Góc phố xưa...
#1
Góc phố xưa, ta đã gặp nhau ngày nào,
 Góc phố xưa, ta đã cùng nhau...húp tô phở nóng :full-moon-with-face4: 







Phở Việt - Kỳ 1: Khởi nguồn của phở

Ẩm thực là chiếc gương soi chân thực cho nền văn hóa của mỗi quốc gia. Người Ý tự hào với bánh pizza, người Hoa tự hào với bánh bao, người Nhật có sushi... Còn Việt Nam, đó chính là phở!

Phở : Món đồ ăn bằng bánh thái nhỏ nấu với thịt bò (định nghĩa về phở của Tự điển Khai Trí năm 1930)


Dân Nho học nói nhiều đến nguồn gốc Tàu của phở. Theo họ, phở sinh ra từ món "phấn" Quảng Đông.

"Phở" không Tàu, cũng chẳng Tây
Theo họ, tiếng "phở" được đọc trẹo đi từ chữ "phấn" của món trư nhục phấn. Song kỹ thuật chế biến món trư nhục phấn hoàn toàn xa lạ với hương vị phở Việt. Lại có một thuyết khác cho rằng phở có nguồn gốc từ một món ăn pot - au - feu của Phú Lang Sa và phở chính là tiếng "bồi" của từ feu (tiếng Pháp: lửa). 
Tuy nhiên, khi tra cứu về món pot - au - feu trong tự điển Larousse của Pháp, đây là món xúp nấu "hầm bà lằng" bằng thịt bò hầm với nhiều loại rau củ như cà rốt, tỏi tây, củ cải... chẳng ăn nhập gì với món phở Việt cả về hình thức đến nội dung. 

Hơn nữa, pot - au - feu lại là món thức ăn mặn dùng với bánh mì của người Pháp.
Trong khi đó, truyền ngôn dân gian khá phù hợp với những tư liệu còn lại từ đầu thế kỷ 20: phở có tiền thân từ món xáo trâu ra đời dân dã từ các bãi, bến sông Hồng vào những năm đầu của thế kỷ 20. 
Lúc khởi đầu đó là món ăn phục vụ tầng lớp bình dân, phu phen lam lũ. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, sau khi người Pháp chính thức đặt nền bảo hộ lên toàn cõi Việt Nam, Hà Nội mới chỉ có vài ba hàng thịt bò phục vụ Pháp kiều, thường hay ế ẩm, nhất là bộ xương chẳng biết làm gì. 
[Image: 24993058102152433556638001114648679o-1-1...723852.jpg]
Phở Sài Gòn - Ảnh: GIA TIẾN
Những năm 1908-1909, có khá nhiều tuyến tàu thủy hơi nước chạy từ Hà Nội đi Hải Phòng, Nam Định, Phủ Lạng Thương. 
Lại thêm các tuyến thuyền mành chở nước mắm, đồ khô từ xứ Thanh Nghệ ra tạo nên một quang cảnh vô cùng náo nhiệt, sầm uất nơi bến sông Hồng. 
Ở đó đã xuất hiện một nhu cầu ẩm thực bình dân to lớn. Các hàng quà ùn ùn đổ về bến sông, song món xáo trâu được ưa chuộng nhất, vừa rẻ vừa chắc bụng.
Cảnh thịt bò ế ẩm và xương bò được khuyến mãi cho không khi mua thịt từ các gánh xáo trâu đã được các bà học nhau chuyển sang thành xáo bò. 
Thịt bò mùi gây khi nguội nên lò lửa liu riu được phát kiến, chẳng mấy chốc món ăn mới này lan tràn suốt từ ô Quan Chưởng xuống tới ô Hàng Mắm. 
Đến nỗi được ông Henri Oger lưu lại hình ảnh gánh phở rong trong tập sách quý giá Kỹ thuật của người An Nam (Technique du peuple Annamite 1908-1909).
Tên gọi phở vốn còn nhiều uẩn khúc. Hãy cùng lội ngược dòng thời gian trở về thời kỳ phở ra đời.
Lúc phở xuất hiện ở thập niên đầu của thế kỷ 20, Nho học vẫn đang ngự trị xã hội Việt Nam. Hai học giả Pháp nổi tiếng về Việt Nam học P.Huard và M.Durand đã phân tích chữ phở tiếng Nôm gồm ba chữ Hán ghép lại: a/chữ mễ (lúa), b/chữ ngôn (lời nói), c/chữ phổ (phổ biến). 
Từ phở hiểu nôm là món ăn chế biến từ lúa gạo phổ biến trong đại chúng và phát âm là "phổ". Tiếng rao của các hàng quà rong vốn dĩ nghe rất du dương có vần, có điệu, đôi khi còn luyến láy như hát biến âm đủ thanh sắc rót vào tai người nghe. 
Tiếng rao món phở âm Nôm: "phố đây, phố ơ!"... rồi "phớ ơ!" lái âm, tam sao thất bản thành tên "phở"! Theo tôi, tên phở đi ra từ âm chữ Nôm là cách lý giải sâu sắc, logic và hợp lý nhất.
[Image: 20170119073657-1512715777322.jpg]
Phở Hà Nội - Ảnh: GIA TIẾN
Phở Việt hơn trăm tuổi
Danh từ phở được chính thức ấn hành lần đầu trong cuốn Việt Nam tự điển (1930) do Hội Khai trí Tiến Đức Hà Nội khởi thảo. Nhưng phở đã bao nhiêu tuổi đời?
Tuổi khai sinh của phở chẳng được sử liệu ghi nhận chính thức cũng là lẽ hiển nhiên. Nhà văn lão làng Nguyễn Công Hoan (1903-1977) đã cho biết khá chính xác cái tuổi hơn 100 của món ăn độc đáo này. Ông ghi nhận: "1913... trọ số 8 hàng Hài... thỉnh thoảng tối được ăn phở (gánh phở rong). Mỗi bát 2 xu, có bát 3 xu, 5 xu".
Một nhân chứng nữa cho tuổi của phở là cụ Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936). Cụ đã vô tình để lại dấu ấn về tuổi phở trong lá thư gửi về từ Paris cho gia đình đề năm 1906: "... nghe tiếng rao hàng bên đó làm nhớ về Việt Nam, nhớ cả tiếng rao phở mỗi sáng tinh mơ". 
Rồi G.Dumoutier - nhà nghiên cứu cần mẫn để lại rất nhiều tư liệu giá trị trong mọi lĩnh vực Việt Nam học - cũng khẳng định: "Phở chưa từng xuất hiện ở Việt Nam trước năm 1907!". Đó chính là những nguồn tư liệu, bằng chứng có tính khoa học, thuyết phục nhất về cái tuổi hơn 100 năm của phở Việt. 
Bức tranh Gánh phở rong ở Hà Nội vẽ người bán phở gánh ở phố cổ Hà Nội của họa sĩ Pháp Maurice Salge vẽ năm 1913 là một minh họa sống động thuyết phục nữa về phở đêm ở Hà thành.
[Image: tranh-ganh-pho-rong-1read-only-1512702556675.jpg]
Tranh "Gánh phở rong ở Hà Nội" của Maurice Salge (1913)
Tuổi hơn 100 năm của phở còn được khẳng định qua các cuốn tự điển Việt. Tự điển Việt - Bồ - La của Alexandre Rhodes xuất bản năm 1651 không có từ "phở". Tự điển Huỳnh Tịnh Của (1895), tự điển Genibrel (1898) cũng vậy. 
Phải chờ tới cuốn tự điển giải thích của Hội Khai trí Tiến Đức xuất bản năm 1930, từ phở mới chính thức trình làng và được ghi rõ: "...Món đồ ăn bằng bánh thái nhỏ nấu với thịt bò". Điều này củng cố thêm luận chứng phở chỉ có thể sinh ra trong khoảng từ 1900 -1907, cho phép ta đoán định chính xác về cái tuổi đã hơn 110 năm của phở Việt.
[Image: phoanh1-bai1-1read-only-1512702590525.jpg]
Một gánh phở ở Hà Nội đầu thế kỷ 20 - Ảnh tư liệu

[Image: photo1512715947365-1512715947366.jpg]
"Ngày của phở" 12-12

Người Nhật đã chọn ngày 4-4 là Ngày phở Việt Nam tại Nhật Bản. Tại sao trên quê hương của phở lại không có ngày truyền thống để tôn vinh phở - một biểu trưng của ẩm thực Việt?
Vì lẽ đó, vào ngày 12-12-2017,  Công ty CP Acecook Việt Nam sẽ tổ chức Ngày của phở .
Đây sẽ là một hoạt động truyền thống hằng năm. Kể từ năm 2018, "Ngày của phở "sẽ được tổ chức thành một hoạt động du lịch, văn hóa cộng đồng

Reply
#2
Phở Việt - Kỳ 2: Từ phở bò đến phở gà



 Chỉ trong một thời gian ngắn, quán phở bành trướng thêm nhiều và đến năm 1930, phở đã lan tràn khắp nẻo phố phường Hà Nội.
  •  
[Image: 1-1512788731391.jpg]
Phở gà sinh sau đẻ muộn, nhưng đã song hành cùng phở bò - Ảnh: NGUYỄN KHÁNH

Dù rất nhiều người phản đối, nhất là những “con chiên ngoan đạo” của phở bò, dòng phở gà vẫn chính thức ra đời và phát triển

Chuyện ông Tàu Bay

Một trong những tiệm phở lâu đời, bền bỉ nhất còn đến ngày nay chính là phở Tàu Bay. Tính đến nay (2017), thương hiệu phở này đã bước sang tuổi 79, thuộc lớp xưa nay hiếm! Chủ nhân của gánh phở Tàu Bay được nhà văn Tô Hoài xác nhận có tên thật là Phạm Đăng Nhàn. 
Gánh phở ông Nhàn hành nghề từ năm 1938 ở vườn hoa Hàng Kèn, trước cổng Sở Hưu bổng Đông Dương. 
Sáng sớm tinh mơ hằng ngày, lão Tàu Bay cần mẫn dọn gánh phở bán sớm cạnh dốc, bên gốc cây thị đầu sân vào Sở Hưu bổng. Chỉ là tình cờ, ông rất thích cái mũ lưỡi trai da hao hao giống mũ phi công nên thường xuyên đội nó. 

Thực khách rất lạ mắt với hình ảnh ngồ ngộ của ông - không bao giờ thiếu cái mũ da sùm sụp trên đầu, lại không biết tên ông, họ bèn gọi ông theo lối dân dã trìu mến: "Ông Tàu Bay". Gọi riết rồi chết tên và thành luôn tên gánh phở.
Phở của ông Tàu Bay ngon nổi tiếng, mỗi sáng khách kéo tới ăn phở làm ồn ào trước sân công sở. Viên chánh sở người Pháp nổi giận ra lệnh đuổi ông. 
May cho ông Nhàn, viên chủ sự người Việt của Sở Hưu bổng là ông Đỗ Phúc Lâm rất mê phở Tàu Bay đã năn nỉ viên chánh sở người Pháp cho ông Nhàn được ở lại bán phở. Từ gánh phở rong, ông Tàu Bay ăn nên làm ra phát đạt. 
Năm 1952, phở Tàu Bay chính hiệu tọa lạc ở cửa đền cây si phố Sơn Tây, gần bến xe Kim Mã rẽ vào. Sau ông mở hẳn chuỗi cửa hàng phở đình đám bậc nhất đất Hà thành thời tạm chiếm.
Năm 2015, tình cờ tôi gặp ông Nguyễn Đỗ Nam, hậu duệ đời thứ 3 bên ngoại của phở Tàu Bay. Ông này cho biết phở Tàu Bay đã được tổ chức theo "chuỗi cửa hàng" từ hơn nửa thế kỷ trước. Thế mới biết chuỗi cửa hàng Phở 24 cũng chẳng có gì mới mẻ so với tiền nhân. 
Chuỗi cửa hàng này gồm 6 hàng phở nằm trong khu Hà Nội 36 phố phường cổ kính. Hằng ngày từ 4h-5h sáng, thịt bò tươi, bánh phở vừa thái xong được mang phân phối tới từng cửa hàng thành viên. 
Sau đó, đích thân ông chủ Tàu Bay bảnh chọe trong bộ đồ vét tây lái xe hơi đi kiểm tra từng cửa hàng một. Mối quan tâm hàng đầu của ông là nồi nước dùng phải đúng vị, đặc trưng của bản tiệm, sau nữa cửa hàng phải sạch sẽ ngăn nắp. 
Tự tay ông nếm nước dùng và cho lệnh mở cửa. Ngày nào cũng vậy, quy trình nghiêm ngặt ấy không được suy suyển. Đã có lần khi đi kiểm tra, có cửa hàng nước dùng không đạt hương vị... ông bắt đóng cửa không cho mở hàng!

Phở gà song hành cùng phở bò

Năm 1939, phở gà xuất hiện, bởi khi ấy một tuần có hai ngày: thứ hai và thứ sáu không có thịt bò bán, các tiệm phở đành bó tay (lúc này tủ lạnh chưa ra đời). 
Chưa rõ vì sao có sự cố này (?), song có lẽ một nguyên nhân khó thể bỏ qua bởi việc giết mổ trâu bò luôn bị hạn chế suốt thời phong kiến, do trâu bò vẫn là sức kéo chính cho nền nông nghiệp lúa nước Việt Nam.
Với giới hâm mộ phở thì không thể thiếu phở dù chỉ một ngày! Để đáp ứng thịnh tình ấy, một số quán xoay sang thử nghiệm món phở gà. 
Buổi ban đầu, các bậc trưởng lão làng phở phán rằng: "Phở gà không thể sánh với phở bò, bởi cái nước dùng từ xương gà nhạt nhẽo không thể sánh với nồi nước cốt ninh trên bếp lửa hồng suốt 6 giờ của xương bò!". 
Quả có vậy, chất ngọt từ xương ống và tủy xương bò như quyện với gia vị hồi, quế, thảo quả... tự lúc nào đã biến vị nước dùng của món phở bò trở thành chất "gây nghiện", khiến nhiều "môn đồ trung thành" của phở không thể nguôi ngoai.
Nhưng rồi vị thơm ngon của những chú gà đi bộ, sợi thịt trắng phau, lớp da vàng óng giòn sần sật, đặc biệt độ bùi, ngậy của buồng trứng non đã dần thay đổi định kiến của thực khách. 
Đặc biệt, hương vị hành hoa thái lẫn rau mùi, thêm lá chanh bánh tẻ thái chỉ thơm thơm dường như mang lại cho phở gà một sức sống mới, một cái gì rất hương đồng gió nội, mộc mạc và gần gũi khiến nhiều người nghĩ lại. 
Không ít kẻ si tình còn thi vị hóa vị phở gà thành "hương thanh tân" con gái tuổi dậy thì so với cái "hào khí ngùn ngụt" của anh phở bò cục súc.
Dù rất nhiều người phản đối, nhất là những "con chiên ngoan đạo" của phở bò, dòng phở gà vẫn chính thức ra đời và phát triển. 
Nhiều chủ quán phở bò nhất định treo dao, đóng cửa vào hai ngày không có thịt bò trong tuần, nhưng cũng không ngăn nổi phở gà phát triển. Từ sau năm 1939, hai dòng phở bò và phở gà chính thức ngự trị song hành cùng nhau trong lòng thực khách Việt.
Nghĩa tình của ông bán phở
[Image: 1-1512788852535.jpg]
Phở Tàu Bay ngày nay và ông chủ - một trong những hậu duệ của ông Tầu Bay - cùng bức ảnh của tiệm phở này tại Sài Gòn 1954 - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Ông chủ sự Lâm - ân nhân của ông Nhàn - sau ngày Hà Nội khởi nghĩa 19-8-1945 thì mất việc, lại phải nuôi một đàn con dại nên lâm vào cảnh túng quẫn.
Ông Nhàn được dịp trả ơn xưa bèn giúp ông Lâm mở quán phở, cùng lấy thương hiệu Tàu Bay tại số 20 Nguyễn Trãi và cho đứa cháu sang trợ giúp bí quyết chế biến phở. Quán phở Tàu Bay của ông Lâm nhanh chóng nổi tiếng. Hôm nào cũng đông khách ngồi tràn ra cả vỉa hè.


Phở Việt - Kỳ 3: Phở 'hành phương Nam'
 

 - Năm 1954, theo chân những người Bắc di cư, mở ra cuộc "Nam tiến lần thứ nhất" đại quy mô của phở Việt, chính thức mở màn cho sự bành trướng của phở trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
  •  
[Image: pho-viet-1-ky3-1512880722578.jpg]
Ông chủ phở Dậu ân cần hỏi thăm thực khách - Ảnh: Q.ĐỊNH
Phở có thể đã có ở miền Nam trước năm 1954, song đó là loại phở lai, nhập nhằng với món hủ tiếu của người Hoa và hoàn toàn mờ nhạt trong menu ẩm thực đất phương Nam. Tình hình hoàn toàn đổi khác sau cuộc di cư ồ ạt từ Bắc vào Nam của cả triệu con người.

Phở Nam tiến

Khi Nam tiến, phở mau mắn định dạng một phong vị riêng, khác biệt với phở Bắc truyền thống. 
Cái phong thái dễ dãi, dễ thích nghi của vùng đất "Hợp chủng Nam Kỳ quốc" thể hiện ngay trong bát phở: thêm giá sống, rau thơm, húng quế, ngò gai cho bỗ bã mát ruột, thêm sắc ngọt của đường và các vị tương đen, tương đỏ của người Hoa. 

Trong biến cố lịch sử trọng đại này, con cháu của một số hàng phở nổi tiếng Hà Nội đã tích cực tham gia cuộc Nam tiến lập nghiệp, trong đó có phở Tàu Bay.
Thời cuộc xoay vần, năm 1954 cả gia đình ông Tàu Bay hối hả di cư vào Nam và tiếp tục sự nghiệp phở Tàu Bay trên đường Lý Thái Tổ (Q.10, Sài Gòn). Nay phở Tàu Bay tại TP.HCM có vài ba quán là con cháu ông Tàu Bay quá cố, cũng đôi chút phảng phất mùi vị phở Bắc, gánh phở ông Tàu Bay xưa. 
Ông mất năm 1976, phở Tàu Bay trở thành gia sản của bốn người con và gần mười người cháu nội, cháu ngoại. Tuy nhiên, nghiệp phở Tàu Bay ở phương Nam không tìm lại được thời thịnh vượng chốn Hà thành của ông Tàu Bay xưa.
Hiệu phở Nam nổi tiếng được người nước ngoài biết đến nhiều nhất Sài Gòn phải điểm danh tới là phở Hòa - Pasteur! Phở Hòa nằm trên đường Pasteur được hưởng cái dư vị vốn là nơi tập trung nhiều xe phở ngon nổi tiếng ở Sài Gòn từ hơn 50 năm trước. 
Tính từ thời gian chính thức mở tiệm, phở Hòa chưa đến 50 năm, nhưng nếu kể cả đời chủ trước, từ xe phở Hòa (người đã truyền nghề cho phở Hòa hiện nay) thì tiệm này thuộc bậc tiền bối của làng phở Sài thành. 
Bởi thế khi nhắc đến những quán phở nổi tiếng lâu đời Sài Gòn sẽ không thể không kể tên phở Hòa. 
Ban đầu, lúc khởi nghiệp khoảng năm 1960, tiệm mang tên Hòa Lộc, sau thực khách truyền miệng nhau... dần dà rơi mất chữ Lộc lúc nào không biết, chỉ còn lại chữ Hòa: phở Hòa! Gọn, dễ nhớ đúng theo quy luật bất thành văn về loại tên "nhất tự" đặc thù của phở.
Một quán phở khác ở Sài Gòn cũng rất nổi tiếng vì giữ nguyên hương vị là phở Dậu. Đã hơn 55 năm trôi qua, cho tới ngày nay phở Dậu vẫn không làm giới mộ điệu phở Bắc thất vọng bởi sự trung thành với tôn chỉ ban đầu. 
Tọa lạc trong con hẻm 288 khiêm tốn trên đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa), phở Dậu trước 1975 còn được gọi là "phở Nguyễn Cao Kỳ" cũng bởi nhờ cái vị Bắc hợp gu với vị tướng râu kẽm. 
Lẽ dĩ nhiên cái tên ấy cũng giúp thương hiệu phở Dậu thêm nặng ký. Uông Văn Bình, ông chủ của quán phở Dậu, cho biết gia đình ông rời Nam Định vào Sài Gòn và mở quán phở từ năm 1958. 
Nhiều thực khách lúc trà dư tửu hậu, khi bình chọn với nhau đều công nhận rằng nước lèo của phở Dậu trong và thanh nhất Sài Gòn! Phở Dậu đến nay vẫn không có rau, giá và tương đen dọn kèm như các quán phở khác ở Sài Gòn.
[Image: pho-viet-2-ky3-1512880722579.jpg]
Phở Bát Đàn ngày nay vẫn còn giữ nét truyền thống xếp hàng như thời chiến tranh - Ảnh: NGUYỄN KHÁNH

Chuyện phở Bắc thời chiến
Năm 1964, cuộc chiến tranh ở miền Bắc bùng nổ đã tạo cho phở một diện mạo đặc biệt. Dân gian sáng tạo nên cụm từ "phở không người lái" (loại phở chỉ chan nước dùng, không có thịt). Nghe nó ngộ nghĩnh, hài hước song xét về nghĩa đen là rất chuẩn.
Thuở ấy ăn phở mậu dịch, chất lượng phở quốc doanh ở các cửa hàng này hoàn toàn tùy thuộc vào tay nghề hạn chế của các nhân viên không chuyên nhưng có rất nhiều sáng kiến. Họ biến tấu các loại gia vị, cách nấu nước dùng theo những gì họ có, họ kiếm được trong hoàn cảnh thời chiến thiếu thốn đủ thứ. 
Một "phát kiến vĩ đại" của thời kỳ này là bản "hợp tấu" phở "không người lái" ăn với bánh mì hoặc cơm nguội.
Tuy bom đạn ngày đêm gào thét, ở Hà Nội người ta vẫn có phở ngon, phở truyền thống để thưởng thức. 
Phở Thìn bờ hồ từng là điểm ưa thích của nhiều công dân thủ đô thời ấy. Ông chủ tiệm người nhỏ thó, tay vung dao làm bát phở như múa võ với những nhịp đập thịt tái, hành củ chan chát vui tai. 
Ăn phở Thìn phải xếp hàng, trả tiền trước (phở mậu dịch cũng vậy) và tự bưng bê phục vụ... Bù lại, ông chủ luôn miệng kể chuyện thời sự như một chương trình radio miễn phí.
Do trốn đi lính cho Pháp, năm 1949 ông Thìn bôn tẩu lên Hà Nội chọn nghề kiếm sống bằng gánh phở lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm thủ đô. 
Dần dà có uy tín, năm 1955 ông quyết định dừng chân mở quán ở đường Đinh Tiên Hoàng bên kia đền Ngọc Sơn và đã sống chết với thủ đô tới tận ngày nay. Ông có chín người con, có tới năm người kế nghiệp ông mở quán đều mang tên "phở Thìn". 
Ông tự bộc bạch: "Phở là cuộc sống của tôi!".
Thời kỳ bao cấp của nền kinh tế kế hoạch còn đeo đuổi dân Việt đến tận thập niên 80-90 thế kỷ trước. Phở ghi dấu ấn thời kỳ này là thời kỳ "phở bản vị" quy thay cho giá trị tiền. 
Thời bao cấp, mọi thứ chi tiêu thường được dân gian "quy ra phở". Lương kỹ sư mới ra trường tương đương 30 bát phở (5 hào/bát); chầu bia vỉa hè kèm gói lạc rang: 1,5 bát phở; vá xe máy: 1 bát phở... và thật khôi hài đến chảy nước mắt với giá "vá dạ dày" (tiền thù lao mổ dạ dày) của bác sĩ không ăn nổi một bát phở. 
Ấy là chuyện nhà nước, còn chuyện đời lại khác. Bác sĩ Vân A (cây dao vàng mổ dạ dày số 1 Việt Nam ở Bệnh viện Việt Đức) chuyên ăn phở 1 hào! 
Chuyện rằng, vị bác sĩ khả ái đi ăn phở ở quán bệnh nhân quen. Cảm ơn đức độ của ân nhân cứu sống mình, chủ quán không chịu lấy tiền. Vốn là dân Tây học, thích sòng phẳng, ông đòi trả tiền cho bằng được. 
Chiều lòng khách quý, ông chủ quán phở đành ngập ngừng: "Bác cho con xin 1 hào". Thế là cả đời vị bác sĩ này ăn phở 1 hào!






Nguồn gốc của Phở

Nhân đọc bài Phở Việt Nam trên Văn chương Việt, chúng tôi thử đi tìm cội nguồn của món ăn này trên Internet. Thật bất ngờ, khi gõ từ khóa nguồn gốc của phở vào ô tìm kiếm Google chúng tôi thấy hàng trăm bài viết về vấn đề này và nhận ra rằng… người ta đã nói quá nhiều về phở, nhưng chưa thống nhất quan điểm về nguồn gốc. Vì thế, chúng tôi xin phép tham gia “cuộc tọa đàm”này, hy vọng rằng có thể làm sáng tỏ đôi điều…

Phở ra đời từ năm nào?
Có thể khẳng định rằng tính đến năm 1838, từ “phở” chưa xuất hiện trong từ điển, bởi vì trong năm này, quyển Dictionarium Anamitico Latinum của AJ.L Taberd (còn gọi là Từ điển Taberd) được xuất bản lần đầu, nhưng trong đó không có từ “phở”. Theo nhà nghiên cứu Đinh Trọng Hiếu, chữ phở lở xuất hiện trong từ điển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình-Tịnh Paulus Của (1896) với nghĩa là “nổi tiếng tăm”(trang 200). Năm 1898, phở có mặt trong Dictionnaire Annamite-Français của  J.F.M. Génibrel với nghĩa là “ồn ào” (trang 614). Trong bài Essai sur les Tonkinois (Khảo luận về người Bắc Kỳ) đăng trên Revue Indochinoise (Tạp chí Đông Dương) ngày 15-9-1907, Georges Dumonutier đã giới thiệu nhiều thức ăn uống phổ biến ở miền Bắc vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 nhưng không hề nhắc tới món phở. Đến năm 1931, từ phở có nghĩa là một món ăn mới bắt đầu xuất hiện, ít nhất là trong quyển Việt Nam Tự Điển của Ban Văn học Hội Khai Trí Tiến Đức (NXB Mặc Lâm): phở “do chữ phấn mà ra. Món đồ ăn bằng bánh thái nhỏ nấu với thịt bò: Phở xào, phở tái” (trang 443) (1). Một khi từ phở đã xuất hiện trong từ điển thì ta có quyền tin rằng món ăn này đã phổ biến. Thật vậy, trong tác phẩm Nhớ và ghi về Hà Nội, nhà văn Nguyễn Công Hoan viết: “1913… trọ số 8 hàng Hài… thỉnh thoảng, tối được ăn phở (hàng phở rong). Mỗi bát 2 xu (có bát 3 xu,5 xu)”(2). Từ yếu tố này ta có thể khẳng định phở đã ra đời từ đầu thế kỷ 20.
Nguồn gốc của phở
Hiện nay, có ba quan điểm chính, cho thấy sự khác nhau về nguồn gốc của phở, đó là : phở xuất phát từ món pot-au-feu của Pháp, từ  món ngưu nhục phấn của Trung Quốc và cuối cùng là món xáo trâu của Việt Nam. Chúng ta sẽ lần lượt tham khảo từng quan điểm để xem phở thật sự có nguồn gốc từ đâu.
Gốc Pháp
Có giả thuyết cho rằng phở bắt nguồn từ món pot-au-feu của Pháp. Phở là  cách nói tắt của pot-au-feu (nói trại âm tiết feu). Quan điểm này được củng cố bằng quyển Dictionnaire Annamite-Chinois-Français của Gustave Hue (1937) với định nghĩa: “Cháo phở: pot-au-feu” (trang 745).
[Image: Pot-au-Feu.jpg]
Món pot-au-feu (ảnh)
Chúng tôi thật sự không hiểu: pot-au-feu là món thịt bò hầm của Pháp, nước có thể làm súp, chế biến nước sốt, nấu rau hay mì ống, tại sao lại có thể ghép món này với cháo phở của Việt Nam, cho dù trong giai đoạn ấy, do ảnh hưởng người Pháp, người Việt đã bắt đầu làm quen với việc ăn thịt bò và đã biết nấu món cháo thịt bò. Trên thực tế, xét về nguyên liệu, cách chế biến và cả cách ăn  thì phở và pot-au-feu là hai món hoàn toàn khác nhau,. Theo Wikipedia, pot-au-feu là  món thịt bò hầm với cà rốt, củ cải, tỏi tây, cần tây, hành tây; kết hợp với rau thơm, muối, tiêu đen và đinh hương… Thịt bò sử dụng cho món này thường dầy và to (chưa kể đuôi, xương sườn, sụn, cổ chân…), trong khi đó thịt bò trong phở lại mỏng và nhỏ; mặt khác, những thứ như cà rốt, củ cải, tỏi tây… không phải là nguyên liệu để làm phở, mùi vị pot-au-feu cũng không giống như phở. Người Pháp ăn món này với bánh mì, khoai tây, dùng muối thô, mù tạt Dijon, đôi khi cũng ăn với dưa chuột ri ngâm giấm chứ không ăn với bánh phở. Do đó, thật sai lầm khi cho rằng phở có nguồn gốc từ món pot-au-feu.

Gốc Trung Quốc
Đây là giả thuyết mà nhiều người đồng ý nhất. Người ta cho rằng phở có nguồn gốc từ món Ngưu nhục phấn 牛肉粉 của Trung Quốc, một món làm từ bún và thịt bò (ngưu牛: bò; nhục 肉: thịt và phấn 粉: bún, bột gạo dạng sợi). Món này đọc theo tiếng Quảng Đông là Ngầu yụk -phẳn. Vào đầu thế kỷ 20, nhiều người Trung Quốc đã bán món Ngưu nhục phấn tại Hà Nội. Ban đêm họ đi rao hàng “ngầu.. yụk..phẳn ..a” rồi dần dần hô tắt còn “yụk …phẳn…a” rồi “phẳn…a” và cuối cùng hô trại thành “phở”. Quan điểm này giống như ghi nhận trong quyển Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (đã nêu trên): phở “do chữ phấn mà ra”.
Củng cố thêm là định nghĩa về phở trong quyển Dictionnaire Annamite-Chinois-Français (Từ điển An Nam-Trung Hoa –Pháp) của Gustave Hue (1937), trong đó có đoạn: “Abréviation de “lục phở: phở xào: beignet farci et sauté” nghĩa là “viết tắt của từ “lục phở”: phở xào: thứ bánh có nhân và được chiên”. Nhiều người thắc mắc, không biết “lục phở” là cái gì. Theo chúng tôi đây là từ có thật. Tương truyền rằng ngày xưa, các cụ đồ làng Mịn (xã Văn môn, Yên phong, Bắc Ninh) có sáng tác một bài thơ nói về chợ Đồng Xuân, để các cô đi chợ ngâm nga giải trí trên đường đi, trong đó có câu liên quan tới “lục phở”, xin trích đoạn sau:
—-
Cổng chợ có chị bán hoa
Có chú đổi bạc đi ra đi vào
Có hàng lục phở bán rao
Kẹo cao, kẹo đoạn, miến sào, bún bung
Lại thêm bánh rán, kẹo vừng
Trước mặt hàng trả, sau lưng hàng giò
……
Trong quyển Dictionnaire Vietnamien Chinois Francais của Eugèn Gouin (Saigon, 1957) có một đoạn viết về từ “lục phở”: “abréviation de “lục phở”: bouilli – cháo – pot au feu”…, “Lục phở: prononciation cantonaise des caractères chinois: (ngưu) nhục phấn” bouilli de boeuf. Vậy, “phở” là từ rút ngắn của ” lục phở”, còn “lục phở” là từ phát âm của “(ngưu) nhục phấn” trong tiếng Trung Hoa.
Đến năm 1970, Nhà sách Khai Trí ( Sài-gòn) xuất bản quyển Việt Nam Tự-điển, do Lê Ngọc Trụ hiệu đính thì quan điểm này càng thêm phần vững chắc hơn, trong đó định nghĩa “phở” như sau: “Món ăn bằng bột gạo tráng mỏng hấp chín xắt thành sợi nấu với thịt bò (do tiếng Tàu “Ngầu-dục-phảnh” tức “Ngưu-nhục-phấn” mà ra: Ăn phở, bán phở”, trang 1169, tập 2).
Thật ra, những quan điểm trên chỉ cho thấy chữ “phở” có nguồn gốc từ tên Ngưu nhục phấn, nhưng đáng tiếc là  nhiều người lại nghĩ rằng phở là Ngưu nhục phấn, hoặc “cách tân” từ  món Ngưu nhục phấn, chế biến cho hợp với khẩu vị của người Việt. Một số người lại dựa theo bài “Phở, phởn, phịa…” của Nguyễn Dư, dẫn chứng quyển Technique du peuple annamite (Kỹ thuật của người An Nam, 1908 – 1909) của Henri Oger (3) để củng cố quan điểm này. Họ giới thiệu hai bức tranh khắc, bức đầu tiên (mang số 26 trong tập tranh 4577 bức) miêu tả một người đàn ông với gánh hàng rong, kèm theo chú thích “Chinois vendeur ambulant à la tombée de la nuit” (Người Tàu bán hàng trong buổi tối – Trần Đình Bình dịch). Nhưng họ không thể khẳng định người đàn ông ấy bán cái gì, chỉ bảo rằng gánh hàng trông giống như gánh phở ở Hà Nội ngày xưa); bức còn lại là hình vẽ một thùng chứa có dòng chữ hàng nhục phấn 行肉粉, họ cho rằng giống như thùng của gánh hàng trong bức đầu tiên. Thế là họ vội khẳng định dòng chữ ấy nói về món Ngưu nhục phấn 牛肉粉, và bán Ngưu nhục phấn có nghĩa là bán phở, hay nói cách khác, phở chính là Ngưu nhục phấn (!). Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ bức tranh thứ nhất ta sẽ thấy rằng người bán hàng có tóc đuôi sam, vậy người đó là Hoa kiều, bán món nhục phấn 肉粉 ở Hà Nội chứ không phải người Việt Nam bán phở. Rất tiếc là không ai miêu tả gánh hàng Ngưu nhục phấn ra làm sao để đối chiếu với gánh phở. Có khả năng gánh “nhục phấn” giống gánh “phở” chăng?
[Image: Nguu-Nhuc-Phan.jpg]Ngưu nhục phấn
Theo chúng tôi, ngưu nhục phấnphở là hai món ăn khác nhau. Từ điển bách khoa Baike của Trung Quốc cho biết, tùy theo địa phương, nguyên liệu và cách chế biến ngưu nhục phấn có thay đổi đôi chút, song nhìn chung, nguyên liệu gồm có: thịt bò, nước súp, bánh bột sợi, củ cải chua, dưa cải bắp, bơ, hành, tiêu, hồi, dâu tây, rau thì là, quế, muối, gừng, hạt tiêu đỏ sấy khô, rau mùi tây, ớt khô, bột ngọt, tinh dầu hạt cải…Trong khi đó, thành phần chính của phở gồm có sợi phở, nước dùng (ninh từ xương ống lợn/bò và một số gia vị khác), thịt bò bắp (để làm thịt chín), thịt thăn mềm (để làm thịt tái), con sá sùng, tôm nõn, hành khô, gừng, dứa, hạt nêm, thảo quả nướng, hành tây, hành hoa, húng bạc hà, chanh, ớt, rau thơm…
Xét về nguyên liệu, ngưu nhục phấn sử dụng củ cải chua, dưa cải bắp, bơ, tinh dầu hạt cải…những thứ không dùng để chế biến phở; ngược lại phở sử dụng con sá sùng (có thể thay bằng bột ngọt), tôm nõn, dứa, chanh, ớt, rau thơm…những thứ không thấy khi làm món ngưu nhục phấn.
Cách chế biến hai món này cũng khác nhau, do khá dài dòng nên chúng tôi không trình bày ở đây, mời bạn đọc tìm hiểu thêm từ những clip giới thiệu cách làm ngưu nhục phấn và phở trên YouTube. Còn khi nhìn hình dưới đây (bên trái) bạn sẽ thấy nước phở trong, bánh phở nhỏ; còn hình bên phải là món ngưu nhục phấn 牛肉粉,  có nước sẫm màu, cọng to như bún, nhìn trông giống món bún bò Việt Nam.

Gốc Việt Nam
Trước hết, xin phép nhắc lại đôi điều về chữ Nôm để nhằm khẳng định món phở là của Việt Nam. Song song với việc sử dụng chữ Hán, chữ Nôm dần dần trở thành văn tự chính của nước ta đến cuối thế kỷ 19. Sang đầu thế kỷ 20, chính quyền Pháp quyết định giải thể việc thi cữ bằng chữ Nho (năm 1915 ở Bắc Kỳ và 1919 ở Trung Kỳ). Họ dùng chữ Quốc ngữ thay cho chữ Nôm để làm văn tự chính thức ở nước ta từ năm 1908. May mắn thay, cái từ phở viết bằng chữ Nôm đã kịp thời xuất hiện để chúng ta thấy rằng phở chẳng liên quan gì tới phấn 粉 trong Ngưu nhục phấn  牛肉粉. Nhìn chung, có một số cách cấu tạo chữ Nôm, ở đây chúng tôi nêu một cách tạo ra chữ phở để bạn đọc đối chiếu với từ phấn:
– Thứ nhất, cách vay mượn nguyên xi một chữ Hán để tạo ra một chữ Nôm có cách đọc và nghĩa khác với chữ Hán đó. Thí dụ: mượn chữ biệt 別(cách biệt, khác biệt) để tạo chữ Nôm biết 別(hiểu biết); mược chữ đế 帝 (vua chúa) để tạo ra chữ Nôm đấy 帝 (tại đấy, xem đấy…).
– Thứ hai, cách ghép hai chữ Hán với nhau để tạo ra một chữ Nôm. Chữ thứ nhất là thành tố biểu ý, chữ thứ hai là thành tố biểu âm. Thí dụ: mượn chữ nguyệt 月 (biểu ý) + thượng 尚 (biểu âm) để tạo chữ Nôm tháng; mượn chữ thượng 上 (biểu ý) +  thiên 天 (biểu âm) để tạo chữ Nôm trời.

Vậy có bao nhiêu chữ Nôm đọc là phở?
Theo những tự điển mà chúng tôi đã tham khảo, từ phở xuất hiện trong phở lở gồm có ba chữ (𡂄 và 㗞, đều thuộc bộ khẩu; 頗, thuộc bộ hiệt); còn từ phở trong bánh phở có một chữ (普, thuộc bộ Nhật, âm Hán Việt là phổ); riêng từ phở với nghĩa là món phở thì gồm hai chữ Hán ghép lại: mễ 米+ phả 頗.
Những thí dụ trên cho thấy hai chi tiết đáng chú ý sau:
  1. Bánhphở bò: trong Từ điển nhật dụng thường đàm, mục Thực phẩm (食 品 門 Thực phẩm môn) có đoạn giải thích về “bánh phở bò” bằng chữ Nôm. Chúng tôi sắp xếp lại cho dễ đọc: “Chữ Hán: 玉 酥 餅 (âm Hán Việt: ngọc tô bính) giải thích bằng chữ Nôm: 羅 普 (là 羅 bánhphở 普 bò); tiếng Anh : rice noodle. Ta thấy gì?
普 là một chữ Hán, đọc theo âm Hán Việt là phổ. Người Việt xưa đã mượn nguyên xi chữ này để tạo ra chữ Nôm đọc là phở.  Tuy nhiên, cách giải thích của Từ điển nhật dụng thường đàm khiến chúng tôi rất phân vân, bởi vì từ tiếng Anh rice noodle có nghĩa là phở, tức món phở mà ta đang bàn, song chữ Hán玉 酥 餅 (ngọc tô bính) lại nói về một loại bánh khác, vì trong đó 酥 có nghĩa là món ăn làm bằng bột nhào với dầu. Thí dụ: hồng đậu ngọc tô bính 红豆玉酥 (bánh ngọt nhân đậu đỏ), hạch đào tô (bánh bột trái đào). Vậy từ phở 普 ở đây dùng để chỉ món phở hay bánh bột? Đây là điều cần phải xem lại.
  1. Theo Từ điển chữ Nômcủa Hội bảo tồn di sản chữ Nôm (VNPF), hai chữ Hán: mễ米 (biểu ý) kết hợp với phả 頗 (biểu âm) tạo thành một chữ Nôm có nghĩa là phở(trong cơm phở). Đây là cách ghép từ rất đáng chú ý, vì mễ 米 có nghĩa là gạo, biểu ý cho món ăn chế biến từ gạo (bánh phở); còn phả 頗 đọc theo tiếng Hoa là “pho” hoặc “phỏ”, dùng làm từ biểu âm để tạo ra chữ phở là rất hợp lý.
Bây giờ, xét về ngôn ngữ, chúng ta xem thử những chữ Nôm phở (𡂄, 㗞, 頗, 普) có liên quan gì với chữ Hán phấn 粉 trong ngưu nhục phấn 牛肉粉 không, đặc biệt là chữ phở  trong món phở? Xin thưa, chẳng có liên quan gì cả. Nếu thật sự phở là từ đọc trại từ chữ phấn 粉, tại sao người Việt xưa không mượn nguyên xi chữ này để tạo ra chữ Nôm đọc là phở ? Vì điều này tiện hơn là mượn một chữ khác?  Nói rộng hơn, chữ Nôm 𤙭 trong phở bò cũng chẳng có liên quan gì tới chữ ngưu 牛 trong tiếng Hán.
Tóm lại, chữ Nôm phở hay phở bò  𤙭 cho thấy rằng người Việt xưa rất chủ động trong cách dùng từ, mục đích nhằm khẳng định rằng “phở” là một món ăn hoàn toàn Việt Nam, chẳng dính dáng gì tới ngưu nhục phấn 牛肉粉 của Trung Quốc.

Vậy phở có nguồn gốc từ đâu?
Chúng tôi ủng hộ quan điểm cho rằng phở có nguồn gốc từ món xáo trâu rất phổ biến ở miền bắc, đặc biệt là ở Hà Nội vào đầu thế kỷ 20. Để làm món này người ta chuẩn bị nguyên liệu : thịt trâu thái mỏng (ướp gia vị cho thấm), hành lá, hành ta (tím), tỏi, mỡ, rau răm cắt dài 1 đốt ngón tay, khế chua cắt ngang…Sau đó họ xáo (xào) thịt trong chảo khoảng 30 giây rồi đổ ra bát riêng, kế tiếp bỏ khế vào, đảo đều tới lúc khế chuyển sang màu trắng; rồi cho thịt, rau răm và hành vào, đảo cho tới lúc tỏa mùi thơm (khoảng một phút) ; cuối cùng họ chế nước vào, để lửa liu riu. Khi ăn, họ lấy bún cho vào bát, sau đó gắp vài miếng thịt trâu bày trên mặt bún rồi chan nước xáo thịt vào.
Nhìn chung, xáo trâu là món ăn thông thường ở các chợ nông thôn, xóm bình dân của Hà Nội ngày xưa. Trước năm 1884, việc nuôi bò ở miền bắc chủ yếu phục vụ cho nông nghiệp, người Việt chưa có thói quen ăn thịt bò, nhưng ít nhiều gì người Hà Nội cũng đã từng ăn món Ngưu nhục phấn do Hoa kiều bán rong trên đường phố.
Có nhà nghiên cứu cho rằng vào thời đó, thịt bò bị chê là nóng và gây nên chẳng mấy người mua, giá bán rất rẻ, chỉ có người Pháp mới ăn thịt bò. Và chính vì thế một số người bán xáo trâu mới chuyển sang bán xáo bò. Thật ra không phải vậy. Thịt bò thời đó khan hiếm và đắt tiền. Theo nhà nghiên cứu Vũ Thế Long, trước năm 1885 “các quan chức Tây còn không có đủ thịt bò mà ăn nói chi đến người Việt. Ngay cả đến những năm 40-50 của thế kỉ trước, khi phở đã khá thịnh hành và thành món ăn “gây nghiện” cho một tầng lớp người khá giả ở Hà Nội thì việc cung cấp thịt bò ở Hà Nội cũng không phải dư giả cho lắm. Trong bài Phở Gà, Nhà văn vũ Bằng đã phải thốt lên: “Ở Hà nội có hai ngày trong tuần mà những người “chuyên môn ăn phở” bực mình: thứ sáu và thứ hai. Hai ngày đó là hai ngày không có thịt bò. Anh nào nghiện thịt bò, nhớ thịt bò hai hôm ấy như gái nhớ trai, như trai nhớ gái”…”.
[Image: Xao-Trau.jpg]Xáo trâu
Nhìn chung, từ khi người Pháp vào nước ta, người Việt đã chịu ảnh hưởng phần nào thói quen ăn uống của người Pháp. Dân ta đã bắt đầu ăn khoai tây, súp lơ, su hào, cà rốt, bánh mì, bơ, phó mát…, đặc biệt là thịt bò. Những món ăn mới có thịt bò dần dần xuất hiện, đó là cháo bò và xáo bò… Xáo bò là một món “biến tấu” từ xáo trâu. Tuy nhiên, do thịt bò ăn với bún không hợp lắm nên người ta mới nghĩ ra cách ăn với những loại bánh khác, trong đó có loại bánh cuốn chay mỏng phổ biến ở Hà Nội rồi cuối cùng “sánh duyên” lâu dài với bánh phở. Phải chăng, để phân biệt với món xáo bò, người ta đã nghĩ ra từ phở bò, xuất phát từ việc ăn bánh phở với thịt bò ? Nếu bánh phở  là từ xuất hiện trước món phở thì ta có quyền tin vào giả thuyết này. Và nếu đúng vậy thì phở là từ nằm trong bánh phở  chứ không phải do đọc trại  chữ phẳn 粉 theo giọng Quảng Đông.

Phần viết thêm
Trong từ điển Wikipedia bản tiếng Anh, Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… đều có mục riêng viết về phở và gọi đích danh là “Phở”, chứ không gọi bằng tên món ăn nào đó của Pháp hay Trung Quốc. Điều này cho thấy thế giới công nhận “phở” là một món ăn của Việt Nam. Riêng bản Trung văn, mục viết về phở có tựa đề là 越南粉 (Việt Nam phấn), cũng cho thấy rằng người Trung Quốc công nhận “phở” là món ăn Việt Nam. Do đặc điểm về ngôn ngữ, trong phần nói về nguồn gốc của từ phở, họ chú thích hình ảnh tô phở là 越 南牛肉粉 (Việt Nam ngưu nhục phấn), có thể dịch là “phở bò Việt Nam”. Viết như thế thì chấp nhận được. Nhưng có những website dạy tiếng Trung Quốc lại ngang nhiên giảng phở bò Ngưu nhục phấn  牛肉粉 thì thật đáng báo động (!).
(1) Nguồn gốc và sự ra đời của phở của Vũ Thế Long.
(2) Nguyễn Công Hoan. Nhớ và ghi về Hà Nội, NXB Trẻ 2004.
(3) “Kỹ thuật của người An Nam” (tựa tiếng Pháp: “Technique du peuple Annamite”, tựa tiếng Anh: “Mechanics and crafts of the Annamites”) là một công trình nghiên cứu văn minh
vật chất ở An Nam khoảng 100 năm về trước, chủ yếu phản ánh cuộc sống của người Hà Nội. Quyển này tập hợp 4577 bức tranh khắc, do Monsier Henri Oger (người Pháp) và những nghệ nhân người Việt Nam thực hiện trong hai năm (1908 – 1909), phát hành với số lượng hạn chế (60 bản). (theo Wikipedia tiếng Việt).

Sưu tầm from trẻonline
Vương Trung Hiếu
[Image: 01-6.jpg]Sinh 1959 tại An Giang, thông thạo Anh, Pháp, Hoa và tốt nghiệp tiến sĩ môn Khoa học Lịch sử, Vương Trung Hiếu đã cho xuất bản trên 200 đầu sách thuộc các thể loại biên soạn, dịch thuật và tiểu thuyết. Nguồn gốc của Phở là một nghiên cứu công phu với phân tích chi tiết về từ gốc của món ăn này.
Trần Vũ  

Reply
#3
may bai nay` đoc. hay ...thanks chi. Mimo post :rose4:
Reply
#4
(2018-05-21, 01:02 PM)Gracie Wrote: may bai nay` đoc. hay ...thanks chi. Mimo post :rose4:

Ây- da..., nhà tạm của mm có khách...

Thanks bé Gracie Hug Cheer  [Image: soup-smiley-emoticon-emoji.gif]

Reply
#5
Chào sis Mimo và sis Gracie!  Tulip4

Phở là món dễ ăn và bổ dưỡng. It does a body good!  Tulip4

Phương Vy có thể ăn phở everyday mà không ngán.[Image: soup-smiley-emoticon-emoji.gif] (icon này cute quá)

Đọc những bài viết như thế này, làm người đọc hiểu thêm văn hoá phong tục cuả người Việt Nam mình.   Thumbs-up4

Nơi Phương Vy ở có 2 tiệm phở Tàu Bay rất đông khách. 1 tiệm thì đa số là khách nước ngoài. Không biết có quan hệ gì với tiệm phở Tàu Bay đang lên báo ở VN không?
Reply
#6
(2018-05-21, 01:18 PM)Phương Vy Wrote: Chào sis Mimo và sis Gracie!  Tulip4

Phở là món dễ ăn và bổ dưỡng. It does a body good!  Tulip4

Phương Vy có thể ăn phở everyday mà không ngán.[Image: soup-smiley-emoticon-emoji.gif] (icon này cute quá)

Đọc những bài viết như thế này, làm người đọc hiểu thêm văn hoá phong tục cuả người Việt Nam mình.   Thumbs-up4

Nơi Phương Vy ở có 2 tiệm phở Tàu Bay rất đông khách. 1 tiệm thì đa số là khách nước ngoài. Không biết có quan hệ gì với tiệm phở Tàu Bay đang lên báo ở VN không?

Hello PVy Hello  đến chơi góc phố xưa, nhà tạm mm (sao nghe buồn quá, nhà tạm chắc vài bửa bị dẹp cho về vùng kinh tế mới Disappointed-face4 , chắc nhờ mod đổi tên lấy hên :full-moon-with-face4: ) ...

Phở tàu bay có ở SG, chắc con cháu qua Cali mở tiếp hàng phở...Thanks PVy, icon public mà cứ việc dùng đi PVy... Cheer[Image: soup-smiley-emoticon-emoji.gif]

Reply
#7
(2018-05-21, 01:46 PM)Mimo Wrote: Hello PVy Hello  đến chơi góc phố xưa, nhà tạm mm (sao nghe buồn quá, nhà tạm chắc vài bửa bị dẹp cho về vùng kinh tế mới Disappointed-face4 , chắc nhờ mod đổi tên lấy hên :full-moon-with-face4:  ) ...

Phở tàu bay có ở SG, chắc con cháu qua Cali mở tiếp hàng phở...Thanks PVy, icon public mà cứ việc dùng đi PVy... Cheer[Image: soup-smiley-emoticon-emoji.gif]

Hi sis Mimo!  Tulip4

Cõi đời cũng là cõi tạm mờ sis. Nghe thì buồn nhưng rất là thật.

Phương Vy có hát qua bài hát Về đâu. Trong đó có câu: “cõi đời như chiếc lá rơi, rơi trong chiều vắng...” nghe thấy buồn và xa xăm như những kỉ niệm đẹp đã qua không bao giờ trở lại. 

Sis Mimo không thích nhà tạm thì xin Mod đổi tên thành Một Góc nghe nó giản dị và đời thường hơn.  Biggrin

Phương Vy thích nói chuyện với sis Mimo vì sis very cool. Thumbs-up4
Reply
#8
(2018-05-21, 02:07 PM)Phương Vy Wrote: Hi sis Mimo!  Tulip4

Cõi đời cũng là cõi tạm mờ sis. Nghe thì buồn nhưng rất là thật.

Phương Vy có hát qua bài hát Về đâu. Trong đó có câu: “cõi đời như chiếc lá rơi, rơi trong chiều vắng...” nghe thấy buồn và xa xăm như những kỉ niệm đẹp đã qua không bao giờ trở lại. 

Sis Mimo không thích nhà tạm thì xin Mod đổi tên thành Một Góc nghe nó giản dị và đời thường hơn.  Biggrin

Phương Vy thích nói chuyện với sis Mimo vì sis very cool. Thumbs-up4

Thanks PVy, để bửa nào yên ổn, tại mm mới "complain" bên kia... :full-moon-with-face4: 
Đợi hôm nào Supermod vui vui thì mm đề nghị đổi tên chổ này thành "Góc Linh Tinh" nha... Hug

Reply