thánh cũng là tăng. Dễ ẹc. Các vị mở dùm tôi cái bài kinh trong quyển kinh nhật tụng mà ngày nào quý vị cũng thấy đó, quý vị lật ra cái phần lễ bái tăng...

10:40

26/07/2019 - 06:40 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Phần (pali) cái bài đó đó. Thì trong đó nó nói không có kể tăng tục nam nữ chi hết nghe, chỉ nói rỏ 4 tầng thánh sơ, nhị, tam, tứ là để tử thanh văn của Thế Tôn nhé. Trong đó không hề nói giới tánh hay là hình thù đời đạo không hề, không hề chỉ có nói đến bốn tầng thánh thôi, đó là tăng bản thể nghe. Thì một cái người coi như là đã chứng được quả vị Tu Đà Hườn thì các vị đó không có cách chi mà quay lui được. Không có quay lui được . 

Trong 2 chuyện, thứ nhất là trong vấn đề tri kiến, là quan niệm *** sắp sửa chúng ta sẽ học bên dưới, cái phần dưới chúng tôi chắc chắn sẽ đem vào trong cái quyển gọi là thiền môn nhật tụng của Kalama đó.  Cái bộ đó hai tập mà bửa nay là mình đã được 800 trang rồi, mình thêm 200 trang nữa là 1.000 trang in ra làm 2 tập. Một bộ hai tập. Trong đó gồm những bài kinh mà phải nói là, dĩ nhiên kinh nào cũng là châu ngọc hết, nhưng mà mình lựa những bài kinh nào mà bà con liếc vào bà con nhanh chóng rút ra bài học giáo lý.  Chứ kinh nào cũng là châu ngọc hết nhưng kẹt cái chỗ những bài Ngài giảng cho đối tượng đặc biệt nào đó phụ thuộc vào cách nghĩ của họ, không phụ thuộc phần số đông thì thôi. Còn chúng tôi lựa những bài mà chúng tôi thấy nó rất gần với mình, ví dụ như kinh Kalama chẳng hạn, kinh (pali) gần với cách nghĩ của phần đông thiên hạ đại chúng nghe. Chứ có những bài kinh quá đặc biệt, cho đối tượng rất đặc biệt, Ngài xử dụng cách nói rất đặc biệt, có những từ ngữ rất đặc biệt, thì đem ra cho bà con đọc, bà con cũng dội. Thêm người dân mình có cái máu sợ kinh cắn, đọc mà khó cái trốn mất. 

Đấy, cho nên  bậc Tu Đà Hườn có 2, tối thiểu, nhiều lắm, ân đức của tu đà hườn như biển lớn. Ân đức của bậc Tu Đà Hườn như biển lớn, bởi vì sao. Vì trong kinh nói rất rỏ, thánh nhân là thế giới bất khả tư nghì, không thể dò được đáy. Bà con biết bài kinh đó không. Trên đời có ba hạng ngươi:

  1. Hạng thứ nhất dễ ước lượng.
  2. Hạng thứ hai khó ước lượng.
  3. Hạng thứ ba không thể ước lượng.
Uớc lượng đây tức là cân đo đong đếm. 

Hạng dễ ước lượng là hạng người làm ác, sống ác, nói ác, nghĩ ác. Những người đó được gọi là dễ ước lượng. Có nghĩa là mình thấy nó sao thì nó vậy. 

Cái hạng thứ hai là khó ước lượng. Nghĩa là phàm phu mà có tu hành khó ước lượng lắm. Mình thấy nó cũng đi kinh hành, nó cũng bố thí, nó cũng trì giới, nó cũng phục vụ... Nhưng mà trời biết trong cái đám đó ai sẽ là Phật tổ tương lai, là độc giác tương lai, là thanh văn tương lai, chuyển luân thánh vương, ác ma thiên tử, đế thích, long vương, phạm thiên, coi như là thiên long bát bộ võ lâm ngũ bá gì đó. Nghĩa là mình nhìn mình không có biết. Bởi vì thế giới của thiện phàm phu . 

Ttrong kinh nói phàm phu có hai: một là coi như là, gọi là (pali) tức là phàm phu đui mù, phàm phu không biết (tu hành) gì hết.  Hạng thứ hai là (pali) tực là thiện phàm phu, cái loại phàm phu này khó ước lượng lắm. Bởi vì mình thấy họ vậy nhưng mình không biết họ là bồ tát, cái gì đó mình không biết, khó đoán được. 

Nhưng mà riêng cái hạng thứ 3  gọi là không thể ước lượng đó là bậc thánh. Cái cảnh giới các ngài chỉ riêng một chuyện thôi là mình thấy đuối rồi. Cái nhận thức cái hiểu biết của các ngài về trạng thái Niết Bàn là mình chịu chết, chịu chết. Mình không thể nào hình dung ra được sự an lạc của vị Tu Đà Hườn, chứ đừng có chạm vào các tầng thánh cao hơn, mệt lắm, mết lắm nghe. Cái tầng thánh Tu Đà Hườn đã thấy đuối rồi nhé. Tự nhiên là thấy ngài cũng bịnh hoạn cảnh lè vậy đó, dật dờ dật dưỡng vậy đó, mà tự nhiên thấy ngài xếp chân lại nhắm mắt lại, kể cả thiên tử phạm thiên có thần thông họ cũng mết mỏi với ngài. Các ngài xếp chân lại, các ngài quán vô thường. Ví dụ như ngài niệm thân hay niệm thọ, niệm tâm niệm pháp. Ngài niệm lại cái đề mục mà trước đây ngài đắc đạo đó. Ngài niệm mà trong vòng đúng 3 nốt nhạc đồ rê mí thì ngài nhập tâm thánh quả. Trong tâm đó ngài chỉ biết Niết bàn thôi. Ngài an lạc suốt một tiếng, hai tiếng, một ngày hai ngày, năm ngày bảy ngày, an lạc tuyệt đối. Trong suốt thời gian đó, một vị phạm thiên đế thích hả, lòng chủ thần thông oai lực có bằng trời nếu không phải là bậc thánh với nhau thì dùng tha tâm thông cũng không có cách nào dò được cái tâm của ngài. Biết ngài còn sống, biết, nhưng cái tâm ngài lúc đó đang biết cảnh Niết bàn, mà người phàm phu dầu có đắc tha tâm thông đi nữa thì làm sao mà hiểu được cái tâm một vị Tu Đà Hườn lúc đó được. Các vị tưởng tượng đi, có tha tâm thông rồi mà chỉ cần mình còn phàm thôi thì mình nhìn tâm các vịTtu Đà Hườn mình chỉ có cắn lưỡi thôi chứ không có cách chi mà biết ông thầy này ổng đang an trú trong cái gì, ổng đang biết cái gì, mình không nghĩ ra nhé, nghĩ sao được mà nghĩ, còn phàm phu mà. Nhé. Cho nên thánh nhân được kể là hạng không thể nghĩ bàn. Cái hạng này mà không (pali) rồi nhé. 

Cho nên cái chuyện đầu tiên phải nói đó là, tôi giảng cái gì mà tôi đi xa quá vậy, à tôi giảng về quyết định tánh đó tức là, định tánh không có thối lui thụt lùi ở trong thiện pháp. 

Bấy giờ là, Đức Phật ngài dạy có 6 cái chướng ngại người mắc phải coi như không có thành tựu được quyết định tánh trong thiện pháp, có nghĩa là không chứng thánh. 

Nghiệp chướng ở đây, có cô nào ghi dùm tôi, ai ghi dùm tôi đi. Rồi (pali) gọi là nghiệp chướng. Nghiệp chướng ở đây là gì tả 

Nghiệp chướng ở đây là chỉ cho 5 tội đại nghịch và 62 tà... Năm tội đại nghịch phải không ta. Nghiệp chướng ở đây là 5 tội đại nghịch, ghi dùm tôi đi. 

m tội đại nghịch gồm có giết cha, ghết mẹ, ghết A la hán, làm thân Phật chảy máu, chia rẻ tăng.Là 5 nhé. Giết cha, ghết mẹ, ghết A la hán tổng cổng là cái 3 cái giết đi, lát cho dễ nhớ. Cái thứ tư là làm thân Phật chảy máu, Phật mình không có cách nào giết được Ngài đâu, làm cho Ngài chảy máu thì được. Và cuối cùng là chia rẻ tăng. Thì đây là năm cái tội coi như là (pali) có nghĩa là năm cái tội này đã mắc vào rồi đó (pali) nghĩa là liên tục liên tiếp không gián đoạn.

19:00


27/07/2019 - 07:40 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

(pali) có nghĩa là năm cái tội mình mắc vào 1 trong 5 mình phải trả liền trong cái kiếp kế, sau cái kiếp này, tắt thở một phát là đi luôn xuống dưới, đi thẳng xuống dươi, đi liền vào vô gián để trả. Gọi là nghiệp vô gián đi liền và trả liền nhé. Năm nghiệp vô gián thì người mắc vào một trong năm cái này thì được gọi là mắc vào nghiệp chướng. 

Giống như trong Kinh Sa Môn Quả Trường Bộ ghi rõ: vua A xà thế lẽ ra đã chứng thánh Tu đà hườn từ thời Phật rồi, nhưng vì mắc tội giết cha cho nên vua không có tài nào coi như là giác ngộ giáo pháp được hết. Nghe thì cũng hiểu như chúng ta vậy đó, hiểu chừng chừng vậy đó, nhưng mà hiểu cái kiểu đủ để cắt đứt đoạn trừ phiền não thì không tới, bị cái nghiệp nặng quá nó ám. Thì người thế gian không học giáo lý họ nghe vậy họ không hình dung được, họ bảo sao kỳ vậy. Mình làm bậy trong một phút giây nào đó mình tạm quên nó đi đầu óc nó minh mẫn trở lại, sáng sủa trở lại chứ đâu có, khi nào mình bị ám ảnh, mình đang bị dằn vặt dày xé bởi một cái ám ảnh nào đó thì đúng cái đầu mình nó ngu thiệt, nó bư thiệt. Nhưng mà trong một phút giây nào đó mình lãng quên thì mình thanh thản trở lại, thông minh trở lại. Nhưng đó là chuyện của thế gian. 

Trong kinh điển Phật giáo lại khác, trong kinh điển Phật giáo nói rằng chỉ riêng trong năm cái tội này, người mà mắc vào rồi, 
  1. thứ nhất do ác nghiệp đó nó nặng quá, cái tội nó nặng quá đi. 
  2. Thứ hai chính vì nó nặng quá nên khiến cho tâm lý mình không yên cả đời. Không yên, nó không phải như cái tội khác. Cái tội khác mình làm xong mình còn quên, còn cái tội này cả đời không có ngày nào yên. Đấy, cho nên tâm lý là chúng ta không làm ăn gì được hết. Còn về việc báo ứng thì vì tội nặng quá nó làm cho tâm lẫn thân sinh lý chúng ta luôn ở trong trạng thái nặng nề lắm, nặng nề lắm. 
Hồi mẹ tôi mất, thầy Hộ Giác mất. Thầy và mẹ mất đó là hai người trong đời tôi . Họ mất rồi tôi nghe mệt trong thân xác. Thường mình buồn là chỉ buồn trong tâm thôi quý vị, phải không. Buồn trong tâm thôi. Ví dụ như mình chực nhớ đến chuyện đó mình hơn se sắt một chút. Ví dụ mấy hôm nay mình bị chúng nó phá banh chành hết, mỗi lần tôi nghĩ đến, tôi hơi khó chịu, tôi hơi có cái giao động một chút, có cái hơi buồn buồn một chút, hơi xốc xốc chút, mình mệt chút, chán chán mình mệt chút, nhưng đó là tâm lý chứ còn thân thể và sức khoẻ vẫn bình thường. Mặc dù có người nói thấy tôi có vẻ già đi nhưng đó là do tôi quên cạo râu. Như bữa nay muốn cạo tóc nhưng không có đem theo cái đồ hớt theo. Đấy, không có đồ hớt cho nên nó dài, bà con đừng có nói tôi để tóc dài, bởi vì cái đồ hớt nó nằm bên kia. Bây giờ tôi tính sắm một cái, bên Đức cái bên Thụy Sỹ cái nữa, chạy đâu cũng có đồ gọt hết, làm cỏ mã đó. Nhưng mà riêng cái tang của mẹ tôi và thầy tôi đó, năm đó tôi cũng 40 tuổi ngoài rồi, mà quý vị biết không tôi mệt cả tâm lý lẫn thể xác. Mỗi lần tôi nhớ tới hai người đó tôi chỉ mong ước gì đây là ác mộng. Mà sao kỳ, hội họ còn sống  sao mình trơ trơ, trơ trơ.  Mình không để ý khi họ mất  rồi mình mới biết mình thương họ thiệt. Quý vị biết không, thương lắm, thương kỳ lắm. Thương, ước ao đi những chỗ đông người, ước ao trong dòng người đó mình thấy họ, tôi chạy tới tôi quỳ xuống đất tôi cũng quỳ nữa. Thương vậy đó. Nó mệt nó lên nó mệt người nó mệt thể xác đó nhé. May chỉ là sự nhớ thương thôi, mà nó ám lên cả thân xác nghe, nói chi là cái chuyện giết. Quý vị thương mẹ mà mẹ mất cái tang của mẹ mà làm cho mình mệt vậy đó thì các vị tưởng tượng các vị đã xuống tay giết mẹ mình rồi thì hỏi quý vị có yên hay không. Nghĩ đi. Ai...

Cho nên 5 cái tội  này một khi đã mắc vào một trong năm thì kể như không có cách nào ngóc đầu lên được. Phải đi trả cho hết cái nghiệp đó thì may ra. Chứ còn dính chưa trả xong đó thì nó, năm cái tội đại nghịch mà. Năm cái tội này cộng lại gọi là (pali). Đó là nghiệp chướng.

2/ Phiền não chướng: tà kiến

Cái thứ hai là phiền não chướng .  Phiền não thì có nhiều lắm tham, sân, si, ái, mạn, kiến, nghi tầm bậy tầm bạ. Dục ái, sắc ái, vô sắc, sân, ngã mạn, phóng dật trạo hối hoài nghi đồ tùm lum hết. Nhưng mà gom chung lại hết thì trong tất cả các phiền não thì phiền não nặng nhất hết thảy đó chính là tà kiến. 

  1. Người tu không có giới  giống như người què
  2. người không biết giáo lý giống như người đui
  3. người mắc tà kiến giống như người điên
Không biết trong room quý vị có hiểu không. Tại vì giới là phương tiện đi lại, người tu không có giới  giống như người què vậy đó, nhưng lết đi được. Người tu không có giới thì lết đi được . Còn người tu không biết giáo lý giống như người bị mù vậy đó, mệt mỏi hơn chút, nhưng ít ra còn có lối giải quyết. Nằm bên đường la làng thế nào cũng có người cứu. Mình nói rõ nhà mình ở đâu, hoặc mình khát nước, hoặc mình đang bị cái gì thì có người cứu.  Nhưng riêng cái thằng cha mà tà kiến thì giống như người mất trí, người điên chỉ có trời mới cứu được thôi. Có nghĩa là người điên rồi thì vô phương. Nhớ nhé. Người không giới giống như người què hoặc cụt chân, người không biết giáo lý giống như người mù, người mà tà kiến rồi thì giống như người bị tâm thần vậy đó. 

Cho nên cái phiền não chướng nó có nhiều lắm, nhưng đặc biệt cái nổi bật trong đó là tà kiến. Tà kiến cố định (pali) nó có nghĩa là cố định, đặc định. Chấp một cách cố định, chấp một cách gọi là ngoan cố lỳ lợm không có chịu sửa đổi, không cách nào giúp họ được. Thì cái tà kiến đó được gọi là phiền não chướng.

25:12

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng KTC 6.86 Chướng Ngại và các Kinh Khác (2-4)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BA%A1i

25:12

28/07/2019 - 06:38 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Dầu tham sân gì gì đi nữa thì cũng không có cái gì bằng tà kiến. Tà kiến mà đã dính vô rồi. Tà kiến là thường kiến và đoạn kiến .  Tà kiến có nghĩa là hiểu sai. Hiểu sai, tức là tà kiến có nhiều lắm, nó có 62 lận mà ở đây mình gom lại có tà kiến cố định. Mình gom lại cái nặng nhất là đoạn kiến. Thường kiến sửa được. Thường kiến là tin có một cái tôi, tin có một cõi vĩnh hằng, tin có một đấng cao xanh nào đó. Cái đó sửa được. Nhưng ớn nhất là anh đoạn kiến, ông này gọi là tà kiến cố định, là sao ? 

Tà kiến cố định, đoạn kiến có 3:

  1. Vô hành kiến: cho rằng không có thiện ác thích thì làm không thích thì thôi chứ không có cái chuyện mà báo ứng.
  2. Vô nhân kiến: (pali) có nghĩa là cho rằng mọi sự ở đời này là ngẫu nhiên mà có chứ không có cái nhân duyên, cái tác động của bất cứ một điều kiện nào hết. Tự nhiên nó có vậy thôi. Cái đó gọi là (pali)
  3. Vô hữu kiến: (pali) có nghĩa là phủ nhận triệt để rốt ráo hoàn toàn tuyệt đối. Phủ nhận tất cả những gì mà mình không hiểu được, không thấy được, không chứng minh được, thì tất cả những thứ đó theo mình là không có.
Cái đó rất là nguy hiểm, rất nguy hiểm. Chẳng hạn như các vị tưởng tượng đi, tôi không biết chữ, tôi không biết gì hết làm sao tôi có thể hình dung ra được cái cấu trúc của một chiếc máy bay. Làm sao tôi hình dung ra được sự hiện hữu của chiếc máy bay trên cuộc đời này. Thế là tôi phán rằng không có một phương tiện nào có thể bay lên trời  được hết mà nhất là nó nặng mấy trăm tấn lận. Nó nặng tới mấy trăm tấn, trong khi một cục đất nó nặng chừng khoảng 100 gram thì nó không cách nào bay lên trời được, mình cầm mình liệng thì được  chứ nó bay suốt mấy tiếng đồng hồ thì không thể nào. Còn bây giờ một cái khối kim loại mấy trăm tấn mà nó bay lên trời suốt cả 10, 15, 20  tiếng đồng hồ thì tôi hỏi quý vị chứ nếu mà lấy cái não trạng của một người không biết chữ thì quý vị hiểu bằng cách nào đây. Mà nếu mình dựa vào cái biết của mình để phán đoán rằng: tôi tuyệt đối phủ nhận bất cứ cái gì  tôi không hiểu được, không thấy được, không chứng minh được thì đó là cách nói quá nguy hiểm. Vậy mà có, có đó. Đừng có nói người ta ngu mà rồi không có, có cái đó thiệt.  Chứng minh là người ta đã nhân danh khoa học, nhân danh tri thức, nhân danh thái độ của một người tiến bộ người ta đã phụ nhận sự có mặt của thứ mà bản thân họ không cách nào hiểu được, không thể nào chứng minh được. Thí dụ như kiếp trước kiếp sau, luân hồi báo ứng, sự chứng đắc của các bậc thánh nhân và cuối cùng là cứu cánh Niết bàn. Đây là những cái mà không thể nào chứng minh một cách điển hình cụ thể rõ ràng có thể sờ đụng được. Đây, khi mà họ không chứng minh được họ bèn phán một câu xanh lè đó là: không có, cái gì tôi không thấy, không tin, không chứng minh được thì cái ấy không có thật. Cái đó gọi là (pali) nhé. Thì 3 cái này được gọi là (pali) tà kiến cố định, mắc vào bà cái này chỉ có trời cứu. Và bên Hán tạng có một câu quý vị cũng phải suy nghĩ đó là:

Ninh chấp hữu như Tu Di sơn
Mạc chấp vô như giới tử.

Ninh chấp hữu như tu di sơn. Thà tà kiến của mình nó bự như cái núi Tu Di vậy đó. Thì thôi bà con trong room này không biết núi Tu Di là gì thì tôi nói cho nó dễ hiểu đi, mình cứ tưởng tượng như cái đỉnh Everest cao vậy đó. 

Thì người ta nói thà cái cục thường kiến của mình nó . Thường kiến là tin vào 3 cái tôi nói: tin có một cái tôi, tin có một cõi vĩnh hằng, tin có một đấng cao xanh nào đó. Thì thấy vậy thà mắc vào 3  cái đó, 3 cái tà kiến đó cho dù nó nhiều như núi Everest cũng không đáng sợ bằng mạc chấp vô như giới tử. Ninh chấp hữu, hữu ở đây là thường kiến đó, còn mạc chấp vô như giới tử nhưng nhớ đừng có mắc vào cái đó. Vô ở đây là chỉ cho đoạn kiến, cho tất cả đều không. Giới tử ở đây là hạt cải. Giới tử là hạt cải. 

Thà là cái thường kiến to như ngọn núi còn đỡ hơn đoạn kiến của mình nhỏ như hạt cải. Bị vì một người đã không tin vào gì nữa hết thì người đó rất rùng rợn rất dễ sợ. Nó đã không tin gì hết thì chuyện gì nó cũng dám làm hết quý vị. Còn cái đứa kia nó tin một cái tôi thường hằng bất biến, tin có một cõi vĩnh hằng bất biến, tin có một đấng tối cao chí tôn vô thượng nào đó thì ít ra nó cũng còn biết làm lành lánh dữ. Còn riêng những cái tên mà nó mắc vào cái đoạn kiến rồi thì nó sống tệ lắm, tệ hơn con thú nữa. Vì con thú ít ra như con chó, con ngựa nó cũng có nghĩa có tình thiệt luôn. Mặc dù nó không biết cái gì thiện ác kiếp trước kiếp sau nhưng ít ra nó còn có nghĩa có tình. Còn cái người đoạn kiến cực kỳ nguy hiểm là vì sao. Vì nó không chịu trách nhiệm những gì nó làm. Mà trong khi đó nó lại được giá cố bởi trí khôn của con người. Không biết tôi nói trong room có hiểu không. Hello! Con thú con cọp thấy nó ghê thiệt đó nhưng nó chỉ độc ở chỗ là nó đi kiếm mồi thôi, mình đã khuất cặp mắt nó rồi thì OK nhé. Còn con người đã đoạn kiến rồi thì không sợ tội. Đã vậy rồi nó còn cộng thêm trí thông minh của một con người nữa. Quý vị tưởng tượng đi. Một cái thằng sát nhân mà nó có dao bén trên tay thì cái mức sát thương cái độ nguy hiểm nó đáng ngại cỡ nào. Con thú dữ mình thấy nó quá trời quá đất vậy đó, như con cọp, con voi rừng, con trâu rừng châu Phi, nhìn thấy nó ớn thiệt, nhưng nó không có trí thông minh, tầm hoạt động của nó tới đâu thì nó sát tới đó. Còn con người mình cái tầm hoạt động của con người mình cộng thêm cái trí khôn nữa, thì tầm hoạt động nó tới đâu. Bởi vì nó nghĩ ra bao nhiêu chuyện động trời, nó có thể nghĩ ra một cách mà chết 2, 3 triệu người đó. Đó cái trí thông minh của con người đó. Đọc sử thế giới mình mới thấy có những cái đầu mà coi như nó ngồi nó nghĩ ra những cách mà kể như giết người phải triệu, cỡ dưới một triệu là nó không sướng cái tay nhé. Thì cái loại đó gọi là (pali) có nghĩa là tà kiến cố định sữa không được. Sửa không được nhé.

32:13


29/07/2019 - 07:56 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Nó có cái chi tiết hơi phong thần số với quý vị đó, nhưng tôi không kể đó là cảnh giới riêng của những người tà kiến cố định, nhưng nói ra đây rồi bà con thấy đạo Phật sao mà phong thần quá rồi bà con bỏ đạo mà đi uổng nhé. Tôi có quan điểm thế mày, cái gì trong kinh điển mà tôi chưa hiểu hết thì tôi để qua một bên chứ tôi không có ngồi nghĩ tùm bậy tùm bạ, rồi ngồi đó hoang mang chỗ khác. Chỗ nào tôi thấy quá mức của mình thì tôi để qua một bên nhé. Mình đi nghiên cứu cái khác bữa nào hưởn hưởn quay trở lại chứ còn đằng này mình liếc vô mình thấy cái đó không vừa ý cái mình phán luôn. Mình phán kinh Phật này nọ  tội chết luôn nhé.

3/  Dị thục chướng: đầu thai bằng tâm ly trí, tâm tàn tật

Rồi cái thứ ba là (pali) có nghĩa là gì ta. Có nghĩa là quả chướng, đã nghiệp chướng, phiền não chướng, rồi còn quả chướng nữa chứ. Trong khi ngài Minh Châu dịch là dị thục. Dị thục thì nghe cũng có, đối với người Việt Nam dị thục có nghĩa là chín muồi, chứ không có gì hết. (Pali) có nghĩa là chín muồi. Thì tiếng Hán chữ dị thục, thục ở đây là chín muồi, còn chữ dị, ở đây không biết tôi nói bà con. Ta nói bây giờ thù trong giặc ngoài, tôi nói chúng nó chửi nữa. Nó hả miệng ra nó chửi. Nó chửi khi nào tôi dẹp cái Kalama tôi dẹp cái kinh tạng thì thôi nghe. Chứ hễ mà còn lên đây còn nhắc tới Kalama là nó còn giết mình. Tại sao tôi nói dị thục mà tôi lôi cái Kalama ra. Tại sao. Là bởi vì Kalama là chỗ tu thiền, nhưng tôi vẫn thiết tha mong một ngày mỗi ngày đó, trong mỗi khoá tu, tôi một năm không về đó lâu đâu, tôi đi tôi giao cho người khác chứ tôi không ăn nhậu chi ở đó hết nghe. Nhưng mà mỗi khoá tu tôi về đó tôi mong mỗi ngày có một, ít nhất là 1h đồng hồ giáo lý. Sẵn tôi bàn một sói từ ngữ  một sói khái niệm mà bà con nghe như vịt nghe sấm mà không hiểu gì hết. 

Ví dụ như chữ dị thục. Thục là chín muồi, muồi có ô. Chín muồi chín rục (tiếng Anh). Nhưng  tại sao có chữ dị ở đây, cái vấn đề nó nằm ở chỗ đó nhé. (Pali) chín muồi, muồi có ô, mà tại sao ở đây mắc cái chứng gì, nghĩa là tại sao ở đây chữ dị thuc, thục được rồi, còn thêm chữ dị nữa là sao. Bởi vì mình thấy chữ (pali) có nghĩa là đặc biết, hoặc có nghĩa là cá biệt. Cho nên dịch giả họ dịch sát, họ lấy cái chữ đó chuyển thành chữ dị, ác là ác... Dị có nghĩa là đổi khác  mà thật ra là dịch sát chữ (pali), là chín mùi (pali) dịch theo khuynh hướng của người Tàu. Họ dịch coi như là không rớt một cọng tóc, một cọng rau nào hết. Có nghĩa là họ bê nguyên một tủ đại tạng từ Ấn Độ về là từ một cọng rau trong đại tạng rớt ra họ cũng đè xuống họ dịch cho được, không dám bỏ sót. 

Tới lúc mà nó buồn  quá không biết dịch cái gì thì dịch cái tên người ta luôn. Ví dụ như chữ Sariputta dịch là Thu Tử. Ác không. Cái giống gì cũng dịch hết. Trong khi cái tên người ta. Ở bên Mỹ có cái tên của một nhà thơ White Head. White là màu trắng, head là cái đầu. Chẳng lẽ bây giờ cái tên người ta mình đi dịch bạch đầu lão nhân hay gì, nghe nó kỳ quá nhé. Nếu mà cái tên của ông White head mà không dịch thì tại sao Sariputta dịch là cái gì. Nhưng mà bên Tàu các dịch giả ngày xưa có khuynh hướng là dịch tuốt tuồn tuột, tất tần tật, ló ra là dịch, hở ra là dịch, dịch hết. 

Cho nên sẵn đây tôi nói cái này bà con có mướn du đãng chém tôi tôi cũng không nói. Đó là kinh Phật mà đọc trong mỗi một ngôn ngữ nó sẽ cho mình một cảm thức khác nhau. Yes. 
  1. Cái trình độ văn hoá chữ nghĩa của quý vị là môt. 
  2. Rồi khả năng ngôn ngữ, trình độ văn hoá là riêng. 
Các vị có biết về toán lý hoá văn sử địa, quý vị có biết nghệ thuật văn hoá âm nhạc hội hoạ. Người kiến thức càng nhiều khi họ đọc kinh Phật cái đầu họ hiểu khác. Nó hơi khác người khiêm tốn chữ nghĩa. Tin tôi đi. Có, có. Tên mà nó giỏi nó đọc một cái vấn đề nó đọc khác một tí. Tôi nói toẹt ra giống như bài vọng cổ, mình cho là nhà quê, một tên tiến sĩ văn học nó nghe bài vọng cổ nó có mức thấm thía riêng tiêu hoá riêng. Còn anh nhà quê không biết chữ móc cũ co củ súng họ nghe bài vọng cổ có ý nghĩa khác. Quý vị nghe nó khác là nó khác cái gì. Tức là cái cách cảm. Đó là cái tào lao nhất.

Cho nên chuyện đầu tiên là nền tảng nhận thức của anh ít hay nhiều, kiến thức bách khoa của anh ít hay nhiều nó có góp phần trong cái chuyện anh nhận thức Đức y. Mặc dù trong tất cả bài kinh đều có chú giải. Như mấy năm qua quý vị thấy không. Bà nội tôi làm sao tôi dám giải thích kinh trời.

37:35

07/08/2019 - 03:46 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Nhưng tôi phải liếc vào bộ chú giải bằng tiếng hPạn đó, tôi coi nó giảng cái gì tôi mới dám giảng. Cho nên chuyện đầu tiên là anh đọc bản lĩnh Phật bằng tiếng gì. Tôi dốt như chó vậy đó nhưng mà tôi khẳng định thế này, Tam Tạng mà mình đọc bằng tiếng Thái là cho các vị một cảm giác không giống như đọc bản tiếng Anh. Tôi nói thẳng luôn bài kinh mình học đây mà quý vị đọc bằng tiếng Anh, tiếng Đức nó không hề giống bản tiếng Thái. Tôi đang nói ví dụ cái thứ mà tôi biết đó. Như tôi đọc bản Thái bản Anh, các vị đọc được bản Anh quý vị sẽ thấy nó không giống bản Pali. Đọc kinh bằng tâm tình của tiếng Pali chúng ta sẽ có một tâm tình khác. Ví dụ như chữ dị thục nếu quý vị thấy trong bản Pali (chữ Pali) nó sướng bằng trời. Nhưng khi mình liếc vào bản tiếng Việt thì nó hơi mệt. Chưa kể trong room của mình cứ là từ điển tiếng Việt Nguyễn Lân là cái giống giải gì, cũng đè ngữ văn ra tra. Nguyễn Lân nói về tiếng Việt đã có vấn đề trong đó trùng điệp rồi. 

Tiếng Việt Việt Nam là phải từ điển của Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Đức đó mới là tiếng Việt. Nhưng mà hôm nay cái đầu của quý vị nó banh ta lông rồi, mấy chục năm trời rác không, tôi nói quý vị thù tôi tôi cũng nói nữa. Tiếng Việt của các vị banh ta lông rồi, hết xài rồi cho nên các vị không có biết Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Đức là ai hết. Tối ngày cứ Nguyên Lân thôi. 

Cho nên ở đây chữ dị thục là gì. Dị thục là quả cũ, cái sự chín muồi của nghiệp cũ gọi là quả. Tiếng Pali gọi là (Pali), Tàu dịch là dị thục. Chỉ riêng chữ dị thục thôi đó mà tôi nói nó bao la như vậy. Mà tôi thấy chúng nó chửi: giảng kinh mà nói chi cho nó xa. Thì OK. Quý vị không thích nghe quý vị đi về ngủ, quý vị kiếm những bực minh sư thiện hữu khác mà nghe chứ mấy cái này mà bắt tôi im tôi im không nổi. Tôi im cái chỗ này, giảng mà bó rọ giống như ngựa bị che hai bên vậy đó. Kiếm thầy khác chứ đừng vô đây mà chửi bới người khác nhé. Đi chết đi.

Nghiệp chướng có nghĩa là mình mắc vào năm tội đại nghịch; phiền não chướng là mắc vào tà kiến cố định; còn quả chướng ở đây mới mệt nề. Quả chướng là ta đầu thai bằng tâm ly trí, tâm đầu thai ly trí. Nhớ nhé, tâm đầu thai ly trí ở đây nói rõ luôn là tâm quan sát vô nhân đương nhiên là quả bất thiện. Tâm quan sát quả bất thiện vô nhân. Cái thứ hai nữa đó là tâm quan sát quả thiện. Người không học A tỳ đàm nghe chỗ này chắc điếc con ráy luôn. Một cái là bất thiện một cái là quả thiện. Tôi đành cắn răng mà giải thích một tí tị. Một tí tị thôi, chứ còn giải rõ chỗ này thì tới đây chắc tôi chết. Nghĩa là mỗi lần bà con có một thiện niệm hay ác niệm nào mà nó xuất hiện trong đầu phải không, tức là một cái tâm lành hay tâm ác thì ngay lúc đó nó sẽ tạo ra hai thứ quả báo. Quả thứ nhất là quả tái sinh, quả thứ hai là quả bình sinh. 

  1. Quả tái sinh chính là tâm đầu thai. Mỗi lần có tâm thiện tâm ác chính cái tâm đó nó tạo ra cái tâm đầu thai cho kiếp sau mình đi tới đâu. Đó là quả tái sinh. 
  2. Nhưng còn quả thứ hai là quả bình sinh có nghĩa là những gì xảy ra sau giây phút đầu đời cho đến khi chết, thì cái khoảng giữa ấy ta gọi là quả bình sinh. 
Tiếng pali gọi là (pali). Nhớ nhé. Nếu mà các vị làm ác suy nghĩ ác thì các vị sẽ kín đáo âm thầm tạo ra một cái tâm gọi là đầu thai cõi khổ, nôm na, tâm đầu thai cõi khổ. Còn gọi theo từ chuyên môn A tỳ đàm là tâm quan sát thọ xả quả bất thiện vô nhân

Còn khi các vị làm việc lành, tôi không nói đến chuyện tu thiền nghe, làm việc thiện bằng tâm thiện dục giới. Tâm thiện nó có nhiều,
  1. tâm thiện dục giới: làm việc lành liên hệ đến 5 dục (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân)
  2. tâm thiện sắc giới: liên kết với thiền sắc giới, 
  3. tâm thiện vô sắc giới: liên kết với thiền vô sắc giới
Thiện sắc và thiện vô sắc để dành cho người tu thiền. Còn mình thì một ngàn kiếp nữa cũng chưa đụng tới đó đâu. Dẹp đi nhé. 

Giờ nói tâm thiện dục giới thôi. Khi các vị có một tâm thiện dục giới, có nghĩa là tâm thiện mà nó khiến cho quý vị làm việc lành liên hệ với năm dục, ví dụ như mắt tai mũi lưỡi thân đó thì việc thiện đó được gọi là thiện dục giới. Còn thiện sắc giới là thuần túy gắn kết với chuyện tu thiền sắc giới. Thiện vô sắc nó chỉ thuần túy gắn kết với tâm thiền vô sắc giới. Cái đó chỉ trên mây thôi chứ không phải ở dưới đất. Tâm thiện dục giới là tâm mà có mặt để cho ta làm những việc liên quan đến tâm dục. Nói nôm na như vậy, năm trần đó.

43:29

25/08/2019 - 08:42 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Cái quả báo cũng có liên hệ đến năm trần, đó là tâm thiện dục giới nó liên hệ gián tiếp  hay là trực tiếp. Tâm thiện dục giới, bản thân nó
  1. y cứ trên cái gọi là, một là cõi dục, 
  2. hai là y cứ cảnh dục, 
  3. ba là quả của nó ít nhiều có liên quan mà đó là nói một cách tương đối thôi, chứ người học A tỳ đàm sẽ hiểu thêm nhé. 
Khi mình có một tâm ác thì chính cái tâm ấy nó tạo ra cái tâm đầu thai, tâm đầu thai cõi khổ. Khi mình có cái tâm thiện thì nó sẽ tạo ra cái tâm đầu thai cõi vui. Nhưng cái đầu thai ở cõi vui có 3 trường hợp.

  1. Một là ngày xưa chúng ta làm phước bằng cái tâm thiện có trí tuệ đi cùng thì bây giờ chúng ta sẽ đi đầu thai bằng cái tâm đầu thai có trí tuệ đi cùng. Cho nên sanh ra làm người có khả năng đắc đạo đắc thiền. Đắc đạo quả thiền định thần thông đó gọi là tâm thiện, ngày xưa mình làm thiện bằng cái tâm lành có trí đi cùng thì bây giờ sanh ra mình cũng đầu thai bằng tâm có trí đi cùng.
  2. Hạng thứ hai là ngày xưa mình làm phước cũng dữ dội lắm nhưng mà có điều là không có trí đi cùng, thì bây giờ sanh ra cũng làm bác sĩ kỹ sư mà đụng tới vấn đề tinh thần tâm linh coi như là cái chuyện đế vi huyền nhiệm trên trời trên mây, trừu tượng thì mình chịu chết. Làm bác sĩ kỹ sư kê toán lý hoá sử địa cũng ra làm rót rót rót nhưng mà đụng tới cõi tâm linh là nó đơ cái đầu liền, tới chỗ đó nó thót, nó chạm đến cái trần liền nhé. Đó là hạng thứ hai.
  3. Còn hạng thứ ba là cũng do làm các việc lành nhưng đối tượng hạn chế, với cái tâm của mình cũng quá hạn chế nhé. 
Có nhiều thuyết cho rằng đó là quả dư sót của một tâm thiện lớn. Có trường hợp cho rằng đó là trường hợp đối tượng, bản thân việc phước, việc công đức mà mình làm nó quá nhỏ mà đối tượng cũng quá tầm thường, cái tâm mình thì cũng, cái việc mình làm quá nhỏ mà cái tâm mình cũng quá nhẹ và đối tượng cũng không ra gì.

Tôi tạm ví dụ, như là mình đứng bên cái bờ cái miệng cống mình thấy có một miếng bánh mì khô nằm ở đó, thấy có một con chuột nó bò ở dưới, mình lấy chân hất xuống đá xuống cho nó ăn, tiện cái chân đúng ra nó không có động từ nào hết mà là nó tiện cái chân. Thấy miếng bánh mì nằm ở đây dơ dơ tiện chân mình đá cái, sẵn cho nó ăn luôn. Thì con chuột không phải là đối tượng gì ghê gớm, miếng bánh mì dư rớt, chuyện đó cũng không phải là một tặng phẩm ghê gớm, và cái tấm lòng lúc mà mình đá miếng bánh mì cũng không phải là tấm lòng ghê gớm hào sảng đáng quý cao siêu mầu nhiệm gì hết. Thì ba cái tầm thường đó: đối tượng tầm thường, tâm trạng tầm thường, hành động tầm thường sẽ cho ra một cái quả không đáng kể.

Cho nên tôi nói quả lành nó có ba, cõi lành dục giới có ba:

  1. Sanh ra làm người có trí tuệ đủ đắc đạo chứng quả thiền định. Hạng thứ nhất gọi là hạng tam
  2. Làm người học hành thông minh nhưng không chạm vào cảnh giới cao siêu được. Hạng thứ hai gọi là hạng nhị.
  3. Thứ ba gọi là hạng vô nhân. Có nghĩa là những người sinh ra tàn tật bẩm sịnh Ví dụ như bị bệnh tâm thần, trong nước gọi là tâm thần đồng ảnh, Mỹ gọi là Down Syndrome.
47:10.

26/08/2019 - 08:26 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Tâm người một mặt, không biết quý vị trong room có biết bịnh đó không ta. Hello. Các vị có biết người Down Syndrome. không (bịnh đao). Một trăm người cái mặt đều giống nhau, đơ đơ vậy đó. Những loại tâm thần bẩm sinh, loại mà:

Hôm nay ngửa mặt lên trời
Nghe ta hư ảo nghe đời phù du.

Cái loại đó đó. Ăn rồi cứ cười cười vậy đó.

Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không biết vì sao tôi buồn.

Đại khái như vậy.

Nó còn tệ hơn hạng nhị nhân. 

Hạng tam nhân có thể đắc được đạo quả , cái đầu nó có thể làm được những đề tài sâu kín tế nhị trừu tượng. Hạng thứ hai nó chỉ giỏi được trong sinh hoạt thường nhật của xã hội loài người. Hạng thứ ba gọi là hạng phế liệu đồng nát, mang thân người cho vui vậy thôi chứ hạng phế liệu đồng nát ve chai. Có nghĩa là đầu thai bằng cái tâm ve chai. Tâm đầu thai ve chai nhớ nhé. Tâm ve chai phế liệu có nghĩa là cũng làm người nhưng cả đường đời lẫn đường đạo đềt not... không có làm được gì hết. Đường đạo là không hiểu cái gốc sâu kín của chánh pháp không thể chứng đắc thiền định đạo quả. Còn đường đời là ba cái khoa học thuật cũng âu luôn cũng khỏi biết luôn. Chỉ còn lại cái thứ ba là hình dáng giống con người, biết ăn kiểu con người, biết cầm đũa, nước miếng chảy thì biết lau lau vậy đó, ghèn thì biết lau lau trét trét bậy bạ vậy đó. Khá khá hơn con khỉ. Thí dụ như gặp má gặp ba thì kêu mum mum ma ma chứ con khỉ làm gì biết kêu. Khác chút vậy thôi chứ coi như là trớt qướt luôn. 

Thì chính mình đi đầu thai bằng cái tâm nào thì cho ra cái quả như thế. Nếu là tâm cao cấp thì cho ra quả ngon. Còn tối thiểu phải là cái tâm của người nhị nhân. Có nghĩa là không đắc được nhưng họ chỉ thua bậc tam nhân không chứng được đạo quả thiền định thôi chứ cái chi họ cũng làm được hết. Học đạo cũng thông suốt, ngoài đời làm bác sĩ kỹ sư rồi kiến trúc sư, luật sư họ làm tuốt tuồn tuột. Nhưng họ không chạm được đắc chứng đạo quả thiền định thôi nhé.

Còn hạng thứ ba hôm nay nói rõ thì cái quả chướng ở đây chỉ cho hạng đầu thai bằng cái tâm tàn tật, cái tâm của mấy người này là tâm thần bẩm sinh. Tâm thần bẩm sinh nhớ nhé, đó là quả chướng.

50:35

08/09/2019 - 02:37 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Như vậy đây là 6 trở ngại:
1. Nghiệp chướng
2. Phiền não chướng
3. Dị thục chướng (quả chướng). Quả chướng là đầu thai bằng cái tâm của người tâm thần, tâm của người gọi là tự bế bẩm sinh, người tâm thần bẩm sinh.

4/ không có lòng tin: không có chánh tín

4. Không có niềm tin: ở đây phải hiểu là không có chánh tín, nghĩa là sao? Tức là họ không có tin được, họ không biết và từ đó họ không tin có chánh pháp ở đời. Họ không tin bốn chuyện sau đây:

4.1. Họ không tin mọi thứ ở đời là khổ, dầu làm vua làm trời làm thiên đế thích, thái thượng lão quân, vương trì dương mẫu đi nữa thì tất thảy đều là khổ. Họ không tin điều đó, họ chỉ biết ăn ngon ngủ yên vậy là khoẻ rồi như cái con gì vậy đó.
4.2. Họ không tin rằng khi mọi thứ là khổ thì mình thích thứ gì cũng đều là thích trong khổ
4.3. Họ không tin rằng muốn hết khổ thì đừng thích trong khổ nữa
4.4. Họ không tin trên đời này có đạo giải thoát, giúp cho mình hết khổ.

Đó là một cách phân tích.

Cách phân tích thứ hai. Họ không muốn tin vào những chuyện sau đây.
1. Họ không tin mọi sự ở đời do duyên mà có, có rồi sẽ mất.
2. Họ không tin rằng mình phải chịu trách nhiệm 100% về những gì mình nói, làm, suy nghĩ.
3. Họ không tin hạnh phúc khổ đau ở đời đều do ảo giác mà ra
4. Họ không tin rằng đời sống chánh niệm và trí tuệ là đời sống an lạc đời này và cứu cánh giải thoát cho đời sau.

Họ không tin bốn điều này thì cái đó gọi là thiếu niềm tin. Còn các vị có tin ông nọ bà kia (nghe k rõ..... )  Nhưng mà  tình hình ở đây là tui tin như vậy. Tôi xin dám chắc một điều, bà con có được một trong bốn điều tôi nói thì cuộc đời nó khác đi nhiều lắm. Khác nhiều lắm nghe. Bởi vì tôi nói lại một lần nữa. Tôi hoặc các vị giảng sư mà các vị thường nghe dù có là ai đi nữa theo tôi không quan trọng bằng các vị nghe được cái gì cái đó mới là quan trọng. Thì nếu mà vấn đề giáo lý quan trọng quý vị nghe được hiểu được thì tôi tin chắc chắn nó giúp quý vị thay đổi được đời sống rất nhiều. 

Chẳng hạn như quý vị tin điều này: 

  1. mọi sự ở đời là khổ, 
  2. thích cái gì cũng là thích trong khổ, 
  3. muốn hết khổ đừng thích trong khổ nữa, 
  4. sống bằng ba nhận thức ấy chính là con đường thoát khổ. 
Với niềm tin sắc son vào bốn sự thật ấy, chắc chắn đương nhiên, cố nhiên, mặc nhiên, dĩ nhiên, tất nhiên là đời sống của quý vị sẽ rất thay đổi rất rất lớn, dù quý vị vẫn tiếp tục nghèo hèn, mỗi ngày vẫn phải cầm cục vé số  trên tay và coi như tối về ăn mì gói, khuya đói bụng dậy mở nước máy ra uống cầm hơi rồi đi ngủ tiếp, sáng dậy  bất chấp nắng mưa đi bán vé số tiếp. Nhưng cái tâm tư của người đó lúc bây giờ nó an lạc lắm. 

Xui cái là quý vị không đủ phước duyên ba la mật các vị không tin chuyện đó. Các vị tu bằng cách nương đỗ nhờ cậy người khác. Có nghĩa là phải kiếm thầy bà tăng ni chùa miễu quỳ lạy khấn vái xì xụp tùm lum hết mới yên chứ. 

Quý vị không tin đời sống chánh niệm và trí tuệ là đời sống an lạc bậc nhất. Sống gọi là (tiếng Anh) không cần dây. Chúng ta là đứa bé, chúng ta cắt dây rốn rồi biết được chánh pháp, biết được đường tu thì chúng ta là đứa bé đã cắt dây rốn. Lúc đầu nhờ mẹ đút cơm cho bú nhưng về sau sẽ có một ngày tự mình đi bằng đôi chân của mình. Tự ăn bằng cái miệng của mình và tự mình kiếm sống bằng đôi bàn tay của mình. Thì người học đạo y chang như vây.

17/09/2019 - 01:55 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Buổi đầu sơ cơ thì nhờ thầy bà tăng ni chùa miễu chuông tượng các cái, nhưng phải có một ngày bà con phải tự đi bằng đôi chân của mình. 

  1. Vì Đức Như Lai chỉ là người dẫn đường mà thôi. 
  2. Người cầm đuốc phải là mình hoặc là mình phải nương theo ngọn đuốc của Ngài nhưng phải đi bằng đôi chân của mình nhé. 
Chứ không thầy bà nào cõng mình được hết trơn.  Nếu mà cõng được thì các ngài đã cõng sạch không còn sót một mạng nào trên hành tinh này hết. Nhưng khổ cái là cõng không nổi. Mẹ có thể cõng con, bà có thể cõng cháu, nhưng bất hạnh là không thể cõng phàm phu lên cảnh giới giải thoát được hết. Nhớ nhé! 

Cho nên, niềm tin ở đây phải là niềm tin chánh tín .  Niềm tin phải đi đôi với trí tuệ . Chớ cái thứ  mà tin tào lao bí đao, cái thứ đó thì thôi thua. Và tôi đã nói không biết bao nhiêu lần mà các vị đơ đơ cái mặt ra đó. 

Đó là ngay cả cái chuyện bậy nhất vũ trụ đó là chuyện nam nữ mà mình đến với nhau dễ quá, mình lấy nhau dễ quá thì mai này mình cũng xa nhau rất dễ. Đối với niềm tin tôn giáo cũng vậy. Ta đến với Phật một cách rất là đơn giản có người rủ mình đi chùa, mình cũng sáp vô khấn khứa cầu lạy xì xụp rồi móc mớ bạc cắc nhét vào thùng công đức rồi khấn vái, tới chùa cho mình xin xăm xin ghi tên thẻ cầu an cầu siêu vậy là xong. 

Nếu quý vị tin Phật pháp đơn giản như vậy thì mai này quý vị bỏ đạo Phật cũng dễ như búng móng tay vậy đó nhé. Đằng này mình đến với đạo mình phải có nghiên cứu, mình phải có tìm hiểu, mình phải có lắng nghe, mình phải có tiêu hoá, mình phải có thấm thía cái nền tảng thì mai này trời có sập xuống mình có bị đốt ra tro đi nữa thì mình vẫn là người Phật tử đúng nghĩa. 

Và tôi nhắc lại một lần nữa, ở đây đức Phật không hề có ý muốn thu nạp đệ tử, Ngài không có ý muốn dụ dỗ ai theo Ngài hết . Ngay lúc còn sống Ngài đã không thèm rồi .  Bây giờ Ngài tịch rồi thì làm sao c chóuyện đó. Nhưng có một điều đó là tin vào Phật không phải là tin vào một cá nhân, một con người, một ông hoàng Ấn Độ đi tu 26 thế kỷ trước mà tin Phật là tin vào cái lẽ thiện ở đời mà Ngài là người đưa ra những đề nghị sống thiện. Nhớ nhé! Chớ còn tin Phật theo cái kiểu tin vào một cá nhân là chết rồi. Thí dụ như hôm nay mình tin ông (......) Cha đẻ của cái (....) của Mỹ, hay là ông (....) thì mình thương kính họ không phải là thương kính cá nhân bằng xương bằng thịt mà mình thương kính sự nghiệp tinh thần tâm linh những đóng góp về công nghệ những đóng góp về khoa học của họ để lại cho mình chứ còn cái thân xác họ có còn đâu. Ở đây cũng vậy .  Tin Phật thờ Phật là tin vào cái lẽ thiện ở đời mà Ngài là người, Đức Phật không phải là người tạo ra các nguyên tắc sống thiện mà Ngài là người phát hiện, bởi vì trước Phật và sau Phật không ai làm được chuyện đó hết. Nghĩa là Ngài mở ra cho mình thấy: 
  1. con từ đâu đến 
  2. con sẽ đi về đâu 
  3. con là ai, 
  4. bây giờ con phải làm gì.
58:00


17/09/2019 - 07:45 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Tôi dốt như con thú vậy đó nhưng mà tôi có đọc một ít về những tôn giáo lớn như Torah của Do Thái, tôi có đọc Lão giáo kiểu như Liệt tử, Nam tử, Nam Hoa Đạo Đức tôi có đọc hết, thánh kinh của Cơ Đốc, tôi có đọc kinh Quoran của Hồi giáo. Rồi ba cái sách giảng của đức Huỳnh giáo chủ như ba cái mà thi văn giảng bút của Cao Đài, tôi đọc tuốt tuồn tuột. Còn kinh điển của Ấn giáo thì tôi không phải nói chắc rằng trong mấy người tôi quen kể cả tăng ni Phật tử biết mặt không ai có đủ bằng tôi. Ấn giáo tôi có một lốc như Tam Tạng vậy đó nhiều lắm. Đọc để làm cái gì, thay vì đọc cái tào lao thì lúc giải trí tôi đọc cái đó coi họ nói cái gì. 

Tôi thấy không có cái gì qua kinh Phật được hết, con đường giải thoát. 

Chuyện đầu tiên trong kinh Phật, đức Phật đưa ra một cương lãnh đầu tiên là gì. 

Xác định mọi thứ đều vô thường vô ngã. Mọi thứ do lắp ráp nên vô ngã, mọi thứ không bền nên gọi là vô thường. Cái đó là tiêu ngữ đầu tiên của đạo Phật. 

Tiêu ngữ đầu tiên là hai chữ vô ngã và vô thường
Điều thứ hai Ngài dạy là con sống tỉnh thức chánh niệm thì con mới biết cái gì đang xảy ra. Cái gì nó đang xảy ra nó cũng giống hệt như những gì đã xảy ra và sẽ xảy ra. Nhớ nhé!

Chánh niệm nó ghê lắm. Chánh niệm và tỉnh thức trong hiện tại  nhưng khi ta biết rõ cái gì đang xảy ra thì ta cũng hiểu ngầm là mọi sự đã xảy ra và sẽ xảy ra cũng giống y chang như vậy. Đồng thời ta như thế nào thì người khác cũng như vậy. Cho nên trong bài vô ngã Ngài nói:

Này các tỳ kheo! Phàm tất cả những sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, quá khứ, hiện tại, vị lai, xa gần, thô tế, thắng thường. Cái gì vô thường thì cái đó khổ.

Này các tỳ kheo! Cái gì khổ cái đó vô ngã. Này các tỳ kheo! Nếu năm uẩn là của các ngươi thì các ngươi sẽ điều động sai sử, nguyện ước cho chúng hãy như thế này đừng như thế kia. Đừng bị già, bị đau, bị chết, muốn không được, thương phải xa, ghét phải gần. Nhưng chuyện ấy không bao giờ xảy ra. Khi nhân duyên hội đủ thì sanh, hễ có sanh thì có già có bịnh có chết. Hễ có thân thì phải bị muốn không được, thương phải xa, ghét phải gần. Đó là quy luật đương nhiên. 

Nhớ nhé! Cái đó gọi là vô ngã. Đó, thì một người mà coi như hiểu được điều đó, thành tựu được trí tuệ như vậy thì an lạc hơn nhiều lắm quý vị. Niềm tin đó mới gọi là chánh tín. Người mà thiếu niềm tin thì coi như là mắc vào một trở ngại rất lớn, không thể phát triển thiện pháp được.

5/ Không có ước muốn

Tiếp theo là không có ước muốn. Bên Bắc Tông có cái từ gọi là (pali) tức là nhất xiển đề (Dịch âm từ tiếng Phạn "icchantika": người phá bỏ mọi căn lành của mình), có nghĩa là người hết hy vọng trong con đường thiện. Nó từ cái chữ (pali) là hy vọng, (pali) là kết thúc. (Pali) cộng với (pali) có nghĩa là hết hy vọng. Vô phương, tiếng Việt Nam là vô phương, người vô phương. Ở đây có từ không có ước muốn là sao?  Cái kia là người hết hy vọng, còn đây là (icchatika) có nghĩa khác. 

Có nghĩa là người còn hy vọng, còn có lòng mong đợi ở trong thiện pháp, trong sự tiến bộ trên con đường giải thoát giác ngộ. Nhớ nhé! Thì gọi là chatika

Icchatika là người không mong gì tới chuyện đó. 

Nhiều người trong room này học ba mớ, đọc sách ba mớ nghe tưởng cao siêu lắm .  

Hỏi kiểu vô minh ngu muội: Ờ, tui sống tui thấy cái chuyện còn cầu giải thoát là cái chuyện còn tham. Tu là phải buông hết. 

Trả Lời: Thì nếu người đó ngồi trước mặt tôi mà nói như thế tôi sẽ hỏi ngược lại. Nếu nói tu mà còn cần cầu giải thoát, mấy cái cầu đó là tầm thường là chuyện không nên thì tôi hỏi thiệt ông, như vậy theo ông thì giới định tuệ không cần, đúng không ?  Bởi vì nói tu là không cần cầu mà, phải không ?  Rồi thì ông tưởng tượng nếu ông là một ông sư, một cư sĩ Phật tử mà ông phát biểu như vậy thì có nên không ?  Nếu ông là một cư sĩ Phật tử mà ông phán như vậy thì ông là Phật tử cái gì ? Còn không ông nói ông không phải là Phật tử thì ông đừng nên lên tiếng. Ông lên tiếng giống như ông đại tiện trong sân chùa vậy đó. Ông hiểu không? Nếu ông phủ nhận ông là Phật tử mà ông đi phán như vậy, đó là ông là người đi đại tiện trong sân chùa thôi. Nếu ông là một người tu, một sa môn, một người Phật tử, mà ông phán như vậy thì ông đang tu theo cái gì nhé.

1:04:41

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng KTC 6.86 Chướng Ngại và các Kinh Khác (3-4)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BA%A1i


1:04:41


18/09/2019 - 06:50 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Cho nên sở dĩ bữa nay tui vạch cái này ra là vì có nhiều người đọc ba mớ, đọc ba cái (mặcti,......), đọc ba cái thiền tông đốn ngộ, ngữ lục bên bắc phái của tàu. Mà nhất là mấy cái đó pha lại làm thằng nhỏ thúi hoắc. Tức là (ít san mặc ti.....), ba cái trường phái (nanda hippy, henry miu lơ) Bùi Giáng, Phạm Công Thiện đồ vậy đó, pha vô hồi cái thằng nhỏ mách luôn, nói chuyện giống như trên mây vậy đó. Tui rầu mấy cái thứ đó lắm. Nói ra thì nó nặng chứ tui nhìn cái đống phân mà còn hay hơn nhìn cái mặt họ, bởi vì họ phá không hà. Nhớ nhé. Ráng hiểu dùm cái đó. Cho nên (chatika) ở đây nó cũng là một vấn đề lớn. Có nghĩa là mình sống ở đời mà mình không có hy vọng thì tui khuyên đi chết đi làm trùn làm dế, bởi vì làm người phải có lý tưởng. Cho nên (chatika) ở đây mình dịch là có lý tưởng nhé, có lý tưởng hướng tới. Còn cái kiểu mà khư khư chấp chặc lại là chuyện khác.

  1. Nhưng mà nói sống không có lý tưởng cũng là sai với trung đạo, không có khư khư chấp chặt phải vậy phải vậy
  2. nhưng nói tất cả đều không cũng là cực đoan, mộtncais cực đoan một cái (tiếng anh).
Mình tu là mình phải ung dung ngay chính giữa mà đi nhé.

Phải có lý tưởng là sao?
  1. Phải biết rõ mình cần sửa cái gì,
  2. mình cần thêm cái gì,
  3. cái gì là cái mình phải đạt tới,
  4. cái gì là cái mình cần phải vượt qua.
Trong room có nghe kịp không ta. Biết rõ cái gì cần thêm cần bớt cần chỉnh sửa, cái gì cần đạt đến, cái gì cần vượt qua. Đó, thì cái đó được gọi là tu có lý tưởng nhé.

Chớ còn không có mong cái gì hết đó là tà. 

Quý vị tưởng tượng quý vị đẻ ra một thằng con mà nó không biết thiết tha cái gì hết. Nó ăn rồi nó cứ nằm đó thở dài thườn thượt, nó mệt nó ngủ, ngủ xong dậy móc tờ báo ra đọc, rồi từ trên giường lê cái mông qua xa lông, rồi từ xa lông lê qua võng, từ võng lê qua sapa, má có gì ăn chưa đói bụng, nó quất một bụng xong khỏi rửa chén, lê qua giường ngậm cây tăm đọc báo, rồi mở máy ra chơi game, rồi coi ti vi, ngồi ngáy như con heo nọc vậy đó. Xong rồi bắt đầu ngủ một giấc dậy má có gì ăn không.

Quý vị tưởng tượng quý vị đẻ ra thằng con như vậy thì quý vị nghĩ sao, đó là kết quả của mấy người cao siêu đó.

Tu là chẳng hy cầu, tu là phải phóng hạ không chấp, đã lắm. Cái hạng đó nó đẻ ra cái loại như thế.

Nó ăn rồi nó từ bên đây nó lết quá bên kia, từ bên kia nó lết sang bên nọ. Lúc đó mới đã, vì đẻ ra một nhục thân bồ tát trong thời mạt pháp. Cái bậc đó đó, tức là nó ngậm cây tăm nó lết từ bên đây qua bên kia, nó không có chấp, lòng nó không có hy vọng gì hết, vì hy vọng là chấp mà nên nó không có mong cái gì hết. Nếu mà tiếp tục giữ cái suy nghĩ đó hả, thì tui cầu nguyện quý vị quất cho chừng 5 thằng như vậy đó hả, quý vị biết cái nhục thân bồ tát nó đã cỡ nào nhé.

Sống là phải có lý tưởng hướng tới nhé.

6/ Ác Tuệ: không có trí tuệ

Cái cuối cùng là phải có trí tuệ. Mà sáu cái trở ngại này là gì ta, trong đó cái thứ sáu là không có trí tuệ.

Trí tuệ là gì?

Trí tuệ là khả năng biện biệt, biết cái gì nên cái gì không nên, biết tiến, biết thoái, biết dừng. Cái này nên nè, cái này không nên nè. Biết tiến là sao. Biết cái gì có thể dẫn đi tới, biết cái gì có thể đẩy thụt lùi. Rồi biết lúc nào là lúc nên dừng lại, biết lúc nào là lúc cần phải bước đi. Biết rõ mấy điều đó: biết đi, biết dừng, biết tiến, biết thoái, biết nên không nên. Biết tiến thoái đi dừng nên không nên .

u cái đó mà biết rõ gọi là trí tuệ nhé. Như bữa hổm tui nói kinh Song Tâm, tức là trước lúc giác ngộ, bồ tát Tất Đạt ngồi trong rừng sâu khổ hạnh lâm Ngài suy nghĩ, con người gồm có hai phần thân và tâm. Thân dẹp qua bên không có gì để nghĩ. Còn tâm, trong tâm nó chỉ có hai thứ thôi đó là thiện và ác. Kể từ bây giờ ta sống với cái thiện hễ phát hiện cái gì bất thiện là bỏ. Suy nghĩ đó là trí tuệ. Là trạch pháp, trạch là chọn lựa (quách tá ná) lựa chọn đó. Cái gốc tu rất là đơn giản kể từ bây giờ cái gì ác ta không giữ nó lại, chỉ vậy thôi, ta chỉ phát triển cái thiện cái đẹp, không có làm thêm việc thứ ba. Nghĩa là biết ác thì không sống với nó nữa, còn cái gì thiện thì ta phát triển thêm nữa. Chỉ vậy thôi.

Đó gọi là trí tuệ, là trạch pháp giác chi. Các hành giả tu thiền chỉ thiền quán gì cũng vậy. Tu thiền chỉ chỉ tập trung vào hơi thở, tập trung vào đất nước lửa gió xanh vàng đỏ trắng hư không ánh sáng, nhưng phải có trí tuệ biết bấy giờ mình đang trong tình trạng nào. Đấy! 

Hành giả tu thiền quán Tứ Niệm Xứ cũng vậy, phải biết cái này nên cái này không nên, lúc nào nên đi lúc nào dừng lại, lúc nào tiến lúc nào thoái, biết.

Tôi nói vắn tắt trí tuệ là vậy đó.
Trí tuệ nó có ba nguồn văn, tư, tu.

19/09/2019 - 07:30 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

1. Văn có nghĩa là học hỏi lắng nghe, đọc từ người khác.
2. nghĩa là thấm thía gặm nhấm tiêu hoá với riêng mình
3. Tu nghĩa là khả năng trí tuệ có được do tu samatha và vipassana.

Cái biết từ samatha và vipassana nó hoàn toàn không giống với cái biết do mình học hỏi hay do suy tư lý luận suy diễn. Cái biết của một người đắc thiền định thần thông, hoặc cái biết của một người đắc định đắc đạo quả thì cảnh giới của họ cao vời vượt khỏi tầm nhìn lý luận của những người cấp thấp.

Nếu mình không mắc vào sáu cái trở ngại này:
1. Nghiệp chướng
2. Phiền não chướng
3. Quả chướng
4. Thiếu niềm tin
5. Thiếu lý tưởng
6. Thiếu trí tuệ.

Nhớ cái đó nhé.

--ooOoo--


Kinh 87 Nghiệp Chướng.

(III) (87) Nghiệp Chướng

1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, dầu có nghe diệu pháp, cũng không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?

2. Ðoạn mạng sống của mẹ; đoạn mạng sống của cha; đoạn mạng sống của A-la-hán; với ác tâm làm Như Lai chảy máu; phá hòa hiệp Tăng; ác tuệ, si mê, câm ngọng.

Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, dầu cho có nghe diệu pháp, không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.

3. Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, được nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?

4. Không đoạn mạng sống của mẹ; không đoạn mạng sống của cha; không đoạn mạng sống của A-la-hán; không với ác tâm làm Như Lai chảy máu; không phá hòa hợp Tăng; có trí tuệ, không si mê, câm ngọng.

Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, nếu được nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.

Kinh 87 nội dung cũng chỉ là nói gom gọn lại kinh 86. Ở đây Đức Phật ngài dạy một người mắc vào năm tội đại nghịch, rồi cái gì nữa ta, năm rồi phải không, cái thứ 6 là thiếu trí tuệ. Trí tuệ thì tôi đã giải thích rồi.


Kinh 88 Không Ưa Nghe.

(IV) (88) Không Ưa Nghe

1. - Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, dầu được nghe diệu pháp, cũng không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?

2. Khi Pháp và Luật được Như Lai thuyết giảng,
  1. không ưa nghe,
  2. không có lóng tai,
  3. không có an trú tâm liễu giải,
  4. nắm giữ điều không lợi ích, 
  5. bỏ qua điều lợi ích,
  6. không thành tựu tùy thuận nhẫn nhục.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, dầu cho có nghe diệu pháp, không có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.

3. Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, nếu được nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp. Thế nào là sáu?

4. Khi Pháp và Luật được Như Lai thuyết giảng,
  1. có ưa nghe,
  2. có lóng tai,
  3. có an trú tâm liễu giải,
  4. nắm giữ điều lợi ích,
  5. bỏ qua điều không lợi ích,
  6. thành tựu tùy thuận nhẫn nhục.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, nếu được nghe diệu pháp, có thể bước vào quyết định tánh trong các thiện pháp.

Ngài nói rằng, người mắc vào những điều sau đây, thì dầu Như Lai có ra đời dầu chánh pháp có được thuyết giảng ở đời thì người này cũng không thu hoạch được lợi ach gì hết. Đừng có nói là ân triêm lợi lạc, chỉ riêng một chút lợi ích cũng không có. Là vì sao? Vì khi Đức Như Lai ra đời, khi chánh pháp được thuyết giảng ở thế gian mà trong khi mình không thích nghe không lắng tai, không tìm hiểu.

1/ Không thích nghe

Không thích nghe là sao? Tôi đã nói không biết bao nhiêu lần, chúng ta sinh ra đời, chúng ta có mặt ở đời này bằng cái vốn liếng hành trang bằng cái nền tảng mà mình đã mang theo từ nhiều kiếp. Các vị đừng nói với tôi lỗ tai của tôi tôi thích nghe thì tôi nghe. Sai bét.

Đừng có nói về đạo pháp, đừng có nói về chuyện tâm linh tinh thần cao siêu, nói việc ngoài đời đi. Các vị nhà quê các vị đâu có nghe ba cái (...), ba cái (...) các vị đâu có nghe hoà tấu giao hưởng đâu, đúng không? Các vị chỉ có cải lương tài tử, mái nhì mái đẩy, hát chậm, ba cái hát xẩm chầu văn tứ phủ gì đó thôi. Chứ các vị làm sao nghe nổi giao hưởng, opara đồ nghe hổng nổi. Nhớ cái đó, nói gì là trong Phật pháp. Bằng cái nền tảng nào mà các vị thích nghe về chánh pháp? Lát nữa phần dưới có cái lạnh xương sống lắm, tôi sẽ dành nói nhiều về chỗ đó.

Không phải tay mơ nào cũng nghe cũng nghe được chánh pháp. 
  1. Chưa kể thứ nhất mình không thích nghe về chánh pháp.
  2. Thứ hai, cái thứ hai này mới đuối nề, chúng ta có hai cách tìm đến với chân lý:
  • Mình thích hiểu vấn đề như nó là, hiểu đúng sự thật.
  • Mình hiểu vấn đề như là mình muốn.
Tôi nói một tỷ lần hai cái công thức này mà quý vị cứ đơ đơ ra đó. Quý vị còn nhớ không. Chúng ta ở đời có hai cách để đến với chân lý:

1. Hiểu vấn đề như nó là, nó sao thấy vậy.
2. Hiểu vấn đề như là mình muốn.

Cho nên khi nói đến chuyện lắng nghe chánh pháp nó cũng liên quan đến hai cái đó.

Thứ nhất khi Phật thuyết pháp ở đời chúng ta có thích nghe hay không, bởi vì chúng ta nghe cái mình thích, chúng ta thường có khuynh hướng tìm đến cái mình thích hơn là những cái mình cần. Tin tôi đi. Có! 

Thường chúng ta có khuynh hướng tìm đến cái mình thích. Đấy, cho nên chúng ta không có một cái nền tảng cơ sở tâm linh tâm lý tinh thần để có thể nghe được những cái cao hơn tầm với của mình, cao hơn tầm mắt của mình, cao hơn tầm nhảy của mình, cao hơn cái trần bay của mình. Trong room có hiểu cái trần bay không ta. Khổ quá cái từ trong nước tui xài mà không biết.

Quý vị có hiểu cái trần bay không. Thí dụ chiếc máy bay nó bay khả năng tối đa một khắc trung bình nó bay 12 km cộng với độ cao khi bay, người ta gọi đó là trần bay.

Mình có thể suy nghĩ nói ra cái đó hay không, đó là do khả năng năng lực của mình. Cho nên chuyện đầu tiên là mình không thích nghe chánh pháp bởi vì mình chạy theo cái mình thích chứ mình không có nhu cầu hơn cái mình thích hết. Trong khi con người thật ra nó có hai thứ nhu cầu:

  1. Thứ nhất cái mình thích cũng là nhu cầu.
  2. Thứ hai cái mình cần cũng là nhu cầu.
Tin tôi đi, chỗ này phải tin tôi. Con người có hai cái nhu cầu, nhu cầu thứ nhất là cái mình thích, nhu cầu thứ hai là cái mình cần. Tôi ví dụ, nếu trong room này ai mà đơ quá thì tôi nói cho nghe về hai nhu cầu đó. Như ăn ngon đó là nhu cầu, nhưng bây giờ các vị bị bịnh phải uống thuốc thì uống thuốc cũng là nhu cầu. Như vậy nhu cầu có hai, cái mình thích nhu cầu đã đành, cái mình cần cũng là nhu cầu. Vấn đề là cái đầu của anh nó ra làm sao.

Cho nên, khi Đức Như Lai ra đời chúng ta có chịu nghe hay không, có thích nghe hay không. Bởi vì chúng ta là những đứa bé chỉ thích kẹo ngọt, bình sữa, thích vòng tay của mẹ, thích vòng tay của bà, chỉ biết bao nhiêu đó thôi. Chúng ta không thể ra khỏi được cái cảnh giới be be bê bê đó được.

20/09/2019 - 09:56 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]


2/ Không lắng nghe:

Thứ hai là, một là không thích nghe, hai là không lắng tai nghe, có dịp ai mà đẩy mình vào trong pháp hội thì mình cũng ráng ngồi đó nhưng mà cứ móc cái cái máy ra bấm bấm, con mắt lơ đễnh nhìn trời xanh mây trắng rồi nghĩ về ông bà ông vải cái mặt ngu như con thú vậy đó. Cái đó là không lắng tai nghe.

3/ Không chú tâm: không chịu để tâm tìm hiểu

Thứ ba là không chú tâm liễu giải, có nghĩa là sao? Có nghĩa là không chịu để tâm tìm hiểu. Ổng nói cái đó ngộ ngộ há, cái này tui chưa nghe, rồi thôi bỏ qua. Ổng nói cái gì kỳ vậy ta? Thôi kệ đi, nghĩ hư não lắm, hại não lắm, bỏ qua. Cái đó gọi là không chú tâm liễu giải.

4/ Không nắm giữ những điều lợi ích: bỏ qua điều lợi ích

Tiếp theo là không nắm giữ những điều lợi ích. Trong bản chú giải có nói rõ cái này, biết được cái gì có thể giúp cho mình tiến bộ, cái đó đó. Nắm giữ điều không lợi ích, bỏ qua điều lợi ích. Có nghĩa là  không quan tâm đến những cái gì có thể giúp cho mình tiến bộ, thăng tiến trong cõi tâm linh mà lại chú ý đến những cái mà nó hại mình. Ví dụ như tôi kể chuyện tôi dạy học bên Mỹ, có cái bà đó trời ơi lúc tui giảng, bã nghe chăm chú rồi bã ghi ghi chép chép, ghi ghi chép chép. Ai cũng tưởng bã là học viên ưu tú, gương mẫu để người khác học đòi bắt chước noi theo.  Nhưng mà tới hồi (...) bã đi về nhà, bã không trở lại. Người ngồi ở đó, họ mới lượm nguyên cái xấp giấy bã ghi từ hôm qua tới giờ, bã ghi toàn mấy câu chuyện ma mấy câu chuyện cười mà tôi kể không hà. Bởi vì cái não trạng của bã nó tới đó đó. Bã không biết cái gì là, tôi kể chuyện nhiều khi thuyết pháp có lúc tui chen vô để minh hoạ, mượn câu chuyện để tôi minh hoạ cái gì đó, mà có nhiều khi ngẫu nhiên tình cờ nhớ câu chuyện đó nó không mắc mớ đến nội dung nhưng mà cái chỗ đó kể được để bà con đừng buồn ngủ. Thì quý vị biết, mình giảng sư còn buồn ngủ, bà con dưới buồn ngủ thì nó kéo nhau cả chùa buồn ngủ thì còn cái nước non gì nữa, phải không? Cho nên nhiều khi thấy bà con dật dờ quá tôi kiếm chuyện gì đó để pha loãng không khí chút xíu cho bà con bật dậy cho tỉnh tỉnh, rồi mình nói tiếp cho nó xong cho rồi. Vậy đó mà nó đem nó ghi toàn chuyện ma chuyện cười không. Là sao? Đó, như cái room này nè, cái mặt đơ đơ ra cười cười, nhăn răng ra. Bỏ qua cái điều lợi ích, làm lơ cái điều lợi ích.

5/ Không có tùy thuận nhẫn nhục: có khả năng nghe được những điều mình không thích

Cuối cùng thứ năm là không có tùy thuận nhẫn nhục, (pali), có nghĩa là gì?

1:19:20

23/09/2019 - 01:31 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]


Chỗ này mà không có chú giải thì cắn lưỡi mà chết, các vị biết không?

Tùy thuận nhẫn nhục là cái gì? (Pali) có nghĩa là có khả năng nghe được những điều mình không thích.

Cái chữ này (pali) là nghe chánh pháp bằng tâm thái của người uống thuốc, bằng tâm trạng của một người bịnh đang uống thuốc, bằng tâm trạng của một người học trò siêng năng. Người bịnh đang uống thuốc là sao? Là nó đắng, nó hôi, nó cay, nó nồng, nó chua, nó mặn, nó khó uống. Cỡ nào chỉ cần biết nó có lợi cho cái bịnh của mình là mình bèn uống. Thời của tui là cái gì chứ thuốc mà khó uống tui làm tuốt. Tui từng nằm mấy tiếng đồng hồ để vô nước biển, họ còn lụi vô đó một hai ống thuốc, tui từng uống mấy trăm thang thuốc bắc, thuốc tán, thuốc tễ, thuốc gì tui cũng uống hết. Cho nên tui rành cái đó lắm. Tui đâu có thích uống ba cái đó, nhưng bây giờ không uống, chết thì sao? Cho nên, phải uống. Hoặc là một người học trò giỏi, có nhiều môn mình không thích lắm nhưng mình phải học, vì không học làm sao đủ điểm mà lên lớp? Như toán lý hoá văn sử địa, trước năm 75 là ban a, ban b, ban c, ban toán, ban văn, tùm lum. Thì nhiều khi mình giỏi văn dốt toán, giỏi toán dốt văn nhưng cũng phải nghe cho biết hết.

Ở đâu cũng vậy, ở trong giáo pháp có nhiều vấn đề, có nhiều đề tài, có nhiều bài kinh mà mình cảm giác như nguyên ca nước lạnh tạt vô mặt mình vậy đó. Nhưng mà phải đọc, vì sao? Vì mình là một con bịnh cực kỳ nặng, giai đoạn cuối mà. Cho nên có nhiều bài kinh mình cảm giác Ngài nói Ngài chửi mình, nhưng mình phải đọc. Bởi vì mình đang được châm cứu, mình đang được giải phẫu, mình đang được theo giõi bằng một liệu trình nghiêm khắc bậc nhất. Cho nên gọi là (pali). Chúng ta đủ can đảm, đủ lòng hiếu học, hiếu tu để có thể cam tâm chấp nhận nghe được những giáo pháp gây xốc cho mình. Không phải là chuyện dễ, phải có pháp nhục, đủ niềm thiết tha đạo để theo đuổi. Thí dụ như cái này kỵ nè, trong ba tạng mình ghét tạng A tỳ đàm là mình nói tùm lum hết. Tạng đó là giảng cho chư thiên, loài người học sao hiểu. Ví dụ như vậy. Hay là mình đọc được một vài kinh tạng mình hiểu được mấy bài, còn mấy bài mình không hiểu mình bôi bác, mình cắm lịch.
 
Đâu có cần học chi cho nhiều, học vài bài rồi hành trì cho tới nơi là được rồi. Câu đó không phải là sai, nhưng phải biết anh không có tư cách nói.

Người có tư cách nói là bậc uyên thâm thạc học. Còn anh dốt như con thú mà nói trên mây, nào là không cần học nhiều, học ít hành trì cho tới là được. Anh nói sai bét anh hiểu không? Câu nói trên mây đó chỉ dành cho người trên mây thôi. Nói tu không cần học nhiều, chỉ cần học năm, ba bài kinh mà hành tr nghiêm túc đắc đạo là được rồi. Câu đó dầu mình có nghĩ đi nữa cũng làm ơn câm cái mồm dùm nghe. Đừng có nói cái đó, hại người khác, xúi mấy đứa ngu, mấy đứa lười biếng nó nghe vậy nó tin theo là thấy bà nội nó luôn nhé. Cho nên rất bậy, để ý cái đó.

Ở đây, năm lý do khiến cho một người không nhận được một tí ti lợi lạc, không thu hoạch được một cái lợi ích gì ngay cả khi Đức Như Lai xuất thế, chánh pháp được thuyết giảng ở đời mà mình vẫn bơ bơ cái mặt đần của mình, bởi vì mình mắc vào mấy cái thứ này.

1. Không thích nghe chánh pháp vì não trạng của mình không cho phép.
2. Có dịp nghe được cũng không chịu lắng tai giống như con trâu nghe nhạc vậy đó.
3. Nghe mà không có lòng tin hiểu
4. Không biết cái gì để bỏ cái gì, để thêm cái gì, khi mà chánh pháp được giảng rõ ràng cho mình mà mình không biết nương vào đó để mà thêm gì, bớt gì.
5. Pali có nghĩa là không kham được với những đề mục giáo lý mà mình không thích.

Tui nói rồi trong đời có nhiều cái mình thích mà nó không cần, có nhiều cái cần mà không thích, kẹt vậy đó. Có cái mình vừa thích mà nó vừa cần thì khỏi nói rồi. Nhưng mà đặc biệt trên đời này có nhiều cái mình thích quá mà nó không có lợi ích gì hết. Nhưng nhiều cái nó có lợi ích mà mình cần thì bắt buộc mình phải nhận, phải có khả năng đó. Bởi vì mình không phải con thú. Con thú nó thể đến với những gì nó thích thôi. Con người  có thể chấp nhận những thứ vượt khỏi nhu cầu thông thường. Thí dụ như con thú chỉ giỏi lắm là nó không ăn đồ hại đồ độc đồ dơ hại nó thôi. Chỉ biết cái đó thôi, còn không nó chỉ đi tìm đồ ngon, đồ nào chủng loại dòng họ nó thích ăn chứ nó không thể đi xa hơn.

1:25:16

01/10/2019 - 09:02 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Chỉ biết cái đó thôi, còn không nó chỉ đi kiếm cái đồ ngon, cái đồ nào chủng loại dòng họ nó đã ăn bao nhiêu đời qua, chứ nó không thể đi xa hơn như con người được.

Con người ngoài nhu cầu ăn mặc ở ra mình còn có nhu cầu tâm linh tinh thần nữa quý vị. ình còn có nhu cầu đi vào thư viện để làm con mọt sách ngày này qua ngày khác. Chúng ta còn mài quần ở trong giảng đường đại học, chúng ta còn có nhu cầu vào nghe thuyết giảng tôn giáo tâm linh tinh thần. Chúng ta còn có nhu cầu ngồi một mình ở chỗ vắng để chiêm nghiệm tầm tư, quán sát bản thân. Đó, cái đó gọi là con người, còn không thì thua rồi.

Bởi vì chúng ta không có nhu cầu đó, mà khi chúng ta sống giống con gì thì khi chết ta sẽ về cộng sinh cộng trú với cái loài đó. Tin tôi đi. Tôi đã nói không biết bao nhiêu lần. Nếu có một kiếp sau thì cái kiểu sống hiện tại của chúng ta giống loài nào nhất, chủng loại nào nhất thì ta sẽ về với chúng. Thí dụ như mình thấy ngoài nhu cầu đói ăn khát uống nam nữ và phản vệ, ngoài bốn nhu cầu này ra con người phải có nhu cầu khác mới gọi là con người. Đói ăn khát uống con thú có, nhu cầu nam nữ đực cái trống mái con thú có, rồi con thú nó cũng có nhu cầu phản vệ, có nghĩa là phản ứng và tự vệ. Như vậy con người phải có nhu cầu thứ 5, thứ 6. Có nghĩa là khả năng suy tư, khả năng chọn lọc, khả năng cân nhắc. Phải có khả năng đó nữa, chứ còn không thì bốn cái kia không thì mình với con thú giống y chang nhau. Tôi đã nói nhiều lần, có những giống cây nó chỉ mọc ở dưới nước sình xấp xấp nửa nước nửa đất, có những giống cây mọc ở hẳn dưới nước, có những giống cây nó mọc ở trên bờ, có những giống cây nó thích nước mặn, có những giống cây nó thích nước ngọt, có những giống cây nó thích nước lợ, có những giống cây hợp với xứ nóng, có những giống cây hợp với xứ lạnh, có những giống cây hợp với xứ ôn đới v.v... nó hợp với vùng đất nào thì nó chỉ sinh sôi ở vùng đất đó. Con người cũng vậy, chúng ta sống bằng tâm thức nào, sống bằng tâm tình của loài nào thì mai này chúng ta sẽ về cộng sinh cộng trú với loài ấy, chuyện đó rất khoa học.

Đừng nói với tôi anh là người có học thức, dân có bằng cấp có nhà lầu xe hơi, anh là người sống một đời sống đạt chuẩn của con người. Chưa chắc, anh chỉ quẩn quanh với bốn nhu cầu đói ăn, khát uống, nam nữ và phản vệ thì hết kiếp này, khi tuổi thọ đã mãn rồi anh đi về đâu chỉ có trời mới biết. Nhớ cái đó rất là quan trọng.

Cho nên muốn được lợi ích từ chánh pháp thì mình đừng có như vậy, đừng có là người không có khả năng lắng tai, đừng có là người chỉ biết chạy theo cái mình thích. Nặng lắm, tôi biết thời pháp này tôi nói rất nặng, nặng lắm, tôi xin gọi là chịu trách nhiệm trước bàn dân thiên hạ vì tôi có cách nói không được từ bi lắm nhưng không thể nói khác được. Bởi vì chúng ta là những người bịnh chúng ta phải chích thuốc thôi quý vị, có đâu bây giờ chích mà sợ đau là sao. Vô nước biển là phải đau, chích tĩnh mạch là phải đau. Bịnh thì phải uống thuốc, thuốc thì phải đắng, thuốc mà ngọt thì không có nhiều lắm đâu, đa phần là thuốc đắng. Bởi với tôi đắng ngọt không quan trọng, cái chuyện là mỗi ngày mình uống mấy viên, uống mấy lần. Tôi uống thuốc tiểu đường mỗi ngày tôi uống 2 táp 2 táp vậy đó. Ngán muốn chết luôn vậy đó mà phải uống.

Kinh 89 Cần Phải Ðoạn Tận:

1:30

(còn tiếp)
Reply
Big Grin 
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng KTC 6.86 Chướng Ngại và các Kinh Khác (4-4)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BA%A1i

1:30

04/10/2019 - 03:04 - phongheo.qn8001 - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Kinh 89 Cần Phải Ðoạn Tận:

(V) (89) Cần Phải Ðoạn Tận

1. - Không đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng tri kiến đầy đủ. Thế nào là sáu?
  1. Thân kiến,
  2. nghi,
  3. giới cấm thủ,
  4. tham đưa đến đọa xứ,
  5. sân đưa đến đọa xứ,
  6. si đưa đến đọa xứ.

Không đoạn tận sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, không có
thể chứng tri kiến đầy đủ.


3. Ðoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, có thể chứng tri kiến đầy đủ. Thế nào là sáu?

4. Thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham đưa đến đọa xứ, sân đưa đến đọa xứ, si đưa đến đọa xứ.

Ðoạn tận sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể chứng tri kiến đầy đủ.

Đức Phật dạy rằng một người bị kẹt trong sáu cái trở ngại này thì không thể đắc quả Tu đà hườn được. Tại sao Ngài không nói quả khác mà lại nói quả Tu đà hườn?

Vì tùy căn cơ trình độ của người đối diện. Họ nghe cái đó nó mềm họ thích cách nói như vậy đó. Nó thích hợp bởi có nhiều người họ nghe cái đó không có cái gì hơn được. , Hợp, gần gũi với họ. Ví dụ như có người nói với mình thế này: tui bảo đảm với ông, ông sửa miếng ruộng này thành vườn cam là ông giàu luôn đó. Đó là một cách nói. Cách nói thứ hai, tui bảo đảm với ông cái đám ruộng này thu hoạch không bao nhiêu, đất phèn đất gò này ông sửa nó lại thành vườn cam sống được, tui hứa với ông là sống được. Có người nói ông sửa miếng ruộng thành vườn cam ông giàu, có người nghe họ khoái. Nhưng có người nghe như thế họ thấy xa vời quá. Nhưng họ nghe câu sau họ khoái hơn, tui bảo đảm với ông là sống được. Mà đúng, xưa giờ với cái mảnh ruộng đó vừa đất phèn vừa đất gò, mà lại nhỏ xíu không làm gì đủ sống hết, bây giờ nghe đến chữ sống được thôi là họ thấy hạnh phúc rồi.

Ở đây, nhiều người căn cơ của họ mà quất một phát tới A la hán là họ run lắm, nhưng cứ nói tới đó thôi, thành tựu tri kiến mặc dù người học giáo lý họ hiểu thành tựu tri kiến họ hiểu khác, mình đọc giữa hai hàng chữ lại hiểu khác. Là sao ta?

Bài kinh này thứ nhất Ngài nói không từ bỏ sáu cái này thì không thể nào đắc Tu đà hoàn được. Nhưng cách nói đó còn có cách hiểu thứ hai nữa.

1. Không từ bỏ sáu cái này thì không thể nào đắc Tu đà hoàn được.

2. Bậc Tu đà hoàn là người đã bỏ được sáu cái này.

  1. Câu thứ nhất muốn đắc Tu đà hoàn phải bỏ sáu cái này. 
  2. Bài học thứ hai đã là Tu đà hoàn thì sáu cái này phải được dứt bỏ. Nhớ cái đó.
  3. Bài học thứ ba mình phải hiểu, vấn đề là tại sao Ngài nhắc sáu cái này.
Bởi vì. Cái room này tui thèm một tri âm tri kỷ ở trong đây ghê lắm. Tức là nghe tui nói họ đoán ra được họ ghi nốt tui nói cái gì. Từ ngày tui giảng bằng video thấy mặt kiểu này số người đó chết dần chết mòn hết, tuệt chủng tiệt nọc hết. Lẽ ra cái này là phải có người ghi nốt hết mà tại sao bây giờ tìm em như thể tìm chim, chim bay biển bắc tôi tìm biển đông, tôi tìm không có ra, người đó chết hết rồi uổng ghê, phải có người như thế.

Điều tôi nói, tại sao sáu cái này được Đức Phật nhắc ở đây là nhiều lý do.

• Không bỏ sáu cái này thì không thể đắc Tu đà hoàn

• Vị Tu đà hoàn phải dứt trừ sáu cái này

• Sáu cái này là đặc điểm của phàm phu. Là sao, là nét đặc trưng là cái (tiếng anh).

1. Thân kiến: chấp thân này là của tui, buồn vui thiện ác này là của tui, nhân quả này là của tui, khổ lạc này là của tui, danh lợi nhan sắc học vị tình cảm này là của tui. Đến lúc học đạo rôi thì giới hạnh này là của tui, thiền định này là của tui, giáo lý này là của tui, công đức này là của tui, phước lành này là của tui, ba la mật này là của tui, trí tuệ chánh niệm thiền định này là của tui. Đây gọi là thân kiến, chấp năm uẩn là ra là của ta. Ở ngoài đời chấp kiểu ngoài đời, vào đạo chấp kiểu trong đạo.

Chấp năm uẩn này là của tôi: có một thằng tôi năm uẩn thiện ác, có một thằng tôi sướng khổ, có một thằng tôi đang tu tập chánh niệm, có một thằng tôi đang có trí tuệ, có hiểu biết giáo lý. Ngày nào cũng thấy như vậy đó là thân kiến


13/10/2019 - 08:27 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

1:34:35

2. Hoài nghi: Cái này Thân kiến với Hoài nghi là một cặp, nó giống như là Tàm Úy, giống như Dục Ái và Sân. Thì cái Thân kiến với Hoài nghi nó là một cặp. Hoài nghi là cái gì? Khi mà mình thấy thân này là của mình, mình thấy thiện ác buồn vui này là của mình, thì mình nghĩ về ba đời sanh tử theo một cách hiểu, theo một cách nghĩ mà trong kinh Đức Phật gọi là vicikicchā có nghĩa là nghi hoặc.

Nghi hoặc ở đây là sao? Là thắc mắc, hoang mang những cái điều liên hệ đến thân kiến. Thí dụ như: Kiếp xưa tôi là ai? Từ đâu tôi tới đây? Tôi sẽ đi về đâu? Tôi là ai giữa cuộc đời này? Tôi từ đâu tới? Tôi sẽ đi về đâu? Cái thắc mắc đó gắn liền với cái TÔI đó thì cái thắc mắc đó được gọi là hoài nghi. Rồi từ đó nó mới dẫn tới cái chuyện, không biết đạo thì chúng ta chỉ thắc mắc tới đó thôi, còn nếu chúng ta biết Phật Pháp lai rai chúng ta bắt đầu xoay qua thêm cái nữa chuyên môn hơn: Phật có thiệt không ta? Phật có đúng là người đã giải thoát không? Cái người mà đúng như trong kinh giải thích có thiệt không hay là do mấy ông chép kinh bịa ra? Còn giáo pháp thấy ngộ quá không biết kinh điển có phải đúng là lời Phật hay không? Đó có phải là con đường giải thoát hay không? Khi mà hoài nghi về Phật, về Pháp thì Tăng mình đâu có tha, mình làm luôn. Khi mà mình không có niềm tin nơi Phật, nơi Pháp, mình nghĩ trên đời này Tăng là gì? Chắc là mấy ông, mình hiểu theo kiểu của mình, mấy ông thầy chùa kiểu giá áo túi cơm hoặc mấy ông thất tình, sa cơ, lỡ vận rồi nương gá cửa thiền, rồi ăn mày ăn lộc Phật vậy đó. Đại khái là mình ngồi mình nghĩ rất là bệnh hoạn về cái gọi là Tăng bảo.

Khi mình hoang mang, nghi hoặc về bản thân mình, về 3 đời sanh tử, về Tam bảo, về đường lối tu hành như vậy đó thì được gọi là Hoài nghi.

3. Giới cấm thủ: Khi mà chúng ta có thân kiến, có hoài nghi thì nó lòi ra cái thứ ba là giới cấm thủ. Giới cấm thủ có nghĩa là mình chấp nhận một đường lối hành trì mà nó không hướng tới cứu cánh Niết bàn và nó cũng không đúng với tinh thần của Bát Chánh Đạo, tức là không hướng đến diệt đế và cũng không đúng với đạo đế. Chúng ta dễ dàng chấp nhận những cái kiểu pháp môn hành trì mà tào lao. Thí dụ như tự nhiên đốt một ngọn lửa rồi sợ nó tắt giữ nó cho nó cháy hoài gọi là trường minh đăng, thí dụ như vậy. Cứ chăm dầu vô hoài vậy đó rồi bao nhiêu tiền bạc là mua bơ, mua dầu, mua bao nhiêu nhiên liệu về để đó thờ ngọn lửa rồi giữ ngọn lửa cho nó cháy hoài từ đời này sang đời khác. Nó mà tắt một cái coi như là chỉ có lấy chết mà đền bù, gớm như vậy. Rồi có người theo đạo thờ con bò, con chó, con heo. Rồi có đạo đi thờ cái đấng cao siêu huyền nhiệm nào ở trên cõi cao xanh xa lắc, xa lơ bắn tám lần hỏa tiễn lên hỏng tới. Có người thì thờ mẫu, thờ mẹ, thờ sông núi, ghềnh thác, thờ lạy các hiện tượng thiên nhiên, sấm sét, mặt trời, mặt trăng v v… Rồi từ đó mới nghĩ ra những cái pháp môn quái đản, ăn kiêng một cách quái đản thiếu thông minh. Rồi cách bái lạy, tụng niệm, cầu khấn cũng quái gở không giống ai, không có nền tảng trí tuệ. Thì cái đó được gọi là giới cấm thủ, tức là hành trì mơ hồ hỏng biết vì sao mình phải làm như vậy. Và cái lợi ích rốt ráo mà phương pháp này dẫn tới thật ra nó là cái gì chính mình cũng mơ hồ nữa. Đấy! Đó gọi là giới cấm thủ.

4.5.6. Rồi tới 3 cái tiếp theo là tham dẫn đến đọa xứ, sân dẫn đến đọa xứ và si dẫn đến đọa xứ.

Tham dẫn đến đọa xứ là sao? Bởi vì tham nó có hai. Phiền não nó có hai loại, 
  1. loại một gọi là apāyagamanīya là đủ mạnh để dẫn đến sa đọa
  2. và loại hai là anapāyagamanīya là không đủ dẫn đến sa đọa.
Đủ mạnh để dẫn đến sa đọa là sao? Có nghĩa là tham, sân, si đủ để cho mình vi phạm 5 giới và mắc vào 62 thứ tà kiến (trong kinh Phạm võng Trường bộ). Thì cái đó được gọi là apāyagamanīya.

tại sao chỉ nhắc tới 5 giới là sao? Trong khi cái ác, cái tội lỗi trên đời này thiếu gì mà tại sao chỉ nhắc có 5 giới. Dạ thưa, đừng coi thường 5 giới đó. Khi mà anh giữ được 5 giới này thì cơ hội để trở thành cái người ác ôn, cái người không có tin cậy được sẽ không còn nữa. Thí dụ:

1/ Đầu tiên là anh không có thể sát sanh nữa, cái lòng của anh không đủ để giết con muỗi, con ruồi nữa, đừng nói chi cái loài lớn hơn. Thì cái chuyện đầu tiên là anh thấy một con người mà không có khả năng sát sanh là anh thấy đáng nể rồi.

2/ Cái thứ hai, không có ý sang đoạt tài sản sở hữu của người khác dầu ít hay nhiều, dầu ít hay nhiều nha, công khai hay lén lút. Người không thể làm cái chuyện đó là mình thấy nhân cách người đó kinh dị lắm. Thứ nhất, người đó không có đủ nhẫn tâm để giết ruồi, muỗi, kiến, bọ là thấy đặc biệt rồi. Thứ hai, người đó không có đủ điều kiện tâm lý để mà chiếm hữu một thứ vật chất chưa được cho phép, chưa được chủ đồng ý. Mình gần con người như vậy thì mình thấy yên tâm dữ lắm.

3/ Cái thứ ba là vị đó không có những quan hệ tình dục ngoài luồng có nghĩa là chỉ đến với người mà xã hội cho phép, xã hội ok, chứ không đến những đối tượng mà xã hội, pháp luật lên án, vi phạm đạo đức loài người.

4/ Cái thứ tư là cái người không có đủ điều kiện tâm lý để nói dối, có nghĩa là thà đem ra bắn một cái "bùm" vô đầu nó chứ còn nó không có nói dóc được.

5/ Và cái thứ năm là không sử dụng các thứ chất kích thích gây say, gây nghiện làm ảnh hưởng đến nhân tính, khả năng tỉnh thức, tỉnh táo của một con người như là xì ke, ma túy, các chất gây nghiện, các chất kích thích, các chất thuốc lắc mà làm cho mình mất đi khả năng tự chủ về tinh thần.

Thì như vậy các vị thấy 5 giới nó rất là thường, nhưng mà không, không có thường đâu.

Năm giới
  1. là nền tảng nhân cách của một con người,
  2. nó là nền tảng đạo đức của một con người,
  3. và trên hết 5 giới nó là đặc điểm characteristic của nhân thiên so với con thú.
Nha, so với con thú thì đây là 5 cái đặc điểm của nhân thiên. Đấy! Đừng có coi thường.

Cũng giống như giới luật tỳ kheo là 227 giới mà trong kinh ghi rất rõ, 227 nhưng một tỳ kheo mà giữ được 17 thôi tức là 4 đại trọng giới và 13 trọng giới thì cũng có thể kể là trong sạch. Thậm chí một vị tỳ kheo trong 227 giới chỉ giữ được 4 cái đại trọng giới mà lớn nhất thì cũng xứng đáng để thiên hạ quì mọp dưới chân thờ cúng như ông cố nội, quì mọp dưới chân thờ kính như ông cố nội. Mình nghe nó rất là thường như mà thật ra 4 điều đó là 4 điều rất đỗi căn bản trong đạo đức, trong cõi tâm thức, tâm linh của một người tu:

1/ Điều thứ nhất là không có đủ điều kiện tâm lý để sát nhân, dầu xúi dục người ta phá thai, gợi ý cho người ta tự tử thì theo trong luật vẫn kể là tội sát nhân, đừng có nói chi là trực tiếp ra tay.

2/ Cái thứ hai là quan hệ tình dục nam nữ dầu với người đồng giới hay người khác phái, dầu với người hay là với thú thì mắc vào đó cũng là mắc đại trọng giới.

3/ Cái thứ ba là vị đó không có khả năng sang đoạt, chiếm hữu công khai hoặc lén lút, trực tiếp hay gián tiếp một thứ vật chất hay tài sản nào mà chưa được chủ nhân cho phép.

4/ Cái thứ tư là mạo nhận hiền thánh bằng cách trực tiếp hay gián tiếp cố ý hướng dẫn sai lạc nhận thức và niềm tin của người khác để cho người ta nghĩ mình là một người đã đắc thiền, đắc đạo.

Tổng cộng 4 điều,
  1. một là sát nhân, 
  2. hai là tính giao, 
  3. ba là trộm đạo và
  4. bốn là mạo nhận iền thánh.
Nghe nó rất là bình thường nhưng phải nói trong đó, trong 227 giới tỳ kheo, đây là điều không dễ hành trì đâu, không dễ đâu. Và nếu một vị tỳ kheo phạm tanh bành té bẹ hết, phạm nát như tương tàu, nhưng nếu giữ được 4 cái này vẫn đáng cho thiên hạ quì lạy dưới chân như là ông cố nội.

Thì ở đây 5 giới cũng vậy. Còn 62 tà kiến là cái gì? Hồi nãy tôi có nói:

Người không có giới giống như người què không có chân để đi.

Người không có kiến thức giáo lý giống như người mù, không biết đường mà hành trì.

Nhưng mà thê thảm nhất là người tà kiến. Người tà kiến giống như người mất trí. Mù khác, mất trí khác, không biết trong room có phân biệt cái mù với cái mất trí không ta? Mù là nó đui, nó không có thấy đường, nha. Còn mất trí là nó tửng tửng nó hỏng biết cái gì hết. Cái room gì đâu mà giải thích từng chữ mệt quá đi.

Như vậy thì gọi là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ giải thích rồi. Còn 3 cái sau là tham, sân, si. Ba với ba là sáu.

Tham, sân, si ở đây có tên gọi đặc biệt là cái tham, sân, si mà "có thể dẫn đến sa đọa" chứ không phải tham, sân, si bình thường. Vì sao? Vì trong A tỳ đàm, trong Tam tạng nói chung ghi rõ vị Tu Đà Huờn, Tư đà Hàm và A La Hán (A Na Hàm ?) vẫn còn phiền não nhưng cái phiền não của bậc Thánh thấp không đủ để dẫn tới sa đọa: anapāyagamanīya kilesa, có nghĩa là phiền não không đủ dẫn đến cõi sa đọa. Không đủ dẫn tới, vì sao? Vì phiền não tham, sân, si của họ, thí dụ cái tham của họ đi, họ thấy trăng thanh gió mát họ có thích một chút, họ thấy ghềnh bãi nắng sớm mưa chiều họ thích một chút rồi thôi, nhưng mà đó là 2 tầng Thánh thấp.

Chứ lên tới tầng Tam quả là không còn thích cái gì liên hệ tới 5 trần nữa, họ thích thiền định thôi, mỗi lần nhập vô nó nhẹ nhàng, nó đã, nó sướng, họ chỉ thích cái đó thôi. Chứ còn cái gì mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, sắc, thinh, khí, vị, xúc là họ không màng tới nữa. Đó là hàng tam quả.

Còn hai cái hạng đầu tiên là họ cũng có thể nhẹ nhẹ, trời đang nóng tự nhiên có gió mát đi ngang họ cũng cảm thấy thích, có ai quạt dùm họ thấy thích, mỏi lưng mà được ngả lưng lên cái chỗ nó êm, nó ấm, nó mềm họ cũng có thích, nhưng mà rất là nhẹ. Chứ còn cái tham cái sân của họ, cái thích cái ghét của họ không đủ để hại mình, hại người mà đặc biệt là không có khả năng vi phạm 5 giới.

Cho nên khi đắc Tu Đà Huờn rồi thì 5 giới là điều cố nhiên, tự nhiên, đương nhiên, mặc nhiên, dĩ nhiên và tất nhiên.

Còn đắc Tam quả A Na Hàm rồi thì bát giới là đương nhiên, cố nhiên, dĩ nhiên, mặc nhiên và tất nhiên. Vì sao? Vì đã đắc A Na Hàm rồi họ không còn dục ái nữa, họ không còn dục ái nữa thì họ lấy cái gì mà họ phạm bát giới đây? Tu Đà Huờn là không phạm 5 giới nhưng mà vẫn có thể có con, có chồng, có vợ được. Nhưng mà A Na Hàm thì chịu chết là bởi vì A Na Hàm dứt khoát 5 giới đầu tiên là họ không phạm rồi.

Còn 3 cái giới sau là:

6/ Không ăn phi thời là bởi vì họ chỉ ăn đúng cái nhu cầu cơ thể một lần trong một ngày, họ thấy rằng họ không có thời gian để họ rửa cái chén, họ không có thời gian để họ nhai, họ nuốt bất cứ cái gì sau cái giờ đã định và đặc biệt là họ không có thích thú nữa.

Mình ăn nhiều khi không phải đói mà vì mình thích cái món đó nó đã quá mình nhịn hỏng nổi. Còn cái vị A Na Hàm họ không còn thích nữa và họ hiểu rất rõ khi hỏng thích thì lấy cái lý do gì mà mình dọng vô họng, vô mồm, vô cái mỏ của mình? Đó là không ăn sái giờ.

7/ Rồi không có thưởng thức ca, vũ, nhạc, kịch. Họ không còn dục ái thì họ lấy điều kiện tâm lý nào để mà họ thưởng thức mấy cái này? Và họ cũng không sử dụng các loại hương liệu, mỹ phẩm, trang sức.

8/ Không sử dụng các thứ giường cao, chiếu rộng, sang trọng, đắt tiền, lộng lẫy, kiêu sa, chảnh chọe. Họ không có điều kiện tâm lý để họ dùng nữa.

Cho nên Tu Đà Huờn là đương nhiên có 5 giới ngay khi chứng quả Tu Đà Huờn. Còn bát giới là điều bắt buộc của một vị Tam quả, đắc A Na Hàm rồi thì họ không còn khả năng vi phạm bát giới nữa. Nhớ nha.

Đó! Cho nên mình vừa học xong mà bây giờ cái giờ nó cũng vừa khít, thêm một kinh nữa thì cũng không có đủ. Chúc các vị một ngày vui. Hôm nay là ngày thứ hai thì chúng ta sẽ có thứ ba, thứ tư, thứ năm. Có nghĩa là tuần này chúng ta vẫn tiếp tục đủ 4 bài giảng.

Mục lục các bài giảng

(Hết)
Reply
Nhất Xiển Đề Là Gì ?

(Phật Giáo Bắc Tông có quan niệm Nhất Xiển Đề .  Phật Giáo Nam Tông không có quan niệm này .)

https://phatgiao.org.vn/tu-dien-phat-hoc.../p3?keys=x


Ý nghĩa của từ Nhất-xiển-đề theo Tự điển Phật học như sau:

Nhất-xiển-đề có nghĩa là:

一闡提; C: yīchăntí; J: issendai; S: icchantika.

Dịch âm từ tiếng Phạn »icchantika«; cũng được dịch ý là »Đoạn thiện căn« (斷善根), là người phá bỏ mọi căn lành của mình, hoặc Tín bất cụ túc (信不具足), là người không có đủ niềm tin vào Phật pháp. Người đã tiệt đoạn những căn lành và vì vậy, khó được cứu độ. Dù họ có tu tập tinh cần đến mức nào, họ cung không thể nào đạt giải thoát.

Thuật ngữ »icchan« nguyên đề cập đến người thường có tâm trạng ham muốn dục lạc. Ở Ấn Độ, từ nầy đề cập đến những người theo chủ nghĩa hưởng lạc hoặc là những kẻ ham muốn đời sống thế tục. Trong Phật pháp, từ nầy nói đến những người thiếu những nhân duyên tu tập căn bản để thành Phật. Giáo lí này do Du-già hành tông chủ trương. Các tông phái Phật giáo khác như Thiên Thai, Hoa Nghiêm phản bác thuyết này, cho rằng tất cả mọi chúng sinh đều có thể thành Phật. Thuyết nầy trở thành đầu mối của những cuộc tranh luận trong giới Phật học Á Đông sau này, được thảo luận rất kĩ trong tác phẩm Phật tính luận (佛性論).

Trên đây là ý nghĩa của từ Nhất-xiển-đề trong hệ thống Tự điển Phật học online do Cổng Thông tin Phật giáo Việt Nam cung cấp. 
Reply
Bác abc,

Trong bài KTC.6.86 Chướng Ngại
 
https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BA%A1i

gần đoạn cuối (1:48:01 - 1:48:10) Sư Toại Khanh giảng:

"Vì trong A tỳ đàm, trong Tam tạng nói chung ghi rõ vị Tu Đà Huờn, Tư đà Hàm và A La Hán vẫn còn phiền não."

Có thể là Sư muốn nói quả vị A Na Hàm nhưng nói lộn ra A La Hán? (Vì sau đó, Sư giảng thêm tại sao vị A Na Hàm có thể giữ 8 giới rất trong sạch.)

Bác nghĩ sao?

LTP
Reply
Sư Toại Khanh Giảng KTC 6.92 Bậc Đạo Sư (1-1)


KTC.6.92 Bậc Ðạo Sư

(VIII) (92) Bậc Ðạo Sư (post # 291, p 20)


1. - Này các Tỷ-kheo, có sáu trường hợp không thể xảy ra. Thế nào là sáu?

  1. Người đầy đủ tri kiến không thể sống không tôn kính, không tùy thuận bậc Đạo Sư; 
  2. người đầy đủ tri kiến không thể sống không tôn kính, không tùy thuận chánh pháp; 
  3. người đầy đủ tri kiến không thể sống không tôn kính, không tùy thuận chúng Tăng; 
  4. người đầy đủ tri kiến không thể sống không tôn kính, không tùy thuận học pháp; 
  5. người đầy đủ tri kiến không thể rơi trở lại vào những vấn đề không nên trở lại; 
  6. người đầy đủ tri kiến không thể làm cho sanh khởi hữu thứ tám.

Này các Tỷ-kheo, đây là sáu trường hợp không thể xảy ra.

Người đầy đủ tri kiến là vị Tu Đà Hườn .

--ooOoo--

25/08/2019 - 07:29 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Thưa quí vị hôm nay có cái chuyện vầy, là chúng ta lại tiếp tục chạm vào cái ổ kiến lửa nữa. Ổ kiến lửa đây có nghĩa là chúng ta đang, nói theo lời của một số người, chúng tôi đang chạm tay và chạm cái bàn tay phàm tục vào lâu đài tôn nghiêm của cái bản dịch tiếng Việt kinh tạng. Nhưng mà chúng ta không thể nào không chạm tay khi ở đây có một số vấn đề mà tôi cho là rất là quan trọng.

Trước hết mình gợi ý bà con một chuyện thôi, đó là bà con thấy hai cái chữ này nó khác hay là giống nhau: Nibbida và Nibbana? Vậy đó mà trong bản dịch tiếng Việt đã có một cái nhầm lẫn này. Cũng giống như không ít học giả Việt nam và những người Việt nam nghiên cứu Phật học, thì họ đã nhầm lẫn hai cái tên này, đó là Nagasena và Nagarjuna, một cái là Na Tiên, một cái là Long Thọ. Mà rất là nhiều người Việt Nam đã nhầm lẫn hai cái tên này: Nagasena và Nagarjuna. Cho nên đó là cái chuyện mà chúng ta có thể nói rằng là nếu đọc những văn bản ngoại ngữ thì hầu như là không thấy, nếu có là một tí ti hiếm hoi nào đó thôi. OK.

Bây giờ mình trở lại cái bài kinh của hôm nay, gọi là bài kinh Bậc đạo sư, có 6 chuyện này không thể xảy ra. Và tôi cũng nói rõ là kể từ cái bài kinh 92 này trở về sau, trong suốt hai phẩm liên tục, chúng tôi sẽ đưa cái nội dung này vào ở trong cái quyển Thiền Môn Nhật Tụng Kalama, bởi vì đây là cái cốt lõi, cái tinh hoa của Phật Pháp mà được gom gọn lại trong một chỗ. Kinh nào cũng là châu ngọc, kinh nào cũng là tinh hoa Phật Pháp nhưng có một điều là tập trung nhiều vấn đề lớn như thế này ở một nơi như thế này thì rất là đáng để chúng ta lưu ý quan tâm.

Ở đây, chúng ta thấy bài kinh 92 có nói đến 6 cái chuyện mà không thể xảy ra:

1. Người đầy đủ tri kiến không thể nào mà không tôn kính bậc đạo sư, không tôn kính Đức Phật một cách đúng mức.

Người đầy đủ tri kiến ở đây là ai? Là vị Tu đà huờn, vị sơ quả đó.

Tôi đã nói rất là nhiều lần, đó là chúng ta có thể đi chùa có pháp danh, có thọ giới qui y, chúng ta có cái áo lam, chúng ta có cái giới điệp, giấy chứng nhận qui y v v..., nhưng mà để gọi là Phật Tử thì rất khó. Và tôi đã nói cứ 100 người Phật Tử Việt nam thì đối với tôi chỉ có một người là Phật Tử thôi. 

Là vì sao? 

Có 3 điều mà chúng ta có thể thấy là chúng ta không thể tự nhận là Phật Tử.
 
Thứ nhứt, chúng ta đến với Phật Pháp vì cái lý do nào? Đến để mà cầu cái đạo giải thoát vì chán sợ sanh tử trầm luân, không còn muốn tiếp tục lăn trôi 3 cõi 6 đường nữa, thì cái đó mới gọi là lý tưởng đúng đắn. Còn nếu mà đến chùa chỉ vì những lý do như là để cầu phúc, để cầu an, cầu siêu, đi chùa là vì bạn bè rủ rê, đi lâu ngày thành quen, vắng chùa thì nhớ, thí dụ như vậy, đi chùa thì vui, vắng chùa thì nhớ. Lâu ngày có một lúc nào đó mình cứ tưởng mình là Phật tử mà trong khi đó cái lý tưởng thật sự của một người tu Phật, học Phật thì mình hỏng có. Có nghĩa là mình chưa có thật sự chán sợ sanh tử, mình không thấy được 4 sự thật mà tôi nói hoài đó, nghĩa là:

1/ Không thấy mọi sự ở đời là khổ.
2/ Không thấy rằng mình thích cái gì cũng là thích trong khổ, thích trong khổ có nghĩa là đầu tư trong khổ.
3/ Muốn hết khổ thì không có thích trong khổ, tức là không có thích cái gì nữa hết.
4/ Và sống trong 3 nhận thức đó chính là con đường thoát khổ.

Khi mà mình không có những nhận thức cơ bản này thì mình lấy cái gì để mà mình đi chùa đây? Thì chỉ lọt vô mấy trường hợp mà tôi vừa nêu: 
  1. Một, đi vì ai đó rủ rê, đi riết lâu ngày nó thành quen, vắng chùa thì nhớ, đến chùa thì nó vui. 
  2. Trường hợp thứ hai là đến chùa để cầu phúc, thí dụ như rằm, ngươn, sóc vọng, mình tới cũng cầu nguyện, có những cái chùa họ cho mình rút xăm, rồi cúng sao giải hạn. 
  3. Hoặc là mình đi chùa lúc đầu chỉ vì lý do nào đó, thí dụ như để gởi hủ cốt hay là theo bạn đến chùa nhưng mà tới lúc mình gặp tăng ni mình tiếp xúc mình thấy mình thích, suy nghĩ họ hợp với mình, thế là từ đó về sau cứ rảnh rảnh buồn buồn chạy lên chùa, lâu ngày mình tưởng mình là Phật tử.
Thì khi mà chúng ta đến với Phật Pháp bằng cái kiểu như vậy thì chưa được gọi là tôn kính bậc đạo sư một cách đúng mức. Vì sao?

Tôi đã nói không biết là bao nhiêu lần, từ bé cho tới năm 50 tuổi mình xa mẹ mình, không có một kỷ niệm nào về mẹ, mình cũng chẳng biết gì về mẹ. Chẳng biết đã đành mà cũng không có một kỷ niệm nào về mẹ, trong 50 năm mình tưởng mình là cô nhi. Thì tự nhiên ngày kia, có người họ đẩy cho mình một bà cụ nào đó, nói đó là má mình đó, má ruột mình đó. Các vị nghĩ làm sao? Thì ok, các vị là những người ăn học, những người có tiền, những người có đầu óc, những người của thế kỷ hôm nay, thì chắc chắn các vị có nhiều cách để thử DNA, ABN, thử xem đây phải má mình hôn. Được, hôm nay khoa học làm chuyện đó được, đi sao lục giấy tờ, hồ sơ, bản thảo này nọ, tìm kiếm nhân chứng, vật chứng gì đó, cuối cùng thì có thể xác định đó là mẹ của mình. Nhưng, kêu mà thương thì có lẽ cũng hơi khó, tại vì 50 tuổi mình cũng đâu có còn nhỏ nữa, rồi tự nhiên chấp nhận một cái bà lạ hoắc làm má khó lắm, rất là khó.

Ở đây cũng vậy, mình không hiểu gì về Phật hết thì làm sao mà mình có thể thương kính Đức Phật như là một người mà học hiểu giáo lý, khó lắm quí vị, thờ Phật như kiểu thờ thần vậy. 

Trong khi đó vị Tu đà huờn lại khác, cái người đầy đủ tri kiến là chỉ cho vị Tu đà huờn, tầng thánh đầu tiên, người ta hiểu rất rõ, lát nữa mình sẽ học tới cái phần đó, hiểu rất rõ là kể từ bây dòng sanh tử của mình đã bị chận đứng, mình chỉ còn tái sanh nhiều lắm là vài kiếp nữa thôi, chắc chắn là mình phải chấm dứt sanh tử luân hồi. Nghĩ tới cái chỗ đó, nghĩ tới cái nổi khổ trong 3 cõi 6 đường, ngũ thú lục đạo, lúc đó họ mới thấy cái ơn của Phật đối với họ lớn cỡ nào, nhờ con người ấy mà mình bây giờ mình không còn sợ hãi trong cái chuyện sa đọa, không có sợ hãi trong cái chuyện sanh tử trầm luân nữa. Ơn đó không có bút mực, trời biển nào mà tả hết, không bút mực nào ghi cho hết, không có trời biển nào chứa cho hết, không có không gian nào có thể sánh được cái lòng tri ơn vô bờ vô hạn ấy. Mình phải hiểu tới nơi tới chốn như vậy đó, vị Tu đà huờn là người hiểu tới nơi tới chốn và họ tin Phật còn một điều nữa là Tu đà huờn thành tựu 4 dự lưu phần.

Bốn dự lưu phần là gì? Ba cái đầu là niềm tin bất động nơi Tam bảo, bất động, bất thối, có nghĩa là trời có thể sập xuống, thân xác của họ có thể tan nát thành tro bụi, nhưng mà niềm tin của họ đối với Phật Pháp Tăng(Thánh Tăng) không thay đổi, không thay đổi được, đó là 3 dự lưu phần đầu tiên. Cái dự lưu phần cuối cùng là giới nào mà họ đã nhận, thì họ không có cách nào họ phạm được dầu là phải chết .  Vị Tu đà huờn dầu là chết không bao giờ phạm giới mình đã nhận. Thí dụ như họ nhận giữ ngũ giới, hoặc là bát giới, hoặc là thập giới, sa di giới, tỳ kheo giới, một khi họ đã nhận rồi thì họ không có cách chi mà phạm những giới mà mình đã thọ hết. Chính vì cái lẽ đó cho nên vị Tu đà huờn đối với Đức Phật bằng niềm kính tin tuyệt đối.


25/08/2019 - 08:10 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

1/ Vị Tu đà huờn đối với Đức Phật bằng niềm kính tin tuyệt đối do thấy Tứ Diệu Đế, không tái sinh kiếp thứ 8.

Còn mình thì sao? Mình không có hiểu nhiều về Phật, mình đến với Phật bằng một lý tưởng, một ý nghĩa, một lý do rất là mơ hồ; cho nên cái chuyện mà mình bỏ Phật để theo ông tư, bà tám, nước lạnh, nước sôi rất là dễ, dễ ẹc hà. Tại vì mình có hiểu Phật Pháp cái gì đâu, mình đến với Phật Pháp quá dễ dàng, quá đơn giản, không có cần tìm hiểu, học hỏi, nghiên cứu, thẩm tra, suy tư, tư duy gì hết. Cứ xáp vô là có cái áo tràng, cứ xáp vô là có cái pháp danh, quăng tiền ra cúng ba mớ là đương nhiên được mọi người gọi là Phật tử. Cái kiểu Phật tử đó, cái người như vậy đó, thờ Phật kiểu đó, tin Phật kiểu đó thì xa Phật trong vòng ba giây là xa Phật ngay. Bất mãn ai đó là cũng bỏ chùa, bị ai đó quyến rủ cũng bỏ chùa, bỏ Phật mà đi.

Còn vị Tu đà huờn thì không, vị Tu đà huờn thành tựu niềm tin nơi Đức Phật bằng trí tuệ giác ngộ, họ thấy rồi họ mới tin. Họ thấy cái gì? Họ thấy được những điều mà phàm phu không có thấy . Đó là họ thấy rằng, họ thấy chắc chắn rằng 
  1. mọi sự ở đời là khổ, mọi hiện hữu là khổ trong bất cứ hình thức nào, nhân thiên hay cõi đọa đều là khổ, nụ cười hay nước mắt đều là khổ. 
  2. Thứ hai nữa là họ thấy thích cái gì cũng là thích trong khổ. 
  3. Muốn hết khổ thì phải hết thích. 
  4. Và sống trong 3 nhận thức ấy chính là con đường thoát khổ. 
Và chính Đức Phật là người đã ban cho mình nhận thức này. Họ chỉ nghĩ tới đó là có thể chết vì Ngài mặc dù Ngài hỏng có cần, Ngài hỏng có cần ai chết cho Ngài. Nhưng mà cách nói về tấm lòng của vị Tu đà huờn chết 3 ngàn lần cho Phật họ vẫn vui vẻ, tự nguyện, không có thắc mắc, không có do dự, không có phân vân, không có toan tính.

Thì thế nào trong room này cũng có những người sợ kinh như sợ ma, không có dám đọc, đã ngu, đã dốt mà lười, mà cứ nghe ai nói cái gì nó khác với cái ngu của mình là bắt đầu vùng lên, nông dân nổi dậy, anh hùng áo vải, chống đối tùm lum, nha. Thì cái điều nào, kinh nào nói là Tu đà huờn không có tiếc mạng cho Đức Phật, kinh nào? Kinh Bhaddali Trung bộ 65 (post #247, p 17) nói như vậy đó. Đó là một vị Tu đà huờn khi đã hiểu pháp, liễu đạo cỡ cái tầm của Tu đà huờn thôi, không có cần cao hơn, cỡ Tu đà huờn thì có phải chết cho Thế Tôn họ cũng nhăn răng ra họ cười một cách tự nguyện, hoàn toàn vui vẻ, không có phân vân, hoang mang, nghi hoặc, toan tính, âu lo.

Còn mình mình nói tùm lum, vậy chứ bây giờ thử cái mạng mình đổi Phật Pháp mình đổi hôn? Đâu có đổi, ngu gì đổi, phải sống, sống u mê, sống ô nhục, sống đau khổ, sống sợ hãi, sống tăm tối, sống mơ hồ, mờ ám, sống không rõ mình sẽ đi về đâu, cũng phải giữ cái mạng cùi này để mà sống. Vị Tu đà huờn thì không, nếu cần thì phải chết cho Tam bảo là phải chết một cách ngon lành.

Cho nên ở đây, người thành tựu tri kiến đó là vị Tu đà huờn, thành tựu được lòng tôn kính tuyệt đối và đúng mức đối với bậc đạo sư, tức là đối với Phật bảo.

12:48
26/08/2019 - 07:22 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

2/ Vị Tu đà huờn đối với Pháp Bảo bằng niềm kính tin tuyệt đối qua Văn Tư Tu, không qua tin đồn, tình cảm, hay vì dụ dỗ .

2. Khi mà họ đã tin Phật bảo mà tới nơi tới chốn như vậy đó, thì họ đương nhiên, cố nhiên, dĩ nhiên và tất nhiên họ cũng thờ kính Pháp bảo, tức là lời dạy của Phật, họ thờ kính trong lòng họ thôi, nhưng mà mình có thể mình thấy, theo trong tạng kinh, biểu hiện là gì?

Biểu hiện lòng tôn kính pháp là gì? Họ 
  1. nghe pháp một cách tôn kính, nghe pháp một cách cẩn thận, 
  2. suy tư một cách cẩn thận, 
  3. thực hành một cách cẩn thận, 
chính là lòng tôn kính pháp. Mình nói vậy thôi, chứ còn nghe thì hỏng chịu hiểu mà cứ nghe cái châm bẩm hà. Mình nghe đúng ra thời này nè, nói ra quí vị nổi điên quí vị cắn phá tùm lum, chứ đúng ra thời này mình hỏng nghe pháp mà mình nghe người. Có nghĩa là mình đánh giá thời pháp thông qua cái con người đó, con người đó mình thấy ok thì mình tin, dĩ nhiên tôi cũng đồng ý với quí vị chuyện đó nhưng mà đừng có nên lấy đó làm thước đo tuyệt đối, lỡ xui gặp cái ông nào mình ghét hoặc là thị phi cái gì đó là mình dội ra, như vậy là hỏng được. 

Niềm tin thật sự đối với Tam bảo là phải thuần túy xuất phát từ lòng kính tin nơi Pháp bảo trước cái đã, chấp nhận Pháp bảo không có nghĩ ngợi gì xa hơn hết. 

Còn đằng này coi như là mình đến với Phật Pháp toàn là bằng tình cảm, toàn là bằng tin đồn, toàn là bằng thị phi, các vị nghĩ sao với cái đầu đó, với cái não trạng đó mà quí vị lọt vô cái mê trận quảng cáo là chết, các vị hiểu không? Hiểu không? Làm ơn khôn dùm một chút, nha. Quí vị tưởng tượng, nếu mà cái não trạng sao tối ngày ăn rồi mà gục đầu cắm mặt vô trong thị phi, mà mai này mà lo vô trong cái bẫy của quảng cáo thì các vị nghĩ, quí vị đi theo ai? Các vị biết bao nhiêu người Việt Nam ở hải ngoại cắm đầu vô cái mê trận quí vị chết. Nó kiếm một cái resort cho thiệt sang, một vị thầy nói vài ba thứ tiếng cộng với vài ba assistants mấy cái người trợ lý cho ngon lành, đẹp trai, đẹp gái, trí thức, mặt mũi sáng sủa, một cái resort bao ăn, bao ở, xe cộ đưa đón tới nơi tận phi trường, thức ăn, thức uống, chỗ ngủ, chỗ nghĩ tuyệt hảo, vô đó nghe những bài giảng mà họ đã sắp xếp rồi.


3/ Vị Tu đà huờn đối với Tăng Bảo bằng niềm kính tin tuyệt đối vì chư Thánh Tăng là hình bóng của Thế Tôn, của Chánh Pháp .

3. Mà khi mà có niềm kính tin nơi Phật Bảo, kính tin nơi Giáo Pháp thì đương nhiên kính tin nơi Chư Thánh Tăng. Bởi vì Thánh Tăng chính là mặt nước phản chiếu ánh trăng Chánh Pháp, ánh trăng Phật Đà. Nghĩa là nhìn Tăng chúng Thánh nhân mà thấy qua đó cái bóng dáng Thế Tôn, thấy qua đó bóng dáng của Chánh Pháp. Thì cái người mà như vậy đủ được gọi là cái mặt hồ, mặt gương phản chiếu bóng dáng, ánh sáng của Chánh Pháp, của Phật. Vị Tu đà huờn là đương nhiên, sau khi mà tôn kính Đạo Sư đúng mức, tôn kính Chánh Pháp đúng mức thì đương nhiên, cố nhiên cũng tôn kính Tăng chúng.

4/ Vị Tu đà huờn đối với con đường hành trì bằng niềm kính tin tuyệt đối qua Giới Định Tuệ.

4. Và với một người tôn kính Tăng chúng, tôn kính Tam bảo như vậy thì họ cũng tôn kính con đường hành trì. 

Tôn kính con đường hành trì là sao? Đây gọi là Tam học đó. 

Phật Pháp thì bao la mênh mông bát ngát nhưng gom gọn lại cho dễ nhớ chính là 
  1. hành định học và 
  2. hành tuệ học. 
Giới học giúp mình bao gồm cả niệm trong đó, phải hiểu ngầm như vậy (vì không có giới, làm sao có định, có tuệ ?). 

  1. Trong thiền chỉ thì niệm hỗ trợ cho định và 
  2. trong thiền quán định hỗ trợ cho niệm. 
  3. Niệm định không rời nhau . 
Hội tụ sức nóng mặt trời để mà có thể đủ nóng đốt cháy một cái gì đó, không tu tập thì tâm bị khuếch tán nhiệt lượng hỏng làm được gì hết. Nhưng với thiền định thì chúng ta có thể tận dụng được sức nóng của ánh nắng mặt trời, nắng đó, gió đó, nước đó, tâm mình nó được kiên cố, vững chãi, vững chắc, nhờ vậy làm được nhiều chuyện, chuyện này rất là đơn giản thôi.

Tôi nói không biết bao nhiêu lần, ngày chúng ta chưa học Phật Pháp, ngày chúng ta chưa có hành trì thì thế giới này đối với chúng ta nó đủ thứ món hết, đủ cái để nhìn, đủ cái để nghe, ngửi, nếm, đụng, đủ cái để mình tưởng tiếc, hoài vọng, đam mê thích thú, bất mãn, chán sợ, v v...

Nhưng đối với người tu định học thì Phật Pháp gom gọn lại còn định học .  Đối với người tu định thì toàn bộ vũ trụ và tất cả chúng sanh trong đó, đối với họ tất cả chỉ nằm trong các đề mục thôi. Tức là người tu định họ không biết cái gì ngoài ra chuyện cắm đầu vào các đề mục như là: 
  1. đất, nước, lửa, gió, 
  2. xanh, vàng, đỏ, trắng, 
  3. hư không, 
  4. ánh sáng. 
Vũ trụ này đối với họ chỉ có bây nhiêu đó . Cho nên cái sức tập trung của họ nó dễ sợ lắm, họ cứ niệm đất, đất, đất, đất . 

Phải là người ly dục mới tu được các đề mục thiền chỉ

Chứ còn mà anh còn lăng xăng trong các dục, anh đừng có hòng mà anh tu trong thiền chỉ samatha, bởi vì cái nội dung thiền chỉ là gì? Là ly dục, trú thiền. 

Cho nên cái định học chuyện đầu tiên là nó giúp cho người ta ly dục

Rồi cái thứ ba là tuệ học nó giúp cho người ta khai mở tri kiến . 

Nói theo Bắc truyền là ngộ nhập tri kiến Phật, hoặc là nói theo Bắc tông là dùng mắt tuệ để bước vào biển kinh tạng, là vậy đó.

Có nghĩa là ở định học, mình chỉ tập trung tư tưởng để tận dụng được sức mạnh vô lượng vô biên của tâm thức mà xưa giờ mình cứ để nó khuếch tán. 

Tuệ học là gì? Là khả năng soi thấu những gì mà hồi đó giờ mình hỏng có thấy, hồi đó giờ mình chuyên môn sống hiểu lầm không hà. 

  1. Hồi đó giờ mình không có thấy được mọi thứ do duyên mà có, có rồi phải mất. 
  2. Hồi đó giờ mình không có thấy được rằng chỉ có đời sống chánh niệm mới là đời sống tốt nhất, an toàn nhất, an lạc nhất. An lạc ngay đời này, an toàn ngay đời này và nếu đủ duyên thì giác ngộ ngay đời này, còn không nữa thì ngay đời này an lạc và cũng gieo được hạt giống bồ đề cho đời sau. 
  1. Chỉ có đời sống có chánh niệm 
  2. và chánh trí tuệ 
thì mới có thể hoàn tất được tuệ học.

Thì với nhận thức như vậy đó, vị đó tôn kính đường lối hành trì, thờ Tam bảo là riêng nhưng mà gọi là nghiêm cẩn trong cái chuyện hành trì tam học là một chuyện khác, nhớ nha.

5/ Vị Tu đà Hườn không thể thối lui, trở lại con đường bất thiện đã được đoạn trừ .

5. "Người đầy đủ tri kiến không thể rơi trở lại vào những vấn đề không nên trở lại", nhưng mà tôi dịch lại là "đường xưa lối cũ bất thiện", có nghĩa là sao ? Họ không thể quay lui những cái tội, lỗi, phiền não mà họ đã đoạn trừ, họ không thể. 

Thí dụ như 
  1. họ không còn thân kiến,
  2. họ không còn hoài nghi, 
  3. họ không còn giới cấm thủ nữa thì họ không có tài nào mà họ quay lui. 
Còn mình thì sao? Lúc mình ngồi thiền, lúc mình nghe pháp tâm mình nó rất là tịnh, đúng, nhưng mà buông ra thì mình cũng trở lại cái tâm hồn của con chó, con heo như cũ, cũng trở lui những phiền não mà mình đã đoạn trừ. 

Và sau cùng khi mà đã lìa khỏi, vị Tu đà hườn không thể quay lui những vấn đề không nên trở lại là vậy đó, là không có trở lại những cái chỗ, những cái gì mà mình đã lìa bỏ.

6/ Vị Tu Đà Hườn không thể sanh khởi hữu thứ tám

6. Rồi cuối cùng thì cái vị Tu đà hườn không thể, trong đây ghi nguyên văn là "không thể làm cho sanh khởi hữu thứ tám", có nghĩa là vị Tu đà hườn không thể tái sanh quá 7 kiếp.

Vị Tu đà hườn có 3 hạng:

-Hạng 1: là Ekabiji, là nhất chủng thất lai, nghĩa là chỉ tái sanh 1 lần nữa là chứng A la hán, Niết bàn luôn.
-Hạng 2: là Kolankola là gia gia thất lai, nghĩa là tới lui trong chỗ này chỗ nọ tối đa từ 3 tới 6 kiếp là phải kết thúc.  
-Hạng 3: là Sattakkhattuparamo: là tối đa tái sanh lần thứ bảy. Vị này là vị chậm nhứt. Chậm ở đây có 2 lý do, 
  1. một là vì sở thích, tiếng Pali gọi là vattarata là người thích luân hồi, thí dụ nhìn ra thấy hoa hồng biết rõ hết nhưng mà có thích một chút, 
  2. hai là sự yếu đuối của...
Vị Tu đà hườn có 3 hạng như vậy, tức là tối đa cũng chỉ sanh lại lần thứ 7 thôi. Thì đây là những đặc điểm của một vị Tu đà hườn, chớ còn nói đắc này đắc kia, khi mà đắc tự nhiên mình biết. Tu mà cái bằng lòng trông đợi, ngóng chờ kiểu đó, thứ nhứt là thấy phiền não trùng trùng. Cái thứ hai an lạc kinh lắm và lòng tịnh lắm, tịnh là gì? Là lòng nó hỏng có màng nữa, họ tới rồi họ không có màng cái này cái kia, khen chê như mình, họ không có náo nức, nôn nao như mình nữa. Chuyện đó hỏng có gì sống chết cũng vậy.

Khi mình đọc kỹ trong kinh mình thấy trở thành một vị Tu đà hườn không phải là chuyện dễ, rất là khó. Chỉ riêng niềm tin tùy thuận vào trí tuệ ... mình nghe mình về mình thờ lạy, còn mà mình đã khinh nó rồi, đã ghét, đã hỏng tin nó rồi thì nó nói cái gì thì mặc xác. Thì nếu mà các vị đã lọt vô hoàn cảnh này thì tôi xin thiết tha có một... mắc cái chứng gì mà tới giờ mình vác xác, vác cái mặt ra đây mình nghe rồi sân si hỏng có nên nha.

Mục lục các bài giảng

(Hết)
Reply
Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt 


Chương VI - Sáu Pháp
VI. Ðại Phẩm

(I) (55) Sona


Roll down từ từ sẽ thấy ...

-----------------


(III) (98) Vô Thường

1. - Thật vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nào 
  1. thấy bất cứ hành nào là thường còn, sẽ thành tựu được nhẫn nhục tùy thuận, sự kiện này không xảy ra. 
  2. Không thành tựu nhẫn nhục tùy thuận, sẽ nhập vào chánh tánh quyết định, sự kiện này không thể xảy ra. 
  3. Không nhập vào chánh tánh quyết định, sẽ chứng ngộ quả Dự lưu, hay quả Nhất Lai, hay quả Bất lai, hay quả A-la-hán, sự kiện này không xảy ra.
2. Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào 
  1. thấy bất cứ hành nào là vô thường, sẽ thành tựu được nhẫn nhục tùy thuận, sự kiện này có xảy ra. 
  2. Thành tựu nhẫn nhục tùy thuận, sẽ nhập vào chánh tánh quyết định, sự kiện này có xảy ra. 
  3. Nhập vào chánh tánh quyết định, sẽ chứng ngộ quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất lai, hay quả A-la-hán, sự kiện này có xảy ra.


(VI) (99) Khổ

- Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào thấy bất cứ hành nào là lạc, sẽ thành tựu... (như trên với những thay đổi cần thiết).



1. - Thật vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nào 
  1. thấy bất cứ hành nào là lạc, sẽ thành tựu được nhẫn nhục tùy thuận, sự kiện này không xảy ra. 
  2. Không thành tựu nhẫn nhục tùy thuận, sẽ nhập vào chánh tánh quyết định, sự kiện này không thể xảy ra. 
  3. Không nhập vào chánh tánh quyết định, sẽ chứng ngộ quả Dự lưu, hay quả Nhất Lai, hay quả Bất lai, hay quả A-la-hán, sự kiện này không xảy ra.
2. Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào 
  1. thấy bất cứ hành nào là khổ, sẽ thành tựu được nhẫn nhục tùy thuận, sự kiện này có xảy ra. 
  2. Thành tựu nhẫn nhục tùy thuận, sẽ nhập vào chánh tánh quyết định, sự kiện này có xảy ra. 
  3. Nhập vào chánh tánh quyết định, sẽ chứng ngộ quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất lai, hay quả A-la-hán, sự kiện này có xảy ra.


(V) (100) Vô Ngã

- Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào thấy bất cứ hành nào là ngã, sẽ thành tựu... (như kinh 98 với những thay đổi cần thiết).



1. - Thật vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nào 
  1. thấy bất cứ hành nào là ngã, sẽ thành tựu được nhẫn nhục tùy thuận, sự kiện này không xảy ra. 
  2. Không thành tựu nhẫn nhục tùy thuận, sẽ nhập vào chánh tánh quyết định, sự kiện này không thể xảy ra. 
  3. Không nhập vào chánh tánh quyết định, sẽ chứng ngộ quả Dự lưu, hay quả Nhất Lai, hay quả Bất lai, hay quả A-la-hán, sự kiện này không xảy ra.
2. Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào 
  1. thấy bất cứ hành nào là vô ngã, sẽ thành tựu được nhẫn nhục tùy thuận, sự kiện này có xảy ra. 
  2. Thành tựu nhẫn nhục tùy thuận, sẽ nhập vào chánh tánh quyết định, sự kiện này có xảy ra. 
  3. Nhập vào chánh tánh quyết định, sẽ chứng ngộ quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất lai, hay quả A-la-hán, sự kiện này có xảy ra.


(VI) (101) Niết Bàn

- Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào thấy Niết-bàn là khổ, sẽ thành tựu được nhẫn nhục tùy thuận, sự kiện này không xảy ra... (như kinh 98 với những thay đổi cần thiết).

1. - Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào 
  1. thấy Niết-bàn là khổ, sẽ thành tựu được nhẫn nhục tùy thuận, sự kiện này không xảy ra. 
  2. Không thành tựu nhẫn nhục tùy thuận, sẽ nhập vào chánh tánh quyết định, sự kiện này không thể xảy ra. 
  3. Không nhập vào chánh tánh quyết định, sẽ chứng ngộ quả Dự lưu, hay quả Nhất Lai, hay quả Bất lai, hay quả A-la-hán, sự kiện này không xảy ra.
2. Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào 
  1. thấy Niết-bàn là lạc, sẽ thành tựu được nhẫn nhục tùy thuận, sự kiện này có xảy ra. 
  2. Thành tựu nhẫn nhục tùy thuận, sẽ nhập vào chánh tánh quyết định, sự kiện này có xảy ra. 
  3. Nhập vào chánh tánh quyết định, sẽ chứng ngộ quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất lai, hay quả A-la-hán, sự kiện này có xảy ra.


(VII) (102) Không Có Hạn Chế (1)

1. - Thấy được sáu lợi ích, này các Tỷ-kheo, thật là vừa đủ để vị Tỷ-kheo làm cho an trú tưởng vô thường, không có hạn chế trong tất cả hành. Thế nào là sáu?

  1. Tất cả hành hiện ra với tôi, không có an trú; 
  2. ý của tôi không ưa thích tất cả thế giới; 
  3. ý của tôi sẽ xuất khỏi tất cả thế giới; 
  4. ý của tôi sẽ nghiêng về Niết-bàn; 
  5. các kiết sử của tôi đi đến đoạn diệt; và 
  6. tôi sẽ thành tựu tối thượng Sa-môn hạnh.
Thấy được sáu lợi ích này, này các Tỷ-kheo, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo làm cho an trú tưởng vô thường, không có hạn chế trong tất cả hành.

(VIII) (103) Không Có Hạn Chế (2)

1. - Thấy được sáu lợi ích này, này các Tỷ-kheo, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo làm cho an trú tưởng khổ, không có hạn chế trong tất cả hành. Thế nào là sáu?
2. - Trong tất cả hành, 
  1. tưởng Niết-bàn sẽ được an trú trong tôi, ví như kẻ giết người đang đưa dao lên chém; 
  2. ý của tôi sẽ xuất khỏi tất cả thế giới; 
  3. tôi sẽ trở thành một người thấy được tịnh lạc trong Niết-bàn; 
  4. các tùy miên trong tôi sẽ được nhổ lên; 
  5. tôi sẽ là người đã làm các việc nên làm; 
  6. tôi sẽ với từ tâm hầu hạ bậc Ðạo Sư.
Thấy được sáu lợi ích này, này các Tỷ-kheo, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo làm cho an trú tưởng khổ không có hạn chế trong tất cả hành.

(IX) (104) Không Có Hạn Chế (3)

1. - Thấy được sáu lợi ích, này các Tỷ-kheo, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo làm cho an trú tưởng vô ngã không có hạn chế trong tất cả hành. Thế nào là sáu?
2. Trong tất cả thế giới, 
  1. tôi sẽ không dự phần vào trong ấy; 
  2. cái gì tạo ra cái "tôi" trong tôi sẽ được chận đứng; 
  3. cái gì tạo ra cái "của tôi" trong tôi sẽ được chận đứng; 
  4. tôi sẽ thành tựu trí; 
  5. không cùng chia sẻ với người khác; 
  6. nguyên nhân và các pháp do nhân sanh được tôi khéo thấy.
Thấy được sáu lợi ích này, này các Tỷ-kheo, thật là vừa đủ để Tỷ-kheo làm cho an trú tưởng vô ngã không có hạn chế trong tất cả hành.
Reply
Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya

145. Kinh Giáo giới Phú-lâu-na
(Punnovàda sutta)


Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà-Lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc).



Rồi Tôn giả Punna (Phú-lâu-na), vào buổi chiều, từ Thiền tịnh độc cư đứng dậy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Punna bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn giáo giới với lời giáo giới vắn tắt cho con, để con có thể, sau khi nghe Thế Tôn, sống một mình, nhàn tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

-- Vậy này Punna, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.



Tôn giả Punna vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

-- Này Punna, có những sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú trong ấy, thời do hoan hỷ tán thưởng, chấp thủ và an trú, dục hỷ sanh; và này Punna, Ta nói rằng, từ sự tập khởi của dục hỷ, là sự tập khởi của khổ. Này Punna, có những tiếng do tai nhận thức; có những hương do mũi nhận thức; có những vị do lưỡi nhận thức; có những cảm xúc do thân nhận thức; có những pháp do ý nhận thức; khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo hoan hỷ, tán thưởng, chấp thủ và an trú trong ấy, thời do hoan hỷ, tán thưởng, chấp thủ và an trú tham đắm, dục hỷ sanh; và này Punna. Ta nói rằng, từ sự tập khởi của dục hỷ, là sự tập khởi của khổ.



Này Punna, có những sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán thưởng, không chấp thủ và an trú, thời dục hỷ diệt. Này Punna, Ta nói rằng, từ sự diệt tận dục hỷ là sự diệt tận đau khổ. Này Punna, có những tiếng do tai nhận thức; có những hương do mũi nhận thức; có những vị do lưỡi nhận thức; có những cảm xúc do thân nhận thức; có những pháp do ý nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán thưởng, không chấp thủ và an trú, thời dục hỷ diệt. Này Punna, Ta nói rằng, từ sự diệt tận dục hỷ là sự diệt tận đau khổ.



Này Punna, Ông sẽ sống ở quốc độ nào, nay Ông đã được Ta giáo giới với lời giáo giới vắn tắt?



-- Bạch Thế Tôn, nay con đã được Thế Tôn giáo giới với lời giáo giới vắn tắt, có một quốc độ tên là Sunaparanta (Tây Phương Du-na Quốc), con sẽ sống tại đấy.

-- Này Punna, người nước Sunaparanta là hung bạo. Này Punna, người nước Sunaparanta là thô ác. Này Punna, nếu người nước Sunaparanta mắng nhiếc Ông, nhục mạ Ông, thời này Punna, tại đấy Ông sẽ như thế nào?

-- Bạch Thế Tôn, nếu người nước Sunaparanta mắng nhiếc con, nhục mạ con, thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: "Thật là hiền thiện, người nước Sunaparanta này! Thật là chí thiện, người nước Sunaparanta này! Vì rằng họ không lấy tay đánh đập ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.



-- Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunaparanta lấy tay đánh đập Ông, thời này Punna, tại đấy Ông sẽ nghĩ như thế nào?

-- Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy tay đánh đập con; thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: ""Thật là thiện, người nước Sunaparanta này! Thật là chí thiện, người nước Sunaparanta này! Vì rằng họ không lấy các cục đất ném đánh ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy! Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.



-- Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunapa ranta lấy các cục đất ném đánh Ông, thời này Punna, tại đấy Ông sẽ nghĩ thế nào?

-- Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy cục đất ném đánh con; thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: "Thật là hiền thiện, các người nước Sunaparanta! Thật là chí thiện, các người nước Sunaparanta! Vì rằng họ không lấy gậy đánh đập ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.



-- Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunaparanta lấy gậy đánh đập Ông, thời này Punna, tại đấy Ông nghĩ thế nào?

-- Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy gậy đánh đập con; thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: "Thật là hiền thiện, các người nước Sunaparanta! Thật là chí thiện, các người nước Sunaparanta! Vì rằng họ không lấy dao đánh đập ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.



-- Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunapa ranta lấy dao đánh đập Ông, thời này Punna, tại đấy Ông nghĩ thế nào?

-- Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunaparanta lấy dao đánh đập con; thời tại đấy, con sẽ nghĩ như sau: "Thật là hiền thiện, các người nước Sunaparanta! Thật là chí thiện, các người nước Sunaparanta! Vì rằng họ không lấy dao sắc bén đoạt hại mạng ta". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy.



-- Nhưng này Punna, nếu các người nước Sunaparanta lấy dao sắc bén đoạt hại mạng Ông, thời này Punna, tại đấy Ông nghĩ thế nào?

-- -Bạch Thế Tôn, nếu các người nước Sunapa ranta sẽ lấy dao sắc bén đoạt hại mạng con; thời tại đấy con sẽ nghĩ như sau: "Có những đệ tử của Thế Tôn, ưu phiền và nhàm chán thân thể và sinh mạng đi tìm con dao (để tự sát). Nay ta khỏi cần đi tìm đã được con dao ấy". Bạch Thế Tôn, tại đấy con sẽ nghĩ như vậy. Bạch Thiện Thệ, tại đấy, con sẽ nghĩ như vậy.



-- Lành thay, lành thay, này Punna! Này Punna, Ông có thể sống trong nước Sunaparanta, khi Ông có được đầy đủ sự nhiếp phục và an tịnh này. Này Punna, Ông nay hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.



Rồi Tôn giả Punna, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, dọn dẹp sàng tọa, lấy y bát, rồi ra đi, đi đến nước Sunaparanta. Tiếp tục du hành, Tôn giả Punna đi đến nước Sunaparanta. Tại đây, Tôn giả Punna sống trong nước Sunaparanta. Rồi Tôn giả Punna nội trong mùa an cư mùa mưa ấy, nhiếp được khoảng năm trăm nam cư sĩ; cũng trong mùa an cư mùa mưa ấy, nhiếp độ khoảng năm trăm nữ cư sĩ; cũng trong mùa an cư mùa mưa ấy, chứng được Tam minh. Sau một thời gian, Tôn giả Punna mệnh chung.



Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

-- Bạch Thế Tôn, Thiện nam tử Punna ấy, sau khi được Thế Tôn giáo giới với bài giáo giới vắn tắt đã mệnh chung. Sanh thú của vị ấy là gì? Ðời sau của vị ấy là thế nào?

-- Này các Tỷ-kheo, Thiện nam tử Punna là bậc Hiền trí. Vị ấy thực hành pháp và tùy pháp. Vị ấy không phiền nhiễu Ta với những câu hỏi về pháp. Này các Tỷ-kheo, Thiện nam tử Punna đã nhập Niết-bàn.



Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Reply