VietBest

Full Version: Kinh Sự Thật - Paramatthaka Sutta
You're currently viewing a stripped down version of our content. View the full version with proper formatting.
KINH PARAMATTHAKA SUTTA

[Image: kinh-sach.jpg]

Giơí Thiệu: Kinh “Paramatthaka Sutta” tiếng Anh có tựa đề là On Views/Supreme”, tiếng Việt là “Kinh Tối Thắng Tám kệ” thuộc Kinh Tiểu Bộ, Tập I - Kinh Tập Chương 4, Phẩm 8, từ kệ 796 đến 803. Do HT. Thích Minh Châu dịch Việt từ tạng Pali. HT. Thích Nhất Hạnh dịch mang tên Kinh Sự Thật Đích Thực. Đây là một trong một số bài kinh thuộc loại cổ xưa nhất, xuất hiện trong thời kỳ đầu của đạo Phật, khi những vị tăng hầu hết là có thâm niên tu hành và chú trọng thực hành hơn là những đề tài triết lý.

Kinh thuyết giảng về sự khác biệt về quan điểm của các giáo viên ở thành Savatthi (Thành Xá Vệ - một thành cổ ở Ấn Độ, kinh đô của vương quốc Kosala). Sau khi nghe về những tranh chấp liên tục của họ, nhà vua cho lệnh triệu tập một số người khiếm thị và đặt trước họ một con voi. Sau đó, họ được yêu cầu sờ vào voi, và mỗi người đã mô tả những gì nó xuất hiện giống như họ sờ vào. Nhà vua nói với các nhà dị giáo rằng quan điểm khác biệt của họ không đáng tin cậy như mô tả của những người mù sờ voi. Đức Phật nghe được điều này, liền giảng bài kinh để xác nhận sự phán xét của vị vua.

Tương tự như những người mù sờ voi, có người hay nhóm người cho rằng: “thế giới là thường còn”; số khác không đồng ý, bảo: “thế giới là vô thường”; số khác nữa lại bảo: “thế giới là có biên tế”; số nữa lại khẳng định: “thế giới là vô biên” v.v... Nhóm nào cũng cho rằng: “đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng”, “... như thế này không phải pháp, như thế này là pháp”. Họ cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi.

Vì thế kinh dạy rằng không nên đưa mình vào các suy đoán triết học, vào các quan điểm khác nhau mà không dẫn đến đâu và thúc đẩy các cuộc chiến. Đây là bản văn đầu tiên của kinh Pali nói lên sự từ bỏ hoàn toàn, và không bám víu vào bất kỳ quan điểm nào về "trở thành hoặc không trở thành", về giới cấm và lễ nghi.

Kinh Tập (Sutta Nipata)
Chương Bốn - Phẩm Tám 
Kinh Tối Thắng Tám Kệ 
Kinh Tiểu Bộ Tập I-Khuddhaka Nikàya,
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

796. Ai thiên trú trong kiến, 
Xem kiến ấy tối thắng, 
Ở đời đặt kiến ấy, 
Vào địa vị tối thượng. 
Người ấy nói tất cả, 
Người khác là hạ liệt, 
Do vậy không vượt khỏi, 
Sự tranh luận ở đời.

797. Khi nó thấy lợi ích, 
Đến với tự ngã nó, 
Đối với vật thấy nghe, 
Giới đức hay thọ tưởng; 
Vị ấy ở tại đấy, 
Liền chấp trước nắm giữ, 
Nó thấy mọi người khác, 
Là hạ liệt thấp kém.

798. Người y chỉ kiến ấy, 
Thấy người khác hạ liệt, 
Bậc thiện nói như vậy, 
Đấy là sự trói buộc; 
Do vậy đối thấy nghe, 
Thọ, tưởng hay giới cấm, 
Bậc Tỷ-kheo không có 
Y chỉ, nương tựa vào.

799. Chớ có tác thành ra 
Tri kiến ở trên đời, 
Từ ở nơi chánh trí, 
Hay từ nơi giới đức, 
Không bận tâm so sánh, 
Tự ngã bằng người khác, 
Không có suy nghĩ đến, 
Đây "liệt " hay đây "thắng".

800. Đoạn tận, từ bỏ ngã, 
Không chấp thủ sự gì, 
Không tác thành, dựng nên, 
Nương tựa ở nơi trí, 
Chân thật giữa tranh chấp 
Không theo phe phái nào, 
Vị ấy không đi theo 
Một loại tri kiến nào.

801. Với ai, hay cực đoan, 
Không có hướng nguyện gì, 
Với hữu và phi hữu, 
Hay đời này đời sau, 
Vị ấy không an trú, 
Tại một trú xứ nào, 
Từ bỏ mọi chấp thủ, 
Đối với tất cả pháp.

802. Đối vị ấy ở đây, 
Những gì được thấy nghe, 
Được cảm thọ tưởng đến, 
Chút suy tưởng cũng không; 
Vị Bà-la-môn ấy 
Không chấp thủ tri kiến, 
Không ai ở đời này 
Có thể chi phối được.

803. Họ không tác thành gì, 
Họ không đề cao gì, 
Các pháp không được họ, 
Chấp trước nắm giữ gì 
Không một Phạm chí nào, 
Bị giới cấm dắt dẫn, 
Đi đến bờ bên kia, 
Vị ấy không trở lui

Thư Viện Hoa Sen
Kinh Sự Thật Đích Thực
(Chân Đế Kinh, Paramattaka sutta, Attakavagga 5, Sutta Nipata)
Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh dịch Việt


796. Kẻ nào còn ôm ấp tư kiến, xem nhận thức của mình là cao nhất thế gian, cho rằng ‘kiến giải này là tối thượng’ và công kích mọi nhận thức khác, kẻ ấy còn được xem là chưa thoát khỏi vòng tranh chấp.

797.  Khi thấy, nghe hoặc cảm nhận được một điều gì rồi nghĩ rằng điều đó là cái duy nhất có thể đem lại lợi lạc và tiện nghi cho cá nhân và đoàn thể mình, người ta dễ có khuynh hướng bám víu vào điều ấy rồi cho rằng tất cả mọi kẻ khác so với mình đều là thua kém.

798. Bị lệ thuộc vào chủ thuyết mình đang theo và xem thường tất cả những kiến giải khác, điều này được kẻ trí nhận thức là một sự ràng buộc, là một sự đánh mất tự do. Kẻ hành giả đứng đắn không nên vội tin vào những gì mình nghe, thấy và cảm nhận, kể cả những cấm giới và lễ nghi.

799. Vị hành giả chân chính không có nhu yếu tạo ra một chủ thuyết mới cho thế gian, hoặc bằng kiến thức đã thu nhặt được, hoặc bằng những cấm giới và lễ lược đã được học hỏi, không tự cho mình là ‘hơn người’, ‘thua người’ hay ‘bằng người’.


800. Bậc thức giả là kẻ đã buông bỏ ý niệm về ‘ta’ và không còn giữ thái độ nắm bắt. Vị ấy không bị lệ thuộc vào bất cứ một cái gì, kể cả kiến thức, không đứng về phía nào khi có một cuộc tranh chấp và không còn duy trì một tư kiến hoặc một giáo điều nào nữa cả.

801. Vị ấy hoàn toàn không còn tìm cầu và nắm bắt, hoặc cái này hay cái kia, hoặc trong đời này hay trong đời khác. Vị ấy đã chấm dứt mọi tư kiến và không còn đi tìm sự nương náu hoặc an ủi và vỗ về trong bất cứ một chủ thuyết nào.

802. Bậc thức giả chân chính là người không còn tư kiến đối với những gì mình thấy, nghe và cảm nhận.
Làm sao còn có thể phê phán hoặc nắm bắt được bằng khái niệm một bậc hành giả thanh tịnh đã từ bỏ mọi tư kiến?

803. Bậc ấy quả không còn nhu yếu thiết lập một giáo điều hoặc chọn lựa một ý thức hệ. Mọi giáo điều và ý thức hệ đều đã bị bậc ấy buông bỏ. Kẻ cao sĩ không hề bị cấm giới và lễ nghi ràng buộc. Kẻ ấy đang đi từng bước vững chãi đến bờ giải thoát và không bao giờ còn trở lại chốn trầm luân.

Thư Viện Hoa Sen
(2018-04-26, 10:13 AM)anatta Wrote: [ -> ]Kinh Sự Thật Đích Thực
(Chân Đế Kinh, Paramattaka sutta, Attakavagga 5, Sutta Nipata)
Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh dịch Việt


796. Kẻ nào còn ôm ấp tư kiến, xem nhận thức của mình là cao nhất thế gian, cho rằng ‘kiến giải này là tối thượng’ và công kích mọi nhận thức khác, kẻ ấy còn được xem là chưa thoát khỏi vòng tranh chấp.

797.  Khi thấy, nghe hoặc cảm nhận được một điều gì rồi nghĩ rằng điều đó là cái duy nhất có thể đem lại lợi lạc và tiện nghi cho cá nhân và đoàn thể mình, người ta dễ có khuynh hướng bám víu vào điều ấy rồi cho rằng tất cả mọi kẻ khác so với mình đều là thua kém.

798. Bị lệ thuộc vào chủ thuyết mình đang theo và xem thường tất cả những kiến giải khác, điều này được kẻ trí nhận thức là một sự ràng buộc, là một sự đánh mất tự do. Kẻ hành giả đứng đắn không nên vội tin vào những gì mình nghe, thấy và cảm nhận, kể cả những cấm giới và lễ nghi.

799. Vị hành giả chân chính không có nhu yếu tạo ra một chủ thuyết mới cho thế gian, hoặc bằng kiến thức đã thu nhặt được, hoặc bằng những cấm giới và lễ lược đã được học hỏi, không tự cho mình là ‘hơn người’, ‘thua người’ hay ‘bằng người’.


800. Bậc thức giả là kẻ đã buông bỏ ý niệm về ‘ta’ và không còn giữ thái độ nắm bắt. Vị ấy không bị lệ thuộc vào bất cứ một cái gì, kể cả kiến thức, không đứng về phía nào khi có một cuộc tranh chấp và không còn duy trì một tư kiến hoặc một giáo điều nào nữa cả.

801. Vị ấy hoàn toàn không còn tìm cầu và nắm bắt, hoặc cái này hay cái kia, hoặc trong đời này hay trong đời khác. Vị ấy đã chấm dứt mọi tư kiến và không còn đi tìm sự nương náu hoặc an ủi và vỗ về trong bất cứ một chủ thuyết nào.

802. Bậc thức giả chân chính là người không còn tư kiến đối với những gì mình thấy, nghe và cảm nhận.
Làm sao còn có thể phê phán hoặc nắm bắt được bằng khái niệm một bậc hành giả thanh tịnh đã từ bỏ mọi tư kiến?

803. Bậc ấy quả không còn nhu yếu thiết lập một giáo điều hoặc chọn lựa một ý thức hệ. Mọi giáo điều và ý thức hệ đều đã bị bậc ấy buông bỏ. Kẻ cao sĩ không hề bị cấm giới và lễ nghi ràng buộc. Kẻ ấy đang đi từng bước vững chãi đến bờ giải thoát và không bao giờ còn trở lại chốn trầm luân.

Thư Viện Hoa Sen

Rất hay á! Cảm ơn anh Anatta.  Clap Clap Clap  

[Image: cute-smiling-smiley-emoticon.gif]