Tất cả khổ đau đều đi ra từ Ngũ Uẩn, vậy cái gì là cộâi nguồn khai sinh Ngũ Uẩn? Với một suy tư đơn giản về Nhân Quả, hành giả sẽ tự thấy Phiền não chính là gốc rễ của Ngũ Uẩn và hai thứ phiền não căn bản tạo nên sự tồn tại của Ngũ Uẩn lại là Vô Minh và Tham Aùi.Nhưng hai phiền não này từ đâu mà có? Xin thưa rằng chúng khởi sinh từ sự ngộ nhận rằng Ngũ Uẩn là Hạnh Phúc. Chính từ cách nghĩ sai lầm nầy, trong từng ngày , tất cả chúng sinh mới nuôi dưỡng ý tưởng hưởng thụ, thưởng thức cái họ gọi là đời sống.Tất cả buồn vui trong đời chỉ nằm gọn trong Ngũ Uẩn dựa trên ý thức mù mịt của tất cả phàm phu.
Hành trình sinh tử của chúng ta được bắt đầu từ sự ngộ nhận về năm Uẩn. Không thấy được rằng chúng là những thứ đau khổ, ta sống hài lòng với các Uẩn của chính mình và rồi đối với năm Uẩn ở người khác. Ta vui sống với năm Uẩn vì không thấy chúng là Vô Thường. Chính sự Vô Minh này dẫn đến niềm vui đầu tư hạnh phúc của mổi người. Niềm vui đó chính là Tham Aùi trong năm Uẩn.Có thương, có thích người hay vật nào đo,ù chúng ta tự nhiên muốn ôm giữ chúng trong tay mình mãi mãi. Chúng ta sợ chết, cái chết của mình và những người thân thương. Chúng ta không dám nghĩ đến bất cứ sự mất mát nào. Và thế là chúng ta khổ. Vì không có chi trên đời là miên viễn thiên thu.Chẵng những thương thích, bám víu vào những thứ tốt đẹp, chúng ta cũng không muốn mất đi những thứ thật sự chẵng đáng gì nữa nhưng bản thân mình đã từng tự cho là vật sở hửu. Có bị tàn tật, bệnh hoạn đến mấy, không ai trong chúng ta muốn nhớ tới cái chết. Có dịp đi thăm những bệnh nhân thập tử nhất sinh, chúng ta sẽ càng thấy rõ điều đó.Sự ngộ nhận (Vô Minh) và niềm đam mê (Tham Aùi)â của chúng ta đối với năm Uẩn sâu kín và nghiêm trọng quá.Năm Uẩn có ra sao thì chúng ta vẫn không thể có được tâm niệm xả ly đối với chúng được. Chỉ riêng với Sắc Uẩn cũng đã là phần lớn vấn đề nhức nhối trong cuộc đời này rồi. Nó giống hệt như một bệnh viện luôn có đủ những hình ảnh , cảm giác quằn quại của đời sống.Nhưng con đường quán niệm đau khổ không chỉ dừng lại ở những bàn bạc về cái khổ.Chỉ thấy ra cái đau khổ, cái mặt trái của năm Uẩn, cũng vẫn chưa đu,û vì liệu chúng ta đã hiểu biết được gì về Vô Minh vá Tham Aùi. Hành giả tu tập Tuệ Quán đúng mức luôn sợ hãi, chán ghét năm Uẩn như nhìn ngắm một người đao phủ vậy. Vị ấy hiểu rằng Khổ Đau và Ngũ Uẩn chỉ là một.Cho dù chung ta có đủ phước duyên để tái sinh về các cảnh giới Dục Thiên, Phạm Thiên thọ mạng lâu dài đến mấy rồi chắc chắn cũng phải đến lúc đọa lạc và tiếp tục quẩn quanh trên khắp nẻo luân hồi khổ nhiều vui ít. Con đường duy nhất để chấm dứt sự hiện hửu của năm Uẩn phải là sự nhàm chán, kinh cảm đối với chúng. Và một điều tất yếu là khi nhàm chán Ngũ Uẩn, chúng ta mới có ý hướng chứng ngộ Niết Bàn.Nói gọn lại, do nhìn thấy những đau khổ trong sự tồn tại của năm Uẩn, hành gia ûkhông còn tiếp tục muốn kéo dài sự sinh tử và chính từ nhận thức này, tâm tư vị ấy xem như đã nhất hướng Niết Bàn. Và khi có lòng chối bỏ Ngũ Uẩn, thấy việc tái sanh là đáng sợ thì việc giải trừ phiền não xem ra mới có cơ may thành tựu.
Như vậy cái gọi là Phiền Não ở đây ám chỉ cho lòng ham muốn tái sanh. Khi nhàm chán tái sanh thì con đường dẫn đến Niết Bàn đã nằm ngay phía trước. Vì nhàm chán tái sinh cũng có nghĩa là nhàm chán tất cả cảnh giới tái sanh ,bởi không có cảnh giới nào trong 31 cõi lại không có sự tồn tại vô thường của các Uẩn(dù là cõi Nhất Uẩn, Tứ Uẩn hay Ngũ Uẩn). Cứu cánh Niết Bàn hay hành trình sinh tử chỉ là sự chọn lựa của tất cả chúng ta mà thôi.Còn ham thích sinh tử thì tiếp tục tái sinh, sợ hãi Ngũ Uẩn thì tâm hướng Niết Bàn.Khi tâm hướng Niết Bàn thì các phiền não cũng sẽ tự có khuynh hướng suy giảm.Đó chính là con đường tu chứng theo phương pháp quán niệm đau khổ thuận ứng với nguyên lý Nhân Quả tự nhiên.
Có một vấn đề vô cùng quan trọng mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây là pháp môn Tuệ Quán luôn đem lại cho hành giả những niềm an lạc đặïc biệt vốn không thể tìm thấy ở bất cứ thứ khoái lạc vật chất nào.Đó chính là sự nhẹ nhàng, yên tĩnh , thanh thản, không sợ hãi,... mà thực ra chúng cũng chỉ là những biến tướng của Ngũ Uẩn mà thôi. Bởi khi còn có bất cứ CÁI GÌ ĐÓ tồn tại , dù là Khổ Vui Tốt Xấu, thì có nghĩa là Ngũ Uẩn vẫn tiếp tục hiện hửu. Mà đã là Ngũ Uẩn thì chắc chắn đó không phải là cứu cánh hành giả hướng đến. Cạm bẩy nguy hiểm cho một hành giả Tuệ Quán chính là niềm đam mê vào cảnh giới nội tâm thanh tịnh mà mình đang từng phút trãi qua và cho đó là hạnh phúc Niết Bàn. Hậu quả đơn giản là hành giả đã từng bước âm thầm quay lại với niềm đam mê trong Ngũ Uẩn lúc nào không hay. Còn cứu cánh Niết Bàn thực sự thì lúc này đã là nghìn trùng xa cách. Nói vậy có nghĩa là một khi còn âm thầm thích thú Ngũ Uẩn, chưa thật sự nhàm chàn chúng, thì chính lòng tham ái đó sẽ dẫn dắt chúng ta vào nẻo luân hồi tiếp tục.Tùy theo trình độ nội tâm mà mỗi người đi vào một cảnh giới tái sinh khác nhau: Người chứng đạt và duy trì được các tầng Thiền Định thì sinh về các cõi Phạm Thiên cao thấp tùy theo cấp độ thiền chứng bản thân. Những ai không chứng được Thiền Định thì cứ theo nghiệp lực cá nhân mà sinh vào các cõi Dục Giới lạc cảnh hay đọa xứ.Hành giả hiểu được nổi đáng sợ trong các nẻo luân hồi, xem Tam giới như hố than hừng thì mới có hi vọng giải thoát phiền não và chấm dứt sinh tử.
Trong cái gọi là Tam giới này tuyệt đối không có một nơi nào nằm ngoài sự đau khổ, có điều là ở mỗi cảnh giới có hình thức đau khổ khác nhau mà thôi. Bỏ đi sự đau khổ thì Tam giới chẵng còn gì nữa. Phần lớn chúng sinh không hiểu được điều đó chính do sự che khuất của Vô Minh. Muốn chấm dứt Vô Minh phải có Trí Tuệ và con đường duy nhất đưa đến trí tuệ này chính là pháp môn Tuệ Quán tức Tứ Niệm Xứ. Nói cách khác, muốn chấm dứt đau khổ thì nhất thiết phải có trí tuệ để quán niệm nó và nhờ vậy mới có thể thoát khổ.
Dù với một người hành giả sơ cơ hay thuần thục cũng nên nhớ rằng muốn thoát khổ vĩnh viễn ,chúng ta chỉ có mỗi một con đường duy nhất là quán niệm tất cả đau khổ trên sự tồn tại của Ngũ Uẩn để từ đó mới hiểu được Khổ Đế. Tất cả những cách quán niệm đau khổ không đúng với diệu lý Khổ Đế đều không thể là con đường thoát khổ.Do đó, sự nhìn ngắm Ngũ Uẩn xưa nay vẫn được xem là con đường chứng ngộ Khổ Đế, con đường giải thoát.Chính đức Phật cũng từng dạy rằng Khổ Đế là cái cần được thấy rõ, nhưng từ vô thủy tiền thân chúng ta đã cố tình nhắm mắt không chịu nhìn thấy.
Đến đây thì tôi muốn quay lại với phương thức quán niệm đau khổ và công việc đầu tiên mà hành giả phải làm chính là quán niệm Khổ Thọ.Các ngài chuyên tu Tuệ Quán đều khuyên ta nên quán niệm Khổ Thọ ngay trong từng tư thế Đi Đứng Nằm Ngồi của mình bằng những chú ý tinh tế : Ta đang thay đổi oai nghi (tư thế), ta thay đổi tư thế khác vì tư thế cũ đã quá lâu, ...
Các ngài dạy rằng sở dỉ chúng ta không thường xuyên nhìn thấy được sự đau khổ thường trực của chính mình là vì chúng ta không chú ý đến các tư thế sinh hoạt của bản thân để quán niệm Tam Tướng trong đó. Va con đường dẫn đến Niết Bàn chắc chắn không thể nằm ngoài công phu quán niệm Tam Tướng theo đúng phương thức (thấy rõ Vô Thường Tướng qua 10 khía cạnh, Khổ Tướng gồm 25 khía cạnh và Vô Ngã Tướng gồm 5 khía cạnh ) mà gom chung là 40 khía cạnh cần quán niệm trên Ngũ Uẩn. Nói vậy thì ở cả hai pháp môn Chỉ Quán có đến 80 án xứ. Chúng ta có thể lấy tất cả án xứ thiền Chỉ để làm án xứ Tuệ Quán. Tôi biết có người sẽ lấy làm lạ khi nghe tôi nói vậy, ở đây tôi chỉ nói vắn tắt là bất cứ đề mục thiền Chỉ nào khi ta muốn nhìn ngắm nó như một đối tượng quán niệm theo tinh thần Tứ Niệâm Xứ thì hoàn toàn không có vấn đề gì là không được.
Tất cả lời dạy của đức Phật đều đòi hỏi một khả năng trí tuệ cần thiết để lắng nghe .Một người có đủ túc duyên chỉ cần nghe qua Phật pháp một lần cũng có thể lãnh hội trọn vẹn những gì là cần thiết cho một trí tuệ giác ngộ. Chỉ từ một câu nói ngắn gọn, họ có thể thấy rõ Tam Tướng, nhàm chán Ngũ Uẩn và chấm dứt phiền não. Riêng đối với phần đông chúng ta do thiếu duyên Ba La Mật nên khi nghe Phật pháp có thể không đủ sức lãnh hội tinh tường, chỉ nắm bắt được một ít không đủ để thấu đáo đúng mức. Một phần cũng do phiền não của chúng ta nhiều quá nên chúng che khuất trí tuệ.Với ai cũng vậy thôi, khi phiền não được vơi giảm thì khả năng giác ngộ sẽ mạnh mẽ hơnCó thể nói rằng tất cả vấn đề tu chứng của chúng ta chỉ nằm ngay công phu quán niệm đau khổ trong năm Uẩn. Phiền não nào cũng đi ra từ sự đam mê trong năm Uẩn. Thấy được cái khổ trong năm Uẩn là thấy được Khổ Đế. Thấy được Khổ Đế thì cũng sẽ thấy đủ Tứ Đế. Và như đã nói, công phu quán niệm đau khổ được bắt đầu từ việc quan sát các oai nghi (tư thế sinh hoạt thường nhật) để từ đó thấy ra những khía cạnh Vô Thường, Khổ Não, Vô Ngã. Tùy theo cơ tánh mỗi người mà các oai nghi được ghi nhận rõ ràng từ khía cạnh nào trong Tam Tướng. Một trong những lý do các ngài khuyên ta bắt đầu quán niệm đau khổ từ các oai nghi là cũng vì phương thức này tương đối dễ dàng cho những người thiếu tuệ căn. Có quan sát các oai nghi ,ta mới có cơ hội thấy được Khổ thọ trong oai nghi cũ và thấy được cái gọi là Hành Khổ trong oai nghi mới. Rõ ràng là chúng ta luôn sống trong đau khổ vì phải luôn giải quyết cái khổ này bằng một cái khổ khác. Ở đây là dùng Hành Khổ( sự thay đổi oai nghi mới) để giàn xếp Khổ thọ (trong oai nghi cũ). Cứ theo ví dụ ở trước, thì Hành Khổ giống như viên y tá và Khổ Thọ thì giống như bệnh nhân.Mặc dù nói một cách chính xác, thì ngay trong từng oai nghi đều luôn có sự đau khổ nhưng chúng có thể vì quá vi tế nên ta không nhìn ra. (Ngồi lâu quá thì đau lưng , phải thay đổi tư thế khác và thường thì nhờ vậy ta nghe dễ chịu hơn.Nhưng thật ra ngay trong tư thế vừa được thay đổi ấy vẫn có khổ thọ tồn tại). Có quan sát các oai nghi ,ta sẽ thấy ra một điều tuy bình thường nhưng rất sâu sắc đó là hầu như lúc nào ta cũng sống trong sự đối kháng, đề phòng đau khổ. Từ những sinh hoạt nhỏ nhặt như co tay ,duỗi chân, xoay trở thân hình, đến viêc ăn uống tiêu tiểu,... đều chỉ để mình tránh được một cảm giác khó chịu nào đó.Thậm chí có lúc ta ăn không phải vì đang đói, nằm yên không hẳn vì đang mỏi,...ta làm thế chỉ vì nghĩ đến một Khổ thọ có thể xuất hiện!
Khả năng tỉnh giác trước Hành Khổ trong từng oai nghi như vậy xem ra là một bước đi cao hơn việc quán niệm Khổ thọ trong các oai nghi nữa. Hành giả làm gì cũng ý thức rõ ràng là mình đang giàn xếp khổ thọ của bản thân.Khổ thọ tác động lên từng sinh hoạt của chúng ta. Khi khổ thọ tạm thời lắng yên thì nhịp sinh hoạt của chúng ta cũng bình hòa, thư thả hơn. Vậy thì công án được đặt ra cho hành giả là ở mỗi động tác,tư thế sinh hoạt lớn nhỏ, vị này cần quán niệm rằng Ta đang giải quyết nổi khổ đau của bản thân bằng một nổi khổ khác, đó chính là Hành Khổ, ở đây là sự chuyển đổi các oai nghi.
Lý thuyết đơn giản như vậy, nhưng trong thực tế, việc quán niệm oai nghi cũ và mới hoàn toàn khác nhau. Ở oai nghi cũ, ta quán niệm khổ thọ nhưng ở oai nghi mới thì ta lại phải tỉnh giác để thấy rõ sự hiện diện của Tham ái. Nói cho đúng thì oai nghi nào cũng là một tư thế, nhưng khi một tư thế kéo dài quá lâu, ta sẽ thấy nó là sự đau khổ và tư thế mới cũng chỉ là một tư thế nhưng tạm thời nó giúp ta chút thoải mái nên ta ngộ nhận nó là sự an lạc và tham ái xuất hiện. Không tu tập Tuệ Quán, chúng ta sẽ không có dịp hiểu ra nhiều vấn đề như vậy trong mỗi oai nghi của mình. Chúng ta thường có sân tâm đối với oai nghi cũ và có tham ái trong oai nghi mới. Đau khổ và phiền não đan xen, hòa quyện trong từng sinh hoạt lớn nhỏ của chúng ta.Như vậy trong công phu quán niệm oai nghi, sự Như Lý Tác Ý (khéo suy tư) đóng vai trò quan trọng bậc nhất.Chẵng riêng gì pháp môn Tuệ Quán, ở phép tu thiền Chỉ cũng đòi hỏi ở hành giả khả năng lưu tâm hay để ý đúng mức (Yonisomanasikàra) để cuộc tu từ đó mới may ra có được kết quả. Trong pháp môn Tuệ Quán ,chính sự Tác Ý đúng đắn đem lại cho hành giả một trí tuệ cần thiết . Đó là trí tuệ thấy ra được sự khổ đau trong năm Uẩn. Khi khả năng Định Lực của hành giả Tuệ Quán được vững vàng rồi, thì Khổ thọ của vị này cơ hồ không còn nữa và đến lúc đó việc quán niệm Hành Khổ cũng bắt đầu khó khăn hơn vì khi Khổ thọ lắng yên thì nhu cầu sinh hoạt (Đi, Đứng, Nằm, Ngồi,...) của hành giả cũng tự hạn chế tối đa. Đồng thời trong nội tâm hành giả lúc này Tuệ Căn hầu như đã được thế chổ bằng Định Căn và chức năng Nhìn Thấy dỉ nhiên chỉ có qua Tuệ Căn. Cái gọi là sự khổ trong thân tâm hành giả lúc này lại càng vi tế hơn trước nên việc quán niệm càng khó khăn hơn.Trong công phu tu tập Tuệ Quán có một vấn đề quan trọng là đừng bao giờ có ý trốn chạy khổ thọ (trong thực tế có những hành giả mong mỏi sự quán niệm sẽ làm vơi giảm khổ thọ).Và làm vậy có nghĩa là chúng ta bỏ đi cơ hội nhìn thấy cái Vô Ngã của Danh Sắc rồi.Cứ tự nhiên nhìn ngắm nó biến chuyển mới thấy bản chất thật sự của nó ra sao. Việc cần thiết và cũng đơn giản đối với một hành giả là nhìn thấy rõ ràng mọi cảm thọ với sự chú ý tinh tế để thấy chúng đến và đi như thế nào. Chúng luôn thay đổi (vô thường) và dỉ nhiên không nằm trong sự điều khiển hay mong mỏi của ta (vô ngã). Và như ta đã biết , sự quán niệm Tam Tướng đối với năm Uẩn chính là con đường dẫn đến thánh trí. Điều đặc biệt là chỉ cần thấy được một trong ba Pháp Ấn (Vô Thường, Khổ, Vô Ngã) thì sẽ thấy luôn hai khía cạnh còn lại. Khi thấy rõ ràng bản chất của Thọ Uẩn (cảm giác của thân tâm, một trong năm Uẩn ) thì hành giả cũng sẽ thấy được bản chất của các Uẩn còn lại. Và hãy nhớ rằng trong cả 89 tâm , không tâm nào là không có cảm thọ. Do đó ,việc quán niệm về cảm thọ rất quan trọng và sâu sắc. Đồng thời, điều tối quan trọng mà hành giả cần ghi nhớ là trong suốt cuộc tu Tuệ Quán, đừng bao giờ có ý muốn Tránh Khổ Tìm Lạc khi đối diện với các cảm thọ. Việc đi tìm hạnh phúc trong những đau khổ, hay muốn điều khiển những thứ vô ngã đều là những ảo vọng mà thôi.
Tôi nghĩ rằng cuộc nói chuyện của tôi đến đây cũng tạm vừa đủ với thời giờ, nên xin được kết thúc. Quí vị nào có điều nghi vấn xin hãy chuẩn bị câu hỏi cho cuộc nói chuyện lần sau của tôi.