VietBest
Linh Tinh - LTP - Printable Version

+- VietBest (https://vietbestforum.com)
+-- Forum: Miscellaneous (https://vietbestforum.com/forum-64.html)
+--- Forum: Du Lịch (Travel) / Địa Điểm Ăn Chơi (https://vietbestforum.com/forum-25.html)
+--- Thread: Linh Tinh - LTP (/thread-15584.html)



RE: Linh Tinh - LeThanhPhong - 2021-04-26

Túp Lều Lý Tưởng - Planting a New Flower Bed for Our Small House





A Stranger's Rude Question Changed Deshauna Barber's Life | Goalcast





RE: Linh Tinh - LeThanhPhong - 2021-04-26

Thuyền viễn xứ
Tác Giả: Huyền Chi

Ra khơi sương khói một chiều
Thuỳ dương rũ bến tiêu điều ven sông
Lơ thơ rớt nhẹ men lòng
Mây trời pha ráng lụa hồng giăng ngang
Có thuyền viễn xứ Đà Giang
Một lần dạt bến qua ngàn lau thưa
Hò ơi! Câu hát ngàn xưa
Ngân lên trong một chiều mưa xứ người
Đường về cố lý xa xôi
Nhịp sầu lỡ bước, tiếng đời hoang mang
Sau mùa mưa gió phũ phàng
Bến sông quay lại, hướng làng nẻo xa
Lệ nhoà như nước sông Đà
Mái đầu sương tuyết lòng già mong con
Chiều nay trời nhẹ xuống hồn
Bao nhiêu sương khói chập chờn lên khơi
Hai bờ sông cách biệt rồi
Tần Yên đã nổi bốn trời đao binh
Ngàn câu hát buổi quân hành
Dặm trường vó ngựa đăng trình nẻo xưa
Biết bao thương nhớ cho vừa
Gửi về phương ấy mịt mờ quê hương
Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ lên đường… lại đi…


https://sites.google.com/site/ccamnhac/ccan-131



RE: Linh Tinh - LeThanhPhong - 2021-04-27

Bàn Thờ Phật

Bên Thụy Sĩ tôi có biết một cái nhà Phật Tử, bả thở Phật mà lúc tôi tới tôi tụng kinh, tôi hỏi "Mình lạy cái nào cô?". Nguyên một cái bàn thờ Phật bây lớn, cái bình bông cũng bây lớn, tượng ông Địa cũng bây lớn, cái dĩa bánh cũng cao bây lớn, hộp trà, Phúc Lộc Thọ cũng cao bây lớn. Tôi vô nhìn, rồi giờ mình tụng cái nào. Bàn thờ không có lớn, cao chừng một mét, bề ngang chừng tám tấc. 


Tôi thấy bả ghim cây nhang, tôi hỏi: "Ngài ở đâu?" Tôi kiếm như con thơ tìm mẹ. Thấy Ngài chìm ở trong cái cõi chợ đời ô trược đó: trà, bánh in Mai Hiên, Rồng Vàng bánh đậu xanh... Ngài nằm chung trong đó. 

Tôi nhìn mà tôi đau, quý vị bởi vì Mẹ tôi nằm lẫn trong đó. Con thơ tìm mẹ. Và từ cái nhà đó đi ra mới thấy mình còn thương Phật bởi vì nếu bả thờ đàng hoàng tôi đâu có nhớ Phật dữ dội vậy. Mà nhờ bả ém Ngài vô một cái góc chợ đời đầy ô trược tôi thấy: "Ồ! thì ra mình thương Ngài." 

Hay! Gợi nhớ ở mức độ rất cao! 

https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=AS9LfU4cqzo&abt=B%E1%BB%91n+Truy%E1%BB%81n+Th%E1%BB%91ng+Th%C3%A1nh+Nh%C3%A2n


RE: Linh Tinh - LeThanhPhong - 2021-04-28

Tỏi của Tàu (made in China) được tẩy trắng, trồng trong cống rãnh.
-------------
You're Buying Garlic That Is Bleached, Grown In Sewer Water, And From CHINA!





RE: Linh Tinh - LeThanhPhong - 2021-04-30

Bản Án Tử Hình

26/04/2021

Khôi An



Lời Giới Thiệu của Khôi An:


Đây là một câu chuyện có thật, đã được nhân vật chính cho phép ghi lại và phổ biến.

Hiện nay, nhân vật chính đang sống ở Mỹ, bên cạnh các con cháu thành đạt và hết lòng thương yêu Cô.

Ngoài chuyện kể về con đường phấn đấu đem các con sang Mỹ của một người mẹ, câu chuyện còn ghi lại nhiều chi tiết trung thực trong bối cảnh xã hội miền Nam Việt Nam ngay sau tháng Tư, 1975, cũng như tấm lòng của người dân miền Nam đối với nhau trong gian đoạn vô cùng đen tối đó. 

Nhân kỷ niệm 30 tháng Tư, 2021, người viết xin đăng câu chuyện này như một lời tưởng nhớ các cựu chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã chết trong tù ngục, và tôn vinh các người vợ suốt đời làm hậu phương sắt son, mạnh mẽ.
 
**
 
[Image: khoi-an.jpg]
 
Mắt tôi mờ đi, tờ giấy nhòe ra.

Hàng chữ run lên, uốn éo như con rắn độc. Nó phóng tới, mổ vào giữa tim tôi. 
“Xử phạt: Trần Văn Bé - Tử hình.”

Giọng nói run rẩy của tôi vang lên như âm thanh từ một cơn ác mộng, “Má nhận tin này hồi nào?”

Mẹ chồng tôi còn mếu máo thì cô em chồng nghẹn ngào đỡ lời, “Từ tháng Năm, nhưng Má chưa dám nói với chị…” 

Mẹ chồng tôi chùi nước mắt, phân trần, “Má tính đi kiếm cho ra mộ chồng con rồi mới nói cho con biết. Bởi vậy, hổm rày con đòi đi kiếm chồng, Má biểu để Má kiếm cho. Má sợ con chịu không nổi khi đối mặt với tụi công an… Con ơi, bữa đưa tin tụi nó làm dữ lắm! Công an phường, công an quận, công an thành phố kéo lại cả bầy. Tụi nó đưa ra tờ giấy này ra, biểu Má ký nhận. Lúc đầu Má không chịu ký, vì Má nghĩ ký nghĩa là chấp nhận rằng thằng Hai đáng bị xử tử. Tụi nó hăm dọa Má, nhắc tới thằng Ba còn đang bị tù ngoài Bắc. Má sợ tụi nó đem thằng Ba ra bắn luôn nên phải cắn răng ký tên lãnh án tử hình của con mình. Má đứt từng khúc ruột, con ơi…” Mẹ chồng tôi nghẹn lời, bà khóc nức nở.

**

Thế là hết!

Anh Bé đi tù tháng 6 năm 1975, sau đó tôi chỉ nhận được ba lá thư của anh. Lá cuối cùng đề tháng 2, 1976, gởi từ trại Suối Máu, Biên Hòa. Sau đó, anh bặt tin. 

Tôi chờ đợi mòn mỏi, lên xuống trạm công an cả chục lần, hỏi gì họ cũng trả lời không biết. Cuối cùng, tôi nhất quyết làm đơn khiếu nại. 

Lúc đó, tôi và sáu đứa con - đứa lớn nhất mười một tuổi, đứa nhỏ nhất mới lên hai - đang nương náu trong một mảnh vườn hẻo lánh tại Mỹ Tho. Vì vậy, tôi dùng nhờ địa chỉ nhà Mẹ chồng ở Sài Gòn. Cả chục lá đơn gởi tới trại tù Suối Máu đều như biến vào khoảng không, chẳng còn một chút tăm hơi. 

Trại tù không trả lời thì tôi hỏi cấp trên; tôi mày mò kiếm địa chỉ của hai “Tòa Án Nhân Dân” ở Sài Gòn và Hà Nội rồi gởi đơn tới cả hai nơi đó. Thời miền Nam vừa mất, cây củi cũng mắc, mua một con tem là thâm vào tiền mua gạo cho các con, nhưng tôi vẫn cắn răng bớt miệng con để gởi đi mấy chục lá đơn, từ tháng này qua tháng khác.

Cuối cùng, nhà cầm quyền Cộng Sản cũng phải trả lời. Ngày 10 tháng Năm, 1977, họ gởi thư về nhà Mẹ chồng tôi. Để xác nhận rằng: họ đã giết chồng tôi.

Cô em chồng đưa tay đỡ vai tôi cho tôi khỏi gục xuống. Sáu đứa con sợ hãi chạy lại vây quanh, tôi chỉ nói được mấy tiếng “Ba chết rồi!” rồi khóc ngất. Lũ trẻ thấy vậy cũng khóc òa lên, thằng lớn nhất ôm lấy con em kế, bệu bạo nói “Vậy là Ba không về nữa!”

Sau vài ngày ở nhà Mẹ chồng, tôi lại phải gượng đứng lên, dắt đám con về căn chòi trống huơ, trống hoác, nóc dột, tường xiêu ở Mỹ Tho.

Mẹ chồng tôi sợ tôi chết thì bà sẽ không nuôi nổi bầy cháu, còn cha mẹ ruột thì lo tôi sẽ phát điên. Tuy vậy, Mẹ chồng tôi không đủ sức cưu mang bảy mẹ con tôi và cha mẹ tôi cũng chỉ dám ghé thăm vài ngày rồi đi về. Thời đó, mỗi tuần người dân đều phải đi họp tổ dân phố để công an điểm danh, ai đi đâu cũng phải xin phép, vì thế không người nào dám đi lâu, sợ công an kiếm cớ làm khó dễ.

Ngày mẹ chồng tôi làm lễ phát tang anh Bé ở Sài Gòn, tôi chỉ đủ tiền mua ba tấm vé xe cho thằng con trai lớn nhất, đứa con gái út, và tôi. Họ hàng phần vì không có tiền đi xa, phần vì sợ liên lụy với “tử tù” nên không ai dám tới. 

Ngoài ba mẹ con tôi, đám tang chỉ có mẹ chồng và hai cô em ruột của anh. Sau ngày giao bản án tử hình, công an khu vực dòm ngó nhà chồng tôi như chồn cáo rình chuồng gà; vì thế, ngay cả trên bàn thờ của anh chúng tôi cũng không dám chưng bày nhiều. 

Di ảnh của anh đứng sau dĩa trái cây lỏng chỏng, một bát nhang hiu hắt và hai cây đèn cầy leo lét. Trước bàn thờ, bốn người đàn bà đầu tóc rũ rượi quỳ bên hai đứa nhỏ xanh xao, ngơ ngác. Chỉ có tiếng nhà sư đọc kinh nho nhỏ, còn chúng tôi phải kềm tiếng khóc trong lồng ngực, nuốt ngược nỗi đau vào lòng. Anh Bé sống ở khu xóm đó từ nhỏ, ai cũng biết và thương mến anh, cho nên bà con lối xóm kéo đến rất đông, nhưng không ai dám bước vô nhà. Họ giả làm kẻ tò mò đứng trước cửa, nhưng suốt buổi lễ họ lén dùng tay áo quẹt nước mắt, và nhìn chúng tôi bằng những cặp mắt đỏ hoe, ứa tràn thương xót.

Tôi quỳ ở đó, dật dờ nửa mê, nửa tỉnh. 

Những hình ảnh cuối của anh trở về trong đầu tôi.

Chiều 30 tháng 4, 1975, anh lái xe Jeep đến nhà cha mẹ tôi ở thành phố Mỹ Tho, nơi tôi đem sáu đứa con thơ từ khu cư xá sĩ quan ở Bình Dương về nương nhờ trong cơn hỗn loạn.

Tóc anh rối bời, mặt anh bơ phờ, nhưng anh vẫn mặc quân phục trên người. Anh ôm hôn từng đứa con, rồi nói với Ba tôi, “Ba cho con gởi vợ con của con.” 

Ba tôi đã nghẹn ngào hứa, “Con đừng lo, vợ con của con ở đây với Ba Má, rau cháo có nhau. Con đi đâu cũng vậy, khi con trở về đây, vợ con của con sẽ còn đầy đủ.” 

Trước mặt Ba Má tôi, anh ngại ngùng không ôm tôi lần cuối. Anh chỉ xiết tay tôi, dặn dò tôi giữ sức khỏe và cố lo cho các con. Tôi quá bàng hoàng, lo sợ nên chỉ biết nghẹn ngào nhắc anh hết sức giữ gìn tánh mạng. Anh lưu luyến thêm một lát rồi quay đi. 

Tôi đứng chết lặng ở bậc cửa. 

Anh leo lên xe, rồ máy. Xe chuyển bánh. Chạy đi. Xa dần. Rồi mất hút. 
Tôi cảm thấy một phần thân thể mình vừa bị chặt lìa ra…

Sau này tôi mới biết anh đã lái xe về nhà mẹ ruột ở Sài Gòn và trốn ở đây cho tới ngày đi trình diện “học tập cải tạo”. 

Mới hai năm qua mà tôi đã mất anh, con tôi đã mất cha. Người ta giết anh vì tội “trốn trại cải tạo nhằm mục đích phản Cách Mạng.” Độc ác hơn nữa là họ không thông báo gì cho thân nhân. Mạng sống của anh, của những người tù, và nỗi đau của gia đình họ, đối với người cầm quyền không có ý nghĩa gì! 

Mãi hơn một năm sau từ ngày bắn anh, có lẽ vì mấy chục tờ đơn tìm chồng của tôi, họ mới gởi Tờ Trích Lục Án Hình về nhà. Tờ giấy đánh máy một cách cẩu thả vào tháng 5, 1977 đã đề sai ngày của phiên toà xử tử anh là 10 tháng 4, 1977, trễ một năm.

Tôi ngước nhìn anh trong uất nghẹn. Anh cũng đang đau đáu nhìn tôi. Có phải mắt anh long lanh vì nỗi đau cắt ruột, hay chỉ là màn lệ chan hoà từ mắt tôi?
 
**
Sau khi về lại Mỹ Tho, tôi nằm bẹp trên võng, không khóc nhưng nước mắt nóng hổi tuôn ra như vắt hết sức sống của tôi. 

Lòng tôi nặng trĩu niềm đau, nỗi hận. Trong đầu tôi vang vang những lời oán trách số phận, nguyền rủa bọn giết người. Chồng tôi cả đời thanh liêm, đi lính Việt Nam Cộng Hoà tới lon Thiếu Tá mà vẫn không mua được cho vợ con một căn nhà riêng, tại sao anh phải chết tức tưởi như vậy? 

Làm vợ lính, tôi đã nhiều lần nghĩ đến việc chồng tử trận, nhưng thà anh hy sinh trong cuộc chiến để các con còn được hãnh diện, để tôi còn được an ủi. 

Bây giờ chiến tranh chấm dứt rồi, chồng tôi đã phải mang thân tù tội, tại sao người ta còn giết anh? Tại sao họ đẩy mẹ con tôi thành “thân nhân của tử tội”, lớp người cô đơn, khốn cùng nhất trong cái xã hội đầy móng vuốt này? 

Ngày tiếp ngày trôi qua trong cơn đau, mí mắt tôi sưng vù, rát bỏng, tiếng các con réo gọi nghe xa xôi như vọng lại từ một thế giới khác, tôi nghe nhưng không thể nào trả lời nổi. Tôi nằm đó, dật dờ giữa hai bờ sống, chết. 

Một buổi trưa, không biết là bao lâu sau, tiếng khóc thảm thiết của hai đứa con nhỏ nhất kéo tôi ra khỏi cơn mê sảng. Tiếng than đói của hai đứa bé xoáy vào tim tôi, nhắc rằng tôi còn bổn phận với sáu đứa trẻ thơ. 

Tôi ngồi bật lên, quơ tay tìm con và ôm siết chúng vào lòng. Giữa ban ngày mà trước mắt tôi tối đen. Không! Con không thể mù, con không thể chết! Xin Trời giúp con! Xin cứu con để con của con được sống! 

Nhờ Trời thương và chắc anh vẫn theo phù hộ nên tôi hết bệnh, dù không có thuốc men gì. Tôi lết ra vườn, mò mẫm trồng rau, trồng khoai nuôi con.

Năm tháng rơi lặng lẽ như những sợi tóc của tôi rụng tơi bời trong cơ cực. Tay chân tôi khẳng khiu, trầy trụa, bầm dập, nhưng những vết thương đó không thấm thía gì với cái đau ở trong lòng. 

Ở miệt vườn hẻo lánh, sự kìm kẹp của chính quyền địa phương khủng khiếp gấp mấy lần ở những thành phố lớn; công an mà dòm ngó, trù dập ai thì người đó không ngóc đầu lên nổi. Trong đám dân quê mùa, chất phác, gia đình có thân nhân là sĩ quan “Ngụy” đang ở tù đã là một điều ghê gớm, nói gì tới chuyện là con cái của người tử tội. 

Thời đó, nhà trường cứ vài tuần lại bắt học sinh khai lý lịch, vì thế mỗi niên học các cháu đem về mấy chục tờ lý lịch nhờ tôi viết. Lúc nào tôi cũng khai là “Cha mất tích”, và các con tôi được dạy đi dạy lại rằng không bao giờ hé môi với ai về cái chết của cha. 

Vậy mà cũng có lần chúng tôi xém bị lộ! 

Tết Trung Thu năm 1977, trường học phát quà cho con của gia đình liệt sĩ. Thằng bé thứ Năm nhà tôi mới vô lớp Một, không biết nghe ai giải thích “liệt sĩ” là những người đi lính đã chết, thế là nó tính chạy lên lãnh quà. 

May mà cô giáo của nó quen với tôi, cô thấy nó nhớm đứng lên, vội đè vai bắt nó ngồi xuống. Hôm đó thằng nhỏ tủi thân và thèm quà, khóc tức tưởi cả buổi chiều. Tôi xót cho các con ngây thơ mà phải chịu quá nhiều thiệt thòi, dồn nén, phải sống trong hất hủi, phải thèm khát từ miếng ăn tới tình thương. Đêm đó, tôi khóc trắng.
 
** 
1979.

Nước ngập cao. Hút mắt chỉ thấy làn nước đục ngàu, lềnh bềnh rác rến. Những cây chuối chỉ còn lú lên chút ngọn run rẩy bên những cành mận trụi lủi, khẳng khiu đang vật vã trong gió. 

Trời vẫn mưa! Mưa như xối nước. 

Trên mấy bộ ván chồng lên nhau, tôi và sáu đứa nhỏ nằm, ngồi lủ khủ bên đống chăn mền, quần áo, bếp lò, chén dĩa - tất cả tài sản còn lại của bảy mẹ con. Cơn bão đã kéo dài gần một tháng, nước sông Tiền dâng ngập hết ruộng vườn, cuốn băng đi công sức mẹ con tôi vật lộn với mảnh đất này trong gần bốn năm trời kể từ tháng Tư, 1975.

Mưa càng lúc càng nặng hột. Gió xoáy mạnh, rít lên như oán trách, như thay tôi than tiếc cho công sức của mẹ con tôi đang trôi theo giòng nước.



Như lời đã hứa, sau tháng 4, 1975, Ba Má tôi hết lòng bao bọc mẹ con tôi. Nhưng vai gầy không thể chống được cả bầu trời đang đổ sụp, sức lực của hai cụ già không thể nào đỡ nổi trận hồng thủy của cuộc đổi đời. 

Nhà cầm quyền Cộng Sản bắt cha mẹ tôi phải nạp hết ruộng cho Hợp Tác Xã rồi mỗi tháng chúng phát cho mấy ký gạo vừa đủ cho hai người già sống cầm hơi. 

Bảy mẹ con tôi không có tên trong “hộ khẩu” nên trở thành những người “ngoài pháp luật”, sống lây lất bên lề xã hội. Mỗi ngày, Ba Má tôi thu mót hoa màu trong vườn, rồi đem bán để mua gạo chợ đen về nuôi cháu. 

Sau mấy tháng tôi không thể chịu được cảnh cha mẹ khổ sở, lo lắng, chạy ăn từng bữa vì mình nữa. Tôi đành đem các con về ở tại năm công đất vườn do ông nội của chồng tôi chia cho anh từ thời anh còn trẻ. 

Ngày mẹ con tôi dắt díu nhau ra đi, tôi không dám quay đầu nhìn lại, sợ ba má tôi thêm nát lòng. Tôi cắm đầu bước, nước mắt ràn rụa. Tôi gọi tên anh, xin anh giúp sức cho người vợ mỏng manh, yếu ớt, chưa bao giờ biết cầm cái cuốc, cái cày…

Khu vườn thiếu người chăm sóc chỉ có thưa thớt vài cây mận, bà nội chồng thương nên cho thêm ba công ruộng ven để tôi kiếm gạo nuôi con.



Tôi nắm một đầu chiếc gầu giai, đầu bên kia thằng Hai và con Ba - đứa mười một tuổi, đứa tám tuổi mím môi giữ. Trời nắng như đổ lửa, mặt tôi ướt đẫm mồ hôi; phía bên kia, dưới vành nón lá rách nát, hai đứa con tôi mặt đỏ bừng như lên cơn sốt. Chúng tôi múc từng gàu nước từ con rạch cạn, tạt vào những cây lúa đèo đẹt đứng gục đầu trên mảnh ruộng nứt chân chim.

Mùa đầu tiên trời hạn, sau khi trả tiền mướn trâu, tiền công cấy, tiền phân bón, tiền thuốc trừ sâu, tiền đóng thuế cho nhà nước, chúng tôi không còn một hột lúa mà ăn, đành đi vay mượn chờ năm tới. 

Mùa kế, tôi chỉ dám mượn tiền để trả công cày rồi cố gắng tự làm đủ thứ việc, hy vọng cuối mùa thu được chút gạo sống qua ngày. Tôi học cách nhổ cỏ, rải phân, cấy lúa. Ngày ngày tôi bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Có lần tôi khiêng bình thuốc trừ sâu to hơn một vòng ôm đi xịt quanh ruộng. Bình thuốc lớn che khuất mặt, tôi không thể thấy thuốc xịt đều hay không nhưng vẫn nghiến răng tha cái bình đi xịt hết một vòng. Làm xong, tôi run run leo lên bờ ruộng thì bình thuốc đẩy tôi té ngược ra sau. Tôi nằm ngửa như con nhái bén ôm bình thuốc bự chảng, hên là đất ruộng không quá cứng nên tôi không bị thương. Lần đó, đám con tôi phải xúm lại kéo cả bình và tôi lên bờ ruộng.

Không hiểu vì cày không sâu, cấy không đúng, phân không đủ, thuốc không đều, nước không đẫm, hay vì vận mạng của chúng tôi lúc đó đang tối tăm nên đất ruộng cũng không chịu hợp tác với mẹ con tôi. Tôi thất thu ba năm liên tiếp, nợ sau chồng lên nợ trước, cuối cùng tôi phải thế ruộng để trừ nợ, mẹ con rút về kiếm ăn trên mấy công vườn xơ xác.

Khai mương, đào đất, trồng cây, tưới bón, tất cả chỉ có tôi và hai đứa con lớn lăn lộn làm, còn mấy đứa nhỏ đành bỏ liều trong lều. 

Có một lần tôi hái mận đem ra chợ bán, đường xa nên mãi tối mịt mới về. Về tới nhà, thấy thiếu thằng Năm, tôi hoảng hồn chạy ra vườn, nhảy xuống mương tìm. Con mương không sâu lắm, chỉ để lấy nước tưới cây, nhưng cũng làm tôi lo lắng từ ngày mới về đây. Nước dưới mương ngập tới gần bắp vế, tôi vừa gọi tên con vừa khom người mò. Đụng thấy một vật tròn cứng như đầu người, tôi hét lên rồi vật ra chết giấc. Cũng may là lưng tôi dựa vô bờ mương nên tôi không ngộp nước và có con bé Ba chạy theo, nó vừa khóc vừa kéo tôi lên. Và may hơn nữa là cái vật tròn tròn đó chỉ là một cái gáo dừa chìm dưới mương, còn thằng Năm vẫn trùm mền nằm ngủ sau đống quần áo trong lều. Chắc nó đói quá nên lả đi, không lên tiếng khi tôi gọi.

Trăm ngàn khổ cực vậy mới thu được vài mùa mận, mà bây giờ cơn lụt lại phá tan hoang mảnh vườn, nguồn sống duy nhất của chúng tôi…
 
** 

Cuối cùng nước lụt cũng rút để lại khu vườn đầy rác rến với những luống khoai bị nước san bằng và những gốc cây trụi lá, gãy cành. Chỉ còn vài cây chuối non, tôi chặt về bào mỏng bóp với muối cho các con ăn qua bữa.

Đói thì đầu gối phải bò, tôi lại bỏ liều các con ở nhà, qua Bến Tre đi buôn. Xứ dừa Bến Tre bạt ngàn cây trái nên dân bên đó khá giả, có lò nấu đường, làm xà bông. Tôi mua hàng đem về Mỹ Tho bán để kiếm chút lời. 

Thời 1979-1980, trạm thu thuế mọc lên ở khắp nơi, như bầy rệp đói hút máu dân nghèo. Công an rình ở khắp các ngả đường, khám xét càng ngày càng gắt gao. Tiền lời chỉ đủ để đóng thuế nên người đi buôn phải trốn, nếu thoát thì kiếm được chút đỉnh, không may bị bắt là bị tịch thu hết hàng, đứt vốn. 

Một mình tôi kiếm không đủ tiền rau cháo nên tôi phải dắt hai đứa con trai theo. Tôi cưỡi một chiếc xe đạp, hai đứa chở nhau trên chiếc xe đạp khác, làm bộ như hai anh em chở nhau đi học nhưng trong cặp chúng nhét đầy đường và xà bông. 

Thằng Hai còn biết xoay xở chút ít, còn thằng Tư ngây thơ, tính tình lại nhút nhát nên nó rất sợ. Mỗi khi qua trạm gác, mắt nó nhìn thẳng phía trước, làm bộ bình tĩnh, nhưng ngón chân nó bấm xuống dép, cổ nó căng lên như sợi dây đàn. Tôi ngó mà đau như bị đâm vào tim.

Chuyến phà Bến Tre - Mỹ Tho chiều hôm đó đông nghẹt. Mặt trời đã xế nhưng vẫn tỏa sức nóng hừng hực làm cho những gói đường quấn quanh bắp chân, quanh bụng tôi thêm trĩu nặng. Tôi ì ạch dắt xe, nón lá che sùm sụp xuống mặt nhưng vẫn liếc mắt ngó chừng hai đứa đi phía sau. Chỉ còn một khúc nữa là vô trạm gác, ba mẹ con càng tách xa nhau như người xa lạ để nếu có bị bắt thì không bị dính cả chùm.

Tôi thoát qua trạm gác, đứng lại, làm bộ gỡ nón quạt để ngó lại tìm con. Thằng Hai vừa dắt xe đi ra, thằng Tư đang tiến vào trạm…

Bỗng nhiên cái cặp ở tay thằng Tư rớt xuống, những gói đường và xà bông văng tung tóe. Mắt thằng nhỏ mở lớn, hãi hùng, miệng há ra nhưng không dám khóc lên thành tiếng. Một tên công an bước tới, nắm lấy cổ áo nó. Mắt tôi hoa lên, ngực tôi nhói đau, tôi ngồi sụp xuống để khỏi té vật ra. Phà đã tới, đám đông ùn ùn xô nhau tràn tới, tôi đội xụp nón lên đầu rồi đành bước chân đi.

Phà qua tới Mỹ Tho, thằng Hai mới dám chạy lại bên tôi, mếu máo, “Má ơi, thằng Tư bị bắt rồi!” Tôi ôm con, vuốt lên mái tóc cháy nắng khét lẹt rồi nói cứng, “Chắc họ không nhốt con nít đâu. Con đem đồ về nhà trước để tụi nhỏ khỏi trông, Má ở đây chờ em.”

Trời đã nhá nhem tối, tôi đang nghĩ cách quay lại kiếm con thì thằng Tư thất thểu bước ra khỏi phà. Lưng nó khom xuống, mặt nó thất thần. Vừa thấy tôi, nó phóng tới ôm riết rồi khóc nức nở, người nó run bần bật trong những cơn nấc nghẹn ngào. Nước mắt tôi cũng rớt như mưa. Tôi hận mình bất tài, hận số phận mình khốn khổ để tuổi thơ của các con quá bi thảm và tủi nhục. Tôi lại ngửa mặt gọi anh. Anh ơi, hãy giúp em cứu các con ra khỏi cảnh khổ hận này.

Từ bữa đó, tôi không dám bắt các con đi buôn lậu nữa. Tôi đi tới từng vườn trái cây mua rồi chở đi bỏ cho những bạn hàng ở Sài Gòn. Mỗi ngày tôi dậy từ 3 giờ sáng, cột mấy giỏ trái cây lên xe đạp rồi chở ra bến, đón xe đem về Sài Gòn.

Tiền xe hai chuyến đi về mắc mỏ mà tôi thì sức yếu, vốn nhỏ nên lời rất ít. Thấy dân nghèo tứ xứ bày bán đủ mọi loại hàng trên lề đường trước cửa chợ, tôi quyết định không bán sỉ nữa mà bán lẻ để kiếm lời khá hơn. 

Tôi trải đại một tấm nylon xuống lề đường, bày một ít trái cây làm mẫu, phần còn lại để trong giỏ gởi mấy cửa tiệm ở mặt đường, có tiệm thương tình cho gởi, có tiệm bắt trả tiền. Tôi lê la từ chợ Cầu Ông Lãnh tới chợ Tân Bình, chợ An Đông, đôi khi gặp bạn bè cũ, tôi cúi gầm mặt dưới vành nón, không dám ngước lên.

“Ủy Ban Trật Tự Thành Phố” nói rằng bán hàng trên lề đường gây hỗn loạn nên ra lệnh cấm, nhưng người dân đói quá cứ làm liều. 

Từ cụ già tám mươi tuổi đến đứa bé sáu, bảy tuổi, từ người lành lặn tới anh thương phế binh, người trải tấm nylon, kẻ đẩy cái xe tự đóng bằng ván mục, người bưng cái rổ, kẻ đội cái mâm, chúng tôi đứng ngồi la liệt trên khắp các ngả đường để kiếm sống. 

Ngày nào bán được khá, ngoài mấy lít gạo tôi còn mua về cho con vài ổ bánh mì. Trời sụp tối tôi mới về đến nhà, nhìn chúng chia nhau nhai ngấu nghiến một cách hết sức thèm thuồng, tôi có thêm sức mạnh để tiếp tục lăn lộn trên vỉa hè. 

Tuy nhiên, những ngày vui thường ít hơn những ngày buồn. Rất nhiều khi đang ngồi bán thì người ở đầu đường la, “Công an!” và mọi người vùng lên chạy. Những người bán mặt hàng gọn, nhẹ thì túm tấm trải lại, ôm vào người rồi biến vào trong những ngõ hẻm. Tôi quảy đống trái cây nặng hơn nên thường lẹt đẹt phía sau và bị công an hốt. Công an đem tôi về “Trụ Sở Ban Quản Lý Chợ”, bắt ký tên vào biên bản rồi tịch thu hết hàng. 

Tôi nhớ tới lời Mẹ chồng tôi thường an ủi tôi rằng “trời sanh voi, sanh cỏ” mà muốn gào lên sao các người ác vậy, đã giết chồng tôi mà còn không chừa cho mẹ con tôi một cọng cỏ để ăn!

Những ngày bị mất hàng, tôi trở về nhà với hai tay không, thê thảm như người vừa bị cướp. Mấy mẹ con phải ra vườn mót những củ khoai đẹt và hái rau dại về ăn. Ngồi nhìn đám con chia nhau dĩa rau luộc chấm nước muối, lòng tôi đau nhói. Mới ngày nào tôi là cô dâu hai mươi tuổi, ngây thơ, lãng mạn cùng chồng mơ về một căn nhà ấm cúng với đàn con ngoan ngoãn, cười giỡn rộn ràng. Bây giờ, đàn con tôi gầy ốm, buồn rầu còn tôi thì da đen sạm, tay chân chai sần, tóc tai xác xơ như lòng tôi tan nát.

Sau nhiều lần bị công an bắt, vốn liếng sắp cạn thì tôi may mắn gặp được quý nhân. 

Chị là vợ của Trung Tá Kh. ở cùng Sư Đoàn 5 với chồng tôi, và hai gia đình đã ở gần nhau trong Cư Xá Sĩ Quan Ngô Quyền tại Bình Dương trước năm 1975. Không ngờ sau cuộc đổi đời, chị cũng dắt con về ở ngay bên cạnh xã tôi. Con út của chị học chung một lớp với con tôi, có lẽ cùng thuộc diện con “tù cải tạo” nên chúng thân và tâm sự với nhau. Kể qua kể lại, té ra là hàng xóm hồi xưa, con tôi vui mừng về báo cho tôi và tôi đã tìm thăm chị.

Hầu hết các con của chị Kh. đã lớn nên kiếm được việc làm lặt vặt để sống qua ngày. Thời đó, phong trào đan mây tre và làm nón để xuất khẩu ra nước ngoài lên mạnh, chị giới thiệu cho tôi lãnh nón về thêu ăn công. Đêm nào tôi và con gái lớn cũng ngồi thêu bên cây đèn mù mờ, nước mắt sống chảy ròng ròng vì dùng mắt quá độ, nhưng số tiền công rẻ mạt chỉ giúp chúng tôi kiếm thêm chút cháo. Chị Kh. có người thân ở Huế nên chị cũng làm đại lý cung cấp nón lá Huế cho các sạp bán lẻ, thấy vậy chị lại thương tình cho tôi lấy nón về bán, bán xong mới đưa lại tiền vốn cho chị. 

Thời đó, chợ huyện Tân Hiệp họp từ một, hai giờ đêm để người ta kịp mua hàng đem lên Sài Gòn bán lúc sáng sớm. Khoảng mười một giờ đêm là tôi mò mẫm dắt xe đạp ra khỏi nhà, trên yên sau là gói hàng lặt vặt như tiêu, tỏi, xà bông, bột ngọt, phía trên là chồng nón. Chiếc xe đạp cũ nát run rẩy bò trên con đường đất gồ ghề, hai bên là ruộng, côn trùng ếch nhái kêu nỉ non, đom đóm bay lập lòe như mắt quỷ. 


Hồi còn con gái, tôi rất sợ ma, nhưng lúc đó tôi chỉ còn sợ… người. Trời tối đen, chỉ nhìn thấy một khúc đường ngắn lờ mờ trước mặt, tôi vừa đạp xe vừa cầu xin anh phù hộ cho tôi không bị cướp. 

Ra tới chợ, có những đêm vừa bày hàng xong thì trời đổ mưa, tôi lấy hết nylon che cho hàng hóa rồi ngồi chịu trận trong cái áo mưa đầy lỗ lủng, nghe từng giọt nước lạnh như kim chích trên lưng, nghe gió quất từng cơn trên gương mặt ướt đẫm nước mưa hòa nước mắt. 

Sau những đêm ế ẩm, sáng ra tôi phải đạp xe tới từng nhà quanh chợ, mời người ta mua nón dùm. Các bà không ai biết chuyện chồng tôi bị xử tử, nhưng họ biết tôi là vợ tù nên rất thương tôi. Họ cũng chẳng dư dả gì nhưng người mua dùm cái nón, người cho củ khoai, ly nước, người dúi cho tôi chút trái cây để đem về cho các con. 

Những ngày tôi bán ế, không đủ tiền trả vốn số nón đã lấy của chị Kh., chị chỉ la giỡn, “Thôi, không đủ tiền thì thím để bữa sau bán tiếp rồi trả, chớ không lẽ bây giờ tui bắt xác thím được ha…”
 
**

Bữa đói bữa no, bịnh không có thuốc nhưng nhờ Trời thương, đám con tôi vẫn lớn như cây dại mọc ở bờ rào. 

Các cháu biết thân phận mình nên rất ngoan và chăm học. Ngoài giờ học, chúng đi câu, đi chạ, đi lưới để kiếm thêm thức ăn. Tuy vậy, chúng càng lớn thì tiền học, tiền sách vở càng tốn kém, rất nhiều lần các cháu bị thầy cô rầy la vì xài chung chỉ một cuốn tập cho mọi môn học, nhưng các cháu không hề than van. 

Những ngày tôi đi buôn bán về trễ, lòng tôi ấm lại trước cảnh các con quây quanh ngọn đèn dầu leo lét, mấy đứa nhỏ tập đọc ồn ào, nhưng mấy đứa lớn vẫn ráng chăm chú giải toán, học bài. 

Dù không có tiền đi học thêm, dù sự giảng dạy ở vùng quê trồi sụt bất thường, ba đứa con lớn của tôi đã đạt được điểm cao trong kỳ thi tốt nghiệp trung học. Tuy vậy, các cháu nhưng chỉ được trúng tuyển vào những trường dạy nghề như Trung Học Lâm Nghiệp ở Sông Bé, Trung Học Sư Phạm ở Tiền Giang, và Trung Học Xây Dựng ở Vĩnh Long. Dù sao, đây là một điều rất quan trọng cho cuộc đời của hai cháu trai bởi vì nếu không được đi học tiếp, các cháu sẽ phải đi “nghĩa vụ quân sự”, bị gởi đi đánh nhau ở vùng biên giới Tàu hay Campuchia. 

Tôi đã thề cùng vong linh của anh rằng tôi sẽ làm mọi cách để các con chúng tôi không bị đi bộ đội. Chỉ tưởng tượng các cháu phải mặc cùng bộ quân phục, đứng cùng hàng ngũ, và đem thân đi chết vì chính kiến của những người đã giết cha các cháu, tôi rùng mình. Nếu bị kêu đi “nghĩa vụ”, các cháu chỉ còn nước bỏ làng xóm, đi sống lang thang, dật dờ như rất nhiều thanh niên thời đó. 

Dù trúng tuyển vào trường, nhưng sau khi tốt nghiệp, cả ba cháu không có tiền chạy chọt, không quen biết ai, nên bị gởi đi làm việc ở những nơi xa xôi, hẻo lánh. Các cháu chán nản quay về nhà, làm ăn lặt vặt qua ngày. Cuộc sống tuy đỡ đói khổ hơn thời các cháu còn nhỏ, nhưng đầy bế tắc, không có tương lai.
 
**

Từ đầu thập niên 1980 đã có lác đác sĩ quan đi tù được thả về. Mỗi lần nghe tin người quen được về với vợ con, tôi mừng cho họ nhưng nghe lòng càng thêm cô đơn, cay đắng. 

Chồng tôi sẽ không bao giờ trở về, mà thân xác anh cũng vẫn còn lạc lõng ở tận phương nào. Mẹ chồng tôi đã già yếu, không còn tiếp tục đi tìm mộ anh được nữa, còn tôi thì lăn lộn kiếm gạo cho bầy con nên không thể hết lòng tìm kiếm. Vì thế, ngoài nỗi khổ đói nghèo, nỗi hận mất chồng, nỗi sợ hãi xã hội nhiễu nhương, và nỗi buồn đơn chiếc, tôi còn mang cảm giác nặng trĩu tội lỗi của người vợ vô tình.

Tôi không thể ngờ rằng năm 1984, tám năm sau khi anh mất, anh đã tìm về với mẹ con tôi.

Hôm đó, tôi đang lúi húi ngoài vườn thì chị Hai tôi bước vô cổng. Vừa tháo nón lá quạt lia lịa, chị vừa kêu, “Dì Ba! Dì Ba ơi! Có tin dượng Ba!”

Tôi quăng cuốc chạy ra, chị chụp tay tôi, hổn hển vừa thở vừa nói, “Mèn ơi, thiệt không ngờ! Em nhớ cô giáo H. dạy trong trường chị chớ? Chị với cổ thân nhau, lúc người này có chuyện thì người kia dạy dùm. Mới cách đây mấy bữa, chị coi lớp dùm cổ để cổ đi hốt cốt người em trai tên Thịnh, chết trong tù cải tạo. Cổ đi về kể chuyện cho chị nghe, cuối cùng cổ nói thêm ‘Kế sát bên mộ em tui có ngôi mộ của một ông chết cùng ngày. Tội nghiệp, chắc gia đình ổng đi vượt biên hết nên không ai chăm sóc, cỏ mọc tùm lum!’ Trước giờ chị ít để ý chuyện của ai, nhưng bữa đó như có gì xui khiến nên chị hỏi tới, ‘Vậy chứ bà có nhớ tên người đó không?’ Cổ nói ‘Tên là Trần Văn Bé, sinh ở Long An.’ ”

Giữa trưa nắng mà tôi sống lưng tôi lạnh toát. 

Tôi đã nghe các bạn tù của anh kể lại rằng sau khi bọn cai tù bắt được anh và đem trở về trại Suối Máu, bọn chúng còn chuyển về một người đã vượt trại ở Hóc Môn tên là Thịnh. Cả hai bị nhốt vào connex và bị bắn trong cùng một ngày, chồng tôi vào buổi sáng, anh kia vào buổi chiều. 

Như vậy là những người bạn tù đã chôn hai anh kế bên nhau, và đã thương xót lập bia để chỉ đường cho thân nhân các anh mai sau đi kiếm. Trong gần bốn triệu người dân Sài Gòn, cơ may hiếm có hay hồn thiêng của hai anh đã đem chị tôi và chị của anh Thịnh đến với nhau, để cho họ thân thiết và tin cậy nói cho nhau nghe những nỗi đau sâu kín của gia đình những người lính Cộng Hòa gãy súng. 

Có lẽ hồn thiêng của chồng tôi níu chân chị H. nên chị đã để ý tới nấm mộ hoang khuất trong cỏ rậm, và đọc được cả những chi tiết viết bằng tay mờ nhạt trên miếng gỗ đã tám năm trời phơi mưa nắng.

Mẹ chồng tôi lập tức lo việc xin giấy phép đi đường, giấy phép cải táng và kiếm nhà quàn lo dịch vụ. Ngày đi bốc mộ, tôi và Mẹ ruột tôi từ Mỹ Tho về Sài Gòn cùng đi với Mẹ chồng, cậu ruột của chồng, và một cô em chồng.

Nhờ chị của anh Thịnh đã chỉ đường rất kỹ nên chúng tôi tới mộ khi mặt trời chưa đứng bóng. Cỏ dại đã được phạt đi nên chúng tôi thấy ngay ngôi mộ có tấm bia bạc phếch đứng chơ vơ trong nắng. Có lẽ đây là khúc cây tốt nhất mà các bạn tù của anh đã lựa, có lẽ họ đã khắc tên anh bằng cả tấm lòng, có lẽ vì mộ nằm ở khu đất cao và khô ráo, và có lẽ hồn anh còn quanh quẩn nên tấm bia vẫn còn đứng vững và những giòng chữ vẫn chưa phai sau tám năm hoang lạnh.

Người ta bắt đầu đào, tiếng bình bịch của cuốc bằm xuống đất dội vào óc tôi làm tôi choáng váng, phải ra ngồi dựa vào một gốc cây. Nấm mộ không sâu nên chỉ một lát là chạm đến cái hòm thô sơ, bể tan sau vài nhát cuốc. 

Tôi vẫn ngồi dưới gốc cây, hai mắt mở trừng trừng. Tôi thấy như hồn tôi tách khỏi thân xác, bay là là trên cao nhìn mọi người đang khóc và tôi đang ngồi sững sờ như hóa đá. Từng khúc xương được bốc lên, mẹ chồng tôi nhìn bộ răng và nói rằng đúng là anh với hàm răng thiếu một chiếc ở góc trong. Khi mẹ kêu tôi tới nhận diện chồng, tôi mới lảo đảo đi tới gần mộ. Bên cạnh cái hộp sọ đã bể, tôi thấy chiếc áo sơ mi sọc do chính tôi sắm cho anh ngày xưa nằm cạnh sợi dây nịt của lính. Có lẽ anh em bạn tù đã thu nhặt túi đồ của anh và chôn theo anh. Tới lúc đó nước mắt tôi mới có thể trào ra. Cuối cùng thì em cũng đã tìm được anh rồi!

Sau khi thiêu cốt, Mẹ chồng tôi đề nghị đem gởi vào chùa ở Phú Lâm. Tôi đồng ý vì ở Sài Gòn dù sao cũng an toàn hơn là ở Mỹ Tho trong ngôi nhà xiêu vẹo, chông chênh của mẹ con tôi.
 
**

“Mẹ có nhà không con?”

Đang loay hoay đếm nón để khuya đem đi bán, tôi chạy vội ra cửa vì giọng nói đầy vẻ háo hức của cô bạn thân, học chung từ nhỏ. 

Vừa thấy tôi, H. níu tay kéo ngồi xuống bậc cửa, móc trong túi áo ra một tờ báo được xếp gọn. Với vẻ mặt hết sức trang trọng, H. giở báo, chỉ vào một bản tin nhỏ với tựa đề : Thông Cáo Về Việc Làm Hồ Sơ Xuất Cảnh Cho Những Người Từng Đi Học Tập Cải Tạo.

Hai chúng tôi chúi đầu vào đọc. “Những người từng đi học tập cải tạo trên ba năm sẽ được làm hồ sơ đi Mỹ, ngay cả vợ con của những người đã chết trong trại cũng được đi.” 

Run run, tôi hỏi H. “Bà nghĩ tin này thiệt không?”

“Thiệt mà! Ở trên Sài Gòn người ta xác định rồi, mấy người bạn ông xã tui đang làm đơn rần rần kìa!”

Thế là chiều hôm đó tôi mở cái hộp sắt, lấy ra tờ Trích Lục Án Hình vừa coi lai vừa van vái chồng tôi. 

Năm đó là 1988, như vậy chồng tôi bị giết đã mười hai năm. Nước mắt rơi lã chã, tôi lại kêu anh. Anh ơi! Anh giúp em cứu các con ra khỏi nơi này.

Mẹ chồng tôi nghe tôi kể chuyện làm đơn xin đi Mỹ, bà chép miệng, “Làm đơn thì phải khai ra cái chuyện chồng con bị tử hình. Tụi công an xã mà biết thì giống như khui ổ rắn. Má sợ các con mà đi không được, sau này sẽ khổ hơn…”

Tuy nhiên lòng tôi đã quyết, đây là cơ hội duy nhất để cứu con tôi, điều mà tôi ước mơ từ mười mấy năm nay. Với sự giúp đỡ của vợ chồng bạn, tôi xin mẫu đơn, điền chi tiết, đính kèm bản sao của bản án tử hình rồi đem nộp ở Ty Ngoại Vụ Tỉnh Tiền Giang. Gia đình H. và chúng tôi đều được xếp vào danh sách H.O. 7. 

Nhưng chỉ mấy tuần sau tôi nhận được thư từ Sở Ngoại Vụ ở Sài Gòn từ chối đơn của tôi với lý do: chồng tôi bị tử hình năm 1976, do đó anh không hội đủ điều kiện bị tù ba năm. Tôi nghiến răng rủa bọn Cộng ngu xuẩn, chồng tôi bị tử hình nghĩa là đi tù không bao giờ về, cớ gì mà không đủ điều kiện ba năm. Tôi viết thư khiếu nại nhưng Sở Ngoại Vụ từ chối, họ nói bắt buộc phải có ba năm ở tù. Đối với họ chết là hết, là không còn giá trị gì nữa.

Lúc đó, gia đình của những người sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà đã hồi sinh như ruộng hạn gặp mưa rào. Họ tụm năm, tụm ba, thì thào về chuyện làm đơn, chuyện nhận được giấy tờ chấp thuận cho đi. Họ len lén mua sắm, chuẩn bị cho ngày lên đường. Mọi người chạy qua chạy lại, bàn bạc, chia sẻ với nhau những tin tức góp nhặt được về đời sống bên Mỹ, về ước mơ tương lai. Lác đác tiếng cười đã trở lại trong những căn nhà lụp xụp, buồn hiu.

Tôi đứng bên ngoài hạnh phúc đó, nhìn cảnh tượng đó bằng cảm giác của đứa con nít bị bỏ rơi. Các bạn của tôi cứ nghĩ là tôi không có hy vọng, nên họ tránh bàn chuyện đi Mỹ trước mặt tôi. Có nhiều khi họ đang nói mà thấy tôi đến là im bặt. Tôi ráng cười nói cho họ yên tâm dù lòng đau như cắt.

Giữa năm 1991, H. lên đường đi Mỹ theo diện H.O. 7. 

Đêm trước khi đi, hai đứa nói chuyện thật lâu. H. hứa sau khi sang Mỹ sẽ hết lòng giúp mẹ con tôi. Tôi bỏ bản sao của tờ đơn xin đi diện H.O., bản sao của tờ Trích Lục Án Hình, và lá đơn khiếu nại của tôi vào một cái phong bì lớn. Tôi thêm vào đó bản sao tấm hình thờ của anh, mong có phép lạ để một trong những người Mỹ từng làm việc với anh ở Phòng Nhì tiểu khu Định Tường, Mỹ Tho ngày trước nhận ra anh mà cứu mẹ con tôi. Tôi van vái, “Anh ơi! Anh phù hộ cho H. đưa được đơn đến tay người tốt, cho họ mở lòng thương mà cứu vớt gia đình mình.” 

Ngày chia tay, tôi hết gượng nổi, tôi khóc như mưa. 

H. lên xe, đem theo hy vọng của chúng tôi. Xe chuyển bánh rồi từ từ xa dần. 

Tôi đứng dưới ánh nắng gay gắt, nước mắt chứa chan, nhìn dõi theo chiếc xe mờ dần trong bụi khói rồi biến mất sau khúc quẹo.
 
**
 
H. đi rồi, tôi hồi hộp chờ đợi từng ngày. 

Nhiều gia đình cựu sĩ quan ở trong vùng đã ra đi làm tôi càng thấy bơ vơ, khó kiếm người tâm sự. Khó hơn nữa là khi nghe tôi nói rằng tôi muốn khiếu nại với người Mỹ, hầu hết bạn bè đều chớp mắt ái ngại, rồi làm thinh. 

Tôi hiểu rằng họ nghĩ người Mỹ sẽ không quan tâm đến một gia đình ở cách nửa vòng trái đất mà mối liên hệ với Mỹ đã bị tử hình từ mười sáu năm trước. Vài người bi quan còn không dám tin là H. sẽ giữ lời hứa với tôi. Họ lắc đầu nói, “Trước khi đi ai cũng hứa hẹn nhưng qua đó nhiều thứ phải lo quá nên người ta quên hết...”

Nhưng H. đã không quên mẹ con tôi.

H. có người anh chồng từng học Quốc Gia Hành Chánh và cũng là một sĩ quan VNCH. Năm 1975, anh giữ chức trưởng phòng kinh tế của Quân đoàn 4, anh cũng bị đi tù nhiều năm, sau đó anh vượt biển và định cư ở Mỹ. 

Lá thư đầu tiên H. gởi về kể rằng anh ấy đã dịch lá đơn cùng với lá thư khiếu nại của tôi ra tiếng Anh rồi gởi cho cơ quan di trú Mỹ.

Từ đó, sáng nào tôi cũng thắp nhang trên bàn thờ chồng rồi ngóng chờ thư. Khoảng hai tháng sau, thư của H. đến. 

Tôi dụi mắt, coi đi coi lại giòng chữ viết tay của H. để biết chắc là mình không lầm. “Văn phòng ODP bên đây chấp thuận hồ sơ của gia đình bà rồi! Họ sẽ liên lạc với Việt Nam để hoàn tất thủ tục.”

Hai tuần trôi qua với lo lắng, chờ đợi. Rồi tôi nhận được một lá thư của Sở Ngoại Vụ tại Sài Gòn yêu cầu tôi bổ sung giấy tờ về cái chết của chồng tôi.

Tôi đọc lá thư mà điếng hồn. 

Như vậy là tờ Trích Lục Án Hình mà tôi đã nộp là không đủ. Chồng tôi bị xử theo luật rừng vào năm 1976, trong một phiên toà rừng tại trại tù, biết có biên bản hay không? Nếu có, biết họ có còn giữ lại sau mười sáu năm hay không?

Tôi lại mở cái hộp sắt và lấy tờ Trích Lục Án Hình ra soi xét. Góc trái của tờ giấy có hàng chữ “Tòa Án Quân Sự Quân Khu 7”.  Tôi sẽ đi tìm từ đầu mối đó.

Ngày đó, ở Mỹ Tho điện nước còn không có đủ, nói gì tới máy tính hoặc mạng internet. Thêm nữa, những hồ sơ về tù chính trị không bao giờ lộ ra ngoài nên tôi không thể tra cứu, tìm kiếm được ở bất cứ nơi nào. 

Cách duy nhất là tới thẳng Tòa Án Quân Sự Quân Khu 7 mà tôi không biết ở đâu. Tôi phải nhờ chị ruột và anh rể tôi đang ở Sài Gòn đi hỏi thăm dùm.
 
**
 
Một buổi trưa nắng gắt, có một người đi bộ từng bước xiêu vẹo trên con đường trơ trụi từ bến xe vô nhà tôi. Đó là chị Hai tôi! 

Vừa tới nhà tôi, chị lột cái nón quạt lia lịa rồi vừa thở vừa nói, “Tìm thấy địa chỉ của Tòa Án Quân Khu 7 rồi! Đâu dè nó ở ngay tại Sài Gòn! Bây giờ, cái khó là em có dám vô đó hỏi họ về bản án không?”

Hai bàn tay tôi bỗng ướt nhẹp mồ hôi. Mười sáu năm qua tôi đã viết hàng trăm tờ lý lịch khai là chồng tôi mất tích, bây giờ tôi phải đối mặt với công an để nói rằng anh đã chết và tôi muốn kiếm bản án tử hình. Họ có túm đầu cả gia đình tôi về tội khai gian không? 

Nhưng giấc mơ đi Mỹ của cả gia đình đã gần kề, cánh tay cứu vớt của người Mỹ đã đưa ra rất gần rồi, tôi nhất định phải nắm lấy. Tôi phải vượt qua mọi gian nan vì tương lai của các con.

Tôi gom góp cây trái trong vườn đem bán, kiếm đủ tiền mua cái vé xe lên Sài Gòn rồi ghé ở nhờ nhà anh chị. Chị tôi trao cho tôi tấm giấy ghi rõ địa chỉ nơi tôi cần đến, cho tôi mượn bồ đồ tươm tất nhất để mặc, nhưng chị cũng lo ăn từng bữa nên chỉ giúp tôi được tới đó. 

Tôi cầu cứu cậu em út lúc đó mới tốt nghiệp Sư Phạm, có vợ vừa sinh con nhỏ. Hai vợ chồng vét tất cả gia tài phòng thân đưa cho tôi mượn hai trăm ngàn, lúc đó mua được gần một chỉ vàng.

Buổi sáng ngày tốt mà tôi đã chọn, cậu em chở tôi bằng xe Honda tới trước Tòa Án Quân Khu 7. Trời còn sớm, con đường còn vắng vẻ, cậu Sáu ngừng xe rồi quay lại nhìn tôi, lặng lẽ. Ánh mắt cậu nửa như khuyến khích, nửa như lo lắng, thương cảm khiến tôi mủi lòng muốn khóc. Nhưng tôi gom hết can đảm, lấy giọng bình tĩnh, “Sáu đậu ngay đây, rồ máy sẵn nghe. Có chuyện gì chị phóng lên xe, mình chạy liền nghe.” Cậu em gật đầu, “Em biết rồi, chị cứ vô đi. Ráng cẩn thận!” Tôi xuống xe, thò tay soát lại cuộn tiền dấu trong túi nhỏ ở lưng quần, rồi mím môi bước tới. 

Khúc sân xi măng dẫn tới căn nhà nhỏ có tấm bảng đề “Trạm Tiếp Dân” chỉ có mấy thước ngang mà tôi thấy quá dài. Chân tôi ríu lại, tim tôi đập dồn dập, tôi không ngừng van vái, “Anh ơi, phù hộ cho em!”

Tôi là người khách đầu tiên trong ngày, cả căn phòng còn trống không, chỉ có một người công an còn rất trẻ ngồi ở cái bàn nhỏ ngay gần cửa vào. Thấy tôi, hắn hất hàm, “Cần gì?”

Tôi đưa bản sao tờ Trích Lục Án Hình ra rồi lấy giọng nhỏ nhẹ nhất, “Chào chú, tôi muốn xin bản sao của toàn bộ bản án này.”

“Xin để bổ túc giấy tờ đi H.O, phải không?”

“Dạ… Dạ phải. Chú làm ơn giúp dùm!”

Tên công an săm soi ngày tháng trên tờ giấy rồi nói, “Vụ này từ năm 1976, giấy tờ đem ra Hà Nội hết rồi.”

Tôi liếc nhìn quanh, rồi rút nhanh cuộn giấy bạc nhét vào tay hắn và nài nỉ, “Chú làm ơn hỏi dùm tôi…”

Tên công an đút lẹ tiền vào túi, suy nghĩ một chút rồi nói, “Được rồi, để tôi cố tìm. Hai tuần sau chị trở lại.”

Tôi vừa cám ơn hắn vừa lùi ra cửa.

Mười bốn đêm tôi trằn trọc vì lo lắng. Lỡ mà tên công an đó trốn luôn, lỡ mà bản án không còn, lỡ mà công an đòi thêm tiền… Hàng chục cái “lỡ” hiện ra trong đầu làm cho tóc tôi thêm bạc, mặt tôi thêm hốc hác.

Đúng hai tuần, tôi trở lại ngay lúc Toà Án vừa mở cửa. Tim tôi nhảy bình bịch khi thấy tên công an trẻ hôm trước, hắn lôi ra trong ngăn kéo ra một phong bì, đưa cho tôi với một nụ cười thoáng trong ánh mắt nhưng chỉ nói cụt ngủn, “Đây.” 

Tôi chụp lấy, miệng líu ríu cám ơn hắn, chân vọt nhanh ra cửa. Mới thấy mặt cậu em, tôi run run lôi ra ba tờ giấy từ trong bao thư ra và nói líu lưỡi, “Có rồi, có rồi, Sáu ơi!” 

Tờ đầu là lý lịch của chồng tôi, tờ thứ hai ghi lại diễn tiến trốn trại của anh, và tờ cuối kết thúc bằng giòng chữ:

Xử phạt: TRẦN VĂN BÉ Tử Hình

Nước mắt tôi lúc đó mới tuôn ra và lòng tôi lại đau như cắt trước cái trớ trêu của đời tôi: bản án tử hình với những lời chửi chồng tôi là “ác ôn, phản động” cũng là tờ giấy để cứu mẹ con tôi.
 
**

Tôi sao lại bản án để gởi lên Sở Ngoại Vụ, còn bản chính tôi cất vào chiếc hộp sắt chung với tờ giấy Trích Lục Án Hình tôi đã nhận năm xưa. 

Những đêm mất ngủ tôi lại lấy bản án ra đọc, và tôi đã thuộc từng câu trong đoạn diễn tả những điều xảy ra khi anh vượt trại. 

“… Hồi 11 giờ 30 ngày 5 tháng 3, 1976, Bé đã chui rào trốn ra tới Quốc Lộ 1 và thuê xe lam chạy đến khu vực ấp Bắc Hải. Đến đây nghe thấy tiếng súng nổ ở phía sau, Bé liền xuống xe chạy vào nghĩa địa lẩn trốn. Lúc 18 giờ ngày 5 tháng 3, 1976 Bé chạy tới xã Tân Hiệp – Biên Hòa trà trộn trong nhân dân… Đã có sự bố trí từ trước, nhân dân và chính quyền địa phương đã bắt Bé.”

Như vậy là anh đã lẩn trốn hơn sáu tiếng đồng hồ, từ trưa tới chiều ngày 5 tháng 3, 1976. Lòng tôi đau như cắt khi nghĩ đến lúc anh bơ vơ ở Biên Hòa, vùng đất miền Nam quê hương, nơi rất thân quen nhưng lúc đó đã trở thành xa lạ, đầy cạm bẫy trong móng vuốt kẻ thù. 

Trời ơi! Chúng đã bao vây anh ở Tân Hiệp ra sao? Anh có hoảng hốt, tuyệt vọng không? Anh có bị đánh đập nhiều không? Rồi trong hơn một tháng từ ngày 5 tháng 3 cho tới 10 tháng 4, 1976, anh đã bị hành hạ tới mức nào? Những ngày nóng như lửa nằm trong connex, anh đã đau đớn, đói khát tới bao nhiêu? Những đêm dài khủng khiếp anh đã nghĩ gì? Anh có nhớ vợ con nhiều không? Anh có lời gì muốn nói với với chúng tôi không? 

Óc tôi bưng bưng với hàng trăm câu hỏi, ruột tôi đau như xát muối khi nghĩ tới những khổ hình anh phải chịu lúc cuối đời. Trong đêm lặng lẽ, nước mắt tôi tuôn ra, chảy ngược xuống ván, ướt đẫm hai bên tóc mai. Và tôi thường thiếp đi với bản án tử hình úp trên ngực…
 
**

Sau khi tôi nộp bản án tử hình lên Sở Ngoại Vụ, hồ sơ được Mỹ chấp thuận nhanh chóng và gia đình tôi được vào danh sách H.O. 14. 

Nhưng nhà cầm quyền Cộng Sản đâu có để chúng tôi ra đi một cách dễ dàng! Ngày tôi đi lãnh hộ chiếu, một nhân viên Sở Ngoại Vụ cau có nói, “Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa đã bỏ tiền ra đào tạo nuôi dạy các con của chị, nay các con chị lại ra đi, không phục vụ cho Đảng và nhà nước. Chị phải đền lại tất cả số tiền mà nhà nước đã bỏ ra. Chị đi về đi, khi nào trả tiền xong cho nhà trường, cầm biên lai lên đây thì sẽ được lãnh hộ chiếu.”

Tôi lại ra về với nỗi lo thắt thẻo ruột gan. 

Trong tay tôi không có tới vài chục ngàn mà họ đòi bồi thường tiền triệu! Chạy xuôi chạy ngược hết mọi nơi, suy nghĩ nát đầu óc, cuối cùng tôi lại phải về cầu cứu mẹ ruột của tôi. Bà suy nghĩ trắng một đêm rồi quyết định cắt một phần đất vườn nhà đưa cho tôi, coi như chia gia tài, mặc dù mẹ tôi còn sống. 

Tôi rớt nước mắt vì thương mẹ và tủi thân mình. Từ nhỏ cha mẹ nuôi tôi ăn học, lớn lên làm cô giáo lương bổng ít oi, lấy chồng quân nhân, “tiền lính, tính liền” nên tôi chưa bao giờ có cơ hội báo hiếu cha mẹ. 

Rồi cuộc đổi đời làm tôi góa bụa, một nách sáu con thơ, sống được tới giờ cũng nhờ cha mẹ nhịn ăn mà bao bọc. Nay ba tôi đã khuất, các con tôi đã lớn, vậy mà lúc ngặt nghèo cũng lại là mẹ già phải hy sinh. 

Tôi vừa khóc vừa rao bán phần đất mẹ cho. Người ta biết tôi cần tiền nên ép giá, chỉ trả hơn một cây vàng. Tôi đem đền trường học gần hết, phần còn lại không đủ để đi xe lên xuống Sài Gòn phỏng vấn và khám sức khỏe nên tôi lại phải mượn em trai tôi.

Rồi cái ngày mong đợi cũng tới. Ngày 20 tháng Mười Một, 1992, chúng tôi ra phi trường với một cái va li duy nhất chứa hành lý của cả gia đình sáu người. Mỗi đứa con tôi chỉ có một bộ quần áo trên người và một bộ đem theo, chỉ có tôi là được sắm một cái áo lạnh còn lại thì đành tới đâu hay tới đó.

Tôi ôm trên tay tài sản quý nhất, đó là cái bao thư lớn đựng di ảnh của chồng tôi, một vài tấm hình thời chúng tôi yêu nhau, và bản án tử hình.

Máy bay cất cánh, tôi nhìn qua cửa sổ thấy Sài Gòn thu nhỏ dần mà nghẹn ngào. Cuối cùng, các con tôi đã thoát ra khỏi cái ngục tù bao la của nhà cầm quyền Việt Nam. Lần đầu tiên từ sau tháng Tư, 1975, tôi cảm thấy bình an.

Anh ơi, em đã lo được cho các con như lời anh dặn dò lần cuối. Cái chết đau đớn của anh và nước mắt, mồ hôi của em đã mở đường cho các con đi đến một tương lai tươi sáng. Anh đang mỉm cười, phải không anh?
 

[/url][url=https://vietbao.com/a307825/ban-an-tu-hinh#]
(Hết)


vietbao.com


RE: Linh Tinh - LeThanhPhong - 2021-04-30

Công Chúa Yasodhara và con trai là Hoàng tử Rahula


https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=PE2v61SGGlg&abt=Th%E1%BA%BF+Gi%E1%BB%9Bi+%C4%90%E1%BB%9Di+S%E1%BB%91ng+Mu%C3%B4n+Lo%C3%A0i

... có lần ngài Rahula ngài mới xuất gia. Ngài Rahula là con của Thái Tử. Ngài tu năm Ngài mới bảy tuổi. Có buổi chiều Ngài qua thăm mẹ. Mẹ nằm bên ni viện, Ngài qua thăm. Ngài nói với mấy bà tỳ kheo ni là “Muốn gặp mẹ một chút”. Mấy bà tỳ kheo ni vô thưa với bà Yasodhara, bà cũng là tỳ kheo ni, bà đi ra.

“Mẹ khỏe không?” - Ngài hỏi
“Hai hôm nay không có khỏe” – Bà Yasodhara nói. Bà bị bệnh cũ hồi ở trong cung
“Mẹ còn nhớ hồi đó mình uống cái gì hết bệnh không?” – Ngài hỏi.

(Tôi không biết bà bị bệnh gì, trong kinh nói sao tôi dịch lại vậy thôi.) Bà nói

“Cái này có nước trái cây uống thì nó hết”

Nước trái cây, juice, nước ép. 

Hồi ở trong cung nói là ngàn người làm, còn giờ đi tu mà, mỗi ngày ôm bát người ta cho gì ăn nấy. Ngài nghe vậy mới suy nghĩ:
 
“Mẹ mình là tỳ kheo ni đâu có tự có được. Còn mình cũng có cái bình bát không, cho cái gì?”. 

Đọc cái đó mới thấy thương, mà là ông hoàng đó nha. 

Ngài mới suy nghĩ: “Cha mình, không được, cao siêu quá, không có được! Thầy dạy học của mình là ngài Mục Kiền Liên, ngầu quá! Không được, khó lắm! Ngài Anan là chú ruột, không! Sư phụ mình đi, sư phụ mình là ngài Xá Lợi Phất, được!”. 

Ngài về, Ngài đi lại phòng ngài Xá Lợi Phất, Ngài đứng im. Bảy tuổi mà hay lắm, đứng trước phòng vậy đó.

“Chuyện gì?” - Ngài Xá Lợi Phất hỏi

Đứng im.

“Chuyện gì sao không nói?”
“Mẹ con bệnh mà con không biết phải làm sao?” - Đợi Ngài hỏi lần thứ hai mới nói
“Bệnh gì? Cần cái gì?” - Ngài nói
“Mẹ con cần nước ép”
“Bữa nay thì trễ giờ rồi nhưng ngày mai có lẽ có” – Ngài nói

Bà Yasodhara bả tu đến bốn A tăng kỳ lận, phước bà nhiều lắm nên khi bà bị bệnh nó cảm đến Chư Thiên. 

Hôm sau ngài Xá Lợi Phất ôm bình bát đến trước cung vua. Giờ khất thực mình giả định là chín giờ sáng. Ngài đến lúc mười giờ. Vua biết vị này mà đi bát sai giờ là có chuyện.

Mình đọc cái đó mình mới thấy đời sống của Thánh Nhân đẹp lắm, các Ngài rất mẫu mực, cho nên có cái gì đó hơi khác là người ta hiểu ý liền. 

Ông Sư thời đó số một mà Phật tử thời đó cũng số một. Chứ còn sai nồi lộn nắp như mình bây giờ nó buồn lắm. Mình đi bát ở Bellaire nó không hiểu mình muốn cái gì khổ lắm! Vua thỉnh Ngài vô .

Vua hỏi: 
“Ngài cần gì?”. 

Ngài nói:
“Trong tăng chúng có cần thứ thuốc đó”. 

Trong cung cái đó thiếu gì. Vua mới dâng cho Ngài nguyên bình bát, 

Ngài đem về đưa cho ngài Rahula:
“Đem đưa cho mẹ uống đi”. 

Mà đặc biệt là không lên nói Đức Phật. Cái đẹp ở chỗ là không nói, không nói với ngài Anan bởi vì gia đình mà, phải đi nói với người ngoài là ngài Xá Lợi Phất. Mà cái cách ngài Xá Lợi Phất đi tìm cái đó cũng đẹp nữa.

Đọc cái đó mới thấy đời sống Hiền Thánh đẹp lắm. 


RE: Linh Tinh - LeThanhPhong - 2021-05-01

Đọc bài Sư Toại Khanh kế về hoàng tử bé Rahula tìm nước ép trái cây cho Mẹ uống, LTP có vài nhận xét:

1/ Cơ thể thiếu vitamins và minerals, nhất là Vitamin C, nên khi uống nước trái cây ép là khỏi ngay.  Các bạn nên uống mỗi ngày một viên multiple vitamins và minerals, nếu có thể. 💪

2/ Hoàng tử bé mới có 7 tuổi biết suy nghĩ thấu đáo quá.  Cậu bé Rahula rất được chư tỳ kheo thương mến, nhưng không vì thế nhõng nhẽo.  Giỏi quá giỏi! 😍

3/ Tình mẹ con, thầy trò trong giới tu hành thật thắm thiết, thể hiện lòng từ thật rõ ràng. 👃

Câu chuyện trên thật cảm động!


RE: Linh Tinh - LeThanhPhong - 2021-05-03

Quote:Chết Vì Suy Thận

Các cụ đừng bỏ qua bài nầy, biết trước để ngăn ngừa để chữa trị. Đừng để bịnh hiện ra thì đã trễ rồi, phải đi lọc thận, một cực hình mà cũng khg thoát khỏi tử thần .
- BS. Đặng Ngọc Thuận -


Bài viết này cần đọc qua, có nhiều đoạn giúp tuổi già bớt đôi phần khó chịu do làn da bên ngoài.


[Image: unnamed.jpg]
Máy thận nhân tạo lọc máu (Hémodialyse) 



Mấy lúc sau này, tôi thường viết bài kể lại những tai nạn nguy hiểm và sầu khổ của đời tôi. Giờ đây lại xin kể một nỗi khổ, một nỗi thống khổ cuối cùng ! Ấy là bệnh suy thận và tôi sắp chết vì căn bệnh này. Cầu mong bạn đọc không bao giờ mắc phải cái bệnh tưởng là tầm thường này song thật ra có khả năng hành hạ và giết người không kém gì bệnh tật nào khác … Tôi viết dựa trên những hiểu biết cá nhân và trải nghiệm riêng tư của tôi, những trao đổi với các bác sĩ điều trị và bạn bè trong nghề Y. Rất ít tra cứu sách báo chuyên nghiệp. Vì vậy dĩ nhiên là có nhiều sơ xuất và sai sót, xin các bạn thứ lỗi.


Theo nhiều người Việt Nam, thận là cơ quan chủ yếu của dục tính. Suy thận khiến con người không làm tình được nữa. Thêm vào đấy, vì vị trí của cặp thận ở ‘’đâu đấy’’ sau lưng nên nếu bạn hay bị mỏi lưng mà đi khám một ông lang ta thì ông ta sẽ long trọng bắt mạch bạn một hồi rồi nghiêm trang tuyên bố bạn bị yếu thận song uống vài thang thuốc của ổng là hết ngay. 


Nếu quả thật như vậy thì số tôi còn nhiều may mắn lắm. Song chức năng của thận hoàn toàn không dính dáng gì với dục tính và chứng đau lưng cả. Dục tính do não bộ điều hòa cùng với những nội tố do các cơ quan sinh dục tiết ra. Còn đau lưng thì đa số nguyên nhân do lão hóa xương sống bị loãng, không còn cứng cát như thời trai trẻ, thậm chí có nốt cột sống còn bị ép xẹp xuống khiến con người ta càng già lưng càng còng và người càng lùn đi. Thời trai tráng đã qua đi hồi nào không hay.


Đàn ông lớn tuổi hay có vấn đề tiết niệu nên vượt biên sang tới Canada, lúc tôi đã 45 tuổi, tôi vội đi khám BS Michael Davidman, người Do Thái, giáo sư Khoa Thận tại Đại Học McGill. Khám lâm sàng và thử máu xong ông cho biết kết quả : ’’Anh bị cao áp huyết và thận bắt đầu suy, song ở tuổi anh không có gì đáng lo ngại cả. Mỗi ngày anh chỉ cần uống một viên thuốc lợi tiểu và ăn bớt thịt và muối là dám sống tới trăm tuổi rồi !’’ 


Tôi yên tâm ra về, trong lòng không khỏi hân hoan yêu đời và gần như không bao giờ còn nghĩ đến căn bệnh đang phục kích bên trong cơ thể lành mạnh bên ngoài của mình. Tôi gần như quên đứt câu các bác sĩ thường nói : ‘’Áp huyết cao là một tên sát nhân thầm lặng.’’ Vượt biên chậm trễ, gia đình tôi tới Canada trong cảnh ngộ trâu chậm uống nước đục. Song trong suốt 40 năm sau đó, tôi và nhà tôi ra sức làm việc nơi đất lành chim đậu để làm lại cuộc đời. Chúng tôi mau chóng đuổi kịp bạn bè, con cái học hành thành tựu nên cả nhà vui sống hưởng thụ cuộc đời tự do hạnh phúc. 


Cho tới một ngày kia cách đây khoảng 2 năm, tôi bị lên cơn thống phong (gout) ở đầu gối bên trái. Đau đến nỗi đầu gối sưng bằng trái bưởi và chung cuộc tôi phải nhập viện để bà BS Isabelle Deschênes chuyên về khớp xương đâm kim vào đầu gối tôi hút ra cả đống nước. Bà còn cho tôi uống Colchicine tôi mới hết hẳn bệnh. Tôi còn nhớ mãi vụ uống thuốc Colchicine, tôi bị phản ứng phụ đi cầu chảy như thác, Tào Tháo đuổi chạy không kịp, người mệt ‘’lử cò bợ’’ nằm chết giấc trên giường, thở không ra hơi. 


Thế nhưng đấy chỉ là chuyện phụ vì nhờ căn bệnh ấy mà tôi có dịp được gặp BS Steven Palenchuck, một BS còn trẻ măng mà đã có bằng chuyên môn về Nội Khoa, một văn bằng rất khó đạt được. Ông nói Thống Phong thường thấy trong chứng suy thận mãn tính và là điềm báo của bệnh suy thận đang từ mãn tính chuyển sang cấp tính, thời kỳ chót thường tới rất mau. (Nghe tiếng chót tôi bán tín bán nghi ông này có ý ngầm nói là tôi sắp chết chăng).


 Rồi ông giảng nghĩa chất Creatinine trong máu của tôi đã từ bình thường là 100 mg/L tăng lên đến 600 mg/L. Tình trạng đó là do các mạch máu ở thận bị áp huyết cao phá hỏng nên thận không lọc được hết Creatinine ra khỏi cơ thể. (Creatinine là cặn bã của thịt thà hay chất đạm mà ra) Thế mới biết Áp Huyết Cao quả là một tên sát nhân thầm lặng nằm vùng trong cơ thể con người như một kẻ nội thù chờ thời cơ thuận tiện để nổi dậy tàn phá cơ thể người ta, không tim thì thận rồi thì não bộ, các bộ phận sinh dục v.v … Người ta còn chẩn đoán suy thận bằng cách đo urée cũng từ đạm chất (acides aminés) mà ra nhưng không chính xác bằng Creatinine (Xin đừng lầm với acide urique, nguyên nhân của bệnh thống phong hay là goutte). 


BS Steven Palenchuck còn chỉ cho tôi thấy rõ một cách đo lường chức năng khác của thận, rất ăn khớp với độ Creatinine quá cao của tôi . Ấy là GFR hay Glomerular-Follicular Rate, số lượng chất Creatinine bị một nephron đào thải (clearance) ra trong một phút. Nephron là một đơn vị của thận gồm chính yếu những glomerules hoạt động như một cái lọc đào thải độc chất từ máu qua nước tiểu để rồi thoát ra ngoài. GFR của tôi chỉ còn 5mg/min, có nghĩa là thấp đến gần đáy rồi, số phận tôi rất gần đất xa trời. 


Mà đâu đã hết, khỏi bệnh này liền có tật khác thay thế. Một ngày không biết có đẹp trời không mà bỗng nhiên tôi bị ngứa khắp mình mẩy, ngứa phát điên phát cuồng kêu trời không thấu, nhất là có những vết loang ở sau lưng và dưới 2da nhiều nơi nổi cục gãi ra những vẩy trắng như nến. Hèn chi người ta kêu là phong vẩy nến (psoriasis). Nhưng mọi thứ kem trị psoriasis như Dovonex, Targel … đều vô hiệu, cũng như những loại thuốc viên trừ ngứa như Atarax, Benadryl. Tắm rửa ngày 2-3 lần cũng chẳng ăn thua gì.Tôi quả quyết là chăn mền bệnh viện giặt không sạch, khiến nhân viên bệnh viện ngày phải thay chăn mền đến 2-3 lần vì tôi dọa nếu không thay để bệnh ngứa hành hạ tôi ngày đêm thì tôi sẽ … tự vẫn !


Những chuyện đó xảy ra khoảng cuối năm 2019 tại một bệnh viện nhỏ, Hôpital du Haut-Richelieu, nơi con trai tôi làm bác sĩ tại khu cấp cứu. Đến thời điểm tôi đòi tự vẫn thì chắc bẩm anh chàng tự nhủ ‘’mọi việc không xong rồi’’ và xin chuyển tôi về Hospital du Sacré-Coeur cho gần nhà, gần cửa và nhất là gần nhà quàn Urgel-Bourgie, nơi nhà tôi và tôi đã ký giao kèo hỏa táng cả chục năm nay rồi. Nhưng nào tôi đâu có được nhập viện ngay mà chỉ được gửi đến phân khu Khoa Thận Bois-de-Boulogne. Rủi mà hóa may : Ở đây tôi được gặp Nữ Bác Sĩ Isabelle Chapdelaine chuyên môn về Khoa Thận rất giỏi, rất nhân đạo và cương quyết, dám nói dám làm. Tôi phải nhìn nhận là nhờ bà, tôi còn sống đến ngày hôm nay. Cũng nhờ những người như bà nên Canada và Quebec mới nổi danh là ‘’Xứ Lạnh Tình Nồng’’. 


BS Chapdelaine hỏi bệnh và xem hồ sơ của tôi rất lâu và rất kỹ song không khám bệnh mà chỉ xem đôi bàn chân của tôi có sưng không, nghĩa là cơ thể tôi có chứa quá nhiều nước không. (Tôi biết suy thận phải coi chân cũng như suy tim phải nghe phổi cho kỹ để biết nước có bị ứ trong phổi chưa.) Xong xuôi, bà Chapdelaine ngồi xuống sau bàn và chậm rãi nói cho tôi cùng toàn gia hiểu rõ chẩn đoán và dự đoán về trường hợp của tôi : 


- Các bạn đây có đến hai ba người là bác sĩ, tôi khỏi nói các bạn cũng thừa biết là ông nhà đã lớn tuổi và thận của ông đã suy đến thời kỳ cuối cùng rồi. Mọi cách chữa đều vô ích song tôi sẽ làm cùng mình để ông nhà sống thêm được năm nào hay năm ấy, với một cuộc đời tuy đã muộn nhưng vẫn còn phẩm chất. 


Trước hết ông rất mệt và yếu vì bần huyết. Các bạn dư biết thận là một trong những cơ quan sản xuất máu. Thận tạo và tiết ra chất erythro poétine, chất này kết hợp với chất sắt có sẵn trong máu sinh ra một sắc tố gọi là hémoglobine mầu đỏ. Nhờ sắc tố này mà hồng cầu của máu có thể mang dưỡng khí đến cho các tế bào trong cơ thể. Chức năng chế tạo chất poétine này rất âm thầm nên rất ít người biết đến.


Chữa trị bần huyết cần nhiều thời gian nên tôi sẽ cho truyền tĩnh mạch ngay Aranesp (một thứ erythropoétine nhân tạo) và Venofer để ông nhà dần dần bớt bần huyết và có thêm sức. Những thuốc này hoàn toàn miễn phí cho bệnh nhân. Khi nào ông nhà đã phần nào lại sức, tôi sẽ bàn tiếp về vấn đề lọc máu với các bạn. 


Nhưng ‘’first things first’’. Hiện tại ông nhà đang bị những cơn ngứa hành hạ rất là khổ sở khiến ông nghĩ đến chuyện tự vẫn. Quả thật người suy thận da rất khô nên thường là ngứa ngáy. Da khô lại còn là một môi trường cho bệnh psoriasis phát sinh và nảy nở mãnh liệt. Người bệnh càng thêm ngứa một cách dữ dội. 


Làm nghề chuyên trị thận suy đã lâu năm, tôi có kinh nghiệm và biết khá nhiều, kể cả những trường hợp tự vẫn vì quá ngứa song trị bệnh ngoài da vượt khỏi lĩnh vực của tôi. Điều tôi có thể giúp được, ấy là giới thiệu ông nhà cấp tốc gặp một bác sĩ chuyên trị bệnh ngoài da rất giỏi mà tôi biết. Ấy là BS Catherine Villeneuve-Tang ở Clinic Elle, đường Ste-Catherine Ouest.


Ngay tuần sau, tôi đã được gặp BS Catherine Villeneuve-Tang, một phụ nữ có 2 dòng máu, đẹp tuyệt trần. Sau khi chào hỏi như thường lệ, bà cất lời trước : 


- Isabelle có gọi điện thoại và cho tôi biết rõ về trường hợp của ông. Thật là đáng buồn song tôi nghĩ là tôi có thể giúp ông được. Ông hãy để tôi ngó mấy vết loang psoriasis của ông trước đã. Mấy vết loang lở này trông mà muốn ói, nhất là ở đằng sau lưng và ở 2 bên bắp vế nhưng bà Tang vẫn thản nhiên xem xét nắn bóp rồi vừa đi rửa tay ngay trong phòng bà vừa nói : 


- Quả thật tôi ít thấy những trường hợp nặng như của ông nhưng ông cứ thử bôi loại kem Clobetasol này, tốt vô cùng. Tôi cũng kê toa cho ông uống thêm Blexten và Rupall để ông đừng xài mấy loại thuốc chống ngứa cổ xưa như Atarax hay Benadryl, không tốt cho người cao niên đâu ! Trị như vậy mà không thấy thuyên giảm thì tôi đành phải gửi ông đi chữa bằng Phóng Xạ Cực Tím (UV phototherapy). 


Bà bác sĩ này rõ ràng nhiều tự tin và còn nhiều tuyệt chiêu chưa xài đến. Cung cách đi đứng và lời ăn tiếng nói của bà ta chiếm trọn lòng tin tưởng của tôi. Thế cho nên, tôi không uống thuốc mà chỉ bôi kem thôi đã thấy kết quả như một thần dược vì chỉ mấy phút sau khi bôi đã thấy những vết loang co rút lại, những hột vẩy nến nhỏ lại và chìm xuống dưới da, hết ngứa ngay. Song những nơi da lành vẫn còn khô và ngứa tuy ít hơn xưa nhiều.


Hai tuần sau, tôi trở lại bà Chapdelaine tái khám và hết lời cám ơn bà ta đã chỉ đúng thầy đúng thuốc cho tôi, đồng thời cũng hết lời ca ngợi bà Tang. Khi tôi khai với bà ta là phần da lành vẫn khô và ngứa thì bà ta mỉm cười và nói : 


- Đó không phải là psoriasis mà là prurit urémique do thận suy không lọc được hết chất urée làm ngứa da. Bệnh ngứa này nằm trong lãnh vực Thận Học của tôi. Ông không cần dùng Clobetasol nữa vì đó là một thứ Steroide, một loại độc dược đa dụng, rất mạnh và rất hữu hiệu, có toa mới mua được. Ông hãy ra Costco hỏi mua Lotion Cétaphil một hũ bằng cả một lít, rẻ rề xài hoài không hết mà kết quả cũng mau hết ngứa, da hết khô Tuy nhiên tôi cũng ra một cái toa để ông mua phòng hờ 30 viên Neurontin 100mg. Mỗi tối ông chỉ cần uống một liều tối thiểu là 1 viên, chắc chắn ông hết ngứa ngáy, lại còn ngủ ngon giấc nữa. Nhưng ông không được xài nhiều hoặc xài liên tục vì đây cũng là một loại độc dược, rất có hại cho bộ thần kinh, nhất là ở người cao niên. 


Về nhà xem bên ngoài chai Cétaphil, tôi thấy đó là một thứ lotion dành cho phụ nữ dùng để gìn giữ da dẻ cho mềm mại chứ không phải để chống ngứa ngáy. Ở tuổi sắp về chầu ông bà, tôi đâu có nhu cầu làm đẹp ! Cho nên tôi quyết định uống thử một viên Neurontin mà thôi xem sao. 


Kết quả thật là tuyệt vời. Tôi ngủ một giấc ngon lành suốt đêm, không một chút ngứa ngáy. Thế nhưng 2 tối mới dám uống một viên mà 2 tuần sau tôi đã thấy có điều là lạ khác thường vì giấc ngủ bỗng nhiên nhiều chiêm bao làm tôi nửa thức nửa ngủ mà giấc mơ vẫn tiếp tục. Các nhân vật trong mơ khi ẩn khi hiện và thường là người thân đã qua đời từ lâu. Họ nhìn tôi cười mỉm song không bao giờ nói năng một lời. Mở hẳn mắt cho tỉnh ngủ, mọi nhân vật đều biến mất trong giây khắc. Thế nhưng giữa ban ngày, tôi luôn luôn có cảm tưởng là có một người thứ ba cùng sống trong nhà, khi ẩn khi hiện trong khi đã từ lâu các cháu đều đã ra riêng hết và ở nhà chỉ còn có cặp vợ chồng già chúng tôi. Đúng là ảo ảnh, hoang tưởng rồi ! 


Từ đó, tôi tự ngưng uống Neurontin; mọi chiêm bao dần dần biến hết cùng lúc với hư ảnh ‘’người thứ ba’’ cũng lui mờ dần . Tôi kể lại chuyện ma trêu quỷ ám này cho quý tử bác sĩ nghe. Nó mở bửu bối là cái iPhone có cài cuốn CPS bên trong ra (Compendium des Produits et Spécialités Pharmaceutiques, sách rất dầy và nặng tổng kê đủ các loại thuốc song thu gọn trong cái iPhone rất tiện dụng cho các bác sĩ, nhất là thế hệ trẻ rất ưa dùng) chăm chú nghiên cứu trang này qua trang khác một hồi rồi vui vẻ nói : 


- Đúng rồi, Bố ơi! Cétaphil là một mỹ phẩm làm cho da luôn luôn ẩm ướt mềm mại. Dược khoa cũng có những sản phẩm tương tự song đậm đặc hơn, mạnh hơn khiến làn da không những ẩm ướt hơn mà còn hết ngứa nữa. Thông dụng hơn hết là Glaxal Base, Bố mua về dùng thử xem có hết ngứa không, song không bao giờ Bố được uống Neurontin nữa, hại óc lắm nhất là lớn tuổi như Bố, đã suy thận lại còn lú lẫn nữa chỉ thêm khổ cho Mẹ. 


Cũng may là Glaxal Base không những làm giảm ngứa mà còn rẻ hơn Cétaphil nữa. Điều đáng tiếc là thuốc không được nhà nước bao (couvert par la RAMQ) khiến tiền già lại thêm kém giá ! 


Tôi thật khổ tâm mỗi khi nghe nói : ‘’ Nhất là người cao niên, nhất là người cao niên …!’’ Miệng dọa tự vẫn song thật ra tôi còn ham sống lắm, gần vợ gần con và mấy đứa cháu còn nhỏ tuổi, sao mà cute vậy! 


Song vụ đại họa ngứa ngáy gãi đêm soàn soạt coi như tạm dàn xếp mà chẳng tốn kém bao nhiêu. Thật là ‘’chỉ có ở Canada !’’. Thế nhưng VN ta lại có ngạn ngữ : ‘’Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai !’’ Tối hôm 20 tháng 02 năm 2020 (tôi còn nhớ như in vào trí nhớ già nua của tôi cái ngày hôm đó vì toàn số 2 và số 0 : Phải chăng là chết 2 lần, vượt biên và nay là suy thận cấp tính !) tôi bỗng nhiên lên cơn sốt cao độ, mê sảng và muốn làm kinh phong. Nhà tôi hoảng hồn, nhấc điện thoại cầu cứu ông con trưởng. Nó nói: 


- Mẹ phải kêu 911, xin ambulance đưa Bố vô Cấp Cứu Sacré-Coeur ngay. Con sẽ gặp Bố Mẹ ở đấy. Tội nghiệp thằng nhỏ (gọi là nhỏ song đã trên 50 tuổi) lấy vợ người bản xứ cùng nghề, nhà ở mãi Mont-St-Hilaire mà hễ có chuyện gì trục trặc là bố mẹ lại kêu nó phóng xe về ngay. Tôi cho đó chẳng qua là cái nghiệp của nó làm nghề bác sĩ, phải báo hiếu nhiều hơn những đứa khác ! Con dâu chúng tôi rất ngoan và vui tính nên chúng tôi không có điều gì ta thán về thế hệ 1 rưỡi của người tỵ nạn. Vậy chưa chắc câu nói ‘’Qui prend femme, prend pays’’ đã đúng như người ta thường rêu rao. Nhà tôi thường khen ngầm ‘’ Nhà mình phước đức lắm mới có Geneviève làm nàng dâu trưởng, biết thế nào là nhập gia tùy tục’’.


Ở Khu Cấp Cứu, tôi được bác sĩ trực khám vật lý rất kỹ càng, xét nghiệm máu nước tiểu, chụp hình tim phổi hầm bà lằng rồi mới chữa chạy, nào là truyền máu, nào là kháng sinh qua ngả tĩnh mạch … Rồi ông cho mời bác sĩ Khoa Thận xuống hội ý vì thấy nồng độ Creatinine của tôi quá cao. Khi thấy nồng độ này, BS Remi Goupil trợn tròn mắt và nói :‘’Bệnh nhân này suy thận đã đến thời kỳ tận cùng, nếu không được lọc máu cấp cứu bằng thận nhân tạo (hémodialyse) thì thật là khó qua khỏi ! Máu của ông ấy đầy cặn bã thì làm sao mà chuyên chở dưỡng khí lên óc được ! Tôi quả thật không có sự lựa chọn nào khác …!’’


Mê man mấy ngày sau tôi mới mở mắt tỉnh dậy và được nhà tôi túc trực ngày đêm bên giường kể lại mọi chuyện, sau khi mếu máo vì mừng rỡ : ‘’ Hơn nửa thế kỷ sống bên nhau, em không thể tin anh nỡ lòng nào đột nhiên xa em mãi mãi, bỏ em bơ vơ một mình nơi xứ lạ quê người !’’ Những khi bị cơn bệnh hành hạ, tôi quả thật muốn xa rời cõi đời này ngay tức khắc để chấm dứt mọi khổ đau hình hài. Song giờ đây, nhìn lại thấy người mình yêu từ lúc son trẻ, tôi mừng rỡ muốn khóc mà sao cơ thể cạn nước, tôi không còn giọt lệ nào ứa ra được để tỏ mối tình muôn thuở của tôi đối với nàng.


Khoảng một tuần sau, đích thân bà Isabelle Chapdelaine đến thăm tôi tại Phòng Điều Dưỡng Tích Cực (ICU). Bà nói : 


- Ông xém chết mà BS Goupil đã quyết định làm hémodialyse để cứu sống ông in extremis như thế, tôi thật không tìm được ra lời để chúc mừng cả hai người, bác sĩ và bệnh nhân. Tôi thì muốn đưa ông nhà vào con đường lọc máu một cách nhẹ nhàng hơn vì ở tuổi ông đã đi vào con đường ấy thì không có lối ra nữa đâu ! 


- Thế nhưng ‘’Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên’’ (L’Homme propose et Dieu dispose) ông bà ạ. Hôm đầu tiên ông bà và gia quyến đến phòng mạch của tôi ở Bois-de-Boulogne, tôi thấy tình trạng của ông thật thảm hại. Thêm tuổi tác của ông nữa, chữa ông ngay bằng Thận Nhân Tạo (Hémodialyse), nhiều rủi ro lắm ! Rồi ông sẽ thấy cái máy này rất mạnh, thậm chí dữ dằn nữa. Ưu tiên chúng tôi dành cho thanh niên đủ sức chịu đựng trong khi chờ đợi có thận sống để ghép cho họ (greffe rénale). Xong rồi mới tới các bậc cao niên còn đủ sức khỏe chứ không như ông nhà đây, kiệt sức quá rồi 


- Nhưng chẳng lẽ bỏ mặc ông cho số phận nên tôi lên một kế hoạch cứu vãn tình thế. Ấy là bước thứ nhất, chữa cho ông khỏi bị ngứa ngáy hành hạ. Bước thứ hai, trị bần huyết cho ông lại sức, không phải lại sức để chịu nổi Thận Nhân Tạo mà đủ sức để có thể Lọc Máu Bằng Màng Bụng. (Dialyse Péritonéale hay D.P.) Đấy là bước thứ ba và cuối cùng. Ông bà biết là một khi đã máng vào máy lọc thận là phải chịu máng cho đến chết, trừ phi được ghép thận mà người ta dành cho người trẻ còn nhiều khả năng giúp ích cho xã hội. 

[Image: 20201203_073137_699825_loc_mang_bung.max-800x800.jpg]

Máy lọc qua màng bụng



- Song DP nhẹ nhàng hơn HD nhiều, có thể vì DP xài màng bụng là một một màng thiên nhiên bao bọc các bộ phận trong bụng còn HD thì xài một cái màng lọc nhân tạo đặt trong một cỗ máy khá lớn. Máy đó chuyển dần máu bằng động cơ ra khỏi cơ thể con người, truyền vô máy cho màng lọc xong rồi bơm trở lại hệ thống tuần hoàn của con người. Toàn thể hệ thống tuần hoàn coi như bị xáo trộn nên đa số bệnh thường rất mệt mỏi sau mỗi kỳ đi lọc máu về. 


- Trái lại, DP dùng một dung dịch gọi là ‘’Dialysat’’ có đặc tính hút cặn bã trong máu qua màng bụng rồi để cho chảy ra ngoài bụng. Dung dịch này do hãng Baxter bào chế và chuyên chở tới tận nhà bệnh nhân, cùng với các đồ phụ tùng y khoa khác. Phí tổn dĩ nhiên do nhà nước trả 100%. 


- Điều hết sức ích lợi cho bệnh nhân không phải là tiền mà là có thể tự do làm lấy ở nhà, ban ngày hay ban đêm tùy thích. Điều phiền toái duy nhất là khởi đầu phải chịu một cuộc giải phẫu nhỏ để cắm một ống thông (catheter) đúng chỗ vô bụng cho dialysat có đường ra vô. Treo bịch dialysat lên cao cho dung dịch chảy vô bụng, để dialysat hút cặn bã trong máu qua màng bụng rồi đến sáng ngủ dậy mở nút catheter cho dung dịch đầy cặn bã chảy ra ngoài là hoàn tất công chuyện. 


- Cũng cần học cách nối catheter với bịch dialysat sao cho vô trùng kẻo màng bụng bị sưng (péritonite) thì quả là một tai họa lớn. Nhưng ông bà cứ yên tâm vì ông bà sẽ được qua một khóa học, thành thạo rồi người ta mới dám để ông bà tự làm. 


- Nói đến đây đã quá nhiều, xin ông bà thứ lỗi. Mục đích chính của tôi là mong ông bà yên lòng. Tai nạn tử vong đã qua. Đời sẽ lại đáng sống vì có phẩm chất chứ không còn phiền toái như bây giờ nữa đâu. Tôi không khỏi tội nghiệp cho bà đã quá 80 tuổi rồi mà đêm đêm gió tuyết cứ phải lái xe đưa đón ông đi lọc máu ! 


Thận nhân tạo không có khả năng đóng góp vào việc tạo ra máu (hồng cầu) như thận thiên nhiên. Vì vậy người lọc máu phải chích đều đặn Aranesp và Venofer để tránh bần huyết người bệnh mới có sức. 


Thế còn ông bạn lâu năm thủ phạm của chứng suy thận thì sao? Đa số bệnh nhân lọc máu đều nhìn nhận máy thận nhân tạo làm giảm áp huyết, nhiều khi quá thấp khiến bệnh nhân lại bị mệt, bằng không chỉ một viên Lasix 40mg cũng đủ để áp huyết cân bằng cả ngày. Riêng tôi vẫn ngược ngạo với người ta. Dưới tiếng máy chạy rầm rì của thận nhân tạo, áp huyết của tôi cứ lên cao dần, nhiều khi gần đến phút chót, đạt tới 200/110. Thật là dễ sợ song mấy cô y tá vẫn bình tĩnh, mặc cho chuông báo động kêu ròn rã. 


Ngoài ra ở nhà thì phải tự đo, ngày 5 lần khi ngủ dậy, khi đi ngủ và 3 bữa cơm. Áp huyết của tôi sáng sớm rất cao song kinh nghiệm dạy tôi biết không cần uống thuốc ngay mà cứ bình thản uống ly cà phê là nó tự tuột xuống ngay, nhiều khi xuống dưới 70/40 khiến tôi quá mệt, lăn ra ngủ tới trưa mới dậy nổi. Rồi từ lúc ấy áp huyết cứ từ từ lên cao đến cơm chiều thì bình thường là 160/85. Tôi hỏi nhiều bác sĩ thì chẳng ai hiểu tại sao. Tôi đành tự biên tự diễn tùy theo cao thấp mà khi thì uống Avapro 75mg khi thì Apresoline 10mg. Nhưng tối nào lên giường tôi cũng làm 1 viên Norvasc 5mg vì không biết tại sao tôi bị ám ảnh đang đêm bị đột quỵ vì xuất huyết não hay lên cơn đau tim bóp trật nhịp sinh tử vong. Vậy mà ai cũng nghĩ là người quá cố đã êm đềm ra đi trong giấc ngủ. 


Ngoài ra còn phải tránh chứng mập phì, kiêng ăn cữ uống rất nghiêm ngặt máy lọc thận mới hoạt động hết khả năng được. Thí dụ như ăn vẫn phải tránh ăn quá nhiều chất đạm khiến máu lọc không xuể cặn bã. Uống nước chỉ được nửa lít một ngày (bằng phân nửa người bình thường) + 250 cc chất lỏng trong thức ăn. Các chất điện giải như Sodium, Potassium và Phosphorus cũng phải hạn chế nghiêm ngặt kẻo tim bị suy yếu, dù các chất điện giải ấy quá nhiều hay quá ít. 


Rút bớt nước ra khỏi cơ thể là nhiệm vụ thứ hai của máy lọc máu. Nhiệm vụ này mới thật là phức tạp nhưng rất hữu hiệu để tránh chứng mập phì. Mà quả thật người ta mập không phải cơ thể quá nhiều mỡ mà còn vì chứa chấp quá nhiều nước. Vậy chúng ta chớ quá tin tưởng vào những lời quảng cáo của những hãng bia rượu, nước ngọt, thậm chí nước giải nhiệt như Perrier hay Vichy chứa rất nhiều Sodium ... 


Khởi đầu sự nghiệp lọc máu, bác sĩ chuyên khoa Thận phải tính ‘’sức nặng khô’’ (poids sec) của bệnh nhân là bao nhiêu bằng cách xem xét chiều cao, vòng bụng, thói quen ăn uống của đương sự rồi mới cho một con số là bao nhiêu kg. Đó là sức nặng lý tưởng không tính nước trong cơ thể. Bệnh nhân phải cố gắng giữ sức nặng đó càng lâu càng tốt và máy lọc thận sẽ giúp bạn rất hữu hiệu bằng cách rút nước thừa của bạn ra. Thế nhưng bao nhiêu nước thì gọi là thừa và phải rút bớt ra? 


Mỗi lần đi lọc máu, việc phải làm trước tiên khi bước chân vào cửa phòng lọc máu là bạn phải cởi bớt áo quần rồi lên một cái cân rất chính xác để tự đo xem mình nặng bao nhiêu ký. Bạn nói cho cô y tá biết và cô ta sẽ lấy số ký lô đó trừ đi số ký lô cân được kỳ lọc máu trước. Kết quả âm tính có nghĩa là bạn đã ốm đi và không cần rút một giọt nước nào ra cả. Trái lại kết quả dương tính có nghĩa là bạn đã mập thêm và cần lấy hết số lượng nước dư thừa đó ra để bạn giữ được sức nặng khô bác sĩ đã định cho bạn. Trường hợp kết quả 2 số là 0 có nghĩa là bạn giữ nguyên được poids sec giữa 2 kỳ lọc máu và cũng không cần rút nước của bạn ra làm gì. Thế nhưng tờ quảng bá về dinh dưỡng của Hội Bệnh Nhân Suy Thận lại có câu :’’ Nặng thêm một kg giữa 2 kỳ lọc máu có thể chấp nhận được.’’


Thành ra lọc máu, rút thêm nước ra không phải chuyện dễ. Mỗi bệnh nhân mỗi khác (il n’y a pas 2 patients pareils) Đa số bệnh nhân khi lọc máu ra về rất mệt nhọc, nhất là các cụ cao niên lảo đảo bước ra khỏi phòng để gặp người thân đi đón, dìu đến tận xe đưa về. Tôi thì đạt giải quán quân về mệt phát xỉu. Lúc đầu chưa quen tôi đi đứng nghiêng ngả đến độ nhà tôi cũng hơn 80 rồi, không đỡ nổi tôi. Rút cục phải mua cho tôi một cái marchette có bánh xe để tôi dựa vào đó mà di chuyển. Nhờ thế mà tôi mới thể hiện được cái vật dụng rất đơn giản ấy lại ích lơi và hữu hiệu đến như thế. Hơn hẳn một cây gậy mà tôi đã thử chống đi, con người siêu vẹo, hai chân loạng quạng chỉ muốn ngã. Xài những vật dụng này thấy mà thèm những bệnh nhân trẻ tuổi, bước xuống giường là đi phăng phăng ra cửa. 


Vậy mà về đến nhà, tôi vẫn lăn xuống mặt đất, bất tỉnh. Lần đầu bị xỉu, nhà tôi phải đưa tôi trở lại bệnh viện, lớp sau quen rồi cứ để nguyên tôi nằm nghỉ đó, mấy phút sau sẽ tự nhiên tỉnh lại. Các bác sĩ thường gọi đó là Hội chứng đột quỵ do mất nước (syndrome de deshydratation aigue). Máu quá đặc không vận chuyển được lên tới não bộ nên bệnh nhân bất tỉnh và ngã nằm xuống. Vì lý do đó, các bác sĩ chuyên ngành Thận Học ghi nhận cho mỗi bệnh nhân lọc máu ưa ngất xỉu một số nước tối đa có thể rút ra mỗi lần. Số nước tối đa của tôi là 1L,50 song tôi vẫn chịu không nổi và thường phải điều đình với mấy cô y tá rút xuống còn trên dưới 1 L.0 mà thôi. 


Sau hết song không phải là ít đáng kể nhất, tôi phải nói ra đây một sự phiền toái của thận nhân tạo mà gần như hầu hết bệnh nhân lọc máu nhân tạo nào cũng phải run lẩy bẩy và cắn răng chịu đựng. Ấy là một thứ cảm giác vô cùng rét buốt mà ít ai tránh khỏi. Bệnh viện chỉ cung cấp cho mỗi bệnh nhân một cái mền mỏng nên ai nấy phải lo ôm đồm mang theo một hay cả hai đến ba cái chăn bông mà không bao giờ đủ. Một khi thiên nhiên đã phú cho bạn một cái bản năng nhát lạnh (nature frileuse) thì e rằng mền điện cũng không thấm gì. Một cái lạnh lạ lùng quái gở từ trong người phát ra chứ không phải cái lạnh bình thường từ ngoài nhập vô cơ thể. Có người cho là thận nhân tạo cần một môi trường thật băng giá mới vận hành được. Cái lạnh vũ trụ ấy xâm nhập vào máu đang được lọc trong máy rồi mang theo vô trở lại cơ thể của bệnh nhân. Thật đáng kính phục các bạn trung niên chịu lạnh đến độ nằm thản nhiên nhai chips và xem iPad. 


Song ham sống sợ chết là bản năng của con người. Dần dà tôi cũng quen với cái máy lọc ghê gớm ấy, nhất là sau khi bà Isabelle Chapdelaine quyết định tôi chỉ cần đi lọc máu tuần 2 lần vào tối thứ Ba và thứ Bẩy mà thôi thay vì 3 lần như người ta. Đây là một quyết định tuyệt thông minh vì tôi thấy cuộc sống của tôi nhẹ nhõm hẳn lên thay vì luôn luôn trong đầu bị ám ảnh nặng nề về cái máy lọc. Tôi không thể ngờ được một quyết định giản dị như thế lại mang lại phẩm chất cho cuộc đời còn rất ngắn ngủi của tôi. 


Bà Chapdelaine vẫn giữ vững lập trường để tôi làm dialyse péritonéale ở nhà, nhẹ nhàng thong thả song bị một trở ngại lớn lao là dịch cúm Tàu vẫn hoành hành khiến các bệnh viện còn phải hoãn những trường hợp không khẩn cấp như tôi để dành ưu tiên cho Cô Vít, thành thử tôi chưa có được cái catheter đưa dung dịch dialysat vô màng bụng làm công việc lọc máu rồi sáng dậy lại được rút ra cùng một đường catheter, sau một đêm ngủ êm. 


Hiện tại tôi sống trong chờ đợi. Chờ đợi gì ? Xin thưa là chờ đợi lọc máu qua màng bụng (Dialyse Péritonéale) nhưng biết bao giờ Cô Vít mới chịu trở về Tàu để dân Canada rộng chỗ chữa bệnh, khỏi chờ đợi quá lâu lắc (trường hợp tôi là quá một năm rồi đấy ạ) Nếu Cô Vít ngoan cố ngồi ì ra đấy thì tôi đành chờ … Thần Chết do ngài Tập Cẩn Bình ngụy trang dưới dạng Suy Thận ! 


Thật đúng như tựa đề cuốn sách nổi danh của Peter Navarro ‘’Death under China’’ tạm dịch là ‘’ Chết dưới khối nặng của Trung Quốc’’ !


Đặng Ngọc Thuận 
Đầu Xuân 2021



RE: Linh Tinh - LeThanhPhong - 2021-05-03

Quy luật của xe rác


Một hôm tôi nhảy vào một chiếc taxi để ra phi trường. Đang chạy đúng làn bỗng từ bãi đậu xe phía trước một chiếc xe nhà màu đen phóng ra. Người lái taxi thắng kêu một tiếng két và tránh không va chạm xe kia trong đường tơ kẽ tóc! Người lái xe kia ngoái đầu mắng chúng tôi. Người lái taxi chỉ cười vẫy chào lại. Tôi thấy anh thật là tử tế.

Thế nên tôi hỏi: “Sao anh hiền vậy? Anh kia suýt tông hư xe anh và mình có lẽ đã phải nhập viện!”.

Quy luật của xe rác

Bấy giờ anh lái taxi dạy tôi bài học này, tôi gọi nó là: “Quy luật của xe rác”. Anh giải thích rằng nhiều người cứ như là xe rác vậy. Họ chạy vòng quanh mang theo đầy rác, đầy bực dọc, đầy nóng giận và chán chường. Vì rác của họ đầy ắp, họ cần nơi đổ rác và đôi khi họ trút lên bạn. Đừng mang nó vào mình. Chỉ cần mỉm cười, vẫy chào, chúc điều tốt lành rồi ta cứ đi tiếp. Đừng thèm lấy rác đó rồi mang rải cho người khác nơi làm việc, nơi dọc đường hay mang về nhà.
Người thành đạt quyết không để cho mấy xe chở rác làm hỏng ngày của mình.

Bài học: Cuộc đời quá ngắn để mà cứ sống trong hối tiếc, vậy nên… hãy yêu thương người cư xử tốt với mình và cầu nguyện cho ai xử tệ. Cuộc sống này ta tạo nên nó chỉ 10%, còn 90% là tùy thuộc cách ta tiếp nhận nó!

-ST-
 


RE: Linh Tinh - abc - 2021-05-03

(2021-05-03, 03:04 PM)LeThanhPhong Wrote: Quy luật của xe rác


Một hôm tôi nhảy vào một chiếc taxi để ra phi trường. Đang chạy đúng làn bỗng từ bãi đậu xe phía trước một chiếc xe nhà màu đen phóng ra. Người lái taxi thắng kêu một tiếng két và tránh không va chạm xe kia trong đường tơ kẽ tóc! Người lái xe kia ngoái đầu mắng chúng tôi. Người lái taxi chỉ cười vẫy chào lại. Tôi thấy anh thật là tử tế.

Thế nên tôi hỏi: “Sao anh hiền vậy? Anh kia suýt tông hư xe anh và mình có lẽ đã phải nhập viện!”.

Quy luật của xe rác

Bấy giờ anh lái taxi dạy tôi bài học này, tôi gọi nó là: “Quy luật của xe rác”. Anh giải thích rằng nhiều người cứ như là xe rác vậy. Họ chạy vòng quanh mang theo đầy rác, đầy bực dọc, đầy nóng giận và chán chường. Vì rác của họ đầy ắp, họ cần nơi đổ rác và đôi khi họ trút lên bạn. Đừng mang nó vào mình. Chỉ cần mỉm cười, vẫy chào, chúc điều tốt lành rồi ta cứ đi tiếp. Đừng thèm lấy rác đó rồi mang rải cho người khác nơi làm việc, nơi dọc đường hay mang về nhà.
Người thành đạt quyết không để cho mấy xe chở rác làm hỏng ngày của mình.

Bài học: Cuộc đời quá ngắn để mà cứ sống trong hối tiếc, vậy nên… hãy yêu thương người cư xử tốt với mình và cầu nguyện cho ai xử tệ. Cuộc sống này ta tạo nên nó chỉ 10%, còn 90% là tùy thuộc cách ta tiếp nhận nó!

-ST-
 

bạn LTP., 

thêm chút rác nè (post#400)
http://vietbestforum.com/showthread.php?tid=3994&pid=107528&highlight=xe+r%C3%A1c#pid107528


RE: Linh Tinh - LeThanhPhong - 2021-05-03

(2018-10-10, 03:55 PM)caothang Wrote: Gặp xe rác chạy ngoài đường, nếu không muốn bị rác rơi vào người thì hãy tránh đường cho nó đi qua. Đừng đuổi theo cãi nhau với nó để hứng rác thêm. Mỗi người chúng ta gặp ngoài đời cũng giống như những chiếc xe rác như vậy, cái nhiều rác, cái ít rác, cái được che kín ít bốc mùi, cái không che đậy, rác rơi vãi đầy đường. Mỉm cười, nhường đường và đi tiếp, thưởng thức trọn vẹn cuộc sống tươi đẹp ngoài kia. Cuộc sống vẫn luôn tươi đẹp, dù rằng nó vẫn luôn có những xe rác như vậy

http://vietbestforum.com/showthread.php?tid=3994&pid=107528&highlight=xe+r%C3%A1c#pid107528


Cám ơn bác abc .    Thanks-sign-smiley-emoticon Thanks-sign-smiley-emoticon Thanks-sign-smiley-emoticon


RE: Linh Tinh - LeThanhPhong - 2021-05-04

Biết một điều sẽ biết thêm những điều khác

Học Đạo nó hay ở chỗ học cái này nó rọi cái kia. Bà con về nghe băng giảng sẽ cám ơn ở chỗ là cái này nó rọi cái kia, nhưng mà có người gửi cho tôi tiền rồi không thèm đi học, cho tiền xong không thèm đi học. 


Nó có lợi là học cái này nó rọi cái kia. Chứ không phải mình học cái này là chỉ biết cái này, không phải. 

Một cái biết nó có lợi và không có hại trong khi một cái dốt nó chỉ có hại mà không có lợi. 

Tại sao? 

Khi anh biết được một cái nó là cái nền cho nhiều cái biết khác chứ không phải chỉ riêng cái biết đó. 

Khi tôi biết rằng đồ ăn Việt Nam nằm nhiều ở Bellaire, tôi chỉ biết nhiêu đó thôi. Thì từ cái biết đó nó mở cho tôi nhiều thứ khác. 

Tôi ngồi tôi suy nghĩ “Tại sao nó nằm nhiều ở đó?”. 

Tôi suy nghĩ dốt dốt thôi. 

Phần lớn cộng đồng nằm nhiều ở đó, như vậy những chuyện liên quan tới cộng đồng tôi phải tìm hiểu ở đó. Chỉ suy diễn từ đồ ăn nó mới ra cái chuyện kia. 

Tại sao đồ ăn tập trung ở đó? Là vì 
  1. bà con của mình ở đó nhiều, như vậy 
  2. những chuyện liên quan tới cộng đồng tôi ra khu vực đó tôi tìm hiểu. 
Từ chỗ nhận thức hai này nó mới ra bao nhiêu cái khác, 
  1. tôi cần khai thuế, 
  2. cần bảo hiểm, 
  3. cần châm cứu, 
  4. gởi đồ, gởi tiền, bla bla bla…
  5. là tôi ra ngoài đó. 
Mà đầu tiên nó chỉ từ cái việc nhỏ là đồ ăn Việt Nam ở Houston tập trung ở Bellaire, biết nhiêu đó thôi. Cái đó chỉ có một câu ngắn, cô Vi Nga cổ viết gửi cho tôi “đồ ăn Việt Nam ở Houston tập trung ở Bellaire”, mà tôi về cầm cái câu đó tôi suy ra. 

Rồi có người bên Atlanta họ gửi cho tôi thế này:

“Sư đến bất cứ thành phố nào trên nước Mỹ mà Sư cần tìm hiểu Sư kiếm tiệm nail”. 

Trường đại học dân lập của Việt kiều hải ngoại. Ai mà bỏ chồng, bồ đá, có chửa hoang, ai đi chùa, ai dựt nợ, ai bị ung thư kỳ cuối, ai về quê lấy vợ bé là vô tiệm nail nó nói hết. 

Cứ ngồi cho nó dũa, nó dũa một móng là biết hai chục chuyện, chưa kể là facial, wax. Ra là coi như tốt nghiệp luôn đó. 

Vô trong đó một tiếng đồng hồ mà ra là coi như trên thông thiên văn, dưới thông địa lý, giữa thông nhân sự, biết hết. 

Bởi vậy chỉ cần biết một chuyện thôi là biết tất tần tật, tuốt tuồn tuột. 

Cho nên kiến thức nó lợi là biết một nó mở ra. Mình có thể gọi đây là ‘Tiệm nail Phật giáo’ cũng được. Tức là mỗi lần có lớp học thế này, bà con có một ít kiến thức, kiến thức đó nó mở ra cho bà con. Chẳng hạn như bà con hiểu chữ Phật đạo là cái gì, tại sao mang thân người là khó. 

Rất khó được làm người

Hôm qua tới giờ tôi không có nói nhưng mà những cái phanh phui của tôi bà con thấy là làm người chua thiệt chứ. 

Chẳng hạn như nãy tôi nói đụng đâu dính đó thì khó làm người lắm. Nó được cái gì là dính, đụng tới là dính. Do nghiệp xấu sanh làm con trùng, là nó đam mê cái chuyện ăn rồi là chui rúc ở dưới đất, nó mát mát. Nó khoái cái mát mát mà không làm người đó. Rồi nó xuống cống, nó làm trùng chỉ. Biết trùng chỉ không? Loại trùng mà một nùi để nuôi cá lia thia, mình thấy nó thấy gớm mà tụi nó là thiên đường đó. Đó là Las Vegas của nó đó, cho nên là nó đã lắm. Nó tiền không đó, người ta mua về để cho mấy con cá nó ăn. Mà mình phải có gan mình xuống cống hốt nó lên, lúc nhúc lúc nhúc vậy đó, mình cầm nó nhột tay, nhớt nhớt vậy đó chứ không có gì hết. Mà đối với nó là đã lắm, cái thế giới đó đối với nó là số một, nó thích lắm.

Có một lần đó, tôi kể cái này chắc tôi ngủ không được quá. Kì đó có một vị sư bạn rủ đi Cà Mau lúc đó tôi mười mấy tuổi. Thời đó đi đứng khó khăn lắm, từ Cà Mau đi về Cần Thơ trễ đò. Hai anh em mới vô phòng trọ ngủ, phòng trọ rẻ tiền ở bến tàu. Ở trên nó bằng bồ bồ, tre nó chẻ ra rồi đan lại. Tôi nằm ngủ mà tôi nghe “tút, tút, tút…”, tôi nhìn xuống sàn, chuột chù, một bầy, nó nằm ở góc cột, con này nó leo lên con kia, mà mùi nó nồng lắm, nó không có rời nhau, nó quấn nhau mà nó kêu “chít, chít, chít…”. Mà nó dơ, nhà đó là nhà trọ rẻ tiền ở bến tàu để chờ tàu khuya đi. Lúc mình nhỏ mình nghĩ “Trời ơi, chúng sanh bị cái nghiệp gì nặng quá!”. Ông Sư mà, tôi có nghĩ vậy “Trời, cái nghiệp gì ghê quá!”. 

Tới hồi lớn lên, từ từ mình thấm mình thấy. Ngay trong đời sống con người nhiều khi có những người có đời sống giống con đó, sống dơ mà họ không biết. Có hiểu tôi nói gì không? Cũng ăn, đi làm, có tiền, về vợ chồng gây gổ, cũng đẻ con, vẫn đẻ đều đều, vẫn gây, vẫn thương, vẫn sống đời sống chật hẹp, cái đầu không có mở ra được, sống như chuột chù vậy đó. Mệt lắm! Ghê lắm! Rồi hễ giàu thì nó hư theo kiểu giàu, trác táng. Hễ nghèo thì nó khổ theo kiểu nghèo, đời sống tăm tối.


https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=PE2v61SGGlg&abt=Th%E1%BA%BF+Gi%E1%BB%9Bi+%C4%90%E1%BB%9Di+S%E1%BB%91ng+Mu%C3%B4n+Lo%C3%A0i



RE: Linh Tinh - abc - 2021-05-04

(2021-05-04, 05:35 PM)LeThanhPhong Wrote: Biết một điều sẽ biết thêm những điều khác

Học Đạo nó hay ở chỗ học cái này nó rọi cái kia. Bà con về nghe băng giảng sẽ cám ơn ở chỗ là cái này nó rọi cái kia, nhưng mà có người gửi cho tôi tiền rồi không thèm đi học, cho tiền xong không thèm đi học. 


Nó có lợi là học cái này nó rọi cái kia. Chứ không phải mình học cái này là chỉ biết cái này, không phải. 

Một cái biết nó có lợi và không có hại trong khi một cái dốt nó chỉ có hại mà không có lợi. 

Tại sao? 

Khi anh biết được một cái nó là cái nền cho nhiều cái biết khác chứ không phải chỉ riêng cái biết đó. 

Khi tôi biết rằng đồ ăn Việt Nam nằm nhiều ở Bellaire, tôi chỉ biết nhiêu đó thôi. Thì từ cái biết đó nó mở cho tôi nhiều thứ khác. 

Tôi ngồi tôi suy nghĩ “Tại sao nó nằm nhiều ở đó?”. 

Tôi suy nghĩ dốt dốt thôi. 

Phần lớn cộng đồng nằm nhiều ở đó, như vậy những chuyện liên quan tới cộng đồng tôi phải tìm hiểu ở đó. Chỉ suy diễn từ đồ ăn nó mới ra cái chuyện kia. 

Tại sao đồ ăn tập trung ở đó? Là vì 
  1. bà con của mình ở đó nhiều, như vậy 
  2. những chuyện liên quan tới cộng đồng tôi ra khu vực đó tôi tìm hiểu. 
Từ chỗ nhận thức hai này nó mới ra bao nhiêu cái khác, 
  1. tôi cần khai thuế, 
  2. cần bảo hiểm, 
  3. cần châm cứu, 
  4. gởi đồ, gởi tiền, bla bla bla…
  5. là tôi ra ngoài đó. 
Mà đầu tiên nó chỉ từ cái việc nhỏ là đồ ăn Việt Nam ở Houston tập trung ở Bellaire, biết nhiêu đó thôi. Cái đó chỉ có một câu ngắn, cô Vi Nga cổ viết gửi cho tôi “đồ ăn Việt Nam ở Houston tập trung ở Bellaire”, mà tôi về cầm cái câu đó tôi suy ra. 

Rồi có người bên Atlanta họ gửi cho tôi thế này:

“Sư đến bất cứ thành phố nào trên nước Mỹ mà Sư cần tìm hiểu Sư kiếm tiệm nail”. 

Trường đại học dân lập của Việt kiều hải ngoại. Ai mà bỏ chồng, bồ đá, có chửa hoang, ai đi chùa, ai dựt nợ, ai bị ung thư kỳ cuối, ai về quê lấy vợ bé là vô tiệm nail nó nói hết. 

Cứ ngồi cho nó dũa, nó dũa một móng là biết hai chục chuyện, chưa kể là facial, wax. Ra là coi như tốt nghiệp luôn đó. 

Vô trong đó một tiếng đồng hồ mà ra là coi như trên thông thiên văn, dưới thông địa lý, giữa thông nhân sự, biết hết. 

Bởi vậy chỉ cần biết một chuyện thôi là biết tất tần tật, tuốt tuồn tuột. 


Cho nên kiến thức nó lợi là biết một nó mở ra. Mình có thể gọi đây là ‘Tiệm nail Phật giáo’ cũng được. Tức là mỗi lần có lớp học thế này, bà con có một ít kiến thức, kiến thức đó nó mở ra cho bà con. Chẳng hạn như bà con hiểu chữ Phật đạo là cái gì, tại sao mang thân người là khó. 

Rất khó được làm người

Hôm qua tới giờ tôi không có nói nhưng mà những cái phanh phui của tôi bà con thấy là làm người chua thiệt chứ. 

Chẳng hạn như nãy tôi nói đụng đâu dính đó thì khó làm người lắm. Nó được cái gì là dính, đụng tới là dính. Do nghiệp xấu sanh làm con trùng, là nó đam mê cái chuyện ăn rồi là chui rúc ở dưới đất, nó mát mát. Nó khoái cái mát mát mà không làm người đó. Rồi nó xuống cống, nó làm trùng chỉ. Biết trùng chỉ không? Loại trùng mà một nùi để nuôi cá lia thia, mình thấy nó thấy gớm mà tụi nó là thiên đường đó. Đó là Las Vegas của nó đó, cho nên là nó đã lắm. Nó tiền không đó, người ta mua về để cho mấy con cá nó ăn. Mà mình phải có gan mình xuống cống hốt nó lên, lúc nhúc lúc nhúc vậy đó, mình cầm nó nhột tay, nhớt nhớt vậy đó chứ không có gì hết. Mà đối với nó là đã lắm, cái thế giới đó đối với nó là số một, nó thích lắm.

Có một lần đó, tôi kể cái này chắc tôi ngủ không được quá. Kì đó có một vị sư bạn rủ đi Cà Mau lúc đó tôi mười mấy tuổi. Thời đó đi đứng khó khăn lắm, từ Cà Mau đi về Cần Thơ trễ đò. Hai anh em mới vô phòng trọ ngủ, phòng trọ rẻ tiền ở bến tàu. Ở trên nó bằng bồ bồ, tre nó chẻ ra rồi đan lại. Tôi nằm ngủ mà tôi nghe “tút, tút, tút…”, tôi nhìn xuống sàn, chuột chù, một bầy, nó nằm ở góc cột, con này nó leo lên con kia, mà mùi nó nồng lắm, nó không có rời nhau, nó quấn nhau mà nó kêu “chít, chít, chít…”. Mà nó dơ, nhà đó là nhà trọ rẻ tiền ở bến tàu để chờ tàu khuya đi. Lúc mình nhỏ mình nghĩ “Trời ơi, chúng sanh bị cái nghiệp gì nặng quá!”. Ông Sư mà, tôi có nghĩ vậy “Trời, cái nghiệp gì ghê quá!”. 

Tới hồi lớn lên, từ từ mình thấm mình thấy. Ngay trong đời sống con người nhiều khi có những người có đời sống giống con đó, sống dơ mà họ không biết. Có hiểu tôi nói gì không? Cũng ăn, đi làm, có tiền, về vợ chồng gây gổ, cũng đẻ con, vẫn đẻ đều đều, vẫn gây, vẫn thương, vẫn sống đời sống chật hẹp, cái đầu không có mở ra được, sống như chuột chù vậy đó. Mệt lắm! Ghê lắm! Rồi hễ giàu thì nó hư theo kiểu giàu, trác táng. Hễ nghèo thì nó khổ theo kiểu nghèo, đời sống tăm tối.


https://toaikhanh.com/videotext.php?vid=PE2v61SGGlg&abt=Th%E1%BA%BF+Gi%E1%BB%9Bi+%C4%90%E1%BB%9Di+S%E1%BB%91ng+Mu%C3%B4n+Lo%C3%A0i

biết mà ko nói sớm

mai tui đi đưa nail cho người ta làm

Grinning-face-with-smiling-eyes4


RE: Linh Tinh - Mi. - 2021-05-04

(2021-05-03, 03:04 PM)LeThanhPhong Wrote: Bài học: Tulip4 Heavy-black-heart4  Cuộc đời quá ngắn để mà cứ sống trong hối tiếc, Heavy-black-heart4 Tulip4 vậy nên… hãy yêu thương người cư xử tốt với mình và cầu nguyện cho ai xử tệ. Cuộc sống này ta tạo nên nó chỉ 10%, còn 90% là tùy thuộc cách ta tiếp nhận nó!

-ST-
 

Cheer Winking-thumbs-up-smiley-emoticon Cheer


RE: Linh Tinh - LeThanhPhong - 2021-05-04

(2021-05-04, 05:40 PM)abc Wrote: biết mà ko nói sớm

mai tui đi đưa nail cho người ta làm

Grinning-face-with-smiling-eyes4

Happy-smiley-emoticon  Biết chuyện tào lao nữa.   Happy-smiley-emoticon


Bởi vậy LTP rất thích nghe Sư Toại Khanh giảng.  Bài nào của Sư cũng súc tích, nhiều chi tiết cho LTP học hỏi.

Trước đây, mỗi lần nghe Pháp, LTP tự nhủ: "Nếu nghe được một câu mới, hoặc được nhắc một câu thôi, mình cũng mãn nguyện lắm."

Cheer