2020-06-23, 12:00 AM
CÁC KINH NÓI VỀ CHÁNH NIỆM
Trưởng lão Nyanaponika
Tỳ kheo Nanamoli
Người dịch: Lê Kim Kha
Trưởng lão Nyanaponika
Tỳ kheo Nanamoli
Người dịch: Lê Kim Kha
![[Image: meditation-3733111_960_720.jpg]](https://cdn.pixabay.com/photo/2018/10/08/17/36/meditation-3733111_960_720.jpg)
Lời người dịch:
Kính gửi quý đạo hữu:
Như Phật đã nói trong các kinh, ‘Chánh niệm’ là phương pháp quan trọng nhất trong sự tu tập theo đạo Phật để đi tới giải thoát. Việc tu tập chánh niệm về đối tượng thuộc bốn nhóm (nền tảng) đối tượng được coi là con đường trực chỉ để đi đạt đến sự giác ngộ.
Quyển sách này là từ bản dịch quyển sách ‘Trái Tim Của Thiền Phật Giáo’. Tuy nhiên, do ý nghĩa ‘sưu tập’ các lời kinh nói về chánh niệm, người dịch đã đưa thêm vào một số phần. Do vậy quyển sách này gồm các phần như sau:
PHẦN 1: là bản dịch toàn bộ PHẦN BA [NHỮNG BÔNG HOA GIẢI THOÁT] của quyển ‘Trái Tim Của Thiền Phật Giáo’ của trưởng lão Nyanaponika. Ngài đã công phu sưu tập các lời kinh nói về ‘Chánh niệm’.
PHẦN 2: là bản dịch của PHẦN HAI [BÀI KINH ‘CÁC NỀN TẢNG CHÁNH NIỆM] của quyển ‘Trái Tim Của Thiền Phật Giáo’ của trưởng lão Nyanaponika. Trong phần này, người dịch đưa thêm vào hai bản dịch của Tỳ kheo Tiến sĩ Analayo và Hòa thượng Tiến sĩ W. Rahula. Quý vị có thể so sánh. Hầu hết họ các bản đều giống nhau, chỉ có vài chữ khác nhau, tuỳ theo cách mỗi dịch giả cố diễn dịch ý nghĩa bao hàm của mấy chữ Pali đó ra ngôn ngữ phổ biến (tiếng Anh); cũng có dịch giả diễn dịch dựa vào ý nghĩa thực hành của những chữ đó.
PHẦN 3: là bản dịch của PHẦN I VÀ PHẦN IV của quyển sách nổi tiếng ‘Chánh Niệm Hơi Thở’ của Tỳ kheo Nanamoli: PHẦN I [BÀI KINH ‘CHÁNH NIỆM HƠI THỞ’] VÀ PHẦN II [Các trích đoạn khác về “Chánh Niệm Hơi Thở” trong các kinh Pali]. Ngài đã công phu sưu tập các lời kinh nói về ‘Chánh niệm Hơi Thở’.
Các chú thích cuối-trang và các chú thích trong ngoặc tròn (…) là của người dịch. Tất cả các chú thích cuối sách (cuối các Phần của sách) và các chú thích trong ngoặc vuông […] là của bản gốc. Hy vọng quý vị có thể đọc lại những lời kinh và càng thêm thấm nhuần lời lời dạy Đức Phật về phương pháp tu tập ‘Chánh niệm’. Mong mọi người mau tìm thấy cách tu đúng đắn.
Nhà Bè, Trung Thu 2015 (PL.2559)
Lê Kim Kha
Phần 1
TRONG TẠNG KINH PALI
BẢN CHẤT VÀ MỤC TIÊU CỦA ‘BỐN NỀN TẢNG CHÁNH NIỆM’
1
Con Đường Duy Nhất
Một lần Đức Phật ở trong khu rừng Uruvela, bên bờ sông Neranjara (Ni-liên-kiền), đang ngồi dưới gốc cây Đa nơi những người chăn dê hay ngồi. Và trong khi Phật đang ngồi an trú một mình như vậy, ý nghĩ sau đây đã khởi sinh trong Người:
“Đây là con đường duy-nhất để làm trong sạch chúng sinh, để vượt qua buồn đau và sầu bi, để diệt trừ sự khổ và phiền não, để bước tới con đường chánh đạo, để chứng ngộ Niết-bàn; con đường đó được gọi là bốn Nền Tảng Chánh Niệm.
“Bốn là gì? Ở đây, một người tu sống thực hành quán xét thân . . . thực hành quán xét những cảm giác . . . thực hành quán xét tâm . . . thực hành quán xét những đối tượng của tâm, ii nhiệt thành, hiểu biết rõ ràng và chánh-niệm, sau khi đã vượt qua những tham muốn và phiền não đối với thế giới.”
Lúc đó vị trời (Phạm Thiên) Brahma Sahampati nhận biết trong tâm về những ý nghĩ đó của Đức Thế Tôn, và nhanh chóng như một người khỏe mạnh duỗi cánh tay đang co hoặc co cánh tay đang duỗi, vua trời lập tức hạ giới và xuất hiện trước mặt Đức Thế Tôn. Chỉnh áo vắt ngang một vai, ngài chấp tay cúi chào Đức Thế Tôn và thưa rằng:
“Thật vậy, thưa Đức Thế Tôn! Thật vậy, Đức Thế Tôn! Đây là con đường duy nhất để làm trong sạch chúng sinh. . .; con đường đó được gọi là bốn Nền Tảng Chánh Niệm
Trời Brahma Sahampati đã nói như vậy. Sau khi nói xong, ngài nói thêm rằng:
Người thấy con đường duy nhất để chấm dứt tái sinh,
Vì tâm bi mẫn, Người biết con đường thánh đạo,
Nhờ con đường đó đã vượt qua Biển Khổ Sầu,
Cho cả hiện tại và tương lai.
Trưởng lão Nyanaponika (và nhiều dịch giả) đã dịch chữ ‘ekayano maggo’ là “con đường duy nhất. Tác giả cũng trích dẫn một giảng luận giải thích về chữ ‘duy nhất’ (ekayano) này, coi đoạn trích số 69 của sách này. Có một vài học giả dịch chữ ‘ekayano maggo’ là “con đường trực chỉ”, tức dịch chữ ‘ekayano’ là ‘trực chỉ’, ‘trực tiếp’. Coi thêm phần ‘Giải thích thêm’ ở cuối sách. 16 • Trưởng lão Nyanaponika.
ii Nguyên văn đầy đủ trong sách là: “Ở đây, một người tu sống thực hành sự quán-xét-thân về thân . . . thực hành sự quán-xét-cảm-giác về những cảm giác . . . thực hành sự quán-xét-tâm về tâm . . . thực hành sự quán-xét-đối-tượng-của-tâm về những đối tượng của tâm,”. Nhiều nhà sư và học giả trước giờ cũng ghi như vậy. Tỳ kheo Alayo thì dịch đoạn này là: “Ở đây, đối với thân (những cảm giác, tâm, những đối tượng của tâm), một Tỳ kheo sống thực hành quán-xét thân (những cảm giác, tâm, những đối tượng của tâm,)”. (Cách diễn đạt này cũng dễ đọc hơn trong tiếng Việt). Coi thêm phần ‘Giải thích thêm’ ở cuối sách.
•Trong tất cả các phần còn lại của sách, bản dịch Việt, các câu trên đều được ghi một cách giản lược: “thực hành quán xét thân… (những cảm giác, tâm, những đối tượng của tâm,)” như vậy.
Các kinh nói về Chánh-Niệm • 17 (S.47,11)Theo nội dung bài kinh, ý niệm của Phật về con đường giải thoát thông qua tu tập Chánh-Niệm đã có ngay sau khi Phật giác ngộ. Theo một kinh văn nguyên thủy, đó là bộ Đại Phẩm (Maha-Vagga) thuộc Luật Tạng (Vinaya-pitaka): sau khi giác ngộ, Đức Phật đã lưu trú bảy tuần ở khu vực xung quanh Cây Bồ-Đề. Tuần thứ năm và tuần thứ bảy Phật ngồi dưới bóng Cây Đa (ajapala-nigrodha: cây đa của người chăn dê), là nơi những người chăn dê thường ngồi mỗi khi họ chăn thả đàn dê ở gần đó. Đây chính là nơi chốn và thời gian đã được nói trong bài kinh.
Còn tiếp.