Bát Đoạn Cẩm - Printable Version +- VietBest (https://vietbestforum.com) +-- Forum: Main Room (https://vietbestforum.com/forum-1.html) +--- Forum: Y Học & Sức Khỏe (https://vietbestforum.com/forum-37.html) +--- Thread: Bát Đoạn Cẩm (/thread-408.html) Pages:
1
2
|
Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-01-01 Tài liệu Bát Đoạn Cẩm quý giá này được soạn bởi Giáo sư Hàng Thanh -- Quyền sư Lý thuyết gia Quốc tế -- năm 1974, được một thành viên của thuvienvietnam.com đánh máy và đưa lên cách nay khoảng 10 năm. Tôi đã thử tìm lại tài liệu này trong trang thuvienvietnam.com, nhưng không còn nữa. Xin chân thành cảm ơn đến người đã đánh máy lại tài liệu (tiếc là tôi quên tên) và thuvienvietnam.com. MỤC – LỤC
Lời Tựa Chương Thứ Nhất
Chương Thứ Nhì
Tám đoạn của Bát Đoạn Cẩm
Chương Thứ Ba
PHẦN PHỤ THUỘC 12 đoạn: Đệ nhất đoạn: Hai tay đưa lên xuống (căn bản từ Đạo Gia của Lão Tử) Đệ nhị đoạn: Đứng lên ngồi xuống (căn bản môn thể dục Hy Lạp) Đệ tam đoạn: Đưa hai tay ngang bằng ra sau (từ Ngũ Cầm Đồ của danh y Hoa Đà) Đệ tứ đoạn: Chân co chân duỗi hai tay ấn gối (căn bản thể dục Hy Lạp) Đệ ngũ đoạn: Đưa tay nghịch chiều trên đầu sau hông (từ vũ điệu Á Châu) Đệ lục đoạn: Xoay tay thành vòng trước mặt (từ thể dục Hy Lạp) Đệ thất đoạn: Xoay tay thành vòng hai bên (từ thể dục Hy Lạp) Đệ bát đoạn: Xoay cổ (căn bản từ Đạo Gia Lão Tử) Đệ cửu đoạn: Cúi người bó gối (căn bản từ Yoga Ấn Độ) Đệ thập đoạn: Tư thế con rồng (căn bản từ Ấn Độ) Đệ thập nhất đoạn: Khấu Xỉ (căn bản từ Đạo Gia) Đệ thập nhị đoạn: Phúc hô hấp tức thở bằng bụng (căn bản từ đạo gia Lão Tử). RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-01-01 LỜI TỰA
Ngày càng văn minh, nhờ Khoa Học đối chứng mà người ta khám phá ra Nội Công là môn tuyệt diệu để tu luyện cho đặng tăng tiến sức khỏe vạn năng và sống lâu trăm tuổi. Do đó số người nghiên cứu và luyện tập lại càng tăng thêm, không riêng gì Thiền Sư, Cư Sĩ, Tu Sĩ, Võ Gia,….mà văn nhân, lãng tử, người trí lự đều tìm cách trau dồi môn học. Nhưng tại quê nhà, học giả vấp phải trở lực lớn là thiếu tài liệu chân thực. Các sách xưa rất đỗi đơn sơ, mà kiến văn người dịch thuật bây giờ lại càng nông cạn hơn cách hành văn mộc mạc của cổ nhân, thì sách xưa hóa ra là kỳ quan để ngắm chơi chớ không làm sao hiểu được. Còn những sách treo bán ngoài chợ ai cũng công nhận có mua cũng chỉ đọc chơi cho vui mà thôi không thể học hành gì được, vì người viết kiến thức đôi khi chẳng hơn gì người đọc…lại ngôn ngữ bất đồng. Đứng nhìn học giả ngẩn ngơ trước hố trủng của ngành học thuật, soạn giả đành bấm bụng mang kinh nghiệm nửa đời tu luyện và dạy học trò ra biên thành sách Nội Công nầy để chư học giả tiện bề nghiên cứu. Bộ môn Nội Công cao tuyệt, hay tuyệt nhưng không ngoài ba cuốn: 1. Tự Luyện Nội Công Thiếu Lâm Tự, được in cuối năm 1973 là cuốn cao nhất. 2. Tự Luyện Nội Công Thiếu Lâm Sơn Đông, in giữa tháng 6 năm 1974 là cuốn có trình độ trung bình, dành cho người có sức lực và các cấp võ gia đã có trình độ võ công rèn luyện. 3. Cuốn sau cùng là cuốn quý vị đang cầm trên tay đây, là cuốn thấp nhất dành cho người Sơ căn, tức là mới bắt đầu. Các học giả, võ gia yếu đuối tập hoài không tiến bộ, các võ sinh, văn nhân, thi sĩ, học giả, quan chức các ngành v..v… đều có thể khởi đầu bằng cuốn nầy để tạo dựng một sức khỏe chắc chắn và tốt đẹp. Cuốn sách nầy ngoài sự giúp học giả tăng bổ sức lực nhờ cách vận động Đả Thông Kinh Mạch, nó còn giúp đỡ võ gia phát triển nguồn Nội lực sung túc đến tột độ và hiệu năng đòn thế đạt đến tối đa. Do đó Ông Bà xưa dạy Bát Đoạn Cẩm song song với Quyền Cước khi mới bước chân vào nhà Thầy. Sự hay của môn Bát Đoạn Cẩm kể ra không hết, nửa đời tu luyện thân tâm Cư Sĩ soạn giả phát kiến nhiều lợi ích mà người thường không thể nghĩ bàn, mà đôi khi những Võ gia ít kiến thức cũng càng ngơ ngác: Như các Công phu nằm phình bụng cho xe hơi cán, búa tạ đập, dao bén chém, đi trên chông nhọn, đạp trên đao kiếm bén, bật ngón tay đâm thủng ván tắp mỏng, v…v… cũng đều do tu luyện Nội Công Bát Đoạn Cẩm mà có. Nhưng điều quan trọng hơn nữa đối với đa số nhơn loại là làm sao giữ vững tuổi xuân….thì đây, môn học nầy sẽ giúp quý vị chận đứng tuổi già, xô ngã yếu đuối, bồi bổ và xây dựng nét đẹp hùng tráng, uy nghi của một đấng trượng phu, cuộc đời còn lại mỗi ngày càng thêm trong sáng, vui tươi vì tâm hồn đã trong sạch, đã cao thượng, quý vị đã có tất cả vì Sức Khỏe Là Vàng… Hôm nay soạn giả tâm sự cùng chư học giả điều bổ ích trên chính là có thể trợ duyên lành trên bước đường thành công của chư vị. Cái đó gọi là Quân Tử có miếng ngon cùng nhau ăn, có rượu quý mời nhau nhắm, có thơ hay cùng nhau ngâm… Và hôm nay với món trân quý nầy “Sách Bát Đoạn Cẩm” mà cũng được người Quân Tử luận bàn bầu bạn thì trên đời nầy chữ Bồng Lai Tại Thế há không để chỉ chỗ chúng ta đang tọa đây thì còn ở đâu nữa. Vui thay. Vui thay. Soạn giả mừng học giả và chư quân tử phước lành, điều tốt, thành công đến gần. SOẠN GIẢ CƯ SĨ
Gia Định Thành, Tiết Hạ Chí, Năm Giáp Dần
Nhằm tháng 6 ngày 24 năm 1974 Tây Lịch RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-01-01 Chương Thứ Nhất
I. BÁT ĐOẠN CẨM LÀ GÌ ? Có lẽ quá xa xưa theo truyền thuyết, thuở các vị vua hiền đức và tài năng như Thần Nông, Phục Hi, Hoàng Đế đã có người am hiểu tận tường về môn học nầy, có nhiều người luyện tập và coi như một phép dưỡng sinh cần thiết tối yếu. Chính nó bắt nguồn và song hành phát triển cùng môn học Châm Cứu, một môn Y Học giá trị ngày nay đang được các Bác Sĩ trên Thế giới gia tâm nghiên cứu thực hành v…v… Cho đến đời Tam Quốc (213-260), vị Thần Y Hoa Đà bổ cứu và đặt chế thêm cùng biến đổi thành môn luyện tập mới đặt tên là Ngũ Cẩm Đồ. Nhưng chính những động tác Bát Đoạn Cẩm là căn bản. Và xét trên phương diện khoa học thì môn Bát Đoạn Cẩm có ít động tác, đơn giản hơn Ngũ Cầm Đồ, do đó thích hợp với người xưa hơn… Dù thế nào đi nữa mục đích chính của môn học vẫn là làm lưu thông Kinh Mạch, khí huyết thuần nhuận làm tăng gia tuổi thọ cường kiện thân xác, minh mẫn tinh thần, rất hợp với Y Đạo ngày xưa. Qua những suy luận và đoán quyết môn Bát Đoạn Cẩm, môn học Khai Thông Khí Lực Kỳ Kinh Bát Mạch đã có từ Cổ thời Trung Quốc, nhưng vẫn còn nằm trong dự thuyết vì chưa có bằng chứng xác thực. Và phải đợi đến thời Chùa Thiếu Lâm phát triển nghệ thuật chiến đấu Kỹ Kích (Võ thuật) thì môn Bát Đoạn Cẩm mới chính thống được lưu truyền có phép tắc kỷ cương. Kể từ đó, môn Bát Đoạn Cẩm lan truyền mau, rộng và được người đời ngưỡng mộ tập luyện như môn phép tắc bí truyền . Như vậy thời môn Bát Đoạn Cẩm do ngài Thiền Sư Tổ Đạt Ma dạy, là học thuật mang từ Thiên Trúc (Ấn Độ) qua? Nhưng xét theo dữ kiện lịch sử thì bên Ấn Độ không có môn học nầy. Người ta quả quyết rằng ngài Tổ Sư sáng chế môn Bát Đoạn Cẩm để dạy môn đồ cho cường kiện thân tâm hầu mau đạt hạnh tu Chánh Kiến, Chánh Giác, là một hình thức tiên khởi cho môn học tối thượng Dịch Cân Pháp mà ngài sáng tác sau này. Người Trung Hoa vốn là dân tộc hay sáng kiến, nên môn đồ của ngài Đạt Ma Tổ Sư ở hậu lai có nhiều vị biến chế những học thuật học được ở Ngài thành nhiều môn học chuyên biệt khác, lập thành môn phái truyền bá sâu rộng trong phàm dân Trung Quốc cho đến ngày nay. Đó là gốc của Bát Đoạn Cẩm Thiếu Lâm…. Còn như có nhiều thuyết cho Bát Đoạn Cẩm do Nhạc Phi chế ra chắc là không đúng vì một Đại tướng chuyên đánh trận không có thì giờ và tâm hồn không đặng thanh nhàn để nghĩ ra những điều ký bí ít ra cũng phải cần phải đến một Đạo gia mới có thể nghĩ tới. Và Đạo gia cũng có môn Bát Đoạn Cẩm, song hành và phát triển cùng thuật Vận Khí là phép luyện Nội Công chân truyền, được nhiều sách của các Đạo Sĩ nhắc đến, cùng được các quyền gia chuyên luyện Võ Công Đạo Gia: (Bát Quái Chưởng, Thái Cực Quyền) học tập. Trên đây là sự hiểu biết cần thiết về môn học cẩn yếu Bát Đoạn Cẩm cho một võ gia, nhưng điểm cần yếu hơn tưởng không thể quên đề cập trước khi bắt đầu tập luyện là: Bát Đoạn Cẩm là gì? -- Soạn giả xin trả lời gọn, Bát Đoạn Cẩm là Tâm Phép tập cho đả thông Kinh Mạch, khí lực thuần nhuận lưu thông đến mọi phần trong cơ thể giúp hành giả (người học) thân thể thường được cường kiện khinh linh vô bệnh, trường thọ đúng đạo dưỡng sinh. Ngoài ra còn có công năng tạo dựng sức mạnh gân thịt cho Võ gia tạo điều kiện tham học tới chỗ đại thành, trị lành mọi bệnh Nội thương do tập luyện quyền thuật gây ra. Bát Đoạn Cẩm quả thật có công năng thần diệu vô song cải tạo sức khỏe, tăng tiến thể lực và rèn luyện thân tâm hợp nhất, là môn học thuật thể thao xây dựng đáng được đề xướng, tôn vinh… II. SỰ KHÁC BIỆT GIỮA BÁT ĐOẠN CẨM VÀ NỘI CÔNG Võ Học và nhiều ngành Văn Hóa khác rất vĩ đại, cổ thời đã phát xuất từ Trung Quốc, điều nầy cho đến nay không còn ai phủ nhận. Theo vết dầu loang, gần hấp thụ trước, xa lãnh hội sau… Việt Tộc là một Tiên quốc văn minh truyền thống gốc ở Ba Thục bên Tàu là một đàn anh trong Bách Việt nên trước hơn ai hết lãnh hội, tiêu hóa, và phổ biến nền học thuật Trung Quốc nói chung và Việt nói riêng. Khi Việt Tộc ta di dân xuống cõi Nam đã mang theo nhiều ngành học thuật cao quý vĩ đại của Tổ tiên, dĩ nhiên một phần còn lại, và để lại cho Bắc quân từ phương Bắc tràn xuống…trong đó ngành Võ học được chúng ta soi sáng trong tiêu mục nầy. Việt Tộc vốn là dân Quân Tử và thông minh (Khổng Tử thường xướng thuyết Quân Tử để người Bách Việt bên Tàu học: dĩ nhiên có thiểu số người Việt không nối nghiệp nổi Tổ Tiên nên lạc nẻo tiểu nhân.) Với huyết thống trí hóa xuất chúng, người Việt Nam đương nhiên thu nhận được ngay những kỹ thuật võ công từ Chùa Thiếu Lâm truyền ra trải qua các triều đại sau đời ngài Tổ Sư Đạt Ma. Cũng nhờ vào tài ba võ dũng và trí hóa ưu hạng mà Lịch sử Việt ghi được những điểm son đáng làm ngạc nhiên thế giới ngày nay. Sự bành trướng biên thổ Việt là lẽ dĩ nhiên ở cổ thời, cận đại và tương lai…sự lớn mạnh của Việt Nam là lẽ tất nhiên và trên đà hiển hiện. Sự huy hoàng của dân Việt phải được phục hồi như ngày mà tổ tiên còn ở Ba Thục… Trong cổ thời, đồng phát triển Võ Nghệ Thiếu Lâm Tự trên lãnh thổ Việt, nhiều nhân tài tướng quân xuất hiện trong quân ngũ, trong các kỳ thi của Triều đình. Võ được phát hiện chung thời với các Thiền Lý được truyền bá từ các Thiền Sư. Các Thiền Sư giỏi đều là những bậc có thành quả về Thiền Định, mà chánh quả của Thiền Định là Tĩnh luyện Nội Công, môn võ học thượng thừa (ngày nay ít người biết lý nầy.) Do đó kể từ đời Thiền Sư Tỳ Ni Đa Lưu Chí (Vinitaruci) năm 602…trở về sau Thiền Sư Pháp Hiền, 626, Thanh Biện…636…thì môn Thiền học cùng Nội Công Tĩnh Tọa Thiền Định đã được truyền bá có hệ thống tại Việt Nam rồi. Như chư học giả đã hiểu, trong sách Tự Luyện Nội Công Thiếu Lâm Tự của soạn giả, thì khác biệt giữa Thiền Định và Nội Công Tĩnh luyện chỉ cách nhau tờ giấy mỏng, chỉ một lời nói của bậc Thầy là người có công phu Thiền Định tức khắc trở thành Nội Công cao thủ: “Tâm ấn chỉ có một lời.” Nội công và Thiền Định đều nhằm luyện khí lực, tập trung và luân chuyển theo như ý. Võ gia dụng Nội Công khí lực đả thông kinh mạch làm tăng bổ sức mạnh đạt chỗ đại thành trong nghề võ, Thiền Sư dụng Khí Công cường kiện thân tâm kiên trì khổ hạnh tập trung ý chí, nhất tâm đạt đến chánh giác chánh kiến thành bậc Chân Như gọi là Đắc Đạo. Bát Đoạn Cẩm cùng một thể với Dịch Cân Kinh hay Dịch Cân Pháp nhưng thông dụng và để rèn luyện cũng hữu dụng hơn là phép Nội Công thuộc về Động luyện. Cốt là luyện cho cường kiện gân mạch, cứng chắc thịt xương da, đả thông kinh mạch, tránh nhiểm bệnh hoạn hầu sống lâu và giúp phần thành quả Đại thành võ nghệ. Nếu ví cho rõ hơn thời Bát Đoạn Cẩm như vỏ ngoải của chiếc bánh ít, mà nhân là Nội Công Thiền Định. Cả hai cũng là Nội Công nhưng cái thì thấp cái thì cao minh thâm thúy hơn nhiều. Phật gia tùy từng Duyên mà giáo độ môn đồ nên có thấp cao, có tùy Duyên khởi. Nhưng dù ai có Duyên lớn tới đâu vẫn phải tập Bát Đoạn Cẩm nầy trước rồi sau mới học đến Thiền định, nếu là người xuất gia, còn phàm nhân ăn mặn thì chỉ tập Bát Đoạn Cẩm hoặc Dịch Cân Pháp cho mạnh gân cứng xương dẻo thịt là tốt rồi. Phép luyện Nội Công Thiết Tuyến mà soạn giả trình bày trong sách Tự Luyện Nội Công Thiếu Lâm Sơn Đông là động luyện rất tốt cho các Võ gia hoặc Thiền gia tham cứu về võ công. Vậy thời sự phân chia đã rõ: Bát Đoạn Cẩm là phép Nội Công Ngoại Tráng Sơ Đẳng. Nội Công Thiết Tuyến là Nội Công Động Luyện có dụng cụ. Nội Công Thiếu Lâm Tự là phép Tĩnh Tọa Thiền Định cao tuyệt khi nào ăn chay trường tập mới kết quả. Cùng một môn học mà chia làm ba pháp luyện tập khác nhau là do chỗ thấp cao tùy dụng. Khởi tập thì tập Bát Đoạn Cẩm trước cho gân xương cứng cáp, trong mình có sức lực rồi mới tập đến Nội Công Sơn Đông. Khi đã đủ sức tranh tài hàng Cao đẳng mà thần trí thong dong trường trai tiết dục được mới tập tới Nội Công Tịnh Tọa, tức cuốn Tự Luyện Nội Công Thiếu Lâm Tự. Có biết cách luyện tập thì mới dễ thành công, bằng không thì thời giờ bị phí mà thân thể đôi khi thương tổn hư hao mất công chữa trị. Duy ngoại trừ những học giả có võ công cao, các võ sư có căn bản thì có thể bắt ngang từ Nội Công Sơn Đông mà luyện cho mau thành công cũng chẳng hại gì, vì ít ra một phần kinh lạc trong người của người có trình độ võ công cũng đã được khai mở nhờ công phu luyện tập quyền cước. Ở trình độ cao của bộ môn Nội Công người lỗ mãng, thô tục, thiếu đạo đức không thể luyện tập được, cưỡng tập sẽ bị bệnh nguy hại bản thân rất khó trị liệu. Bởi thế xưa nay người ta vẫn thấy người võ công cao bao giờ đạo đức cũng sáng chói, người có nhiều tham vọng chỉ gặt hái những thành quả tầm thường. Kẻ hung hăng thì sát nghiệp ở kế bên mình. Chắp tay sau đít nhìn thiên hạ qua đường cũng phát kiến được những điều hữu ích để tự tu rèn tâm tính, phát triển thể lực hầu càng ngày được lành mạnh vui tươi, sống lâu hưởng đời. Trên đây là luận về Nội Công, Bát Đoạn Cẩm Phật Gia, còn Tiên Gia cũng có môn Nội Công Dẫn Khí và Bát Đoạn Cẩm mà người đời thường gọi là Phép Đạo Dẫn hay và Vận Khí Thuật, v..v…hình thái biểu diễn động tác có chỗ khác nhưng mục đích không khác và thành quả thì đến chỗ như nhau. Cái đó gọi là Núi có một đỉnh mà đường lên có nhiều. Vậy môn sinh hậu học từ nay chớ thắc mắc đua đòi, xao lãng việc rèn luyện, cứ mãi so đo rồi rốt cuộc chẳng đi đến đâu. Sách đã trong tay rồi như thuốc trước miệng mà đành chết bệnh, kiếm đã trong tay rồi mà chúng đâm không biết đưa lên đỡ thì sinh mạng ấy tưởng có chết đi cũng chẳng thể có vị Bồ Tát nào khứng cất nhắc cho về cõi Tây Phương cực lạc. Ngu độn, hàm hồ là đáng ở lại trong hỏa ngục chịu nhiều luân kiếp đọa đày. Phật nói như vậy không phải là lời suông qua gió thoảng. III. SỰ THÀNH CÔNG CỦA BÁT ĐOẠN CẨM Nếu thông thường như nhiều bậc chép sách thì soạn giả cũng sẽ chép ra đây nhiều chuyện cổ tích ly kỳ của người xưa trên đường thành quả Nội Công, Bát Đoạn Cẩm. Nhưng soạn giả không thích bị lôi cuốn vào hàng (nghe sao chép vậy), mà thường chỉ đơn cử những ví dụ mắt thấy tai nghe, hoặc bản thân thực hành được, v..v… Tiếc thay chuyện bên Tàu thì nhiều mà bên Nam ta quá khiêm nhường đến độ khó lòng đơn cử cho thật đích danh với đầy đủ thành tích chơn thật, đến đâu, vị Lão sư nào cũng nói mở đầu bằng: “Hồi xưa…. Nghe người ta nói, người ta đồn rằng…”, và tiếp theo đó là những chuyện dường như hoang đường vì thiếu tính cách Khoa học. Tóm lại là những chuyện chưa bao giờ thấy. Trước thời buổi khoa học ngày nay, mọi ngành học thuật cũng phải được nhìn dưới con mắt khoa học, nghĩa là giải thích được, hợp lý và ít ra cũng phải có một ví dụ làm bằng. Soạn giả vì chủ trương không làm mê hoặc hậu sinh nên không ghi lại những cố sự hoang đường đọc được, nghe được trong đời tu học của mình, mà chỉ nêu lên những điều dễ nhận định… Như soạn giả đọc thấy nhiều sách xưa đơn cử nhiều danh gia võ học cao thủ bên Tàu nhờ luyện tập Võ Nghệ, dĩ nhiên chuyên luyện Nội Công sống lâu và rất khỏe mạnh, ngày nay một vị lãnh tụ của Trung Quốc đã 90 tuổi mà vẫn còn mạnh khỏe vui tươi lãnh đạo 800 triệu dân, nhờ tập Bát Quái chưởng và Thái Cực Quyền mỗi buổi sáng. Chuyện nầy báo chí Pháp, Mỹ đăng tải từ lâu có cả hình ảnh… (Thái Cực và Bát Quái là môn Nội Công của Tiên Gia). Ông của soạn giả năm nay 92 tuổi mà còn cỡi xe đạp hơn ba mươi cây số thăm bà con, cùng đi lụp (đánh bẩy) chim cu suốt ngày không biết mệt…là nhờ chân luyện vài thế trong môn Bát Đoạn Cẩm mỗi tối trước khi đi ngủ, cùng suốt đời không uống rượu, không hút thuốc. Thầy của soạn giả là bậc chân tu không lậu sự, diệt danh, người truyền thụ môn Nội Công thượng thừa cho soạn giả, năm nay đã tám mươi lăm (85) tuổi rồi mà còn tốt tướng, một mình tịnh tu một chùa (động), không cần đồ đệ tăng tiểu phụ giúp mọi sự. Quanh năm khí lạnh cao nguyên mà người vẫn độc một mãnh Đạo bào đơn sơ, ngày hai buổi công phu luyện tập Nội công Thiền định mà đạt thành chánh quả như thế. Ai có chân phước gặp người tất thấy sự trong sáng của Từ Bi Hỉ Xả trên ánh mắt của người. Riêng bản thân soạn giả thuở thiếu thời ốm yếu xanh xao, người ta kêu là con sát nuốt phải gởi cho chùa nuôi, 12 tuổi mới xin về…soạn giả nhờ ông bác ở trong chùa dạy cho Bát Đoạn Cẩm và ít quyền thảo, và soạn giả cứ theo đó tập tành cho có lệ, thế mà thời gian mấy mươi năm lần lữa khi thành trang thanh niên thì soạn giả đã biến đổi hẳn hình dong. Sự cường mạnh thấy rõ trong con người vốn tiên thiên bất túc. Và cho đến bây giờ tuổi trời hơn nửa đời mà bất kỳ ai đối diện có trình độ cũng phải chấp nhận là một người có dõng lực, còn bậc phàm phu thì chẳng hết lời ngưỡng mộ đường nét khôi vĩ tinh kỳ….Ấy khởi đầu cũng nhờ luyện tập Bát Đoạn Cẩm ở tuổi ấu thơ, đành rằng trong thời niên thiếu ngoài việc luyện cầm chừng môn Bát Đoạn Cẩm soạn giả còn luyện quyền thuật, và đến tuổi thanh niên thì càng tăng gia tu học quyền thuật cùng rèn luyện Nội Công chân chính… Cho đến này thì công phu đáo thành: cánh tay đưa ra để mềm 5-6 người lực lưỡng không bẻ gập lại được, cho búa tạ đập, dao bén chém., nằm phình bụng cho xe hơi cán đủ chỗ, đủ kiểu không cần nịt bụng hay lót đà ván, chân trần đi trên chông nhọn, đạp trên đao, kiếm sắc bén, bật ngón tay đâm thủng ván tấp mỏng, v…v… (Những thành quả trên có biễu diễn tại nhiều hội trường cho các võ gia, quan viên giáo chức cùng môn sinh nhiều môn phái xem chơi, có chụp hình in trong sách Tự Luyện Nội Công Thiếu Lâm Tự v.v…) Điều đặc biệt mà soạn giả rất vui là thấy công phu đã truyền lại được cho nhiều võ gia hậu học đệ tử đã tham học với soạn giả, một phần cũng được các học viên các Lớp Hàm Thụ lãnh hội, rồi đây chẳng bao lâu nữa nghành nghệ thuật dưỡng sinh nầy được mọi người mến mộ rèn luyện thành công. Sự thành công của soạn giả không phải vô tình, sự thành công của môn đệ của soạn giả cũng chẳng phải vô tình hay may mắn mà do sự chuyên cần luyện tập có phương pháp. Vậy soạn giả kết luận là bất kỹ võ gia nào thành tâm luyện tập thì nhất định sẽ thành công. Với môn Bát Đoạn Cẩm nầy người tập không cần kiêng cữ nhiều như các môn Nội Công Thượng Thừa. Nhưng dù sao vẫn tránh vài việc mới có thể mau tiến bộ. Như các võ sư có tuổi đã có vợ con thì tránh phiền não, bớt giao hoan và phải luyện tập cho có điều độ ít ra mỗi ngày một lần vào buổi bình minh. Các võ sư trung niên và trẻ hiếu thắng thích rượu nhiều và nữ sắc nhiều phải từ từ bỏ bớt thì mới mau thành. Chớ có liều mạng ỷ sung sức nhờ tập luyện quyền thuật mà có tinh lực dồi dào đem sức sống đổ biển thì công phu võ học chẳng khác ngôi nhà sơn tốt mà mối mọt đã đục rệu hết rồi. Bốn mươi, năm mươi mà chân di không nổi, chống gậy mà lê từng bước một là do tửu sắc dâm ô. Nghề võ như thế thì chớ nên khua môi có ngày mang hại. Trên đây là đường thành bại của công phu luyện tập Bát Đoạn Cẩm Nội Công, học giả khá tựa nương đó hành sự cho đặng khang an thân thể linh mẫn tinh thần, sống lâu trăm tuổi. Còn điều xin nói ra cùng chư võ gia quân tử, như cho đến nay việc biểu diễn thành quả của soạn giả cùng các đệ tử của soạn giả là điều nhằm nêu lên chứng tích của sự học luyện thành công để chư quân cùng phấn khởi tinh thần hầu bước mạnh trên đường nghệ thuật chớ chẳng phải có ý vọng động kia khác. Soạn giả thay mặt các Đạo đồ môn đệ thanh minh cùng chư học giả mọi môn phái võ gia trong và ngoài nước. Mời chư học giả nghiên cứu sang phần thực hành để thân thường an lạc, trí thường thảnh thơi… RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-01-02 Chương Thứ Nhì
Bát Đoạn Cẩm Thiếu Lâm Tự
Bát Đoạn Cẩm là tám phép luyện gân thịt và khí lực cho đặng sung mãn, giúp ích sống lâu vui hưởng cuộc đời. Người có sức khỏe thì giống người đi buôn có vốn, muốn mua hàng hóa gì cũng tùy nghi. Tập Bát Đoạn Cẩm này trẻ mau lớn, học giỏi, khôi ngô, mặt mày sáng sủa, lành mạnh tư tưởng. Trung niên tăng thêm khí lực, phát triển khả năng tổng quát, nhờ đả thông kinh mạch mà huyết khí sung cường hăng say làm việc, tiến bộ mọi mặt, người có tuổi thường xuyên luyện tập huyết khí luân chuyển và thay đổi luôn luôn nên da dẻ hồng hào, gân xương hoạt bát chận đứng tuổi già, yêu đời vui sống, thật là hạnh phúc lâu dài, các môn thể dục vận động Tây Phương không có môn nào so sánh được. Vì môn Bát Đoạn Cẩm có công năng hướng dẫn và thúc đẩy huyết và khí luân chuyển đều khắp trong châu thân nên tránh khỏi các bệnh tê thấp vì máu thiếu và cứng động mạch khi tuổi già. Tuổi trẻ tập Bát Đoạn Cẩm thân thể luôn luôn cường kiện, tinh thần luôn luôn linh mẫn, tuổi già thì thần thái uy nghi mà thân thể thì nhẹ nhàng tâm hồn khoáng đạt. Các Thiền Sư xưa, các Đạo Gia cổ lúc nào trông cũng phiêu hốt mà người đời thường dùng chữ Tiên Phong Đạo Cốt để chỉ là nhờ tập thường môn học này. Từ đời xưa cho đến nay có nhiều loại Bát Đoạn Cẩm được lưu truyền trong mọi giới, đến nổi mỗi người làm mỗi khác, số động tác cùng cách phép cũng đều sai biệt và số lần tập cũng khác nhau, đến có khi hơn tám (Bát) đoạn, có khi tới 12 đoạn, 24 đoạn. Và cách tập tùy lúc đứng, ngồi, nằm v…v…thật là không có phép tắc gì và cũng chẳng ai giải thích gì về sự hiểu biết của mình trong khi truyền bá và rèn luyện các môn Bát Đoạn Cẩm đó. Người có kiến thức chút xíu thì nói là của Tiên gia, v…v.. rồi cũng chẳng thể giải thích được gì hơn nên cứ ậm ừ trở tránh khi có người hỏi tới. Đa số các bậc thầy chỉ dạy làm chớ không dạy cho hiểu. Thôi thì hậu sinh chỉ nhắm mắt làm càn làm đại, tưởng tượng thần thoại lờ mờ mà chẳng hiểu mô tê lợi ích ra sao. Thương thay. Kẻ viết sách xưa nay chẳng hơn gì nhau mấy, thường rắp khuôn sao chép cho có bản, cho có tên mình in trên sách… đôi khi vì binh danh, đôi lúc vì có tâm hồn “Puôn Pán” mà nhắm mắt làm đùa chẳng chịu tham cứu học hỏi trước khi đặt bút thảo chương. Việc nầy không riêng trong lãnh vực nghề võ, mà các ngành văn nghệ khác cũng thế. Phải xét lại hết thảy. Xét luôn cả các văn gia học giả bên Tàu nữa chớ chẳng phải riêng chi xứ mình, các văn gia cở lớn của triều đình nhà Thanh cũng làm sách giả bán lấy tiền (thời buổi cực loạn thì lắm sự hư hoại phát sinh, từ thời Thanh sơ đến Văn Thanh, nhân dân Trung Quốc sống thời đại loạn còn hơn nước ta bây giờ) còn thiên hạ thì mặc tình. Nay học giả đọc sách nầy cần nên hiểu cho chánh lý là trong bầu trời có hai loại Bát Đoạn Cẩm mà thôi. Một của Đạo Gia và một của Phật Gia, có thể gọi là hai ngành Bát Đoạn Cẩm cũng đúng. Môn Bát Đoạn Cẩm của Đạo Gia vì chỗ tự tiện của đạo sĩ và nho sĩ xu thời đã bày lắm thứ, nhiều môn đặt nhiều bài bản lắm hiệu lắm tên nhưng chung quy ý vẫn nằm trong hơi thở, tức chủ trương vận dụng khí lực, gọi văn hoa là Đạo Dẫn Thuật hay Vận Khí Thuật. Bài bản lu bù (nhiều) nhưng người hiểu biết thấy rõ chân tánh, người kém cỏi mờ mịt nên khó thể học hành tới nơi tới chốn. Bát Đoạn Cẩm Thiếu Lâm không có nhiều bản cho lắm, đó là nhờ Thiền môn có tổ chức quy mô (trong chùa có nhiều ban nghiên cứu…viết sách, v..v..) nên lưu truyền được chánh bổn. Nhưng dù thế vẫn thấy được hai loại Bát Đoạn Cẩm. Loại nào cũng đúng tám đoạn, một loại chủ luyện gân xương và một loại chủ luyện khí lực. Mỗi loại có chỗ thái quá và thiếu quá. Để dung hòa cho đặng vẹn toàn, một bản Bát Đoạn Cẩm đầy đủ cả hai phần Luyện Gân Lực và Khí Lực được trình bày trong sách nầy. Nhờ sự sửa đổi (canh tân) nầy mà thiền sư và chúng môn đồ võ lâm, nhân loại được toại nguyện trên đường tu tập. Và bây giờ môn Bát Đoạn Cẩm toàn hảo nầy được truyền bá rộng rãi trong đại chúng làm nổi danh môn phái Thiếu Lâm ra cùng khắp Ngũ Đại Châu. Nhưng mà thế nào là các thế tập Vận Lực và thế nào là các thế Vận Khí? Điều nầy quí học giả sẽ được thấy và cảm nhận được ngay trong chương nầy, ở phần kế tiếp liền sau đây. Và để thưởng thức trước khi đi vào thực luyện, (giống như ta mở mũi hít hơi thơm của món ngon tưởng tượng cho đã cái rồi sau đó mới gắp đồ ăn đưa vào nhai…), soạn giả xin trình là trong Bát Đoạn Cẩm Thiếu Lâm hễ đoạn nào đứng thẳng đầu gối mà tập thì thế đó dùng luyện khí, đoạn nào đứng tấn Kỵ Mã mà tập thì dùng luyện Gân. Có vậy thôi, đơn giản thấy rõ, dể hiểu thấy rõ. Tuy thế, đoạn luyện khí cũng có vận lực phù trợ chớ chẳng phải tưởng tượng khơi khơi mà được, cũng như khi luyện gân cũng có vận khí trợ lực. Có sự bổ hợp như thế mới mau thành công, mới có sự liên hoàn động tác, chuyển động gân xương, thúc đẩy khí huyết, đả thông kinh mạch tạo dựng một thân thể cường tráng, uy nghi. Khi hiểu được những điều cần thiết (yếu quyết) nầy rồi thì không còn lo lắng, ngại ngùng lúc bắt tay vào việc luyện tập, cũng như chẳng thể có tập luyện mà chẳng có thành công. Hơn nửa đời soạn giả Cư Sĩ tôi chưa hề một lần làm chuyện gì mà mình chưa thấy hiểu ý nghĩa của sự việc, thì đối với chư học giả, võ gia, quân tử, soạn giả vẫn muốn quí vị thực hành theo con đường đó để sớm thành công. Đó là con đường sự thật, trí tri. Nay thì chư hiền đã rõ hiểu lý thuyết của Bát Đoạn Cẩm rồi, vậy xin mời nghiên cứu thực hành các động tác co duỗi sau để thân thường được mạnh khỏe, trí thường được thanh thản, hầu tài năng thiên bẩm được đà phát triển tối đa hỗ trợ đời, đi vào lịch sử… (Ai cũng đi vào lịch sử khi mà mình đã tự biết mình, ít ra cũng làm nên lịch sử vì mình đã có tích sự trong đời.) Nào, mời chư học giả thực hành cho biết Đạo vị lành mạnh mà từ cổ xưa không một ai được tôn vinh là thánh hiền mà không biết đến. A. CÁCH LUYỆN TẬP BÁT ĐOẠN CẨM Như học giả đã biết là Bát Đoạn Cẩm gồm có tám phép luyện tập, và không nói ai cũng hiểu đều phải tập luyện tuần tự từ phép một cho đến khi hết trong một buổi tập, theo đúng phương pháp sẽ được giảng tới trong phần thực hành kế sau. Nhưng muốn thực hành cho hết tám phép trong một buổi tập thì trước tiên học giả phải thuần thục từ phép một theo phép tuần tự nhi tiến (học từ từ theo thứ tự). Việc nầy không khó, chỉ cần thời gian ngắn là ai cũng thực hành được một cách tự nhiên. Điều cần chú ý khi thực hành là phải quan tâm làm đúng từ động tác một của mỗi Đoạn (mỗi đoạn có nhiều động tác) và làm đủ số lần cần phải lập lại cho mỗi động tác. Khi chấm dứt đoạn thứ nhất thì liền đó luyện tập đến đoạn thứ nhì sau khi buông tay nghỉ thong thả 3 phút đồng hồ. (Nếu đã thuần thì thời gian nghỉ chừng một phút đã đủ) tính ra thong thả mà tập thì người mới mỗi sáng có thể dành khoảng 45 phút để thao luyện và khi đã thuần rồi thời gian luyện tập rút lại còn 20 đến 25 phút là cùng. Số thời giờ ấy rất khiêm nhường so với bất kỳ môn thể thao vận động nào mà sự thành quả thâu đạt được lại tốt đẹp vượt bực hơn tất cả. Khi mới tập thì chú trọng về hình, nghĩa là sao cho đúng cách theo sách chỉ dẫn từ cách gồng chuyển chân tay, co vào, duỗi ra, hít thở, trợn mắt …. Muốn được như thế thì nên treo tấm kiếng (gương) để nhìn cho thấy chỗ sai mà sửa đổi. Nếu có người cùng tập sửa cho nhau thì càng hay hơn. Lúc thuần thục chú trọng tới ý, nghĩa là hơi thở được quên đi, động tác xóa bỏ mà chỉ quán tưởng thấy cái dụng ý của mỗi đoạn (ý tứ đó là ý nghĩa của mỗi câu khẩu quyết của mỗi đoạn, xem trong phần thực hành chương nầy.) Bao giờ làm được từ hình thức tới ý thức thì động tác lưu đi mà tâm như quên như nhớ, huyết mạch cuồn cuộn chuyển lưu, khí lực rần rần tụ tán trong mỗi co duỗi chân tay… bài tập trôi mau đến khi chấm dứt thì tự động dừng ấy nhờ Thần. Học giả tập đến bao giờ được như thế thì thân tâm trống không, cơ thể nhẹ nhàng vui tươi như trẻ, ăn uống ngon lành, ngủ nghê khoái lạc, đến như những công việc hàng ngày cho là rối rắm, mệt nhọc thì nay như đồ chơi và ngày giờ qua mau. Vì biết được thời giờ qua mau nên không phí thì giờ, do đó thành công hơn đời là như vậy đó. Không tập không biết, tập rồi biết ngay, việc nầy người ta ví đường có đi mới biết, chuông có đánh mới kêu. Kẻ làm biếng thần trí lờ mờ, lù đù chậm chạp, ngu ngơ, việc đời trăm việc cũng tại không người hướng dẫn, nếu biết được phương pháp này mà chuyên cần học luyện thì đời sống đổi khác tức thời, thậm chí đến như tuổi già là cái luật định của tạo hóa mà Bát Đoạn Cẩm còn cản được huống hồ. Về chỗ (vị trí) để luyện tập thì không gì tốt hơn nơi yên tĩnh và thoáng khí, không khí trong sạch bao giờ cũng là thức ăn bổ, là liều thuốc quí cải tạo sinh lực con người. Do đó có thể chọn một khoảng trống sạch sẽ cao ráo trong vườn (nếu ở nhà quê), trong sân, hoặc trong phòng nơi có cửa sổ mở thoáng mát ra hướng khô ráo sạch sẽ (khuông cửa phải lau chùi hết bụi bặm thường xuyên, nếu ở nhà sàn trên sông, trên thuyền, tàu thì đợi nước lớn không khí trong sạch mới tập.) Tốt nhất là tập vào mỗi sáng, tập xong đợi 10-15 phút sau tắm nước lạnh chà xát da bằng khăn bông, xơ dừa…. thì sau đó một ngày đẹp nhất định sẽ đến với chúng ta, vì chung quanh ta ai cũng là người đáng thương, đáng mến, đời sống thật có nhiều ý nghĩa… Tóm lại, khởi sự tập Bát Đoạn Cẩm phải: 1. Thuộc và làm đúng hình thức bên ngoài của từng động tác trong mỗi đoạn. 2. Khi thuộc Hình rồi phải thuần Ý, là cái mà mỗi khẩu quyết ghi rõ. 3. Lựa chỗ thoáng, sạch mà tập mỗi buổi bình minh, nếu không tập buổi tối sau bữa cơm hơn 3 giờ đồng hồ. 4. Tập xong 15 phút sau tắm và chà xát da. Uống một ly nước lọc sạch trước khi tập và sau, ly nhỏ thôi. B. TÁM ĐOẠN CỦA BÁT ĐOẠN CẨM Bát Đoạn Cẩm gồm có 8 đoạn, mỗi đoạn có một mô thức (hình dáng, thể thức) huấn luyện cơ thể khác nhau. Khác nhau từ cử động cho đến thần ý. Vì lẽ Bát Đoạn Cẩm được chế tạo để luyện tập cho đặng hiệu quả trong việc kiến tạo một thân thể cường tráng từ ngoài (Ngoại tráng) và cả bên trong (Nội tráng). Ngoài ra Bát Đoạn Cẩm còn dùng để trị liệu những bệnh trạng yếu nhược hư hao thường thấy trong mình của người đời. Ví như ai thường ngày hay uể oải thì tập Bát Đoạn Cẩm sẽ khỏi ngay; ăn uống khó tiêu hóa tập sẽ hết ngay, hay mệt tập khỏe ngay. Người tập võ công bị nội thương cũng được trị lành, v..v… nói nhiều không hết. Tổng quát Bát Đoạn Cẩm là Tám Phép Thần dùng tập luyện cho cường kiện thể xác, minh mẫn tâm thần và ngừa trị, hoặc trị mọi bệnh chứng thương, lao, cùng bồi bổ các cơ phận quan yếu giúp người hồi phục sinh lực trong đời sống lao động tiêu hao hàng ngày… Đây là phép thần, nhưng có tập luyện đúng thời mới Thần còn như đọc chơi cho biết mà không tập thì Thần cũng chẳng giúp được mình, giống như việc hàng ngày cầu xin cúng kiến cho mình được phúc, lộc, thọ mà không làm việc gì, bó gối ngồi chờ hoặc manh tâm hung ác, tà gian thì lộc, phúc nào đâu tới với mà thọ cũng giảm dần mau chóng theo ngày tháng vì cái tâm u ám nó hại mình. Học giả biết như thế thì tưởng chẳng cần luận bàn chi cho dài dòng tốn giấy, mà vứt bỏ hết mọi lý sự bắt tay luyện tập các động tác sau thì trong mấy tháng đã có sự khởi sắc trong đời sống hàng ngày rồi. Tức là vui rồi, vui rồi cần gì nói nhiều nữa, mà có nói nhiều cũng lại càng thêm vui. Ấy, thành công đang chờ quý vị đây. Nào chúng ta hãy tiến tới… Nhưng muốn tiến tới hãy học cho thuộc lòng Tám Câu “Thần chú” sau để làm lộ phí, hành trang rồi hãy lên đường. KHẨU QUYẾT BÁT ĐOẠN CẨM: 1. Đệ Nhất Đoạn Cẩm: Lưỡng Thủ Kình Thiên Lý Tam Tiêu (Hai tay chống trời tưởng “tới” Tam Tiêu) 2. Đệ Nhị Đoạn Cẩm: Tả Hữu Khai Cung Tự Xạ Điêu (Trái phải dương cung “như” bắn chim điêu) 3. Đệ Tam Đoạn Cẩm: Điều Lý Tỳ Vị Đơn Cử Thủ (Điều hòa Tỳ Vị “một” tay đẩy lên) 4. Đệ Tứ Đoạn Cẩm: Ngũ Lao Thất Thương Vọng Hậu Tiều (Năm Lao Ngũ Thương liếc nhìn “phía”sau) 5. Đệ Ngũ Đoạn Cẩm: Dao Đầu Bài Vĩ Khứ Tâm Hỏa (Lắc đầu vẫy đuôi [1] dứt “bỏ” tính nóng nảy) 6. Đệ Lục Đoạn Cẩm: Bối Hậu Thất Điên Bách Bệnh Tiêu (Sờ xương cùn 7 lần trăm bệnh tiêu) 7. Đệ Thất Đoạn Cẩm: Toàn Quyền Nộ Mục Tăng Khí Lực (Nắm chặt quyền, mắt giận [2] , tăng khí lực) 8. Đệ Bát Đoạn Cẩm: Lưỡng Thủ Phan Túc Cố Thận Eo (Hai tay kéo hai chân bền thận eo) Chú ý: Chữ nghiêng phiên nghĩa Khẩu quyết Bát Đoạn Cẩm chưa sát nghĩa lắm cần đọc rõ chi tiết mỗi đoạn mới biết được đầy đủ. [1]Vẫy đuôi: ý nói uốn éo mông đít như con rắn vẫy đuôi [2]Mất giận: dịch chữ Nộ mục, ở đây nên hiểu là tập trúng ý lực nơi mắt như giận dữ và nắm quyền đấm ra làm tăng khí lực… RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-01-05 ĐỆ NHẤT ĐOẠN CẨM
THẾ DỰ BỊ: Đứng thẳng, hai tay buông xuôi hai bên đùi, lòng bàn tay úp vào hai bên đùi, hai gót chân khí nhau, hai mũi bàn chân mở ra hình chữ V. Mắt nhìn thẳng bằng ngang, hơi thở điều hòa tự nhiên. (Hình 1) 1. Lưỡng Thủ Kinh Thiên Lý Tam Tiêu (Hai tay chống trời tưởng tam tiêu) Phép Luyện: Khi tập đông người phải sắp hàng ngang và dọc thẳng nhau cùng khoảng cách giữa mỗi người với nhau bằng hai tay giăng thẳng chạm nhau là được. Nếu đơn luyện (luyện một mình) thì không cần chú trọng đến sắp hàng. Đoạn nầy có tám động tác, tập luyện tuần tự như sau: Động tác 1: Hai bàn tay từ từ xoay mở lòng bàn tay ra ngoài sang hai hướng trái phải. Đoạn từ từ đưa ngửa lên, hai cánh tay ngang bằng rồi tảng lên trên đỉnh đầu, các ngón đan vào nhau (Hình 2 và 3). Động tác 2: Hai cổ tay vận lực (gồng) vừa xoay ngửa lòng bàn tay lên trời, độ cao không thay đổi (Hình 4). Kế đẩy cao lên trời chân nhón gót. YẾU LÝ: Động tác 1, từ từ hít hơi vào thì đồng thời xoay cổ tay mở bàn tay ra rồi hướng lên trời mà đưa lên thì hít hơi dài theo cho đến khi hai bàn tay đan vào nhau mới ngưng. Kế theo là động tác 2, gồng cổ tay xoay ngửa lòng hai bàn tay lên trời, hai cánh tay thẳng, nhón gót thì giữ kín hơi trong phổi không hít thêm cũng không thở bớt ra. Quan trọng là chỗ vận lực đẩy chưởng lên gọi là Lưỡng Thủ Kình Thiên, thì phải tưởng tượng như đang chống đỡ một bầu trời đang sập xuống đầu mình, do đó phải vận toàn lực mà đẫy lên không thể đẩy hời hợt được. Lúc đẩy lên mắt không nhìn theo tay mà Thần thì quán tưởng tới Tam Tiêu từ trên xuống dưới thông suốt. (Xem tiếp Yếu Lý động tác kế). Động tác 3: Buông lỏng hai bàn tay rồi từ từ hạ xuống đỉnh đầu, lòng bàn tay vẫn để ngửa. Thở ra bằng mũi hoặc thổi nhẹ hơi ra vừa mũi vừa miệng. Hai chân đồng thời cũng hạ xuống đứng bình thường. Chân tay nhịp nhàng. (Hình 5) Kế, hít hơi vào hai bàn tay vận lực đẩy lên, hai gót chân cũng nhón lên theo. Khi đẩy thẳng tay thì phổi cũng đầy hơi, dĩ nhiên hít vào bằng mũi, miệng ngậm kín. (Hình 6)… YẾU LÝ: Khi nhón gót đẩy song chưởng lên tận cùng cao thì dừng lại một vài giây đồng hồ trước khi xả lực (buông lỏng) để thu tay trở xuống trên đỉnh đầu. Trong mấy giây đồng hồ ngưng lại trên cực điểm cao thì tâm quán tưởng đả thông hai Kinh Tam Tiêu, tức thông suốt từ đầu ngón tay giữa đến đầu chót đuôi lông mày. Kinh nầy chạy bên ngoài cánh tay, qua vai lên trái tai rồi bọc ra trước vành tai lên đuôi mắt, tổng cộng là 23 huyệt. Hai kinh nầy có tác dụng hô hấp, tiêu hóa và các bộ phận sinh dục cũng như bài tiết. Khi hai kinh Tam Tiêu nầy đả thông thời không thể mắc bệnh thuộc về Ba Tùng: và khi có bệnh về Ba Tùng thì phải luyện tập đoạn này để điều trị. Vì kinh Tam Tiêu nằm ở bên ngoài cánh tay nên động tác lật ngược chưởng tâm bàn tay lên làm căng thẳng toàn bộ gân mạch phần ngoài cánh tay làm luồng khí lực được lưu thông dể dàng. Để phụ trợ và hiểu biết rõ về bản thể mình hầu dần dà nghe được mọi biến động của châu thân trong khi đẩy chưởng phải quán tưởng khí lực chạy mạnh từ đầu ngón tay giữa đến đuôi mày. Đó là ý nghĩa của câu khẩu quyết… Lý Tam Tiêu. Ngoài ra chân nhón gót lên sức nặng tụ trên các đầu ngón chân, nhất là ngón cái làm căng thẳng vùng sau đùi chân phía bên trong và phần bụng trước ển tới thúc đẩy kinh Tỳ Tạng tức Túc Thái Âm Kỳ Kinh, gồm 21 huyện được đả thông. Ngoài ra khi hạ gót chân xuống mũi bàn chân uốn lên thì phần toàn bộ đùi trước từ dưới lên trên căng cứng giúp đả thông kinh Dạ dày tức Túc Dương Kinh Vị, gồm 45 huyệt… Do đó động tác của toàn đoạn làm lợi ích cho cả Ba Tùng. Ở đây hạn hẹp giải thích không được rõ, chỉ nói đại cương công dụng của động tác và tại sao nó làm được lợi ích như vậy thôi. Ngoài ra muốn tham cứu do soạn giả biên soạn thì mới hiểu đến chi tiết. Điều tưởng nên nhắc cho rõ là từ xưa tới nay chẳng ai biết tập Bát Đoạn Cẩm cho lợi ích đến chỗ tận cùng của nó, cũng như chẳng ai giải thích rõ được, dù bên Tàu hay bên Nam ta. Nay soạn giả nói rõ ra cho học giả cùng hiểu, ấy là người đầu tiên khám phá được ẩn ý của cổ nhân mấy ngàn năm, sở dĩ soạn giả khám phá được là nhờ có học qua Y Lý và đạt thành Nội Công thượng thừa đến gọi là giác ngộ. Nhờ đắc đạo mới dám nói dạy Nội Công cấp tốc cho người cao học võ thuật cùng dạy thuật Điểm Huyệt mà người đời tương truyền chớ chẳng thấy ai làm được. Soạn giả sẽ viết sách dạy điểm huyệt theo kinh nghiệm bản thân xuất bản nay mai ai học cũng thấy kết quả…. Động tác 4 – 5 – 6: Đẩy chưởng lên và hạ xuống 3 lần như động tác 3 vừa học trên. Thu tay xuống đầu thì buông lỏng, gồng thì đẩy lên. Tay lỏng thì thở ra, hít vào thì đẩy lên. Hạ xuống thì cong các ngón chân lên. (Xem hình 7-8, Hình 7 nhìn từ một bên). YẾU LÝ: Động tác thực hiện đều đều không mau không chậm, hơi thở cũng tùy theo vận chuyển lên xuống mà thở hít. Quán tưởng lên xuống như dòng nước chảy. Tập mà nghe rêm tay phần cánh tay ngoài thì đúng, không rêm nên coi lại là vì đẩy chưa ngay đỉnh đầu. Trẹch ra trước hoặc dịch về sau đều không thông được các kinh. Phần chân nghe mỏi phần trước và phía sau mé trên lên tới bụng là đúng. Nếu không nghe hơi hám gì là tại nhón gót chưa tới chỗ cao nhất và chưa cong ngón chân cái, trỏ lên khi hạ gót chân. Ban đầu tập thấy rêm mỏi nhưng sau hơn tuần trở lên thì mỗi lần đẩy tay lên xuống vài lần thấy rần rần trong chân tay ấy là khí được điều động đả thông như nước chảy trong ống. Đó là điềm tốt. Nói thêm cho rõ, đan ngón tay hoặc bàn tay nầy đè lên mu bàn tay kia đều đúng cả nhưng đan ngón tay thì kết quả hơn, dễ thúc đẩy kinh mạch hơn. Hiểu rõ thì khỏi dị nghị. Động tác 7: Làm đến động tác 7, đẩy chưởng cao chân chưa hạ xuống thì mở rời song chưởng ra rồi đưa xuống hai bên từ từ, lòng bàn tay úp xuống hướng mặt đất, hai cánh tay thẳng, bằng ngang song song mặt đất, trong khi chân vẫn còn nhón gót. Đưa tay xuống từ từ không làm mau (Hình 8). Động tác 8: Từ từ hạ gót chân xuống cong ngón các ngón chân lên, hai tay đưa xuống úp hai bên đùi như động tác chuẩn bị. Thở hít tự nhiên. (Hình 9) Kế duỗi thẳng các ngón chân xuống đứng bình thường. YẾU LÝ: Tập xong hết động tác thứ 8 thì trở lại tập động tác 1-2-3…cho đến 8 và tập làm 4 lần cả thẩy trước khi qua đoạn thứ hai. Nghĩa là đoạn thứ nhất tập từ đầu đến cuối làm 4 lần. Lưu ý: Nếu hai bàn tay đan vào nhau như cài răng lược thì mỗi khi thu chưởng về sát đỉnh đầu phải xoay cổ tay cho lòng bàn tay úp xuống đỉnh đầu; nếu bàn tay úp lên nhau thì khỏi xoay. Soạn giả nhắc lại lần nữa, đoạn thứ nhất nầy chủ luyện đả thông hai kinh Tam Tiêu nằm ở phía ngoài hai cánh tay từ đầu ngón tay giữa cho đến đuôi chân mày. Làm tăng bổ toàn bộ cho Ba Tùng trong châu thân. Đồng thời nhón chân và cong ngón chân lên làm đả thông hai kinh Tỳ Tạng và hai kinh Dạ Dày giúp ăn ngon ngủ được và trí tuệ tăng tiến. Theo Giáo Sư Soulié de Morant thì kinh Tỳ Tạng giúp đứa nhỏ (thanh niên) mau lớn và phát triển khả năng toán học. Theo soạn giả kinh nghiệm thì luyện đả thông một lượt ba kinh Tam Tiêu, kinh tỳ Tạng và kinh Dạ Dày làm thân thể rất mau cường tráng, trước nhất điều chỉnh mọi suy yếu về sinh lý và sinh dục, sau đến bồi bổ hiệu năng làm tăng tiến sức mạnh của Ba Tùng và hệ thần kinh. Do đó sau 30 ngày chuyên tập nội đoạn này cho đúng cách thì thân đã đổi khác, từ trầm trệ hóa ra nhẹ nhàng. Một người lười biếng sẽ hóa ra siêng năng, thích làm việc…việc gì cũng thích. Soạn giả bảo đảm lời dạy nầy của mình. RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-01-07 ĐỆ NHỊ ĐOẠN CẨM
CHUẨN BỊ: Khi tập xong Đệ Nhất Đoạn Cẩm thì thu tay trở về thế dự bị như ban đầu, nghỉ một phút rồi tiếp tục tập tới đoạn thứ hai. Người yếu nên nghỉ 2-3 phút (Hình 10). 2. Tả Hữu Khai Cung Tự Xạ Điêu (Trái phải dương cung bắn chim điêu) Khác hơn đoạn thứ nhất chủ luyện khí đả thông kinh mạch, đây doạn thứ nhì nầy chủ luyện lực gân. Luyện gân thì tấn Kỵ Mã. Và đoạn nầy được tập luyện với tấn Kỵ mã và Cung Bộ. Đoạn nhì Bát Đoạn Cẩm chủ luyện gân lực cho đôi tay, thích ứng cho mọi vận động võ thuật cũng như lao động thường thức hàng ngày của con người. Động tác 1: Tư thế chuẩn bị, hai chân nhảy ra hai bên một bước rộng hơn vai, hai bàn chân mở song song nhau, hai tay đưa thẳng bằng ngang phải trái, kế co tay vào ngang trước ngực, bàn tay trái dùng sức (vận lực) mở các ngón ra, các ngón bấu cong cong vào như bấu lấy quả cầu bằng sắt vậy (vừa nặng vừa trơn láng) lòng bàn tay hướng về hướng bên phải, và hổ khẩu hướng lên trời. Tay phải nắm lại thành quyền nhưng ngón trỏ mở ngay trỏ thẳng đứng lên trong lúc ngón cái kiềm (đè) lên ngón giữa. Mắt nhìn ngón trỏ tay phải theo đường bằng ngang về hướng phải. (Hình 11)
Động tác 2: Đầu xoay nhìn về hướng phải, chuyển gân đẩy quyền phải. “CHỈ” ngón trỏ về hướng phải, chưởng trái nắm lại thành quyền đồng thời cũng chuyển gân kéo bằng ngang về hướng trái, lòng nắm tay úp vào trước ngực, tấn bộ cùng lúc rùn thấp xuống chuyển thành chảo mã. (Hình 12) YẾU LÝ: Động tác 1, tay phải như cầm cây cung, chưởng trái như cầm dây cung mà tra tên vào, vận sức chuẩn bị dương cung nên hơi được hít đầy phổi. Kế động tác 2, rùn bộ là dương cung, tưởng tượng dương cây cung bằng sắt nên phải vận lực nơi tay và chân rùn mình bám đất. Nếu quen dần với lối vận lực lên xuống thì có thể tưởng tượng là mình đang cỡi ngựa trên đường gập ghềnh và dương cung… Động tác 3:… Nới lỏng nắm tay phải rồi mở ra thành chưởng, chưởng tâm chiếu về hướng phải, kế thả lỏng hai tay, thở ra đồng lúc nhỏm người dậy hai tay thu về thành động tác 1. (Hình 13 và 11) Động tác 4: Làm lại hai (2) lần dương cung bắn sang hướng phải theo kiểu trồi lên sụp xuống tức động tác 1-2-3. Động tác 5: …. Dương cung bắn sang hướng trái, chưởng phải vận lực bấu vào trước ngực bao lấy đầu quyền trái, trong lúc ngón trỏ quyền nầy chỉ thẳng đứng lên. Động tác và ý nghĩa giống hệt động tác 1 nhưng chỉ đổi tay, mắt nhìn theo ngón trỏ trái về hướng trái. (Hình 14) Động tác 6: Vận lực dương cung ra bắn về bên trái, hạ thấp tấn bộ, buông lên, thu tay, nhỏm dậy. (Hình 15-16) Động tác nầy cũng làm ba lần như bên hướng phải. Tức đứng nhấp nhỏm bắn cung mỗi bên ba lần… YẾU LÝ: Từ động tác 1 đến động tác 6 thật ra là thực hiện lặp lại của động tác 1-2-3 và đổi bên. Ý nghĩa của nó là bắn cung theo lối nhấp nhỏm gập ghềnh như đang khi cỡi ngựa trên đường gập ghềnh mà phi nhanh nên phải trồi lên sụt xuống. Do đó phần chân (mã bộ) thì linh động nhịp nhàng, mà phần tay thì vững vàng chắc chắn, lực được vận đầy, thân eo thẳng tắp. Có được như thế thì mục tiêu mới chuẩn đích. Điều quan trọng phải làm trong ba động tác bắn cung nầy là lắp tên nhỏm dậy, bắn thì xuống tấn. Bàn tay nắm cung, ngón cái đè mạnh trên ngón giữa, ngón cái đưa cao, cánh tay thẳng, tận lực đẩy tới. Bàn tay cầm dây cung nắm chặt tận lực kéo về sau bên đối nghịch cho thẳng căng ngực. Sức mạnh được vận dụng nơi nắm tay vào chỗ eo lại. Do đó khi tập động tác nầy thấy rêm nhức phần trên cổ tay nắm cây cung và bắp thịt bắp tay trên tay nầy, và tay kéo dây thì chỉ mỏi ở bắp tay trên mà thôi. Làm đều hai tay thì mỏi đều. Nhớ phải gồng. Động tác 7: … Làm xong động tác bắn bên trái thì xả lực, kế xoay mặt về hướng phải tra tên vào cung, xuống tấn bộ và bắn về bên phải ba lần mà chân không động (bất động). Động tác làm chậm vận lực đúng mức, bàn tay nắm và duỗi ngón trỏ cực lực. Kéo dây cung với tất cả sức mạnh thân mình. (Hình 17) Động tác 8: … Bắn sang trái trong thế bất động ba lần, giống như bắn bên phải trên động tác 7. (Hình 18) Xong xả lực nhảy khép hai bàn chân vào sát nhau, tay buông tự nhiên hai bên đùi, nghỉ một phút để bắt đầu làm đến đoạn thứ ba.
YẾU LÝ: Toàn đoạn gồm hai thế bắn cung, bắn theo lối nhấp nhỏm và bắn trong tư thế đứng vững. Thế bắn nhấp nhỏm chú trọng nhịp nhàng bỏ chân, hễ trồi lên thì nạp tên, thở ra xả lực, xuống bộ thì đã đầy hơi, dương cung, nhả tên. Quan trọng ở chỗ đẩy cung và kéo tên (kéo dây cung), nắm tay đẩy cung lòng nắm tay ngửa tới hướng hẳn, ngón trỏ chỉ thẳng đứng, ngón cái kẹp chặt ngón giữa tức giữ cho nắm tay được cứng, và cánh tay thì thẳng. Tay kéo dây cung từ chưởng bấu từ từ nắm chặt lại như móng con chim ưng rồi ngón cái kiềm trên hai lóng thứ nhất của ngón trỏ và giữa, cánh tay thì kéo cực lực ngang về hướng đối nghịch. Lồng ngực ển tới trước. Hai tay đồng vận lực đẩy tới và kéo ra một lúc với động tác xuống tấn. Giữ bất động trong 6 giây đồng hồ, xong mới xả lực trồi dậy thu tay về vị thế lắp tên. Lắp tên và bắn theo nhịp độ đều và chậm. Động tác bắn bất động chỉ khác là không nhấp nhỏm. Hơi thở thì, lúc xả lực thì thở ra, hít đầy hơi rồi thì vận lực (gồng) và khi vận lực thì khí đầy trong phổi ngưng thở.
Điều nên nhớ là phải kiểm điểm coi hình thức mình làm có giống với sách không, kế đến ý thức có được đầy đủ hay còn phân tâm tạp niệm (nghĩ bậy bạ không chú ý vận gân). Kết quả của đoạn nầy làm mạnh hai cánh tay, thông hoạt và cứng cáp đôi chân. Làm thông kinh Ruột Già gồm 20 huyệt khởi đầu từ đầu ngón trỏ chạy theo phần trên cánh tay cho tới cánh mũi. Trị được bệnh táo bón, tê bại, phong thấp nhức gân khớp xương, nhất là đau gân tay, bán thân bất toại. RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-01-10 ĐỆ TAM ĐOẠN CẨM
3. ĐIỀU LÝ TỲ VỊ ĐƠN CỬ THỦ (Điều hòa Tỳ Vị một tay đẩy lên) CHUẨN BỊ: Đứng thẳng, hai tay buông xuôi hai bên đùi giống như thế chuẩn bị hai đoạn trước… mắt nhìn thẳng tới trước, hơi thở điều hỏa. (Hình 19)
Động tác 1: Tay phải từ từ đưa (đở) lên thẳng cánh theo chiều bên phải, đến khi tay cao ngang vai thì các ngón của bàn tay từ từ ển (cong) lên bằng cách cong nơi cổ ta, trong khi cánh tay được đưa lên từ từ không dừng lại. Khi cánh tay thẳng đứng với thân mình thì bàn tay đã hoàn toàn ngửa lòng lên trời, mũi bàn tay chỉ về hướng bên trái. Các phần khác không lay động. (Hình 20) Động tác 2: Cánh tay phải từ từ co chỏ hạ thấp lưng bàn may (mu) xuống sát đỉnh đầu, chỏ ngang hướng phải, lòng bàn tay vẫn chiếu thẳng lên trời. Trong khi bàn tay phải hạ xuống đỉnh đầu thì bàn tay trái nắm lại thành quyền cũng đồng lúc co chỏ thu quyền lên cao ngang hông. Hơi hít đều, giữ yên trong phổi (như hình 25 nhưng đổi tay). Kế nắm tay trái mở ra thành chưởng. (Hình 21) YẾU LÝ: Động tác thứ nhất đưa tay lên mà thân không động, vai để mềm mà cổ tay phải vận động, theo tay đưa lên mũi hít đầy hơi. Khi tay tới đỉnh đầu nghe rêm phần gân hội giữa mu bàn tay và bắp thịt của cánh tay sau thì đúng, nhược bằng chẳng thấy rêm đau thì sai vì cánh tay đưa lên đã trệch đi tới trước hoặc sau không ngay hàng với vai. Đồng thời với động tác đưa tay phải thì chân phải cũng từ từ lún (trì) xuống đất, khi mu bàn tay và bắp tay nghe rêm thì bên hông phải cho đến chân (phần trước của chân) cũng nghe rêm rêm. Tập lâu mỗi lần đẩy tay lên nghe mát lạnh từ một bên hông tới đùi và chân trước, ấy là khí lực lưu thông. Co tay trái lên là hỗ trợ sự căng thẳng của hông phải tạo điều kiện cho khí lực lưu thông trong kinh Dạ Dày cùng kinh Tỳ Tạng. Đây là cách điều hòa khí lực hữu hiệu nhất không có bậc bô lão nào cùng võ gia nào tham luyện Bát Đoạn Cẩm mà không hiểu. Động tác 3-4… Tiếp theo động tác trước. Bàn tay phải xoay lòng bàn tay úp xuống đỉnh đầu (gồng cứng mà xoay), kế xoay trở lên rồi đẩy chưởng thẳng lên đỉnh đầu, tay trái đẩy xuống và nắm lại thành quyền, hít hơi vào (thở ra ở động tác 2). Đoạn hạ chưởng xuống đỉnh đầu rồi lại đẩy lên. Hạ xuống xong thì thở ra, kế hít hơi vào thì đẩy chưởng lên…. Tức thực hiện 2 lần đẩy lên hạ xuống. (Hình 22). Nói rõ hơn từ động tác 1 tới động tác 4 làm cả thảy 3 lần đẩy chưởng lên và 3 lần hạ chưởng xuống, tức 3 lần điều lý kinh Tỳ Vị bên phải. Trong 3 động tác nầy có 3 lên hít vào và thở ra. Động tác 5:…. Tiếp theo hình 22. Chưởng phải hạ xuống (thẳng tay) bên đùi đồng thời chưởng trái (thẳng tay) đưa lên rồi lật cổ tay cho chưởng tâm ngửa lên trời ngay giữa đỉnh đầu như Hình 23. YẾU LÝ: Động tác 3-4 là động tác chót của 3 lần vận chuyển bàn tay phải để điều hòa kinh Tỳ Vị bên phải. Động tác 5 là động tác giao hoán (thay đổi) từ thế chưởng đẩy lên tay phải thay đổi bởi tay trái, để bắt đầu sau đó tập đả thông hai kinh bên trái. Điều nên nhớ ở đây là hai chữ Giao Hoán, tức thay nhau, vậy hễ tay nầy xuống thì tay kia lên, tay nầy nhích động xuống bao nhiêu thì tay nọ nhích động lên bấy nhiêu. Tay phải xuống úp dần xuống rồi vào đùi, ngược lại tay trái từ úp bên đùi trái sau khi lên ngang bằng vai thì ngửa dần cho đến đỉnh đầu thì ngửa thẳng lên trời. Tay trái lên thì chân trái lún xuống. Mũi cũng hít vào từ từ cho đến khi tay đến đỉnh đầu thì phổi đầy hơi. Ở động tác giao hoán nầy coi như chưa hề vận động nguồn khí lực nào, chỉ đưa tay suông cho có hình thức nhịp nhàng mà thôi. Dù vậy khi đưa lên luồng khí lực cũng tự nhiên lưu thông vì cánh tay xoay, hông trái thẳng băng và chân trái lún xuống, cử động như thế làm hai kinh Tỳ Vị bị điều động, luồng khí lực tự nhiên có đủ điều kiện lưu thông. Nếu thêm vào đó một chuyển động của tay, chưởng và ý tưởng tập trung là lực khí cuồn cuộn tuôn tràn trong hai kinh Dạ Dày và Lá Lách nầy. Động tác 6:… Bàn tay phải nắm lại thành quyền, chỏ co lên, thở nhẹ ra đồng thời chưởng trái hạ mu bàn tay xuống gần đỉnh đầu, gần tới đỉnh đầu thì hít hơi vào đầy phổi kế chuyển lực vào cổ tay trái, bàn tay phải cũng co lên cực lực ngang hông. Kế nắm tay phải mở ra thành chưởng như trên động tác 2. (Hình 24-25) Động tác 7-8: Thực hiện lại hai chu kỳ đẩy chưởng lên và hạ xuống đỉnh đầu, lún chân, v…v… Tất cả đều giống hệt các động tác 1 đến 4 nhưng chỉ khác tay mà thôi. Sau hết là giao hoán tay phải lên rồi thực hiện lại 3 lần đẩy chưởng tay phải đoạn giao hoán tay trái lên đẩy 3 lần chưởng trái. Tức là toàn đoạn ba nầy cũng tập cả thảy 12 lần. Các đoạn khác cũng không khác. YẾU LÝ: Như đã giảng trước, đoạn ba nầy dung luyện khí, đả thông hai kinh Dạ Dày và kinh Lá Lách. Sự vận động có chỗ giống với Đoạn Thứ Nhất nhưng có chỗ khác là chân ở động tác của đoạn thứ nhất có nhón lên hạ xuống, ở đoạn ba chân không nhón lên, mà chỉ có trầm lún một bên. Về tay thì ở đoạn 3 khi hạ sát đầu có gồng chuyển. Có thể nói đoạn thứ nhất là một thế tập tổng quát có khả năng huy động nhiều kinh mạch trong một chuyển động toàn diện cơ thể. Còn đoạn ba chỉ chú trọng đến hai kinh Tỳ và Vị kinh. Được biết ông bà xưa chủ trương ăn được ngủ được là tiên nên đã chú trọng rất nhiều tới những cơ quan thuộc Ba Tùng gọi chung là Ngũ Tạng Lục Phủ, gọi theo tiếng đời mới bây giờ là Bộ Máy Sinh Lý, do đó mới nghĩ ra phương pháp thần diệu vận động để kích thích gây nhiều lợi ích cho các cơ quan, vừa tu bổ vừa kiến tạo lại, vừa phát triển năng lực. Vì vậy khi tập Bát Đoạn Cẩm người ta sẽ ăn ngon ngủ được, mau đói, đái ỉa (tiểu tiện) rất thông suốt, sinh lý mạnh cho tuổi già, trẻ con mau lớn học giỏi, nhất là giỏi toán học. Sự kiểm chứng đã có các bác học Tây Phương đảm trách xác nhận. Tiếc thay phương pháp lợi ích cao đẳng như thế mà mấy trăm năm nay ông bà mình cứ bí truyền thành ra con cháu mới thua sút người ta. Từ đây về sau thì chuyện đời đã khác rồi, vận hội mới đã tới. RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-01-10 ĐỆ TỨ ĐOẠN CẨM
CHUẨN BỊ: Như mọi đoạn trong Bát Đoạn Cẩm, hễ muốn bắt đầu luyện đoạn nào đều phải đứng thế chuẩn bị trước rồi sau đó mới khởi luyện. Và khi chấm dứt cả đoạn đều cũng phải trở về thế chuẩn bị ban đầu rồi nghỉ ngơi trong vài ba phút trước khi tập đoạn kế tiếp. Do đó dù trong một đoạn nào không nhắc tới trở về chuẩn bị khi hết đoạn thì học giả cũng phải hiểu là phải rút chân trở về thế chuẩn bị. Mọi thế chuẩn bị đều giống nhau là đứng thẳng hai chân khít nhau, hai bàn tay úp vào hai bên đùi, mắt nhìn thẳng và hơi thở điều hòa. (Hình 26) 4. Ngũ Lao Thất Thương Vọng Hậu Tiền (Năm lao bảy thương liếc nhìn phía sau) Đoạn nầy chủ luyện Não Tủy, diệt trừ năm bệnh Lao và bảy bệnh Thương Hệ Thần Kinh Não Tủy bị mệt thì mọi cơ quan trong châu thân đều ảnh hưởng trầm trọng. Mọi sự mệt mỏi giả tạo có thể xảy ra do óc đánh lừa cơ thể, từ đó sanh các chứng Lao Thương, và cũng do nhiều vấn đề suy nghĩ phúc tạp trong đời sống tranh đấu hàng ngày người ta phải đối phó nên gây nên Lao Thương nhẹ hoặc nặng. Theo tiếng đời mới của Y Học Thái Tây gọi là suy nhược thần kinh hệ. Để lấy lại quân bình thần kinh và khinh khoái, linh hoạt đầu óc, phép tập số bốn nầy có giá trị đáng được ca ngợi. Học giả thử ngay sẽ thấy là ngoài sức tưởng tượng của mình, một niềm vui đến ngay sau vài cử động. Một món thần dược quá rẻ tiền. Ngoài thành tích trị lao thương, nó còn phát triển nghị lực và sức mạnh của cổ, gân, xương cổ, tiểu não, giúp võ gia sức lực đủ chịu đựng các đòn công dũng mãnh của đối phương. Động tác 1: Song chưởng đưa xéo nhau lên trước mũi (không chạm mũi), bàn tay phải trong, bàn tay trái ngoài sát mu bàn tay phải. Tay đưa lên từ từ và từ từ hít hơi đầy phổi khi tay tới vị trí của động tác. (Hình 27) YẾU LÝ: Đoạn Bốn nầy vận động toàn bộ kinh mạch trên hai cánh tay như Kinh Phổi, Kinh Ruột Già, Kinh Tim, Kinh Ruột Non, Kinh Màng Bao Tim, Kinh Tam Tiêu, vì hai tay giang thẳng phát động lực lượng, cộng động tác cong các ngón tay làm thúc bách khí lực trong kinh phải di chuyển, cái ngẹo đầu càng tăng thêm sự thúc bách khí lực mãnh liệt… Ngoài ra xoay cổ còn gây kích thích hệ thần kinh vốn từ đầu chạy tỏa xuống châu thân mà cổ là chỗ tụ hội duy nhất có thể vận dụng dễ dàng. Đây là phương pháp thể dục của ông bà mình nên phải giảng giải theo kinh mạch là sở học riêng biệt của ông bà, thành ra nhiều học giả Tây học còn nhỏ tuổi chưa nghiên cứu có hơi khó hiểu, kỳ dư tại Tây phương hay các bác sĩ có tuổi tại quê nhà (VN) thì chẳng có gì xa lạ. Vụ nầy chẳng qua như đời nay học Anh Pháp văn, xưa học Hán văn, ngôn ngữ nào cũng có chỗ hay nếu ta am hiểu nó. Vì sợ thất bổn điều phát kiến tu chứng nên soạn giả ghi vào đây những điều rườm rà, đáng ra chỉ ghi suông các động tác cũng đủ. Nhưng chắc nhiều học giả cũng đồng ý thà có hơi rườm rà còn hơn thất bổn làm mất di tích văn minh học vấn, kho tàng kiến thức của Ông Gà mình. Cây có cội, nước có nguồn, người ta có tổ tiên Ông Bà. Học kiến thức của Ông Bà phải nhớ Ông Bà. Ông Bà mình là đất nước mình, đất nước mình tức nền văn minh Triết Học Đông Phương, một mặt trời vĩ đại mà Tây phương ngày nay đã đổ xô đến nghiên cứu học hỏi. (Triết Học Đông Phương gồm Y, Võ, Đạo, tức là Y học cứu dân, Võ học mạnh dân và giữ nước, Đạo để dìu dắt dân theo khuôn phép xã hội, an lạc khi sống và bình thản khi già chết.) Trừ các bậc đại kiến thức, dân mình có hiểu. Hiểu để tự biết mình. Động tác 2:… Chân phải chậm chậm bỏ sang bên phải khoảng cách giữa hai bàn chân bằng vai, đồng thời vận lực (gồng) hai tay đẩy sang hai bên trái phải, vừa đẩy vừa mở bàn tay ra cho đến khi thẳng cánh tay thì song chưởng (hai lòng bàn tay) chiếu thẳng về hai hướng trái-phải, mũi bàn tay dựng đứng, các ngón khít nhau kể cả ngón cái. Mắt nhìn theo bàn tay phải. Hít thêm khí trời nén xuống bụng dưới, kế xoay bàn tay về sau cho cạnh bàn tay song song với mặt đất (hai tay đều xoay, cổ tay xoay), hông đồng thời xoay theo về bên phải. (Hình 28) YẾU LÝ: Chân phải bước ra chậm chạp, tay vận lực đẩy ra cũng chậm chạp cho đến khi thẳng tay thì hông xoay theo, mắt nhìn theo tay phải từ đầu, đến khi hông xoay cực lực thì bàn tay mới vặn thêm về sau, hít thêm khí. Động tác 3:… Xoay hông trởi về vị trí bình thường, hai bàn tay cũng xoay về vị trí thẳng đứng, kế thở hơi ra từ từ, chân phải cũng từ từ đưa về sát chân trái đồng thời hai tay xả lực buông xuôi xuống hai bên đùi, nhưng mắt vẫn cứ nhìn về hướng phải. (Hình 29) Động tác 4:… Hít hơi vừa phổi (không đầy) đoạn lên gân cổ rồi từ từ xoay cổ sang hướng trái (nhìn sang bên trái). Các phần khác không động đậy. (Hình 30) Động tác 5: Hít thêm đầy hơi rồi từ từ gồng cổ xoay vào ngay giữa rồi sang bên phải. Mắt cố liếc nhìn ra sau lưng. (Giống hình 29) YẾU LÝ: Động tác ba nới lỏng toàn diện thân, tay, thu chân về vị trí chuẩn bị, thở ra là lúc nghỉ xả hơi cho khí lực lưu thông tự nhiên. Kế đến động tác 4 cổ gồng xoay sang trái và tận lực liếc nhìn về sau lưng. Động tác 5 là lúc phổi tăng thêm dưỡng khí cổ cũng tăng thêm vận lực chuyển về hướng phải, liếc nhìn ra sau (vọng hậu tiền). Tuy là theo thứ tự có năm động tác cả thảy nhưng thực ra thì có 3 động tác thực sự có vận chuyển khí lực là động tác 2 và 4 – 5. Trong ba động tác nầy chủ luyện tập phần hông bán phần bên phải và 6 kinh trên hai tay cùng thân cổ. Khi xoay hông thì chuyển động trục xương sống tức căng thẳng và thúc đẩy co giãn hai kinh Nhâm Đốc tức hai kinh trọng đại nhất cơ thể con người. Phần nhận định dễ thấy là cột xương sống được vận động làm cột tủy được kích thích tăng hoạt vận động ích lợi cho mọi phần sinh lý liên quan.
Nếu không hít hơi vận khí mà chuyển động thân eo, cổ cũng là động tác tốt gây sự cường tráng dẻo dai của eo và sự linh hoạt tốt đẹp cho thần kinh hệ. Môn thể dục vận động Tây Phương Hy Lạp cũng có những động tác tương tự, chỉ thiếu phần vận khí và quán tưởng. Đông Tây gặp nhau là chỗ đó, bản sắc Đồng mà Di cũng ở chỗ đó. Bởi thế cho nên ngày nay tại châu Mỹ La Tinh và các khối quốc tế, người thức thời đua nhau học tập võ thuật Đông Phương và Nội Công Bát Đoạn Cẩm nói riêng. Môn Thái Cực Quyền là một hình thức tu luyện Bát Đoạn Cẩm hay Nội Công của tiên gia cũng vừa là quyền thế chiến đấu tự vệ hữu hiệu. Nhưng có điều muốn đạt tới chỗ hữu dụng phải tốn nhiều thì giờ. Bát Đoạn Cẩm có chỗ khác biệt: Mau thành. Động tác 6:… Xả lực, đầu quay vào chính diện, song chưởng đưa lên tréo nhau trước mặt như động tác 1, hơi thở bình thường. (Hình 31) Động tác 7:… Xoay cổ về bên trái, vận lực nơi cổ, chân trái đồng thời đưa sang trái một bước bằng vai, xoay hông sang trái, chưởng đẩy ra hai bên, v..v… làm giống như động tác 2. Giống hình ở động tác 2 tức hình 28, chỉ khác hướng nhìn. Động tác 8:… Thu tay về như động tác 3, mắt liếc nhìn về sau hướng trái rồi chuyển gân cổ xoay về hướng phải…làm như động tác 4-5. Sau cùng trở lại tư thế ban đầu để thực hiện trở lại một lần nữa từ đầu cho đến cuối. Nghĩa là đoạn nầy làm hai lượt cả thảy 12 cử động, nhưng nếu đánh số thứ tự thì 16 động tác. YẾU LÝ: Ba động tác 6-7-8 không có gì mới mẻ, chẳng qua là lặp lại các động tác đã học ở trên 1-2…5, nghĩa là làm 3 cử động xoay qua bên trái. Và sau cùng là trở lại từ đầu để làm lại một chu kỳ. Như vậy tổng cộng sẽ vận động được 12 lần, 8 lần vận động cổ và 4 lần vận động eo lưng và tay. Thấy như thế đủ biết phần cổ được chú trọng đặc biệt. Sự luyện tập cổ đã đưa đến kết quả tốt đẹp dễ thấy; trong võ đường, võ sư có căn bản có thể chịu được các đòn tấn công vào cổ, hoặc có thể cho siết cổ bằng tay, bằng dây, v…v… trong khi những người thường chỉ ấn nhẹ ngón tay vào yết hầu, hay bóp nhẹ sau gáy là nhảy nhỏm chịu không nổi. Nhất là hai ống huyết nằm bên cổ (thật ra hai đôi Tỉnh và Động) của người không tập luyện có thể bể ra, dập nát hay ứ huyết khi có bàn tay người va chạm. Một người thường cũng đủ sức chặt sau cổ của một người thường để làm người đó bất tỉnh…nếu mạnh có thể chết luôn. Nhưng đối với người thành tựu nội công thì các đòn đơn sơ đó chỉ là những động tác đấm bóp cho máu chạy điều hòa thêm mà thôi. Ngay như soạn giả, không phải một thành gia võ thượng về nội công nhưng mấy năm về trước cũng đủ để 6 người lực lưỡng, 3 người mỗi bên, thắt cổ bằng dây thừng trong ba phút đồng hồ vẫn chẳng thấy rêm nhức hay choáng váng mặt mày gì cả. Ai tập Bát Đoạn Cẩm nầy tới nơi cũng có thể làm được các trò vặt như soạn giả. RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-01-14 ĐỆ NGŨ ĐOẠN CẨM
CHUẨN BỊ: Cũng như mọi đoạn khác đều khởi đầu bằng tư thế chuẩn bị, nghĩa là thân thẳng đứng, hai tay buông xuôi hai bên thân và bàn tay úp vào hai bên đùi, mắt nhìn thẳng tới trước và hơi thở điều hòa. Duy có điều cần nói cho chư học giả rõ là khi nào tập luyện đã thuần thục tám đoạn và thể lực đã có phát triển thì chư vị có thể luyện tập liên tục từ đoạn thứ nhất đến đoạn thứ tám một mạch mà khỏi cần ngừng nghỉ lấy sức ở cuối mỗi đoạn. Nghĩa là từ thế chót của đoạn nầy thu tay lại trong tư thế khởi đầu cho đoạn kế… và cứ thế mà luyện cho hết tám đoạn tức 96 lần vận chuyển khí lực, mỗi vận chuyển gồng gân như vậy là 6 giây đồng hồ, cộng lại là 576 giây tức chưa đầy 10 phút đồng hồ. Nhưng thực tế phải trải qua 16 động tác cho mỗi đoạn nên cộng chung là 128 động tác tức thời gian vận hành và diêu động là 768 giây tức 12 phút 48 giây. Kể cả thời gian chuẩn bị hít thở vài hơi trước khi khởi đầu thì độ 15 phút cho mỗi buổi tập. Thật đơn giản, thích hợp cho đời sống bận rộn ngày nay, tưởng các môn khác chưa có môn nào tiện ích như thế. Tốt lành thay. 5. Dao Đầu Bài Vĩ Khứ Tâm Hỏa (Lắc đầu cong đít hết tính nóng nảy) Ý nói xoay đầu uốn mông sẽ trừ được bệnh thịnh dương tức Hỏa vọng (vượng) Động tác 1:… (Tiếp theo đoạn trước) Hai chân nhảy sang hai bên một khoảng cách rộng bằng tấn Kỵ Mã, xuống tấn bộ thấp như kỵ mã, thân khom tới trước, hai bàn tay chống trên hai đầu gối, hổ khẩu xoay vào trong vế, chỏ phải nghiêng qua phải, đầu ngã về bên phải, mông đưa qua trái. (Hình 33)
YẾU LÝ: từ động tác chuẩn bị nhảy dạng hai chân ra thật là nhẹ nhàng không gò bó, đoạn xuống tấn từ từ chẳng cần vận lực, hai tay tì lên gối, tay phải cong nơi chỏ vì thân nghiêng qua phải và tay trái dĩ nhiên phải thẳng. Đầu nghiêng qua phải nhưng vẫn ngóc lên ngó tới trước, mông ển lên đưa qua trái, giữ vai bằng không cho so le. Động tác 2:… Cánh tay trái đẩy mạnh lên, cùi chỏ phải co sát lại, thân trên (đầu, cổ và vai) quay thấp về bên phải từ cao xuống theo đường cung, mông thì cố đưa lên và hướng về bên trái. Lúc cúi xuống thì hít hơi đầy và nín lại. cúi xuống thật thấp xong tay phải chống lên cho thân trên theo đường cung cũ trở về vị trí ban đầu như hình 33. (Hình 34). Thở ra. Động tác 3:… Tay phải chỏi đầu gối thân trên thẳng dậy, hai bàn tay áp hai bên đùi như hình 35, kế xuống tấn Kỵ Mã, đầu ngã về bên phải chỏ phải co lại, tay trái chống lên… giống như động tác 2. Tức là thực hiện trở lại động tác 2 một lần nữa. Động tác 4: Làm lại như động tác 2 một lần nữa. YẾU LÝ: Động tác 2-3-4 thật ra chỉ có một động tác 2 được lập lại 2 lần nữa tức làm 3 lần động tác 2 cả thảy. Sau cùng thì đứng dậy như hình 35. Chỗ quan trọng cần đặc biệt lưu ý là lúc ngã người nghiêng về bên phải chân trụ tấn như trồng (không lay chuyển), chỏ phải co đồng thời tay trái chống gối trái đẩy qua, đầu nghiêng và toàn bộ phần trên thân mình đều lên gân (gồng) cả cổ cũng gồng. Nói cho rõ là đầu vẽ một cung 180 độ từ trên xuống và ngược lại, lấy mông đít làm trục (tâm). Đứng thẳng dậy thì hít hơi (không hít đầy lắm), nín hơi khi xoay xuống và trở về vị trí ban đầu. Khi xoay xuống thì tận dụng sức lực tay trái và gồng hông bên trái, khi lên thì vận dụng toàn lực cánh tay phải và hông bên phải. Phải xoay toàn thân trên chớ không phải chỉ có xoay cổ không mà được. Lúc xoay thì eo hông mềm mà thân trên gồng cứng. Dĩ nhiên ban đầu rất khó thuận hành mềm dẻo nhưng về sau quen dần chẳng có gì là khó. Làm từ từ chậm chậm không làm mau. Lúc xoay đi thì cột xương sống như bán kính chuyển động uyển chuyển trên đường tròn do đầu vẽ từ trên xuống và ngược lại. Lúc làm phải thấy (nghe biết) sự chuyển động của từng bắp thịt và gân xương từ thân trên trở lên. Động tác 5:… Thân đứng như hình 35, đầu nghiêng về bên trái bằng cách chỏi thẳng tay phải, co chỏ trái, xuống tấn Kỵ Mã…(Hình 36) Tiếp tục xoay đầu xuống trước, thấp, thân ngang bằng với mông thì lại xoay trở về vị trí ban đầu (Hình 37) Làm ba lần động tác nầy rồi trở về thế đứng thẳng như hình 35. YẾU LÝ: Đây chẳng qua là động tác 2 hướng bên trái, do đó mọi nét biểu diễn từ hình dạng đến nội dụng vận lực, hô hấp đều giống y như động tác 2. Hễ đứng lên thì Hô (thở ra), bắt đầu chuẩn bị cúi xuống thì Hấp tức hít vào. Và nín hơi khi đầu xoay từ trên xuống và ngược lại. Nghĩa là làm ba lần xoay xuống lên thì chỉ hít thở ba lần. Khi xoay đầu khí dằn xuống bụng cho thân trên đặng linh hoạt. Nên biết động tác nầy ngày nay được nhiều trường phái vận động thể dục và võ thuật Âu Á Châu dung thao diễn như những bí quyết tạo sinh lực trước và sau các buổi tập cũng như tại đấu trường. Có điều người ta ít thấu hiểu rằng phần quan trọng của thế tập nầy không chỉ ở cái bề ngoài của nó là cúi xuống xoay lên suông sẻ và uyển chuyển, hoặc hít thở theo thông thường, mà yếu quyết của nó là sự gồng chuyển của thượng phần thần thể, từ cái chỏi tay phía bên nầy để xếp tay bên kia và ngược lại, v…v… Sự vận dụng vừa linh hoạt vừa gồng chuyển đầu, cổ, xương sống làm thức tỉnh toàn bộ mày tuần hoàn trong cơ thể con người. Điều đặc biệt là sự chống tay trước gối, hổ khẩu quay vào trong khi chỏi thẳng cánh tay thì ngón cái bị căng thẳng dữ dội làm thông Kinh Phổi (Thủ Thái Âm Phế Kinh), khởi đầu từ trước vai dưới xương quay xanh chạy trên mặt ngoài của cánh tay đến chấm dứt nơi đầu ngón cái. Sự chỏi lên trong 6 giây đồng hồ là thời gian đủ cho khí lực đả thông toàn kinh nầy. Đồng thời ngón tay út cũng nhờ động tác chỏi lên mà thông suốt được Kinh Tim chạy từ đối với Kinh Phổi, nghĩa là mặt dưới của cánh tay chạy đến đầu ngón út. Bởi vận động hai kinh nầy nên khi chỏi tay nghe rêm ngâm ngẩm phần dưới lòng bàn tay chỗ ngón út và ngón cái, đồng thời nghe thông mát hai phía trong và ngoài (tức trên và dưới) cánh tay. Ấy là khí bị thúc đẩy lưu thông vậy… xem tiếp Yếu Lý động tác 8. Động tác 6:… Thân trên cúi xuống trước, chỏ co lại, cúi tận lực, chân vẫn giữ tấn Kỵ Mã, đầu ngước lên. Đoạn ngước lên bằng cách chống hai tay thân thẳng dậy từ từ rồi ngửa cổ về sau (lưng vẫn thẳng đứng). Kế ngẩng đầu lên trở lại tư thế như hình 35 (Hình 38 – 39). Làm 3 lần động tác nầy. YẾU LÝ: Khi thực hiện xong động tác 5 thì thân trở về vị thế như hình 35, kế dùng sức nặng toàn thân đè xuống trên hai tay co dần trong lúc hơi đã bít đầy phổi. Khi cúi xuống tận lực thì giữ yên 6 giây đồng hồ với sự gồng cứng hai tay và như chịu sức nặng ngàn cân trên lưng, cổ ngẩng lên cho mặt ngước tới trước. Xong từ từ chống hai tay lên với sức ép xuống của toàn thân cho đến khi lưng thẳng đứng thì ngửa đầu ra sau, tưởng như có người níu đầu lôi xuống phía sau vậy. Chịu đựng tư thế nầy trong 6 giây đồng hồ rồi ngước cổ lên vị thế hình 35 và từ từ thở ra. Sau đó hít hơi vào để tiếp tục làm trở lại… Nên nhớ phải đứng đúng tấn Kỵ Mã chớ không phải trong thế đứng thẳng hai chân, có như thế mới có tác dụng đúng mức khi cúi xuống và ngước lên. Động tác cúi xuống thì cũng căng hai kinh Tim và Phổi, ngước lên thì, hai cánh tay lại phải nén xuống đè lên đùi nên cũng thúc đẩy hai kinh nầy. Do đó khi luyện tập động tác nầy mà cúi xuống ngước lên không nghe máy động trong hai cánh tay và gang bàn tay thì sai rồi cần lưu ý mà làm lại cho đúng. Khi đã thực hiện đúng toàn bộ Bát Đoạn Cẩm thì mỗi cái nhích động cũng đủ làm khí lực lưu thông mãnh liệt giúp cơ thể chế ngự các yếu đuối thông thường của con người. Và vì thường xuyên được thông suốt kinh mạch, khí và huyết lưu thông thuần nhuận nên cơ thể tươi tốt. Việc nầy chẳng khác chi cây có tưới nước thường xuyên thì tươi xanh, ruộng có nước thường xuyên thì lúa tốt… Các phương pháp thể dục trên thế giới cũng nhằm điều động lượng huyết quản lưu thông tận cùng trong mọi tế bào của cơ thể hầu nuôi dưỡng chúng cho đặng tốt lành, nhưng lắm khi áp dụng phương pháp thiếu sót hoặc quá bắt ép nên làm đứt nhiều mạch huyết li ti mà thân thường chẳng được sống thọ. Môn Bát Đoạn Cẩm tuyệt diệu ở chỗ dẫn huyết tưới nhuận cả cánh đồng thân thể mà còn dẫn khí sưởi ấm mọi nơi nhưng chẳng gây tai hại nhỏ nào. Danh bất hư truyền là ở chỗ đó. Động tác 7-8:…. Khi thực hiện xong động tác 6 thì trở về vị thế hình 35, kế nghiêng thân, đầu về hướng trái, cánh tay phải thẳng, tay trái co nơi chỏ, vừa nghiêng đầu vừa xoay từ trên xuống, tới khi đầu, mặt xuống trước hạ thấp sát đất thì quay luôn trở lên sang hướng phải rồi trở về vị trí ban đầu. Hít một hơi trước khi xoay một vòng, khi xoay đủ vòng về đến vị trí cũ thì thở ra từ từ, hít vào trước khi làm kế tiếp. Làm đủ 3 vòng từ trái qua phải thì bắt đầu làm nghịch lại từ phải qua trái cũng 3 lần. (Hình 40-41). YẾU LÝ:… Hít hơi và thở ra, tay chống lên hạ xuống trong động tác nầy giống như ở động tác 2 trong đoạn nầy, nhưng đoạn hai chỉ xoay nửa vòng. Ở đây xoay tròn một vòng liên tục nên hít hơi cũng chẳng dài hơn mà chỏi tay có khác là phải nhịp nhàng, hễ tay bên này co lại tay kia phải duỗi (chỏi) và, khi thân qua bên khác rồi thì tay chỏi hóa thành co. Động tác liên tục và liên lạc chống lên co xuống nhịp nhàng không gò bó. Thân và cổ gồng uốn uyển chuyển. ….(Tiếp yếu lý ĐT 5). Động tác 2 thì chủ đả thông từng kinh một trên mỗi tay tùy từng co duỗi, động tác 5 cũng thúc bách hai kinh cùng lúc lưu thông, ở đây, động tác 7-8 là phối hợp các động tác trước, hay nói là cách huấn luyện kinh mạch toàn thiện hơn, đầy đủ hơn, dịu dàng nhưng mãnh liệt vì dài hơi. Sự gồng chuyển lâu hơn nên kinh mạch có thể được dịp tăng tiến khả năng bành trướng cũng như thông suốt. Phải hiểu rằng các động tác trong đoạn nầy khi được thực hiện thì khi cúi xuống hay nghiêng qua lại giống như đè trên (nén) một cái lò xo, khi thẳng dậy hai tay như sợi dây thun kéo (lò xo căng ra), mông đít là trục xoay, xương sống lưng như bàn kính, đầu như đầu của com-pa. Nhưng mọi phần trên đều gồng chuyển mà dẻo dai liên lạc mật thiết chớ không cứng nhắc như vật vô tri. Sau hết là mọi cử động đều phải dự bị hòa hợp với hơi thở. Riêng đoạn nầy có thể tập thành 3 lần toàn đoạn từ đầu đến cuối để tăng lực lượng huyết mạch và dứt tánh nóng nảy vì bệnh bẩn huyết. RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-01-14 ĐỆ LỤC ĐOẠN CẨM
CHUẨN BỊ: Sau khi tập tới động tác chót của đoạn năm thì thu tay chân trở về thế chuẩn bi như mợi thế bắt đầu …(Hình 42) 6. Bối Hậu Thất Điên Bách Bệnh Tiêu (sờ đầu xương cùn trăm bệnh tiêu tan) Động tác 1:… Co gối hạ thân xuống (ngồi chồm hổm), hai tay từ hai bên mông lướt qua hai bên đùi xuống tựa bên ngoài hai bắp chân, hơi thở để bình trong bụng, kế đoạn thở ra và hít vào đầy phổi. Thóp bụng lại, chân búng mạnh cho thân nhảy lên trên không, người biến thành thẳng đứng trong không trung, hai tay kéo lên vị trí cũ trong khi còn đang ở trên không trung. Khi rơi xuống thì mũi bàn chân chạm đất trước kế đứng như hình chuẩn bị. (Hình 43).
YẾU LÝ: Khi co chân (gối) hạ thân xuống khum khum như ngồi chồm hổm thì chân buông lỏng tự nhiên, hai tay cũng di chuyển nhẹ nhàng. Lúc hít hơi thóp bụng thì khí dồn lên ngực cho nhẹ phần dưới (đề khí) hai chân phải dồn hết sức lực nhảy vọt lên thẳng người như cây pháo. Nói cho dễ hiểu động tác nầy giống như ép cái lò so, xuống thì dằn (đè) cứng, buông thì nhảy cao lên. Tất cả cũng chỉ xử dụng hai đùi, do đó khi nhảy tâm cũng chú ý hai đùi. Khi rơi phải nhẹ nhàng, xong mới thở ra. Động tác co chân lại thì chậm chạp nhưng nhảy lên thì mau lẹ. Biết được yếu lý thì không còn sai vào đâu được nữa. Động tác 2:… Co chân xuống như động tác thứ nhất hình 43 rồi nhảy lên như cây pháo thăng thiên, tay vuốt theo hai bên đùi. Rơi xuống bằng đầu hai bàn chân rồi kế mới đặt gót chân xuống…(Hình 45), hình 44 thế co chân nhìn từ một bên. Động tác 3 và 4:…Làm lại hai lần động tác 1. Nghĩa là từ đầu đến động tác 4 làm 4 lần động tác co chân nhảy lên. Động tác 5:…Đứng thẳng như hình chuẩn bị, hai bàn tay từ hai bên đùi đưa xéo về sau mông đít, mũi bàn tay (các đầu ngón tay trỏ, giữa, áp út và út chum lại) đồng bấu vào đầu xương cùn, ngón cái bấu vào mông để kềm cho tay khỏi sút ra (bấu chặt vừa vừa thôi) rồi nhón gót chân lên, hạ xuống. Lúc nhón lên hít hơi và hạ xuống thì thở ra. Nhón lên giữ chân nhón gót tức chân thẳng cứng đùi trong 6 giây đồng hồ, hai bàn tay bấu đít bất động. (Hình 46-47). Động tác 6:…Lại nhón gót lên, hạ gót chân xuống như động tác 5… Động tác 7 và 8: Làm lại hai lần như động tác 5. Tức động tác 5-6-7-8 làm giống nhau một kiểu, nhón gót bấu đít. Tập lại 3 lần từ đầu chí cuối. YẾU LÝ: Động tác 1 hay bốn động tác đầu của đoạn nầy nhằm làm dãn toàn diện thân mình từ dưới lên trên, lại dụng ý làm thức tỉnh các kinh mạch chánh yếu trong châu thân như hai kinh Nhâm và Đốc để thích hợp cho các động tác kế tiếp là thúc đẩy khí lực lưu thông trọn vẹn trong hai kinh. Đây là cách bày biện hay dọn cỗ bàn chờ khách tới cũng đúng. Từ động tác 5 đến động tác 8 hoàn toàn chủ trương bấu vào xương cùn, bấu từng hồi, liên tục 4 cái liên tiếp. Cái bấu tay nhằm gây chấn động đến hai kinh Nhâm và Đốc là hai kinh chính yếu của con người, một kinh mang nhiều trách nhiệm bảo toàn sinh mạng cũng như năng lực… Do mỗi lần nhón chân lên, hạ chân xuống, đầu hai bàn tay khích động thức tỉnh hai đầu kinh Đốc, kinh từ đầu xương cùn chạy theo sóng lưng lên đỉnh đầu và tới trước nhân trung (dưới mũi). Một kinh chủ định việc hòa hợp các chức vụ của các cơ quan trong mình. Nhâm kinh khởi đầu từ cuối đường chỉ dưới bộ phận sinh dục gần hậu môn (lỗ đít) lên tới dưới cằm, chạy theo đường lông phân ranh trước bụng, ngực, cổ, cằm. Chính nó cũng giữ vai trò dung hợp một số hoạt động của các phần trong châu thân. Sự va chạm từng hồi theo nhịp 6 giây đồng hồ của mũi bàn tay trên hai đầu dây kinh nầy thúc đẩy khí lực lưu thông, và khi đã thông được hai kinh quan trọng nầy thì mọi bệnh được tiêu trừ và nguồn năng lực của con người sẽ trở nên mãnh liệt không thể diễn tả cho hết được. Trong cuốn Nội Công Thiếu Lâm Tự đã giảng rõ việc khai mở hai kinh nầy bằng hô hấp theo Vòng Châu Thiên là trình độ cao thuộc môn tỉnh luyện. Ở đây thuộc động luyện nhằm khơi động (kích thích) gây chấn động đả thông, dù không phải là phương pháp toàn hảo nhưng vẫn có giá trị cấp tốc và dễ dàng. Một đàng khai mở kinh chánh yếu theo đường lối tiệm tiến (tiến dần từ gốc ra ngọn) còn một đằng đi từ ngọn vào gốc, hết các ngọn cũng tới gốc, dù không tổng hợp nhất thời nhưng khi đả thông được mọi kinh mạch thì thân thể cũng đạt đến chỗ cường kiện trường thọ vậy. Sự bấu từng chập nhờ nhón lên hạ xuống làm vang dội tận cùng trên hai kinh. Tốt hơn, hễ mỗi lần hạ chân xuống thì thắt hậu môn (nhíu đít) một cái cho tăng sự thức tỉnh hai kinh. Nên biết ngày xưa trước khi về nhà chồng các bà mẹ khôn ngoan đều dạy con gái mình những phương pháp vệ sinh thường thức như làm sao cho chồng ham mê sinh lý, ham mê vừa phải khi gặp người chồng lạnh nhạt, hoặc làm sao giảm bớt cường độ ham muốn tình dục quá độ của người chồng bằng khoa cho ăn uống….trong việc dạy vệ sinh giao hoan bà mẹ dạy khi nào người chồng bất tỉnh nhân sự trên mình vợ lúc lâm trận thì dùng trâm cài đầu hay móc tai, (lông nhím) châm vào đầu xương cùn chồng sau khi sờ khám cẩn thận, châm thật chính xác, gọn lẹ và ngón tay cầm đầu trâm không quá một phân tây, chớ chẳng nên xô chồng ngã xuống vì sợ sệt. Ngày nay ít người biết mặc dù khoa học văn minh hơn. Đó là châm cứu huyệt của kinh Tích Tủy làm thức tỉnh mọi cơ năng làm hồi tỉnh người đánh mất sinh khí lực nhất thời trong cơn xúc cảm. (Người dâm dục quá độ mà thân thể bạc nhược mới bị chứng nầy, bạc nhược đây không có nghĩa là thân thể gầy ốm mà là tinh thần bạc nhược, một người khí lực thiếu sự lưu thông vì sự thừa lượng, ăn không ngồi rồi thiếu vận động, mới đây báo chí đăng rộ, vị Hồng Y bên Tây chết trong nhà gái mãi dâm cũng do chứng này). Sự xúc cảm đột ngột và quá mạnh làm ngưng các hoạt động của các kinh nên gây sự bất đắc kỳ tử, mà hai kinh chủ yếu là kinh Nhâm và Đốc. Theo các bác sĩ dã chiến (bác sĩ ngoài mặt trận) cho biết các chiến sĩ bị bắn trúng xương sống (đứt kinh Đốc) chết đột ngột thì dương vật (con cu) xuất tinh ướt cả quần lót. Nhiều người đàn ông (đa số) còn khỏe mạnh mà chết cũng xuất tinh. Người treo cổ chết cũng xuất tinh đầy quần ấy bởi sợi dây thắt trúng (gút) Đốc kinh sau gáy. Do sự nhạy cảm và dễ đả thông bằng lối kích thích, động tác Bát Đoạn Cẩm nầy nhằm khai thác kích động trên hai đầu kinh Nhâm Đốc nhằm tạo sự gia tăng hiệu năng tạo dựng năng lực, phát triển khí lực trong hai kinh, để xua đuổi mọi mệt mỏi suy yếu vì “kém lao động” ít vận động hoặc vận động sai tự nhiên. Khi hai kinh Nhâm Đốc được thúc đẩy thông suốt cùng các bộ kinh mạch khác cũng thông suốt thì thân thể suốt đời cường kiện, đã cường kiện thì trăm bệnh còn chỗ đâu vương vấn…. Ấy, ý nghĩa là vậy. Sau hết điều cần được lưu ý, khi bấu vào xương cùn chớ bấu chặt liên tục mà theo với động tác nhón lên bấu vào rồi lại thả ra (lơi ra) từng chập. Khi xong đoạn tập thấy vùng lỗ đít tê tê (the the hay mát mát) như có xức dầu Nhị Thiên Đường thì đúng, còn bấu đả đời mà buông tay ra chẳng thấy cảm giác gì thì làm sai hoặc thần kinh tủy bị bệnh, nên tới bác sĩ chuyên môn hoặc thầy châm cứu nhờ coi sóc. Nên biết ít có người bị chứng liệt thần kinh tủy sống, vì liệt thì con người đó hết xài, hết xài trong mọi trường hợp và mọi sự việc. Phước thay, người tập Bát Đoạn Cẩm nào cũng thấu lẽ tự nhiên sinh tồn, dồn giữ được sinh lực nên ai cũng đẹp đẽ phương phi vui tươi yêu đời, xã hội lành mạnh nếu mọi người đều ham thích môn học bổ ích nầy. RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-01-20 ĐỆ THẤT ĐOẠN CẨM
CHUẨN BỊ: Khi tập hết dộng tác chót của đoạn sáu, buông hai bàn tay ra song song hai bên đùi trong thế chuẩn bị… 7. Toàn Quyền Nộ Mục Tăng Khí Lực (Nắm chặt tay, trợn mắt tăng khí lực) Động tác 1: Hai bàn tay nắm lại thành quyền như hình 48.
Quyền phải đưa ngang về hướng bên phải, mắt chăm chú nhìn theo quyền, quyền trái thu về để ngửa bên hông trái (Hình 49). Hai chân nhảy dạng sang hai bên khoảng cách lớn hơn vai bằng tấn Kỵ Mã nhưng hai chân vẫn đứng thẳng, kế xuống bộ như tấn Kỵ Mã tay trái đưa thẳng tới trước, quyền phải co về bên hông phải, đứng dậy đồng thời quyền trái rút về hông trái, quyền phải đấm ra hướng phải. YẾU LÝ: Lúc đưa quyền ra bên phải thì tay để lỏng không có trọng lực, hít đầy hơi nín lại, xuống tấn thu tay phải, đưa tay trái tới trước, kế đứng lên thu tay trái, đấm tay phải về hướng phải thì vận lực đánh mạnh. Mắt nhìn chăm chăm về hướng đấm (có sách viết nhìn thẳng tới trước cũng đúng). Điều quan trọng nên nhớ là động tác đấm nầy có hình trạng nhấp nhỏm (bật lên bật xuống), do đó gối phải thật linh hoạt như cái lò xo, xuống tấn bộ giao hoán (thay đổi) tay, đứng lên thì đấm ngang ra. Khi giao hoán, tức lúc chưa vận lực thì mọi nơi đều buông lỏng, kể cả hai nắm tay chỉ nắm lỏng khi đưa ra thu vào, chỉ khi đứng nhỏm dậy đấm ngang là phải nắm chặc và chân cũng tì miết bám chặc xuống mặt đất. Muốn dễ có hiệu quả thì đầu gối phải hơi khép vào (kềm) hai bàn chân mới đè xuống đất. Ở đây, tập cho đôi chân linh hoạt và đôi tay nhịp nhàng điều hợp được với chân. Có điều hòa hợp tác được chân tay thì khí lực mới phát triển đầy đủ, khả năng mới đạt tới mức tối đa. Toàn bộ nầy chủ luyện cho tay chân và thân eo liền lạc với nhau như một sợi dây, và khi đã luyện được như vậy thì khí lực được ứng dụng một cách tích cực… Động tác 2: Xuống tấn đứng lên đấm ngang hai lần với nắm tay phải về bên phải. Tức động tác 1-2 giống nhau, xuống tấn, thay đổi tay, hô hấp, đứng lên đấm ngang, mắt nhìn chăm chú không nháy. Đấm bên phải ba lần rồi đổi bên. Động tác 3:… Xuống tấn Kỵ Mã, thu quyền trái về hông trái đồng thời đấm quyền phải sang phải. (Hình 50) Động tác 4: Xoay mặt về hướng trái, thu tay phải, đấm tay trái ra hướng trái (Hình 51). YẾU LÝ: Động tác 3 và 4 đấm giống như động tác 1 và 2 nhưng khác ở chỗ không nhắp nhỏm. Ở đây chân xuống tấn Kỵ Mã rồi trụ tấn thật vững, đấm sang phải thì mắt lộ hung quang (như giận dữ) nhìn theo quyền đấm, xoay về bên trái đấm tay trái ra. Động tác 5:… Đấm tay phải ra chính diện, thu quyền trái về bên hông trái như hình 52. Mắt nhìn thẳng tới trước. Động tác 6:… Đấm quyền trái ra, thu quyền phải về hông như hình 53. YẾU LÝ: Lúc đấm chân trụ tấn Kỵ Mã không động, eo mềm tự nhiên, vai mềm linh hoạt nhưng cổ tay và nắm tay thì cứng chắc. Mắt tập trung ý chí vào không phân tâm, nhìn thẳng tới trước như quyết đấu với đối thủ. Khi đấm thì nắm chặc nắm tay trong 6 giây đồng hồ rồi thả lỏng các ngón tay ra, kế thở ra hít vào nắm chặc thì đấm tiếp. Động tác 7:… Nhỏm gối dậy, đứng thẳng hai chân nhưng khoảng cách giữa hai bàn chân không thay đổi. Đấm quyền phải tới trước. (Hình 54). Động tác 8:… Đấm quyền trái ra, thu quyền phải về (Hình 55). YẾU LÝ: Toàn đoạn có lúc đứng đấm, có lúc nhắp nhỏm đấm, lại có lúc trụ tấn đấm. Đấm ngang qua bên lại đấm thẳng tới trước. Ba phần hình chủ luyện là Tấn vững, linh động. Eo nới lỏng và Vai linh hoạt. Đứng thì luyện Khí, Tấn thì chủ vận Lực, tức gồng mà đấm mạnh. Tập xong toàn đoạn rồi tập lại 2 lần. Những lần sau đấm mạnh và liên tục từng chập. Chú mắt nhìn là luyện nhãn thần. RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-01-20 ĐỆ BÁT ĐOẠN CẨM
CHUẨN BỊ: Tập xong đoạn 7, thu chân tay trở về thế chuẩn bị, như hình 56. 8. Lưỡng Thủ Phan Túc Cố Thận Eo (Hai tay ôm - kéo - chân bền thận eo) Động tác 1: Cúi xuống trước, lưng khom, chân thẳng, hai tay đưa xuống chạm hai bên cổ chân (Hình 57), đoạn uốn bật thân trên lên ngang bằng rồi lại cúi xuống đưa hai tay ra sâu đàng sau (Hình 58). Xong, lưng thẳng dậy thế chuẩn bị.
Động tác 2:… Cúi xuống trước, tay đưa ra sau chạm hai cổ chân (bên ngoài), xong bật thân trên lên ngang bằng mặt đất rồi cúi xuống lần nữa đưa hai tay sâu về phía sau. Động tác nầy giống như động tác thứ nhất. Xem hình 59 và 60 là hình 57-58 nhìn từ một bên. YẾU LÝ: Điều chú trọng ở hai động tác nầy là sự co duỗi của hông eo, tức cố làm cho thân eo càng mềm mại thì càng đúng với ý nghĩa của bài tập. Do đó, khi cúi xuống phải nới lỏng toàn thân trên, tay, vai, hông eo, hai đầu gối có thể máy động trong các động tác nhún lên nhún xuống, nhưng khi hai tay đưa ra sau thì tuyệt đối phải đứng thẳng. Tức thân trên bật lên bật xuống như nửa thân trước của một con sâu, hai chân bám chặc mặt đất và thẳng tắp. Cúi xuống thì thở ra, bật lên thì hít vào. Dĩ nhiên, cúi lần thứ nhất coi như mới nửa động tác khi hai tay mới chạm hai cổ chân nên chỉ thở phân nửa khí, cúi thêm lần nữa đưa tay cực lực ra sau thì mới thóp bụng thở hết sạch không khí.
Bật lên cúi xuống hơi thở phì phò, hít vô bằng mũi thở ra bằng miệng chu lại như huýt sáo. Thở lâu tự thấy hơi thở của mình ra vào như luồng gió mạnh được mình phun ra hút vào vậy. Dù như thế nào đi chăng nữa, khi luyện tập vẫn chú trọng đến sự mềm dẻo của hông eo. Bí quyết của bài tập là cả tư tưởng trong lúc tập cũng dẻo dai và mềm mại chớ chẳng phải chỉ có hình ngoài mềm dịu mà thôi. Người giỏi bất cứ môn kỹ thuật nào cũng đều biết sự quan trọng của ý trong hình mà biểu diễn… Động tác 3:… Sau khi làm động tác 2 thì lưng thẳng dậy như thế chuẩn bị hình 50. Kế mềm dẻo cúi xuống trước hai tay đưa xuống, bàn tay chạm hai bàn chân và nắm lấy hai bàn chân từ hai bên ngoài bằng cách ngóc mũi chân lên. Kế co chỏ xuống tức thì thân bị lôi xuống sâu hơn, chỏ ló ra sau hai chân. Hai chân thẳng đứng không cho gập xuống. Đầu cũng cúi xuống. (Hình 61-62, hình 63 là hình 62 nhìn từ một bên).
Động tác 4:… Làm xong động tác 3, thân trên bật dậy thẳng đứng, rồi lại cúi xuống, bàn tay nắm bàn chân, co chỏ cúi thêm thật sâu. Tức làm lại toàn bộ động tác ba vừa học trên. YẾU LÝ: Động tác 3 và 4 trên đây chỉ là một động tác lập lại hai lần, và hình thức so với động tác 1 thuộc đoạn tám không khác. Có điều đổi kiểu đưa tay một chút, thay vì hai bàn tay đưa ra sau thì bàn tay nắm bàn chân, sự việc như thế chỉ bổ túc chớ không khác cách. Tay đưa ra sau chưa được vận dụng hoàn toàn thận eo, do đó hai bàn tay nắm chân kéo thêm xuống, như thế thì thận eo được thỏa mãn hơn. Nói thì nói như thế nhưng người mới tập chẳng thấy thỏa mãn gì cho lắm mà ngược lại thấy cúi xuống đau lưng quá, nhất là thẳng sau hai nhượng khó chịu khôn cùng. Nhưng các vị chớ ngại, chẳng có bề gì đâu, tại các vị thường không vận động nên gân cốt bị cứng mà đâm đau, (tuổi già ai cũng bị bệnh cứng gân, dòn mạch máu nên lâu lâu có người bị đứt gân máu mà chết, bệnh nầy bác sĩ giỏi đến đâu cũng chịu thua, bên Tây cũng như bên Nam. Nhưng các bác sĩ có tuổi và giỏi đều có lời khuyên nên tập thể dục nhẹ cho gân mạch mềm mại dẻo dai trừ bệnh đứt gân máu. Soạn giả chuyên môn hướng dẫn quý ông bà có tuổi (lớn tuổi) tập một bài võ đặc biệt làm mềm dẻo gân cốt, máu huyết lưu thông, ăn được ngủ ngon, vui tươi yêu đời. Các vị đã tập với soạn giả đã thấy đời vô lo và vui tươi như lúc mình còn tuổi trẻ nên soạn giả thường được lời ngợi khen. Mà công ấy là đều của người xưa hết vậy). Người trẻ tuổi, con nít gân cốt mềm thì chẳng thấy đâu là tại chúng chưa bị bệnh cứng gân. Nay võ gia tập đoạn nầy thường xuyên thì chẳng hề sợ bệnh đứt gân máu mà thác. Ai có tập luyện võ thuật đúng sách vở của ông bà đều không chết vì bệnh mà chỉ chết già như trái chin cây. Động tác 5:… Khi tập xong động tác 4 thì thân bật dậy thẳng đứng, hai bàn tay áp xuôi hai bên mông, ức bàn tay áp ngay chỗ hỏm xuống, cúi lưng như hình 64. Đoạn hai tay chống lên, đầu ngã về sau, lưng cong như chiếc cầu, cổ cũng ngửa lên, gối cong về sau như hình 65. Hít và giữ hơi phân nữa trong phổi khi uốn lưng ra sau. Xong bật dậy thẳng lưng thở ra hít vào (như hình 67). Động tác 6-7-8: Tiếp tục lập lại 3 lẩn động tác uốn lưng xuống sau như động tác 5 vừa học trên. (Hình 66 là động tác của hình 65 nhìn từ một bên). YẾU LÝ: Bốn động tác 5-6-7-8 chỉ là một động tác diễn lại bốn lần. Toàn động tác chỉ hít phân nửa phổi mà thôi, chỉ hít đầy khi đứng thẳng và thở ra phân nửa trước khi ngửa ra sau. Khi ngửa ra sau phải để xương sống mềm dẻo (tự nhiên, chân và xương sống uốn cong như một cây cung hay nửa vòng tròn (xem hình 66). Muốn được như vậy, một trẻ nít thì không mất thời gian bao lâu nhưng người có tuổi thì cũng phải kiên nhẫn. Khi ngước lên như vậy, toàn bộ kinh Nhâm và Đốc đều thông lưu, những kinh khác cũng được thúc đẩy và tủy sống cũng được săn sóc. Thế nên sau vài vận động thấy tâm thần vui tỉnh lạ thường, sảng khoái chưa từng thấy. Ngày nay, các môn quyền thuật tân tiến cũng học phương pháp thứ tám nầy nhưng thay vì vận động thành hai thì (cúi xuống và thẳng dậy, đứng thẳng và ngửa ra sau) họ chỉ làm một mà thôi là, cúi xuống chấm hai bàn tay trên mu bàn chân rồi đứng lên ển lưng ra sau. Sự luyện tập hời hợt nầy mặc dù cũng thấy dãn gân cốt, thoải mái chút ít, nhưng nếu tập đúng phương pháp chính tông thì ngoài sự mềm mại thân eo, còn đạt những lợi ích về sinh lý: mạnh thận, tráng dương v…v… Tuổi già mà còn cưới hầu non là nhờ tập đoạn nầy đó. Mấy mươi năm trước học cái gì: Rừng… Khôn dó. Nhỏ không học lớn mò sao ra… trong sách Vần Con Gà lớp Đồng Ấu. Triết lý nầy rất đúng, nhỏ có thì giờ học, lớn rồi đầu tắt mặt tối làm sao mò mẫm học vấn gì. Nhưng mà đời sống phải tranh đấu không học thì còn gì là đời, đời mà chẳng hiểu gì cả thì đâu phải đời. Lại nhiều người cứ tưởng học đủ thứ chuyện, đủ thứ môn bên Tây bên Tàu cho có kiến thức… cho “mò ra”, nhưng thảm thương thay có ai mò ra cái gì đâu, chỉ mò được tấm thân gầy guộc, bệnh hoạn hàng ngày phải dùng xiêm áo che đậy sự xấu hổ của mình “thân gầy”. Dường như cho đến nay, thế kỷ 20 rồi mà còn nhiều người quá khiêm tốn (lạc hậu) trong việc săn sóc cá nhân mình, sự đánh lừa tư tưởng và che đậy sự phiến diện bằng lời chê bai người vai u thịt bắp, đố kỵ người mạnh khỏe hơn mình… Xin thưa là thời chiếc áo the đen, bộ lưng cong trên gậy trúc tượng trưng cho vẻ cao quý kẻ sĩ đã hết rồi… Nhưng quý vị cũng chưa đến nỗi phải trễ tàu đến đất hạnh phúc. Với cuốn Bát Đoạn Cẩm nầy là chuyến tàu chót đưa quý vị đến chỗ vui tươi lành mạnh. Từ nay quý vị có thề sửa sách Con Gà lại là… Lớn mò cũng ra… Ai mò cũng ra… Có sức khỏe chân chính thì mò cái gì cũng ra. Hôm nay viết dòng nầy đây soạn giả nhớ tới các giáo sư quá đỗi yêu nghề mà thân gầy không lo, và một bằng hữu lớn tuổi, tác giả có sách nhà Lửa Thiêng in đồng thời dạy nhiều đại học… chỉ “độ” mỗi ngày hai gói mì làm tại Chợ Lớn… thì làm sao đi suốt nổi đường dài… “Chiều dậy điểm tâm sơ trái bắp, Sáng ngày súc miệng một câu thơ.” Kẻ sĩ như thế há làm nên việc gì mai hậu; than ôi đời học hành rồi chịu kiếp hẩm hiu thế hay sao? Cuốn Bát Đoạn Cẩm nầy soạn giả một phần dành tặng cho các bằng hữu tư tưởng còn quá nắm níu thời: “Học trò xứ Quảng ra thi, Thấy cô gái Huế chân đi không đành…” Thẩm mỹ học mà làm gì, tiền đồ sau khỏi từ Thân, Phật còn bảo thân là Kim Thân sao người thức giả còn chưa chịu thấy! Soạn giả rất buồn thấy người mình học sách Vần Con Gà có thành kiến lớn mò không ra rồi thành chẳng làm nên tích sự gì, trong khi bên Tây bên Mỹ người ta làm ra quá xá, có nhiều người gần trăm tuổi mà cũng mò ra nhiều công trình giá trị giúp ích cả nhân loại. Đó là nhờ có sức khỏe vậy. RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-02-03 PHẦN PHỤ THUỘC
(NỚI DÃN TOÀN DIỆN) Thông thường, thay vì dùng một số trang để làm bảng tóm lược bài học giúp học giả, môn sinh thấu đáo dễ dàng hơn khi đã đọc qua hoàn toàn cuốn sách. Nhưng lần nầy, soạn giả nghĩ chắc cũng chẳng cần vì sách ngắn bài ít, và mỗi đoạn soạn giả đã giảng rõ lắm rồi, giờ có nhắc lại chắc cũng chẳng thêm được bao nhiêu kiến thức mới…. Thôi thì dùng một đoạn trình bày thêm phần tập luyện phụ thuộc nầy còn có ích hơn. Mà có ích thì làm. Phàm mọi sự trong đời cũng chẳng có gì làm toàn hảo, người đời bảo Vô nhơn thập toàn, tức không có ai hoàn toàn, bất cứ hoàn toàn cái gì cũng chẳng thể hoàn toàn, người đã thế thì sự người bày ra cũng thế, dù rằng người bày ra bất cần là ai. Một định lý toán học cũng có ngày phải sửa lại hay thêm vài chữ, công thức…. cũng thêm bớt được qua nhiều trào lưu, thời đại… Giáo điều các tôn giáo cũng lần hồi canh tân cải tiến vì thời đại đã đổi sang một chiều hướng mới… Có như thế thì mới thích hợp mới vẹn toàn, mới hấp dẫn, mới truyền bá sâu rộng, mau chóng. Bát Đoạn Cẩm dù có hay, có hoàn toàn cách mấy, do một bậc Thánh chế ra nhưng Thánh có giỏi, có tài cũng chỉ hiểu biết có giới hạn, tài năng có phạm vi… và Thánh đã chết quá lâu rồi, nên có việc chưa kịp sửa đổi thêm thắt cho đặng hoàn bị. Bát Đoạn Cẩm đã có mấy ngàn năm, đã truyền bá được mấy ngàn năm dĩ nhiên không dở, giá trị tất phải có chỗ tuyệt đối, tuyệt đối như kinh điển các giáo phái… nhưng mà tuyệt đối cũng có thể thêm thắt cho tăng phần giá trị, sự thêm vào bao giờ cũng lợi ích. Việc này giống như trong buổi họp, ý kiến nhiều người bao giờ cũng đến chỗ rút tỉa được kết luận giá trị, có như thế mới có đủ thứ cuộc họp, từ hai người trở lên, quan trọng cá nhân hay thượng đỉnh quốc gia, thế giới… sau này có thể liên hành tinh. Theo đà văn minh nhân loại, Bát Đoạn Cẩm là một học thuật giá trị vẫn được bổ khuyết chút ít cho tăng thêm phần lợi ích thiết thực, thiết thực cho ngành luyện tập võ thuật cường thân tăng thêm thể lực cho các môn thể thao thể dục. Các động tác tập thêm sau đây được rút tỉa tinh hoa từ các phần tập luyện sơ khởi làm nóng người của các môn võ thuật lớn bành trướng trên thế giới ngày nay. Những điều trình bày ở đây không một vị võ sư căn bản nào không rõ, trừ một vài thế tập soạn giả được bí truyền có lẽ ít người biết, soạn giả cũng trình bày luôn cho khỏi thất truyền. Dĩ nhiên các động tác tập mới nầy không được giải thích theo lối xưa, chú trọng đến Kinh Huyệt, Mạch Lạc, Khí Lực vận chuyển khi tập. Mà chỉ có sự hướng dẫn phải làm nới dãn, buông lỏng, hô hấp sâu… Và đa số thì rất dễ làm, rất tốt để phụ họa bổ túc thêm cho Bát Đoạn Cẩm. Dù người ta chẳng hề nói phần sâu thẫm của động tác nhưng soạn giả nhờ có học căn bản Nội Công Y Học và Đạo Học nên có thể tùy nghi giải thích tác dụng và sự lợi ích sâu thẫm từng thế tập. Nhưng thấy rằng chẳng cần thiết lắm nên cũng chẳng giải thích, nếu có học giả nào thắc mắc thì soạn giả chỉ điểm sau. Dù là những động tác tập thêm, mời, nhưng học giả chớ vội khinh thường hay thờ ơ, vì những động tác mới mẻ này, dù mới mẻ vì lối trình bày và huấn luyện theo tân thời nhưng căn bản những thế tập nầy có nguồn gốc xa xưa trong kinh điển hoặc trong các môn học thuật cao siêu như Yoga của Ấn Độ, Đạo Gia của Trung Quốc và thần thánh sức mạnh trong Thánh Kinh tại Hy Lạp, một quê hương cha đẻ các Thế Vận Hội ngày nay… Sự tổng hợp các động tác xem qua rất đơn sơ nhưng kết quả bồi bổ sinh lực chắc chắn khả quan. Do đó nó được phổ biến và được huấn luyện trước tiên trong mỗi buổi diễn tập thể dục, võ thuật trên khắp thế giới. Vậy thời nó cũng rất hay. Nhưng hay hơn nữa là chúng ta hãy thực hành để được hay như những người hay trên khắp thế giới, những bằng hữu của chúng ta. Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. Rồi đây các vị học giả cũng sẽ có cơ duyên hội ngộ hoặc tự sẽ trở thành những nhân tài trong ngành học thuật và chỉ nhân tài mới tìm gặp được nhân tài. Vì nhân tài mới hiểu được nhân tài, họ là những máy điện tử có cùng tần số vậy. Mời quý vị luyện tập để củng cố tần số của tổng đài mình, một tổng đài độc lập, tự do, vui tươi và hạnh phúc. Một tổng đài không thể dùng tiền mà mua được hoặc ăn trộm ăn cướp mà có được. Vô biên. Các thế tập phụ thuộc gồm 12 thế tạm đặt tên như sau:
RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-02-03 1. Đoạn Thứ Nhất: ĐƯA HAI TAY LÊN XUỐNG Động tác 1: Đứng hai chân song song, khoảng cách giữa hai bàn chân rộng bằng hai vai, hai tay buông xuôi hai bên đùi như hình 69. Mắt nhìn thẳng tới trước. Hơi thở điều hòa. Kế đưa hai tay lên từ từ, đồng thời hai bàn chân cũng nhón gót theo, lòng bàn tay úp, hai cánh tay song song nhau. Đưa cao lên thẳng tới đỉnh đầu, lòng bàn tay ngửa tới trước… đồng thời hít hơi vào…. Tay ngưng thì mũi ngưng thở… Hình 70
Động tác 2: Buông hai tay xuống, trở về vị trí cũ, chân hạ xuống, đồng thời thở ra như hình 71. Động tác 3: Nhón gót, đưa hai tay lên như động tác 1. Động tác 4: Hạ hai tay về vị trí cũ như động tác 2… Toàn đoạn thứ nhất gồm hai động tác đưa lên và hạ xuống, làm lại 8 lần trước khi tập sang đoạn kế. YẾU LÝ: Động tác rất dễ, chỉ đưa (nâng) hai tay lên hít hơi vào và hạ hai tay xuống thở ra, đồng thời với nhón gót và hạ gót. Bí quyết nên nhớ là khi đưa hai tay lên tưởng như có kéo theo vật nặng và đưa xuống cũng như có vật trì. Mũi hô hấp liên tục và nhịp nhàng. Làm quen mỗi lần nâng tay lên như có gió cuốn theo. Bụng dưới hơi ển ra khi đưa tay lên cực độ cao. RE: Bát Đoạn Cẩm - anatta - 2018-02-03 2. Đoạn Thứ Hai: ĐỨNG LÊN NGỒI XUỐNG CHUẨN BỊ: Đứng hai chân song song hoặc khít nhau như hình 71. Động tác 1: Cúi thân xuống trước, hai bàn tay đặt trên hai đầu gối, mắt nhìn xuống cổ chân. Hít hơi đầy, dừng sức vừa phải ở hai bàn tay ấn trên hai đầu gối hai lần, chân (nhượng phần sau gối) ển ra sau bằng cách mũi hai bàn chân hơi nhích lên. (Hình 72)
Động tác 2:…. Buông đầu gối tự nhiên cho sức nặng thân hình kéo rơi xuống rồi như có lò xo bật đít lên rồi lại rơi xuống (tức rơi dội lên lại rơi xuống) giống như con chim Nắc nước nhịp nhịp phao câu xuống nước vậy. Hai bàn tay vẫn để trên hai đầu gối, chỏ khuỳnh ra hai bên. (Hình 73) Xong đứng lên như hình 72. Động tác 3-4: Làm lại động tác 1-2 bốn lần, kể cả lần đầu. YẾU LÝ: Đoạn 2 nầy chỉ có hai động tác đơn giản, đứng lên ngồi xuống, dù đơn giản nhưng chính nó có phần lợi ích sâu xa về sinh lý. Trước nhứt động tác nầy làm hoạt động mạnh hơn bộ máy tuần hoàn, ngồi xuống phần bụng dưới đẩy cách mô ép lá phổi giúp thở mạnh, và khi đứng lên thì giúp hít mạnh. Sự trồi lên sụt xuống là hoạt động cả Ba Tùng, làm trẻ các thành phần Ba Tùng. Sau hết là giúp sức cho Đệ Nhất Đoạn Cẩm là Lưỡng Thủ Kình Thiên Lý Tam Tiêu. Nhưng điều quan trọng thực tiễn dễ thấy phải làm đúng để có hiệu quả là trừ động tác dùng hai bàn tay ấn trên gối phải tập trung nửa phần sức lực, kỳ dư các động tác đều để thân được hoàn toàn tự do khinh linh rơi xuống bằng chính trọng lượng của cơ thể và sức rơi là trọng lực tự nó. Nghĩa là không hề có sự gượng ép, cưỡng cố nào. Đứng lên hít vào, ngồi xuống thở ra. Thở ra làm hai lần, cái nhắp đít thứ nhất thở nửa hơi, cái nhắp đít thứ hai thở hết, kế chống gối đứng lên…. Người trẻ nào có chơi quả banh gắn liền sợi dây thun dài, cầm đầu dây cả trái banh rồi ném trái banh xuống đất (không chạm đất), trái banh rơi xuống rồi bị sức kéo của dây thun bật lên… Ý nghĩa của toàn động tác nầy cũng tợ như thế. |