![]() |
TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - Printable Version +- VietBest (https://vietbestforum.com) +-- Forum: Main Room (https://vietbestforum.com/forum-1.html) +--- Forum: Văn Hoá Việt Nam (https://vietbestforum.com/forum-35.html) +--- Thread: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 (/thread-23487.html) Pages:
1
2
|
TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - duke - 2022-04-09 ![]() ANH HÙNG TỬ, KHÍ HÙNG BẤT TỬ
![]() TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4 NĂM 1975
![]() Quote:30/04/1975: Muôn đời vẫn là Ngày Quốc Hận ![]() ![]() ![]() RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - duke - 2022-04-09 ASIA 32 (FULL SHOW): HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO
RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - duke - 2022-04-09 BÀI THƯƠNG CA THÁNG TƯ (edited) ![]() 47 năm lá cờ không còn tung bay trên đất nước VN 47 năm ta bỏ quê hương làm người vong quốc. 47 năm ta mòn dần niềm tin và hy vọng 47 năm những người năm cũ về đâu. Ôi! 47 năm con cháu ta quên dần tiếng Việt 47 năm thương đau nhuộm bạc mái đầu. Hôm nay là đầu tháng tư. 47 năm đã qua, con gái tôi đã 47 tuổi. Một người phụ nữ trung niên chưa một lần về thăm VN. Có giận con không? Tôi không biết nữa, chỉ biết thật đau trong lòng. Cây viết dường như đã hết mực Những ngón tay bấm máy run run. Chính bản thân tôi cũng ngờ vực mình không còn đủ sức để nhớ, để viết, để tri ân. Tôi biết mình không là gì cả, một hạt cát trong sa mạc, một chút bụi trong không gian, một người đàn bà trong cơn đại hồng thủy của dân tộc. Chúng tôi là nhân chứng sống, một thế hệ sống giữa lòng chiến tranh ý thức hệ. Đàn bà là cái xương sườn của đàn ông. Khi thân thể bị đạn bom hủy diệt thì cái xương sườn cũng gãy vụn, thương tích và đau đớn mỗi khi trở trời. Thời gian trở trời cho những vết tích chiến tranh chính là đầu xuân, mỗi khi gió chuyển tháng tư về. Thật tình cờ tôi thấy tấm hình này. Coi như là một tấm hình kỷ niệm. 11 vị tướng lãnh quân lực VNCH. Công hay tội lịch sử sẽ phán xét. 11 người của một thời trai trẻ, bây giờ 10 người đã ra đi. Chỉ còn một người còn sống. Đó là Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại. ![]() Những con người tị nạn Cộng Sản trên các xứ sở tạm dung đều có chung một nỗi buồn. Có người muốn quên đi để sống an vui những ngày còn lại cuối đời. Có người trốn tránh quá khứ, có người bật tung quá khứ để căm thù, tức giận và bùng nổ. Có người trầm ngâm để hối lỗi về sự nhu nhược của mình. Cách nào cũng đau đớn cũng nặng oằn tâm tư một cách tội nghiệp. Người lính Mỹ tham chiến sau cuộc chiến tháng 4/1975 còn tội nghiệp hơn chúng ta. Họ bị động viên đưa sang một đất nước xa lạ, nóng bức và đầy bất trắc. Họ có yêu nước không? Họ có tình nguyện dâng hiến đời họ cho đất nước VN không? Dĩ nhiên là không bởi vì họ có biết nước VN ở chỗ nào đâu? người VN xa xôi nào đó không hề có dây mơ rễ má gì với họ. Vậy mà họ đem cả tương lai và tuổi trẻ để sống chết vì VN. Tương lai tươi đẹp trên một đất nước giàu có. Cuộc sống tiện nghi và sang cả bao người mơ ước. Họ xuống tàu, lên máy bay ra đi, hẹn với mẹ cha sau ba năm nghĩa vụ họ sẽ về nhà. Nhưng Việt Nam không đơn giản như họ nghĩ. Cái chết rình rập họ bất cứ lúc nào. Họ tử trận, trên bia đá đen tại Washington DC ghi tên họ. Họ có mãn nguyện không? Cha mẹ họ có hãnh diện không? Dĩ nhiên không ai biết. Có khi cha mẹ họ còn thành kiến với người VN nữa là khác. Bởi vì đất nước VN xa lạ kia đã vùi thây con cái họ, là nơi con họ chết một cách oan uổng, chết không tìm thấy xác hay trở về với một quan tài. Trên chiến trường, một viên đạn bắn sẻ. Hành quân bị lọt vào ổ phục kích. Tan xác trong đạn pháo. Máy bay bị bắn rơi … Những người lính Mỹ chết một cách bất ngờ và hoảng loạn. Họ không kịp kêu lên một tiếng. Họ không kịp gọi tên người yêu, tên vợ, tên con, chào mẹ cha ở lại. Xác họ là chiến công của phía bên kia. Khi bị bắt, họ sẽ là tù binh với sự đối xử đầy man rợ và hận thù. Những người cựu chiến binh Mỹ được trở về sau cuộc chiến VN bị khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Tin tức thời đó đã phản bội sự thật, bôi nhọ sự chiến đấu oai dũng của quân lực VNCH. Mà bôi nhọ quân lực VNCH tức là bội nhọ sự chiến đấu của đồng minh. Vì lực lượng quân đội Mỹ sát cánh hành quân với quân đội ta. Nếu những cựu chiến binh này còn sống, mỗi khi tháng tư về họ cũng đau đớn, bi phẫn như chúng ta. Một thời dĩ vãng, một thời liệt oanh, một thời giỡn mặt tử thần. Con tôi là lính Mỹ, cũng nhận lệnh đóng quân ở các nước bạn. Có đứa cũng đi tàu chiến hành quân bảo vệ vùng biển quốc tế. Đây là thời bình mà cũng gian nan cực khổ vô vàn. Người lính Mỹ hy sinh bản thân vì hai chữ tự do cho thế giới. Những cạnh tranh quyền lực chính trị, những mưu mô tiềm ẩn bảo vệ đảng phái, thế lực ngầm thao túng xã hội …tất cả nằm ngoài tầm với của người lính. Quân nhân tuyệt đối phải tuân lệnh cấp chỉ huy. Phải thi hành mệnh lệnh trong bất cứ trường hợp nào. .................................................................. Viết tới đây tôi nghĩ đến chiến trường Ukraine. Những người dân Ukraine tại thành phố Mariupol phải sống dưới hầm nhiều ngày liên tục. ...................................................................... Những ngày tháng ba, tháng tư là của thương đau và chết chóc, của tội ác trên hành tinh này. Người VN năm 1975 gồng gánh vượt đường máu đi tản cư. Người dân Ukraine củng chạy sang Balan để tìm đường sống. Còn có bài thương ca nào đau lòng hơn thế nữa hay không? Tháng tư mẹ bồng con di tản. Đạn pháo nổ vang mẹ lìa đời Mẹ chết tay bồng con thoi thóp Chiến tranh bi thảm Việt Nam ơi! Tháng ba bom nổ khắp Ukraine Thành phố, nhà dân đều tan tành Đoàn người tị nạn rời tổ quốc Thế giới chung tay chống chiến tranh. Này Kharkov, Sumy, Kherson Này cảnh tan hoang Mariupol Dưới hầm dân chết vì đói khát Ukraine tử thủ vì nước non. Xin đừng so sánh Việt Nam và Ukraine trong cuộc chiến. Hãy nhìn một cách công tâm để đánh giá và phê phán. Ukraine là một nước mà người dân ngoi lên từ ngục tù Cộng Sản. Những vết hằn bóc lột, tham nhũng, đảng trị, trả thù, áp bức và đói khát đã cho người dân Ukraine một bài học xương máu. Nước Việt Nam ta anh em biến thành kẻ thù. Người dân miền Bắc đói khổ đi giải phóng miền Nam giàu có trù phú. Một lực lượng nằm vùng bí mật gài lại ẩn náu hoạt động tại miền Nam. Cho nên trong dân chúng không thể phân biệt ai là Việt Cộng, ai là Quốc Gia. Trên chiến trường Bắc Việt được tiếp tế vũ khí chiến tranh của khối Cộng Sản Tàu và Nga, Danh nghĩa Giải Phóng Miền Nam của Mặt Trận chỉ là hình thức để qua mặt Quốc Tế. Việt Nam Cộng Hòa bị Mỹ cắt viện trợ và rút binh về nước. Trong nội bộ của chính quyền, tướng lãnh trong quân đội có một số lớn Việt Cộng nằm vùng. Họ đã có kế hoạch đầu hàng, uy hiếp bắt Tổng thống phải từ chức. Lệnh bỏ ngõ chiến trường phát ra ngay từ bộ tổng tham mưu. Ai có thể đương đầu chống lại cuộc chiến trăm phần thất bại này. Việt Nam không là gì cả với thế giới. Người dân Mỹ đã quá mệt mỏi và đau thương vì cuộc chiến VN. Họ mất mát tiền bạc lẫn sinh mạng trên chiến trường này quá nhiều. Những người Mẹ đòi con mình trở về an toàn, nước Mỹ đang ở bên bờ vực phải chọn. Và họ đã lựa chọn làm một người bạn thất hứa. Họ đã sai khi bỏ rơi VN và đánh thức con rồng ngủ quên Tàu Cộng để bây giờ hối tiếc muộn màng. TT Thiệu bị ép phải lên máy bay cấp tốc rời khỏi VN. Ông không thể có chọn lựa nào khác. Đó là Tết Mậu Thân 1968, Cộng quân chiếm thành phố Huế và lùa dân đi bắn bỏ. Họ tàn sát dã man, kinh hoàng. Những hố bom tập thể vùi xác biết bao nhiêu người dân vô tội. Khăn tang cho Huế trắng cả xứ thần kinh. Vậy mà cái ác vẫn chiến thắng, quốc tế làm ngơ và Cộng Sản vẫn chiếm trọn đất nước VN. Những kẻ từng giết người vẫn sống nhởn nhơ và huyên hoang với thành tích của mình. Vâng! Tháng tư năm nay thế giới lại thưởng thức một bản thương ca bi thống. -Đối nghịch của âm nhạc là sự tàn khốc của chiến tranh, bom đạn và dã tâm quyền lực đã tiêu hủy sinh mạng con người. Bài thương ca không vang lên từ ban nhạc. Và vang lên từ trái tim của mỗi con người Khi ta hạnh phúc và có nụ cười. Người Ukraine máu hòa chung nước mắt. Pháo tung xác cha nhầy nhụa trên mặt đất Đứa con ngây thơ vẫn tị nạn xứ người Ác độc, bạo tàn chết chóc Ukraine ơi Tháng tư tiếng khóc vang lên chấn động. Cho Việt Nam, Ukraine bi thống. Hãy lên tiếng chống hành động giết người. Và hãy cầu nguyện Hòa Bình. Cho thế giới an vui Nguyễn thị Thêm. 04/04/2022 RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - duke - 2022-04-09 ![]() Ta đi trong tuyết ươm hơi lạnh
Mà lửa từ tim vẫn nhuốm hồng Với lá Hoàng Kỳ trên ngực áo Ta vẫn còn hơi ấm của non sông… (Hải Triều) ![]() ![]() ![]() RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - duke - 2022-04-13 ![]() TƯỞNG NHỚ NGŨ HỔ TƯỚNG
(Ngũ Thủ)
Trần Vĩnh Khang (Bài Họa) 1 NGUYỄN KHOA NAM Than ôi tiến thoái đã đường cùng Tủi thẹn râu mày với núi sông Chẳng thể điều quân an chiến địa Không sao chống giặc giữ nương đồng Thương dân thống khổ mi trào lệ Xót lính lầm than lụy nhỏ dòng Quyết chết theo thành nêu khí tiết Con Hồng cháu Lạc giống Tiên Long 2 PHẠM VĂN PHÚ Nén hương tưởng niệm Tướng quân Dù Một thuở tung hoành khắp chiến khu Hỏa tuyến không sờn khi nắng cháy Cao nguyên chẳng ngại lúc mưa mù Xông vào đất địch danh trăm trận Tái chiếm buôn làng tiếng vạn thu Thất quốc đem thân đền nợ nước Non sông tiễn biệt cánh hoa Dù 3 LÊ VĂN HƯNG Ngang dọc sa trường tỏ chí trai Tận trung báo quốc lưỡi gươm mài Bình Long nổi tiếng trang hào kiệt An Lộc lừng danh võ tướng tài Thất thế đem thân đền nợ nước Sa cơ gởi mạng chốn tuyền đài Anh hùng quyết tử vì sông núi Hồn quyện quân kỳ phất phới bay 4 TRẦN VĂN HAI Áo trận giày sô phủ bụi mù Danh lừng hổ tướng giỏi cơ mưu Đầu ngành cảnh sát tròn câu chính Chủ soái sư đoàn vẹn tiếng nhu Bảo quốc tiền phương truy quét giặc An dân hậu tuyến chống ngăn thù Cơ trời nước mất liều thân chết Sử chép bia truyền vạn ức thu 5 LÊ NGUYÊN VỸ Cộng chiếm thành đô cuộc chiến tàn Anh hùng mạt vận chết hiên ngang Căm hờn lũ giặc đi chân dép Uất hận quân thù đội nón nan Giữ chí can trường không khuất phục Làm thân chiến tướng chẳng quy hàng Vong thành tuẫn tiết danh thơm rạng Võ miếu tôn thờ quốc thánh nhan.. Trần Vĩnh Khang (Bài Họa) ![]() ![]() ![]() RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - TTTT - 2022-04-13 (2022-04-13, 09:42 AM)duke Wrote: Chào duke, duke sưu tầm thơ họa này rất hay ![]() ![]() ![]() RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - duke - 2022-04-13 (2022-04-13, 10:01 AM)TTTT Wrote: Chào duke, duke sưu tầm thơ họa này rất hay Thanks TTTT ![]() RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - duke - 2022-04-13 Chắc các vị Ngũ Hổ Tướng mỉm cười với đòi hỏi của TTTT nên đã giúp duke mau chóng tìm được đây
![]() Việt Nam Cộng Hòa Ngũ Hổ Tướng, Nước Mất, Mất Theo Nước!!! - Nguyễn Minh Thanh
DetailsTác giả: Nguyễn Minh Thanh Published: 30 Tháng Tư 2019
User Rating: 5 / 5
![]() "Anh hùng mạc bả doanh thâu luận
Vũ trụ trường khang tiết nghĩa lưu"
T.K. Huân
***
1 - Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam (Tư Lịnh Quân Đoàn IV - Quân Khu IV)
Vận nước nổi trôi đến bước cùng
Tướng Quân thà chết với non sông
Tang bồng xếp lại... hoa dù đỏ
Khí tiết vang theo... tiếng súng đồng
Đất Việt xót thương cây rũ lá ...!
Sông Hương tiếc nhớ nước khô dòng...!
Nghiêm mình kính cẩn trang trung liệt
Gương sáng muôn đời... sóng Cửu Long...! Nguyễn Minh Thanh
Nguyễn Khoa Nam (1927-1975), sanh tại Đà Nẵng, nguyên quán ở làng An Cựu Tây, Hương Thuỷ, Thừa Thiên. Con Ông Nguyễn Khoa Túc và Bà Tôn Nữ Ngọc Cẩn.
Nguyễn Khoa Nam
Theo học khóa 3 Đống Đa tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, khai giảng ngày 1 tháng 4 năm 1953. Ngày 1 tháng 12 cùng năm, tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy.
Gia nhập đơn vị Nhảy Dù, ông được cử làm Trung Đội Trưởng thuộc Đại Đội 1 trong Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù. Tiến dần lên đến Tư Lệnh Phó SĐ Nhảy Dù. Chuyển qua Bộ Binh, Ông làm Tư Lệnh SĐ7BB. Chức vụ sau cùng Tư Lệnh Quân Đoàn IV - Quân Khu IV tại Cần Thơ.
Sáng ngày 1 tháng 5, Ông vận bộ quân phục Đại Lễ của Quân Đội, và vào khoảng 6 giờ 30 sáng Ông dùng súng Browning bắn vào màng tang tự sát tại chiếc ghế làm việc trong tư dinh.
Tro Cốt của Ông thờ ở Chùa Quảng Hương Già Lam, đường Lê Quang Định số 498/11 Phường 1, Gò Vấp, Sài Gòn.
2 - Thiếu Tướng Phạm Văn Phú (Tư Lịnh Quân Đoàn II - Quân Khu II )
Người xứ Hà Đông gốc Nhảy Dù
Dấu chân dày dạn các quân khu
Điện Biên kịch chiến rừng xơ xác
Lào Hạ giao tranh khói mịt mù
Tây Huế bảo toàn an một thuở
Ban Mê thất thủ hận... nghìn thu...!
Nghiêng bầu độc dược... hồn bay bổng
Mây trắng trời xanh... biệt Cánh Dù...!!! Nguyễn Minh Thanh
Phạm Văn Phú
Phạm Văn Phú (1928-1975), sanh tại Hà Đông, gốc Nhảy dù. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên Quân - Đà Lạt khoá 8 giữa năm 1952.
Tại chiến trường Điện Biên Phủ vô cùng sôi động, ở cấp bậc Trung Úy ông đã chỉ huy một Đại Đội của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù. Sau hơn một hơn tháng giao tranh ác liệt với Việt Minh, ngày 16 tháng 4 Ông được thăng cấp Đại Úy tại mặt trận khi vừa đúng 25 tuổi.
Ngày 7/5/1954, Điện Biên Phủ thất thủ, PVP bị địch quân bắt giam. Sau 20/7/1954 (Hiệp định Genève), Ông được trao trả và tiếp tục trong quân lực VNCH.
Ông trải qua nhiều đơn vị chiến đấu. Chức vụ sau cùng Tư Lệnh Quân Đoàn II - Quân Khu II tại Pleiku.
Sáng ngày 29 tháng 4 tại tư dinh Sài Gòn, Ông tự sát bằng một liều Choloroquine cực mạnh. Ông bị hôn mê đến 11 giờ 15 trưa ngày 30 tháng 4, tỉnh lại thều thào hỏi phu nhân về hiện tình chiến cuộc. Khi được biết Dương Văn Minh đã ra lệnh cho toàn thể Quân lực Việt Nam Cộng hòa buông súng đầu hàng, Ông liền từ trần!!
3 - Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng (Tư Lịnh Phó Quân Đoàn IV - Quân Khu IV)
Núi sông nghiêng ngửa phận làm trai
Quân ngũ tòng chinh chí miệt mài
Dũng lược U - Minh xung trận địa
Kiên cường An - Lộc phá trùng vây
Cờ tàn... sông núi ngùi ly biệt
Vận mạt... anh hùng ngậm đắng cay
Phòng ngủ... kinh hoàng vang tiếng súng
Ngoài trời đêm quạnh... ánh sao bay... Nguyễn Minh Thanh
Lê Văn Hưng
Lê Văn Hưng (1933 - 1975), người Hóc Môn, Gia Định, mồ côi cha. Theo học khóa 5 Vì Dân tại trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức năm 1954, tốt nghiệp cấp bậc Thiếu Úy.
Ra trường Ông giữ những chức vụ tác chiến. Có lúc chuyển sang Hành Chánh Trưởng Ty Cảnh Sát, rồi Quận Trưởng, Tỉnh Trưởng... Sau chuyển qua Bộ Binh làm Tư Lệnh SĐ5 / BB căn cứ Lai Khê, Bình Dương. Tháng 3 năm 1972, Ông được thăng cấp Chuẩn Tướng.
Sau chiến trận "Mùa Hè Đỏ Lửa" 1972, Ông được tặng thưởng tại mặt trận Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kèm Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu, và Huy Chương Đặc Biệt "Bình Long Anh Dũng".
Chức vụ sau cùng Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV - Quân Khu IV tại Cần Thơ.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Ông tự sát bằng súng lục bắn vào tim lúc 20 giờ 45.
Trước khi tự sát, Ông nói: - "Tôi bằng lòng chọn cái chết, tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành."
4 - Chuẩn Tướng Trần Văn Hai (Tư Lệnh Sư Đoàn 7 BB)
Hải đăng toả sáng giữa sương mù
Liêm chính kiêu hùng dũng trí mưu
Tỉnh Trưởng Phú Yên nhiều mến mộ
Chỉ Huy Cảnh Sát lúc cương nhu
Khe Sanh tuyến lửa: - thăm binh sĩ*
Trận địa Chư Pao: - diệt giặc thù
Nước mất ngậm ngùi... khui... độc dược
Phương danh trăng chiếu... rạng ngàn thu...!! Nguyễn Minh Thanh
Trần Văn Hai
Trần Văn Hai (1925-1975): người Gò Công trong gia đình điền chủ. Theo học khóa 7 Ngô Quyền tại trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 5 năm 1952. Cùng khoá với Thủ Khoa Trương Quang Ân. Sau này là Th/ Tướng Trương Quang Ân.
Qua những chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ. Tỉnh Trưởng tỉnh Phú Yên. Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Trung Ương. Tổng Giám Đốc Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia..., Tư Lịnh Phó Quân Đoàn II.
Chức vụ sau cùng Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh tại căn cứ Đồng Tâm Mỹ Tho.
Trước sự kiện ngày 30 tháng 4 khoảng hơn một tuần, đích thân Tổng Thống Thiệu cho máy bay riêng xuống đón Ông di tản, nhưng Ông từ chối.
Đặc biệt, Ông đã nhờ người đem tiền về cho Mẹ và báo tin Ông bình an, rồi mới tự sát..!!
Nửa đêm về sáng ngày 1 tháng 5, Ông dùng thuốc Optalidon nguyên ống 20 viên tuẫn tiết tại phòng làm việc!!
*Căn cứ Khe Sanh (Quảng Tr ) năm 1968, ngoài Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, còn có Tiểu Đoàn 37 BĐQ/ Việt Nam, Đ.Úy Hoàng Phổ làm TĐT. BĐQ bố trí vòng ngoài quân đội Mỹ, hướng Đông nguy hiểm nhứt. VC tấn công tuyến BĐQ nhiều lần nhưng chúng đều thất bại. Lần sau cùng là: 29 - 2 - 1968.
Bất chấp hiểm nguy, Đại Tá Trần Văn Hai đã tới thăm anh em tận tuyến lửa, nơi đây...!!
5 - Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ (Tư Lịnh Sư Đoàn 5 BB)
Chiều nghiêng thành quách đã điêu tàn
Thương tiếc anh hùng thuở dọc ngang
Cương trực thanh liêm không vị nể
Kiên trì nguy hiểm chẳng từ nan
Can trường An Lộc: - chờ Tank đến
Bất khuất Lai Khê: - gác chuyện hàng
Tiếng súng sau cùng vang... vọng mãi...
Ngàn năm hương khói tưởng... linh nhan. Nguyễn Minh Thanh
Lê Nguyên Vỹ (1933-1975) người Sơn Tây, thuộc gia tộc "Lê Nguyên" danh giá. Theo học khóa 2 Lê Lợi tại trường Võ Bị Địa Phương Trung Việt ở Huế, khai giảng năm 1951, tốt nghiệp Chuẩn Úy hiện dịch.
Phục vụ đơn vị Nhảy Dù, Quận Trưởng Quận Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
Tiểu Đoàn Trưởng, Trung Đoàn Trưởng, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Bộ Binh
Ngày Quốc Khánh Đệ Nhị Cộng Hòa 1 tháng 11 năm 1974, ông được thăng cấp Chuẩn Tướng. Ngày 7 tháng 11 cùng năm, Ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại Lai Khê, Bình Dương.
LNV là người hạ chiếc Xe Tăng đầu tiên của VC trong trận An Lộc 1972. Ông tổ chức "Tiểu Tổ Diệt Tăng" sẵn sàng nghinh địch và săn Tăng.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi nghe Dương Văn Minh kêu gọi chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng. Ông ra lệnh cho binh sĩ treo cờ trắng trước căn cứ và cho thuộc cấp giải tán. Sau đó ông dùng khẩu Beretta 6.35 bắn vào đầu tự sát tại Bộ Tư Lệnh Lai Khê!!
Người nhà đã đem Tro Cốt của Ông về thờ trong Phủ Thờ gia tộc "Lê Nguyên" tại Sơn Tây.
Lời phụ bàn:
1 - Nỗi Đau Của Người Chiến Bại:
Thế Chiến II chấm dứt với sự đầu hàng vô điều kiện của Nhựt Bổn. Tương truyền có rất nhiều chiến sĩ Nhựt đã dũng liệt tuẫn tiết trong lúc ấy.
Dưới đây là một trong những bài thơ quí dũng sĩ còn để laị. Xin chép ra... hoà theo niềm cảm thông sâu sắc do sự kết thúc giống nhau giữa Nhựt Bổn và Việt Nam Cộng Hoà cực kỳ bi đát!!
Đó là "Bại Trận - Đầu Hàng vô điều kiện...!!"
Mà, người viết cũng rơi vào trong cuộc, trong khúc quanh lịch sử. Ngậm ngùi... lặn ngụp trong khoang Huyết Sử...!! Với Niềm Đau không nguôi...!!
Thơ Tuyệt Mạng
"Ải Bắc từ khi cách cố hương
Tháng ngày thắm thoát mấy năm trường
Ví hay số kiế́p chim lìa cánh
Thà để thân nầy ngựa bọc xương
Nửa phút chưa nguôi thù Quảng Đảo
Ngàn năm há tuyệt giống Phù Tang
Ngây thơ em hãy khuyên đàn trẻ
Vì nước cha mầy để tấm gương...!!" (Khuyết danh)
2 - Lưu Phương Muôn Thuở:
Trong "Tuyệt Mệnh Thi", Ông Thủ Khoa Huân có câu:
"Anh hùng mạc bả doanh thâu luận
Vũ trụ trường khang tiết nghĩa lưu"
(Hãy lắng nghĩa trung lưu vũ trụ
Chớ đem thành bại luận anh hùng)
Đem chiếu rọi hai câu thơ trên vào quí Tướng Quân, thấy rất phù hợp, tương thích.
Quí Tướng Quân đã "Vũ trụ trường khang tiết nghĩa lưu".
Đã để lại cho Quân Lực VNCH nói riêng, cho dân tộc VN nói chung nỗi niềm hãnh diện và tiếc thương vô biên... Và cho hậu thế ánh trăng rằm rạng rỡ thiên thu...
Quí Ngài đã theo gương:
Vua Thục Phán, Quí Bà Trưng, Bà Triệu... Nước mất, mất theo Nước...!!
Quí Ông Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, ... Thành mất, mất theo Thành...!!
Ngoài quí Tướng Quân ra, trong sự kiện Quốc Hận 30 - 4 - 1975 còn nhiều, rất nhiều những Chiến Sĩ: Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ... đã "Nước mất, mất theo Nước". Chưa kể những thành phần chức vụ, dân sự: Ngoại Trưởng Tần Chánh Thành..., gia đình Bác Sĩ Lý Hồng Chương...
Nay, Tổ Quốc đang cơn Vận Bỉ, mong ngày Thái Dương tỏ rạng, hầu sưu tầm đầy đủ tất cả những bậc phi thường ấy. Những người đã oanh liệt, hoặc âm thầm lẫm liệt tuẫn tiết... để lập đàn tưởng niệm tôn vinh!! Mong thay...!!
Với tấm lòng thành kính, nơi đây, có bài thơ nhỏ xin Tưởng Niệm toàn thể Quý: Quân, Dân, Viên Chức VNCH đã Lẫm Liệt Tuẫn Tiết trong sự kiện: "Quốc Hận 30 - 4 - 1975":
Những Anh Hùng... Nước Mất, Mất Theo Nước!!
Dân quốc lầm than oán khắp nơi...
Dấn thân bảo vệ há ngồi chơi...?!
Tang bồng giai mộng sông Xoài Mút...
Hồ thỉ diễm mơ trống Ngọc Hồi...
Thế cuộc Quốc Kỳ ngùi...nước cuốn...!!
Tuẫn thân hùng khí rạng... trăng khơi...!!
Than ôi...! Sông Núi không ôm được...
Thì sống làm chi... chật đất trời...!! Nguyễn Minh Thanh
Hỡi những người của lịch sử của thiên thu, xin nghiêm mình kính cẩn chào quí Anh Linh... Nguyện cầu quí Anh Linh an lạc nơi cõi vĩnh hằng.
Và xin mượn câu nói người xưa:
"Nhân cố hữu tử, tử hoặc trọng ư thái sơn, hoặc khinh ư hồng mao" để thay lời kết.
Ôi, Quí Liệt Vị đã xem cái chết nhẹ tựa lông chim hồng. Phương danh Quí Liệt Vị "trường khang tiết nghĩa lưu".
Quí Liệt Vị chính là:
"Anh hùng tử, khí hùng bất tử
Thiên thu trường cữu Việt sơn xuyên"
Anh Linh Quí Liệt Vị chan hoà vào...
- Những dãy núi: Trường Sơn, Bân Sơn, Thạch Bi Sơn, Thất Sơn, Bà Đen...
- Những dòng sông: Cửu Long, Đồng Nai, Đà Rằng, Sông Côn, Dabla, Hương Giang, Mỹ Chánh, Thạch Hãn, Bến Hải...
Và trên những dãy núi ấy..., những dòng sông ấy...
Ngàn năm mây trắng vẫn còn bay... lửng lơ... ngơ ngẩn... ngậm ngùi... tiếc thương... Quí Liệt Vị...!! Ôi, cao cả thay, cao quí thay!!
Bây giờ, đêm tối dần tan, bình minh đang ló dạng:
"Ngoài trời hững sáng ban mai...
Tấc lòng Cố Quốc cờ bay... trập trùng..."
Nguyễn Minh Thanh cẩn tác
Ga, 2019 - Mùa Quốc Hận!!
Phụ chú:
*Tuyệt Mệnh Thi
Hãn mã nan kham vị quốc cừu,
Chỉ nhân binh bại trí thân hưu.
Anh hùng mạc bả doanh thâu luận,
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu.
Vô bố dĩ kinh Hồ lỗ phách,
Bất hàng cam đoạn tướng quân đầu.
Đương niên Tho thuỷ ba lưu huyết,
Long đảo thu phong khởi mộ sầu.
T. K. Huân
Thơ Tuyệt Mạng
Gian nan vó ngựa diệt thù chung
Chỉ tại thua binh mạng phải cùng
Hãy lắng nghĩa trung lưu vũ trụ
Chớ đem thành bại luận anh hùng
Nổi xung giặc dữ kinh hồn khắp
Liều thác thân tàn rạng tiếng chung
Sóng nước Mỹ Tho pha máu đỏ
Gió Thu chiều úa nhuộm cồn Rồng..!! Nguyễn Minh Thanh cẩn dịch
*Đoạn sông Rạch Gầm - Xoài Mút: cách thành phố Mỹ Tho hơn 10 km hướng Tây Bắc. Ngày 20 tháng 1 năm 1785. Khi quân Xiêm lọt vào trận địa, pháo binh Tây Sơn Nguyễn Huệ bất ngờ tấn công, Đồng thời, bộ binh và thủy quân xông ra tiêu diệt gần như toàn bộ địch quân.
*Đồn Ngọc Hồi: Sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung hạ lệnh đánh đồn Ngọc Hồi phía Nam Thăng Long. Đồn, do phó tướng Hứa Thế Hanh chỉ huy. Đồn thất thủ, bị quân Tây Sơn thiêu rụi. Hứa Thế Hanh chạy vắt giò lên cổ...
Tham khảo: các trang Web:
- NKN, PVP, LVH, TVH, LNV...
- Thủ Khoa Huân...
- Hán Việt Từ Điển - ĐDA
![]() ![]() ![]() ![]() RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - phai - 2022-04-13 (2022-04-09, 08:35 AM)duke Wrote: Xin đừng so sánh Việt Nam và Ukraine trong cuộc chiến. Hãy nhìn một cách công tâm để đánh giá và phê phán. Ukraine là một nước mà người dân ngoi lên từ ngục tù Cộng Sản. Những vết hằn bóc lột, tham nhũng, đảng trị, trả thù, áp bức và đói khát đã cho người dân Ukraine một bài học xương máu. Đem hai cuộc chiến so sánh với nhau rất là khập khễnh. Tác giả nói đúng, Ukraine được may mắn thoát ra từ một cuộc cưỡng hôn với nước Nga cs nên họ hiểu cái giá trị độc lập của dân tộc họ. Còn người dân miền Nam lúc đó những thành phần mê muội dĩ hòa vĩ quý, không hiểu cái tàn bạo của cs, hoặc đặt cái tham lên trên tất cả vv ... đã làm hỏng thế cờ. Người Mỹ họ cũng có tâm giúp đỡ nhưng điều chủ yếu vẫn là tinh thần và ý chí của miền Nam. Thêm nữa lúc đó cái vị trí của miền Nam, một bên là Campuchia với chính quyền của Khờ Me đỏ Pol Pot một bên là Thái Bình Dương mênh mông, trong khi súng đạn không còn những viện trợ cần thiết bị cắt hết thì ông Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng là một quyết định đúng, theo thiển ý. RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - duke - 2022-04-13 (2022-04-13, 10:34 AM)phai Wrote: Đem hai cuộc chiến so sánh với nhau rất là khập khễnh. Hoàn toàn đồng ý với bạn Phai ![]() ![]() RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - duke - 2022-04-18 Chỉ còn 20 ngày nữa, là đã 47 năm trôi qua, từ ngày Sài Gòn thất thủ. Ngày hôm nay, cái giá của Tự Do vẫn luôn luôn vang vọng trong tâm tư của những ai yêu tự do, hoà bình thật sự .... GIÁ CỦA TỰ DO By Lieu B.N ![]() Mặc dù đã nhiều lần được đọc những câu chuyện của những thuyền nhân VN, nhưng mỗi lần được đọc thêm một câu chuyện mới của ai đó lại khiến tôi phải lặng người. Dẫu biết rằng Tự Do không hề miễn phí nhưng sao cái giá mà những thuyền nhân phải trả lại quá đau thương và quá đắt. Để đến được bến bờ Tự Do thì thì xác thân cũng đã "bầm dập tả tơi", tâm hồn cũng đã bị tổn thương không ít. Có những người không may phải bỏ xác trên biển. Biết rằng sẽ gặp hiểm nguy nhưng họ vẫn ra đi vì đó là lý tưởng sống của họ, thà chết trên đường đi tìm Tự Do, còn hơn phải sống trong đọa đày. Những ai đã từng được hưởng Tự Do rồi thì sẽ hiểu không dễ gì chấp nhận khi mất nó, lại càng không dễ chấp nhận sống đời nô lệ. Cứ ngỡ chỉ có trong thời loạn dân Việt mới đi tìm Tự Do. Nhưng không, cho đến bây giờ, người Việt vẫn đang trên đường đi tìm Tự Do đó thôi. Không còn những cảnh vượt biên hãi hùng nữa mà thay vào đó là đi theo con đường an toàn và hợp pháp hơn. Những du học sinh tiếng là đi du học chứ thực chất cũng là vì hai tiếng Tự Do. Có người chấp nhận bỏ tỷ này tỷ kia cũng chỉ để kiếm cho được cái visa vào xứ sở Tự Do. Một số cô gái /chàng trai chấp nhận lấy người đáng tuổi cha chú, cô dì cũng chỉ vì muốn đến được bến bờ Tự Do. Biết bao con dân nước Việt đi khắp nước này nước kia làm culi, bán sức lao động với đồng lương rẻ mạt, kể cả bán thân. Vì cái gì, không phải vì Tự Do no ấm hay sao? Ngay cả những kẻ đã cướp đi Tự Do của người khác cũng cho con cháu đi tìm Tự do ở xứ "giãy chết" kia mà. Và tại sao con dân nước Việt phải làm vậy khi họ đang sống trong thời bình ở xứ sở được mệnh danh là thiên đường? Đơn giản thôi vì họ đi tìm thứ họ không có. Muốn có Tự Do phải chấp nhận đánh đổi bằng nhiều cách, bằng cả máu xương và thậm chí là cả sinh mạng. Nhưng, không phải sự hi sinh, tang thương mất mát nào cũng được đổi lại bằng Tự Do. Ở đâu đó, biết bao máu xương của cả hai miền đã đổ, đã có biết bao trái tim của biết bao người mẹ nát tan, biết bao gia đình phải ly tán, bao đứa trẻ phải mất cha,... Nhưng gần 50 năm rồi, nơi đó vẫn chưa có Tự Do, nhân quyền, vẫn chưa có ánh sáng của văn minh dân chủ. Có chăng chỉ là con người trong xã hội đó đang bị ru ngủ, hay đang tự huyễn hoặc lừa dối bản thân rằng mình đang sống trong Tự Do yên bình. Những ai đã được hưởng Tự Do rồi sẽ biết "mùi" của Tự Do là thế nào. Với tôi, khi chưa được hưởng Tự Do và dân chủ là chưa được sống đúng giá trị của con người. Tự do không hề miễn phí. RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - duke - 2022-04-29 Nhân Tháng Tư đen, xin đăng lại bài này để TƯỞNG NHỚ ÔNG BỘ TRƯỞNG GIÁO DỤC VNCH BỊ ĐÀY CHẾT Ở NHÀ TÙ BA SAO - HÀ NAM ĐOẠN KẾT BI THẢM CỦA VỊ CỰU BỘ TRƯỞNG GIÁO DỤC *Bài của Võ Khánh Tuyên Đó là Giáo Sư NGUYỄN DUY XUÂN - Tổng trưởng Văn Hóa - Giáo dục - Thanh niên của Chính thể Việt Nam Cộng hòa. Giáo Sư NGUYỄN DUY XUÂN, sinh năm 1925 tại Ô Môn, Tỉnh Cần Thơ... là cựu học sinh Collège de Cần Thơ. Sau khi đậu bằng Diplôma (văn bằng thành chung). Ông sang Pháp du học tốt nghiệp cử nhân kinh tế. Ông tiếp tục theo học chương trình sau đại học ở Anh, lấy bằng Thạc sĩ về kinh tế học; tiếp đến sang Mỹ theo học ở đại học Vanderbilt, và lấy học vị Tiến sĩ kinh tế học rồi trở về Việt Nam năm 1963. Sau khi về nước ông được bổ nhiệm làm tổng ủy trưởng tổng ủy nông nghiệp, tổng trưởng kinh tế và cố vấn kinh tế của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, bên cạnh đó, ông còn dạy tại các trường đại học kinh tế và trường quốc gia hành chính. Đầu năm 1970, ông được mời về làm Viện trưởng Viện Đại học Cần Thơ. Trong thời gian đảm nhận vị trí Viện trưởng Viện Đại học Cần Thơ, Giáo sư đã nỗ lực phát triển mọi lãnh vực, đặc biệt với 2 ngành Sư Phạm và Nông Nghiệp. Giáo Sư cũng là người tiên phong trong việc thiết lập hệ thống đào tạo tín chỉ theo mô hình Đại học Hoa Kỳ. Năm 1972, ông cũng đích thân mời nhà nông học trẻ Võ Tòng Xuân khi ấy đang công tác ở Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế Los Banos Philippines về trường giảng dạy. Những ngày sau cùng của Chính thể Việt Nam Cộng Hòa , ông đảm nhiệm vị trí Tổng Trưởng (tức Bộ trưởng) Văn hóa - Giáo dục - Thanh niên trong nội các của Tướng Dương Văn Minh. Biến cố 30 /4/1975 xảy ra ... dù có nhiều điều kiện để di tản, nhưng Giáo Sư vẫn ở lại Việt Nam, sau khi đưa vợ con di tản... Và sự ở lại của ông có thể là một kết cục bi thảm cho chính cuộc đời của một vị trí thức. Sau 1975, trong khi Tướng Minh vẫn sinh sống tại Dinh Hoa Lan, sau đó sang định cư tại Pháp... , như thân phận của các Quân dân cán chính khác, Giáo sư Xuân phải trải qua một thời gian cải tạo ở Thủ Đức, rồi bị đưa đi học tập cải tạo ở trại Ba Sao thuộc tỉnh Hà Nam Ninh (nay thuộc tỉnh Hà Nam) lúc đó. Năm 1983, GS Võ Tòng Xuân, khi ấy là Đại biểu Quốc hội, có tìm đến trại Ba Sao thăm vị Giáo sư cũ một lần... 3 năm sau, năm 1986 .... do bệnh tật, Giáo Sư Nguyễn Duy Xuân qua đời tại Trại giam, thọ 61 tuổi. Thi hài được chôn ở quả đồi, khu vực Trại Cải tạo Ba Sao - Hà Nam. Chấm dứt 11 năm ròng rã chôn mình trong Trại Cải tạo! Gần 30 năm sau... ngày 5.4. 2015, phần tiểu chứa tro cốt của Giáo sư Nguyễn Duy Xuân được người con gái, bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga, đưa từ nghĩa địa trại cải tạo Ba Sao (Hà Nam) bằng đường tàu lửa vào Saigon. Thể theo di nguyện được ở lại quê hương, tro cốt của vị Bộ trưởng Giáo dục không sang Pháp cùng con gái và gia đình, mà được gửi ở Chùa Thiên Hưng ở đường Vạn Kiếp, Quận Bình Thạnh (TP.HCM). _____________ Trưa ngày 22 tháng 11 năm 2018, Luật sư Đặng Trọng Dũng đã đến chùa Thiên Hưng, số nhà 71 đường Vạn Kiếp, quận Bình Thạnh, TP HCM để dâng hương tưởng nhớ Cố Bộ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Duy Xuân: ![]() Rất xúc động khi được thấy bình tro cốt của Giáo sư Nguyễn Duy Xuân, Cố bộ trưởng Giáo dục Việt Nam Cộng hòa. Xin cầu nguyện anh linh Giáo sư thanh thản vĩnh hằng và phù hộ cho giáo dục nước nhà bước vào vận mới. Xin đa tạ tấm lòng của Luật sư Đặng Trọng Dũng, đã thay mặt đứa em xa xôi dâng hương tưởng nhớ Cố Bộ trưởng. RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - duke - 2022-04-29 Sài gòn trời đỗ mưa như nhắc nhở nỗi đau 47 năm về trước . Ngày hôm ấy lúc 7g sáng . Tám Phi công Phi đoàn Tinh Long 821 đã bị bắn rơi khi đang thực hiện Phi vụ Tinh Long 07 bảo vệ thủ đô Sài gòn và cũng là Phi vụ cuối cùng ![]() Xin gửi nén hương lòng đến các Anh . Con dân MN sẽ luôn nhớ các Anh . Mãi mãi ![]() RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - duke - 2022-04-29 THÁNG TƯ...! Thơ: Nguyên Thạch ![]() Ra chợ mua bông. Một bó cho chồng một bó cho cha. Đường bay gãy gánh sơn hà. Áo người thiếu phụ viền tà đợi trông. Tháng Tư...! Gánh lúa ra đồng. Một gánh thay chồng một gánh nuôi con. Chồng tôi nợ trả nước non. Thay chồng nuôi một đàn con ngoan hiền. Tháng Tư...! Viếng lại Tây nguyên. Mồ xưa đất lạnh. Tình duyên vẫn nồng. Buôn mê đêm ở với chồng. Hai phương cách biệt nhưng lòng còn nhau. Tháng Tư...! Hoa bưởi hương cau. Trầu duyên em ướp tình vào thiên thu. Cao nguyên mây thấp sương mù. Tháng Tư đượm nét ngục tù xót xa. Tháng Tư...! Tang phủ quê nhà. Tháng Tư...! Một nỗi đau thương...! Mỗi độ Tháng Tư... lại về. *Bà tôi có người con trai trong suốt bao nhiêu năm sống nơi “Rừng thiêng nước độc” vì “Đi Học” từ ngày 25 tháng Năm... Vì thương nhớ Má và vợ con, nên đã bước lên khỏi chiếc tàu ở bến Bạch Đằng, trong khi muôn người giành nhau để được xuống...! Nhớ con mà không làm gì hơn...! Chỉ biết Sáng-Chiều đốt ba nén nhang cầu xin Ông Nội độ trì, che chở cho đứa con lưu lạc phương xa...! Chú rất hiền và nhân từ lắm...! Đã hai lần trong quyền hạn của mình, kí giấy tha cho hai sinh viên biểu tình... Sau năm 1982, có hai người: Mẹ và Sĩ quan 3 sao (Thượng Uý) đến nhà Bà tôi để nhắc chuyện xưa..., biếu trà Thái Nguyên cùng lời cảm ơn...! Bà tôi đã khóc... khóc vì nhớ con, khóc vì con trai rất tốt bụng, sao lại chịu cảnh chia ly...! Bà sống trong nỗi buồn sâu thẳm vì nhớ con thương...! Mười năm sau..., Bà mất khi nhận được Giấy Báo tử ghi từ Hoàng Liên Sơn gởi vì trước một Tuần lễ...! Cả một bầu trời như sụp đổ...! (ghi theo lời kể của Đinh Trực). RE: TƯỞNG NIỆM QUỐC HẬN 30 THÁNG 4, 1975 - duke - 2022-05-01 Nhìn danh sách các tướng tá tự sát mới thấy được khí chất và tình yêu của họ dành cho Quê Hương Việt Nam lớn chừng nào.
Danh sách các quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã tự sát trong những ngày cuối cùng
![]() 1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn II 30/4/1975 2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV 1/5/1975 3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn IV 30/4/1975 4- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, tướng tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh 30/4/1975 5- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh 30/4/1975 6- Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh- khóa 16 Đà Lạt. 31/31975 tự sát tại Quy Nhơn 7- Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ông đã bị Việt Cộng xử bắn ngày 14 tháng 8 năm 1975 mặc dù ông không tự sát như những vị anh hùng khác nhưng khí tiết anh hùng hiên ngang gục chết trước pháp trường đã làm cho cộng quân phải khiếp sợ, cái chết của ông là bản anh hùng ca còn lưu giữ mãi trong lịch sử dân tộc Việt Nam. 8- Thiếu Tá Hải Quân Lê Anh Tuấn (bào đệ của Trung Tướng Lê Nguyên Khang). 30/4/1975 9- Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Gia Tập, đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ. Tự sát30/4/75 tại BTLKQ 10- Trung Tá Nguyễn Văn Long CSQG 30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Sài Gòn 11- Trung Tá Nguyễn Đình Chi Phụ Tá Chánh sở 3 An Ninh Quân Đội. Tự sát 30/4/1975 tạiCục An Ninh Quân Đội 12- Trung Tá Phạm Đức Lợi, phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM 30/4/1975 13- Trung Tá Vũ Đình Duy, Trưởng Đoàn 66 Đơn Vị 101 Bộ TTM. Tự sát ngày 30/4/1975 14- Trung Tá Nguyễn Văn Hoàn, Trưởng Đoàn 67 Đơn Vị 101 Bộ Tổng Tham Mưu. Tự sát ngày 30/4/1975 15- Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát ngày 28/4/1975 cùng vợ, 2 con và cháu (bằng súng) 16- Thiếu Tá Đặng Sỹ Vĩnh, trưởng Ban Binh Địa P2 Bộ TTM, sau biệt phái qua Cảnh Sát Ngày 30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con 17- Thiếu Tá Mã Thành Liên (Nghĩa), tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu- khoá 10 Đà Lạt. Ngày 30/4/1975 tự sát cùng vợ 18- Thiếu Tá Lương Bông, phó ty An Ninh Quân Đội Phong Dinh. Tự sát ngày 30/4/1975 19- Thiếu Tá Trần Thế Anh, Đơn vị 101 Bộ Tổng Tham Mưu. Tự sát ngày 30/4/75 20- Đại Úy Vũ Khắc Cẩn, Ban 3, Tiểu Khu Quảng Ngãi. Tự sát 30/4/1975 21- Đại Úy Tạ Hữu Di, Tiểu đoàn phó 211 Pháo Binh Chương Thiện. Tự sát 30/4/1975 22- Trung Úy CSQG Nguyễn Văn Cảnh, trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8. Tự sát ngày 30/4/1975 23- Chuẩn Úy Đỗ Công Chính, TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát ngày 30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản 24- Trung Sĩ Trần Minh, gác Bộ Tổng Tham Mưu. Tự Sát 30/4/1975 25- Thiếu Tá Đỗ Văn Phát, Quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên 1/5/1975 26- Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc, Tiểu đoàn trưởng ĐPQ, Tiểu Khu Hậu Nghĩa.Tự sát ngày 29/4/1975 27- Trung Tá Phạm Thế Phiệt tự sát ngày 30/4/1975 28- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân, Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2 /Bộ TTM. Tự sát ngày 1/5/75 29- Trung Tá Phạm Đức Lợi, Phòng 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả, nhà văn, thơ, soạn kịch… bút danh: Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, Trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội. Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975 30- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu, trưởng Ban Văn Khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM 31- Thiếu Úy Nguyễn Phụng, Cảnh sát đặc biệt, tự sát ngày 30/4/1975 tại Thanh Đa, Sài Gòn 32- Thiếu Úy Nhảy Dù Huỳnh Văn Thái, khoá 5/69 Thủ Đức. 30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 chiến sĩ Nhảy Dù tại Ngã 6 Chợ Lớn. 33- Trung Úy Đặng Trần Vinh (con của Thiếu Tá Đặng Sĩ Vinh), P2 BTTM. Tự sát cùng vợ con 30/4/1975 34- Trung Úy Nghiêm Viết Thảo, An Ninh Quân Đội, khóa 1/70 Thủ Đức. Tự sát 30/4/1975 tại Kiến Hòa 35- Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan (Quan Đen), phi công PĐ 110 Quan Sát (khóa 72). Tự sát chiều 30/4/1975 36- Hồ Chí Tâm B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau). Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975tại Đầm Cùn, Cà Mau 37- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu 38- Thượng Sĩ Bùi Quang Bộ, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu. P/s: Chieu Anh Nguyen.
![]() ![]() ![]() |