TAM BỘ NHẤT BÁI
Hồi ký của Hằng Cụ ( Heng Ju )và Hằng Do (Heng Yo)
(Xin cảm ơn T Chan Ngo đã gởi bài hay chia sẻ)🙏
1-Lời Tựa
Ngày xưa những bậc Tiền Bối Thánh Hiền tại các nướcĐông Phương thường biểu hiện sự nguyện cầu thành kính của mình qua những nghi thức gian khổ như "Tam bộ nhất bái" (đi ba bước lạy một lạy). Ngày nay chúng ta đang ở vào thế kỷ hiện đại, đầy dẫy vật chất dục lạc, thế mà lại xuất hiện những tâm hồn cao thượng hiếm hoi, đã quan tâm đến vận mạng chúng sanh, không quản ngại khó nhọc, học theo hạnh người xưa thực hiện theo nghi lễ ba bước một lạy hầu cầu nguyện cho thế giới hòa bình.
Vào những năm chiến tranh bùng nổ, nhiều dân tộc trên thế giới đã phải chịu nhiều cảnh ly tan tử biệt. Việt Nam một quốc gia nhỏ bé cũng không tránh khỏi cảnh loạn lạc lầm than, khiến dư luận xôn xao một thời. Trong những lúc khổ đau cùng đường tuyệt vọng, tinh thần sa sút, người ta chỉ còn một cách duy nhất là cầu nguyện. Đây cũng là lúc lòng tín ngưỡng tôn giáo của mọi người được phát triển một cách mạnh mẽ .
Qua tập truyện hồi ký sinh động nầy, độc giả sẽ cùng hai vị Sư người Mỹ, đệ tử của một Hòa Thượng Trung Hoa là Ngài Tuyên Hóa, thực hành một chuyến bái hương 10 tháng từ San Francisco đến Seattle. Một Thầy phát nguyện đi ba bước một lạy, để cầu nguyện cho hòa bình thế giới, một Thầy phát tâm đi theo hộ trì. Trên khoảng đường hơn một ngàn dặm, quý vị cùng chia sẻ với hai Thầy những đêm đen gió rét, những mưa bão hiểm nguy, hay những trưa hè oi bức, những lời chọc phá, và cũng sẽ thông cảm với những lúc tâm tư phiền não khởi lên từ những tập khí phàm tình. Cho thấy rằng dù phải đối diện với bao thử thách khó khăn, nhưng hai Thầy cũng vẫn dũng mãnh quyết tâm hoàn thành ý nguyện. Hai Thầy đã không quản ngại bao cực khổ, biết nhận khuyết điểm bản thân, và không hề lung lạc bởi những lời chỉ trích phản đối, hay những thuyết phục chuyển đạo. Chuyến bái hương nầy đã nói lên lập trường cứng rắn, và tinh thần tu tập sửa đổi theo chánh đạo của hai Thầy. Ôi! Cả hai nghĩa cử thật đáng quý, thật cao thượng biết bao! Những việc mà chúng ta còn không dám nghĩ đến huống chi là ra công thực hiện.
Chúng ta còn cảm nhận được lòng từ kính, giáo dưỡng chân chánh tu hành của một bậc làm Thầy đã tận tụy tâm sức, khuyến khích, dẫn dắt đám đệ tử cho đến khi viên thành ước nguyện. Ngoài ra chúng ta cũng khó quên những kỷ niệm răn nhắc thâm trầm đượm đầy tình nghĩa thầy trò. Nhờ ảnh hưởng đức hạnh của Ngài mà tánh tình các đệ tử Mỹ cũng thay đổi trong sự kính phục sâu xa.
Tam Bộ Nhất Bái được diễn tả qua lối thiền quán, phương pháp dụng công của hành giả, hầu dẹp tan mọi vọng tưởng, để nhất tâm chí thành cầu nguyện cho thế giới bình an. Thật lý thú để biết các phản ứng của mọi người khi chứng kiến việc cầu nguyện - ba bước một lạy - một hành động rất đổi xa lạ đối với dân Tây phương trên xứ Mỹ nầy.
2-Lời Giới Thiệu Của Hằng Cụ
Cuối năm 1973, do nhiều nhân duyên đưa đến khiến tôi quyết định thực hiện một chuyến bái hương. Phần vì trước đây tôi được nghe câu chuyện của một lão Thiền sư Trung Hoa, Hòa Thượng Hư Vân, người đã trải qua chuyến bái hương bằng đường bộ xuyên ngang lục địa Trung Quốc vào khoảng cuối thế kỷ 20. Trong khi đi, cứ mỗi ba bước Ngài cúi đầu sát đất lạy một lạy và cứ thế kéo dài trong suốt sáu năm trời. Kết quả là Ngài đã Tam Bộ Nhất Bái tổng cộng được ba ngàn dặm đường (tức là hơn bốn ngàn tám trăm kí-lô-mét). Nếu so ra thì bằng khoảng chiều ngang của Trung Quốc. Trong suốt cuộc hành trình nầy, Ngài đã phải đương đầu với bao thử thách khó khăn, cũng như phải cam chịu những cảnh khổ sở vì đói khát và lạnh lẽo, nhưng Ngài không bao giờ thối chí. Cuối cùng Ngài đạt đến cảnh giới "nhất tâm." Nghĩa là Ngài có thể làm dừng lại tất cả những vọng tưởng lăng xăng, và cảm được tâm tĩnh lặng sáng suốt mà trước đây Ngài chưa bao giờ chiêm nghiệm được. Chuyến bái hương nầy cũng đã ảnh hưởng thật sâu sắc đối với những người Ngài đã gặp.
Câu chuyện về cuộc hành trình của lão Hòa Thượng Hư Vân là mối duyên khởi tiếp tục nẩy nở trong tôi. Tôi lại sẵn có bản tánh ưa thích mạo hiểm, cho nên sau nhiều năm làm cư sĩ rồi xuất gia ở một tu viện Phật Giáo, tôi cảm thấy đã đến lúc sẵn sàng để làm một chuyện thay đổi nho nhỏ. Cho nên kể từ đó, tôi bắt đầu có ý nghĩ thực hiện một chuyến bái hương ngay nơi nước Mỹ.
Lịch sử thế giới có ghi lại rất nhiều chuyến hành hương về tôn giáo. Hầu hết sự phát khởi của những chuyến đi nầy là vì đương thời đang có nhiều cuộc đấu tranh và tình trạng đạo đức đang bị suy đồi, nên con người tìm cách để biểu lộ tư tưởng, để diễn tả lòng tín ngưỡng của họ. Rồi có những vị dần dần đạt đến sự an lạc và tỉnh giác, họ tìm cách chia sẻ những kinh nghiệm đó với nhân loại. Vì vậy, khắp trên thế giới đã có vô số chuyến hành hương: bằng ngựa, đường bộ, hay bằng xe buýt, gồm từng nhóm đông hoặc từng cá nhân. Tôi cảm thấy hoàn cảnh đã đến lúc chín muồi, và đây là dịp để tôi góp phần vào một đại nhân duyên: Cầu cho thế giới hòa bình.
Đây cũng là cơ hội thật tốt khiến tôi tăng tiến trên đường tu tập Phật Pháp. Vì trong lúc thân quỳ lạy trên đường cầu nguyện cho thế giới hòa bình, tâm tôi cũng nguyện luôn cố gắng giữ vững hạnh Lục Độ của Bồ Tát: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ. Càng nghĩ, tôi càng quyết tâm hơn.
Tôi không nói cho ai biết về quyết định chuyến lễ bái nầy, vì nghĩ việc nầy chẳng có dính líu với ai hết thì cần gì phải nói chứ? Cho đến ngay cả Sư Phụ tôi cũng không thưa qua.
Rồi khoảng đầu tháng mười, vào một đêm khi mọi người đã yên giấc, tôi chuẩn bị túi hành trang gồm vài cuốn sách, thức ăn, quần áo và bắt đầu lạy từ cửa chùa ra ngoài, dọc theo con đường 15, cách lề đường khoảng một tấc. Tôi bước ba bước dài rồi cúi quỳ đặt hai tay và đầu sát đất. Lúc bấy giờ trời thật tối, nền đường xi măng thật lạnh, đường phố lại vắng tanh, khiến tôi cảm thấy hơi kỳ hoặc.
Túi hành trang nặng khoảng ba chục pound (hơn 13 ký rưỡi) lại là vấn đề trở ngại, vì cứ đến mỗi bước thứ ba là tôi phải liệng nó ra phía trước thì mới có thể cúi lạy xuống được. Tuy nhiên với cách lạy nầy khiến tôi hăng hái vô cùng, vì đây là một cuộc luyện tập quá sức tưởng tượng. Tôi lạy đều đặn để tiến nhanh trên quảng đường và cũng để có thêm kinh nghiệm càng nhiều càng tốt trước khi trời sáng.
Lạy được một lúc, các động tác hình như đã thuần thục, nhưng trong thâm tâm thì còn đầy những ý nghĩ lảng vảng như:
"Trời ơi! Trong đời mình đã từng làm những chuyện lạ đời khó giải thích, nhưng lần nầy mới thật là gay go nhất."
Tôi tiếp tục lạy, quẹo mặt trên đường Dolores, băng qua đường Market, xuyên ngang bãi đậu xe của siêu thị Safeway rồi tiến về phía cầu Golden Gate. Trời vừa sáng thì tôi đã vào đến trung tâm khu Do Thái vùng Tenderloin. Thành phố như đang bừng sống dậy. Tôi cũng nhận ra sự hiện diện của cảnh sát vùng San Francisco, hình như họ đã theo dõi tôi qua nhiều con đường. Tôi cũng tưởng tượng được họ đang nghĩ gì về mình.
Đến trưa thì lên tới đỉnh đồi Russian. Tuy lúc bấy giờ có rất nhiều người đã nhìn thấy, nhưng chưa có ai nói gì đến tôi cả. Đa số là họ chỉ biết há miệng, nhướng mắt nhìn tôi châm bẳm. Có một bà đang lái chiếc Chrysler màu trắng, vừa chạy ngang qua tôi ở giữa ngã tư đường, bỗng thắng gấp và la lên:
"Ối, Chúa tôi!"
Tôi cố hết sức để tập trung tinh thần, đồng thời gạt bỏ những cơn xấu hổ và tiếp tục tiến lên lề đường. Lúc nầy trong tận cõi lòng tôi ẩn chứa những cảm xúc hỗn độn, những tư tưởng rời rạt, rồi chợt lóe lên một tiếng cười bẽn lẽn.
Sau bữa trưa qua loa với cơm nguội và rau dại mọc bên lề, tôi tiếp tục lạy xuống đồi Russian. Đến chiều tối thì tới công viên nhỏ gần phía vào cổng cầu Golden Gate. Vậy là tôi đã lạy được năm miles (khoảng 8 km).
Cảm thấy mệt quá nên tôi tìm một gốc cây để dựa lưng, nhưng lại ngủ liền tức khắc. Được khoảng vài giờ, sau khi thức dậy, tôi cảm như không phải là mình trước đây nữa, vì toàn thân như đã kiệt quệ không còn sức lực. Lúc nầy lòng tôi tràn đầy mối kinh hãi. Trước đây tôi cũng đã từng có những cảm giác lo sợ, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy quá căng thẳng như bây giờ. Thật không thể nào tiếp tục được như vầy nữa. Tôi ngước nhìn về cái hồ nhỏ phía trước, có những con ngỗng đang bơi lội, chung quanh là những bụi cây xinh xắn, xa xa có những cặp tình nhân tay trong tay dạo quanh bờ hồ. Ôi! đã ba mươi tuổi đầu mà tôi đã xa rời thực tại như thế nầy! Sao tôi lại có thể đi ngược lại với nếp sống bình thường? Quỳ lạy cho hòa bình thế giới! Một kẻ mất hồn như tôi làm sao có thể giúp cho thế giới hòa bình được chớ?
Ngồi đây với tâm trạng chán nản, trong bộ y phục theo kiểu triều đại đời Đường, với cái đầu mới cạo láng bóng, tôi bắt đầu hồi tưởng lại cuộc đời mình.
Tôi được sinh trưởng ở vùng Tây Bắc Thái Bình Dương. Mặc dầu được sanh ra trong một gia đình rất đàng hoàng, nhưng tôi luôn luôn là đứa bé hoang tàng nhất xóm. Nếu không thấy tôi ra ngoài gây lộn xộn phá phách, thì các vị có thể bắt gặp tôi đang bận đắm chìm trong thế giới mộng mơ. Nơi đó, trong những chuyến ảo tưởng, tôi thủ toàn những vai anh hùng nổi tiếng. Tôi đã thắng nhiều trận đua xe quốc tế. Có vô số lần tôi hạ ngã tên du côn ở trường trung học để giải cứu cô bạn gái của hắn, một người múa cổ võ (cheerleader) cho đội banh ở trường. Đã thế, tâm tôi lại cứ mơ mơ mộng mộng vẩn vơ, vậy mà tôi vẫn được tốt nghiệp trung học một cách thành công không khó nhọc chi cả.
Sau khi tốt nghiệp trung học, tôi đánh liều đăng ký sáu năm vào ngành phục vụ cho tàu ngầm (Tiềm Thủy Đĩnh) Hải Quân Hoa Kỳ ở vùng Thái Bình Dương. Tàu tôi với biệt danh là U.S.S. Rock (Khối Đá), đã từng qua lại những hải cảng ngoại quốc dọc theo vịnh Thái Bình Dương, nhờ vậy tôi có dịp thực hiện được một số kế hoạch cuồng dại nhất. Tôi làm việc trong phòng máy rất chật hẹp và nóng bức, với trách nhiệm duy trì ba mươi tấn dầu GMC Diesels và hai bình lọc Badger cũ rít để máy chạy điều hòa. Đôi lúc tôi đóng vai thợ lặn dưới gầm tàu bọc sắt nặng khoảng hai ngàn tấn để làm những cuộc sửa chữa lý thú. Tôi thật thích cuộc sống trong chiếc tầu ngầm nầy, nhưng những ngày cuối tuần lên bờ lại là những ngày suy đồi của tôi. Trong bản báo cáo của các sĩ quan trong ban chấp hành đã viết:
"Anh Tim Testu thật là một nhân viên rất hữu ích cho cả đoàn tầu, nhưng bù vào những phục vụ xuất sắc đó lại là những hạnh kiểm đáng sợ của anh ta lúc lên bờ."
Có lần tôi cùng anh Frank Messerli, sau một đêm dài nhậu toàn rượu mạnh, chúng tôi rủ nhau ăn cắp chiếc ca-nô của hạm đội hải quân thuộc hoàng gia Phi Luật Tân. Khi đang trên đường ra khỏi hải cảng, chúng tôi mới thấy có hai chiếc tàu thủy lôi đang rược đuổi theo sau. Cũng hên là chúng tôi đánh lạc hướng họ bằng cách lái thẳng ra vùng nước cạn. Lúc chúng tôi đem chiếc ca-nô nhỏ đó về đến bến thì thấy có khoảng năm chục ông cùng nhiều vị sĩ quan mặt mày hầm hầm, chờ sẵn chúng tôi từ lúc nào. Tôi không nhớ là mình đã lèo lái ra sao, nhưng chiếc ca-nô đã vọt hết tốc lực vô gần sát bờ rồi lại cấp tốc vụt quầy trở ra. Lúc đó chiếc ca-nô nhỏ bé rúng động, kêu vang ỏm tỏi, phun ra luồng khói đen lớn lan trùm cả một vùng nước xanh trong vắt. Cuối cùng nó dừng lại thật tuyệt hảo, chỉ cách hải cảng vài phân. Mấy anh trên bờ khoái chí hoan hô ầm ĩ, trong khi mấy ông sĩ quan không có vẻ gì là hoan hỉ. Rốt cuộc ngay hôm đó, chúng tôi bị kêu án hai tháng tù giam. Đó là một kiểu trốn đi chơi thôi. Nhưng bù vào, tôi lại nổi bậc trong trách nhiệm phận sự, nên có hồ sơ rất tốt về vấn đề phục vụ và được giải ngũ trong danh dự vẻ vang.
Sau khi trở về Mỹ, tôi hòa vào cuộc sống ồn ào, hỗn độn của cuối thời đại sáu mươi. Tôi học thêm chút ít ở đại học, sau đó thì làm đủ nghề như: thợ mộc, thợ máy đường rầy, thợ lặn, và ngay cả làm đầu bếp nấu ăn cho một nhà hàng **** "hở hang" (từ trong nhà bếp tôi chẳng thấy gì cả). Tôi làm việc cũng khá lắm, nhưng trong lòng lúc nào cũng nặng quằng một nỗi cô đơn, chán nản. Rồi tôi buông mình vào hút sách, bị thất nghiệp và kết bạn với những kẻ không ra gì. Cũng may, không bao lâu tôi thoát ra được lối sống đó, rồi gia nhập vào một cộng đồng có lối sống vô trật tự gần chân núi Rainier ở Washington. Sáu tháng trời sống tại đó, tôi đã không màng gì đến thế giới bên ngoài, cho đến khi cả cộng đồng bị cơn hỏa hoạn cháy rụi.
Khi tôi hai mươi lăm tuổi, nỗi u uẩn trong lòng dâng đến cao điểm, may thay tôi tìm được một ngôi chùa nhỏ ở San Francisco, nơi Phật Giáo đang được truyền vào nước Mỹ. Tôi như đang đi vào một hang động chứa toàn bảo vật, mà hang động đó chính là tâm thức tôi, còn bảo vật kia chính là giáo pháp đa dạng. Điều quan trọng nhất là tôi đã tìm được một vị Thầy tài đức thật sự. Đó là một lão Thiền sư Trung Hoa, cũng là vị Tổ kế thừa Tông Thiền Quy Ngưỡng. Ngài đã truyền vào xứ Mỹ tất cả những thuần túy của Phật Giáo Đại Thừa gồm: Giáo Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông, Luật Tông và Thiền Tông. Tôi thấy được Ngài là vị gương mẫu sống động, với đầy đủ những phẩm hạnh cao quý, không những chỉ ở Phật Giáo mà còn gồm cả Lão và Khổng giáo nữa.
Trong buổi đầu tiên diện kiến Sư Phụ, lòng tôi dồn dập dâng trào những tình cảm vô cùng hỗn tạp. Theo giáo pháp của Ngài, là dù ở bất cứ trong trường hợp nào cũng đừng để tâm bị chi phối hay lay chuyển. Nhưng qua thái độ của Sư Phụ, Ngài như đã hiểu thấu tận tường những nỗi suy tư trong lòng tôi, khiến tâm tôi được dịp bộc phát tuôn trào như vòi nước. Lúc đầu, sự xúc động tuôn ra thật hừng hực, nóng bỏng, rồi mới từ từ nguội lạnh dần. Lòng tôi cảm thấy yêu thương chan chứa và kính phục Sư Phụ vô cùng. Trí huệ của Sư Phụ cùng lòng từ bi, tánh vui vẻ, khéo léo, đúng giờ giấc, sự am tường về bản tánh của con người, cộng thêm cái nhìn thấu triệt sự vật và những khả năng diệu dụng không thể nghĩ bàn khác, đã khiến Ngài nổi bậc hơn so với những vị thầy khác ở nước Mỹ. Điều đó không có gì thắc mắc cả.
Theo truyền thống, vào mỗi buổi tối Sư Phụ đều thuyết pháp, những gì chúng tôi được nghe thật là tuyệt diệu không thể nghĩ bàn. Nơi đó, trong căn phòng thoang thoảng mùi hương, với khoảng trên dưới ba mươi người, tôi đã nhiều lần cảm nhận được mùi vị pháp hỷ đến rơi nước mắt. Lần đầu tiên trong đời, tôi đã gặp được một người hiểu rõ tận tường, thật sự quan tâm đến nỗi lòng u uẩn của tôi, lại là người có thể dẫn dắt tôi đến nơi cứu cánh rốt ráo.
Không bao lâu, rõ ràng là dù chuyện quá khứ, hiện tại hay tương lai gì đi nữa, Sư Phụ hầu như đọc được tất cả những tư tưởng lớn nhỏ của chúng tôi. Ngài rất ít khi rời khỏi hậu liêu, nhưng luôn luôn biết những chuyện đang xảy ra, để rồi đến giờ thuyết pháp Ngài lại đề cập đến. Phương pháp giảng dạy của Sư Phụ thật sâu sắc, như có thể xé tan bức màng đen tối, và giải quyết trực thẳng những vấn đề mà chúng tôi thường tự mình tạo nên. Đôi khi Sư Phụ cũng quở trách thật gắt gao.
Có lần Ngài bảo: "Ta không la rầy các con, ta chỉ quở mắng những bọn ma quỷ trong tâm các con mà thôi."
Phần lớn, Ngài dành rất nhiều thì giờ giảng dạy cặn kẽ về những căn bệnh của tham chấp, tính toán, rồi chỉ cách để chúng tôi đối trị.
Trong năm đầu tu học Phật Pháp, tôi đi làm nửa buổi với công việc phụ quét dọn cho một bệnh viện dưỡng lão Do Thái ở San Francisco. Vì mục kích những cảnh đau khổ, bịnh hoạn và chết chóc, tôi có ấn tượng thật mạnh mẽ về sự hư ảo của lối sống chỉ biết có mình. Thấy rất rõ người Tây Phương chúng tôi, mặc dầu rất am tường về cuộc sống, nhưng lại không biết gì về việc chuẩn bị cho sự ra đi, rời bỏ thế gian nầy. Chúng ta mãi lo ôm giữ hàng ngàn bảo vật huyễn hóa và đến phút cuối cùng, trong tuyệt vọng, cũng vẫn cố bám chặt vào chúng. Tôi cảm thấy đạo Phật có thể giúp chúng ta dự bị đúng đắn cho sự chuyển tiếp quan trọng nầy. Sau một năm làm cư sĩ, tôi phát nguyện xuống tóc thành chú Sa Di. Năm sau, 1972, tôi chánh thức thọ Cụ Túc Giới và trở thành một Tỳ Kheo Phật Giáo.
Nhờ sống ở chùa nên tôi dần dần thay đổi rất nhiều. Tôi bắt đầu ngủ ngồi và mỗi ngày chỉ ăn một bữa ngọ. Điều làm tôi ngạc nhiên là thực hành theo cách tu "khổ hạnh" nầy không đến nổi khó khăn như tôi tưởng, vì sau một thời gian thực tập đều đặn, nó tự nhiên trở thành thói quen. Tôi nghĩ chắc đó là lý do mà thiền tông nói: Khổ tận, cam lai - hết khổ đến vui. Trong chùa có nhiều vị còn tu khổ hạnh hơn tôi nhiều. Có vị chỉ ăn rau cải sống, có vị không đụng đến tiền bạc và có những vị hành trì theo những phương pháp khó khăn khác. Nhưng tất cả chúng tôi đều được học giáo lý của đức Phật từ những Tạng Kinh. Ngoài ra, hằng ngày chúng tôi cũng có thời khóa để hành thiền và chấp tác. Cuối năm 1970, chúng tôi dọn về một công xưởng làm nệm rất cũ kỹ thuộc vùng Mission, sau đó được sửa chữa lại thành Kim Sơn Thánh Tự như ngày nay .
Và bây giờ, sau ba năm ở chùa, tôi đã rời bỏ gia đình, nghề nghiệp và luôn cả giấc mộng tương lai lúc trước. Hôm nay tôi lại rời bỏ tu viện, bỏ cả Thầy, để thực hiện chuyến bái hương kỳ lạ nầy, hầu mong tìm đến một mục đích khó thành. Ngồi đây trong công viên nhỏ gần cầu Golden Gate với tâm trạng ngấm ngầm lo sợ, tôi không thể tưởng tượng nổi rằng, ngay từ lúc đầu sao mình lại có thể khởi sự được. Tôi cúi lượm túi hành trang, lủi thủi lê gót trở về chùa.
Tôi trở lại ngay với những hoạt động bình thường. Không một ai hay biết gì đến việc tôi đã vắng mặt. Tuy cố tìm vui vào các sinh hoạt ở chùa, nhưng tâm tư như cứ ở tận đâu đâu, cứ nghĩ mãi đến hình ảnh của ngày lễ lạy vừa qua. Mặc dù với bao vọng tưởng và những mối nghi ngờ, tôi cũng đã thực sự lạy được năm dặm đường. VớI chút kinh nghiệm đó đã cho tôi một ấn tượng sâu đậm tận cõi lòng, không sao diễn tả được. Sau đó chẳng bao lâu, tôi quyết tâm thực hiện một chuyến như vậy nữa.
Tuy nhiên, lần nầy tôi dự tính khôn ngoan hơn một tí và cũng bớt đi phần nào bí mật. Tôi tiết lộ nguyện vọng của mình với Sư Phụ, đồng thời cầu xin Ngài chỉ dạy và giúp đỡ. Mới nghe qua, Sư Phụ tỏ vẻ thích thú và hoan hỉ về ý nguyện nầy, rồi Ngài còn ban cho những lời khuyến khích, khiến lòng tôi tràn ngập niềm rung cảm với cái mà Thiên Chúa Giáo gọi là Thánh Linh ỐHoly Spirit. Sư Phụ dạy: Con đường tốt nhất để am tường các pháp là chịu đựng được những hạnh khó hành, "Làm những việc mà người khác không chịu làm, nhẫn những chuyện mà không ai nhẫn nổi, tất cả chỉ có vậy thôi!" Sư Phụ đề nghị tôi nên chờ hai tuần nữa để khởi sự vào ngày 16 tháng 10. Rồi một buổi tối vào giờ giảng pháp, Sư Phụ thông báo nguyện vọng của tôi, trong bầu không khí im lặng, sự nghiêm trọng như phủ xuống cả căn phòng. Khi Sư Phụ nói:
Hằng Cụ sẽ thực hiện chuyến bái hương một ngàn dặm để cầu cho hòa bình."
Nghe vậy tôi cảm thấy hớn hở làm sao. Lời Ngài tuyên bố như một ủy quyền mạnh mẽ, ra vẻ như bảo đảm một sự thành công. Kể từ đó, tâm hồn tôi như rơi vào cảnh giới thật thư thái và mọi người cũng có vẻ thích thú về ý kiến nầy. Tôi đón nhận những lời khích lệ và nhiều tặng phẩm như: thức ăn, quần áo, dụng cụ cắm trại v.v... Sư đệ Hằng Do với tên đời là David Bernstein, trước cư ngụ ở Providence thuộc vùng Rhode Island, đã tự phát tâm ủng hộ theo tôi để phụ mang hành lý.
Cuốn nhật ký nầy ghi lại những cảm nghĩ và sinh hoạt hằng ngày của chúng tôi trong chuyến lễ bái cầu cho hòa bình thế giới. Những lời nầy đã được nhuận sắc và viết lại từ bản chánh mà sư Hằng Do đã hết sức cẩn thận cất giữ trong suốt chuyến đi. Tất cả những gì xảy ra đều có thật và tên họ không hề bị thay đổi. Chỉ riêng về cái nhìn tổng quát hơi khác khi chúng tôi kiểm lại chuyến đi vừa qua.
Xin đại diện luôn cho sư Hằng Do, chúng tôi nguyện đem công đức của chuyến bái hương nầy, hồi hướng cho chúng sanh trong khắp vũ trụ, mong cho tất cả cùng nhanh chóng đạt đến Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
(Còn tiếp)
Ban Phiên Dịch Việt Ngữ Vạn Phật Thành.
HỒI KÝ TAM BỘ NHẤT BÁI (Chương 1)
[b]Chương I
Từ San Francisco đến Garberville
Ngày 16 Tháng 10 Năm 1973. Ngày khởi sự. Hằng Cụ viết:
Sáng hôm nay tất cả mọi người ở Chùa Kim Sơn tiển đưa chúng tôi đến tận công viên nhỏ gần cầu Golden Gate, nơi mà tôi đã bỏ cuộc lúc trước. Không lãng phí chút thời gian nào, tôi bắt đầu lạy ngay về hướng bắc, Thầy Hằng Do đi liền theo sau, trên lưng mang một túi đầy vật dụng. Lúc đó có khoảng hai mươi vị gồm cả Tăng, Ni và cư sĩ vừa đi chung quanh chúng tôi vừa trì niệm chú Ðại Bi gồm 415 âm vần.
Sau khi lạy qua hai con đường, tôi chuẩn bị băng qua đại lộ phía trước của Marina, thì có đoàn xe cứu hỏa chạy đến và ngừng ngay trước mặt. Hơi một chút sửng sờ vì chúng tôi không biết họ đang muốn làm gì, chắc họ cũng thắc mắc về việc chúng tôi đang làm. Ðường lộ khi ấy lại rất nhiều xe cộ nên khó mà băng qua theo kiểu Tam Bộ Nhất Bái, vì vậy tôi cứ đứng tại chỗ mà lạy. Ðược một lúc, thấy cảnh tượng nầy chắc sẽ gây sự chú ý, nên cuối cùng tôi đành quyết định đi qua lộ như thường, rồi sẽ tiếp tục lạy khi tới bên kia đường. Lúc chúng tôi tiến gần đến lối vào cầu thì nhóm xe chữa lửa lúc nãy mới bỏ đi, còn chúng tôi thì tiếp tục cuộc hành trình. Thầy Hằng Do với túi đồ đi trước khoảng vài trăm thước, ở đó lạy, đợi đến khi tôi đi ngang qua, Thầy lại mang túi hành trang lên, đi về phía trước và lạy tiếp....
Lên đến cầu Goden Gate, chúng tôi gặp mối trở ngại đầu tiên. Một viên chức giữ cầu chạy ra nói rằng nếu chúng tôi cứ tiếp tục làm "như thế" để qua cầu thì ông sẽ đuổi chúng tôi ngay.
Ông bảo: "Hoặc là đi như những con người bình thường, bằng không thì không được qua cầu."
Rồi ông nói tiếp: "Mà cái gì vậy? Mấy ông tính làm gì đây?"
Thấy rõ ông ta muốn kiếm chuyện, nên tôi nói: "Ðể chúng tôi suy nghĩ về chuyện đó chút đã."
Nghe thế ông ta lấy làm bối rối và cũng không nói được thêm gì. Lễ lạy tại chỗ được một lúc, thấy không còn cách nào hơn nên chúng tôi quyết định đi qua cầu như "những con người bình thường." Qua đến bên kia cầu là vùng Marin, trong khi tiếp tục lạy tôi chợt nhớ lời Sư Phụ dạy lúc chia tay:
"Ngày mai chỉ trong một niệm là Hằng Cụ và Hằng Do sẽ qua khỏi cầu."
Từ đây chúng tôi dự định sẽ tiến tới bờ biển Stinson và thẳng lên xa lộ Một (Highway 1), cuối đường là giáp vùng Legget, California. Từ đó sẽ chuyển sang xa lộ 101 để thẳng tiến đến trung tâm của tiểu bang Washington rồi sau đó thì vào nội địa Seattle. Dựa theo bản đồ thì chúng tôi hầu như sẽ không gặp đại lộ (free way) nào cả.
Chúng tôi vừa mới qua cầu Golden Gate và dựng lều dưới những lùm cây gần lối vào khu Sausalito.
Ngày 17 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Cụ viết:
Hôm nay trong buổi nắng sáng, chúng tôi rời xa lộ 101 để vào vùng Sausalito. Nhiều đoàn xe như Porsches và Volkswagens chạy vùn vụt ngang qua để vào thành phố lớn làm việc. Khi chúng tôi đến khu phố nhỏ im lìm bên bờ vịnh, tuy hai bên đường đã có nhiều người dừng lại nhìn chòng chọc, nhưng chỉ có một bà cụ đến hỏi chuyện chúng tôi thôi. Ðến trưa, Quả Dung Epstein cùng gia đình và người bạn tên Tom Yager mang đến thức ăn Tàu còn nóng hổi. Tiến sĩ Epstein, giáo sư dạy triết ở trường đại học San Francisco State, tỏ lòng mến mộ về việc làm của chúng tôi. Sau bữa cơm trưa, chúng tôi tiếp tục lạy. Có con chó dại thân đầy ghẻ lở, chạy lon ton vòng quanh theo tôi, vừa rên rỉ vừa tru lên như than thở.
Nói chung, mọi người đều như tránh xa chúng tôi. Có lẽ họ nghĩ rằng đây là một trò ảo thuật quảng cáo gì đó. Tôi tự hỏi không biết có bao nhiêu người ý thức rõ được về những cái hay, có thể biểu hiện trong việc lễ lạy như vầy. Tại Ðông phương, đặc biệt là Ấn Ðộ, Trung Hoa và các nước theo Phật Giáo, lễ lạy là một cách diễn tả sự cung kính, chào hỏi và phục tùng. Trung Quốc thời xưa, xem việc lễ bái gần giống như là sự bắt tay như ở xứ Mỹ ngày nay. Công nhân kính lạy chủ nhân (quý tộc), chủ nhân bái kiến các Lãnh chúa, Lãnh chúa lễ phục Hoàng Ðế, cũng có khi Hoàng Ðế lạy xá những vị Tăng đã giác ngộ và thỉnh cầu sự chỉ dạy cách thức thống trị quốc gia. Tuy nhiên sự lễ lạy đối với chúng tôi lại là phương tiện của thiền định. Phương pháp nầy dẫn đến sự tập trung tư tưởng hơn hết, vì nó không đòi hỏi suy nghĩ hay nói năng gì. Những động tác chầm chậm nhẹ nhàng, lập đi lập lại mới chính là sự luyện tập trong hiểu biết, với chủ ý làm dừng lại những loạn tưởng trong tâm thức. Nhờ vậy tự tánh vốn vượt ngoài cái lý bất nhị sẽ được phơi bày. Tự tánh nầy như hư không, bao trùm tất cả, tức không sanh cũng không diệt. Mục đích tu tập của người Phật tử là để trở về với tự tánh sẵn có của mình. Cho nên thiền tập bằng cách lễ lạy là một trong những phương pháp đưa đến trạng thái đó.
Hôm nay chúng tôi lạy thẳng một mạch xuyên qua thành phố Sausalito được năm dặm đường, và đang dựng lều trong bụi cây, giáp ranh vùng Tamalpais. Ngày mai chúng tôi sẽ tiến lên ngọn đồi cao qua con đường nhỏ ngoằn ngoèo dẫn ra bờ biển.
Ngày 18 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Con đường chật hẹp lại khúc khuỷu và lõm chỏm đầy sỏi đá. Thầy Hằng Cụ biết ngay những viên sỏi đá bén nhọn nầy sẽ càu rách tay và đầu gối, nên chúng tôi phòng ngừa bằng cách xé áo quấn quanh đầu gối.
Mấy hôm trước, cái quần tôi đang mặc trông cũng còn khá lắm, vậy mà bây giờ đã có nhiều chỗ bị mòn mỏng tanh, tôi lại vô ý không đem thêm cái nào để phòng bị. Sáng nay, khi đứng tại chỗ lạy để chờ sư huynh đến thì phía sau đít quần tôi bị tét ra. Cũng may là nhờ có cái y (cà sa) che khuất chỗ rách. Tôi định lát nữa sẽ vá lại, nhưng càng tiếp tục lạy thì nhiều chỗ khác lại càng rách thêm ra. Thế nầy thì hết phương vá víu. Trong mấy ngày qua, người ta đã thấy có hai Tu sĩ Phật Giáo vừa đi vừa lạy trước công chúng, chỉ vậy cũng đủ làm họ sửng sốt rồi, nói chi bây giờ lại trông thấy một ông Thầy tu lễ lạy với cái quần rách đít (tả tơi) thì thật là quá sức tưởng tượng! Chắc tôi sẽ bị bắt về tội phơi bày… bất chánh quá! Gió lạnh biển Thái Bình Dương còn thổi xuyên qua những lỗ rách khiến tôi thêm rét buốt thấu xương. Khi Thầy Hằng Cụ vừa lạy tới, tôi đề cập ngay đến thảm trạng đang cần một cái quần, nhưng sư huynh tôi cũng chẳng làm gì được hơn. Chúng tôi không có dư một cái quần nào và cũng không có tiền để mua quần mới. Nhiều người đi ngang ném cho tôi những cái nhìn thiệt là kỳ cục.
Tôi vác túi hành lý lên và bắt đầu đi về phía trước, đến ngay góc đường đầu tiên, chợt thấy một đống vải màu nâu nằm chắn lối. Mừng quá, tôi chạy tới lượm lên, thì ra là cái quần tây đàn ông, cỡ (size) 34. Ðúng là kích thước của tôi, không nhỏ quá, cũng không lớn quá, rất vừa vặn, thật là chuyện khó tin. Tôi nhảy vào bụi rậm để mặc vào, thật hoàn toàn vừa vặn. Không biết vị Bồ Tát nào, hay ai đó đã để cái quần nầy ngay trên lối đi của tôi. Nhưng dầu sao đi nữa, tôi thật biết ơn vô cùng.
Hôm nay chúng tôi lạy xuyên qua ranh giới Tamalpais được sáu dặm và đang cắm trại trên đồi, giữa những hàng cây Bách Hương. Thật ra chúng tôi không có lều chõng gì mà chỉ có được tấm ni-lon, nhưng vậy cũng đủ để tránh những cơn mưa gió phủ phàng.
Ngày 19 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Trong ba ngày đầu tiên sống ngoài trời của chuyến đi, tôi đã đối diện với hàng triệu hình dạng của cuộc sống, như cây cỏ, côn trùng và súc vật. Dù cho số lượng có nhiều vô số kể, dù dưới mọi hình thể khác nhau, nhưng tất cả không sớm thì muộn đều cũng phải chết. Mọi cuộc sống đều theo một khuôn mẫu là: Sanh, trụ, hoại và không. Sanh là do các yếu tố hữu duyên hợp lại tạo thành thân thể. Trụ là khoảng thời gian những yếu tố nầy còn trong tình trạng hòa hợp. Hoại là khi các yếu tố nầy tan rã. Không là khi sự liên hệ giữa chúng tuyệt nhiên chấm dứt và thân thể đó không còn tồn tại nữa.
Với khung cảnh bao la ngoài trời nầy, tư tưởng tôi không có những bức tường chướng ngại, nên tâm tôi như tủa vút lên tận trời cao và hòa lẫn vào những vì sao. Không có gì cản trở, tôi tiếp tục suy ngẫm đến những câu hỏi bất hủ về kiếp nhân sanh. Tôi là ai? Tôi đang đi về đâu? Các vị Thánh Hiền bảo rằng câu trả lời đang ẩn ở phía bên trong. Vậy thì việc bái hương nầy sẽ là một chuyến đi thuộc về tâm linh đó. Khi nào tôi phá vỡ được cái vỏ hư vọng của bản ngã, thì tất cả những phân biệt trong và ngoài sẽ biến mất, và tôi sẽ thấy thế gian nầy như là chính bản thân tôi. Thế nên đức Phật đã dạy về lòng Từ Bi, một khi biết được rằng bạn thực sự là tất cả, thì bạn sẽ đối xử tốt với tất cả.
Ngày 20 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Mưa tầm tả. Chúng tôi chầm chậm xuống đồi để ra xa lộ Một, khi tiến về hướng bắc, bờ biển Stinson, có ông say rượu hét bảo Thầy Hằng Cụ (từ khoảng cách an toàn): "Ê! Thằng hề. Cút đi!"
Sau một ngày mệt mỏi, chúng tôi dựng lều trên một đồi cỏ nuôi bò, hướng về phía bờ biển. Giờ đây, tôi vừa ghi chép vừa nhìn chăm chăm vào ngọn lửa nhỏ mà chúng tôi đã xoay trở lắm mới nhúm cháy được. Sẽ có ai đó thấy được những làn khói bay ra từ mấy nhánh củi ướt, rồi đến bắt chúng tôi về tội cắm trại bất hợp pháp chăng? Không đâu! Gió biển mạnh đã thổi tan cả rồi! Chúng tôi cũng vẫn dựng lều bằng mấy tấm ni-lon để nghỉ cho qua đêm dài lạnh lẽo. Năm dặm thật là một đoạn đường dài để quỳ lạy. Thầy Hằng Cụ nói là lúc nào cũng thích đi du lịch, nhưng theo tôi nghĩ thì chuyến bái hương nầy còn có giá trị hơn là chuyện đi lang thang không mục đích. Vì hiện tại chúng tôi đang làm một việc có lý do, có mục tiêu. Tôi cảm thấy sự hiện diện của chúng tôi ở ngoài nầy thật là chánh đáng. Khi nghĩ lại cuộc đời mình, tôi cảm thấy thật đã lãng phí bao nhiêu là sức lực, và thời gian vô ích trôi qua, nên tự nguyện với lòng mỗi ngày sẽ tinh tấn hơn.
Ngày 21 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Cơn gió hú thổi qua cây lá khiến chúng tôi thức giấc. Dù trời vẫn còn tối đen, nhưng chúng tôi đã lo thu dọn lều chõng, lần mò trở ra đường. Thầy Hằng Cụ bị trặc lưng khi nhảy qua hàng rào, mặc dù vậy sư huynh tôi cũng ra tới được mặt đường vừa lạnh lẽo, vừa tối thui để bắt đầu lễ lạy.
Khi Hòa Thượng Hư Vân bắt đầu chuyến bái hương, có nhiều Tăng sĩ cũng tháp tùng theo Ngài. Nhưng chẳng bao lâu, vì mệt mỏi nên họ đã phải quay trở về. Bây giờ chúng tôi chỉ mới đi được có năm ngày thôi mà tôi cũng đã thấy rất rõ việc lễ bái một ngàn dặm (tức 1600 km) sẽ còn khó khăn hơn là tôi tưởng. Tin chắc rằng nếu như không phải vì Thầy Hằng Cụ nhất quyết làm việc chánh đáng, nhằm đem lợi ích cho thế gian thì chuyến đi nầy có lẽ sẽ bị dẹp qua một bên rồi.
Gió thổi mạnh làm gãy đứt những nhánh cây to nằm ngổn ngang trên đường. Tiếng nước mưa chảy ầm ầm vào cống rãnh, hòa vang cùng tiếng mưa rơi ào ạt. Chiều nay có ông cảnh sát đến khám xét, xem chúng tôi có phải là tội nhân vượt ngục, hay là bọn khùng điên. Ông bỏ đi với gương mặt thất vọng vì không tìm được lý do để bắt bớ. Chúng tôi căng lên tấm lều đơn sơ gần lối quẹo ra vùng Bolinas.
Ngày 22 Tháng 10 Năm 1973. Hằng Do viết:
Trời mùa thu vùng biển nầy thật là lạnh lẽo và ướt át. Như những chúng sanh, bò, ngựa, chúng tôi cũng thích nghi ngay vào cuộc sống ở đây. Khi đi qua vùng Five Rivers (Ngũ Hà) có cô gái đem cho trà nóng.
Tôi lại nghĩ về chuyến Du hành nội tâm, thật ra nó có ý nghĩa gì? Nghĩa là chúng ta đừng nhìn ra ngoài, phải quan sát sự diễn biến ngay mỗi ý niệm của mình. Tâm ta nên trở thành những tấm gương, chớ đừng giống như những cái máy chụp hình, chỉ chụp được các vật khác, vì ảnh hưởng đến sự ngược dòng tập trung. Tâm phải được phát triển trên phương diện không bị động khi đương đầu với những xúc cảm. Là Phật tử nên quan sát rằng, mặc dù tâm hoạt động đôi khi cực kỳ phức tạp, nhưng tiến trình của nó có thể phân chia làm hai loại:
Thứ nhất là Chấp trước: Tâm có xu hướng về trạng thái khoái lạc (như trà nóng), và cố duy trì những cảm thọ đó.
Thứ hai là khuynh hướng Chối bỏ: Tâm cố thối lùi những hoàn cảnh bất như ý (như thời tiết ướt lạnh). Tâm bị xao động giữa hai sự đối nghịch nầy, đấy là nguyên nhân làm chúng ta lạc mất trí huệ căn bản, vốn bất động không ô nhiễm, luôn sẵn có trong ta.
Tu hành cốt yếu là trực tâm xoay trở về "bên trong" và tập quan sát những biến chuyển cùng nguyên nhân của nó. Kế đến nên phát triển định lực để khi đối diện bất kỳ những cảnh vui buồn gì, tâm sẽ không bị xao động. Như vậy, dần dần trí tuệ sẽ sanh trưởng. Giờ đây tôi thấy rõ là chính ngoài xa lộ nầy là nơi có rất nhiều cơ hội để khảo nghiệm lại những đạo lý trên.
Ban dịch Việt Vạn Phật Thành
[/b]
HỒI DƯƠNG NHƠN QUẢ
SỰ TÍCH LÂM TỰ KỲ
BỊ QUỶ BẮT LẦM , SỐNG LẠI THUẬT CHUYỆN ÂM PHỦ
VUA NHỨT ĐIỆN XỬ 43 ÁN , NHỜ UỐNG PHÁT HUỆ MỚI NHỚ.
" Hồn phạm số thứ 1 là họ Dư , ở huyện Huỳnh châu , tú tài thi đỗ cử nhơn , hai khoá đậu tấn sĩ , đặng bổ chức tri huyện , huyện Tú thuỷ , trào Thanh , lên lần tới chức chủ sự sở hình bộ , sau làm chức lang trung sở công bộ ; lại sang qua chức thị lang sở hộ bộ , rồi qua sở lại bộ đặng năm tháng mới thác . Tra án tên phạm nầy , từ ngày đỗ tú tái tới làm huyện , không làm một mãy lành , đến làm sở hình bộ , giết oan 13 mạng . Làm sở công bộ , ăn hối lộ rất nhiều . Làm sở hộ bộ , ăn hối lộ nhiều bạc lắm . Sau lên sợ lại bộ càng dạn hơn nữa , bán chức quan mà ăn , miễn đầy túi mình , không cần ai khóc . Tội nầy đáng đoạ Địa ngục A Tì , không đặng đầu thai . " Họ Dư đứng dậy bái và tâu rằng : " Tôi đã làm quan lớn , xin Vương gia châm chế cho tôi còn thể diện " . Vua nạt và phán rằng : " Khốn kiếp ! Dương gian trọng người chức lớn , tại Âm phủ trọng đức chớ chẳng trọng tước quờn ; kẻ đức hạnh lớn , dầu ăn mày trẫm cũng kính nể . Nay ngươi còn ỷ thế làm quan mà cự với trẫm sao ? quỉ Dạ xa lấy chùi sắt mà đập đứa nầy cho chí tử. " Họ Dương tâu rằng : " Tôi có ăn thập trai , tụng kinh Chuẩn đề . " Phán rằng : " Ngươi ăn thập trai niệm chú Chuẩn đề , mà cầu công danh bền bỉ . Ngươi phải hiểu nghĩa hai chữ Chuẩn đề . Phàm ngừơi muốn cầu giàu sang công danh , hoặc cầu con , cầu trường thọ , thì phải chừa mười điều dữ là : chẳng kính trời đất , chằng kính tam quan , chẳng thảo cha mẹ , chẳng thuận anh em , chẳng ngay vua chủ , chẳng tin thiệt , chẳng lễ nghi , chẳng xử nghĩa phải , chẳng thanh liêm trong sạch , chẳng biết hổ thẹn . Đã chừa mười điều dữ ấy , lại còn ở theo luậ Công-quá-cách , mổi ngày tụng kinh Cảm ứng cho nhớ mà sửa lòng , không dám hở một bữa , chẳng dám tính một điều trái lẽ . Như vậy thì ăn thập trai , niệm chú Chuẩn đề cảm động lòng trời . Còn ngươi bầy lâu làm dữ nhiều điều , cứ bia tiếng Chuẩn đề , mà trông trả phước , là theo ngọn , chẳng giữ gốc , mà cảm động vào đâu ? Nhằm ngày thập trai , ngươi quên ăn mặn lỡ , bữa khác ăn tray mà trừ , hoặc đám tiệc chúng ép , thì ngươi đình ngày chay mà ăn mặn . Theo phép đã ăn chay , thì không lẽ ăn bữa khác mà thế ngày quên , cũng không đặng xả đỡ ngày chay mà ăn mặn . Nếu thế hoặc xả thì không phải lòng thành , còn kể chi nữa ? Ăn chay thập như ngươi đó , lại càng thêm tội , đừng cãi nhiều lời ! Mau dẫn nó qua A Tì địa ngục
Kếu số thứ nhì họ Tần , ở huyện Hớn Dương , Tú tài thi đậu tấn sĩ , làm quan tri phủ , phủ Thái Nguyên , ba năm mới thác . Phạm nầy khinh dễ bực thiên đình , không kể mạng người , trấn nhậm ba năm , ăn hối lộ tới mười mấy muôn trượng , không cần việc nước . Đời nay ngươi đặng thi đỗ làm quan , là vì kiếp trước là thầy chùa , có công dọn đường núi và đắp lề vài trăm trượng ( vài ngàn thước mộc ) . Nào hay đời nay đổi lòng tới thế , mà phụ ơn Ngọc Đế ban thưởng !
Phán quan đọc án rồi . Họ Tần tâu : " Tôi khi sống mê muội không dè có việc Địa phủ xự tội như vậy . Nay mới ăn năn tỉnh lại . Trong nhà tôi còn vài muôn lượng bạc . Nay thấy đền vua hư cũ , dưới đền nhiều hồn đói rách . Tôi tình nguyện dưng hết bạc mà tu bổ đền vua , còn dư thì bố thí cho hồn đói mà đền tội chẳng biết ý vua định thế nào ? " Phán rằng : " Nay ngươi ăn năn đã muộn quá ! Đền Âm phủ của trẫm , há dùng của vạy-vọ mà tu bổ sao ? Còn ngạ quỉ ( ma đói ) là tại chúng nó khi sống làm dữ nay phải chịu khổ , ai cần bố thí cho nhọc công . Huống chi lúc người còn sống , hay kiếm mưu nầy thế kia mà thâu của cho nhiều , nào có thương ai đói mà bố thí . Phải chi người làm phước cho sớm , thì đã tiêu hết tội rồi , đâu có ngày nay mắc án . Mà lại vài muôn trượng đó , có phải của ngươi sao ? Mười mầy năm trước , trẫm đã cho oan gian đầu thai làm bốn trai hai gái của ngươi , ngươi thác chưa đầy hai tháng , chúng nó theo đàng điếm bài bạc đã phá hết ráo sự sản rồi ; ít lâu đây con trai ngươi sẽ đi trộm cướp , con gái ngươi sẽ vào lầu xanh , làm hư tiếng tông môn không tốt ! " Họ Tần nghe qua động lòng khóc ngất , tiếng rống ồ ồ ! Quỉ sứ lấy chùi đồng đập đùa , té xĩu tại đất . Giây phút tỉnh hồn , bị dẫn qua Địa ngục .
- - - - - -
Phán quan truyền dẫn hồn kế đó vào nữa , đọc án rằng : " Phạm hồn họ Triệu ở huyện Quỳnh Châu , trước làm thơ lại ( thơ ký ) , sau lên chức huyện thừa tại huyện Vĩnh Bình mới chết . Hồi 18 tuổi làm dữ rất nhiều . Đến làm quan , ăn của chúng , hại mạng dân . Sai thâu thuế kẹp khảo dân nghèo . Lo vừa ý quan trên , khắc bạc dân dưới . Đáng ghét hai khoản nầy : Đi xét án nhơn mạng , cứ theo tiền mà làm thiệt giả , nghĩa là lo bạc thì quả bị giết cụng gọi là tự vận , không lo bạc thì tự vận cũng vu là giết . Còn xứ điền thổ hễ ai lo nhiều bạc thì đặng ruộng đất . Nên trong túi tham , đựng vài ngàn lựơng vàng . Bởi thế , khi còn sống đã phạt tuyệt tự , mà chưa hết tội . Nay trước nấu dầu , mà rửa hờn cho dân , rồi sẽ cầm địa ngục A Tỳ không đặng đầu thai nữa .
Họ Triệu tâu : " Lời xưa nói : " Vì nghèo mới làm quan . Như vậy ăn của dân cũng là phải . Nếu buộc sự ăn hối lộ mà làm tội , thì kẻ làm quan lấy chi mà nuôi gia quyến và đãi quan khách , của đâu mà đi lễ quan trên ? " Phán : " Như minh oan cho người , hoặc lấy lẽ ngay mà xử cho trúng phép công bình theo luật . Kẻ khỏi hàm oan , người ngay khỏi bị hại , người cám ơn vì xử công minh , nếu chúng nó giàu có cảm ơn , nên vui lòng mà cho tới bạc ngàn , mình cũng không lỗi . Chớ như không lợi ích cho người chút nào , lập thế bày mưu mà ăn tiền , thì oan ức người ngay lắm tội biết bao nhiêu . Ngươi nghĩ thử , những của ngươi ăn đó , có phải nghĩa công bình chăng ? Người ta có vui lòng tình nguyện đền ơn cho ngươi chăng . Có đáng công ơn theo lẽ minh oan , tự nhiên mà người cho chăng ? Phải là kiếm cơ lập thế mà cướp của người chăng ? Ngươi còn già miệng chữa mình sao ? " Họ Triệu tâu : " Tôi có ăn chay vía tam quan ( là ba rằm lớn , tam ngươn : rằm Tháng giêng vía Thiên quan , rằm tháng bảy vía Địa quan , rằm tháng mười vía Thuỷ quan ) thiệt là trong ba vị tam quan đại đế bảo hộ . Nào hay bây giờ bị hoạn nạn nầy , ba vị tam quan đại đế , sao chẳng đến mà cứu tôi ! " Phán rằng : " Lời nói dữ ấy , tội đáng bằng hai , lấy bàn sắt vã miệng nó mười cái ? Ba vị tam quan đại đế là Thiên quan , Địa quan , Thuỷ quan , ba vị thần ngay thẳng , phò hộ ngừơi lành . Người làm lành , tuy chẳng ăn vía ba rằm lớn ngàu cũng thêm phước , há bảo hộ ngươi là bọn không nhơn nghĩa sao ? Nếu người làm lành mà ăn chay , thì chay ấy giúp thêm việc lành . Nếu làm dữ mà ăn chay , là giới việc an chay mà làm dữ , sao dám nói hồ đồ ? Truyền dẫn qua ngục " .
- - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Châu ở huyện Đông Thành , qua ngụ đất Hớn Khẩu , nổi lò thợ bạc , hay chế bạc thấp , bạc giả mà hại người mất tình nghĩa , hư thể diện ; làm tội nhiều lắm . Trừ ra một tội đáng giết là : Một người buôn bán ở huyện Kỵ Thuỷ đem một trăm ba chục lượng bạc lọc có dư , mướn y nấu ra bạc chín ( nghĩa là bạc mười nấu ra bạc chín , chín chỉ bạc pha một chỉ đồng ). Nó lấy hết phân nửa bạc lọc pha đồng phân nữa , nầu ra bạc năm , kẻ buôn bán lầm sau buôn bán nửa đường mới hay bạc năm bị lỗ tức mình mà chết . Tuy ngươi ăn gian sáu chục lượng bạc lọc , bị thời khi uống thuốc đã hết tiền hết bạc , mà còn hỡi còn . Tra bộ trõn đời ngươi , không có điều lành mà trừ cấn ; nên truyền dẫn qua hoả thành ( thành lửa ) mà thiêu trọn một tháng , cho người bớt tức . Rồi giam vào địc ngục , không đặng luân hồi .
- - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Tiền , ở huyện Ma Thành , xóm Trịnh Gia , làm cai trong huyện ấy . Cả đời hay xúi chúng kiện thưa mà ăn chia của đem lo . Nó có xúi người cháu chồng , kiện thiếm dâu va thủ tiết , đoạt sự sản của thiếm dâu , mà ăn lo lót ( ăn chia ) hơn năm trăm lượng bạc . Tiết phụ bị hiếp , tức mình phải bịnh mà chết ! Huống chi còn nhiều tội dữ khác , có lẽ nào mà đặng đầu thai , dẫn nó quăn lên núi đao mà trị tội " . Họ Tiền tâu : " Tôi có cử sát sanh sáu bảy năm , nhờ ơn vua dung chế " . Phán : " Người đừng nói khào ! Đã biết cử sát sanh là việc lành , sao ngươi biết tiếc mạng vật , mà chẳng thương biết mạng người ? Ngươi thuở nay xúi kiện cáo , tranh đua việc quấy , lại chẳng biết mấy mạng . Cứu sống mạng vật mà giết chết mạng người , ấy là không phân gốc ngọn lớn nhỏ Thương Đế có vì sự nhỏ mọn ấy , mà tha tội lớn hay sao ? Huống chi ngươi cử sát sanh mà làm mặt tốt , mua danh lành , chớ không phải lương tâm chẳng hở . Song ngươi kêu nài lắm , trẫm tha khỏi cầm ngục đao sơn , cho được đầu thai mà phải làm con nhà nghèo , mang hai tật câm và quáng , đi ăn mày trọn đời , nếu biết thân mà giữ bổn phận đền tội mãn đời , sau sẽ nghĩ lại " .
- - - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Thơ ở phủ Thừa Thiên , con chức Điển sử , bổ làm thơ lại ( thơ ký ) tại phủ . Ba mươi tuổi mà chết . Hồi xuân xanh đánh bóng quến người , phá của chúng , hại mạng người , không biết bao nhiêu tuy tại chúng nó đắm sa , song cũng tại ngươi tham của mà quyến luyện ; không thể nào dung tội ngươi được .
Huống chi ngươi trưởng thành lại càng đắm sa tửu sắc lấy vợ con người , chẳng biết bao nhiêu mà kể . Nếu nàng nào không thuận , thì lấy thế quan , mà vu hoạ hại người ! Cho nên vào nhà nào , phụ nữ cũng sợ oai mà chịu hiếp . Tội dâm ác thái quá , giết cũng chưa vừa , đáng giam vào trong ngục đao kiếm " . Phán quan tâu : " Tên tội này có hiếu với mẹ lắm . Mẹ ngoài sáu mươi tuổi đau nặng . Y sắc thuốc nếm rồi mới dâng , đêm nằm không cổi dây nịt . Vài tháng như vậy con mẹ bịnh ngặt , ăn không đặng , y cắt thịt bắp vế nấu cho mẹ uống đỡ nước cho bổ , sống rán vài ngày như vậy cũng nên rộng dung chút đỉnh " .Phán : " Thượng Đế tuy ghét tội dâm ác lắm , mà rất trọng con thảo . Bởi nó biết nuôi cha mẹ là hiếu , mà chẳng biết giữ mình mới trọn hiếu . Trẫm tha cầm ngục đao kiếm , lại đặng luân hồi , song làm điếm lầu xanh mà đền tội dâm ác . Nếu sau biết ăn năn sẽ nghĩ lại " . Phán rồi cấp điệp ( giấy ) qua cho vua Đông Nhạc mà đầu thai .
- - - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Tôn ở huyện Võ Xương , 19 tuổi cải họ Trương đi lính hầu tại phủ . Đã hay bợ đỡ quan phủ , lại thạo bua việc . Lớn mật dạn dĩ , gian hùng hẳn hoi . Hầu việc các dinh , ông quan nào cũng bị y nói gạt hết . Đến đổi mạng người sống thác , đều tại tay y ; việc phải quất đặng thất , đều tại miệng nó . Sự dữ đã đầy , tội đếm không hết . Luận tội dương gian khó thứ , luật hình âm phủ không dung . Mau dẫn qua địa ngục Đao san " . Họ Tôn tâu : " Tôi có dùng năm chục lượng bãc mà thếp vàng cho Phật tại chùa Báo Ân . Lại cúng bạc dầu thắp đèn ăn chay , niệm Phật Di Đà một ngàn câu " . Phán : " Đờ khốn nà ! Nếu làm dữ , sau biết ăn năn chừa lỗi , làm phước niệm Phật , trời thì trời tha tội . Có đâu mượn tiếng cúng chùa niệm Phật , mà làm dữ thẳng tay , Phật Di Đà há giúp sức cho người làm dữ sao ? Ví dụ : Kẻ vì tửu sắc sanh bịnh , uống thuốc bổ dưỡng lại . Nếu cử tữu sắc , thì uống mới hay . Nếu mê sa tữu sắc như xưa , thuốc bổ sao cho lại tửu sắc ? Lẽ nào thuốc giúp sức cho kẻ tữu sắc nỗi ? Dẫn nó qua ngục cho mau , đừng để cãi rán ?
- - - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Ngô , ở huyện Huỳnh Cang hồi nhỏ đi học , thi khoa tú tài không đậu , học qua nghề viết đơn mướn " . Vua phán : " Xưa nay kẻ viết đơn thưa kiện , không có ai hiền lành bao giờ . : Họ Ngô tâu : " Tôi là kẻ đại thơ cứ viện cho kẻ dốt , chớ không làm điều chi dữ ." Phán : " Kẻ bố thí chẳng phải tại của mà tại lòng ; kẻ chém giết , tội chẳng tại gươm mà tại ý .Người đã viết đơn kiện cáo , trong ý tính nói bó buộc cho gắt như muôn ngọn lửa cháy lau khó dụt . Nghiên mực độc hơn ao huyết , ngòi viết bén quá lưỡi gươm . Đặt một chữ , phá nhà người rất dễ ; sửa một nét , giết mạng chúng như chơi. Dưới lửa độc , đủ đồ roi kẹp ; trên tờ đơn , đều cửa ngục hình . Sưa đi còn sửa cho hay , buộc trước lại buộc sau cho gắt ! Kẻ quả tang muốn bắt cho mau người không tội quyết gài cho chắc . Có khi trợ tiên-cáo mà nói gián , gặp lúc binh bị cáo mà hại tiên-cáo ( nguyên cáo ) . Nhiều lúc lời mà làm bộ giết tiên-cáo mà hại bị-cáo . Lòng độc như yêu khôn độ , mưu său tợ quỉ khó dò . Kể sao cho xiết sự tội ác của ngươi , mau dẫn qua mổ bụng rút ruột , hành cho đủ tam đồ , rồi sẽ giam hoài nơi địa ngục . "
- - - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Trần ở huyện Ky Thuỷ , bị án ăm trộm. Vua xem án rồi , phán rằng : " Người may đặng làm người , sao theo trộm cướp ?" Họ Trần tâu : " Tôi hồi nhỏ thiếu ăn thiếu mặc , cha mẹ , em út , kêu đói như bộng , vã lại năm thất mùa , lúa gạo mắc , xâu gao thuế nặng , cũng chẳng đã mới đi trộm cướp !" Vua ngó phán quan mà phán rằng : " Người nầy tuy là ăn trộm , song nói cũng phải lẽ . Hãy tra bộ sổ cho kĩ , coi lám các an ra thể nào ? " Phán quan tra bộ rồi tâu rằng : " Họ Trần có giựt đồ của kẻ buôn bán , đi ngang núi Mai Lảnh tại huyện Ky Thuỷ. Sau bị bắt nguội , giải đến quan họ Từ , vốn là người ở huyện Ngô , phủ Tô Châu , truyền y viết lời khai . Họ Trần viết bài thơ như vầy .
Bất tu hiệp bát , bất tu xao ,
Nể tỉ xuyên du , thuật tánh cao !
Xa thủ , thù nhơn can dữ nảo ,
Măn xang đô thị sát nhơn đao!
THÍCH NÔM :
Lựa là kẹp khảo , lựa là tra ,
Chước niệm nhà ngươi , xảo quá ta .
Tay xá móc gan , rồi lấy huyết ,
Gươm đao đầy bụng mổ hằng hà .
Quan huyện họ Từ xem thơ , rồi mới nói với các thơ lại rằng : " Chúng ta thiệt cũng như ăn cướp , còn muốn xử tội ăn cướp sao ? Các thơ lại cai bếp quân lính đều đi bắt đầu này đầu kia , mà kiếm chác cho ta , thì cũng như bọn lâu la kiếm của tang cho chủ trại ! Chi bằng ăn năn cho sớm , lo tu nhơn tích đức mà nhờ thân sau , cho khỏi mắc đoạ " . Các người nha dịch đều bẩm rằng : " Chúng tôi đã tập quen thói dữ rồi , và lại bị nuôi gia quyến , khó nỗi ăn năn chừa lỗi ! " Họ Trần tâu : " Có khó chi ! Kẻ tu thân phải có can đảm trí huệ khác hơn người thường , cũng sấn sướt manh mẽ như lòng đứa ăn cướp , thì mới nên việc . Đứa trộm cướp dạn dĩ không sợ mới dám phá cửa mà giựt của người , dễ như trở tay , muốn làm sao thì làm vậy . Nếu quyết hồi tâm đi tu , thì cũng phải can đảm sấn sướt như vậy , thì dữ nào mà bỏ không rồi , lành nào mà làm không đặng ! " Nói rồi ngâm bài kệ như vầy ( nho kêu thi , Phật kêu kệ ) :
Cang đao bổn bất dẫn nhơn hung ,
Pháp khánh bất hội giáo nhơn thiện ,
Cang đao pháp khánh lưỡng bô tình ,
Chỉ thử nhứt tâm phân lưỡng nguyện .
Hướng lai thất cước tự du du ,
Kim nhựt hồi đầu giai chiên chiến .
Cải ác tùng thiên hữu hà nan ,
Tác đạo vi quan cu mạc luyến .
THÍCH THƠ NÔM :
Gương trừng bá giục ngực người làm dữ ,
Chuông tự nào khuyên thế ở lành ?
Chuông kiếm vốn không hiền mới độc ,
Tánh tình sẵn có trược cùng thanh .
Xưa mê ngủ gục say vô độ ,
Nay tỉnh ăn năn sợ thất thanh ,
Chừa lỗi hồi tâm tu dễ quá ,
Ăn lo , ăn cướp bỏ thì thành .
Khi ấy , nội nha môn : nhiều kẻ hồi tâm , từ chức đi tu mười mấy người . Phán : " Quả có công đức ấy , đủ chuộc tội trước : huống chi lấy của , chớ chưa hại mạng người , đáng giảm tội phân nửa . Đáng ghét tội giam dâm , vì no ấm mà sanh sự . Phải suy phần đạo tặc , bởi đói nghéo không đủ mà liều thân . Sự cùng mà biến , tội cũng đáng dung . Tha tội họ Trần , cho giấy qua vua Đông Nhạc lãnh phần đầu thai làm thầy chùa du phương tại núi Thiên Thai . Nếu chịu khổ hạnh tu hành , sau sẽ siêu độ ."
- - - - - -
Phán quan đọc án kế : " Họ Trần ở huyện Viên Dương tự hồi nhỏ hoang đàng , làm biếng , làm cho cha mẹ lạnh đói khổ , ưu phiền sanh bịnh mà thác , vì con không cần kiếm mà dưỡng nuôi . Còn nó tới 49 tuổi cũng chết đói " . Phán : " Tuy nó không làm điều chi dữ lắm . nhưng mà làm biếng lại xài lớn . Những đứa trộm cướp , chẳng phải ham giết người lại đốt nhà làm dữ , đều bởi làm biếng lại xài to , túng cùng mới biến ra nghề ấy . Cho nên siêng làm và tiện tặn , thiệt là cội rễ nên nhà , mà cũng là gốc trau mình sửa nết nữa . Kẻ có nhơn , người quân tử , ai cũng cần kiệm . Tại người không siêng làm mà chẳng tiết kiệm , để cho cha mẹ đói lạnh mà thác . Như vậy không cần kiệm tuy là lỗi nhỏ mà tội không nuôi cha mẹ là bất hiếu khó dung . Dẫn nó qua pháp trường , mổ bụng lắc bao tử và móc ruột mà trị tội xài lớn . Rút cho hết các sợi gân làm biếng , mà trị tội bất cần . Nay cha nó đã đầu thai làm chức thơ lại tại huyện Thường Châu , ở sau Tây-môn , cho nó đầu thai làm heo của cha nó đặng bán lấy tiền mà đền tội bất hiếu đời trước. "
- - - - - -
Phán quan đọc án kế: "Họ Khương ở Châu Hưng quốc, là nhà giàu bất nhơn, năm mươi mốt tuổi, bị dân nghèo là họ Hồ giết . Họ Khương giàu lớn hơn nội châu ấy, vựa lúa mà bán cho các lái khắp nơi. Nội xứ chết đói vì trong năm thất mùa, họ Khương chẳng thí cho nhà nghèo một nắm lúa gạo . Khi ấy quan phủ, quan huyện cho mời y, bảo bố thí cho dân đói, y lo hối lộ cho khỏi bố thí. Đến nỗi bà con hoạn nạn chết đói, y cũng không ngó tới !" Phán: "Ngươi bình sanh trọng tiền bạc, chẳng hề cho ai vay mượn, lòng ở khắc bạt gắt gớm độc hơn tội giết người, không thể nào dung đặng". Tâu: "Tôi mới biết gắt gao rít róng mắc tội nơi luật trời . Xin vương gia tha tôi về, đặng tôi cải ác tùng thiện, xuất hết của tiền lúa gạo mà bố thí cho dân nghèo. Xin vua rộng lòng y tấu ." Phán: "Ngươi còn trông sống lại hay sao? Kho lẩm trong nhà còn thuộc về của ngươi hay sao? Con cái ngươi đều là oan gia thiệt con đòi nợ chưa đầy một năm nó đã phá hết sự sản, không còn sót món nào!" Khương nghe rõ khóc ròng than rằng: "Tôi bấy lâu chắc lót quyết để lâu dài . Cùng chẳng đã xuất một đồng điếu mau củi, hoặc mua rau (cải) cũng còn tiếc lắm . Ai dè con là tội báo cừu nhơn đầu thai vào mà phá hết sự sản tức biết chừng nào!" Phán: "Cái tội gắt gớm cũng như tham gian. Trước giam theo ngạ quỉ, bỏ đói cho lâu. Sau sẽ cho đầu thai làm ăn mày, chịu đói rách mà đền tội bỏ đảy buột chặt ."
Phán quan đọc án kế: "Họ Doản ở huyện Quy-đức làm thầy thuốc mập mờ, hốt thuốc pham chết vừa nam vừa nữ công mười một mạng . Tánh hảo ăn thịt trâu lắm, bữa nào cũng có thịt trâu mới chịu cầm đũa tội ấy cũng nhiều. Tuy trốn khỏi tội Dương gian, chớ lánh sao cho lhỏi luật Âm phủ ". Phán: Phạt nó đầu thai làm trâu mười một kiếp, mà trừ tội phạm thuốc mười một người .
Phán, quan đọc án kế: Họ Lý ở huyện Thần Châu, ròng nghề làm mai mối . Miễn có tiền mướn mà ăn, thì quyến dụ gạt con gái nhà lành, ở đợ, làm bé mà chẳng động, lòng thương . Đến nỗi làm mai con nít cho ông già, cột mối bà già cho trai nhỏ, bọn ấy không vừa ý, tức mình phát bịnh mà chết hết bảy người, vì không thể sanh đẻ nối đời đặng." Phán: "Bởi tội y nói xảo mà rù quến gạt người, nên bị án nặng . Truyền cắt lưỡi, bẻ răng, bỏ xuống hầm đời đời, cho oan hồn bớt tức ."
Phán quan đọc án kế: "Họ Phùng ở huyện Miển Dương, là tên tá điền, năm nào cũng giấu bớt lúa mà đong chút đỉnh . Nếu năm nào mà trúng mùa, thì dem lúa ngâm nước một đêm mới đong lúa ruộng. Chủ điền tức mình, lấy ruộng lại cho người khác mướn, nó cũng thầy kiện không chịu giao. Nếu làm ra lẽ, để cho người khác mần, thì tới khi gieo mạ, giống lúa sớm nó lén vải lúa muộn vào, hoặc lúa muộn, vải lén lúa sớm vô, lộn lạo cho thất mùa, phải bỏ cho nó mướn . Tội hung dữ ngang ngược thái quá không phải tầm thường . Đáng phạt đầu thai làm đứa ăn mày bạt xụi, mà đền tội ngang tàng kiếp trước ."
Họ Phùng tâu: "Tôi có thấy chỉ dụ của Vương gia, phàm dân ruộng rẫy, đều cần kiệm cực nhọc, dầu có tội gì nhỏ mọn đều rộng dung. Vậy xin vương gia ân xá ." Phán: "Kẻ lo làm ruộng tay chưn mỏi nhọc không hở, ăn uống, cực khổ dư ra thì bán cho đời, thiên hạ đều nhờ công lao kẻ làm ruộng . Vậy mới có công với đời, nên tha lỗi nhỏ . Có đâu tham gian độc dữ như ngươi, đừng có nói nhiều chuyện, quỉ sứ dẫn đi giải cho mau."
Phán quan đọc án kế: "Họ Uông ở huyện Than Âm cha nó ăn chay làm lành, nó chẳng nghe lời cha dạy . Cả đời làm nghề đánh cá, mỗi ngày bắt cá chạch, lươn, tôm, trạnh cua đinh, không biết bao nhiêu mà kể . Cha nó có quở la thì nó cự và mắng lại như ăn cơm bữa, song nó có hiếu với mẹ lắm, mẹ nó đau, thì lo chạy thang thuốc, nuôi dưỡng hết lòng . Bởi cớ ấy, nên Táo quân có tâu với thượng đế cho trừ án nặng ." Vua ngó phán quan mà phán rằng: "Tên nầy trái lòng nhơn của thượng đế, vì lòng trời muốn người vật sanh ra cho nhiều không muốn giết hại ." Rồi day lại, quán quở rằng: "Loài cá trạnh cừu oán chi với ngươi, nếu có việc chi phải lẽ như là cúng ông bà, nuôi cha mẹ, cùng chẳng đã bắt đờ mà dùng. Vậy nên đức Khổng Tử, câu mà chẳng lưỡi cũng thể theo lòng nhơn của trời . Nếu chài lưới đánh như ngươi, mà nhiều người làm như vậy, thì không còn sót tôm cá lươn trạnh . Nếu tính mỗi mạng vật, cho ngươi đầu thai mà thường mạng, thì muôn đời cũng chẳng dứt nợ oan trái ấy . Lại thêm mắng cha, tội lớn thấu trời, mau dẫn qua địa ngục ". Phán quan tâu:" Vương gia thường trọng chữ hiếu, tên này cơn mẹ bịnh, nuôi dưỡng lo chạy hết lòng, khi mẹ liệt, nó lóc thịt bắp vế mà nấu cháo cho mẹ ăn bổ cầm hơi, cũng nên trừ cấn ." Phán: "Bất hiếu với cha, mà chí hiếu với mẹ, trẫm cũng rộng lượng cho trừ . Tính một tội đánh cá, cho đầu thai làm một đứa hung hoang, hai mươi tuổi bị quan xử trảm".
Phán quan đọc án kế: Họ Trần ở Hớn Trấn, lòng xảo trá mưu kế không lo nghề nghiệp làm ăn. Hằng ngày rủ ren con em nhà lương thiện đánh bài bạc mà lấy xâu và ăn gian ăn lận nữa, đến nỗi nhiều người tán gia bại sản, mà thói dữ cũng không chừa . Lại lập thế bắt con gái nhà nghèo làm hầu thiếp, (như lập thế tiền trái hậu mãi). Hai tội nhập một nặng nề ." Vua phán : "Nghề bài bạc hại người độc hơn nước lửa trộm cướp . Nếu bị thua quá, thì phải bỏ nghề nghiệp, đổi lòng ngay, gái trai cũng hư danh thất tiết, tới nỗi tan gia sản, liều thân mạng .
Ngươi tai mắt không thiếu đủ tay đủ chưn, sao không học nghề nghiệp làm ăn ngay thẳng, mà chi độ cho qua ngày . Trên làm tên dân không phạm luật triều đình, dưới làm người phải, khỏi nhơ danh tổ phụ . Nghĩ nào dùng tai mắt mà làm quấy, lo mưu kế mà gạt người . Cái thân hữu dụng, làm tội vô cùng . Khác nào: ăn thịt người cho no bụng, phá nhà chúng đặng vui lòng . Cho phải trả . Tuy phạt người tuyệt tự, trừ mưu bắt chúng mà làm hầu . Chớ tội chứa cờ bạc, không thế nào trừ đặng . Quỉ sứ chặt mười ngón, và hai tay, rồi mổ bụng móc tim rút ruột . Rốt lại cầm hoài nơi Địa -ngục, không đằng đâu thai." Họ Trần tâu: Tôi tối dạ đi học không nên, tập bài bạc kiếm tiền dễ lắm . Lỡ vào nghề đó, sanh gian sanh lận . Song ăn thì vừa, thua thi trả, hai bên tình nguyện như nhau. Chớ tôi không giựt của, xin Vương gia dung thứ ." Phán rằng: "Rủ ren kẻ thiệt thà, ăn gian ăn lận, dầu anh em cũng quyết lột da, huống chi bằng hữu mà không mở mật. Khiến người mất của , ngươi mới đẹp lòng. Ai dại gì tình nguyện đem của mà cho ngươi, cũng tại ngươi lập thế thần mà đánh bẫy, ngoài chuốt ngót nói lời ngon ngọt, làm như thiết nghĩa ruột rà, nào là đãi ăn, nào là phục rượu, nào là dem nữ sắc mà quyến luyến cho mê sa . Ấy là trăm mưu ngàn kế mà gạt người, tộc ác dường hầy mà bỏ luật dung tha sao cho đặng ? Quỉ sứ cứ việc dẫn nó đi."
Phán quan dọc án kế: "Họ Lý ở huyện Hoành Dương đi lính tập theo quân Du kích . Còn họ Du, huyện Huỳnh Mai cũng đi lính tập theo sở cầm cờ đánh trống . Còn họ Thanh cũng ở huyện Huỳnh Mai, là lính pháo thủ của quan đề đốc họ Lý tự Giang Tư. Ba tên ấy đều có đánh giặc ." Vua phán rằng: "Quân lính trong đội ngũ chinh chiến, tay cầm gươm súng, lòng tập hung hăng, thắng trận thì bắt vợ con người ta, thậm chí ăn thịt người nữa . Tội ấy chẳng hèn đồng quăng lên ngục Đao sơn cho đáng kiếp". Phán quan tâu rằng: "Họ Thanh lúc phá thành Dương Châu, bắt đặng ba người mà chẳng giết . Bắt đặng hai người đàn bà mà chẳng động tới, đều trả lại cho chồng: 2 người chồng đền ơn bạc tiền, y cũng không chịu lấy . Hai khoản ấy phước phần chẳng nhỏ . Huống chi mỗi tháng ngày rằm với mồng một, ăn chay tụng bảy biến kinh Cao Vương." Phán: "Có công đức như vậy, trẫm cũng đáng kính đáng khen, cấp điệp cho họ Thanh, qua vua Đông-nhạc, mà đầu thai làm chức quan văn thất phẩm, sống bảy mươi chín tuổi, không bịnh mà mãn phần, con cháu hai đời đều đặng công danh vinh hiển . Còn hai hồn linh kia xử y án trước".
Phán quan đọc án kế: "Nàng Tiền mẫu Nương ở huyện Gia ngư, ghen dữ và ngỗ nghịch với cha mẹ chồng ." Vua phán: "Nội một tội bất hiếu với cha mẹ chồng, cũng đáng cầm ngục A tì, còn luận lành dữ nó làm chi nữa ." Nàng Mẫu Nương tâu: "Tôi không dám bất hiếu với cha mẹ chồng, mà tôi còn ăn chay bố thí nhiều lắm ." Phán: Dầu ăn chay bố thí như vậy, cũng chuộc không nổi tội bất hiếu với cha mẹ chồng . Song nghĩ người ăn chay bố thí, nên tha tội xay giã mà thôi giải qua giam vào Địa ngục không đặng đầu thai mà răn những nàng dâu ngỗ nghịch ."
Phán quan đọc án: "Nàng Châu tú Nương, ở phủ Thừa thiên, có chồng mà lấy trai, ấy là tội nặng . Lại thêm hại một mạng mọi gái". Phán: "Đàn bà có đức chính chuyên một chồng . Tánh nết phụ nữ, phải hiền hậu lành, mới phải đàn bà đức hạnh . Ngươi là con khốn, không biết xấu hổ không giữ chính chuyên, lấy trai lang chạ; là bởi ham ăn làm biếng không lo việc nữ công, ăn no ở không, mơ tưởng việc dâm dục, tham ăn thịt mê uống rượu, lại đánh bóng trang điểm, bán dạng thuyền quyên, làm con trai đê mê mẩn mang tiếng xấu danh nhơ, mi đã thất tiết xấu xa, hại chồng mi mang nhục, hư thể diện cha mẹ tông môn của mi, không cần con cháu hổ thẹn . Tuy đội lốt người, mà khác nào súc vật . Lại còn độc ác, hại mạng mọi gái . Sao không biết xét, mọi gái cũng có cha mẹ sanh thành, bởi kiếp trước nó không tu, nên đời nay hèn hạ mi nết xấu cũng như là đứa hèn, mà được sai khiến đứa hèn là quá phép . Nỡ nào không có lương tâm, mà đành đoạn hại mạng nó ? Mau nấu dầu mà trị tội lấy trai và cho hồn oan con mọi hết tức . Rồi cầm hoài Địa Ngục không đặng đầu thai."
Phán quan đọc án kê': "Nàng Thành sửu Nương huyện Thanh âm hay xúi chị em bạn dâu lối xóm rầy lộn, hại con gái xóm ấy hàm oan tức mình thắt họng mà chết . Lại hay bảo mấy nàng thủ tiết lấy chồng . Đẻ con gái năm lần, đều trấn nước chết hết." Phán: "Hại một người dưng thì thường mạng 1 kiếp nếu mà hại một mạng ruột thịt, phải thường mạng hai kiếp. Truyền quỉ sứ dẫn hồn con ma thắt họng, và năm con ma da nhỏ, kéo nó xuống ao nước, cho bớt giận một hồi . Rồi bắt lên, cắt lưỡi mổ bụng móc ruột, không cho đầu thai, cầm hoài nơi Địa ngục, mà trừ cái tội khuyên tiết phụ cải giá và xúi chúng rầy rà ." Sửu nương tâu: "Chẳng phải tôi ham khuyên cải giá làm chi. Bởi thấy chúng nó còn tơ mà nghèo khổ, lại không con, thủ tiết ích gì, chi bằng cải giá cho qua ngày: ấy là lòng tốt của tôi." Phán rằng: "Ác phụ không biết phải quấy! Đàn bà may rủi một đời, nếu chồng thác, thì phải thủ tiết . Thượng đế càng kính vì tiết phụ . Dầu có chết đói, ngàn muôn năm cũng ngợi danh thơm. Nếu nó muốn tái tiện, ngươi cũng phải cản trở, mới là lòng tốt . Sao bảo nó cải giá, làm cho nó mang tiếng thất tiết trọn đời . Người đừng cãi sướt nữa . Mai giải đi hành tội ."
Phán quan đọc án kế: "Lý Khải Nương là con đầy tớ nhà Mễ . Làm đổ gạo cơm trong bếp, dính trên miệng lò, huỷ hoại của trời hơn mấy năm kể chẳng xiết (là đổ đồ ăn). Hay ăn vụng ăn cắp của chủ, mà đổ thừa cho người, hại con đầy tớ khác phải đòn . Hay lấy bậy và dắt trai vào nhà, tư tình với chủ gái; tội ấy đã nhiều . Lại hay cải giá, tính đã ba đời chồng, tội nặng quá lẽ ." Phán: "Ngươi kiếp trước làm nhiều điều dữ, nên phạt người làm tôi mọi. Sao không biết xét, tuy là người mà làm mọi cũng như ngạ quỉ súc sanh bị cầm Địa Ngục, ba điều khổ ấy, hỡi còn chưa biết ăn năn tu mà nhờ kiếp khác
Phán quan tâu: "Tớ gái cũng con người, sao gồm ngạ quỉ súc sanh Địa ngục ?" Phán: "Tôi mọi ăn uống không đặng tử tế, khác nào ma đói. Không ai lễ mà đãi, nào khác súc sanh. Không được có chồng sanh con, thường bị cấm cố, khác nào cầm ngục . Nay không chừa lỗi, còn xử thêm cách nào, phải hành cho đủ tam đồ mới đáng không đặng đầu thai."
Phán quan đọc án kế: "Lưu thất Nương ở huyện Quế Lâm bốn mươi tuổi mà không con, tánh đa dâm và ghen lắm! Chồng muốn cưới thiếp. Thất nương không con. Chồng lén cưới vợ bé, gởi lối xóm. Thất nương hay tin bắt vợ bé đặng, lấy bàn ủi ủi phỏng mình, lở thúi mà chết !" Phán: "Cấm chồng cưới, cho tuyệt từ thờ mình, lợi ích chi đó". Huống chi hành hình cách thảm mà giết người, chắc dung không đặng. Thất nương tâu: "Đàn ông không con, cho phép cưới thiếp, còn đờn bà không con, chẳng cho cải giá, việc ấy mất công bình, thiệt xử hiếp tôi lắm". Phán: "Loài súc sanh không biết hổ ngươi, hãy còn cãi rán! Buông lời nói hư phong hoá, không biết hồi sống mi kềm chế chồng mi ra thể nào ? Tánh đa dâm ghen tương như mi, đáng phạt đầu thai làm con điếm, ba mươi tuổi mắc ghẻ độc thúi lầy cả thân mình, bỏ thây dọc đường, chó heo ăn thịt cho bỏ ghét".
Phán quan đọc án kế: "Tào Thị là gái xằng, ở huyện Ngô Giang kế thất họ Chữ ở quận Trường Sa. Họ Chữ thác sớm . Tào thị khắc khổ con ghẻ trăm bề . Các việc ăn mặc đều thua con chung. Tới lúc tương phân thì chia phần hơn phần tốt cho con mình . Lịa khắc khổ dâu ghẻ, tới nỗi tức tối sanh bịnh mà chết!" Phán: "Con ghẻ thờ mẹ ghẻ có hiếu cũng như thờ mẹ đẻ một thể . Sao mẹ ghẻ khắc khổ con ghẻ dâu ghẻ đến thế, thiệt là lòng như cầm thú, đáng đầu thai làm súc vật mới xứng tội ." Phán quan tâu: "Tào thị đến già lòng thành niệm Phật và ăn chay cữ sát sanh ba năm ăn năn đền tội cầu siêu độ phần hồn". Phán: "Vậy thì khỏi đầu thai làm súc vật, song phải luân hồi làm tội mọi con dâu ghẻ, mà đền tội trọn đời ".
Phán quan đọc án kế: "Mười lăm vị hoà thượng pham tội dữ". Vua phán: Các sãi xuất gia đi tu, lẽ thì thành làm Phật tổ, cớ nào đeo đính bài tội dữ ?" Mười lăm hoà thượng tâu: "Nhờ vương gia từ bi dung thứ". Phán rằng: "Các sãi có hay tờ điệp của Phật Thích Ca mới gởi đến đây chăng?" Đồng tâu: "Chúng tôi chưa hay". Vua gởi điệp văn đọc lớn rằng: "Chùa chiền đời nay đã biến hư lắm, mối đạo Phật lưu truyền đã mỏn rồi, như ngọn đèn gần tắt . Các sãi tuy tiếng đi tu, thiệt nhiều người dối tệ . Trong một ngàn hoà thượng, lựa đặng chừng một hai người xứng đáng, không hổ thẹn mà thôi! Cõi Âm phủ phải tra xét cho hẳn hòi, đừng lầm các sãi dối thế". Đọc rồi phán rằng: "Các sãi đã thấy điều luật của các sãi tại cẳu nầy chăng ?" Đồng tâu: "Chưa thấy". Phán rằng: "Để trẩm giảng các tội án trong điều lệ tu hành cho mà nghe. Các sãi tuy đi tu, mà trong lòng khác nhau hết : Có kẻ cự nghịch với cha mẹ, giận lẫy mà đi tu, là tội bất hiếu lớn thứ nhứt, còn nói làm chi! Có kẻ giận anh em vợ con mà đi tu. Có kẻ bị cách xấu, mắc cở mà đi tu. Có kẻ quyết trốn xâu lậu thuế, vì đói rách mà đi tu. Có kẻ mê cảnh chùa tốt mà đi tu. Có kẻ mê mấy sãi nhỏ có bóng sắc muốn nhập vào cặp xách mới đi tu. Có kẻ ham làm chức hoà thượng sang trọng mà đi tu. Có kẻ mồ côi không ai nuôi mà đi tu. Có kẻ vô hậu không ai hoạn dưỡng mà đi tu. Có kẻ ngán việc đời là cuội giả, mộ đạo Phật là siêu độ linh hồn mà đi tu. Các sãi ai tu về cớ nào thì khai thiệt ? Các hoà thượng đồng tâu: "Xin vương gia từ bi thẩm xét, thiệt chúng tôi ngán việc đời, nên xuất gia đầu Phật mà cầu siêu độ linh hồn, chớ không có ý chi khác". Phán: "Các sãi đời nào xưng tội, mấy thuở chịu khai!" Truyền chỉ Phan quan dẫn các sãi đến đài Nguyệt cảnh chiêu thử . Nguyên tại nhứt điện là cửa đền thứ nhứt: vua Tần Quảng có lập cái đài Nguyện cảnh phái bên hữu cái điện chánh . Đài ấy cao mười một thước, trên có treo cái mặt kiếng Nguyệt cảnh lớn mười người ôm mới giáp vòng bề tròn treo chiếu qua hướng đông, trên giá treo mặt kiếng ấy có để bảy chữ rằng:
Nguyệt cảnh đài tiền, vô hảo nhân.
Thích nôm: Trước đài Nguyệt cảnh không người lành.
Các hồn chối án, thì quỉ sứ dẫn lên đài, mà ngó vô mặt kiếng, thì thấy hiện nguyên hình từ nhỏ tới chết, làm những việc chi đều ứng hiện hình thù như hát bóng đủ lớp nhớ lại nên chối không đặng . Vua Tần Quảng mới y luật mà xử, hoặc giải qua chín cửa đền khác, vân vân ....(8 cửa có ngục mà thôi).
Khi ấy các sãi, từ người soi kiếng đủ mặt rồi coi lại không có thầy nào chơn tu mộ đạo cho thiệt tình! Coi ra ba sãi ăn mặn uống rượu . Một sãi tà dâm, hãm hiếp . Bốn sãi mê các đạo nhỏ thanh sắc . Bốn sãi tham bạc, ăn gian của chùa . Trừ ra có ba sãi, cứ sớm tối tụng kinh, công phu, cất chùa, lên cốt Phật, lơ làm công quả trông chùa, chớ không thông mùi đạo. Vua cười ngất phán rằng: "Hèn chi đức Thế tôn quở trách các ngươi làm hư trong đạo Phật!" Liền phạt một sãi gian dâm với bốn sãi mê đạo chúng thanh sắc, cộng một bọn tà dâm năm sãi, đồng giam vào ngục. Tăng nho mới lập, không đặng luân hồi . Còn bốn sãi rượu thịt, đầu thai làm heo bà kia ăn cám hèm cho đã. Lại còn bốn sãi ăn gian của chùa, phạt làm lừa ba đời, chở đồ đi xa mà đền ơn cho các chủ bố thí . (Tại tham của nên cho chở đồ nhiều mới toại chí !) Trừ ra ba sãi thiệt thà, tuy quyết chí đi tu mà chưa thông đạo vị, nên cho đầu thai làm thầy chùa mà tu nữa; nếu siêng tu hành rõ thấu ba bực thì cũng được khỏi đoạ . Đền giải qua vua Đông Nhạc, đi lại vua thứ mười . (Chuyển luân vương) đầu thai.
Phán quan đọc án kế: "Họ Gia ở huyện Văn Mộng đưa đò dọc sông Bà Dương. Tháng chạp năm Nhâm thân, lén giết một người bộ hành lắy đặng ba mươi lăm lượng. Bị chúng cáo, quan tra không đủ cớ tha về . Sau mang bịnh nghèo khổ, đi ăn mày. Tới 38 tuổi, biết tội mình mới đi tu. Cứu trùng, kiến, nhiều lắm, lượm giấy chữ, cũng nhiều. Ăn chay làm lành thường bữa tụng kinh niệm Phật. Tu hai mươi năm như vậy, mà cầu tiêu tội sát nhơn, và nhờ phước kiếp sau." Phán: "May ngươi ăn chay làm lành, niệm Phật tụng kinh sáu hối (ăn năn cầu tiêu tội). Huống chi đã phạt làm ăn mày; đày đoạ đến kiếp, nên trừ tội giết người mà lấy của". Họ Gia Tâu: "Tôi trước đại phạm tội, sau ăn năn tu hành. Xin vương gia xét lẽ cho tôi nhờ". Phán: "Ngươi hãy đứng một bên, đợi trẫm xử án khác rồi sẽ định".
Phán quan đọc án kế: "Họ Lâm huyện Bành Thạch ông cha có làm phước giúp người. Còn họ Lâm kiếp trước là thầy tu, ăn chay bố thí 545 đôi giày rơm, trời lạnh bố thí cộng 65 chiếc chiếu. Nên đời nay 23 tuổi mà thi đỗ cử nhân, đậu rồi không giữ lòng lành. Tư tình với Kim thục Cô là gái ở một xóm rồi bỏ, nàng ấy tức mình thắt họng mà chết . Vã lại nết tham, lãnh việc kiện mướn, đem mối kiện thưa. Ra vào chốn nha môn lo lót cho chúng, bởi cớ ấy, giựt được vài trăm mẫu ruộng trong làng. Ăn thập trai chưa đặng một tháng ngã. Lại nói: "Dẫu ngã mà kiếp sau làm ăn mày cũng chịu. Quan âm, Chuẩn đề đã phú Táo quân dưng sớ tâu trên Ngọc đế phân: "Bỏ lệ chay kỳ là phạm luật Phật, nên phạt tội" Vua phán: "Ngươi nhờ đức tổ phụ và kiếp trước có tu, mà thi đỗ cử nhơn đáng lẽ tu thêm phước đức. Nào hay mê mụi, lung lăng làm dữ, lại nói ngã chay, nguyện làm ăn mày. Đáng lẽ cho hành đủ tam đồ. Song nghĩ ngươi thờ Quan đế với thờ Quan Âm hết lòng thành kỉnh, nên nay xử trảm, cho đặng luân hồi, thay hồn đổi xác, nhập vô thây ăn mày là họ Gia y theo lời nguyện. Còn Kim thục Cô đã đầu thai rồi làm con mọi xóm đồng. Ngày kia trước đi xin cơm tại nhà chủ nó cho nó đánh chết ngươi mà thường mạng thắt cổ hồi đó. Còn hồn họ Gia (coi án trước) nhập vào xác họ Lâm đặng làm cử nhơn, sống hưởng phước tới bảy mươi tuổi.