GÓP NHẶT HOA THƠM.
BÁO-ỨNG HIỆN ĐỜI Tập 16 . Ni sư Hạnh-Đoan phiên dịch.








BÁO-ỨNG HIỆN ĐỜI Tập 17 . Ni Sư Hạnh-Đoan phiên dịch.



Reply
TIÊN SINH DẠY HỌC
Tỉnh Sơn Tây có một đôi vợ chồng trẻ sinh được một đứa con trai, đã 3 tuổi mà vẫn chưa biết đi, nói cũng không rành. Bác sĩ khám xong, bảo thằng bé bị chứng liệt não nhẹ. Hai vợ chồng vạn phần lo lắng, liền nhờ tôi đến hỏi Hòa thượng dùm.
Hòa thượng nói, kiếp trước đứa bé này là một giáo sư tài ba chuyên nghề dạy học, đọc đủ thi thư, là người rất có tiếng tăm danh vọng. Khi đó nhiều người thích nghiên cứu Phật pháp tìm đến thỉnh giáo ông, hỏi về vấn đề liên quan đến sinh tử và lục đạo luân hồi.
Ông giáo bèn miệt thị, nói với mọi người rằng:
– Những gì Phật giáo rao giảng toàn là hư dối, không thật! Có ai thấy qua lục đạo luân hồi hay chưa?
Rồi ông còn trích lời Khổng Tử thế này: “Không biết sống, đâu biết chết!” và khăng khăng tuyên bố quan điểm của mình rất là chính xác!
Do lời nói hàm hồ như vậy, ông đã khiến nhiều người mất đi phúc duyên bước vào con đường học Phật.
Chính vì tính tự cao ngã mạn, ỷ vào tri thức nửa vời, vị giáo sư đã phát ngôn bừa bãi, đem những phán đoán sai lệch của mình ngăn trở người tim hiểu Phật pháp, cho nên sau khi chết, ông bị sinh làm heo nhiều kiếp.
Đến hiện đời, do đôi vợ chồng này rất ưa ăn thịt heo, cho rằng thịt heo là ngon nhất. Khi con heo này bị giết rồi, họ đã mua nó đem về kho ăn. Giờ đây nhân duyên chín muồi, đứa con trai mà họ sinh ra, chính là ông giáo kiếp xưa từng thọ ác báo. Đó cũng chính là báo ứng của đôi vợ chồng ưa ăn thịt heo.
Nếu muốn thay đổi nghiệp báo, họ phải sám hối tội ăn thịt. Hơn nữa phải chuyển sang ăn chay hoàn toàn. Còn phải sám hối thay cho ác nghiệp đời xưa của con họ, phải tụng Kinh Địa Tạng hồi hướng cho những người từng bị ông giáo nhồi nhét tư tưởng sai lầm, lỡ mất cơ duyên học Phật pháp và cũng nên vì những con heo mà họ ăn, tụng Kinh Địa Tạng siêu độ cho.
Hòa thượng khẳng định:
– Chỉ cần hai vợ chồng kiên trì làm đến nơi, chịu tụng kinh và ăn chay như lời ta nói, đồng thời phối hợp với phương pháp trị liệu, rèn luyện thân thể, đứa bé sẽ dần chuyển tốt. Não sẽ hồi phục bình thường, tương lai nhất định có thể tự lo cho đời sống mình.
Tôi cứ thế truyền đạt lại hết lời Hòa thượng dạy cho hai vợ chồng kia nghe. Cha đứa bé nghe xong, kinh hãi nói:
– Sư phụ giảng rất đúng! Ông bà nội thằng bé làm tại công ty thịt, còn thiết lập thêm lò mổ riêng nữa. Do vậy mà gia đình ông được mua thịt sống tươi ngon với giá rất rẻ. Vợ ông rất ưa ăn đầu heo.
Không ngờ báo ứng ập tới, cả nhà lãnh chung: thật là tự làm tự chịu.Nếu biết rõ thì họ đã không làm như vậy.
Mẹ đứa bé rơi nước mắt, bày tỏ lòng sám hối:
– Nhất định sẽ tuân theo lời Sư phụ dạy, sẽ ăn chay tụng kinh, ráng trị lành bệnh cho bé.
Mong các vị có thể trì chí kiên tâm, phiền não sẽ chuyển thành bồ đề

ĂN CHAY TRÌ GIỚI MỚI ĐƯỢC LỢI ÍCH
Đổng phu nhân ngụ ở tầng dưới, tuổi hơn 40, tánh chất phác, rộng rãi. Bà bị tiêu chảy mười mấy năm nay. Hàng ngày phải đi ít nhất 4-5 lần, nhiều thì mười mấy lần. Hễ bụng vừa đau là phải lao ra nhà xí, bác sĩ nói bà bị viêm ruột mãn tính. Dù uống rất nhiều thuốc nhưng không có hiệu quả.
Có lần bà lên nhà, hỏi tôi cách gì giúp bà không?
Tôi hóm hỉnh bảo:
– Tôi sẽ ra thuốc cho bà, chỉ cần bà chịu dùng y theo “toa” kê. Thì bảo đảm bệnh tật sẽ tiêu. Và hạng “bác sĩ” như tôi đây, một xu cũng không lấy.
Bà Đổng thực thà nói: – Ông cứ kê toa đi, tôi tin ông mà! Đắt mấy tôi cũng mua, đắng mấy tôi cũng uống!
Tôi nói:
– Thuốc tôi cho không làm bà tốn tiền. Tôi thấy bà phải sớm ngưng ăn thịt, gà, vịt, cá… Vì ruột, dạ dày của bà không tiếp thọ đồ hôi tanh, do vậy mà mỗi ngày bà đều đi tiêu chảy. Bắt đầu từ nay trở đi, trừ trứng gà không trống ra, bà phải đoạn dứt việc ăn thịt và nên ăn chay hoàn toàn.
Tôi nói thêm:
– Kể từ tối nay, trước khi sắp ngủ, bà hãy thư giãn thân, ngồi cho tốt, hít thở đều, tĩnh tâm lại, nhắm mắt niệm: “Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát” nửa tiếng. Chỉ cần bà thành tâm, thì sẽ mau chóng có kết quả. Nếu niệm một tháng mà không hiệu quả, xem như tôi nói không đúng, tôi sẽ để bà ăn thịt lại. Dù sao dùng toa này không tốn tiền, bà có muốn thử hay không?
Bà nghe tôi nói, mặt đầy nghi ngờ, hỏi:
– Nè, một nữ đồng nghiệp của tôi cứ đến rằm, mồng một là đi chùa tụng kinh. Ngày nào cũng thành tâm thắp hương trong nhà, nhưng bà ta khắp thân đều bệnh. Đã từng châm, tiêm, uống thuốc biết bao ngày, nhưng bệnh vẫn không ngớt, như thế thì ông giải thích sao đây?
Tôi chất vấn:
– Bà ta ăn chay hả?
– Người ta bảo bà: “Là cư sĩ tại gia thờ Phật, chỉ cần không sát sinh là được rồi, có thể ăn tam tịnh nhục”… cho nên bà cứ thế mà ăn – Bà Đổng trả lời.
Tôi hỏi:
– Giả sử có người hút thuốc mà bị bệnh phổi, do uống rượu mà bệnh gan, thì có phải là không cần kiêng cữ gì, cứ mặc tình hút thuốc, nhậu thả ga, chỉ cần tiêm chích, uống thuốc là bệnh sẽ lành, phải vậy hôn?
– Đây là điều không thể – Bà đáp.
– Cũng đồng như thế thôi. Do ăn thịt chúng sinh mà bệnh, thì trước tiên cần phải đình chỉ ăn thịt. Phải tụng kinh, niệm Phật mới có hiệu quả.Bởi do không hiếu kính phụ mẫu hoặc tạo ác nghiệp mà bị bệnh, thì trước cần đoạn ác nghiệp, phát tâm sám hối, cầu chư Phật gia trì mới hiệu nghiệm.
– Phật Bồ-tát là bác sĩ tốt nhất trên thế gian. Phật pháp là thuốc hay nhất trong vũ trụ. Nhưng do phần đông người ta không hiểu rõ, không biết đến vị thuốc tối hay này.Người ta hoàn toàn không biết là mỗi người đều tự có kho báu, thực quá đáng tiếc. Nếu như chẳng thể tuân hành theo lời Phật dặn, thì bất kể dùng thuốc chi, khám bác sĩ nào, bệnh của bà cũng trị không hết. Tôi nói có đúng không?
– Ông giảng thì tôi hiểu rồi. Từ nay tôi bắt đầu, trong vòng một tháng thực hành “toa” ăn chay niệm Phật mà ông vừa cho. Nếu thực sự làm vậy mà bệnh lành, thì tôi nguyện từ nay trở đi không ăn thịt nữa, mà sẽ học tập theo ông – ngày ngày ăn chay niệm Phật.
Tối hôm sau, bà Đông mặt mày hớn hở, báo cho tôi:
– Đêm qua tôi về nhà rồi bụng không bị đau, lúc dùng tối cũng không ăn thịt. Trước khi sắp ngủ thì ngồi tĩnh tọa, tôi nhắm mắt niệm Phật, niệm một chút thì toàn thân phát nóng, thầm nghĩ: “Đây có phải là cảm ứng chăng?” Càng niệm thì tâm càng hoan hỷ. Đến lúc cảm thấy hai chân bị tê thì tôi mở mắt. Ôi chao! Hóa ra đã hơn cả tiếng đồng hồ rồi. Tôi buông chân ra, toàn thân toát mồ hôi. Cảm giác như mới vừa được tắm xong nước nóng vậy, thấy toàn thân cực kỳ nhẹ nhàng, thư thới.
Rồi bà hí hửng nói:
– Thực không ngờ ngồi thiền niệm Phật tốt như vậy đó. suốt ngày nay, cho tới giờ bụng tôi vẫn chưa đau. Thực là lạ, mười mấy năm nay tôi chưa bao giờ có được kinh nghiệm này.
Cho đến hôm nay, bà Đổng không những chứng đau bụng đi tả đã hết, mà ngay cả bệnh đau lưng nhiều năm trước cũng không thuốc mà khỏi.
Bây giờ hàng ngày bà ngồi thiền niệm Phật, còn bắt đầu tụng kinh Địa Tạng và chú Đại Bi. Bà tự giác tu tinh tấn, tâm tư kiên định, phát nguyện hành theo lời Phật dạy.
Reply
BÁO ỨNG HIỆN ĐỜI Tập 18 .Ni Sư Hạnh Đoan phiên dịch.





Reply
Giới thiệu với các bạn về một ngôi chùa ở Sacramento (California), tên là Thiền-Viện Diệu-Nhân(chùa Ni), theo Thiền tông của Hòa Thượng Thích Thanh Từ , phong cảnh rất đẹp, có nhiều bụi trúc vàng ,xanh , cùng bụi lùm, cây cỏ rất nên thơ. Chùa tổ chức 2 khóa tu hàng năm,vào tháng 5 va tháng 10 . Chùa ở trên một ngọn đồi khoãng 10 mẩu tây, còn nhiều nét hoang sơ. Thiên nhiên đẹp làm nao lòng người. Chùa sẽ trùng  tu cuối tháng này , một năm sẽ xong phần Ni đường . Sau đó , nếu đủ duyên sẽ xây chánh điện. Hiện tai mọi thứ còn củ kỷ , nhỏ hẹp . Hy vọng mọi người góp 1 chút ít cho việc trùng tu, rất có phước . Trang Web " Thiền viện Diệu Nhân " có đầy đủ thông tin hơn. Thêm nữa, Trang Web Thiền Viện Viên Chiếu ở VN (cũng là Chùa Ni),( cũng của HT Thanh Từ) rất súc tích , có nhiều clip bài giãng rất hay. Mình có dịp về thăm và dự khóa tu  Mùa Thu 4 ngày vừa qua . Rất ích lơi. Các bạn nếu ở Cali, thử đến đó viếng 1 lần cho biết . Vì là chùa Ni , nên mình thích hơn.
Reply
Bài giãng hay của Hòa Thượng Tuyên Hóa :

TU HÀNH LÀ PHẢI BUÔNG XÃ:


Reply
NHẬP HẠNH BỒ  TÁT ( Bồ-TáT Tịch-Thiên)



Reply
TĂNG NHÂN HAM DANH LỢI, LƯU LẠC HAI ĐỜi CHUYỂN SINH CHỐN NHÂN GIAN.(Trích lục từ trang Web :TÂN SINH, tác giả Tuệ Tâm. )


[b]Con người gặp gỡ nhau trên đời hết thảy đều là duyên tiền định, dù chúng ta gặp ai, yêu thích hay oán thù ai, đều là do nhân duyên định trước, dù muốn tránh cũng không được.[/b]

Ở những năm Càn Long triều đại nhà Thanh, tại vùng Tiền Đường có một cử nhân tên Vương Đỉnh Thực. Ông từ nhỏ đã thông minh ưu tú, năm 16 tuổi đã thi đỗ Cử nhân. Tuy nhiên sau đó cả 3 lần liên tiếp đi thi tiến sĩ cũng không thể đỗ đạt. Ông ta có một người họ hàng làm quan gần kinh thành, đã đón ông về ở cùng.

Có một lần, Vương Đỉnh Thực đột nhiên phát bệnh, không ăn được chút gì, mỗi ngày chỉ uống vài chén nước. Ông ta nói với người thân thích kia: “Tôi kiếp trước là hòa thượng tại chùa Kính Sơn, tu hành đã được mấy chục năm, cũng sắp công đức viên mãn. Chỉ vì lúc còn sống đã nhìn thấy một người trẻ đỗ đạt tiến sĩ, trong lòng rất hâm mộ.
Không chỉ ham công danh, tôi còn có tâm mong cầu giàu sang phú quý, không cách nào đoạn tuyệt được. Chính vì vậy, tôi phải lưu lạc nơi nhân gian này hai đời, hiện tại đang là đời thứ nhất.
Không lâu nữa, tôi sẽ chuyển sinh đến một gia đình giàu có họ Diêu ở ngoại thành Thuận Trị. Việc ông giữ tôi ở lại đây cũng là duyên phận kiếp trước đã định ra như vậy”.[Image: BcKCN8.jpg]
Người bà con kia khuyên giải, an ủi Vương Đỉnh Thực, thì ông nói: “Sinh tử đời người đều có định số, không thể dài lâu. Chỉ là ân nghĩa sinh thành của cha mẹ, không thể nói dứt là dứt ngay được”.
Thế là Vương Đỉnh Thực lấy giấy bút viết thư cáo biệt cha mẹ, trong đó đại khái nói: “Con cái bất hạnh, chết tha hương ngàn dặm ở bên ngoài, hơn nữa thọ mệnh ngắn ngủi, còn để lại vợ trẻ con thơ, khiến cha mẹ phải tăng thêm gánh nặng. Nhưng mà, con không phải thực sự là con của cha mẹ, em trai mới đúng là con của cha mẹ.

Cha còn nhớ hay không, mỗi năm tại quán trà ở Kính Sơn cha đều uống trà đàm đạo với một vị hòa thượng, vị hòa thượng đó chính là con. Lúc đó nói chuyện cùng với cha thấy rất hợp, trong lòng nghĩ, cha là người trung thành, cẩn thận, phúc hậu, nhưng vì sao ông Trời lại không cho cha có một đứa con nối dõi?
Bởi vì động niệm này, cho nên con đã đầu thai thành con trai của cha. Con dâu của cha cũng là khi còn nhỏ từng kết thiện duyên với con. Điều này cũng tựa như hoa trong kính, trăng trong nước, đều là nhân duyên hư ảo, không thể dài lâu. Hy vọng cha đừng quá đau lòng, mà nên đoạt dứt hết, như thế mới có thể miễn đi tội lỗi của con”.
Người họ hàng của Vương Đỉnh Thực hỏi rằng khi nào thì ông mới đầu thai tới Diêu gia, ông nói: “Cả đời này tôi không gây ra tội lỗi gì, cho nên sau khi chết ở đây, sẽ lập tức chuyển sinh đến đó, không phải chờ đợi nữa”.
Vào buổi sáng ba ngày sau đó, Vương Đỉnh Thực lấy một chậu nước, rửa mặt, súc miệng xong xuôi, ngồi xếp bằng, gọi người họ hàng tới, hai người nói chuyện như thường ngày, vô cùng vui vẻ. Bỗng nhiên, Vương Đỉnh Thực hỏi: “Đã đến trưa chưa?”

Người thân thích nói: “Đang là giữa trưa”.

Vương Đỉnh Thực nói: “Vậy đã đến giờ rồi”. Ông vừa chắp tay cáo biệt liền tắt thở.
Người thân thích vội đến Diêu gia thám thính, quả nhiên hôm đó Diêu gia sinh ra một đứa trẻ. Nhà họ Diêu kinh doanh ngựa, mặc dù có tiền, nhưng ồn ào bất tịnh. Người thân thích nhìn mà lắc đầu,  

(Con người sống trên đời không chỉ là một kiếp, mà là kiếp này nối tiếp kiếp khác, và số mệnh của mỗi người đã được an bài rất chi tiết.)
Reply
CÂU CHUYỆN NHÂN QUẢ, LUÂN HỒI.( Nguồn :Tinh Hoa .net) {600 năm – 12 Kiếp Trầm Luân Sanh Tử Khổ Đau}


600 năm trước, tôi là một tỳ kheo xuất gia. Tôi xuất gia năm 20 tuổi, từng thọ đại giới Tam Đường, tu hành hơn 50 năm. Trong quá trình tu hành học Phật đã làm không ít việc thiện, việc lành. Nhưng do tâm còn tham luyến chuyện thế tục, ham muốn tận hưởng phúc báo nơi cõi người, cuối cùng không những không thoát ly khỏi lục đạo luân hồi, trái lại còn đọa lạc trong ba nẻo ác mà chịu khổ. Tôi sau khi từ kiếp tỳ kheo chết đi, chuyển sinh vào một gia đình tài chủ giàu có, lớn lên trở thành một công tử bột, suốt ngày tận hưởng cuộc sống ăn chơi rượu chè. Bên cạnh có 8 người hầu nữ, tuy tôi không háo sắc, nhưng cái tâm tham danh, tham tài rất là nặng, đã gieo không ít ác nghiệp.

Một đời này sau khi chết đi, lại chuyển sinh vào một gia đình quan lại. Sau khi trưởng thành, tôi đã làm tướng quan thống lĩnh binh mã. Lúc đó tôi uy phong lẫm liệt, cần gì có nấy, vinh hoa phú quý, sơn hào hải vị hưởng mãi không hết, cả ngày đắm chìm trong cuộc sống ăn chơi rượu chè. Bởi vì ăn, uống, chơi bời, hưởng lạc mà một lần nữa lại tạo nên ác nghiệp. Đặc biệt là đã dẫn binh giết chết không ít người, chém rơi đầu người ta, vứt xác xuống sông. Khi binh sĩ đối phương lẩn trốn trong bụi cỏ đều phải tìm kiếm rồi lôi ra giết chết cho bằng được, vì vậy mà kết hạ vô số oán duyên cho những đời sau.
Sau khi tôi làm tướng quân chết đi, phải 3 lần chuyển sinh thành loài ếch nhái. Bởi vì chặt mất đầu người ta, vậy nên biến thành loài ếch không có cổ. Giết người ném xác xuống sông, khi tôi biến thành ếch bị gậy đập, câu móc, chết lật bụng trên mặt nước, hôi thối rữa nát, thậm chí còn chịu cái khổ bị rút gân lột da để hoàn trả nghiệp báo đời trước. Sau khi làm 3 đời ếch nhái, tôi lại chuyển sinh thành gà rừng 4 đời, để hoàn trả món nợ khi tôi thân còn là tướng quân đã chỉ huy binh sĩ giết chết những người ẩn núp trong bụi cỏ.
Khi tôi làm tài chủ, ham muốn hưởng thụ lạc thú ăn uống, cả ngày ăn những món ngon, cay, vậy nên chuyển sinh thành gà rừng chịu cái khổ bị giáo đâm, đao chém, hầm, nấu, xào, luộc để hoàn trả nợ nghiệp đời trước.
Sau khi 4 kiếp làm gà rừng trả nghiệp báo rồi chết đi, lại chuyển sinh thành heo, làm heo trong 3 kiếp. Đây chính là ác nghiệp vào đời tôi còn là tài chủ, siêng ăn biếng làm, ăn không ngồi rồi, cứ mãi thích ăn thịt, đành phải làm heo để hoàn trả. Biến thành heo ăn những đồ dư thừa, ôi thiu, bị roi vọt đánh đập không nói, còn phải chịu nghìn dao róc thịt để hoàn trả nghiệp báo của hai kiếp người tham hưởng lộc ăn.
Lúc đó, khi nhìn thấy các kiếp sống luân hồi của mình, tôi đã khóc rất thương tâm mặc dù tôi vốn là một người rất khó rơi lệ. Lúc đó tôi nghĩ, tại sao tôi lại tham lam đến như vậy? Bởi một chữ tham, một niệm sai khác lúc lâm chung nên phải rơi vào ba nẻo ác đến 10 kiếp. Điều này sao tôi có thể không đau lòng hối hận cho được? 600 năm … Khoảng thời gian quý báu biết bao, cứ như vậy mà mê mờ trôi đi, làm sao không đau lòng?
Tôi từ một người vốn không tin vào bất cứ quỷ Thần nào, giờ đã trở thành một người tin vào nhân quả, hơn nữa lại còn thấy được quả báo luân hồi của mình một cách chân thực.
Một đời tỳ kheo, đắc được phúc báo trong hai đời người, không biết hành thiện tích đức, trái lại gieo phải vô số ác nhân, nên phải luân hồi 10 kiếp vào ba nẻo ác. Phải chịu quả báo cực kỳ đau đớn, hoàn trả xong ác nghiệp mới có thể chuyển sinh thành người – đây chính là nhân quả không hề sai chạy dù chỉ là một đường tơ kẽ tóc.
Có người sẽ hỏi, tại sao không luân hồi vào cõi quỷ đói, địa ngục chịu khổ? Đây có lẽ là một ân huệ có được nhờ việc tu hành ở đời trước của tôi.
Reply
QUỸ HỒN TIẾT LỘ: Làm việc thiện có sức mạnh lớn đến cỡ nào. (Trich trong Tinh Hoa.net)


Một học giả nổi tiếng vào thời Càn Long là Lễ bộ thượng thư Kỷ Hiểu Lam có viết trong “Duyệt vi thảo đường bút ký” rất nhiều câu chuyện về ma quỷ, trong đó có một câu chuyện liên quan đến điều này.

Rơi vào cõi ngạ quỷ trăm năm không được siêu thoát

“Duyệt vi thảo đường bút ký – Quyển thứ 11 Hòe Tây tạp chí 1” kể về câu chuyện rơi vào cõi ngạ quỷ thì trăm năm không được siêu thoát do Lý Tình Lân người Cảnh Châu kể lại.

Câu chuyện kể rằng có một thư sinh họ Lưu, đã lấy một bài thơ cổ để làm bài giảng dạy cho trẻ em. Một đêm nọ, dưới ánh trăng lập lờ, anh mơ hồ nhìn thấy một thân hình đang động đậy trong vườn, anh cứ nghĩ rằng đó là một tên trộm, nhưng lại nghe thấy tiếng kêu cứu của hai con quỷ ở bờ tường.

Lưu Sinh kinh ngạc hỏi tại sao chúng lại muốn anh giúp đỡ? Thì nghe thấy con quỷ đáp rằng, bởi vì khi còn sống họ đã tạo nghiệp ác, nên phải rơi vào cảnh làm ngạ quỷ gần 100 năm rồi, luôn đói cồn cào. Bởi vì họ thấy anh ta là một người có tấm lòng từ bi, cho nên tìm đến để xin một bữa cơm nguội lạnh để giải quyết đau khổ đói khát.

Lưu Sinh nghĩ đến việc cứu tế và pháp sự siêu độ trong Phật giáo, liền hỏi: “Trong Phật giáo thường làm pháp sự sám hối, công đức này đủ để cứu được ma đói trong âm giới. Tại sao các ngươi không đến cầu xin các nhà sư trong chùa siêu độ cho?”.

Ngạ quỷ trả lời rằng, để có thể được siêu độ, thì phải dựa vào cái nhân thiện đã được gieo từ kiếp trước. Hai ngạ quỷ này đã mô tả lại những lý do khiến họ không nhận được cứu độ:

“Kiếp trước hai người chúng tôi bận rộn trong con đường tạo dựng sự nghiệp trên quan trường, thấy ai có quyền to, thì liền kết bè phái với họ… Lúc đắc ý thì chưa bao giờ giúp đỡ người nghèo khó, không tích lũy đủ nhân thiện, cho nên bây giờ rơi vào con đường ngạ quỷ, thì làm thế nào có được thiện duyên được siêu độ đây?”.

Ngạ quỷ lại tiếp tục nói thêm: “May mắn thay lúc đầu chúng tôi không luyến tiếc đến những món lợi bất chính, bố thí chút ít cho những người quen cũ bơ vơ nghèo khó, vì vậy đôi khi còn có thể có được một chút sự thương hại, có được một chút thức ăn thừa.

Không giống như mẹ của Mục Kiền Liên, bị rơi vào địa ngục, thậm chí nếu có thức ăn đưa đến miệng, cũng sẽ bốc lửa tiêu tan mất, ngay cả Đức Phật thần thông quảng đại cũng không cứu nổi bà ta!”
Lưu Sinh cứ lắng nghe, rồi trong lòng thấy thương hại, nên đã đồng ý giúp hai con quỷ đói. Hai con quỷ đói liền cảm kích vô cùng, rên rỉ và rời khỏi bức tường.
[b]Sức mạnh của việc hành thiện có thể tự cứu giúp bản thân

[/b]

Kể từ đó, Lưu Sinh đã giữ lời hứa rắc những thức ăn thừa và rượu ở bên ngoài bức tường để cúng ngạ quỷ, tuy rằng có thể cảm nhận được sự tồn tại của họ, nhưng họ không bao giờ tìm đến anh nữa.

Sau hơn một năm, một đêm nọ đột nhiên nghe thấy hai con quỷ đến cảm ơn và nói lời tạm biệt. Lưu Sinh hỏi: “Hai ngươi đi đâu vậy?”
Ngạ quỷ nói: “Hai chúng tôi đã ở trong cõi ngạ quỷ được một trăm năm rồi, và không có cách nào để được siêu thoát cả, nghĩ tới nghĩ lui, chỉ có thể làm việc thiện để tự cứu lấy mình thôi”.
Thế rồi ngạ quỷ đã kể về việc hành thiện tự cứu bản thân. Khi họ nhìn thấy có ai đó vào rừng để bắn những con chim hoang dã, thì họ đã ra dọa những con chim đó trước, để cho chúng bay ra xa; còn khi thấy có người giăng lưới để bắt cá thì họ đuổi cá đi trước, không để chúng tiếp cận đến chiếc lưới. Chính vì lòng tốt của những ngạ quỷ này, đã cảm động được các vị thần linh, và bây giờ họ đã có thể thoát khỏi cõi ngạ quỷ, và được tái sinh.

Điều đó nói lên rằng, những ma quỷ mang tội lỗi nặng nề, bị rơi vào cõi ngạ quỷ mãi không được Phật pháp Đạo pháp cứu giúp, thì chỉ cần gieo một tấm lòng tự cứu mình, gửi đi những ý niệm lương thiện và làm những việc tốt, làm hết sức mình để cứu giúp các sinh linh khác, thì như vậy có thể cứu lấy bản thân thoát khỏi sự trầm luân trong 100 năm!
Sức mạnh của lương thiện to lớn đến đâu? Hai con quỷ đói đã khởi thiện niệm và hành thiện, đã cứu giúp được chính mình, giải phóng bản thân khỏi những cùm gông tội lỗi trong 100 năm. Sức mạnh của lương thiện thật sự là vô cùng vô lượng!
Reply
PHÁP MÔN NHẪN NHỤC (Hòa thượng Tuyên Hóa khai thị).



Reply
TRỜI ĐÃ XẾ BÓNG, ĐƯỜNG VỀ CÒN XA ( Trích trong Nhật Mộ Đồ-Viễn.Tác giả: Pháp Sư Thích Tự Liễu.Chuyễn ngữ :Cư sỉ Diệu Hà. Tinh Tông học hội hiệu đính.)

 Ngày xưa không có xe, ra đường đều nhờ đi bộ; muốn đến một nơi nào, phải đi cả ngày trời, mắt nhìn mặt trời xuống núi, hoàng hôn đã ló dạng, thế mà cách nơi muốn đến vẫn còn xa vời vợi, trong lòng cảm thấy bồn chồn nôn nóng. Ấn Quang Đại Sư thường lấy câu thành ngữ này để tỷ dụ cho người già, thời gian sống không còn nhiều nữa mà việc vãng sanh vẫn còn không nắm chặc. Ngài có một bài chuyên đề khai thị cho người già là "Pháp ngữ dành cho nữ cư sĩ Chu Dư Chí Liên"
. Mặc dù pháp ngữ khai thị này ngoài mặt là dành cho lão cư sĩ Chu, nhưng thực tế nó đều thích hợp cho mỗi người chúng ta, bao gồm cả người già lẫn người trẻ, bởi vì: "Trên đường xuống hoàng tuyền (suối vàng) không phân chia lão ấu. Ngoài mộ lắm kẻ vẫn còn thơ". Vô thường muốn đến là đến ngay, không người trẻ tuổi nào có thể bảo đảm mình nhất định có thể sống đến già. Mỗi người chúng ta đều là: thời gian không còn nhiều nữa, thế nhưng việc lớn của sanh tử vẫn chưa giải quyết xong.
 Sau đây, chúng ta hãy nghe nguyên văn khai thị của Ấn Tổ: “Bà đã hơn bảy mươi tuổi rồi, không bao lâu sẽ phải chết. Ngay bây giờ phải sắp xếp xong tất cả mọi việc. Trong tâm, ngoài việc niệm Phật, không nên vương vấn lo âu điều gì nữa
. Được như vậy, khi lâm chung mới không bị chướng ngại. Nếu hiện nay vẫn còn nhiều việc lo toan, việc gì cũng không chịu buông, ôm chấp một cách nặng nề; đến lúc lâm chung, tâm tham luyến áo quần, nữ trang, nhà cửa, con cháu tất cả đều hiện ra, làm sao mà có thể vãng sanh Tây Phương được! Chẳng những không thể vãng sanh Tây Phương, một đời thủ tiết niệm Phật, làm mọi thứ phước thiện hoàn toàn trở thành phước báo. 
 Bà hiện nay chưa có trí huệ, tuy thường tinh tấn niệm Phật, nếu trong tâm không quyết định cầu sanh Tây Phương, qua đời sau được hưởng phước, nhất định sẽ bị phước làm mê mờ rồi tạo đủ thứ ác nghiệp. Một khi tạo ác nghiệp, chắc chắn phải đọa xuống địa ngục, hoặc làm ngạ quỷ, hoặc làm súc sanh để chịu khổ.
 Nỗi khổ to lớn như vậy đều do đời này niệm Phật, [nhưng] không biết cầu sanh Tây Phương mà cảm chiêu lấy. Quang tôi(Tổ sư Ấn-Quang) thấy tội nghiệp bà, e bà sau này bị lâm vào những cảnh trên nên bày ra phương pháp cứu giải. Nếu bà chịu làm theo lời nói của tôi, sẽ không bởi vì phước mà lại đắc họa. 
Hiện nay tuy vẫn còn khỏe mạnh, cũng phải nghĩ mình sắp chết rồi. Những áo quần cần thiết thì để lại mặc; còn những y phục đắt giá như gấm lụa, hoặc bằng da, v.v… nên chia đều cho dâu, cho cháu. Riêng đồ trang sức như vòng, xuyến, bông tai, vàng bạc, ngọc bích, v.v… nên đem hết ra cứu giúp người hoạn nạn, xong đem công đức hồi hướng vãng sanh. Nếu tâm thức còn hạn hẹp, còn luyến tiếc, không nỡ đem ra cứu tế thiên tai, cũng nên đem những thứ đó chia đều cho con gái, cháu dâu, cháu gái, v.v... Trong người quyết định không lưu giữ những đồ vật khiến mình khởi tâm tham luyến. Tất cả tiền để dành, ruộng đất cũng nên giao cho con cháu, giao hết một cách triệt để.
 Trong tâm của bà, ngoài câu Phật hiệu ra, không để một chút ý niệm nào khác, ngay cả cái thân này cũng không cần tính toán sau khi chết phải an trí như thế nào. Ngay đến cháu chắt đều xem như người xa lạ, không bận tâm chuyện xấu, chuyện tốt của chúng nó. Chỉ lo niệm ông Phật của chính mình, một lòng trông chờ Phật đến tiếp dẫn mình vãng sanh Tây Phương.
 Bà có thể y theo lời nói của tôi mà làm, tất cả mọi sự đều buông hết, đến lúc lâm chung tự nhiên sẽ cảm đến Phật, đích thân Ngài đến đón bà về Tây Phương. Nếu như cứ mãi tham luyến mọi thứ đồ tốt và tiền bạc, ruộng đất, nhà cửa, nữ trang, áo quần, con cái, cháu chắt, v.v..., sẽ không bao giờ vãng sanh Tây Phương được. Một khi không vãng sanh Tây Phương, đời sau quyết chắc sẽ hưởng si phước  . Rồi vì hưởng phước mà tạo nghiệp, khi hơi thở không còn, chắc chắn đọa Tam Đồ. Do ác nghiệp che mờ mà tâm thức không sáng suốt, cho dù có Phật sống đến cứu bà cũng không cứu nổi. 
Như thế có phải tội nghiệp quá không! Mong bà tin lời tôi nói thì thật không gì vui bằng”. Những bạn đồng tu lớn tuổi của chúng ta nên suy nghĩ thật kỹ về đại sự sanh tử của chính mình. Thời gian trôi qua rất nhanh, nói không chừng trong vài năm nữa thôi là vô thường đến với ta. Vậy có biết được lúc chết sẽ đi về đâu hay chưa?
 Thật hãy nên suy nghĩ kỹ một chút! Giả như lúc bình thường không nương tựa A Di Đà Phật, không có tập luyện, khi chết không có chủ trương [vãng sanh Cực Lạc], như vậy vẫn phải tiếp tục luân hồi. Nếu như nghiệp ác phát động dẫn xuống Tam Đồ, thì phải chịu khổ đến ngàn vạn kiếp trong ác đạo. Hãy xem trong thành-phố mà chúng ta ở, một ngày có bao nhiêu người chết
. Đừng nói chi đến việc sanh Tây Phương, ngay cả sanh Thiên, trăm ngàn người chưa được một người. Lại trong những người tu hành, nếu có cầu sanh Tây Phương, có bao nhiêu người được liễu sanh thoát tử?
 Hiện giờ bạn đã có chắc chắn chưa? Đã chuẩn bị khi lâm chung làm thế nào để thông qua? 
Đời người đa phần thời gian cứ thế mà trôi qua vô ích, phải biết tính kỹ cho bài toán này. 
Trong một đời này, tu hành tiến bộ được bao nhiêu? Phiền não giảm bớt được bao phần? Nghiệp chướng đã tiêu được mấy phần rồi? 
Cứ đặt kế hoạch năm năm mà tính, năm năm trước tiến bộ được bao nhiêu? Từ nay trở đi chỉ còn lại một lần năm năm, hoặc hai lần năm năm, tinh thần và thể lực mỗi năm mỗi lúc suy yếu dần; bệnh khổ của tuổi già thì mỗi năm mỗi nhiều, càng lúc càng nặng.
 Nếu không nắm chặt thời gian này để dốc lòng tích lũy đầy đủ tư lương mà vãng sanh, e rằng một bước sai lầm sẽ tạo thành sự sai lầm to lớn cả ngàn vạn lần. 
Hãy nghĩ cho thật kỹ, đến giây phút lâm chung, tự mình có đạt được cảnh giới sanh tử tự tại hay không.
 Lại nghĩ, nếu hiện giờ bị một trận bệnh nặng, trong tâm có thể không loạn chăng? Lúc còn sống bị bệnh nặng, đã hoảng hốt mê hoặc, trong tâm không tự làm chủ được, huống hồ khi chết?
 Lâm chung tứ đại  phân rã, đau đớn như con bò sống bị lột da, nếu không phải là người đại tu hành, làm sao có thể vượt qua một cách nhẹ nhàng, thư thái? Lại nghĩ, trong cả một đời này, ta dám bảo đảm chỉ có thiện nghiệp, không có ác nghiệp chăng? Hãy xem trong đời sống hàng ngày: tâm nghĩ, miệng nói, thân làm, đã tạo nên biết bao nhiêu nghiệp rồi!
 Khi lâm chung, nếu như ác nghiệp phát động, liền dẫn tâm ta kéo xuống ba ác đạo – một khi đầu thai vào thì ngàn vạn kiếp khó mà thoát thân. Nên biết, đọa vào ác đạo nhận lãnh quả báo đau khổ sẽ tiếp tục khởi dậy tâm xấu ác , nghiệp cũ chưa trả xong lại chồng thêm nghiệp mới, cứ thế luân chuyển không có ngày dứt, thật đáng sợ quá phải không?
 Trong Kinh có câu: "Thất Phật dĩ lai, do vi nghĩ tử. Bát vạn đại kiếp, vị thoát cáp thân." Nghĩa là: “Bảy Phật ra đời, vẫn còn thân kiến. Tám vạn đại kiếp, chưa thoát thân bồ câu.” 
Nghĩ đến những việc này thật sợ đến toát cả mồ hôi, dựng đứng cả lông tóc, làm sao mà không nóng lòng nôn ruột chứ?
 Khi cái chết đến, cha mẹ không thể cứu bạn, con cái cũng không thể thay thế cho bạn; bạn đưa mắt nhìn những người xung quanh đứng bên cạnh mình: Ai là người mà bạn có thể nương tựa? 
Có thể dựa vào ai đây? Chỉ có A Di Đà Phật mới có thể cứu độ bạn, nhiếp thọ bạn, bảo vệ và thành tựu cho bạn. Điều này chẳng phải đã rõ ràng lắm rồi sao? Sanh tử đại sự không ai có thể giúp mình, chỉ có thể nương nhờ A Di Đà Phật giúp ta vãng sanh thế giới Cực Lạc.
 Khi đã hiểu rõ điều này và đã lựa chọn rồi, phải nhất tâm nhất ý niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thật sự là không còn con đường thứ hai nào khác cho chúng ta. Không còn địa điểm thứ hai nào khác cho chúng ta nương về.
 Muôn ngàn lần hãy trân quý trong lúc mắt ta còn sáng, chân ta còn bước đi được, tinh lực vẫn còn, thân thể đang khỏe mạnh, gấp rút đem hết thân tâm nương tựa vào A Di Đà Phật, khẩn cầu Phật thương xót, từ sáng đến tối tha thiết cầu nguyện với Ngài một cách liên tục không bỏ phí một giây phút nào. Nếu như không trân quý pháp môn này, không nương tựa một cách vững chắc, thì khó mà tránh được sự sai lầm một cách hồ đồ.
 Suốt ngày từ sáng đến tối, sống qua loa qua ngày, chớp mắt là mấy năm qua mau; đến sau cùng bệnh tật giày vò tấm thân, nằm liệt trên giường; miệng muốn niệm Phật thì không ra tiếng nổi, muốn nghe theo tiếng Phật hiệu lại nghe không rõ; lúc này hối hận thì đã muộn rồi, cơ hội đã vuột qua mất. 
Nên thường xuyên suy nghĩ, thời gian còn lại của mình không còn nhiều nữa, giống như ngọn đèn tàn trước gió, có thể bị dập tắt lúc nào không hay; lại như hạt sương trên cỏ, mặt trời vừa ló dạng, sương mù liền tan, liền bốc hơi; hoặc như bọt bóng trên mặt nước, gió vừa thổi liền bị vỡ tan; hoặc như tia lửa  của viên đá mài, vừa lóe lên liền mất.
 Thân thể hư giả này về tuổi xế chiều, tùy thời có thể bị hủy hoại, không sáng thì tối. Không thể không nóng lòng chột dạ hay sao!
 Đời người nhiều lắm chỉ một trăm năm, nay đã đến tuổi già rồi, phải mở rộng tâm ra, nhìn thấu thế gian này như một vở tuồng, có gì là thật đâu chứ! Trên sân khấu có thể đóng nhiều vai trò khác nhau, có vai nào là thật? Toàn là giả tạm mà!
 Cuộc đời chúng ta cũng vậy, cũng đang diễn kịch – đóng vai vợ chồng, vai mẹ con, vai trò gia đình, các loại sự nghiệp. Nay đã già rồi, nên biết mọi thứ trên đời đều như một vở tuồng, không thật chút nào, chớ có cố chấp. Thời gian của tuổi già không còn nhiều nữa, có thể chỉ năm năm, ba năm, với thời gian ngắn ngủi này phải sống như thế nào? 
Phải lấy câu A Di Đà Phật tiêu khiển thời gian, lấy thế giới Cực Lạc làm quê hương để ta nương về. Ngày nay niệm Phật, mai sau vãng sanh Tây Phương, đây là việc vui sướng biết bao, hạnh phúc biết bao! Nghĩ như vậy thường sanh tâm hoan hỷ, không nên sanh phiền não.
 Nếu như gặp việc gì không vừa ý, tâm phiền não khởi lên, lập tức chuyển tâm qua cầu A Di Đà Phật, nhanh chóng niệm lên câu Phật hiệu, xong tự phản chiếu và nghĩ: Ta là người trong thế giới của A Di Đà Phật, sao lại có thể giống như người thế gian mà tranh chấp? Nghĩ như vậy, ta có thể chuyển giận thành vui, vui vui vẻ vẻ niệm: A Di Đà Phật! A Di Đà Phật! 
Chuyện đời không nên để ý tới, không nên tranh đua hơn thua với người. Làm được như vậy mới là người có trí huệ, tự mình được hưởng an lạc, tự tại. Hiện nay, con cái đa phần không biết hiếu thuận. Nếu con cái trong nhà đối xử với bạn không tốt, đôi lúc bị nàng dâu la mắng, hoặc ở ngôi nhà quá sụp xệ, hoặc phải làm việc nhà quá nhiều − những thứ này đều không nên quá để ý, phải nhất tâm niệm A Di Đà Phật. Nếu không, bạn càng nghĩ sẽ càng giận, càng cảm thấy tủi thân.
Muốn tâm không khổ thì phải nhất tâm niệm A Di Đà Phật. Nghĩ như vậy rồi sẽ càng niệm càng hoan hỷ. Sau khi biết được đạo lý này, phải luôn luôn nương câu Phật hiệu, không lìa bỏ. Chỉ cần trong tâm bạn có Phật, mọi thứ đều sẽ biến thành tốt. Ở trong căn phòng nhỏ niệm Phật, niệm đến gian phòng này trở nên hương quang trang nghiêm, thành căn phòng vô cùng tốt. Lúc làm việc nhà thì vừa làm vừa niệm – làm việc nhà cũng trở thành vô cùng an lạc.
 Do đó, chỉ cần nhất tâm niệm Phật, không nghĩ ngợi những chuyện khác, sẽ thoát ly được các khổ nhỏ của đời người; chẳng những thế, ngay đến đại khổ Sanh Tử vẫn có thể thoát ly. Đến lúc lâm chung, A Di Đà Phật đón bạn về thế giới Cực Lạc, tốt biết bao!
 Cho nên phải buông xả để nhất tâm niệm Phật, không cần đợi sau khi vãng sanh, ngay bây giờ đã có thể luôn được hưởng niềm vui an lạc. 
Thời Dân Quốc tại Chiết Giang, có một phụ nữ lớn tuổi, gia cảnh nghèo khổ, con trai lại bất hiếu. Có một ngày bị con trai chửi mắng, bà rất đau lòng, đi tìm vị thầy xuất gia để than thở. Thầy nói: “Bà biết thân mình mang nỗi khổ, vì sao không bán nó đi?” Bà hỏi: “Làm cách nào để bán?” Thầy nói: “Bà chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương, lâm chung Phật đến đón bà về TâyPhương, sẽ đoạn dứt mọi thứ khổ, chỉ hưởng niềm an vui, như vậy là đem cái khổ bán đi rồi!” Bà nói: “Hai mẹ con chúng con ở chung một căn nhà, trong đó vừa có giường, lại thờ ông Táo; dưới giường là chuồng heo, bê bối như vậy làm sao mà niệm Phật được?” Thầy nói: “Đều không sao cả, bà chỉ lo niệm thường xuyên không gián đoạn, lúc rỗi rảnh thì vào chùa lạy Phật.” 
Bà lão sau khi về nhà y giáo phụng hành, một lòng cầu thoát khổ, niệm Phật không hề gián đoạn. Ba năm trôi qua, vài tháng trước khi lâm chung, bà nói với con trai: “Tháng … ngày …, mẹ đi Tây Phương, con đừng ra ngoài, ở nhà lo hậu sự cho mẹ, xem như tận hiếu của người làm con.” Con trai của bà không hề tin chuyện này.
 Qua một thời gian, bà nhắc lại một lần nữa, con trai bà vẫn không tin. Đến vài ngày trước khi lâm chung, con bà bỗng dưng nghe thấy được mùi thơm kỳ lạ, đi tìm khắp nơi cũng không biết từ đâu bay tới, lúc đó mới tin lời của mẹ là thật. Vào đúng ngày đó, con bà ở nhà trông chừng, chỉ thấy mẹ tắm rửa thay quần áo, ngồi đoan trang, niệm Phật rồi vãng sanh.
 Như bà lão này, gia đình nghèo khổ, con lại bất hiếu; theo thường lệ, tuổi già mà gặp hoàn cảnh như thế thật là đau khổ vô cùng. Thế nhưng, bà biết mình khổ, một lòng muốn thoát khổ nên hết lòng nương tựa A Di Đà Phật, kết quả được giải tỏa hết mọi thứ đau khổ.
 Thưa các bác lớn tuổi, chỉ cần một lòng một dạ niệm câu Phật hiệu, không lúc nào bỏ quên, cho dù phải làm nhiều việc nhà cũng sẽ không thấy khổ cực. Khi niệm Phật, tâm ta hoan hỷ thì làm bất cứ việc gì cũng cảm thấy vui, nhìn thấy ai cũng vui; mỗi ngày mỗi đêm, không việc gì mà không vui.
 Cho nên, tuổi già muốn được an vui thì không nên rời câu Phật hiệu. Vừa rời khỏi Phật, trong tâm khởi lên vô minh phiền não, liền rơi vào cái  khổ ngay. Nếu như có thể chuyên nhất, có thể kiên trì mà niệm, không cần thời gian lâu lắm là có thể đạt đến chỗ vừa làm vừa niệm, không gián đoạn. 
Được như vậy thì nỗi khổ trong tâm sẽ càng lúc càng ít, nhất định càng ngày càng an lạc hơn. Cho nên cần phải suy nghĩ kỹ, có phải nên dùng câu Phật hiệu để sống qua tuổi già hay không? Bây giờ, chúng ta nói đến việc “Làm thế nào giải quyết vấn đề của tuổi già”. 
Ngay trong câu Phật hiệu mà giải quyết. Hiện nay, người già khắp nơi rất cô đơn, nếu có thể đặt trọn tâm tư vào câu Phật hiệu, để tâm mình tương ưng với tâm Phật thì liền được thoát khổ, giải sầu. Con cái không được như ý muốn, làm thế nào để không khổ não? Chính là niệm A Di Đà Phật.
 Niệm quen rồi sẽ không nghĩ đến chuyện thế gian nữa, như vậy sẽ hết khổ ngay. Ngược lại, không niệm A Di Đà Phật, tâm không chỗ nương tựa, luôn duyên theo chuyện con cái, như thế sẽ rất khổ. 
Do đó, cần phải đổi tâm trở lại để không ngừng niệm Phật, được sự gia trì của Phật rót vào trong tâm, tâm trạng trở nên rất tốt, rất vui vì có chỗ nương tựa. Rất nhiều những người già quanh năm niệm Phật, tai thính mắt sáng, sự suy tư rất minh mẫn sáng suốt. Hơn nữa, cuộc sống có niềm hy vọng, không bị tuyệt vọng bởi cái chết. 
Cho nên niệm Phật là một pháp môn đại an lạc. Vừa nghĩ đến lúc lâm chung có A Di Đà Phật tới đón, nghĩ đến việc siêng tu của mình chắc chắn được vãng sanh, trong tâm liền tràn đầy niềm tin, tràn đầy niềm vui.
 Người khi về già, trong tâm không còn buồn khổ, tuy thân thể khó tránh một số bệnh khổ, nhưng có câu Phật hiệu rồi sẽ thấy nhẹ nhàng hơn rất nhiều. 
Có thể niệm A Di Đà Phật thì có tương lai, có hy vọng. Nếu không niệm Phật, khó mà tránh khỏi những thứ khổ từ mọi mặt đưa tới, đặc biệt là sự buồn tẻ cô đơn, sự tuyệt vọng sợ hãi, làm cách nào để trực diện, để giải quyết? Xã hội ngày nay khác với xã hội ngày xưa. 
Ngày xưa còn có mấy đời từ ông cố đến cháu ở cùng với nhau, thời đại ngày nay người già càng lúc càng cô độc – con cái đa phần là bất-hiếu, rất ít sống chung, ít qua lại thăm viếng người già. Tuy nhiên, chúng ta có câu Phật hiệu thì không sợ, vì từng ý niệm của chúng ta đều ở với Phật, những thứ vừa nói sẽ không thành vấn đề nữa.
 Người già sở dĩ cảm thấy đơn chiếc là do tư tưởng của chúng ta không mở rộng, không có điểm tựa; lại nhìn thấy con cái bất hiếu không đến thăm viếng, không nói chuyện với mình, trong tâm cảm thấy lạnh lẽo trống vắng. Nếu có thể đặt hết tâm tư ở nơi Phật, một lòng một dạ nương tựa Phật, Phật sẽ không chê bỏ chúng ta. 
Như thế, tâm ta sẽ nhẹ nhàng, vui vẻ, trong sáng; niềm vui này không cần điều kiện bên ngoài ban cho, chỉ cần trong tâm luôn giữ câu Phật hiệu, đây chính là “linh đan hoan hỷ”.
 Có người lúc về già, niệm Phật đạt được niềm an vui mà suốt trong mấy mươi năm qua không đạt được. Niềm vui này không phải do con biết hiếu thảo, hoặc được món ăn ngon, cũng chẳng phải do quần áo mặc đẹp hay được ở nhà sang trọng mà có, tất cả các niềm vui thế gian đều không thể sánh bằng. Cho nên phải biết làm người già có trí huệ, phải biết đặt tâm ở câu A Di Đà Phật, mọi vấn đề liền đều có thể giải quyết.
 Lại nữa, người già có thể mắc những bệnh mãn tính, bệnh lãng trí, tai biến mạch máu não, làm cách nào để đề phòng?
 Vẫn là một lòng một dạ niệm A Di Đà Phật, cầu nguyện A Di Đà Phật, cầu Phật gia hộ. Nếu hết lòng nương tựa Phật, tuổi già của mình sẽ thuận lợi rất nhiều.
 A Di Đà Phật từ bi, khi lâm chung có thể khiến bạn chánh niệm phân minh; đương nhiên, trước lúc lâm chung cũng có thể giúp bạn tránh được những bệnh tật trên, thế nhưng, bạn phải tự mình chịu làm mới được. Cho nên, tuổi già rồi chớ có lo chuyện thế gian nhiều quá. 
Ấn Tổ khai thị, nói: "Phàm chuyện sanh kế của gia đình, chuyện con cháu nên để qua một bên.
 Tỷ như nếu ta lúc 60 tuổi qua đời, thì con cháu đến nay nó vẫn tiếp tục làm người phải không? Bây giờ ta chỉ lo niệm Phật liễu sanh tử, vốn chúng không thể giúp ta giải quyết việc sanh tử, ta há lại vì chúng mà ảnh hưởng đến việc đại sự của mình? Nếu bạn nghĩ được như vậy, tự nhiên sẽ nhất tâm mà niệm Phật.” 
Đời nhà Đường, ông Bạch Cư Dị để lại vài câu thơ nói như thế này: “Ta đã 71 tuổi rồi, không còn làm thơ nữa. Mắt đã mờ, xem Kinh rất khó. Muốn làm phước, cái thân suy yếu này không thể bôn ba tới lui dễ dàng được.” Tâm trạng của tuổi già này làm sao để sống qua ngày? Đem tâm ký thác nơi nào đây? Chính là một câu A Di Đà Phật – đi cũng A Di Đà Phật, ngồi cũng A Di Đà Phật, dù bận rộn cỡ nào vẫn không bỏ câu A Di Đà Phật. 
Trời đã bắt đầu tối, con đường về nhà vẫn còn xa vời vợi  , đời này của ta đã trôi qua một cách vô ích rồi. Bắt đầu bây giờ, từ sáng đến tối, chỉ lấy tâm thanh tịnh để niệm A Di Đà Phật.
 Câu Phật hiệu là bảo vật “Như Ý” không thể nghĩ bàn, có thể cho ta đạt thành mọi thứ lợi ích của thế gian lẫn xuất thế gian; nó có thể giải trừ mọi nguy nan của thế gian, có thể trừ độc, trị bệnh; còn có thể giải trừ sanh tử khổ đau, cứu vớt con người từ trong sanh tử luân hồi, chuyển phàm thành Thánh.
 Tóm lại, tất cả mọi sự việc đều có thể dùng câu Phật hiệu để giải quyết, vấn đề then chốt là chúng ta phải có niềm tin chân thật.
 Vì sao phải nói như vậy? Bởi người già dễ gặp bệnh khổ, gặp những chuyện xảy ra bất ngờ, lúc đó phản ứng đầu tiên là nên đề khởi câu Phật hiệu. Thí dụ, khi gặp nguy nan phải làm sao? Liền buông xả vạn duyên, nhất tâm nhất ý niệm A Di Đà Phật, cầu Phật từ bi tiếp dẫn mình vãng sanh. Điều này trong lúc bình thường cần phải luyện tập cho thuần thục. 
Người bình thường không có nhận thức sâu sắc đối với câu danh hiệu, thường hay sùng bái khoa học kỹ thuật về y liệu, dược liệu, v.v... Họ không biết Phật hiệu có một năng lực cực kỳ không thể nghĩ bàn. Trong tất cả những thứ không thể nghĩ bàn, năng lực của A Di Đà Phật là không thể nghĩ bàn tột cùng. Vả lại, Phật hiệu là cảnh giới Quả Địa của Phật, cho nên cần phải sanh niềm tin cực đại đối với danh hiệu A Di Đà Phật, dùng tâm hoan hỷ, kiền thành để trì-niệm. Nếu có tín tâm một cách trọn vẹn, thì được gia trì cũng trọn vẹn.
 Hơn thế nữa, sự gia trì này thật sự cực kỳ không thể nghĩ bàn. Hiện nay ai cũng biết có tiền thì có thể mua xe, mua nhà, có cuộc sống thoải mái nên rất có tín tâm đối với tiền bạc, rồi dốc sức đi kiếm tiền. Chúng ta không nên tin vào tiền bạc, mà phải tin tưởng vào tác dụng và lợi ích không thể nghĩ bàn của câu Phật hiệu. Nếu chúng ta dốc lòng nương tựa, toàn tâm toàn lực trì niệm, nhất định sẽ được lợi ích chân thật không hư vọng: đó là lợi ích ngay trong đời này được giải thoát.
 Thật là đơn giản, dễ dàng, tiện lợi, không cần bất cứ điều kiện bên ngoài nào, chỉ cần người nào chịu trì niệm thì người đó liền được lợi ích không thể nghĩ bàn. Vì đây là “vô thượng diệu bảo” mà A Di Đà Phật dùng để cứu độ tất cả chúng sanh. 
Nhân tố quyết định là chúng ta có thể có niềm tin chắc quyết đối với câu danh hiệu, có thể kiên trì bền bỉ trì niệm hay không. Nếu được thì mọi thứ sẽ đều trở nên thuận lợi, cộng thêm vào đó là sự thề nguyện quyết-chí vãng sanh, nhất định sẽ được vãng sanh Tây Phương. Những người già chúng ta nay đã khá lớn tuổi rồi, thời gian không còn nhiều nữa, phải biết khéo sử dụng một chút thời gian còn lại này.
 Nếu trong tâm mình tin tưởng A Di Đà Phật, nhất tâm muốn đi thế giới Cực Lạc, lại có thể từ sáng đến tối đem hết thời gian ra niệm Phật, nhất định sẽ được vãng sanh. Nếu không biết khéo sử dụng thời gian, chỉ lo chạy Đông chạy Tây; điều gì cũng muốn học, muốn thử; tâm không chuyên nhất, không có phương hướng cố định; đến lúc lâm chung tâm bấn loạn không tự chủ được, như thế thì rất nguy hiểm. 
Cho nên bất kỳ như thế nào, tuổi đã cao rồi, tốt nhất lấy Tây Phương Cực Lạc làm chỗ nương về. Chỉ còn vài năm sống ở thế gian nữa thôi, nhất định phải phân chia rõ ràng cái nào là chính, cái nào là phụ. Hơn nữa, phải đem việc vãng sanh Tịnh Độ làm trọng trong việc tu hành, khiến cho lực niệm Phật càng thêm sức mạnh. Sau cùng, chỉ một tâm tư duy nhất là niệm A Di Đà Phật, một phương hướng duy nhất là về thế giới Cực Lạc, như vậy nhất định sẽ được Phật tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. 
Lão Hòa Thượng Hải Hiền nói với chúng ta rằng: "Trên đời không có việc gì khó, chỉ sợ tâm không chuyên”. Phật nói: "Định tâm ở một nơi, không việc gì là không thành". Ấn Quang Đại sư nói một cách trực chỉ hơn: "Nhất tâm niệm Phật, làm việc gì cũng thành".

LỜI BÌNH CỦA PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG:  Bài báo cáo của Pháp Sư Tự Liễu, nên in ra để lưu hành, phiên dịch thành ngoại ngữ và phân phát rộng rãi đến các viện dưỡng lão, bệnh viện. Ngày hôm qua, tôi nhận được một lá thư của người bạn cũ, người bạn này lớn hơn tôi một tuổi, năm nay đã 89 tuổi rồi, sức khỏe không được tốt. Trong thư nói với tôi, trước kia ở viện dưỡng lão, tối thức giấc đi xuống giường bị té, không đứng lên được, nằm mãi dưới đất suốt đêm; rất may chỉ bị thương ngoài da, đầu óc vẫn còn tỉnh táo. Đến sáng hôm sau, người đến quét dọn phòng mới phát hiện ông bị té. Bạn xem, người già như vậy rất khổ. Nếu gặp phải con cái bất hiếu, càng thương tâm đau lòng, tâm trạng làm sao mà vui vẻ tốt lành được? Cho nên, những lời khai thị này là nhu cầu cấp bách đối với họ. Thật sự tin tưởng có Phật, tin tưởng có thế giới Cực Lạc, tin tưởng có A Di Đà Phật, rồi cứ thế mà niệm, thân tâm của họ liền được bình hòa. Chúng ta biết cảnh tùy tâm chuyển, tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, chỉ cần ý niệm của họ đúng, liền có sự giúp đỡ rất lớn đối với sức khỏe của họ. Những khai thị tương tự như vậy, bất luận là thời nay hoặc thời xưa, chúng ta nên thu thập lại thành một quyển sách nhỏ, tôi tin rằng có thể nhắc nhở rất nhiều người niệm Phật, và khiến cho người già sống được yên tâm hơn.
Reply
VÌ SAO CỔ NHÂN CHỌN VỢ LẠI CHÚ TRỌNG ĐỨC HẠNH CHỨ KHÔNG CHÚ TRỌNG DUNG NHAN.(Nguồn: Nhân sinh.net)

Thời xưa, các bậc Quân Vương, hiền thần khi lựa chọn vợ đều đề cao phẩm hạnh đạo đức, hơn là vẻ ngoài rất nhiều. Họ cho rằng, chỉ người phụ nữ có đức hạnh, hiền thục, trí tuệ mới có thể tề gia, dạy bảo con cái trở thành người tốt.
Chỉ người phụ nữ có đức hạnh, hiền thục, trí tuệ mới có thể tề gia, dạy bảo con Đúng vậy, phụ nữ xấu thì không lồ lộ vẻ đẹp trời ban, song tâm hồn họ thanh tao như hương trà. Xa lánh thế gian huyên náo mới có thể giữ được sự thuần khiết của tâm hồn, mới có thể hiểu nhã thú của đời người. Phụ nữ xấu, bất kể đi làm hay ở nhà, việc gì họ làm cũng chỉn chu. Phụ nữ xấu cũng lương thiện, biết hy sinh, không cầu báo đáp, không tranh giành, hệt như hương trà u mặc thời ẩn thời hiện.

Song, trong khi người đời tán dương tài nữ, ca ngợi mỹ nữ thì họ lại đối xử với phụ nữ xấu thật bất công. Phụ nữ xấu chan chứa thương yêu mà không một ai nhớ họ, nhưng họ cũng không để ý mà chỉ rút vào im lặng. Trong khi những người đẹp làm bao chuyện ầm ĩ, người phụ nữ nhan sắc tầm thường vẫn thản nhiên giữ gìn mỹ đức.

Có một điều an ủi, nhiều người đẹp khi trút lớp phấn son ra, họ xấu hổ không còn dám đứng trước phụ nữ xấu. Phụ nữ xấu yêu ai, người đó sẽ là người tình trong mộng. Họ khiêm nhường, như tách trà. Một làn gió nhẹ thổi qua, mặt tách trà gợn sóng, chờ đợi người tới thưởng thức. Mà người thưởng trà sẽ có được một đời hạnh phúc“.

Không ngẫu nhiên mà một bậc tài trí hơn người, thận trọng mọi việc, bách chiến bách thắng, tiếng tăm lừng lẫy vang danh bốn bể như Gia Cát Lượng lại viết bài tản văn nghe thâm thúy đến vậy. Bởi lẽ, vợ của ông là một cô gái “xấu xí hơn người” nhưng tài đức không ai bì kịp, Hoàng Nguyệt Anh.

Sử sách ghi lại rằng bà Hoàng Nguyệt Anh vốn là là một cô gái thô kệch, tóc vàng, da đen, thậm chí trên da còn nổi lên chút nhăn nheo như da gà khiến người ngoài nhìn vào không khỏi “phát run”. Nhưng phẩm chất đức hạnh của bà lại nổi tiếng khắp nơi xa gần. Bà là con gái của danh sĩ Hoàng Thừa Ngạn ở Hà Nam.

Hoàng Nguyệt Anh tuy là cô gái xấu xí nhưng có kỳ tài, không phải là nữ nhi bình thường trong thiên hạ. Không những có khả năng chế tác siêu phàm, trợ giúp Gia Cát Lượng chuyện chính sự, bà còn là một phụ nữ gia đình khéo léo, giỏi thêu thùa, may vá, vẽ tranh, trồng cây, nấu ăn. Sau khi về làm vợ Gia Cát Lượng thì mọi việc lớn bé trong nhà đều một tay bà chu toàn. Bạn hữu đến nhà đều được bà thết đãi rất nồng hậu nên ai ai cũng không ngớt lời ngợi khen. Con cái sinh ra đều được bà thai giáo từ bé. Chính nhờ người vợ hiền thảo như vậy mà Gia Cát Lượng có thể chuyên tâm lo việc đại sự quốc gia, làm nên việc lớn.

Là một người thông minh như Gia Cát Lượng đương nhiên ông biết rằng người mình cần lấy mà một hiền thê chứ không phải là “Bình hoa”. Và cũng không riêng Hoàng Nguyệt Anh mà trong lịch sử Trung Quốc còn có những người phụ nữ xấu “ma chê, quỷ hờn” lại khiến các bậc trượng phu phải kính nể, xem trọng về tài đức như hoàng hậu Mô Mẫu, hoàng hậu Chung Vô Diệm hay Nguyễn Thị, Mạnh Quang.

MỘ MẨU VỢ VỦA HOÀNG ĐẾ THỜI VIỄN CỔ.

Thời cổ đại, người phụ nữ nổi tiếng là xấu xí nhất phải nói đến Mô Mẫu. Tương truyền rằng, Mô Mẫu là người có hình dáng như quỷ dạ xoa, xấu xí vô cùng. Vương Tử Uyên đời Hán trong “Tứ tử giảng đức luận”, viết rằng: “Mô mẫu oa khôi, thiện dự giả bất năng yểm kì xú”, tức là Mô Mẫu có vóc người to lùn, người mà giỏi khen cũng không thể giấu được chỗ xấu của bà.

Nhưng Mô mẫu lại là người phụ nữ hiền đức. Thủy tổ của dân tộc Trung Hoa là Hoàng Đế đã cưới bà làm vợ. Truyền thuyết kể rằng, Hoàng Đế đánh bại được Viêm Đế, giết chết Xi Vưu đều là nhờ có công giúp đỡ của Mô Mẫu.

Mô Mẫu có đức hạnh và phẩm chất tốt, hơn nữa còn có trí tuệ hơn người nên được hậu nhân đánh giá là tấm gương của người phụ nữ thời đó. Bởi vì thời ấy, nam nhân chọn vợ đều đặt đức hạnh lên hàng đầu.

Mạnh Quang vợ của Lương Hồng thời Đông Hán là người tốt. (Ảnh: Pinterest)

Trong Đạo gia từng có câu: “Dung nhan đoan trang, mộc mạc mới thể hiện ra giá trị của khí chất. Phục sức nếu quá xa hoa thì sẽ lộ ra sự dung tục”. Có ý là đề cao chuẩn mực đạo đức của người phụ nữ, khích lệ sự cần kiệm, chăm lo việc nhà, chú trọng tu dưỡng nội tâm, làm phong phú trí tuệ của bản thân, không nên tiêu phí quá nhiều thời gian, tiền bạc vào trang sức, quần áo và trang điểm cho vẻ bề ngoài mà. Người phụ nữ như vậy mới có thể trở thành người phụ nữ thực sự hiền đức.

Ngày nay sắc đẹp người phụ nữ được ca ngợi và hình tượng hóa, nhiều người còn cho rằng “Hồng nhan bạc triệu” nên ra sức chạy theo trào lưu phẫu thuật thẫm mỹ, với ý nghĩ sẽ đổi đời và kiếm được “đại gia”.

Nhưng quay ngược thời gian về với lịch sử xa xưa, những bậc anh hùng cái thế, làm nên việc lớn lưu danh thiên hạ, thì sau lưng họ là bóng dáng của một người vợ đức hạnh, tài trí chứ không phải là nhan sắc, thậm chí nhan sắc còn rất tầm thường có thể nói là “ma chê quỷ hờn”.

GIA CÁT LƯỢNG VÀ NGƯỜI VỢ XẤU XÍ HOÀNG NGUYỆT ANH.

Gia Cát Lượng từng có bài tản văn như thế này: “Phụ nữ xấu như tách trà. Ngồi trong sân vắng vẻ, tách trà như tâm tình của cô gái. Xuân qua thu lại, thế sự như mây. Người đời hay nói: rượu, thuốc lá, trà là ba báu vật của đàn ông. Tài nữ như thuốc lá, mỹ nữ như rượu nồng, còn phụ nữ xấu chỉ lặng lẽ như trà tỏa hương. So với hương trà man mác, vô luận khói thuốc đắng cay hay men rượu nồng nàn, đều thành dung tục. Song người đời lại say mê sự kích thích của rượu và thuốc lá, ít ai thư thái để tận hưởng vị thanh khiết của trà.

Thành ngữ “cử án tề mi” chính là nói về câu chuyện giữa hiền sỉ LƯƠNG HỒNG VÀ VỢ LÀ MẠNH QUANG THỜI ĐÔNG HÁN. 

Tương truyền khi Mạnh Quang theo Lương Hồng đến đất Ngô làm mướn, mỗi khi Lương Hồng về nhà, Mạnh Quang đã chuẩn bị sẵn thức ăn, nâng chiếc án (mâm) lên ngang tầm chân mày, thể hiện lòng kính trọng đối với người chồng.

Nhưng vị hiền phụ này lại “thô kệch không ai bằng”, “mập xấu lại đen”. Truyền thuyết có kể, Lương Hồng trước khi cưới vợ, danh tiếng đã vang xa, nhiều nhà muốn gả con gái cho nhưng Lương Hồng không chịu.

Mạnh Quang khi chưa lấy chồng, có người đến làm mai, nhưng Mạnh Quang không đồng ý, nói rằng: “Nếu lấy chồng thì lấy người như Lương Hồng”. Sau khi thành hôn, sang ngày thứ hai, Mạnh Quang thay y phục lụa là gấm vóc, mặc vào loại vải thô, chăm lo việc gia đình. Sau khi theo Lương Hồng đến ẩn cư trong núi Bá Lăng, chồng cày vợ dệt, cùng ngâm thơ đàn hát, vợ chồng xướng hoạ, sống một cuộc sống tuy nghèo nhưng hạnh phúc.

NGUYỄN THỊ VỢ DANH SỈ HỨA DOÃN THỜI ĐÔNG TẤN.

Hứa Doãn thời Đông Tấn cưới con gái của Nguyễn Đức Uý làm vợ. Đêm động phòng hoa chúc, Hứa Doãn phát hiện cô gái nhà họ Nguyễn này dung mạo xấu xí liền vội bỏ chạy ra khỏi phòng, từ đó không chịu vào.

Về sau người bạn của Hứa Doãn là Hoàn Phạm đến thăm, nói với Hứa Doãn rằng: “Nhà họ Nguyễn đã gả cô con gái xấu xí cho anh tất có nguyên nhân, anh nên tìm hiểu thử xem”.

Hứa Doãn nghe theo lời Hoàn Phạm vào phòng. Hứa Doãn vừa nhìn thấy dung mạo xấu xí của vợ định bước ra. Người vợ níu lại. Hứa Doãn vừa vùng vẫy vừa hỏi người vợ rằng: “Đàn bà có ‘tứ đức’, nàng được mấy đức?” (‘Tứ đức’ của phụ nữ là đức, ngôn, dung, công).

Người vợ đáp rằng: “Thiếp chỉ thiếu mỹ dung. Còn những người đọc sách có ‘bách hạnh’, chàng được mấy điều?”

Hứa Doãn đáp rằng: “Ta có đủ bách hạnh”.

Người vợ nói: “Bách hạnh lấy đức làm đầu, chàng háo sắc mà không háo đức, sao lại cho là có đủ?”

Hứa Doãn không trả lời câu nào được, chỉ thấy Nguyễn Nữ có kiến thức sâu rộng và phẩm chất mà người phụ nữ bình thường không có được. Từ đó hai vợ chồng họ tương thân tương ái, tình cảm ngày càng sâu đậm.

Cổ nhân ca ngợi phụ nữ có khí chất bao gồm: Nghi thái (lễ tiết), ngữ thái (giọng điệu lời nói), tình thái (biểu đạt tình cảm), khí thái (tính cách), tâm thái (biểu hiện nội tâm), và thần thái (hàm dưỡng tinh thần), sau đó mới đến tư thái (dáng dấp dung mạo).

Sức hút của người phụ nữ thì 7 phần ở tinh thần 3 phần mới nằm ở dung mạo. Khi khí chất toát ra từ bên trong, thì vẻ đẹp này sẽ lâu dài hơn, lôi cuốn hơn, và sẽ không mất đi theo thời gian mà càng lúc càng được bồi đắp. Người phụ nữ mà từng lời nói cử chỉ hành động đều mang theo một khí chất riêng, thì sẽ khiến người ta yêu thích và trân trọng.

Sắc đẹp có thể phai tàn theo thời gian nhưng phẩm hạnh và tài trí thì sẽ luôn có thể được bồi đắp và mãi trường tồn. Một người đàn ông thông thái, có nội hàm tu dưỡng và cái nhìn sâu sắc thì tất nhiên sẽ chọn cái đẹp vĩnh cửu, một người vợ thông minh khéo léo giúp họ làm nên đại sự chứ không phải là “một bình hoa di động”.

Khi cưới được một người vợ như vậy thì cũng đồng nghĩa họ có một trợ thủ đắc lực trong sự nghiệp, và một tách trà thơm thanh khiết thưởng thức mãi không biết chán.
Reply
BIẾT ĐỦ THÌ NGHÈO KHỔ VẪN VUI, TRUY CẦU NHIỀU, GIÀU SANG VẪN PHIỀN NẢO.

Người xưa có câu: “Người không biết đủ giống như rắn muốn nuốt cả voi”, nuốt không được, nhả lại không chịu. Cuộc sống này, biết bao người đang bị “danh, lợi, tình” trói buộc, mong cầu hạnh phúc nhưng cuối cùng lại nhận toàn khổ đau.

Dục vọng của con người hoàn toàn không thể thỏa mãn được. Nếu một mực cưỡng cầu thì nhất định sẽ sinh ra phiền não

Con người sống truy cầu danh lợi vốn là để được hạnh phúc, vui vẻ, nhưng rất nhiều người vì truy cầu không được lại đánh mất niềm vui, niềm hạnh phúc vốn có. Đây đúng là cái vòng luẩn quẩn của nhân sinh.

Có thể thấy rằng, tâm biết đủ quan trọng đến mức nào đối với sinh mệnh của một người. Suy cho cùng: “Cao ốc ngàn gian, thì đêm nằm ngủ cũng không quá hai mét, ruộng tốt vạn khoảnh, ngày ăn cũng không quá ba bữa”, hà cớ gì chúng ta phải truy cầu lắm thứ như thế? Huống chi, tiền dù nhiều đến mấy, chức vị cao đến đâu đi nữa cuối cùng đến lúc sinh mệnh lìa đời thì đâu còn ý nghĩa gì?

Có người nói: “Tôi cũng không muốn liều mạng, quả thật không cần quá nhiều vật chất và hưởng lạc, nhưng danh lợi là dấu hiệu của sự thành công. Cho nên, buông bỏ là không có chí tiến thủ, không thể buông xuống được”.

Không thể nghi ngờ rằng, danh lợi có phần mang đến sự vinh quang cho con người, tự nhiên có lực hấp dẫn rất mạnh mẽ. Tuy nhiên thành công và danh lợi lại không nhất định là ngang hàng với nhau. Một người quá mức truy cầu danh lợi sẽ khiến tâm không còn tĩnh tại, dễ làm nhiều việc không nên.

Từ xưa đến nay, có bao nhiêu người cả đời lao tâm lao lực, đến lúc vinh hoa phú quý, công thành danh toại, tưởng rằng như thế là hạnh phúc, khoái hoạt. Nhưng quay đầu lại nhìn thì hóa ra, hạnh phúc lại không phải ở nơi ấy…

Người như vậy ở nơi nào cũng có, họ rốt cuộc cuối cùng là thành công hay thất bại?
Người biết đủ sẽ không chọn cách sống như vậy, họ cự tuyệt cách sống “chui đầu vào cái giỏ danh lợi”, bởi vì họ biết sẽ bị “danh lợi” làm khổ cả đời. “Danh lợi” tuy rằng ở một mức độ nào đó sẽ khiến con người khoái hoạt hạnh phúc nhưng dục vọng “danh lợi” mãi cứ giãn nở ra vô hạn thì chỉ có thể làm cho người ta thống khổ mà thôi. Cho nên, cổ nhân giảng: “Thấy đủ thường vui!”
Một người biết đủ, ở phương diện công danh lợi lộc có thể không thành công nhưng hẳn là sẽ vui vẻ, hạnh phúc. “Biết đủ” chính là cách nắm giữ hạnh phúc trong tay. (Ảnh: Internet)

Vào triều đại nhà Minh, có một vị tiên sinh dạy học, gia cảnh bần hàn nhưng mỗi ngày đều dâng hương bái lễ, cảm tạ trời xanh ban phúc. Vợ của ông nghĩ mãi mà không hiểu, liền hỏi:“Một ngày ba bữa đều là húp cháo loãng, sao có thể tính là hưởng phúc?”.[Image: BcKCN8.jpg]

Vị tiên sinh này trả lời: “Sống ở nơi thái bình, không có chiến sự thảm họa, đó là cái hạnh phúc lớn nhất. Hàng ngày có quần áo mặc, có cái ăn, không đến mức đông chịu lạnh, đói không có gì ăn là hạnh phúc lớn thứ hai. Trong người không có bệnh tật, không có tai họa là cái hạnh phúc lớn thứ ba. Chúng ta có cả ba thứ ấy rồi chẳng phải là phúc sao?”.

Nhiều người nhìn vị tiên sinh này thường cho rằng ông không thành công, nhưng ông lại tự thấy mình hạnh phúc. Bởi vì trong lòng ông biết đủ, niềm hạnh phúc của ông đến từ góc độ tương đối.

Có câu nói rất hay rằng: “Đừng khóc vì không có giày đi bởi vì có người còn không có chân để đứng!”. Bởi vậy mới nói: “Biết đủ thì người nghèo khổ cũng vui, không biết đủ thì người giàu sang cũng u buồn”. Ở trong cùng một tình cảnh, chúng ta chỉ cần thay đổi góc nhìn, thay đổi cái tâm của mình thì tình cảnh cũng tự nhiên thay đổi.

Có tâm biết đủ là quý trọng những gì có ở hiện tại. Chúng ta đừng nên nghĩ mình thiếu những gì mà nên nghĩ nhiều về những thứ mình đã có. Nếu không quý trọng, thì những thứ đang có hiện tại cùng rời bỏ chúng ta mà đi.

Cách tránh được tai họa chính là coi trọng phúc phận mình đang có. Ví như sinh mệnh và sức khỏe là tài phú lớn nhất của mỗi người, nhưng mọi người lại thường xem nhẹ, đến lúc sắp mất đi rồi mới thấy hối tiếc thì đã muộn.
Cho nên, đại nạn không chết, bệnh nặng mà khỏi sẽ khiến con người cảm nhận rõ rệt được niềm hạnh phúc tăng lên gấp bội. Trái lại, không biết đủ mà tham lam sẽ dễ dàng bị lầm đường lạc lối, khiến tai họa “không nên có” ập đến.
Reply
ĐĐ Thích Chân Hiếu : Khuyến Tấn Niệm Phật , California, USA, 26-12-





Thầy Chân Hiếu là 1 vị chuyên tu Niệm Phật ,nên nghe bài này của Thầy thì sẽ thấy rõ và sáng con đường tu tập, không còn gì để tranh luận .Lúc đó thì ai tu nấy chứng, hồn ai nấy giử .
Reply
KHI LÒNG NGƯỜI KHÔNG CÒN CÓ ĐẠO, THẾ GIAN SẼPHẢI GÁNH CHỊU CƠN THỊNH NỘ CỦA TRỜI.( Nguồn:Tân sinh.net)

Lịch sử nhân loại nếu quan sát thật kỹ, tựa như một vở kịch được lặp đi lặp lại. Khi lòng người không còn có đạo để câu thúc hành vi, thì việc ác nào người ta cũng làm, cho đến cuối cùng là kết cục tận diệt.

[b]THẾ TÔNG SÀI VINH NHÀ HỌ CHU DIỆT PHẬT HỌA ĐẾN CON CHÁU.[/b]
Hậu Chu Thế Tông Sài Vinh hùng tài đại lược được khen ngợi là “đệ nhất minh quân” thời Ngũ Đại (thế kỷ 10). Ông đã cải cách toàn diện, mở mang bờ cõi, đánh đâu thắng đó, nhưng lại chết ở tuổi tráng niên khi chỉ mới 39 tuổi, mãi đến hôm nay vẫn khiến cho người ta ngậm ngùi tiếc nuối.
Sài Vinh đoản mệnh, nhìn thì thấy giống như là ngẫu nhiên nhưng lại không ngẫu nhiên chút nào. Chúng ta hãy thử lật giở lại những ghi chép trong chính sử để hiểu được nguồn cơn.
Năm thứ hai sau khi lên ngôi, tháng 5/955, Sài Vinh đã hạ chiếu phá hủy chùa chiền. Chùa miếu Phật Pháp trong nước, ngoài những ngôi chùa có bút tích của hoàng đế có thể được giữ lại ra, mỗi huyện chỉ còn có một ngôi chùa, còn lại đều bị hủy hết.
Cả nước tổng cộng đã phá bỏ 30.360 ngôi chùa, hủy tượng Phật đúc tiền, gần 1 triệu tăng ni bị ép phải hoàn tục.
Vào những năm Phật Pháp hưng thịnh đó, rất nhiều người không dám ra tay phá hủy tượng Phật. Sài Vinh ngang nhiên nói: “Phật là Phật, tượng là tượng. Phật ngay cả thịt, mắt cũng đều có thể bố thí, đập tượng Phật đúc tiền, Phật cũng sẽ đồng ý thôi”.
Chùa Đại Bi ở Trấn Châu (huyện Chánh Định, thị trấn Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc ngày nay) có một bức tượng Quán Âm Bồ Tát bằng đồng lớn rất linh thiêng. Những người đi đập tượng Phật đều tự chém đứt cổ tay mà chết, không người nào dám hạ thủ.
Sài Vinh đích thân bước lên, dùng cây rìu lớn đập vào ngực của tượng Bồ Tát, đích thân phát động cuộc vận động diệt Phật. Về sau, Sài Vinh hỏi Vương Phác là người tinh thông thuật số: “Trẫm có thể sống được mấy năm?”.
Vương Phác trả lời: “Sau năm 30 thì không biết được”. Sài Vinh hiểu sai rằng còn có thể sống đến năm trị vì thứ 30, nên rất vui mừng. Nhưng lời của Vương Phác lại có ngụ ý khác, Sài Vinh tại vị 5 năm 6 tháng, năm lần sáu vừa khéo lại là số 30.
Năm 959, Sài Vinh muốn thu phục 16 châu ở Yên Nam, thống lĩnh đại quân, tiến đánh U Châu. Khi xa giá đến quan Ngõa Kiều, Sài Vinh đứng ở trên cao nhìn xuống, nghe người dân nói nơi này gọi là “Bệnh Long Đài” (“bệnh long” ý là rồng bệnh), thì lập tức lên ngựa quay trở về.
Ngay đêm hôm đó phần ngực ông bị lở loét. Không lâu sau vết loét trên ngực của Sài Vinh lan rộng thối rữa mà chết. Mọi người lúc đó đều truyền tai nhau rằng đây là quả báo chém vào ngực của tượng Phật. Con trai 5 tuổi của Sài Vinh lên ngôi không được một năm, đã bị thống soái Triệu Khuông Dẫn đoạt mất giang sơn, rơi vào cảnh nước mất nhà tan.
Có thể thấy, cái chết của Sài Vinh không hề vô duyên vô cớ, tất cả là do bản thân ông ta gieo nhân ác mà thành. Đây chính là lời cảnh tỉnh của thiên thượng đối với con người thế gian, thế nhưng người đời lại cho là ngẫu nhiên, đều không muốn nghe, không muốn hiểu.
Nhân quả trên đời chính là điều công bằng nhất, dù là ai hành ác đều phải chịu báo ứng tương xứng. Một người làm chuyện bất nhân bất nghĩa, thì tất nhiên đời sau phải chịu khổ nạn để hoàn trả. Thế nhưng, khi tiêu chuẩn đạo đức của cả xã hội trở nên không còn tốt, lòng người không còn có đạo đức để tự ước thúc bản thân, thì nhân loại đã ở trong tình cảnh nguy hiểm cực kỳ.
Lịch sử nhân loại chính là vở kịch được lặp lại, và những gì từng xảy ra trong quá khứ khiến cho chúng ta không thể không tự suy xét lại.

Con tàu Noah huyền thoại .
Chắc hẳn nhiều người đã từng nghe về con tàu Noah đã giúp con người vượt qua cơn đại hồng thủy trong Kinh Thánh ra sao. Đối với những người theo đạo Thiên Chúa và những ai đã từng đọc Kinh Thánh thì hẳn đã biết ngọn ngành về truyền thuyết này.
Theo ghi chép trong Kinh Thánh, thủy tổ của loài người là Adam và Eva vì vi phạm luật trời nên bị đuổi khỏi vườn Địa Đàng. Sau đó, họ tới mặt đất, sinh sôi nảy nở đời này nối tiếp đời kia làm con người tràn đầy khắp thế giới. Thế nhưng theo đó tội ác của họ cũng ngày một ngập tràn.[Image: BcKCN8.jpg]
Vào một ngày kia, khi chứng kiến những tội ác mà con người gây ra, Thượng đế cảm thấy tức giận và hối hận vì đã tạo ra loài người. Ngài đã quyết định sẽ tạo ra một cơn đại hồng thuỷ để quét sạch hết thảy những mầm mống của tội ác.
Lúc bấy giờ, ở trên mặt đất, có một người tên Noah lòng dạ ngay thẳng. Thượng đế không nỡ giết hại nên đã báo mộng cho ông biết trước. Ngài khuyên bảo Noah hãy đóng một chiếc thuyền thật lớn để có thể chứa được tất cả những người thân trong gia đình cùng tất cả mọi loài động vật, nhưng mỗi loài chỉ được mang theo 1 cặp.
Nghe theo lời Thượng đế, Noah đã đóng một chiếc thuyền khổng lồ, dài 150m, rộng 23m, cao 13,6m, chia làm 3 tầng, rồi đưa tất cả các loài động vật lên đó, mỗi loài chỉ có 1 cặp y như lời Thượng đế nói. Ngay khi Noah cùng gia đình mình lên thuyền thì cũng là lúc cơn đại hồng thuỷ ập đến.
Quả nhiên, nguồn nước ở vực sâu nứt ra, tràn ngập khắp nơi, một cơn mưa lớn và dữ dội kéo dài suốt 40 ngày đêm. Thượng đế đã trừng phạt loài người, mọi tội ác cùng với sự sống bị tiêu diệt, trừ những sinh vật trên tàu Noah. Noah và các loài động vật ở trên thuyền 150 ngày, cuối cùng con tàu thả neo ở Ararat (ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ).
Sau khi trận lụt kinh hoàng, nước rút dần khỏi mặt đất, Noah thả một con chim bồ câu bay đi xem tình hình bên ngoài. Lần thứ nhất, con bồ câu không tìm được chỗ đậu chân vì nước chưa rút, nên nó lại bay về tàu. Bảy ngày sau, con bồ câu lại được thả ra lần nữa, lần này nó bay trở về, trên mỏ ngậm cành lá ô liu tươi.
Ông Noah biết là nước đã rút xuống, mặt đất đã yên bình vì Thiên Chúa đã thôi cơn thịnh nộ. Ông tiếp tục thả con bồ câu ra, lần này nó bay đi không quay trở về nữa. Ngày nay, gắn với chiếc tàu Noah này hình ảnh chim bồ câu ngậm cành lá ô liu là biểu tượng của hòa bình.
Và thế là Noah đã đưa tất cả loài động vật ra khỏi thuyền, trở lại mặt đất. Thượng đế đã lập một giao ước với Noah và răn đe loài người rằng: “Các người hãy sinh sôi nảy nở để trám đầy mặt đất, nhưng nhớ rằng hễ các người còn tàn ác, và máu người khác vẫn còn chảy thì máu của các người cũng sẽ phải chảy”.

Mắt sư tử đá biến thành màu đỏ 
Trước đây, ở một ngôi làng nọ, đạo đức của người dân đã trở nên vô cùng xấu xa và bại hoại. Tất cả mọi người đã không còn ai tin vào Thần Phật, nhân quả. Vì vậy họ sẵn sàng làm bất cứ việc gì họ muốn để chiếm được lợi ích kể cả là những việc tàn ác nhất, giết người hại mệnh.

Khi Thần Phật thấy con người đã quá xấu như vậy liền muốn tiêu hủy ngôi làng này. Nhưng Địa Tạng Vương Bồ Tát lúc ấy vì vẫn muốn cứu vớt những người lương thiện còn sót lại ở ngôi làng đó nên đã cho họ một cơ hội nữa.

Vị Bồ Tát liền hạ phàm, hóa thân thành một ông lão ăn mày nghèo khổ, rách rưới. Ông lão đi đến từng nhà gõ cửa để xin ăn nhưng không ai chịu cho ông thứ gì dù chỉ là một miếng cơm, cũng không có một nhà nào cúng thờ Phật cả.

Ông lão ăn mày đi đến cuối làng thì phát hiện thấy một bà lão đang sắp lễ, đốt hương cúng Phật. Ông bèn tiến đến trước cửa nhà bà lão để xin ăn. Bà lão thấy vậy nói: “Tôi chỉ còn một bát cơm này, nên sẽ chia cho ông một nửa, một nửa còn lại để bày đồ cúng thờ Phật!”.

Địa Tạng Vương Bồ Tát nhận thấy bà lão này rất thành kính với Phật, tâm địa lương thiện nên trước khi đi vào rừng đã chỉ tay vào đôi sư tử bằng đá đặt ở cổng làng và nói: “Khi nào bà nhìn thấy đôi mắt sư tử đá kia đỏ lên thì chính là lúc ngôi làng này sắp xảy ra lũ lụt lớn. Bà hãy chạy thật nhanh lên ngọn núi, bảo đảm sẽ được bình an!”.

Bà lão nghe thấy vậy vô cùng sửng sốt nhưng trong nháy mắt đã không thấy ông lão ăn mày đâu. Bà lập tức đem tin tức mà mình vừa nghe được nói cho tất cả mọi người trong thôn làng biết.

Bởi vì người trong làng đã không còn ai tin vào Thần Phật, nhân quả, nên kết quả là không một ai tin lời bà, thậm chí họ còn giễu cợt, châm chọc bà. Họ cùng nhau nói rằng: “Mắt của sư tử làm bằng đá, sao có thể biến thành màu đỏ được?”.

Một ngày nọ, mấy thanh niên chơi bời lêu lổng trong thôn muốn đùa giỡn và châm chọc bà lão nên đã dùng thuốc nhuộm đỏ rực mắt của con sư tử đá. Bà lão nhìn thấy mắt sư tử đá đã đỏ rực lên liền lo lắng hướng đến mọi người trong thôn mà hô to: “Chạy mau, sắp lụt rồi!”.

Mọi người trong thôn chứng kiến cảnh bà lão hớt hải như vậy, ai cũng ôm bụng cười sặc sụa. Bà lão thấy không ai tin lời mình nên một mực kêu to hơn, cuối cùng cũng vẫn không có ai nghe.

Bà đành chạy lên núi một mình. Liền ngay lúc đó, lũ bất ngờ từ đâu tràn đến. Bà lão vừa chạy vừa quay đầu nhìn lại chỉ thấy nước lớn dâng lên thật nhanh. Trong chốc lát toàn bộ ngôi làng đã chìm ngập trong biển nước mênh mông.

****
Khi đạo đức nhân loại bại hoại nghiêm trọng và trượt dốc quá xa khỏi bản tính thiện lương thuở đầu của mình thì ắt sẽ lĩnh chịu sự trừng phạt của Thần Phật.

Thần Phật rất từ bi nhưng cũng rất nghiêm khắc. Lòng từ bi có thể bao dung người tốt hoặc kẻ xấu đã hoàn lương. Còn những kẻ “thập ác bất xá” thì đối diện với họ chính là địa ngục đoạ đày, bể khổ vô biên, huỷ diệt triệt để.
Tuy nhiên, mỗi khi một đại tai nạn sắp ập tới, Thần Phật từ bi đều có những cách thức triển hiện, thông báo, điểm hoá khác nhau. Chỉ là con người có đủ ngộ tính và sự ăn năn để nhận ra không. Có thể được cứu vớt không, có thể tránh được sự huỷ diệt sinh mệnh hay không chính là từ một ý, một niệm của con người mà thành vậy.
Reply