GÓP NHẶT HOA THƠM.
#76
Tỳ Kheo sống trong rừng
Như Đức

         Trưởng Lão Vanavaccha, quê hương ở thành Ca-tỳ-la-vệ. Ngài sanh ra trong rừng, khi mẹ Ngài đi vào rừng viếng cảnh. Lớn lên, yêu thích rừng núi, được đặt tên là Vanavaccha. Về sau, khi theo Phật xuất gia, Ngài cũng sống trong rừng tinh tấn tu hành và chứng quả A-la-hán. Các vị đồng phạm hạnh đã hỏi Ngài: Thích thú gì ở rừng núi? Ngài dùng kệ tán thán vẻ đẹp thiên nhiên. Lời đơn giản mộc mạc, gợi tả nét hoang sơ
          Đẹp sắc, mây xanh biếc,
          Nước mát lạnh, chảy trong
          Kẻ chăn bò Inda
          Che kín cả ngôi rừng
          Những ngôi núi đá ấy
          Làm hân hoan tâm ta

          “Kẻ chăn bò Inda” là để chỉ cho các côn trùng màu đỏ óng bay đầy núi sau những cơn mưa. Vị Tỳ-kheo lặng lẽ ngồi giữa màu xanh biếc và màu đỏ óng ánh, nước suối tràn trề như nội tâm tự do.
          Thầy Vanavaccha có một đệ tử duy nhất là anh con của dì, tên Sìvaka. Khi mẹ Sìvaka nghe tin cháu mình xuất gia sống trong rừng, đã bảo con trai: “Này Sìvaka, con hãy xuất gia dưới sự hướng dẫn của Vanavaccha và phục vụ cho người”. Sìvaka nghe lời mẹ, xuất gia và sống với thầy trong rừng núi. Một hôm, Sìvaka đi về làng - chắc để tìm thực phẩm - thầy bị đau nặng bất ngờ không thể trở vào rừng. Đêm đó trưởng lão Vanavaccha đi tìm, săn sóc, cho Sìvaka uống thuốc. Khi bình minh bắt đầu, Trưởng lão nói với học trò: “Này Sìvaka, từ khi ta xuất gia, ta không sống trong chốn làng mạc. Vậy chúng ta hãy đi vào rừng”. Sìvaka trả lời: “Dầu thân con ở ngoài làng nhưng tâm con bao giờ cũng hướng về rừng núi. Vậy nay tuy con nằm ở đây, con sẵn sàng đi vào rừng”. Trưởng lão dắt tay học trò đi, khích lệ sách tấn. Nhờ vậy, Sìvaka tuy đang đau vẫn nỗ lực thiền quán và chứng A-la-hán. Một tấm gương vâng lời, ưa thích viễn ly đã in dấu trong Tăng Kệ:
          Thầy ta nói với ta:
          “Hãy đi! Sìvaka!”
          Thân ta sống trong làng
          Nhưng tâm hướng về rừng
          Dầu còn nằm ta đi
          Người biết, không trói buộc

          Ở một mình trong rừng, trở ngại nhất có lẽ là vấn đề đau bệnh. Chỉ có sự mãnh liệt của tâm mới giúp thân vươn lên, rũ bỏ sự trói buộc của bệnh yếu.
          Chúng tôi trong dịp về Hà Nội dự lễ đặt viên đá đầu tiên thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là vùng đất cổ tích của thời Văn Lang, bốn ngàn năm lịch sử. Những dãy núi liên tiếp kề nhau, in bóng trên đồng ruộng xanh biếc, suối chảy trong veo theo triền đá mấp mô. Giấc mơ sống trong rừng lại trở về. Ai cũng từng một lần nuôi mộng như vậy, khi đọc qua những trang thiền sử đầy dẫy dấu tích rừng, chưa có trang kinh nào ghi chép việc ra sức công phu bên nền công nghiệp hiện đại. Chắc chưa kịp ghi vào. Trang kinh nguyên thủy còn vang lời huấn thị của đức Thế Tôn: “Này các Tỳ-kheo! Kia là gốc cây, kia là động đá, hãy đến đó tu tập”. Cho nên chúng tôi rất đỗi hâm mộ khi nghe nói, vào sâu trong rừng này là nơi tu tập của các vị Ni. Tăng tu trong rừng, không có gì trở ngại. Ni làm sao dám vào rừng tu? Nghe kể lại đã thấy thú vị, dù chưa đặt chân đến. Trí tưởng hay kéo người ta đi xa. Chưa chi tôi đã nhớ tới mấy câu thơ của Giả Đảo:
          Xuất trần đầu vị bạch
          Nhập định nạp ngưng sương
          Mạc thoại Ngũ Hồ Sự
          Linh nhân tâm dục cuồng.

          Những người tu ở rừng này, có người còn rất trẻ: Xuất trần tóc chưa bạc. Và hẳn là chỉ chăm chăm một việc thôi, một việc tu tập thiêng liêng nhất. Còn “Nhập định nạp ngưng sương”? Ngồi tịnh hàng giờ, khí núi rừng đẫm ướt áo nạp - Tôi tự hỏi chính mình có làm được như vậy không, không kể gì đến việc thế sự, không nói bàn dông dài để khiến tâm người rong ruổi náo loạn. Câu này răn nhắc cũng bằng thừa, không ai muốn mua việc vào mình.
          Nhân khi gặp gỡ, việc chúng tôi quan tâm nhất là ở trong rừng như vậy, rủi đau ốm ngặt nghèo làm sao. Trong đầu mấy huynh đệ nghĩ đến xe cứu thương rú còi. Chư Ni cho biết chưa có khi nào xảy ra. Quả thật đem tâm thức của dân thành phố để tính chuyện núi rừng, thấy không xong. Nhìn sự trong sáng của các ni ẩn tu, đã đủ tin tưởng.
          Nếu đức Phật không ra đời, giáo lý hiền thiện của chư Phật không hướng dẫn người tu, chúng ta không dễ gì nếm hương vị độc cư và giải thoát. Ở rừng không phải là một hình thức lập dị hoặc chỉ để làm du lịch xanh. Ở rừng với bổn phận tìm cho ra sức mạnh nội tâm, sức mạnh không bị lệ thuộc quần chúng. Ít ra thì mình cũng bớt bị bận tâm rằng mình chưa có cái điện thoại di động như bạn bè.
          Trưởng lão Tekicchakàrì, được đặt tên như vậy có nghĩa là “Người được các bác sĩ cứu sống” vì khi sinh, mẹ Ngài phải giải phẫu. Khi lớn lên, Tekicchakàrì trở thành một thiếu niên thông thạo của dòng Bà-la-môn. Thân phụ của Ngài bị vua Ba-la-nại bắt giam, vì ảnh hưởng chánh trị. Tekicchakàrì bỏ trốn, lánh mình trong tinh xá của một trưởng lão. Sau đó chàng xuất gia, trở thành một Tỳ-kheo sống ngoài trời không kể gì lạnh nóng, hoàn toàn chú tâm tu tập để đạt thánh quả. Ác ma muốn phá rối, đi đến gần Ngài dưới hình thức một mục đồng, than thở:
          Lúa đã gặt thâu xong
          Gạo đã được đập giã
          Nhưng một miếng không có
          Ta sẽ làm gì đây?

          Vị Trưởng lão nghĩ rằng: “Người này nói đến tình cảnh của nó. Nhưng ta cần phải giáo huấn ta! Không phải phần việc của mình để mà thuyết giảng.” Thầy tự khuyên mình thiền quán trên ba quy y:
          Hãy niệm Phật vô lượng!
          Tâm hân hoan thoải mái
          Tâm thấm nhuần hỷ thọ
          Luôn luôn cảm phấn chấn.

          Hãy niệm Pháp vô lượng!
          Tâm hân hoan thoải mái
          Tâm thấm nhuần hỷ thọ
          Luôn luôn cảm phấn chấn.

          Hãy niệm Tăng vô lượng!
          Tâm hân hoan thoải mái
          Tâm thấm nhuần hỷ thọ
          Luôn luôn cảm phấn chấn.

          Ác ma, làm ra vẻ lo lắng:
          Ngài sống giữa ngoài trời
          Những đêm này giá lạnh
          Chớ để lạnh hại Ngài!
          Hãy vào trong tinh xá
          Có cửa đóng then gài

          Trưởng lão trả lời:
          Ta sẽ cảm thọ được
          Với bốn tâm vô lượng
          Ta sẽ sống an lạc
          Với những tâm tư ấy
          Giá lạnh không hại ta
          Ta sống không dao động.

          Nói xong Ngài phát triển thiền quán và chứng quả vô sanh.
          Khía cạnh của câu chuyện này, cho thấy người độc cư dễ có tâm lý cô đơn, muốn bắt chuyện, muốn giao tiếp. Vị Trưởng lão thức tỉnh trên phận sự của mình, chỉ hướng về giáo dục mình. Nếu ai cũng được như vậy, dù sống trong đám đông cũng không ngại.
          Rừng núi và những tấm gương ẩn cư lung linh cùng mây chiều sương sớm. Cao nhân đạo sĩ khuất nẻo mù khơi. Không dễ gì thực hiện mơ ước của mình, thôi thì đọc tạm những bài thơ. Giả Đảo, thi sĩ đời Đường, viết nhiều nhất về núi non lâm tuyền, về những người ở ẩn. Trong thơ của ông, ta ít thấy dáng người hiện hữu, chỉ là dấu tích vương mây, như bài thơ nổi tiếng ai cũng biết này:
          Tùng hạ vấn đồng tử
          Vân sư thái dược khứ
          Chỉ tại thử sơn trung
          Vân thâm bất kiến xứ.

          Đến chùa hỏi thăm thầy, được chỉ ra đám mây trong núi. Không thấy người nên mãi mãi là ước vọng.
          Ở một bài khác, ông kể lại rằng sau khi vượt qua những nẻo đường núi cheo leo gập ghềnh, đến tìm vị tăng ở ẩn, thì không được tiếp.
          Dã tự nhập thời xuân tuyết hậu
          Khi khu đắc đáo thử phòng tiền
          Lão tăng bất xuất nghinh triêu khách
          Dĩ trụ thượng phương tam thập niên.

          Giả Đảo (779-843)
          Sau mùa xuân đi tìm một ngôi chùa hoang dã, gập ghềnh biết mấy mới tới được phòng thầy. Nhưng thầy không ra tiếp khách, (chỉ biết) thầy trụ ở non cao này ba mươi năm.
          Hầu như là không bao giờ gặp. Để cho giấc mộng rừng núi vẫn cứ là giấc mộng.
Reply
#77
TẬP-KHÍ (Ni sư Hạnh Huệ, Giáo thọ Thiền Viện Viên Chiếu)






Reply
#78
Đóa Hoa Quỳnh Trong Đêm
Như Đức

         Buổi tối đó, hộ thất đã mang ra cho tôi một bông hoa quỳnh vừa hé nở, cắm trên dĩa tròn với một cọng thủy vi tùng xanh biếc. Chiều lòng, tôi đã phải ngồi dậy, thắp cây đèn dầu lớn để ngắm nghía. Loài hoa thiệt lạ chỉ nở vào ban đêm. Tôi là kẻ không ưa thức đêm, đã phải tận tình chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó trước khi đi ngủ và để cây đèn bên cạnh, ánh sáng vừa đủ soi vẻ trắng muốt dịu dàng của bông hoa, trong căn thất nhỏ. Mùi hương nhẹ thoáng không ngợp lắm, tôi có thể chịu được, và thỉnh thoảng giữa cơn ngủ say, tôi tỉnh dậy, ngóc lên nhìn đầu tủ, nụ hoa quỳnh vẫn còn đó, lặng lẽ nở một mình. Cánh hoa mỏng trắng tinh xếp khít khao với nhau, làm tôi nhớ màu lụa trắng của thời học sinh trung học, màu lụa thật nhẹ và mơ mộng như lứa tuổi thời ấy.
         Ý tưởng có một bông hoa làm bạn với mình trong thất, và không lâu, sáng mai mình sẽ không còn thấy nó nở tung, hé mở những chiếc cánh thế này, để lộ từng chùm nhụy cong vút mảnh mai bên trong. Tôi đã phải chịu khó thức dậy nhiều lần để ngắm bạn. Nụ hoa vẫn nở bất kể là có tôi hay không có tôi, bất kể là đang ở trên cành hay được cắm vào dĩa.
         Suốt đêm nó vẫn giữ độ hàm tiếu. Tôi chưa thấy hoa quỳnh mãn khai vì có bao giờ tôi ở bên cạnh chậu quỳnh cho đến khuya. Tôi ngắm nó như một vật lạ nhất trên đời. Phía bên này, tôi có một đóa tường vi hồng đang nở, nhưng tôi không chú ý lắm vì nghĩ rằng tường vi đến sáng vẫn còn.
         Đóa hoa dường như muốn nói với tôi một điều gì - Không lâu lắm, tôi hiện diện chỉ một đêm thôi. Ngày mai và vĩnh viễn tôi không bao giờ hé cánh lần thứ hai. Đó phải chăng là thông điệp của vô thường? Người học hoài có nhớ? Nhưng hiện tại tôi đang có mặt đây, sự có mặt của tôi là cả một thế giới bừng nở. Hơi đêm mát lạnh, màu u tối của đêm làm tăng vẻ trắng muốt của tôi. Chiếc lá mang tôi trên mình cũng đang nở, vì nó đang mang trên mình một bông hoa, khác với những chiếc lá suông. Tia nắng mặt trời từng ngày nuôi dưỡng thân cây, tia nắng vàng óng của ban ngày, tôi chưa khi nào giáp mặt, nhưng tôi biết tia nắng đẹp tuyệt vời đó đã cấu tạo nên tôi trong từng chút một. Cọng hoa tròn mũm mĩm non mướt, đài hoa râu ria, cánh hoa và nhụy hoa điểm một đầu phấn vàng. Chúng tôi đang nở đây trong sự nuôi dưỡng của ánh mặt trời và tất cả muôn duyên.
         Tôi đã tung ra hết vẻ đẹp của mình, đang cười lặng lẽ bên cây đèn dầu. Thế giới chung quanh ngủ yên, cả cô chủ thất cũng ngủ. Thật thích thú và kỳ diệu khi mình tỉnh thức giữa lúc mọi người ngủ say - Tôi đọc trên cánh hoa quỳnh nỗi thích thú ấy - Bạn cứ ngủ - Cô chủ, tôi thức một mình cũng đủ vui, không cần phải chuyện trò giao tế. Thức với tôi, là bác gió đêm nhẹ nhàng, lay động cành lá, làm chao động những cọng nhụy rung rinh, và cánh hoa dợn sóng. Gió thật mát, chỉ vuốt nhẹ trên mặt hoa mịn màng. Tối nay trời không mưa, cũng may những giọt mưa nặng hạt sẽ làm tôi mệt mỏi, sức của tôi không chở được một giọt nước mưa. Và chính vì vậy cô chủ phải đem tôi vô thất, tôi biết, cô thích để tôi ngoài trời, để tôi một mình nở trắng trên chiếc bàn con giữa sân, chung quanh là đêm rủ bóng, những vì sao trên xa cũng nhìn thấy tôi nữa là. Thỉnh thoảng cô sẽ đẩy cửa ra, nhìn tôi một chút rồi quay vô giường. Nếu cô thích cô sẽ để cửa suốt đêm, đèn vặn nhỏ, và nằm nhìn ra phía tôi, cô có một lối ngắm hoa thật làm biếng, không văn nghệ tí nào.
         Mấy nhà thơ thường hay thức đêm bên tôi, chế một bình trà ngon, châm một điếu thuốc, hoặc với vài ba người bạn nói chuyện nho nhỏ, hoặc tìm ý thơ vần thơ bên cạnh tôi. Có lẽ họ tìm cảm hứng, tìm cách quên tôi qua cảm hứng của họ: có một bông quỳnh đã nở trong vườn đêm nay.
         Có người cho bắt đèn điện, những bóng đèn con giăng mắc suốt cả thân cây, soi rọi chúng tôi một cách lộ liễu. Hoa mà nằm bên cạnh đèn điện thì thật là kỳ cục. Người đời có những ý thích và lối thưởng ngoạn không hợp gu với tôi. Nhưng tôi nở là vẫn nở, không vì thế mà kém vui. Chỉ có một đêm thôi, hơi đâu mà bận tâm với họ.
         Để tôi ngoài trời là để giữa thiên nhiên, còn đem vào nhà là vật sở hữu, có thể đốt một ngọn nến hay cây đèn dầu khiêm nhường chút đỉnh, ánh sáng phải lịch sự, đừng chói chang. Tôi là biểu trưng của đêm, rất thầm kín.
         Đêm trải dài mênh mông, tôi cũng trải đời mình mênh mông vô tận. Tôi không hề mỏi mắt đêm nay, sau đó tôi sẽ khép lại, và đi vào quên lãng. Tôi nở thật trọn vẹn cho đêm này, cho thế giới của tôi. Quá khứ, đêm trước tôi chưa nở nên không có gì đáng nói, và tương lai, đêm sau, tôi không có mặt nên cũng chẳng có gì phải quan tâm.
         Hạnh độc cư của vị Tỳ-kheo là:
         Đừng theo dấu quá khứ
         Hay khát vọng tương lai chưa đến
         Cái gì đã qua bỏ lại đằng sau
         Cái gì chưa đến thì chưa đạt được
         Và cái hiện tại
         Hãy dùng tuệ giác soi chiếu khi nó xảy đến.

         (lời Phật dạy)
         Độc cư là ở một mình, vắng bóng mọi người chung quanh. Tập hạnh độc cư để không ô nhiễm với mọi hiện tượng và được giải thoát vì từ bỏ tất cả.
         Nhưng độc cư bên ngoài không quan trọng bằng độc cư tâm linh, đó là sự vắng bóng mọi ngoái nhìn quá khứ hay trông ngóng tương lai, đó là một tâm thức hồn nhiên rỗng suốt, không chứa để mọi ý niệm, cảm tình lo âu, nhớ nhung... đủ thứ hằm bà lằng của tâm thức - như đóa hoa quỳnh chỉ nở trong hiện tại.
         Tập tọa thiền là để tập độc cư tâm linh, để buông xuống mọi vọng tưởng ồn náo, mọi bóng hình chen chúc ồ ạt - Đó không phải là sự cô đơn héo úa, buồn tẻ, mà thật ra đó là sự tươi mát của đóa quỳnh trong đêm.
         "Và Niết-bàn là sự độc cư tâm linh cao nhất"
Reply
#79
Ba thăng đậu


        Yết Đường, một học trò nghèo đời Tống, vì cuộc sống khó khăn, không đủ phương tiện theo đuổi công danh, ông lên phố mở trường dạy học. Bạn bè ông hơn một nửa đã đỗ đạt làm quan, xe ngựa võng dù nghênh ngang. Mỗi lần gặp ông, họ đều ngoảnh mặt làm ngơ, dường như chưa hề quen biết. Yết Đường ngậm ngùi than:
        - Đọc sách chỉ cốt học làm người, làm người cần theo đúng bổn phận là tạo được nhiều việc thiện. Ta dạy trẻ con đọc sách hiểu đạo thánh hiền, cũng là trọn vẹn trách nhiệm làm người rồi. Bọn họ được phú quý vinh hiển, chẳng thèm nhìn ta, đó là việc của họ.
        Ông lại rành thuốc men, nên thường chứa nhiều thuốc viên, thuốc tán tại trường. Hễ ai cần đến, ông xem mạch cho thuốc, tiền nong tùy ai muốn đưa bao nhiêu cũng được, nghèo quá không tiền thì thôi. Mọi người gọi ông là trưởng giả nhân hậu.
        Có một năm, trời mất mùa, dân chúng đói khổ, người chết vô số. Cuối năm ấy, ông nghỉ dạy, mang theo mấy lượng bạc về nhà. Giữa đường gặp một thiếu phụ vừa ôm con vừa khóc chạy qua. Ông sanh nghi rảo bước theo sau, thấy bà đặt đứa bé bên đường nức nở:
        - Tam Can, con ở đây đợi bậc thiện nhân quân tử đến cứu con nhé! Mẹ nuôi sống con không nổi nữa rồi!
        Thiếu phụ đứng lên, chạy vụt xuống bờ sông. Yết Đường chợt động tâm cơ, biết bà ta muốn đâm đầu xuống sông tự vận.
        Ông hốt hoảng la lên:
        - Không được! Không được!
        Rồi chạy bay đến níu thiếu phụ lại hỏi thăm sự tình:
        - Chẳng giấu gì ông. Gặp lúc mất mùa đói kém, tôi xoay sở đủ cách vẫn không cách nào sống được, chỉ còn nước xuống kêu khổ với Diêm Vương mà thôi.
        Yết Đường thở ra nói:
        - Mất mùa tuy là số trời, nhưng cũng đừng nên coi thường mạng sống. Tôi có ít lượng bạc đây, bà cầm lấy sống đỡ, chớ có liều mình nữa.
        Nói xong, ông móc hết mấy lượng bạc ra cho thiếu phụ. Thiếu phụ quỳ xuống lạy tạ rối rít. Yết Đường cứu được hai mẹ con bà nọ, khoan khoái về nhà. Vợ ông ra đón mừng rỡ, hỏi thăm xong, nói ngay:
        - Thức ăn trong nhà đã cạn khô, ông về thật đúng lúc. Tiền dạy học được bao nhiêu cho tôi đong ít gạo, rồi nói chuyện sau.
        Yết Đường nhíu mày nói:
        - Còn đồng nào đâu! Chẳng giấu gì bà, giữa đường tôi gặp một thiếu phụ vì không cơm ăn, ném con bên đường rồi nhào xuống sông. Tôi cầm lòng không đậu, cho bà ta hết tiền rồi.
        Vợ ông nghe xong, rầu rĩ trách:
        - Ông thật hồ đồ! Cứu người là việc tốt nhưng cũng phải nhín lại chút ít để xài chớ! Đem cho hết người ta, bây giờ hai vợ chồng mình sắp sửa chết đói đây, biết có ai đến giúp không?
        Yết Đường bối rối đáp:
        - Tôi... tôi lúc đó thấy bà ta khổ quá, quên hết trơn, đâu có nhớ tới mình.
        Vợ ông than:
        - Thôi chẳng qua số ông mạt rệp, nói gì được nữa. May mà nhà còn sót lại ba thăng đậu, nấu ăn tạm rồi tính nữa.
        Yết Đường mừng rỡ ngẩn người:
        - Còn đậu sao? Vậy thì chưa kẹt lắm.
        Lúc hai vợ chồng đang tính toán việc nhà, chợt có một lão già đẩy cửa bước vào. Yết Đường nhìn lên, té ra là lão Trương ở khít vách, bèn gọi to:
        - A, ông Trương lâu ngày không gặp, ông có khỏe không?
        Già Trương lết bết bước tới, thở dài:
        - Ông anh! Già này ngóng ông dài cổ, tưởng chẳng còn được gặp. Đói kém thế này, tôi sống hết nổi rồi ông ơi!
        Ánh mắt lão thật đáng thương. Yết Đường ngậm ngùi:
        - Đáng lẽ dĩ nhiên là phải giúp nhau, nhưng giờ đây tôi chẳng còn một đồng nào, biết sao bây giờ?
        Rồi ông kể lại mọi chuyện cho lão nghe.
        Lão Trương chùi nước mắt nói:
        - Thế thì lão gia khốn khổ này, sanh mạng đã dứt rồi!
        Yết Đường bất nhẫn, quay sang vợ nói:
        - Lão gia đáng thương! Hay đem đậu chia ông ta một nửa đi bà!
        Bà vợ nguýt ông một cái, bước vào trong. Ông lật đật bước theo.
        Bà vợ tức tối nói:
        - Mình sắp chết đói đến nơi mà ông vẫn còn lo bá vơ.
        Yết Đường than:
        - Nếu mạng mình chưa chết, trời sẽ giúp. Còn nếu số chết đói, có thêm một ít đậu giỏi lắm cũng sống thêm hai ngày.
        Bà vợ vẫn vùng vằng, ông bèn tự tay đong hết một thăng rưỡi đưa cho già Trương. Già Trương khóc nức nở, cảm tạ mà đi.
        Vợ ông đợi già Trương đi khuất, quay lại cằn nhằn:
        - Ông cả đời vì người, chẳng nghĩ đến mình tí nào. Đã đến nông nỗi này mà vẫn chứng nào tật nấy. Tôi làm vợ ông, cũng chịu khổ theo ông. Thật là...
        Nói đến đây bà ngẹn ngào tức tưởi rồi òa lên khóc. Yết Đường phân bua, khuyên giải đủ điều. Vợ ông vẫn dàu dàu, uất ức, bỏ vào trong.
        Yết Đường bỗng cảm hứng nổi lên. Vợ ông đem đậu ra, ông chẳng đoái hoài, kiếm bút viết lên
vách một bài thơ:

Nhịn ăn, mai sáng lại trùm chăn
Tự thương bạn khó đến kêu van
Trong nhà còn có ba thăng đậu
Chia hai hàng xóm để cùng ăn.


        Qua ngày thứ hai, có một phú ông mắc bệnh, nghe tin ông rành y thuật, vội mời ông đến trị. Yết Đường hốt thuốc cho ông ta. Vừa uống xong khỏe ngay. Ngày hôm đó phú ông sai người cầm 100 lượng bạc đến Yết Đuờng để cảm tạ. Ông bảo vợ:
        - Tôi đã nói với bà, mạng chưa hết thì tự nhiên trời giúp. Bà coi đó, đúng không? Từ rày về sau bà đừng có hấp tấp nữa!
        Vợ ông thấy tiền đến rõ ràng, đổi buồn làm vui.
        Qua năm sau, vợ ông sanh một bé trai. Hai vợ chồng mừng rỡ vô cùng. Khi đứa bé được 6 tuổi, ông đích thân dạy dỗ trong mấy năm, bao nhiêu vốn liếng thi thơ, ông truyền hết cho con. Lại thêm đứa con thông minh, đĩnh ngộ, văn chương như gió lướt trên mặt nước, như nhả ngọc phun châu. Sau thi đỗ trạng nguyên. Lúc này Yết Đường cũng đã xấp xỉ lục tuần mà vẫn khỏe mạnh như thời niên thiếu. Con ông về nhà bái kiến cha mẹ, hai vợ chồng già thật là hoa lòng nở rộ. Người làng tranh nhau xem mặt tân trạng nguyên chật đường chật xá. Những người bình thường thọ ơn ông đều nói: "Trời cao có mắt", ông Yết Đuờng làm lành như thế nên trời ban cho ông đứa con đỗ trạng vậy!

Hạnh Huệ
(dịch từ tập "Trung Hoa cố sự")
Reply
#80
Nét Đẹp Của Thiền

Như Đức

        Thiền đồng nghĩa với cái đẹp. Người ta thường đề cập đến Chân-Thiện-Mỹ cho một tiêu chuẩn hoàn hảo. Tính chân thật tuyệt đối thường có vẻ lạnh lùng nhạt nhẽo của đệ nhất phong đầu bặt dứt ý niệm. Phải có thêm tính Mỹ để cái đẹp ngàn đời hiển hiện. Trong thơ văn Thiền Việt Nam, vẻ đẹp của chân lý tuyệt đối được biểu trưng bằng nhiều cách. Một cành mai của thiền sư Mãn Giác nở hoài từ vô thủy vô chung, mỗi độ xuân về thường được nhắc đến - Đôi ngỗng của thiền sư Pháp Thuận, từ thời đón sứ Tống đến nay cũng cứ bơi hoài, trong đó có cái đẹp thong dong lướt đi trên nước, như mọi thứ trong đời cứ lướt đi không vướng bận.
        Lông trắng phơi dòng biếc
        Sóng xanh chân hồng bơi.
        (Bạch mao phô lục thủy
        Hồng trạo bãi thanh ba.)

        Thiền sư Thiền Lão thì mượn trúc biếc hoa vàng để diễn tả cảnh giới toàn chơn. Thiền sư Cứu Chỉ nói đến cái sáng ngời trong suốt trên khắp đầu ngọn cỏ lá cây, không đâu không có.
        Muôn đời ngàn đời nào sánh được
        Chốn chốn nơi nơi thường rạng ngời.
        (Thiên cổ vạn cổ nan tỷ huống
        Giới giới xứ xứ thường thường lãng lãng.)

        Cho dù văn thơ Thiền Việt Nam rất ít, khiêm tốn và đơn giản như cuộc đời Thiền sư, không lộng lẫy đặc biệt như Thiền Trung Hoa, nhưng qua mỗi trang chữ, không thiếu hình ảnh Chân Thiện Mỹ. Có thể chọn một bài thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ làm tiêu biểu.
        Tựa: Họa thơ Hưng Trí Thượng Vị Hầu.
        Thiền phong không trước cũng không sau
        Bản thể như như sẵn vậy nào
        Thiếu Thất chín năm không một tiếng
        Hoàng Mai đêm giữa tạm riêng trao
        Tâm cơ chẳng dính tơ hào niệm
        Khẩu nghiệp nhọc gì chọn lựa câu
        Vì bảo Nguyên quân Trần Xử Sĩ
        Nhạn khuya một tiếng hết đêm mù.

        (HT Thanh Từ dịch)
        (Họa Hưng Trí Thượng Vị Hầu
        Thiền phong vô hậu diệc vô tiền
        Bản thể như như chỉ tự nhiên
        Thiếu Thất cửu niên vô nhất ngữ
        Hoàng Mai bán dạ giả đơn truyền
        Tâm cơ bất quải ti hào niệm
        Khẩu nghiệp hà lao gián trạch nghiên (ngôn)
        Vị báo Nguyên quân Trần Xử Sĩ
        Nhất thanh lãnh nhạn độ sương thiên.)

        Bốn câu đầu nói về tính Chân, bộ mặt thật y nhiên vượt thời không, cho dù Thiếu Thất chín năm không nói hay Hoàng Mai một lời cũng chỉ là tạm dùng đưa người qua sông. Hai câu kế nói khi đạt đến chỗ dứt niệm thì thân, khẩu tự an, mỗi lời nói không cần suy tính mà vẫn lợi ích. Lời nói đại diện cho thân ý, lời đã thiện lành thì mình người hết đau khổ. Từ thể Chân thực phát ra dụng tốt đẹp. Một câu cuối mượn hình ảnh chim nhạn bay qua trời sương để nói lên vẻ đẹp của cuộc sống. Một cuộc sống thức tỉnh đầy an lạc. Thiền vốn không thích giảng diễn, nói dài dòng như thế chỉ e không trúng ý cổ nhân. Nhưng không mượn ngôn ngữ thì làm sao cảm thông được nét đẹp của Thiền.
        Trong đầu thập niên 70, có một cõi Thiền rất thu hút. Tu viện Chơn Không, núi lớn Vũng Tàu. Cho đến bây giờ mỗi khi nhớ lại, những người đã từng ở đó vẫn thấy một nỗi niềm khôn nguôi. Không có gì nhiều, nhưng mộng ước bình sinh được thấy ở nơi này. Nếu so sánh với các thiền viện hiện tại thì Chơn Không thời đó không bằng, nhưng tự nó toát ra một vẻ nguyên sơ tinh khôi, cái đẹp như là sau những khi lội suối băng rừng người ta thấy một chùm hoa lan trên cành cây cổ thụ. Leo hết những con đường dốc, đi dưới bóng cây khuynh diệp lá thon, luôn reo đùa đón mừng người lạ lẫn người quen. Qua chiếc cổng tu viện, bước vào thế giới yên tĩnh lạ kỳ. Những cây bông sứ rải rác quanh các phiến đá, mô đá cao thấp không đều, bông sứ trắng rụng trên đá cũng không nói lời chi. Cứ nhìn rừng hoa rụng, người ta lại nhớ bài thơ của Trần Quang Triều đề Chùa Gia Lâm. Bài thơ có hai câu kết như sau:
        Khách về tăng chẳng nói
        Hoa thông rụng ngát vườn.
        (Khách khứ tăng vô ngữ
        Tùng hoa mãn địa hương.)

        Không ai nói gì nhưng khách cứ tần ngần khi bước qua khung sân hoa rụng. Lòng tự hỏi phải chăng đây là cõi Thiền mơ ước mà mình chưa đặt chân vào được? Những năm tháng miệt mài trường lớp, ngôn ngữ nhiều nhưng tận thâm sâu vẫn thấy thiếu một nơi chốn quay về.
        Mình chưa là thiền sư
        Giả vờ cầm gậy trúc
        Mơ hồ câu tham vấn
        Ý chỉ Phật như hà?

        (Tuệ Đăng)
        Một đôi khi ở tạm dưới các cốc thất quanh đó, giả vờ cầm cây gậy chống cộp cộp qua mấy đường đá cheo leo. Một cây gậy chẳng khiến mình thành Thiền sư được, nhưng ở đây ai cũng chống gậy. Đá núi bấp bênh phủ rêu trơn, cỏ dại mọc tràn không thấy rõ lối đi. Đường Thạch Đầu, đường Đại Mai có dáng Thầy uy nghiêm dẫn lối. Đồi Tự Tại lúc chiều xuống lúc trăng lên, bóng thiền tăng áo vàng thung dung. Mộng hay thực? Phải tham dự những pháp hội thiền, để nghe pháp âm từ Thầy thấm nhuần những tâm hồn khô khao, để biết rằng rốt cuộc đời mình đã gặp một chốn Thiền thật sự.
        Ta thoáng thấy thiên đường không mặc cả
        Bến nước này, xin rủ áo đi rong.

        (Như Thủy)
        Mỗi lần về Chơn Không, bạn bè thường gọi là về miền đất hứa, về Thánh địa tâm linh, bởi vì sau mỗi lần lên núi học đạo, ai cũng thấy tâm mình tươi mới sạch bong. Mang theo mộng ước kiểu kiếm hiệp Kim Dung, hẹn sẽ luyện võ công cho đến mức thượng thừa, mọi con đường phố thị, mọi si mê thời trẻ dại xin chào! Hăm hở nhiệt thành theo đúng nội quy, không giữ tiền, không đọc sách báo, không ăn phi thời. Chặt củi gánh nước ư? Đó là học theo gương Lục tổ Huệ Năng. Ngồi thiền chăm bẳm là để giải quyết sanh tử. Ngữ lục, khẩu quyết đem theo, để gặp tình huống giở ra giải quyết. Một thời sống như thơ. Cho đến đoạn đường từ Chơn Không sang Bát Nhã, tội nghiệp chẳng có cây tùng cây thông, chỉ có vườn chuối lá xanh um và cỏ tranh bạc màu, vậy mà cũng được đặt cho cái tên rất văn vẻ "Ba Tiêu Lộ". Thầy cũng biết những đứa tâm vương ý mã này khó bề nhốt trọn, nên uốn nắn chừng chừng.
        Hơn hai mươi năm sau của Chơn Không, một thiền viện theo đúng ý nguyện của Thầy ra đời, tiếp nối mạch Thiền càng thêm khởi sắc. Trúc Lâm Đà Lạt, một chốn có thể sánh vai với các thiền viện đẹp nhất. Lô Sơn có nhiều tu viện, sương sớm ráng chiều u tịch. Nhưng nổi danh vì có các cao nhân ẩn sĩ.
        Vi văn Lô Sơn đa chân ẩn
        Cố tựu cao nhân đoạn túc phan.

        Tô Đông Pha nói rằng ông nghe ở Lô Sơn có nhiều chân nhân ẩn tích, tìm đến đó là để đoạn dứt những mớ bòng bong rối rắm nhiều đời. Người vào Trúc Lâm học đạo Thiền cũng chỉ muốn như thế. Suốt thời gian chỉ luyện một môn võ: chặt đứt và chặt thẳng. Tuy không ra gươm kiếm nhưng trí tuệ lơ là cũng gọi uổng công phu. Bên cạnh hồ Tuyền Lâm, dáng núi đồi cao hút xa. Không cần phải hẹn ước như nhà thơ Tô học sĩ.
        Rốt cuộc ta sẽ cùng mở cửa bắc
        Nhìn lên ba mươi sáu núi chập chùng.
        (Đáo hậu dữ quân khai bắc hộ
        Cử đầu tam thập lục thanh sơn.)

        Cánh cửa ở đây một khi khai mở thì y nhiên ở nhân thế hoa đã lộng lẫy rồi. Đến với Thiền qua nét đẹp của rừng cây thông, của tu viện mái cong trôi bồng bềnh sương khói, của đường hoa cỏ mượt mỗi sáng mỗi chiều. Từ cái đẹp đó khai mở cho cái đẹp của tâm. Khi mọi thứ đa đoan muộn phiền đặt xuống, đời sống bỗng nhiên an lành. Những xáo trộn ưu tư dần dần lắng, nhìn ra mình và người có sự cảm thông, nét Thiện đã tỏ lộ. Với thiện nghiệp trong sạch, càng tu càng sáng tỏ thì chân tâm ngay đấy không xa. Quá trình tu học bắt nguồn như thế, theo con đường từ Mỹ - đến Thiện - rồi Chân. Ngẫm nghĩ lại hình ảnh của Chơn Không ngày xưa. Sức thu hút đầu tiên đối với một thời tuổi trẻ là nét đẹp của Thiền. Từ đó đến nay những thiền viện càng sau càng đẹp. Cảnh đẹp rủ người vào tu đông, tu để cho ba nghiệp trong sạch, và trăng chơn như rạng ngời. Lời chúc mừng này xin tặng Trúc Lâm ngày tròn mười tuổi.
Reply
#81
Ngày cuối năm (Như- Đức)

Viên Chiếu ăn cái Tết nầy nữa là thứ hai mươi hai. Hãy nhớ lại cái Tết đầu tiên của nó. Đêm trong rừng, không nấu bánh, không mai đào, chỉ có một cành dấm, thứ cây mọc trong rừng, lá chua như dấm, có trái hay bông màu đỏ tròn, được dân nhà nghèo chặt về chưng Tết. Ngồi với nhau chung quanh đống lửa trại, tưởng như mình đang ở vào thời hoang sơ nào đó, ca hát mặc tình, ai thức không nổi có thể nằm trên gác, thò đầu qua cửa sổ vui hùn. Ngày mùng một, tiếng chim rộn ràng mừng tuổi, cũng không cần để ý là mình 29 hay 30. Một bầy dẫn nhau ra Thường Chiếu. Thường Chiếu còn những vạt cỏ tranh, ngọn gió đông thổi héo tàn bông cỏ dại, một ngôi chùa tôn vách đất với mấy đứa trẻ con đi ra, đi vô. Thanh bình vô số kể.
               Sáng nay, 28 tháng Chạp năm Bính Tý, mấy đại diện các Chiếu cùng với thầy Trụ Trì Thường Chiếu đi Chơn Không. Hình như thầy cũng nhắc về một thời bình an, một thời Tết không nhiều việc của ngày xưa. Con đường qua Bát Nhã bị cây rừng phủ lối, tôi và Giải Thiện đứng nhìn, mong tìm lại được một vài nét quen thuộc. Nhớ gì về một thời. Tâm thức nửa muốn lên tiếng, nửa muốn trả lại hư vô. Về Viên Chiếu gần 12 giờ trưa, phải thuê một chiếc Honda đưa vào, trên con đường mà chúng tôi đã từng đi bộ mòn gót, bây giờ...
        Hạnh Huệ báo tin có nhóm quay phim "Bụi Hồng" ghé thăm. À, chúng tôi vẫn thường theo dõi tin tức của bộ phim nầy. Chỉ vì các nữ diễn viên đóng vai Sư Bà, Sư Cô, tiểu điệu... đã ra ở Viên Chiếu một tuần để thực tập làm ni cô. Dân Viên Chiếu không e ngại gì mà không bày mánh lới nhà tu, từ cách quét sân, gánh nước đến cúng quá đường, cách bắt ấn trên chén xuất sanh.... Đoàn làm phim còn đề nghị rủ một vài cô đóng phim, làm bối cảnh... Nhưng nhà tu thiệt trước camera rất chết bộ, rất dở. Chỉ có diễn viên đóng vai nhà tu mới đạt. Dân Viên Chiếu rất muốn được xem Phương Dung như thế nào, nghe các báo có khen ngợi, nhưng mấy ông ấy nói:
        - Chỉ có một cách là tụi tui chở hết mấy cô về hãng phim rồi chiếu cho coi, chứ phim chưa in ra băng video.
        Cái duyên văn nghệ của Viên Chiếu rất mạnh, may là tu theo pháp môn của thầy, vọng tưởng lên liền đuổi như đuổi tà, ngồi thiền rị mọ lo sáng tâm, sáng tánh. Nếu thả lỏng chắc không toàn tánh mạng. Như hôm cô Kim Cương ghé thăm, cả đám chạy theo phỏng vấn, nào Lá Sầu Riêng, nào Phụng Nghi Đình ... Nhắc tới nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, liền nhớ luôn hai câu hát:


Chiều mưa biên giới anh đi về đâu?
Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu...

        Thiệt là cõi trần gian "mưa bay gió cuốn". Chỉ cần nhắc tới quá khứ là sương khói mịt mùng, hình ảnh ngày xưa tràn ngập cả hai tăng đường.
        Chiều 28, tháng nầy là tháng thiếu nên coi như ngày mai là 30 Tết. Dù năm nay rất lận đận nhưng Viên Chiếu vẫn ăn Tết lớn. Danh sách canh bánh tét kéo dài trên bảng công tác đến 10 giờ 30 tối với lời nhắn của Tri Sự "Xin đại chúng cùng phụ vớt bánh". Bánh ít nhưn dừa, nhưn đậu, kẹo chuối có nước cốt dừa, bánh phục linh được gõ từ mấy hôm trước, mứt gừng ... Thuần Hậu ra sức chìu theo đòi hỏi của mấy Viên ưa ngọt.
        Hai chú thợ điện lịch sự đã tặng cho Viên Chiếu một cái đồng hồ có bóng đèn ngủ. Sau gần một tháng kéo dây, chôn cột, gắn bóng đèn, cầu dao, công tắc, Viên Chiếu đã bước vào thế kỷ ánh sáng, bỏ qua thời đèn dầu lù mù. Thiệt ra, tại vì thấy người ta ăn khoai mình cũng vác mai ... đào đại, chứ khoản điện nầy rất cháy túi. Nhưng tất cả các viện đều sáng trưng, đều có điện thoại liên lạc, mình để thua cũng ức. Được lợi thêm mấy cái máy bơm nước không còn ì ạch hành hạ. Máy mô-tơ chạy êm ru bà rù, chuyên viên bảo trì phải đổi từ nghề máy nổ sang máy điện. Dù sao tiếng máy bơm nước đều đều vẫn là điệu nhạc ru của Viên Chiếu hơn mười năm. Tôi nhớ là vào năm 1985 hay trước đó một năm, Viên Chiếu bắt đầu có máy bơm, dân Viên Chiếu cầu cứu quý thầy từ Tòng Lâm đến Thường Chiếu, mỗi khi máy trục trặc. Bây giờ không biết có nên ra thông báo chiêu ... đệ tử: "Cần một người giỏi nghề thợ điện."
        Ban báo chí đóng đô ở chòi rẫy, mắc gì năm nay cây bông giấy trước chòi nở một cách huy hoàng lộng lẫy. Máy đánh chữ bằng điện mượn của Hạnh Nguyên, máy vi tính mượn của nhà Thuần Dược, nếu mượn được máy in hay máy photo cũng dám rước về. Thuần Chánh, Thuần Tuệ là hai tên bày đầu chuyện làm báo Tết, từ cái năm con cọp. Hạnh Đạt đã nhắc tôi:
        - Năm nay báo Viên Chiếu đủ 12 con giáp. Nhưng không có mặt của Thuần Chánh ở ngoài, không khí lúc đầu hơi nguợi. Phần lo bịnh, phần hao tài tốn của quá nên ban lãnh đạo cứ ... giả đò ngó lơ. Nhưng đã nói rồi, ở Viên Chiếu không lơ là cái gì được. Mọi sự cứ thúc đẩy, kéo nhau chạy như đèn kéo quân. Mạnh ai nấy làm, Tri Sự lo làm lại con đường, ban tri viên đào gừng bán lấy tiền mua moteur, ban rẫy bắt dây tưới, tiêu, dừa ... Không ai ở không trong cái chùa nầy. Cả mấy lão mẫu cũng bị bắt sâu ngồi lặt rau cho trị nhật. Viên Thanh mổ ruột dư về, nghỉ được vài bữa, lại ra vừa nằm võng vừa lột đậu phọng cho tri khố... Được làm việc và có việc để làm là điều vui của dân Viên Chiếu nên rồi khi Thuần Bạch, Như Đoan gõ máy chữ lóc bóc, bài vỡ bắt đầu lên khuôn, Hạnh Đạt trang trí báo, mấy Viên tranh thủ đọc bài ké để có hứng viết ... Tờ báo năm nay vẫn đều đặn, tròn trịa như Đồng Kính.
        Năm giờ chiều, Bạch Mai chạy ra, chó sủa rân, Huệ Ẩn nói:
        - Nhà mình chỉ có mấy con cẩu là mừng Bạch Mai.
        Chúng tôi đang ngồi tại bàn ăn, bèn rủ:
        - Ăn gì chưa? Ngồi ăn luôn!
        - Ăn chớ, nhịn đói từ hồi sáng đến giờ.
        Có dĩa bánh bột lọc của chú Phú, dĩa bánh ít mới hấp còn nóng, cơm cháo... Huệ Ẩn xăng xái bưng bún, nước lèo còn dư, rồi hỏi:
        - Bạch Mai ăn rau sống không?
        - Cô có rau chết, cho em!
        Tưởng đâu chỉ có mình Viên Chiếu than mệt, Bạch Mai cũng than hùn:
        - Em thức tới 2 giờ khuya, làm cho xong cuốn Video thầy đi Úc.
        A, tối nay nhà chú Năm Phước hứa cho mượn tivi, đầu máy. Mình sẽ được xem phim Thầy trước Thường Chiếu. Thường Chiếu đến mùng 3, Nhân Tín mới đem ra. Bạch Mai còn khoe:
        - Băng của em là F2.
        Chương trình buổi tối sẽ không tổ chức văn nghệ để xem phim. Nói nhỏ; có mấy cuốn video A Xà Thế, Tế Điên... đang chờ. Và rốt cuộc dân Viên Chiếu tắt đèn, đi ngủ sớm. Tại sao? Thôi đợi sáng 29.
        Bạch Mai xách máy quay ra lò bánh tét, la lên:
        - Chụm lửa vô, sư bác... Sư bác ngồi canh lửa, em quay.
        Giọng Viên Hảo:
        - Có đòn bánh tét nhỏ, vớt lên cho vô phim.
        Kết thúc, Hạnh Huệ trao hộp tiền cho Giải Thiện, sau khi đếm đếm, ghi ghi, dặn dò:
        - Sư xài vừa chừng nghe. Đừng có ai xin gì cũng đưa. Phải hỏi cô Trụ Trì.
        Giải Thiện cứ một mực ừ ừ, gật gật, ôm hết về đơn. Chẳng là ngày mai Thủ Bổn vô thất. Ngày thầy vô Viên Chiếu, Hạnh Huệ quỳ thưa:
        - Thưa thầy, con xin phép vô thất.
        Thầy:
        - Ừ, nhập thất cho tỉnh táo.
        Lúc đó, cả chúng cười ngạo quá nên chẳng nghĩ gì. Tới chừng thầy về rồi, nhớ lại lời thầy, giật mình "té ra lâu nay thầy thấy mình không được tỉnh cho lắm." Tôi cũng nhớ mình, thưa với thầy một câu mà nghĩ lại thấy thiệt ngu. Chắc là tại lâu quá không nhập thất. Nhưng sao Giải Thiện nhập thất gần ba năm, ra rồi cũng không thấy tỉnh lắm, nói năng lạng quạng quá trời. Nè, năm tới là năm Sư xuất chiêu đó nghen.
Reply
#82
Nghinh Xuân
Như Đức

          Tháng 10 bước qua tháng 11, trong không khí nghe hơi chớm lạnh, thỉnh thoảng có những buổi trưa nắng hanh vàng, trong veo như một lời ca “màu nắng hay là màu mắt em”. Những giò lan Nghinh Xuân cảm nhận thời tiết dễ chịu, bắt đầu nhú một chồi hoa. Buổi sáng đi tưới cây, đưa nhẹ vòi nước trên từng nách lá, thấy hé mở những con mắt non mởn, lòng thầm reo vui: A! Nghinh Xuân!
          Phương Nam này, nắng nóng quanh năm, càng lúc càng nóng. Một năm qua với nhiều chuyện không vui, bão lụt, động đất, tuyết phủ làm trở ngại đường bay, nơi thì khô hạn đất nứt, nơi thì mưa dầm lê thê… Đủ thứ tin tức trên một trái đất chớm già nua hư hoại. Trong kinh Đức Phật có dự ký rằng, đến thời kỳ cuối, bảy mặt trời xuất hiện, đất đai không còn tươi nhuận, chỉ có gai góc sỏi đá, thực phẩm trở nên độc hại khan hiếm, người ta thường nổi sân giận, cho đến nỗi một cọng cỏ cũng có thể giết người. Mình có đọc đoạn kinh này, vào thời còn trẻ hồn nhiên, nghĩ rằng Phật nói như vậy chắc cũng còn lâu lắm, chuyện đó xảy ra ở đâu thôi, nơi mình ở vẫn thấy yên ổn. Bằng cớ là mỗi năm Tết đến, Nghinh Xuân bắt đầu đón chào trước, rồi mấy cây đào rừng đơm nụ đơm hoa lộng lẫy, mai vàng tinh khôi chờ lặt lá xong là trổ hoa vàng rực. Tết, xuân thì trong năm là thời khắc còn đẹp, còn mơ màng một nụ cười của trời đất.
          Đột nhiên những năm gần đây tin tức khí hậu càng lúc càng tệ, mình cứ sợ rằng tận thế đến gần như mấy bộ phim viễn tưởng. Niềm vui vì thế phai dần. Cũng có thể vì thời gian đi qua, chất trẻ trung vô tư trong người không còn, đôi lúc tự kiểm điểm: Mình có già nua không? Sao tự dưng nhớ những ngày gần Tết của một thời ở rừng. Khi thấy những vạt cỏ bông lau, cỏ đuôi chồn phất phới, cỏ mắc cỡ, cỏ tranh cũng vội vã đua chen, mỗi cọng cỏ rừng thi nhau trổ hết vẻ mỹ miều, mình biết là thời tiết sẽ rất đẹp. Cây rừng và cỏ lá nhạy cảm, bắt được tín hiệu chớm xuân, thưởng thức tận tình. Lúc đó ngoài quốc lộ còn thưa vắng, chưa có khu công nghiệp, người ta vẫn còn đánh xe bò đi chở củi, những con bò đủng đỉnh bước lốp cốp, nhịp bánh gỗ cọc cạch trên đường. Chủ của chúng nằm khoèo trước xe, kéo nón lá che nắng, lâu lâu nhịp roi cầm chừng. Đời sống trôi rất chậm.
          Thiền viện cuối năm lại rộn ràng, tưởng như nếu không làm cho xong việc thì ăn Tết không trọn vẹn. Ban ruộng lo gặt lúa Đông Xuân, mùi rơm rạ thơm phảng phất. Ban rẫy gieo hạt cải, hạt xà lách, rau thơm để dành cuốn bánh tráng đầu năm. Ban hoa nổ máy tưới cỏ, tưới hoa, tranh thủ sớm để nhường máy lại cho các ban khác. Tia nước phun trắng một vùng sân, đều như mưa, long lanh trong nắng sớm. Và tất cả các ban cùng hát chung một điệp khúc: Mua phân bò. Quần chằm áo vá lấm lem, mặt mày ngộ nghĩnh, chuẩn bị sẵn một câu xin tiền: “Thưa Thầy, con đi mua phân bò!”. Thầy vừa mở hộp tiền, vừa cằn nhằn: “Tui chưa thấy ai đi mua phân bò về ăn Tết!” Vì sao phải mua cuối năm? Nhà nào cũng muốn dọn dẹp phân bò của mình để năm mới sạch sẽ, mấy ni cô này đến hốt dùm là tốt nhất. Có nhà bán rẻ, có nhà cho không, đó là dịp tổng kết. Chẳng thà chịu cực bây giờ, còn qua Tết mà đầu năm đi mua phân bò thì… Thông lệ này cho đến hôm nay vẫn còn, dù đời sống hiện đại đã có máy móc làm dùm, nhưng vô phân cho tốt rau cải, bồi dưỡng cho cây ăn trái thì không có máy nào làm được.
          Vẫn còn một chút gì của rừng níu giữ. Hơi lạnh và sương khuya đậm đà hơn. Những chồi lan Nghinh Xuân cũng sẵn sàng cho nụ, mặc dù không tươi, không nhiều hoa bằng những năm mới khai phá. Lan rừng rất khó tánh, không phải khí hậu này, không phải thời tiết của một chút hoang sơ, chưa đậm màu khí công nghiệp, chưa có hơi thở đô thị nhộn nhịp, nó vẫn e dè lười biếng. Nếu dại dột chăm sóc bằng phân bón kỹ thuật tân tiến, sẽ thấy ngay kết quả. Tôi có một vườn mai rừng, mai năm cánh màu vàng ươm, nở tự nhiên sau một đợt lặt lá cuối năm. Thiền viện lúc đó đã thảnh thơi đón khách, chặt một vài nhánh mai già cắm vào bình, người đi lễ Phật ai nấy đếu tấm tắc khen bình mai đẹp quá. Tôi cũng hơi tham lam, đọc trong sách thấy chỉ dạy bón phân này nọ cho mai, đào nhiều hoa. Mua NPK 30-10-10 về, pha nước tưới mỗi tuần ba lần, suốt tháng 11. Sang tháng chạp, cũng lặt lá và chờ đợi, mai trổ nụ thưa thớt, chỉ ra toàn lá non. Lan Nghinh Xuân ở trong rừng, sau mùa mưa là sống tự nhiên, không cần tưới, cây khô một - hai tháng thì đến Tết ra hoa. Mình đem về chăm bón, nâng niu sáng tưới chiều thăm, nhiều nước nhiều phân đạm nên cuối tháng 11 nở hoa hết một loạt. Đại chúng đi ra đi vô phê bình “Vậy mà nói nghinh xuân, nghinh đông thì có”. Không phải lỗi tại hoa, tại người ưa chen ngang vào trật tự của thiên nhiên
          Và bây giờ, chỉ còn cây đào rừng là y hẹn với Tết. Buổi sáng thấy lá rụng nhiều dưới gốc cây, nó tự động rụng vì không ai có thể lặt lá cho cây rừng. Mỗi loại cây có biểu hiện riêng, đào rừng thì phải đợi mùa khô, lạnh một chút, nắng hanh một chút. Có bao nhiêu lá rủ nhau rớt hết, cành trơ, bông nhiều chi chít, nở một hai ngày là thắm cả một góc trời. Bông rụng đầy sân, chúng là loại hoa đoàn kết tận tình, nở và rụng mau và nhiều, nhanh như gió. Sống với rừng bấy lâu, thấy mùa Xuân qua mấy độ cỏ hoa, học được bài học của tự nhiên giản dị.
          Thế giới con người trải qua nhiều thay đổi. Các phương tiện khoa học kỹ thuật giúp đời sống tiện nghi, buổi sáng còn ở nhà, buổi trưa đã thấy bay lơ lững ở đâu đó. Cây cối, thú vật được ghép gen, thay đổi lạ lùng, me không còn chua, xoài cũng bị ngọt hóa, đố ai bây giờ ra chợ tìm được trái xoài tượng xanh để về làm gỏi. Nó chỉ còn ở mấy góc vườn của nhà quê. Rồi mới đây đọc báo thấy trong phòng thí nghiệm tạo được giống chuột hót như chim. Người ta còn dự trù khai thác đất trên mặt trăng, trên sao hỏa để dành bán, khi loài người cần di dân. Đi hỏi mấy cây hoa đào, hoa mai, lan Nghinh Xuân có cần thêm bớt gì không? Xuân về, Tết đến. Chúng vẫn đúng hẹn, dù ở trong rừng hay ngoài phố, vẫn tặng cho đời những nụ hoa.
Reply
#83
Người Nữ Trong Đạo Phật



Giáo huấn

Vua Ba-tư-nặc một hôm đang hầu chuyện với đức Phật, bỗng nghe tin Hoàng hậu hạ sinh công chúa, nhà vua tỏ vẻ không vui. Thấy thế đức Phật khuyên nhủ:
          - Đại vương! Một bé gái có thể còn quý hơn con trai. Khi lớn lên cô bé có thể là người trí huệ và phẩm hạnh vẹn toàn. Là một người vợ hiền, biết kính trọng mẹ chồng. Sẽ là mẹ của một quan vương vĩ đại. Thật thế! Đứa con của một người vợ cao thượng sẽ trở thành người hướng đạo chân chánh cho quốc gia.
          Câu nói của đức Phật, từ đó như một bằng ban khen, bảo đảm giá trị cho người nữ. Phá tung thành kiến với lý luận suy diễn. Ngài cho thấy nếu được giáo dục toàn vẹn về trí tuệ và đạo đức, con gái cũng đáng quý không thua con trai.
          Ca dao Việt Nam xác định:
          Trai mà chi, gái mà chi,
          Con nào có nghĩa, có nghì là hơn.

          Một lần khác đức Phật dạy dỗ cho Sujàtà, con dâu của trưởng giả Cấp Cô Độc. Cô này vốn sinh trưởng trong gia đình giàu có, khi về nhà chồng rất hống hách, ngang ngược. Đức Phật cho gọi cô lên, giải thích về bảy hạng vợ trên thế gian; lưu ý rằng có những người vợ quấy rối và những người vợ hiền thục. Cuối cùng Phật hỏi:
-          Này Sujàtà, đó là bảy hạng vợ. Con thuộc hạng nào?
          - Bạch đức Thế Tôn! Xin Ngài hãy nghĩ rằng từ nay con thuộc về hạng vợ hiền.

Phương trời cao rộng
          Mùa An cư thứ năm sau ngày Thành đạo, đức Phật cho phép thành lập Giáo hội Ni. Những thử thách buổi đầu của Ngài, là những lời giáo huấn vô ngôn cho bản chất Ni chúng. Vượt qua nó, và chứng tỏ khả năng giải thoát của mình, là công hạnh của Di mẫu Ma-ha-ba-xà-ba-đề và chư vị Thánh ni.
          Tập Trưởng Lão Ni Kệ gồm những bài ca chứng đạo, khúc hát chiến thắng của những người đã đặt xuống gánh nặng sinh tử. Chúng ta xúc động khi lật từng trang kinh. Những mảnh đời khác nhau, những tâm tư khác nhau đã hội tụ trong biển Phật pháp. Tỳ-kheo Ni Muttà, con gái dòng Bà-la-môn, sau khi tu tập Thiền quán, chứng quả vị A-la-hán, tuyên bố:
          …Hỡi này giải thoát Ni!
          Ta thoát được sống chết!
          Những gì dẫn tái sanh,
          Được nhổ lên tận gốc!

          Dhammadinnà đi đến với chúng Ni trong một chiếc kiệu vàng. Sau khi nhập thất, chế ngự thân miệng ý, Ngài chứng quả A-la-hán. Với biện tài vô ngại, Ngài được đức Phật công nhận là người thuyết pháp đệ nhất trong các Tỳ-kheo Ni. Bài kệ chứng đạo mở ra một phương trời cao rộng:
          Trong ai, lòng ước muốn,
          Đạt được quả vô sanh
          Đã sanh khởi tỏa rộng
          Đầy tràn cả tâm ý.
          Tâm không bị trói buộc
          Trong các dục chi phối
          Vị ấy được tên gọi
          Là bậc vào Thượng lưu.

          Anopanà, con gái quan thủ kho, vì rất đẹp nên có tên Anopanà (không ai sánh nổi) được các bậc vương tôn công tử cầu hôn với lời hứa: “Sẽ nộp sính lễ châu báu gấp tám lần sức nặng của nàng”. Nhưng Anopanà đi đến gặp Phật, nghe thuyết pháp, chứng quả thứ ba tại chỗ ngồi. Sau khi xuất gia trở thành Tỳ-kheo Ni, chỉ bảy ngày sau Ngài chứng quả A-la-hán.
          Khema, hoàng hậu của vua Bimbisàra, tình cờ đến tịnh xá Trúc Lâm. Được Thế Tôn hóa độ, bà chứng quả Dự lưu. Sau khi xuất gia, chứng quả A-la-hán. Đức Phật xếp Ngài vào hạng Thiền quán đệ nhất, và là một trong những bậc thượng thủ Ni thời đó.
          Khi nghe đức Phật tuyên bố rằng: “Ba tháng nữa sẽ vào Niết-bàn”, Di mẫu đến đảnh lễ Phật và xin phép nhập diệt trước, Ngài trở về tịnh xá, cùng năm trăm La-hán Ni bay lên hư không, thị hiện mười tám phép thần biến rồi cùng vào Niết-bàn một lượt. Những vầng Hoa Quang tam-muội sáng rực, ánh sáng, nước và lửa cuộn tròn trên không trung. Cảnh tượng huy hoàng thiêng liêng một thuở. Hai Sa-di Ni chứng kiến cảnh các Thầy nhập diệt, đã nỗ lực Thiền quán cũng chứng A-la-hán và vào Niết-bàn luôn. Đức Phật đưa xá-lợi của Di mẫu ra trước chúng, nói:
          - Nếu nói đại trượng phu thì Ma-ha-ba-xà-ba-đề là đại trượng phu. Những gì bậc trượng phu làm Bà đều làm tới cả.
          Chỉ một câu này thôi, Phật tánh hiển lộ bình đẳng.

Ni giới Việt Nam
          Tiếp nối truyền thống chứng đạo và tu đạo. Ni sư Diệu Nhân, đời thứ 17 dòng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi, nói kệ dạy chúng trước khi thị tịch:
          Sanh già bệnh chết
          Xưa nay lẽ thường
          Muốn cầu thoát ra
          Mở trói thêm ràng
          Mê đó, tìm Phật
          Lầm đó, cầu Thiền
          Phật, Thiền chẳng cầu
          Uổng miệng không lời.

          Bài kệ như một tiếng cười hồn nhiên sảng khoái, làm giật mình những người loanh quanh trong vòng trói buộc. Những tìm kiếm nhọc nhằn xưa nay chỉ là tìm kiếm trong chiêm bao. Chỗ giác ngộ không có nẻo đi về, không tung tích ngôn ngữ.
          Thời cận đại, các bậc Ni trưởng dày công khêu đèn mở đuốc. Từ lớp Gia giáo Ni đầu tiên tại chùa Giác Hoa (Bạc Liêu) cho đến các trường lớp hiện nay, nhiều thế hệ Ni chúng được trưởng dưỡng trong nguồn mạch Tam tạng, được thấm nhuần giáo pháp vi diệu. Con đường hành hóa của các bậc tiền bối Ni vang dội, Sư trưởng khai sơn chùa Hải Ấn, Sư trưởng khai sơn chùa Kim Sơn, Sư trưởng khai sơn chùa Bảo An (Cần Thơ)… những tấm gương khích lệ cho Ni giới. Có một điều gì thâm cảm vô cùng khi nhớ đến các Ngài.
          Sư trưởng chùa Huê Lâm, người đầu tiên vận động thành lập Ni Bộ Việt Nam, bậc thầy hướng đạo cho sinh hoạt Ni chúng miền Nam từ thập niên 60, nói:
          - Ni giới mình yếu ớt lắm, thầy sẽ trở lại để độ Ni.
          “Nguyện làm Ni để độ Ni” - một đại nguyện phát xuất từ hùng lực và bi mẫn. Đại nguyện này thay cho lời kết.
Reply
#84
Nguồn Cội                                                                                                                                                                                                 THUẦN TUỆ 
Đêm ấy trời mưa to. Gió từng hồi thổi tung cả rường nhà. Đôi cánh cửa gỗ trên gác chánh điện chuyển mình cọt kẹt. Hai ngọn đèn leo lét trên bàn Phật chập chờn chực tắt. Ngoài sân, gió rít qua tàn lá cây đập sàn sạt từng hồi. Mưa như trút nước.
        Sư cụ cầm đèn bước lên chiếc thang gỗ ọp ẹp. Mưa tạt ước cả sàn gỗ ngôi chánh điện, chỉ còn một khoảng nhỏ trước bàn Phật. Sư cụ dâng hương rồi quỳ xuống tụng kinh. Tiếng chuông mõ chìm lẫn trong tiếng mưa gió.
        Ngôi chùa có mặt nơi vùng đất Hóa - Châu này cùng lúc với đám di dân. Họ là dân tứ xứ, theo lệnh triều đình đến khai phá vùng đất hai châu Ô và Rí, đến đây dựng chùa như dựng lại niềm tin để nương tựa như những ngày tháng lưu lạc gian truân. Ngôi chùa nghèo như dân cư quanh vùng. Sư cụ trụ trì chùa này đã mười năm dư. Chánh điện là một căn gác nhỏ, có hai tượng Phật lớn tạc bằng gỗ. Đặc biệt, chiếc hồng chung không lớn lắm nhưng tiếng rất tốt. Chiều chiều, tiếng chuông ngân nga vang xa, làm ấm lòng người dân xa xứ.
        Thời kinh xong thì mưa vừa ngớt hột. Đêm rền tiếng uềnh oang. Sư cụ lui nhỏ ngọn đèn bàn Phật, lần cầu thang bước xuống. Bỗng người dừng lại chăm chú lắng nghe. Đâu như tiếng con nít khóc. Tu... oa... oa... tu... oa.
        Tiếng khóc ngưng một lát rồi lại tiếp tục. Sư cụ khêu cao tim bấc. Ngọn lửa lay lắt tỏa ánh chập chờn. Tiếng tu oa như từ ngạch cửa vang ra. Cụ nâng thang gỗ, đẩy cánh cửa nhìn ra. Ôi chao! Một đứa bé ngọa nguậy trong tấm khăn đặt trên manh chiếu cói. Sư cụ nhìn quanh, sân chùa tĩnh lặng không một bóng người. Chần chừ một lúc, Sư cụ cúi xuống lọng cọng ẵm đứa bé. Tấm khăn lạnh ngắt vì hơi sương, nhưng không ướt. Chắc ai đó vừa bỏ nó sau cơn mưa. Tiếng tu oa lại ré lên. Sư cụ luống cuống ôm nó vào lòng, vụng về kéo lại tấm khăn. Nghe có hơi ấm, đứa bé thôi khóc. Nó nằm im trong cánh tay gầy gò xương xẩu, mắt nhắm nghiền. Sư cụ lại trông ra ngoài sân. Đêm tối đen như mực. Người bần thần cúi xuống, bất chợt thở ra: "Con ai đem bỏ chùa này".
        Thấm thoát đã tám năm.
        Đứa bé bị bỏ ở ngạch cửa chùa năm nào nay là chú tiểu Hiền Trí. Sư cụ giờ già lắm rồi, trái với ngôi chùa, lại trông có vẻ bề thế khang trang. Tấm biển "PHÁP TÔN TỰ" đã được sơn phết lại, dân cư quanh vùng làm ăn ngày càng khá. Họ ở quá xa Đông Đô, nên những nhiễu loạn chính sự không ảnh hưởng tới. Nhà Hồ, nhà Trần có lên xuống gì thì ở đây vẫn cái cày con trâu, ruộng đồng nương rẫy.
        Sư cụ rất thương chú tiểu Hiền Trí. Mà chẳng riêng gì sư cụ, quanh làng ai cũng quý chú cả. Nhỏ người mà tốt nết, kinh điển học đâu nhớ đó, lại có hiếu với sư cụ vô cùng. Có lần sư cụ bệnh nặng, chú thức suốt đêm canh chừng. Nửa khuya, buồn ngủ quá, chú gục gặc thế nào mà té nhào vào cơi than hồng để dưới chân giường sư cụ. Chú hết hồn, mắt nhắm mắt mở, quơ chổi gom than lại. Một mảnh than văng vào góc nhà, nơi đựng bao lá tre chú gom hồi chiều, để sẵn mai nấu nước pha trà sớm sư cụ dùng. Than ngún đến gần sáng thì phát cháy. Cũng may sư cụ thấy kịp, la lên, bốn đại lối xóm chạy đến, mỗi người một tay dập tắt đám lửa. Khi ra về, ai cũng lắc đầu cười, xoa đầu khen chú tiểu hầu thầy "giỏi".
        Năm chú tiểu Hiền Trí mười chín tuổi thì sư cụ viên tịch. Ngài đã cẩn thận cho chú thọ cụ túc giới từ năm trước. Một đời tu tập của ngài gom lại trong phút lâm chung. Trước ngày ra đi một hôm, sư cụ kêu chú Hiền Trí lại bên giường, biểu chú đắp y quỳ trước mặt. Sư cụ trân trọng trao cho chú quyển kinh Kim Cang, ân cần căn dặn:
        - Phật ở trong đây, con đừng tìm đâu xa!
        Rồi cụ chậm rãi đọc bài kệ:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Ưng tác như thị quán.
        Tháp của sư cụ xây ở mé Tây chùa, trông theo hướng núi, chú Hiền Trí trồng hai bụi trúc vàng hai bên tháp. Chiều chiều, chú cầm chổi ra quét lá cho đỡ nhớ thầy. Trước đây, ít khi chú nghĩ ngợi đến cha mẹ, thân thế mình. Năm chú mười lăm tuổi, sư cụ đã kể rõ cho chú nghe về câu chuyện đêm mưa năm nào. Chú nghe rồi thôi, không hề thắc mắc. Sư cụ vừa là thầy, vừa là cha. Chú không thấy thiếu thốn gì cả. Nay người đi rồi, chú mới thấy hết cả cái bơ vơ của một đứa con không cha không mẹ. Hóa ra con người ta, từ trong vô thức, vẫn luôn cần một nơi nương tựa.
        Từ đây, Hiền Trí trụ trì chùa Pháp Tôn. Mọi việc trong chùa vẫn y như hồi còn sư cụ. Ngoài giờ chấp tác, thầy vào liêu sư cụ, chăm chỉ, say sưa đọc những pho kinh sách ngài để lại. Nhiều đêm, thầy chong đèn xem kinh đến canh ba mới đi nằm. Nhiều năm trôi qua, sự say sưa ban đầu dần dần giảm đi. Có lúc người ta thấy thầy ngồi thừ bên cuốn sách chẳng buồn lật ra. Có người bắt gặp thầy đứng hàng giờ trên bậc tam cấp trông ra bờ sông. Tuy nhiên, không có gì đáng phàn nàn về thầy cả. Thầy chỉ ít nói và trầm ngâm hơn mà thôi.
        Lúc này, bên ngoài cổng chùa, tình hình chính sự đang vô cùng gay cấn. Nhà Hồ đã đổ. Cuộc khởi nghĩa của Giản Định Đế và Trần Quý Khoách cũng thất bại. Vùng Diễn Châu Thuận Hóa từ lâu vốn yên ổn, nay đang rên xiết dưới sự cai trị tàn bạo của quan quân nhà Minh. Những đám nổi dậy lẻ tẻ bùng lên rồi tàn nhanh.
        Chợt một hôm, khắp nơi lan nhanh tin đồn: "Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần". Câu chuyện về những chiếc lá kỳ lạ bay từ miệng người này sang tai người nọ. Năm ấy, thầy Hiền Trí đã hơn ba mươi. Thầy vẫn thường đứng trên bậc tam cấp trông ra dòng sông.
        Cho đến một hôm, canh khuya, lúc mọi người đều say ngủ, thầy Hiền Trí lên đường, chỉ với một tay nải và đôi ủng cao để tiện băng rừng lội suối. Ánh trăng thượng tuần loang loáng khi thầy âm thầm chống thuyền đi. Đến bờ, thầy đặt cây chèo vào giữa khoang thuyền rồi đẩy nhẹ cho nó trôi trở ra giữa dòng. Thầy nhìn một lần chót mái chùa cong quen thuộc thấp thoáng bên kia bờ, rồi quày lưng đi thẳng.
        Với cái tên mới - Lê Hiển - thầy Hiền Trí gia nhập đội nghĩa quân của Bình Định Vương. Qua hơn tháng rưỡi đi đường, bấy giờ tóc thầy đã khá dài. Thầy nhanh chóng hòa mình vào nếp sống mới, trở thành một chàng trai như bao chàng trai khác. Khó có thể nhận ra dấu vết tu hành sau đôi mắt và vầng trán trầm tư kia.
        Lê Hiển học được nhiều điều trong nếp sống quân cơ. Ngoài việc luyện tập võ nghệ, kiếm rau rừng... chàng tranh thủ lúc rảnh rỗi học thêm các nghề phụ như nghề mộc, nghề rèn, nghề đan sọt... Chàng cũng biết cách làm thế nào để được no bụng khi phần cơm giữa bữa ăn quá ít, biết cách xử sự để tránh những cuộc ấu đả mà không bị lép vế. Cuộc sống quân ngũ vừa lạ lùng vừa hấp dẫn đối với Lê Hiển. Sức trai tráng trong chàng như bừng sống dậy sau bao năm dài ẩn khuất dưới manh áo nâu sòng.
        Thời gian luyện tập đã qua. Hôm nay chủ tướng Lê Lợi tuyên bố tiến quân về Nam với Nguyễn Chích. Sau ba lần khởi quân ở Chí Linh thất bại, đợt ra quân lần này sẽ nhắm về Nghệ An, thay vì hướng ra Đông Quan như những lần trước. Quân cơ bừng khí thế, trong ấy có trái tim nôn nao của Lê Hiển, chàng gia nhập nghĩa quân trong thời gian Lê Lợi tạm hòa với tướng Trần Trí nhà Minh, nên chưa ra trận nào.
        Đoàn quân âm thầm tiến về Nghệ An. Theo kế hoạch, họ sẽ thình lình tấn công thành Trà Lân, kế đến là Khả Lưu và Bố Ái. Trong đêm tối đen của những ngày cuối tháng, tiếng pháo lệnh nổ vang, Lê Hiển trong đội xung kích lao vào trận. Ngọn giáo trong tay chàng gạt đông đỡ tây, đâm nhầu vào đám quân Minh trước mặt. Chàng chỉ có đánh và tiến tới.
        Cuộc tấn công hoàn toàn thắng lợi. Trận tan, Lê Hiển đứng sững người nhìn bãi chiến trường, thây đổ ngổ ngang, mùi máu tanh nồng. Từ bàn tay nắm chuôi giáo đến khuỷu tay chàng, từng dòng máu đỏ ngoằn ngoèo loang lổ. Những tia dài bắn khắp thân áo chàng. Ông tăng Hiền Trí đang run rẩy trong chàng trai Lê Hiển. Một nỗi đau đớn dâng tràn, bó thắt trái tim chàng.
        Mười năm trôi qua, Bình Định Vương toàn thắng quân Minh. Nơi nơi mọi người ngâm vang bài Bình Ngô Đại Cáo của quân sư Nguyễn Trãi. Lê Hiển âm thầm rời quân ngũ. Chàng ra đi, Đông Quan sau lưng và Yên Tử trước mắt.
        Bấy giờ Lê Hiển chừng năm mươi tuổi. Con người thanh niên thuở nào đang mờ dần sau những nếp nhăn. Lê Hiển quyết tâm lên ngọn Yên Sơn, nơi trong những câu chuyện sư cụ kể ngày xưa có bóng dáng Trần triều Tam tổ. Đời sống quân cơ không giết chết nổi ông thầy Hiền Trí, mà trái lại, chỉ làm chín mùi những thao thức ngày nào.
        Sau một ngày một đêm, Lê Hiển lên đến chùa Hoa Yên. Mái cổ rêu phong, quả là am mây giữa mênh mông trời biển. Chàng ngồi xuống tảng đá dưới cây già trước am Ngọa Vân. Trời đang ngả về chiều. Thấp thoáng giữa từng không đôi cánh chim chao liệng. Con đường bên dưới ngoằn ngoèo uốn khúc. Những đỉnh núi nhấp nhô, núi rừng trùng điệp. Bất giác chàng khẽ ngâm:
Dù ai quyết chí tu hành
Có về Yên Tử mới đành lòng tu.
        Và chàng chợt nhớ bài kệ viên tịch của Nhị tổ Pháp Loa:
Muôn duyên cắt đứt một thân nhàn
Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng
Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi
Bêm kia trăng gió rộng thênh thang.
        Những mẩu thiền ngữ mờ mịt ngày xưa chàng mò mẫn trong rương kinh sách của sư cụ chợt từ đâu kéo về.
        Từ đây, ông tăng Hiền Trí sẽ dừng trụ nơi này, cho đến bao giờ vỡ tung mọi thao thức.
        Ba năm trôi qua, thầy Hiền Trí vẫn ở dưới mái Vân Tiêu. Thầy thường xuống chân dốc, nơi suối Ngự Rôi tọa thiền. Dòng nước từ trên triền cao đổ xuống như mưa bụi. Cách đây hơn trăm năm, nơi này đã từng đông vầy chư tăng về kiết hạ. Và bây giờ, dù chẳng còn ai, thầy vẫn tin có ngày mình sẽ lần ra dấu người xưa.
        Một hôm, trong lúc tọa thiền, chợt đoạn đối đáp giữa ngài Pháp Loa và Điều Ngự Giác Hoàng ngày xưa có lần thầy được học hiện lên trong tâm trí:
        - Thế nào là Phật?
        - Tấm cám ở dưới cối.
        - Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn sang?
        - Bánh vẽ.
        - Thế nào là đại ý Phật pháp?
        - Cùng hầm, đất không khác.
        Bất giác thầy cười to.
        Xả thiền, thầy kinh hành ngược lên am Ngọa Vân. Lời Điều Ngự khi nhắm miệng Bảo Sát tát cho cái sau cùng: "Chớ nói mớ" đã rõ.
        Từ đây không còn hồ nghi.
        Hôm nay, sư Hiền Trí xuống núi. Đã mười năm qua kể từ ngày lên Yên Tử Sơn. Đến suối Cửa Ngàn, sư dừng lại nhìn ngược lên những tháp và mái chùa thấp thoáng trên cao. Có lẽ sẽ không có dịp về lại chốn này.
        Sau ngót tháng đi đường, sau hơn hai mươi năm, hôm nay sư Hiền Trí lại bước xuống chiếc thuyền nhỏ về ngôi chùa xưa. Bên kia con sông, mái chùa cong Pháp Tôn tô đậm nét trong trời chiều. Đôi làn khói lam vờn nhẹ trong không. Thì ra chùa vẫn có người trụ trì. Bước lên bậc tam cấp. Sư vòng qua hậu tổ rồi xuống nhà trù. Bốn bề vắng lặng quạnh hiu, chỉ có tiếng lịch kịch từ dưới bếp.
        Một mái đầu bạc phơ trông lên ngơ ngác. Khuôn mặt nhăn nheo nhưng phúc hậu của bà cụ chừng tám mươi móm mém mỉm cười:
        - A-di-đà Phật, chào thầy!
        Trong khoảng ba bốn năm nay, một bà cụ già tứ cố vô thân thấy chùa bỏ trống, xin làng xóm đến ở trông coi quét tước.
        Kể từ hôm ấy, sư Hiền Trí lại là trụ trì ngôi chùa xưa. Nhân duyên kỳ lạ, sau này sư mới biết bà cụ chính là mẹ mình. Họ nhận ra nhau nhờ gói tả lót còn giữ trong rương sư cụ. Bà cụ về chốn xưa mong tìm con mình và đã gặp. Vậy là mọi việc vuông tròn. Ngày nhắm mắt lại, bà ra đi giữa chừng bài kinh Bát Nhã sư Hiền Trí đang tụng.
        Con sông cũ về sau không còn vắng người. Hàng thiện tín đến chùa nghe pháp ngày càng đông. Xóm làng bây giờ đã trù phú lắm so với hai mươi năm về trước. Hai bụi trúc vàng bên tháp sư cụ vươn ngọn cao vút, thân ngà láng bóng. Sáng sáng, sư Hiền Trí - bây giờ đã quá lục tuần - ra quét lá tre gió thổi rụng đầy quanh tháp... Nhát chổi đưa đều, nhẹ nhàng, trầm tĩnh.
        Đâu đó, một đôi lá tre vàng theo gió là đà rơi xuống mặt sông trong xanh bên dưới.
Reply
#85
Nuốt Lời Hứa

Thuần Chánh

        Đời tôi có ba lần đáng nhớ:

-oOo-


        Lần đầu khi ông chú thân với gia đình tôi về phép, ông ghé qua cho biết ngày mai sẽ đến chơi với chúng tôi.
        Cả ngày hôm đó chúng tôi lăng xăng dọn dẹp, chuẩn bị ngày mai đón chú. Cái ngày mai đó, mỗi một tiếng động ở cửa là tôi ngóng cổ ra - có lẽ chú đến. Niềm đợi chờ tắt dần theo ngày. Tôi tự nghĩ, có lẽ chú bận chuyện gì quan trọng lắm mới thất hứa với gia đình tôi, mai chú sẽ đến. Và ngày mai, ngày mai nữa... lịch được đếm từng tờ. Chúng tôi không dám đi chơi đâu hết, sợ chú đến không gặp. Chờ từng ngày, đến hai năm sau thì chú đến, chuyện qua khúc quanh khác. Và ở đây tôi không định kể chuyện đó. Năm đó, tôi học đệ tam.

-oOo-


        Lần chờ đợi thứ hai, rõ nét và sâu đậm hơn. Nó để lại một ấn tượng mạnh trong tôi, cho mãi đến bây giờ gần hai mươi năm tôi nghe như niềm tin và sự chờ đợi đó vẫn còn.
        Mỗi sáng, ba tôi với sự hiền hòa ngồi chờ tôi pha café, ông nói về sự ân hận của ông đã làm khổ chúng tôi đêm qua. Ông bảo chiều nay ông sẽ về sớm ăn cơm, chúng tôi chờ cơm ông.
        Sáu giờ chiều tôi dọn bàn ăn, chờ ông. Với hy vọng vui vẻ, mấy chị em bàn luận đủ chuyện. Rồi bảy giờ, chúng tôi lôi sách vở ra học bài. Rồi tám, rồi chín. Nhìn nhau, chúng tôi lắc đầu, khi một hồi còi hụ dài, báo giờ giới nghiêm, ông được chở về tới, chúng tôi khiêng ông vô. Sau đó thì chuyện đáng buồn, tôi không muốn nhắc lại làm gì, dù rằng ấn tượng đó bây giờ có phai nhưng chưa mất.
        Sáng hôm sau, khi tỉnh rượu, ông lại hiền hòa, lại ân hận, lại nhất quyết chiều về sớm - nhất định. Tôi lại chờ đợi, lại tin tưởng. Rồi vẫn 6 giờ, 7 giờ, 8 giờ cho đến nửa đêm ông được khiêng về.
        Chiều nào tôi cũng chờ ông, và luôn luôn tin chắc ông về đúng hẹn. Đến bây giờ tôi không hiểu sao qua năm tháng dài như vậy mà niềm tin đó không mất, nó chỉ pha lẫn sự đau buồn của tôi.
        Tôi xin mở một cái ngoặc nhỏ: Cuối đời ba tôi đã đi tu.

-oOo-


        Lần thứ ba, thâm trầm hơn, dai dẳng hơn, có lẽ vì tuổi tác gần bốn mươi của tôi. Niềm tin và chờ đợi có từ ngày tôi nhận chức Bảo trì. Khi sắp đặt ngăn nắp thì tôi tin đâu sẽ vào đó ổn thỏa. Sự chờ đợi đó rõ nét hơn khi tôi đóng xong cái kệ để nón. Tôi luôn tin rằng đâu sẽ vào đó ổn thỏa. Ngày nào tôi cũng nhăn nhó, rằn ri khi phải dọn dẹp tìm kiếm. Sắp đâu vô đó rồi tôi lại hy vọng ngày mai, ngày mai nhất định đâu đó ngăn nắp. Mỗi lần đứng trước kệ, tôi thấy lại sự chờ đợi năm cũ. Có lẽ vì niềm tin, vì hy vọng nên tôi có thể làm mọi điều và chờ đợi, chờ đợi.

-oOo-


        Tại sao lại tin vào một điều khó có thể làm được? Chúng ta dễ dàng hứa và dễ dàng nuốt lời. Hồi mới học kinh, tôi thường phục các vị Bồ-tát tin chúng sanh - một loài nuốt lời hứa dễ dàng hơn bất cứ làm điều gì.
        Khuya nào trên bồ đoàn tôi cũng hiền hòa, sáng suốt tự hứa "tự tư dĩ hậu"... nhất định không sân si, quạu quọ, không u mê như hôm qua, không... Khi tuột xuống khỏi bồ đoàn, bước vô mê hồn trận thì ôi thôi! Nếu có vị Bồ-tát nào chờ đợi sự tỉnh giác của chúng tôi, thì có lẽ chờ từng phút này qua phút kia cho đến khi ba tiếng kẻng thiền khiêng chúng tôi lên bồ đoàn. Tôi lại ân hận, lại tự hứa. Và như vậy, thời gian đi qua cả chục năm.
        Tôi đành phải để chuyện dang dở nơi đây. Đoạn kết có lẽ bạn chờ đợi nơi chính cuộc sống chúng tôi vậy.
Reply
#86
TỪ ĐỒNG RUỘNG
Như Đức

[Image: CuocRuong.jpg]


      Sáng nay, vác cuốc ra đến đám ruộng cỏ mịt mù, những lớp cỏ đan chằng chịt vào nhau như một tấm đệm dày, tôi tưởng như mình đang ở trong chiêm bao. Những giấc chiêm bao luôn luôn tái diễn, cũng ruộng đó và cỏ đó, cũng những gương mặt bạn bè lấm lem, quần áo vá lốm đốm miếng xanh miếng vàng và những giờ công tác... Không có giấc chiêm bao nào khá hơn dù tôi đã đổi chỗ từ Viên Chiếu sang Huệ Chiếu, thiền viện nào cũng phải "Canh điền vi gia vụ, bạt thảo vi bản hoài", có nghĩa là: Làm ruộng như một cái nghiệp, còn nhổ cỏ là mộng lớn. Tôi chợt nhớ đến câu: Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ.
        Nhưng cứ đứng ngần ngại bên bờ như vầy thì bao giờ mới xong việc? Phải nhảy ào xuống đó, cuốc vài lát đầu cho thật hào hứng, lật cỏ lên đạp xuống sình, dậm đôi chân tại chỗ cho đất ruộng đục ngầu, đám cỏ sẽ ngộp thở và chết hết ráo.
        Một nhát cuốc dọn được một diện tích nhỏ, tôi và các bạn đồng viện dàn hàng tấn công mặt cỏ, cứ thế sau lưng khoảng ruộng dọn sạch lớn dần như một lời khuyến khích. Cỏ quá dày nên lưỡi cuốc đi không ngọt, gặp những bựng rễ cỏ quá to thì phải hai ba người xúm lại dứt mới nổi, lá cỏ sắc cứa trên ống chân trần thành từng đường mận đỏ, mồ hôi bắt đầu ướt trên lưng và hai cánh tay. Nhưng thật là thoải mái và yên ổn trong khung cảnh đơn sơ này. Chung quanh là trời mây bao la, màu lúa và màu cỏ xanh hiền như thuở khai thiên lập địa, không một chút lo nghĩ nào trên những lát cuốc đều tay. Tôi thường tìm thấy niềm an ủi của thiên nhiên trong những khi cuốc mệt mỏi, tuy bùn sình văng tung toé, từ mọi phía, cả toàn thân đều đẫm một thứ nước đen mốc, bọn tôi vẫn thường gọi nhau là "thiền sình" thay vì "thiền sinh". Cuốc đất dọn ruộng chỉ là giai đoạn mới bắt đầu của một vụ mùa, rồi sau đó đến nhổ mạ, cấy, làm cỏ, xịt sâu... nếu chỉ cuốc đất không thôi thì đâu có việc gì phải lo lắng. Cấy một cọng mạ xuống mới có nhiều việc phải theo dõi, lúa sâu lúa bệnh, thiếu nước hay thiếu phân, mưa nhiều gió lớn khiến lúa bị ngập bị gãy, nắng hạn lâu ngày thì ruộng khô lúa vàng. Hồi mới bắt đầu làm nghề nông, tôi chưa trải qua những kinh nghiệm đó nên chưa thấy gì khó khăn, bây giờ mới nhớ đến câu ca dao ngày xưa từng học:
Ai ơi ăn bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
        Nếu được mùa, sau khi gặt đập, phơi phong, những hạt lúa vàng óng sáng trưng nằm đầy sân, mình khỏi ăn độn, có dư thì giờ nằm ngắm mây bay, nghe gió thổi lào xào qua mái lá của thiền đường... và chăn con trâu nước bất kham này. Tôi còn đang lan man suy nghĩ như vậy, bỗng nghe tiếng thất thanh:
        - Đỉa, đỉa!
        Nhìn về phía Minh Tuệ, đang co một chân đá gió vì chú đỉa bám chặt trên cổ chân, đương sự có vẻ luýnh quýnh vì không dám thò tay rứt nó, còn chú đỉa mặc những lời la ó phản đối, cứ nằm bất động và thản nhiên, tỉnh bơ như không có chuyện gì xảy ra. Huệ Ý thò tay rứt một cái, con vật ngoe nguẩy phản đối, búng mình để tìm chỗ bám, hắn xoay quanh bàn tay Huệ Ý như chơi trò cút bắt. Ai nấy đều dừng cuốc, nhìn xuống chân mình và nhìn sang chú đỉa đang biểu diễn cách tìm chỗ hút máu. Những tên sợ đỉa la lối:
        - Thôi, quăng nó đi cho rồi. Ghê quá!
        Cô bé bốc một cục sình, túm con vật vo tròn trong tay và quăng lẹ ra xa. Chú đỉa đã được di cư sang miếng ruộng bên cạnh. Trên cổ chân Minh Tuệ in một dấu đỏ, tròn như đầu mút đũa. Đó là phát giác kịp thời, nếu để lâu một chút sẽ có một vết máu đỏ tươi chảy hoài không ngớt. Nhiều khi đỉa đeo và rớt hồi nào không hay, nhìn lại thấy vết đỉa cắn mới là sợ. Nơi hấp khẩu của loài đỉa có một chất làm cho máu không đông lại, nên cứ nhìn những khoảng chân ướt vết máu dai dẳng thật khó chịu. Tôi đã bắt đầu cảm thấy hết yên ổn và phải luôn luôn canh chừng cặp giò của mình, nhiều khi một cọng cỏ quấn quanh chân cũng làm tôi giật mình hoảng vía.
        Trước khi đổi về Huệ Chiếu, tôi đã nghe tin ruộng có đỉa, và những câu chuyện đỉa to đỉa nhỏ đeo từng chùm, lội từng bầy dưới nước, đánh hơi người là bò tới lổm ngổm, đỉa làm cả chúng phải bỏ dở việc làm cỏ vì không thể nào thò tay xuống được, đỉa văng cả lên người trong khi đập lúa, đỉa chui vào cả trong chiêm bao v.v... và v.v... Tôi đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, dù sao mình cũng là đàn chị, đã từng lội ruộng cho phèn ăn mốc cả chân, mặc dù ruộng Viên Chiếu chỉ có một con đỉa để làm kiểng, xuống đây mà cứ ở loanh quanh trên bờ thì mất thể diện quá. Nói rằng sợ thì trật kinh điển, mà nói rằng không thì trái với lương tâm, nên tôi chỉ làm thinh khi bị các cô em phỏng vấn:
        - Chị có sợ đỉa không?
        Thật ra, con đỉa hiền và dễ thương như một cục đất, nó không có sừng, có nanh, gai góc sù sì như mấy loại sâu đáng sợ, nó cũng chẳng kẹp hay cắn mổ gì. Chỉ một tội đeo dai và làm chảy máu, cứ thấy bóng người là a-lát-sô phóng tới. Tôi có thể bốc con đỉa quăng nhưng mỗi lần thấy chúng lội đen ngòm quanh mình, tôi không có can đảm đứng yên, phải quơ chân quậy nước cho đục để chúng bị chóng mặt không đến gần mình.
        Đỉa, do đó là một đề tài thường xuyên được nhắc nhở mỗi khi bàn đến ruộng, lịch sử của thiền viện Huệ Chiếu sẽ thiếu sót nếu không nhắc tới nó. Nhiều người xem nó như một thử thách, nếu không vượt qua được, không xứng đáng học Thiền. Nhưng phần đông đều thất bại ngay lần gặp gỡ đầu tiên, chẳng hạn như Bảo Minh đã vội vàng thót lên lưng chị Hiền, vừa co hai chân vừa giãy nảy. Hạnh Quả thì tâm sự:
        - Con sẽ cố gắng quán chiếu Bát Nhã để ra ruộng. Nhưng phải đợi từ từ, bây giờ thì chưa được.
        Mỗi lần được sai ra ruộng có việc cần, cô bé lấm lét đứng thật xa, vội vàng nói một hai câu rồi ba chân bốn cẳng chạy về. Có lần, sau khi nắm chặt câu kinh "ngũ uẩn giai không", Hạnh Quả thò chân xuống ruộng trước nhất, bước thứ hai thấy một con đỉa lủng lẳng nơi chân, cô bé vội vã nhảy lên bờ, vừa run vừa xanh mặt. Các bạn phì cười và chế diễu:
        - Cái này là "ngũ uẩn giai có"...
        Từ khi đó cô bé biến khỏi ban ruộng bằng cách đầu quân vào ban rẫy hay tri viên, chẳng thà gánh hàng chục đôi nước không ngán bằng gặp đỉa.
        Không phải miếng ruộng nào cũng có nhiều đỉa. Ruộng của Huệ Chiếu ở rải rác chỗ này chỗ nọ, chỉ riêng những miếng ruộng nổi danh, chỉ cần nhắc đến vị trí "gần hồ sen" hoặc "gần bụi tre" mới làm chùn bước những anh hùng lao động. Có người than thở:
        - Thiền viện này mà không có đỉa thì lý tưởng biết mấy!
        Cũng có kẻ ngậm ngùi ngâm câu: "Trời đã sanh ta mà còn sanh đỉa". Nhưng cũng có những kẻ hết sức gan lì, có thể bắt đỉa trên tay, hoặc túm một lần bốn, năm con mà không rùng mình. Còn mấy tên tuổi trẻ, cao lớn mập mạnh, có thể nhờ cậy trong việc nông trang, xứng đáng đỡ đần cho mấy bà già, thì sợ đỉa hơn sợ cọp. Ban ruộng vác một cái bè, già trẻ lớn bé, vừa làm đất vừa chực vác cuốc nhảy mỗi khi thấy đỉa lội đằng xa, để qua những vụ mùa hè thu, đông xuân, thật cũng tốn nhiều thuốc đau tim.
        Riêng tôi rất ưa nghề cuốc đất. Nhất là đất ruộng mềm và mát mẻ dưới những lát cuốc hơi vụn của dân học trò, tôi vẫn cảm thấy thoải mái như đang khoanh tay trả bài học thuộc lòng trôi chảy trên bàn cô giáo. Mặc dù tôi được xếp vào hạng bún thiu, dầm nước ba bữa thế nào cũng sổ mũi đau đầu. Nhưng tôi chưa cảm thấy ngán nghề cuốc đất, chỉ riêng cuốc thôi, chớ phải khom lưng cấy hoặc làm cỏ thì hơi mỏi lưng đó nhé! Nhưng gặp đỉa nhiều quá cũng phải đánh lô tô trong bụng, đừng gặp đỉa vẫn tốt hơn. Và bao giờ cũng vậy, khi nghe kiểng báo tin hết giờ công tác, tôi thở ra nhẹ nhõm, bước lên bờ đê. Lời Trưởng ruộng: "Yêu cầu quý vị kiểm soát lại tay chân quần áo trước khi rời khỏi ruộng" y như lời nhắc nhở các cô xướng ngôn viên hàng không. Tôi sẽ hớn hở vác cuốc trở về nếu không thấy một chú đỉa nào níu theo.
        Hồi xưa có lần tôi nghe mẹ tôi kể chuyện ông Đạo Đỉa. Ở miền lục tỉnh, hình như Đồng Tháp Mười thì phải, có một nơi nổi tiếng đỉa nhiều: Đỉa lội như bánh canh. Tôi hình dung được điều đó vì ruộng ở đây cũng có thể đạt chỉ tiêu, vào mùa nước trong, đứng trên bờ nhìn thấy chúng lội từng đàn như những cọng bánh canh đen nổi dật dờ. Cái ruộng nhiều đỉa nọ, mẹ tôi nói nhiều quá nên dân chúng không thể làm ăn gì được, chắc chỉ lo bắt đỉa, nếu không muốn để chúng hút máu mình đến ốm o gầy mòn. Mà thửa ruộng đó rất trúng, lúa làm một mùa có thể nghỉ cả năm cũng dư ăn trong nhà. Dân chúng không thể bỏ ruộng vì tiếc cũng không thể làm tiếp tục. Sự tình nan giải, cho đến một ngày kia, có một ông thầy tu trên núi xuống, đi du phương đến đó, thấy vậy bèn tình nguyện bắt đỉa. Thuở nay có người bắt cọp, bắt sấu chứ có ai bắt đỉa bao giờ. Ấy vậy mà không biết bằng cách nào ruộng không còn một con đỉa còn ông thầy cũng chẳng để lại tung tích. Dân chúng làm ăn phát đạt, họ thờ ông Đạo Đỉa như một thiện thần trong làng.
        Mỗi lần bước xuống ruộng, câu chuyện "Ông Đạo Đỉa" trở về trong trí nhớ, tôi thầm ao ước mình có được một phần nhỏ như ông Đạo ấy, cũng đủ yên tâm để đứng xuống đất. Kể ra, Huệ Chiếu xứng đáng qua mặt Viên Chiếu về mặt đỉa, dân Viên Chiếu tuy nổi tiếng lì lợm cứng đầu, nhưng khi nghe tới đỉa đều không muốn gặp. Có lần, hàng xóm dẫn một con trâu lội qua ruộng Viên Chiếu, tri sự đã la bai bải vì nghe đồn trâu có đỉa, hắn sợ rớt đỉa xuống ruộng thì khó xử, vì đã lỡ ăn to nói lớn với đàn em. Do đó, không thể xác định ai có nội công thâm hậu hơn ai, vì có người anh hùng ở mặt này nhưng nhát gan ở mặt khác. Như tôi, mỗi lần về Viên Chiếu, được phỏng vấn đều rất hãnh diện vì dám... không sợ đỉa, nhưng cả chúng đều biết tôi rất sợ... chuột con.
        Nhưng dù có vừa làm ruộng vừa cằn nhằn, chúng tôi vẫn tiếp tục từ vụ lúa này đến vụ lúa khác. Tôi thương mến và nể phục thật tình sức chịu đựng của các bạn. Những thử thách của hoàn cảnh và thiên nhiên có theo đuổi, vẫn luôn luôn tìm cách vượt qua, dù trước đó chẳng ai biết cầm đến cọng lúa ra sao. Trưởng ruộng Huệ Chiếu, có thể vo tròn mấy con đỉa trên tay, chơi đùa với chúng, có lần thủ thỉ khi thấy các bạn mất tinh thần vì Đỉa:
        - Tại mình thấy thân mình quá thiệt nên mình mới sợ hắn chứ!
        Và, các bạn biểu đồng tình:
        - Đúng rồi, em cũng nghĩ như vậy. Mình cứ cho thân này là tứ đại hợp thành thì đỉa cũng là tứ đại hợp thành như mình, can chi mà sợ hắn!
        - Ờ, em không sợ hắn, sâu em còn không sợ. Nhưng... đỉa nó nhớt nhớt, mềm mềm và cứ đeo tòn ten dai dẳng. Ghê quá!
        - Em đâu có muốn sợ làm gì. Nhưng vừa thấy nó là đã run rồi, khó mà bình tĩnh được.
        - Em không sợ đỉa to. Đỉa vừa to bằng cái cán dao, vừa có sọc vằn vện, vừa đeo vô là nặng trĩu cái chân, em cũng không ngán, chỉ sợ mấy con đỉa mén, nhỏ xíu không thấy, nó mà chun vô lỗ tai rồi đẻ trứng đẻ con trong đó thì mới thực là ớn!
        Tôi im lặng để nghe các bạn bàn cãi, chợt nhớ tới chuyện đỉa sinh sôi nảy nở, bò ngang bì dọc trong những đường tuần hoàn hô hấp, bỗng thở ra:
        - Cha! Cái thứ đó thật là khó chịu!
        Té ra, đỉa vẫn còn là một loài vật đáng ngại, cho đến thứ đỉa "cháu nội" cũng nguy hiểm đến thế.
        Trưa nay, tôi về nằm trên đơn loay hoay tìm cách đối phó với đỉa, hay nói đúng hơn với bệnh sợ đỉa. Thật là vô lý khi cái thân to lớn như mình lại đi sợ một con vật nhỏ như hắn. Thoạt tiên vì thói quen, vì ảnh hưởng của người chung quanh, hễ nghe nói tới đỉa là cảm thấy khó chịu, như con nít nghe tới ma là cảm thấy sợ hãi. Sợ là một bệnh rất dễ lây và truyền nhiễm nhanh chóng. Cứ thấy mọi người lắc đầu le lưỡi, và đồn đãi những câu chuyện mất cảm tình về đỉa mình cũng đủ hết hồn. Thật tội nghiệp cho hắn, không dè chỉ một cái tên vô tư, hợp vần bằng mẫu tự, và phát âm như những tên khác, tên Mít, tên Xoài, nhưng tên đỉa lại gây ấn tượng không tốt, chỉ riêng về phần người nghe. Còn hắn, chắc không biết thiên hạ gọi mình bằng tên đỉa và sợ mình đến thế.
        Nếu bây giờ tôi đối diện với hắn mà không mang theo một cảm giác, một tưởng tượng nào, chỉ thấy đeo nơi chân liền bắt quăng đi thì vẫn yên ổn đâu có gì phải sợ. Chưa có ai bị đỉa cắn chết hay bị hành nhức nhối hai ba ngày như bọ cạp, trừ trường hợp nó chun vô lỗ tai mà mình không hay. Nhưng tôi nghĩ, đó là chuyện rất hiếm trừ phi mình mang nghiệp chết vì đỉa. Mười - cô bé chúng tôi mướn cấy vài ngày cho kịp công tác đã kể rằng: "Có hôm, sau khi cấy về, mệt quá nên em chỉ rửa chân sơ sài rồi đi ngủ, đến nửa đêm, nghe nhột nhột ở dưới chân, bèn rờ trúng một chú đỉa no tròn. Vậy mà đâu có sao!
        Tóm lại, đỉa không đến nỗi đáng sợ lắm, miễn mình đừng sanh "kỳ tâm" (nghĩa là đừng sanh tâm kỳ cục) khi gặp hắn. Hơn nữa, có lẽ tôi đã lỡ thấy thân mình quan trọng nên không chịu được bất cứ thứ gì xâm phạm đến, nói theo kinh điển tại vì còn CHẤP NGÃ, CHẤP PHÁP nên công phu trở nên bối rối khi gặp đỉa.
        Mình là thiền sinh - dù là thiền sinh bất liễu - cũng không nên để cho một con vật vô tội như hắn chi phối đến nỗi không dám ra ruộng. Tôi tự căn dặn mình như thế, nhưng chắc chắn khi giáp mặt, tôi còn phải vận dụng mấy trăm xương cốt để quán cả tôi lẫn đỉa đều như huyễn, nếu không muốn bị hạ tại trận. Cũng có khi chưa kịp quán gì cả mà chân tay đã run. Ngày nào tôi thấy hắn mà dửng dưng thì mới đáng mặt thượng thừa.
        Suy ra, việc làm ruộng của chúng tôi không phải chỉ để có lúa ăn, nó tập cho chúng tôi những kinh nghiệm bản thân khi phải chạm trán với mọi bất trắc, toàn là những thứ có lẽ không có trong kinh điển, chưa từng có trong thế giới của dân chỉ biết đọc sách và viết những bài luận tả cảnh đập lúa dưới trăng.
        Những bài học của cuộc đời vô vàn phong phú và đáng biết ơn, vì tôi thấy mình lớn ra từ khi làm nên hột lúa. So với thời gian Sa-di ở trong chùa cũ dưới sự lo lắng của thầy tôi, thật là cách biệt. Chẳng hạn, nếu miếng ruộng này mà do thầy tôi bảo làm thì nhất định tôi sẽ mè nheo phản đối, tạo yêu sách, và đủ lý do để người nhượng bộ.
        Ngoài việc làm ruộng chúng tôi còn phải tọa thiền. Tọa thiền và làm ruộng xem ra không dính líu vì đến nhau. Nhưng chính vì chỗ đó mà tôi không thể từ chối bất cứ trở ngại nào. Chúng tôi muốn áp dụng công lực của mình trong mọi hoàn cảnh, nên không chỉ riêng việc làm ruộng, bắt đỉa... mà một thoáng vui buồn cũng phải lưu tâm.
        Ngài Phần Dương Thiện Chiêu có bài kệ:

Bế hộ sơ dung tẩu
Vi tăng nhạo tọa thiền
Nhất tâm vô tạp niệm
Vạn hạnh tự thông huyền
Nguyệt ấn thu giang tỉnh
Đăng minh thảo xá tiên...
Dịch là:
Đóng cửa dáng gầy nhác
Làm tăng thích tọa thiền
Nhất tâm không tạp niệm
Muôn hạnh tự thông huyền
Trăng in dòng thu lặng
Đèn sáng nhà cỏ tươi...
Từ đó đến nay, gần cả ngàn năm trôi qua. Ngài đã thị tịch mang theo chú thị giả khoanh tay đứng chết, để lại cho những nhà tu lao chao cỡ bạn tôi một ước vọng: Tọa thiền cho đến khi mặt sông không còn dấy động - "Mai đây hòa bình ta về ngắm lại dòng sông xưa". Ngắm lại bộ mặt cũ của mình trên dòng sông tỉnh, chắc đẹp như trăng thu. Tô Đông Pha đã từng khen tặng:
... Tấm lòng nhà đạo như nước phẳng
Rọi bóng chìm nổi của cõi đời...
        Cõi đời có dâu bể lang thang nhưng tâm đạo nhân phải đủ sức yên tĩnh. Vậy mà cái tâm bọn tôi, nó xơ xác tiêu điều vì những đợt sóng vui buồn; chưa đủ, còn cõng theo đủ thứ chuyện thiên hạ, bao gồm tất cả tin tức xa gần. Thầy tôi và các Sư bà thường lắc đầu thở ra mỗi khi nghe bọn nhỏ trình bày phiền não. Tâm của các Ngài đã ở vào một thời thái bình, nó đơn giản và thánh thiện chừng nào, thì tâm của lũ nhỏ phức tạp và xô dạt theo nhịp thay đổi chừng nấy. Chính vì chỗ đó mà chúng tôi chọn đời sống nhà quê và tọa thiền để điều chỉnh lại.
        Có một lần tôi về hầu Sư trưởng, người đã trách tôi không chịu nghe lời các vị lớn ra làm Phật sự lại đi chui vô rừng ở cho "tiêu nha bại chủng". Tôi tâm sự với người về câu chuyện của chàng dũng sĩ, sau những cuộc hành hiệp giúp đời, thất bại trở về với thanh kiếm gãy và một chiếc gươm trí tuệ bị lu mờ. Chúng con không ngại nặng nhọc trong việc gánh vác sứ mạng của Như Lai, mục đích xuất gia của chúng con chỉ có bao nhiêu đó. Nhưng muốn làm nên việc, muốn đừng biến mình thành kẻ "bán đồ nhi phế", cần phải có một nội lực thâm hậu mới mong đứng vững giữa bát phong và ngũ dục.
        Vì Sư trưởng đã đến mức độ vô ngại nên Người không hề e sợ như bọn tôi, Người an ủi tôi bằng một câu chuyện trong kinh. Chuyện của người học trò, học Bát Nhã với thầy, tuy chưa đến mức tinh thông nhưng đủ sức để hóa đạo. Chàng ta xuống núi, giúp nước phò vua, được trao ngôi báu và bị cuốn theo dòng đời vì âm mưu mỹ nhân kế của ông vua nước láng giềng. Kiếp sau, chàng tái sinh làm một con chó đói ghẻ lở, bị sa xuống hố sâu không cách gì leo lên được. Trong lúc tuyệt vọng tột cùng, chú chó khốn khổ đành an phận, thúc thủ dưới hố, và bỗng chợt nhớ lại một đoạn kinh Bát Nhã của thời quá khứ. Chú đọc lên để tự cảnh tỉnh mình. Lúc ấy, thiên thần bay ngang, nghe tiếng kinh tưởng đâu có vị Bồ-tát nào mắc nạn, bèn ghé lại và thỉnh chú chó lở lên tòa xếp bằng thiên y, để nghe giảng kinh Bát Nhã. Giảng xong, chú hẹn tái ngộ trên cõi Đâu Suất và dặn các thiên thần đùm xác thân của chú. Câu chuyện Sư trưởng kể thật từ bi và an ổn như tấm lòng của Người. Tôi đã từng nghe kể biết bao chuyện tích, nhưng chiều đó lòng tôi cảm động sâu xa. Tôi biết rằng một khi đã gieo chủng tử Bát Nhã thì không bao giờ bị mất, Sư trưởng cũng như các bậc tiền bối đã đầy đủ công lực và niềm tin nên không hề thối chuyển. Còn bọn tôi phải xét lại tâm của mình mới xong.
        Đem một cái tâm sẵn sàng dính vào ngũ trần để ở giữa phố thị xôn xao mà không biết cách chăn dắt thì dễ nguy hiểm như thả con trâu điên trên đám mạ tốt. "Biết người biết mình trăm trận trăm thắng", bọn tôi còn biết chưa hết, nhìn không kịp mấy tên vọng niệm của chính mình, làm sao dám học đòi nhập thế, không khéo độ chúng sanh chưa xong mà mình bị vướng lụy thì thật đáng tiếc. Đó là nỗi e ngại lớn lao nên chúng tôi đành phải hẹn lại cuộc đời, ngày nào đủ công lực sẽ tái xuất giang hồ. Còn bây giờ phải tập "xem núi sông không là núi sông" đó là điều cần thiết. Việc ấy không phải dễ, nói gì ba mươi năm, bốn mươi năm, chúng tôi biết rõ điều đó nên phải luôn luôn cố gắng tối đa. Rèn luyện mình như một thanh thép nóng, nếu không phải là một thứ mục đích khó đạt, làm sao chúng tôi chịu bỏ cả đời người để chỉ làm một việc tọa thiền. Chịu chôn thân trong ruộng sình, ruộng đỉa, chân lún tay bầm, và chân lấm tay bùn, bằng lòng với mọi khổ nhọc. Nếu là một lý tưởng dễ dàng thì ai tu lâu cho nổi.
        Chiều nay trời chuyển mưa, mây đen kéo mù mịt, giông tố nổi lên ào ào, chúng tôi không thể dầm mưa đứng cuốc nên về sớm. Ở miền Đông Nam Bộ này, giữa cơn nắng chói chang thường có trận mưa giông ào ào kéo qua độ một vài giây đồng hồ rồi biến mất, giống hệt tính tình dân Nam Kỳ, khi cơn giận nổi lên cũng bất ngờ và ồn ào, chưởi lộn um trời đất, vác dao rượt chạy có cờ, khi chấm dứt cũng tỉnh bơ và mau chóng, lại gặp nhau cười hề hề như không có việc gì xảy ra. Cách tốt nhất là khi gặp họ giận thì mình tránh chỗ khác như tránh một trận mưa giông.
        Vác cuốc lên vai, chúng tôi trở về viện. Dọc con đường, dân chúng cũng lùa bò, dắt trâu, gánh gồng tấp nập trở ra. Trên nền mây xám, pho tượng đức Bồ-tát Quan Thế Âm nổi bật toàn thân, nếp áo trắng của Ngài linh động như sẵn sàng bay. Thiền viện nhìn xa thấy hai hàng bông mồng gà đỏ rực như màu áo cửu phẩm của các vị Đại thần. Rửa vội chân tay bên dòng suối nhỏ, Thủy gọi là suối Mơ, tôi thì chẳng thấy nó mơ ở chỗ nào, nhưng những khi mệt nhọc vội vã, nhìn mặt nước trong cũng êm dịu đôi chút, hạnh phúc nhất là lúc ôm thau áo quần ngồi bên cầu, thong thả khoát nước và cười với tâm mình lúc ấy.
        Huệ Chiếu nằm trong khu vực Đại tòng lâm, những năm đầu tiên khi các Hòa thượng khai phá chốn này tôi không bao giờ nghĩ có ngày mình lại ở tu nơi đó. Bây giờ mới thấy thật là có lý, mỗi buổi khuya tĩnh tọa trong thiền đường, nghe vang vọng tiếng chuông tiếng mõ từ các chùa thất xa xa. Một nơi để dành riêng cho những nhà ẩn cư, dưới chân ngọn núi mây nhạt, mỗi sáng sương phủ mờ trên đỉnh, Đại tòng lâm rất có duyên trong mùa mưa. Chúng tôi thường phê bình về các thiền viện nằm dọc trên quốc lộ 15, con đường từ cây số 71 đến 82 mà bây giờ mỗi khi ngồi trên xe chạy ngang qua tôi dành sẵn một cảm tình hết sức thân thuộc. Ngày xưa, chưa quen biết thì đi ngang qua như đi bất cứ nơi nào, đó thật là "khi tâm sanh các pháp sanh".
        Thường Chiếu là một nơi gió cát và mưa giông, nắng mênh mang ngút ngàn, mưa đầy khắp ba bốn phía chân trời nên hay gây cái cảm giác mình nhỏ bé, mình chỉ là một điểm tí xíu cách biệt với thiên nhiên.
        Còn Viên Chiếu là nơi đóng đô đầu tiên của chúng tôi, một chốn rừng cây rậm như những cánh tay bao bọc thân ái, ôm choàng lấy mái chùa tranh lụp xụp khiến ta cảm thấy được che chở thật thà. "Người làm sao chiêm bao làm vậy", cảnh cũng giống như người, bướng bỉnh và hỗn độn như những chồi cây rừng. Nó không có cái khuôn mẫu như Thường Chiếu ngăn nắp gọn gàng, mà vô trật tự một cách đáng yêu. Ở đó chúng tôi tự do phát triển tài nghệ và cá tính của mình, những thiên tài thường đụng nhau loảng xoảng nên khóc cũng nhiều, mà cười cũng lắm.
        Những đêm trăng trong rừng, chúng tôi đi chơi dọc theo đường mòn, hai bên là vô số bông lau yểu điệu, đom đóm bay như sao rơi, từng bóng người mờ nhạt, nửa thật nửa hư, nửa xa nửa gần, con đường có vẻ như trong một cuốn phim, một bức tranh thủy mặc Tàu. Những khi đẩy xe về tối, chúng tôi nghênh ngang cười đùa ca hát với nhau, coi như là giang sơn riêng biệt. Những đêm yên tĩnh và xuôi gió, chúng tôi đang ngồi thiền, vài cánh chim chao nhẹ bên mình, tiếng trống cúng đình ngoài xóm bỗng vang lên rộn ràng. Dân chúng được mùa nên mời gánh cải lương về hát cho bà con xem. Tiếng đàn và tiếng ca nỉ non vang tận vào viện. Nhưng không sao, chẳng có nhà tu nào khởi ý trốn đi xem hát một đêm.
Reply
#87
Cuộc trao đổi thua lỗ nhất trên đời: Một người đàn ông vì điều này mà thân bại danh liệt bỏ mạng lúc trung niên. (Tinh hoa.net)

Vui sướng chốc lát mất niềm vui cả đời, muôn vàn hạnh phúc phút chốc tan biến! Những người vì tà dâm mà thân bại danh liệt và chết yểu nhiều không kể xiết, những chuyện này đã được các bậc cổ thánh tiên hiền và tổ sư đại đức ghi chép rất nhiều trong Kinh Phật, những cuộc đánh đổi truyền kỳ không tương xứng thật khiến người ta phải suy ngẫm!

Tôi cho bạn 1 ngàn, sau đó bạn cho lại tôi 100 ngàn? Tôi tin rằng tự cổ chí kim không ai đồng ý! Con người khi giao dịch luôn cân đo đong đếm, nghĩ trước nghĩ sau, vì sợ rằng bản thân sẽ thua thiệt mà mất đi lợi nhuận, thật không ngờ rằng một người vì thú vui tà dâm mà vẫn chơi trò được một mất mười này, liệu có thông minh không?

Tôi có một vị tiền bối, có thể nói là giáo viên khai sáng trên con đường hội họa của tôi, tính tình khiêm tốn, cần cù hiếu học, giỏi giao tiếp! Duy nhất có một điểm yếu, đó là ham mê nữ sắc, gặp mỹ nhân là quên hết tất cả. Tôi đi theo học hỏi ông ta trong một thời gian dài, cũng tận mắt chứng kiến sự thất bại của ông.

Ban đầu ông có vận may rất tốt, nhậm chức lãnh đạo tầm trung trong đơn vị (đơn vị là một xưởng lớn gần hai vạn người), hơn nữa gia đình ông có vợ hiền con ngoan, thời gian rảnh rỗi ông còn kiêm nhiệm làm giảng viên mỹ thuật của ba trường, thu nhập khá tốt, tuy rằng không phải là tỷ phú, nhưng của cải đầy đủ, cuộc sống viên mãn.

Khoảng 10 năm trước thầy vô tình gặp một người phụ nữ, tôi cũng đã từng gặp cô ta. Mặc dù ngoại hình không quá đẹp, nhưng lại rất thu hút, hơn nữa còn biết ăn nói. Không tiện nói ra họ quen biết nhau như thế nào, chỉ nghe nói rằng không bao lâu sau thì hai người phát sinh quan hệ nam nữ bất chính, sau đó được biết tin chồng của người phụ nữ phạm tội bị giam hơn hai năm. Quan hệ bất chính của họ kéo dài hơn nửa năm thì bị người ta phát hiện.
Vợ của ông vô cùng đau lòng, từng một lần muốn ly hôn với ông, nhưng ông lại không đồng ý. Cũng nhiều lần hứa hẹn cắt đứt quan hệ với người thứ ba, nhưng vẫn âm thầm duy trì quan hệ với cô ta, đám học sinh học vẽ chúng tôi biết chuyện đều cảm thấy đồng tình với vợ của thầy, nhưng là học sinh nào dám khuyên ngăn giáo viên chứ?!

Sau đó trong xưởng cũng biết chuyện của giáo viên, lúc đó đang có cuộc điều chỉnh nhân sự tạm thời, rất nhiều người trước đó chức vị thấp hơn thầy đều được cất nhắc, riêng thầy giáo của tôi lại mất chức. Hơn nữa sau đó có hai trường vì sự cố này mà đã khai trừ thầy giáo, khiến thầy trong chốc lát rơi vào tình cảnh khó khăn, một mặt sự nghiệp gặp nhiều trắc trở, mặt khác chồng của người phụ nữ kia sắp ra tù.

Do lo sợ người chồng biết sự tình gây ra nhiều khó khăn, ông liền đoạn tuyệt qua lại với người phụ nữ kia. Vốn dĩ cho rằng sau khi sóng yên bể lặng có thể làm lại, mà không biết rằng chuyện nhân quả đâu phải do con người nắm giữ.

Người chồng ra tù vào tháng 7, chưa đầy nửa tháng biết tường tận sự tình, liền uy hiếp tống tiền thầy giáo, (cụ thể là bao nhiêu thì tôi không rõ). Thầy giáo sợ to chuyện, lại sợ người chồng hành hung báo thù, vì vậy đành dùng tiền để giải quyết. Nhưng tính tình người chồng hung bạo, sau khi nhận tiền còn đánh thầy giáo một trận tơi bời. Lúc đó khi thấy bộ dạng của thầy trong lòng tôi cảm thấy vô cùng khó chịu.

Trớ trêu thay! Sau khi trải qua chuyện này, thầy giáo vẫn không hồi tâm chuyển ý để tiến bộ hơn. Hai năm sau bệnh cũ tái phát, tính dâm dục lại nổi lên. Thầy lại có quan hệ bất chính với một phụ nữ nông thôn, lần này vợ thầy đã đau khổ cùng cực, nhưng thầy vẫn mặc kệ! Hai người qua lại được một thời gian dài, trong cuộc điều chỉnh nhân sự cuối cùng của đơn vị, thầy đã bị sa thải, và ngôi trường duy nhất cũng cho thầy nghỉ việc, lúc này thầy giáo rơi vào cảnh ngộ vô cùng khốn đốn!
Năm 1997 vì cuộc sống mưu sinh thầy giáo bắt đầu kinh doanh, những người tà dâm thường gặp vận xui, kinh doanh phát đạt hay thất bại khỏi cần bàn, sau nửa năm kinh doanh lụi bại đột ngột bệnh mà chết, vừa tròn 50 tuổi.

Ngẫm lại cuộc đời của thầy, đầy rẫy thăng trầm. Nhắc đến thầy giáo của tôi, là nhắc đến một người vô cùng tài hoa. Con đường vốn trải đầy hoa hồng nhưng cuối cùng lại dẫn đến suy tàn, tài hoa ngời ngời nhưng chẳng việc gì thành! Lý do vì sao? Do số mệnh ư? Xin thưa rằng không phải. Người ta không biết rằng số mệnh có thể được định sẵn nhưng cũng có thể thay đổi, tuổi thọ có thể tăng cũng có thể giảm, giống như lời của Thái Thượng: “Phúc họa không có cửa, đều do người triệu mời”.

Dù có hành thiện ngàn lần nhưng không bỏ được tà dâm thì cuối cùng cũng khó tránh khỏi họa. Trong vạn cái ác thì tà dâm đứng đầu, tác hại của nó giờ tôi cũng đã hiểu rất rõ! Thầy giáo của tôi vì một thú vui nhất thời mà hủy hoại thanh danh cả đời, giảm nửa tuổi thọ, giống như được 1 đồng mà phải mất 100, 1000 đồng, sự thật này là sự nuối tiếc ngàn đời! Hi vọng hành động của thầy có thể thức tỉnh mọi người.
Reply
#88
Trong vạn điều ác, dâm loạn đứng đầu” – Lời cảnh tỉnh tới thế nhân còn đang mê mờ.(TINH HOA.NET)

[b]Người xưa có câu: “Vạn ác dâm vi thủ”. Nếu một người có quan hệ không ngay chính, tà dâm phủ đầy, “tặc nhãn đảo quanh” thì người ấy không những bị người đời phỉ nhổ, mà còn bị Thần trừng phạt, đây cũng là một sự sỉ nhục to lớn vì con người được tạo theo hình tượng của Thần.[/b]
Lịch sử như lặp lại, con người không có khả năng biết trước tương lai, nhưng khi nhìn lại quá khứ, kết nối các sự kiện thì có thể rút ra bài học và các quy luật. Sự hủy diệt của các nền văn minh, các dân tộc hay các khu vực cục bộ, bởi thiên tai hay nhân họa, cũng hoàn toàn không ngẫu nhiên, mà là có quy luật, trong đó, một nguyên nhân căn bản chính là sự dâm loạn.
[b]Trụ Vương hoang dâm tàn bạo, nhà Thương diệt vong[/b]
[b]Triều đại nhà Thương (hay nhà Ân) của Trung Quốc trị vì cách đây khoảng năm 1766 trước Công nguyên (TCN) tới khoảng năm 1122 TCN (theo biên niên sử dựa trên các tính toán của Lưu Hâm) và nhanh chóng bị diệt vong chính bởi một bài thơ đầy bất kính của vị vua thứ 30 nhà Thương là Trụ Vương với Nữ Oa Nương Nương.[/b]
Tương truyền kể rằng, vua Trụ đến miếu thờ Nữ Oa dâng hương, đã đề thơ với hàm ý hỗn xược khiến cho Nữ Oa nổi giận. Sau khi bấm tay biết vận số nhà Thương còn 28 năm mới chấm dứt, Nữ oa đã sai ba yêu quái mê hoặc vua Trụ nhằm nhanh chóng làm cho nhà Thương sụp đổ.
[b]Một trong ba yêu quái là hồ ly tinh giết chết Đát Kỷ, tuyệt sắc giai nhân được tiến cung, rồi nhập vào xác nàng để ra mắt nhà vua. Đát Kỷ giả mê hoặc Trụ Vương, trở nên lộng hành, chế tạo nhiều phương pháp nhục hình để tra tấn người khác cùng các thú vui tàn ác như chặt xương xem tủy. Không những vậy Đát Kỷ còn trừ khử các bề tôi trung thành, giết hoàng hậu, toan giết cả hai hoàng tử và tìm cách hại bốn chư hầu lớn.[/b]
[b]Chiều lòng Đát Kỷ, Trụ Vương đã làm những chuyện hôn quân bạo chúa, giết hại sinh linh, tuyệt diệt nhân tính, quan dân trăm họ nhà nhà đều ai oán. Sau trận chiến cuối cùng, nhà Thương hoàn toàn bị nhà Chu – dưới sự thống lĩnh của Chu Võ Vương Cơ Phát (con Chu Văn Vương Cơ Xương) tiêu diệt, vua Trụ tự thiêu, Đát Kỷ giả cũng bị giết chết.[/b]
[b][b]Babylon trăm năm huy hoàng, diệt vong chốc lát[/b][/b]
[b]Hơn 2.600 năm trước, Babylon là một trung tâm văn hóa và là cái nôi của văn minh cổ đại, Thánh Kinh đã mô tả Babylon là “Vườn địa đàng” của khu vực Lưỡng Hà. Kinh thành Babylon được xây dựng hùng vĩ tráng lệ. Đặc biệt, Vườn treo Babylon là một trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại. Tuy nhiên sự huy hoàng này không duy trì được bao lâu.
Sự giàu có về vật chất không thể duy trì lâu khi quy phạm đạo đức xã hội xuống dốc, tín ngưỡng bị đàn áp. Thời đó, đối với những người Do Thái kiên trì đức tin vào thần Jehovah thì kinh thành Babylon không khác gì địa ngục trần gian, bởi dâm loạn và những hủ tục bại hoại được xã hội thời đó thừa nhận.
[/b]

[b]Theo ghi chép của Herodotus, nhà sử học người Hy Lạp, thì trong cuộc đời mỗi một người phụ nữ ở Babylon đều phải một lần đến đền thờ thần Aphrodite để quan hệ tình dục với những người xa lạ. Những người phụ nữ này không bị xã hội lên án, bởi họ quan niệm rằng những người này là thay mặt nữ thần Aphrodite hành dâm.[/b]
Đây là một phong tục mà mọi người phụ nữ Babylon đều phải thực hiện. Họ đến đền thờ thần Aphrodite, ngồi chờ ở đó, và không được về nhà cho đến khi có một người đàn ông – bất kể giàu nghèo, sang hèn – đến chọn, quan hệ, rồi đưa tiền vào vạt áo của họ. Những người phụ nữ này cũng không được phép từ chối bất kỳ người đàn ông nào, bởi đó bị xem là tội ác.
Những hủ tục đó qua thời gian lâu khiến cho mọi giai tầng xã hội chìm đắm trong ăn chơi xa đọa, tiệc tùng dâm loạn, ý chí hao mòn, không còn quan tâm tới những việc quốc gia đại sự. Thậm chí khi người Ba Tư xâm chiếm, đại địch trước mắt mà vua Babylon vẫn chủ quan rằng tường thành vững chắc kiên cố sẽ không bị phá, còn triệu tập gần một ngàn quan viên vào cung mở tiệc ăn chơi cuồng loạn.
Vua Ba Tư là Cyrus phát hiện một nhánh sông chảy vào Babylon bị khô cằn, ông lợi dụng trời tối, dẫn đại quân men theo con sông này tiến vào thành Babylon, rồi lại phát hiện cổng thành Babylon không đóng, ông đã dẫn binh tấn công vào trong, chiếm được thành Babylon một cách dễ dàng. Lịch sử của vương quốc Babylon hùng mạnh kết thúc tại đây.
[b][b]Thành phố cổ đại phồn vinh biến mất trong một sớm một chiều[/b][/b]
Vào năm 1748, các nhà khảo cổ đã phát hiện và khai quật tàn tích của thành phố cách đây 1.700 năm trước, các ghi chép cho thấy một sự thật chấn động và kinh hoàng về sự hủy diệt của nền văn minh này. Thông qua khai quật, có thể thấy Pompeii là một thành phố mà nhà và cửa hàng san sát nhau cùng các tuyến đường, ngõ hẻm chằng chịt. Pompeii phồn hoa nổi tiếng với các tửu quán, tửu lầu, thời đó được mệnh danh là “kinh đô tửu sắc”.

Di tích khảo cổ cho thấy khi đó Pompeii có khoảng hơn 100 quán rượu trong khi chỉ có 20 nghìn người. Thành phố có tới 3 nhà tắm công cộng quy mô lớn, chia thành 2 khu nam và nữ. Trong mỗi khu lại phân thành bể chứa nước ấm, nước nóng và nước lạnh, mỗi lần có thể đủ chỗ cho 1.000 người tắm. Trong các nhà tắm công cộng còn có phòng thay quần áo, phòng massage, nhà vệ sinh, dưới nền nhà còn có hệ thống sưởi bằng hơi nước nóng được dẫn qua những đường ống bằng gốm sứ. Sự phồn thịnh của Pompeii khiến các nhà nghiên cứu không khỏi kinh ngạc. Thậm chí rất nhiều thành phố hiện đại cũng khó mà theo kịp được Pompeii. Vậy nguyên nhân nào dẫn tới sự diệt vong của thành phố Pompeii? Câu trả lời liên quan đến sự băng hoại về đạo đức của người dân.
Trên khắp các tường của cửa hàng, phân xưởng, nhà nghỉ, công viên… đều đầy rẫy các bức bích họa, tác phẩm điêu khắc hết sức khó coi về tình dục, cảnh quan hệ tập thể dâm loạn, đồng tính luyến ái. Pompeii có 20.000 nhân khẩu nhưng có tới 25 tòa kỹ viện lớn nhỏ khác nhau. Năm 1819 quốc vương của Napoli là Francis cùng vợ tham quan bích họa tại Pompeii, ông cảm thấy xấu hổ và không thể chấp nhận được nên đóng cửa ngay triển lãm.
“Hãy tận hưởng cuộc sống đi, ngày mai khó mà đoán trước”. Câu nói này thậm chí còn được khắc lên cốc uống nước bằng bạc. Người dân Pompeii thời đó chỉ nhìn thấy trước mắt mình phải hưởng thụ hơn nữa, sa đọa hơn nữa, bất chấp hậu quả.
Một tội ác to lớn khác không khỏi không nhắc tới chính là ngược đãi nô lệ. Sự giàu có, của cải của Pompeii là do hoạt động mậu dịch với bên ngoài mang về. Nhưng người ta không chỉ trao đổi hàng hóa thông thường. Nô lệ mới chính là món hàng “hời” nhất, có lãi nhất.
Nô lệ không được hưởng thân phận công dân, thậm chí không được coi là con người. Họ phải lao động rất nặng nhọc, phải mua vui ở đấu trường và bị dã thú cắn xé trước sự hưng phấn của hàng vạn người đang hò hét. Những người giàu thậm chí còn dùng nô lệ vừa bị giết để nuôi lươn biển bởi họ nghĩ như thế thịt lươn sẽ có mùi vị tươi ngon hơn.
Ngày 24/8/79 là một ngày đáng nhớ về thiên tai thảm họa nghiêm trọng nhất lịch sử cổ đại. Chỉ chưa đầy 24 giờ, toàn bộ thành phố Pompeii đã hoàn toàn biến mất trong dòng dung nham phun trào từ miệng núi lửa Vesuvius. Ít nhất hơn 5.000 người đã bị chôn vùi. Cảnh tượng những thi thể nằm co quắp với khuôn mặt lộ rõ nét sợ hãi tột độ khiến người tham quan không khỏi cảm thán và bi ai.
Con người hiện đại đang lặp lại lịch sử
Đầu tháng 8 gần đây, một sự việc mới bị phanh phui làm chấn động khắp Trung Quốc, Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, ủy viên Thường vụ Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc – Phương trượng chùa Long Tuyền Thích Học Thành quấy rối và lạm dụng tình dục ít nhất sáu ni cô. Thông qua nhiều thủ đoạn lợi dụng nguyên tắc “nam nữ song tu” vốn chỉ áp dụng với các Lạt-ma đã đạt tới tầng thứ tu luyện cực cao trong Mật tông Tây Tạng để khống chế và mê hoặc các nữ tu, khiến họ phải phục tùng ông ta.
Tài liệu tố giác dài đến 95 trang, được cư dân mạng ví như một luận án tiến sĩ. Câu chuyện này không khỏi khiến khiến con người ta quan ngại và đánh mất niềm tin nơi Phật giáo, nơi vốn là vùng đất tịnh thổ giúp con người tu luyện và kính ngưỡng Phật. Một khi không còn tin vào Phật, vào nhân quả, từ đó không còn sự câu thúc và ước chế về đạo đức, con người còn điều ác nào mà không dám làm. Thảm họa diệt vong và đào thải đang ngày một cận kề.
Mấy chục năm trở lại đây, phương Tây đưa giáo dục giới tính vào trường học, thậm chí còn cấp cho học sinh bao cao su có logo của trường và nói đó là lòng yêu nước. Điều này quả thật không khác gì cổ xúy giải phóng tình dục, quan hệ trước hôn nhân, làm ngược lại lời dạy của Chúa, vốn răn rằng tà dục là một trong mười đại tội.
Không ngẫu nhiên khi mà ngày nay xuất hiện hiện trạng nhức nhối “tình một đêm”. Theo báo Tiền Phong, có 15 nước trên thế giới chính thức công nhận mại dâm là một nghề hợp pháp bao gồm: Đan Mạch, Phần Lan, Costa Rica, Argentina, Canada, Bỉ, Belize, Pháp, Đức, Hy Lạp, Ý, Thụy Sĩ, Hà Lan, Mexico, Tây Ban Nha. Số nước ngầm cho phép (không chính thức thừa nhận nhưng ra luật về hoạt động mại dâm) lên tới 77 nước.
Người xưa lấy nhau phần nhiều là do cha mẹ sắp xếp, ngoài việc một số đi theo cực đoan, áp đặt con cái thì nội hàm sâu xa của việc “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” chính là coi nhẹ sắc tâm, kết hôn duy trì nòi giống. Trong quá trình vợ chồng sinh sống mà phát triển tình yêu thương và có trách nhiệm với nhau. Khi con người ta có thể coi nhẹ tâm sắc dục, họ tuyệt sẽ không làm những chuyện bại hoại đạo đức. Quan niệm truyền thống “nam nữ thụ thụ bất thân” thực ra cũng là để cho trai gái không tạo nghiệp mà hủy hoại chính mình.
Từ ngày 16 – 20/6, lần đầu tiên tại Việt Nam triển lãm ảnh khỏa thân, với thuần phong mỹ tục gìn giữ hàng nghìn năm, liệu đây có đúng là một thứ nghệ thuật mà người Việt Nam có thể tiếp thụ? Con người với đủ thứ quan niệm bất hảo, nào danh, nào lợi, đặc biệt là sắc dục vẫn chưa buông bỏ, khi chiêm ngưỡng những bức tranh ấy, sao có thể giữ vững được bản thân không khỏi khởi lên tà niệm.
Tương tư như vấn đề “nam nữ song tu” được nhắc ở trên, vẫn còn tồn tại các tác phẩm điêu khắc và tranh vẽ khỏa thân hay bán khỏa thân của cả Đông và Tây phương, tuy nhiên hình tượng được vẽ chính là các vị Thần. Cảnh giới của Thần hoàn toàn không có khái niệm sắc và dục, con người không giữ vững bản thân thì sẽ tạo nghiệp. Thời trang của phụ nữ hiện nay ngày càng táo bạo và lộ liễu, y phục mặc lên rất khiêu gợi và hở hang, trong vô ý hay hữu ý mà đã tạo nên tội nghiệp to lớn, góp phần vào việc xuất hiện ngày một nhiều các tệ nạn xã hội như mại dâm, cưỡng hiếp, loạn luân, ấu dâm…
Tự cổ chí kim, Thần đã luôn không ngừng cảnh tỉnh thế nhân thông qua các bài học giáo huấn. Con người vì sao lại là anh linh của vạn vật? Là bởi con người được Thần tạo ra, được ban cấp cho sinh mệnh và trí huệ để thống lĩnh vạn vật. Con người nếu xa rời những chuẩn mực đạo đức mà Thần đã đặt định cho họ, thì con người sẽ không khác gì con vật, trong quá trình tranh đoạt tiện nghi của người khác mà đã đặt ra tương lai của chính mình.

Đại hồng thủy được nêu ra trong Kinh Thánh cũng như các truyền thuyết từ rất nhiều quốc gia và dân tộc đều chỉ ra khi con người trở nên bại hoại, Thần sẽ đào thải con người, những sinh mệnh không còn đủ tiêu chuẩn. Kết cục thảm khốc nơi địa ngục đang chờ đợi những ai đã đang mê mờ nơi danh – lợi – tình. Ngày thẩm phán được nhắc tới trong Kinh Thánh sẽ tới bất cứ lúc nào. Hãy trân quý bản thân mình.

Hạo Ân

Danh Mục :Đọc & Suy ngẫmTừ Khóa :Babyloncảnh tỉnhdiệt vongđiều áckiếp nạnpombeiitận thếthantrừng ph
Reply
#89
N TU NGẨU VỊNH    Hoà Thượng Thích Thiền Tâm (đã viên tịch). Nguồn:Trang nhà Quãng Đức.

Ẫn tu, nào phải cố xa đời !
Mượn cảnh u-nhàn học đạo thôi !
Những thẹn riêng mình nhiều nghiệp chướng
Bốn ân, còn nặng nghĩa đền bồi.

Ẫn tu ,cảm xót biển trần-ai !
Sóng gió trầm luân mãi lạc loài.
Thân khổ, kiếp người muôn nỗi khổ !
Nghiệp đời vay trả, trả rồi vay !

Ẫn tu, hôm sớm niệm Di Đà.
Lòng lặng mười muôn chẳng cách xa.
Canh vắng, giường thiền khi mãn định,
Hoa sương, cười nụ dưới trăng tà.

Ẩn tu, uổng tiếc bạn đồng hành !
Nói lý cao huyền đắm lợi danh !
Già, bịnh, đoạ sa, không phản tỉnh,
Bóng câu, mấy nỗi thoáng bên mành !

Ẩn tu ,cõi tịnh nhẹ buông hồn !
Tưởng quán trời Tây nhớ Bảo-thôn
Ráng đỏ sắp đưa, vầng Nhật-lặn
Phất phơ tà áo gió hoàng hôn.

Ẩn tu, bền chí giữ công phu.
Ba cõi không an lửa ngục tù !
Ngũ-dục, Hoàng-lương say gối mộng,
Kiếp người dường một thoáng phù du !

Ẩn tu, riêng chạnh nỗi riêng mình.
Túc trái gây nên, mối bất-bình.
Tích phước, tu-hành rồi tạo nghiệp,
Cánh bèo, trôi giạt biển phù sinh.

Ẩn tu, tưởng lại quả đời nay.
Bao lớp gian truân nỗi đoạ đày !
Ẩn nhẫn trả xong tròn nghiệp trước,
Dấu hồng, chuyện cũ tuyết mờ bay !

Ẩn tu, nhớ đến đức sanh thành,
Lắm lúc vì con chẳng tạo lành.
Con lớn Mẹ Cha oằn gánh nghiệp,
Bảo châu đền đáp cũng mong manh !

Ẩn tu, nguyện trả nghĩa song đường.
Hồi hướng công phu mỗi khoá thường.
Lại khuyến nghiêm-từ tâm đạo phát,
Nương thuyền Phật huệ đến Tây-phương.

Ẩn tu, cửa đạo trải bao năm.
Kinh nghiệm nhiều phen vẫn lạc lầm.
Quen lắm lại càng thêm việc lắm,
Cung đàn Hạ-Lý, mấy tri âm ?

Ẩn tu ngùi ngậm bạn chung sơ,
Nối gót ra đi chẳng hẹn chờ.
Ngàn dặm, cố nhân hồn lẫn vẫn,
Mười năm việc cũ nửa phai mờ !

Ẩn tu ưu cảm bởi nhơn tình,
Điên đảo luân thường lại sát sinh.
Khiến lắm tai trời thêm ách nước,
Vầng hồng xế bóng sắp tây khuynh.

Ẩn tu xét thấy chốn Tăng-Già,
Ganh-hại, thị-phi lắm bất hoà !
Danh vị, chùa chiền tranh đệ tử,
Ưu Đàm, Lan Huệ héo mầm hoa.

Ẩn tu, rõ biết chuyển cơ trời !
Nhân-quả, lọc thanh đạo với đời !
Tai biến dập dồn trăm cảnh chết,
Núi xương sông máu, thảm đầy vơi !

Ẩn tu, nghĩ muốn thoát dòng mê !
Vững lái phong ba lúc nặng nề.
Niệm Phật, niệm Tâm, tâm niệm Phật,
Mây tan thấy rõ lối đi về.

Ẩn tu, Tín, Nguyện Niệm hồng danh.
Thời mạt ,chướng sâu đạo khó thành.
Chờ đến Liên-bang lên pháp-nhẫn,
Đem thuyền Bát Nhã độ quần sanh.

Ẩn tu, Hoa Tạng mến môn huyền.
Muốn kết Dao-đài hội Thắng Liên.
Theo bước Đàm-Loan chơi bảo-các,
Bích Câu lạc dấu, Giáng-Kiều tiên.

Ẩn tu, tế độ chẳng quên lòng !
Bi, Trí đôi đường phải suốt thông
Y sĩ, nhân tâm dù đã sẳn
Còn rành nhân thuật mới thành công !

Ẩn tu, chi quản nệ công-lao.
Mà chẳng tuyên dương tiếng Hải-trào.
Sông lớn khơi nguồn từ núi thẳm,
Xuống trần càng đục biết làm sao ?

Ẩn tu, Không có, Có mà Không !
Phương tiện, từ bi khó biết lòng !
Ngôn thuyết hãy còn Thân thuyết-pháp,
Sấm mưa ẩn hiện bóng Thần Long.

Ẩn tu, mây trắng nhẹ phiêu diêu.
Uốn khúc sông-in giãi lụa chiều.
Thanh thoát, gió chim reo nhạc Phật
Lầu-Tần không lại lắng hơi tiêu.

Ẩn tu, an tĩnh chốn cao nguyên
Hoa cảnh lòng trăng đẹp dịu hiền.
Mây, núi, điệp trùng, đêm tịch tịch,
Câu Kinh, tiếng Phật lại triền miên !

Ẩn tu, tịnh thấy cảnh am mây.
Thanh tuấn thiền sư dáng huệ gầy.
Kiếp trước Đạo Dung là tớ đó,
Mà nàng Thiên Thụy hỏi ai đây ?

Ẩn tu, dũng-tướng nhớ thời xa.
Hoàng-tộc triều Lê ,điện Thái-Hoà.
Vì Trịnh – Tú – Loan duyên trái khiến,
Nửa chừng xuân gảy gánh tài hoa !

Ẩn tu, được biết kiếp lâu xa.
Từng ở Thiên cung cõi Đại La !
Đại Phước, Lão-tiên là bạn cũ
Xuống tìm học Phật lạc mê hà.

Ẩn tu, luân chuyển nghĩ bao đời !
Thân-thế bèo đưa, sóng nghiệp trôi !
Lỗi bởi tâm mình chưa chuyển vật !
Những riêng thương thẹn khó nên lời.

Ẩn tu, nương tựa ánh từ quang.
Lần lữa trần tâm lắng nhẹ tan.
Năm tháng luyện thuần trâu hoá trắng,
Sáo thanh một khúc cỏ hoa nhàn.

Ẩn tu, gió mát toả gương nga.
Tĩnh-thất cài then tụng Pháp-Hoa.
Bừng sáng thân tâm hoà ánh nguyệt
Tầm Dương bổng dứt hận Tỳ Bà !

Ẩn tu, niệm Phật cảnh sâu huyền !
Trong sáng linh hư hợp Tịnh, Thiền.
Không hữu đều tan, Trung đạo dứt
Hoa vàng chợt nở Bảo trì liên !

Ẩn tu, niệm dứt tướng vào ra.
Không thấy thân tâm Phật với ta,
Thanh thoát rõ rành vang Thánh-hiệu,
Trăm hoa đua sắc tiếng Oanh ca.

Ẩn tu, niệm chẳng thánh cùng phàm
Mắt huệ can chi dính mạt vàng ?
Hữu tướng tức đồng Vô tướng niệm
Chân Không huyễn sắc khắp bao hàm.

Ẩn tu, tuy biết ý cao siêu.
Mà chẳng thích ưa lý luận nhiều.
Căn tánh người nay đà kém loạn,
Nói hay làm phỏng được bao nhiêu ?

Ẩn tu, ngại lỗi luận đua tranh.
Nói cũng vì người thuyết khác hành.
Thái cực, ai-phân nhơn-ngã đó,
Lạnh lùng huyễn lợi với hư danh !

Ẩn tu, suối bạc ánh màu ngân.
Muốn gẫm gần xa chuyện túc nhân.
Người ,cảnh, ai bày vui với khổ,
Hoa, trăng ,cười cợt ý bâng khuâng.

Ẩn tu, thôi mặc dở hay đời.
Chỉ ước lâm chung dự biết thời.
Nương nguyện Phổ-Hiền sanh Cực-Lạc,
Rồi dong thuyền độ khắp nơi nơi.

Ẩn tu, an phó bịnh, suy, già.
Nhơn thế xưa nay vẫn thế mà.
Giữ chắc hồng-danh thuyền tế độ,
Muôn trùng bao quản ngọn phong ba !

Ẩn tu, suy gẫm sức hồng danh.
Phước huệ tăng-kỳ kết tụ thành,
Sáu chữ chí tâm tiêu vạn tội,
Một câu chín phẩm thoát siêu sanh.

Ẩn tu, tuy chửa đến Tây Phương.
Cành ngọc chim linh ứng mộng thường,
Rõ biết tâm lành sanh cảnh tịnh,
Quả nhân cảm hiện lẽ chiêu chương.

Ẩn tu, niệm Phật suốt thâu canh.
Cam lộ từ răng đượm ngọt thanh !
Khát nước đã nhờ công đức thuỷ,
Lam Kiều chi nhọc hỏi Vân Anh ?

Ẩn tu, chợt nhớ Hổ Khê xưa !
Suối bạc, non xanh đệ nhứt thừa.
Một giống Bạch Liên, truyền đất Việt,
Hương sen còn đậm hạt thu mưa !

Ẩn tu, riêng mến đạo Đông Lâm.
Biển Phật, thuyền Sen thật chẳng lầm,
Liên lậu trước chùa ghi nhựt khoá,
Đến nay còn dậy khúc Thanh âm.

Ẩn tu, trần niệm chẳng còn dư
Kinh điển dường quên, tám vạn tư
Chẳng biết Lư Sơn mày mặt thật
Chỉ nhân mình ở tại non Lư.

 Ẩn tu, nghĩ chuộng sắc thanh-duyên
Thanh sắc đâu bằng cõi Bảo Liên
Sắc rực ánh vàng thanh suối ngọc
Tô Đà hương phạn lại tham thiền.

b) Ẩn tu, nghĩ kẻ sắc thanh tranh.
Thanh sắc đâu bằng cõi Thái Thành
Sắc đẹp ba hai thanh phạm tám
Ăn xong thiền duyệt lại kinh hành.

Ẩn tu, khuyên khách mến giang hồ !
Nên học Liên phương niệm Phật đồ
Về cõi Bảo Hoa đi dạo khắp
Muôn trời tịnh diệu nét Xuân tô !

Ẩn tu, lòng đạo sáng gương rằm.
Bạn Cúc quê vàng cảnh vắng tâm,
Cây biếc mây hồng che tĩnh xứ,
Khói sương vùi dập mấy mươi năm.

Ẩn tu, Lan-Nhã ngắm tư bề,
Ríu rít mây chim tiếng gọi về,
Dâu biển, người đời thương biến đổi,
Đâu hay muôn cảnh vốn Bồ đề.

Ẩn tu, nhớ dạy Tịnh Liên Hoa,
Trí Giả, nguyên là Phật Thích Ca,
Lại có Vĩnh Minh cùng Thiện Đạo,
Tương truyền thân hóa của Di Đà.

Ẩn tu, thấy nói Tổ bên Thiền,
Long Thọ, Mã Minh chứng đạo huyền,
Đều tín Liên tông khuyên NIỆM PHẬT,
Sao hàng hậu học tạo khinh duyên ?

Ẩn tu, thương nghĩ cánh Nam tông,
Tịnh độ cho là pháp viễn vông,
Bác phá Đại thừa phi Phật thuyết,
Yến Ly đâu biết dấu chim hồng ?

Ẩn tu, ngẫm diệu đạo Liên trì
Căn tiểu thừa nghi chẳng lạ gì ?
Thượng đức năm ngàn Linh Thứu hội
Thành quân bại Bắc rút lui đi.

Ẩn tu, chán kẻ nói loanh quanh
Đem hiệu Di Đà phối ngũ-hành
Bao-tử giả là ao Thất-bảo
Phật lành, niệm Phật để làm danh !

Ẩn tu, than kẻ chấp ly kỳ.
Không, sắc ,thật ,quyền chẳng biết chi.
Bảo Phật gỗ, đồng không độ lửa,
Còn thân Phật đất, nước tan đi.

Ẩn tu, chẳng ngại hung yêu ma.
Vì để biệt phân chánh với tà.
Chỉ sợ cửa không hàng phá Kiến,
Dắt người lầm lạc khó nhìn ra.

Ẩn tu, thời mạt nhớ Kinh ghi:
Học đạo muôn ngàn, ít ngộ kỳ.
Duy niệm Hồng-danh, cầu Tịnh-độ,
Hiện đời giải thoát, rất ly-kỳ.

Ẩn tu, xót kẻ học Như Lai.
Thiền, Tịnh, thị phi chấp trước dày.
Kiên cố đấu tranh, đà hiện rõ,
Đạo, đời phân hóa ,cảnh thời nay.

Ẩn tu, ý Tổ cảm thông tri.
Bi, trí, tuỳ cơ độ Mạt-thì.
Đâu phải chấp đua như thế tục,
Mà riêng khen Tịnh đạo huyền vi.

Ẩn tu, thời mạt nhớ câu than:
Đức tín, Tỳ Kheo kém Thiện-nam.
Cư-sĩ lại thua hàng tín-nữ,
Thiên như huyền ký để lời vàng.

Ẩn tu, lòng đạo muốn tăng cao.
Phải quán tam đồ khổ lớn lao.
Phát ý Bồ đề siêng niệm Phật,
Bởi cơ nước lửa sắp dâng trào.

Ẩn tu, nhìn khắp cảnh ban mai.
Người vật ra đường chim nhảy, bay.
Tất cả chỉ vì lo vóc huyễn,
Nhọc, già, bịnh, chết mấy ai hay?

Ẩn tu, tục luỵ thấy muôn mầu.
Trong cảnh giàu sang dễ bạc đầu.
Việc đắc ý nên dừng nghĩ lại,
Kiếp trần tạm gởi được bao lâu.

Ẩn tu, nhìn thế loạn đường tơ.
Các nước phân tranh, rối cuộc cờ.
Đạo-pháp vang hồi chuông cảnh tỉnh,
Mộng thành, sấm dậy chẳng tan mơ.

Ẩn tu, niệm Phật gọi Liên-hương.
Khắp nguyện đồng lên Tuyển-Phật trường,
Hoàng Hạc, lầu mây lòng chẳng tưởng,
Non Tiên, ba cõi vẫn vô thường.

Ẩn tu, thường thấy hạng ngu thành.
Niệm Phật thiện chung hoặc vãng sanh.
Khiến nghĩ làng tu huyền luận giỏi,
Bởi đâu khi tịch, chẳng an lành?

Ẩn tu, hằng tự nhủ riêng lòng (mình)
Đã biết đường Tây phải gắng công
Bình nhựt là nhân, như chẳng thật
Lâm chung quả có nở Sen hồng.

Ẩn tu, quyết chí gạt trần tình.
Mặc nỗi khen chê lẫn bất bình.
Sức yếu phải cam phần kém yếu,
Tình đời ví nhẹ, đạo tâm sinh.

Ẩn tu, tưởng đến cảnh Lê-viên.
Điệu múa Nghê thường đẹp áo Xiêm
Kim cốc sanh ca dìu dặt trổi
Mà nay sương lạnh, ánh thu thiềm !

Ẩn tu, Chiêm-tộc nhớ Mường-Lan.
Nữ chúa rừng xanh đẹp khác phàm !
Tướng sĩ, trận voi uy-vũ thạnh,
Nhạc mờ, Phan Thiết núi sương lam !

Ẩn tu, liên tưởng dãy Giang Đông.
Xích Bích, trống quân dậy lửa hồng !
Tuyệt-đại song kiều, anh kiệt mất,
Tài tình mấy đoạn, phút hoàn Không.

Ẩn tu, Nguyễn Huệ nhớ Anh-hào.
Điệp-điệp quân thanh, chiến cuộc thâu.
Trúc kết sang sông mờ bóng cũ
Mây ngàn, cỏ nội đỉnh Tây sầu !

Ẩn tu, tìm hỏi truyện Tây Thi.
Dư lại hồn mai, ánh nguyệt trì !
Hận nỗi ba sinh, đâu vắng tá?
Thương tình một mối có ra chi?

Ẩn tu, tích cổ duyệt xa gần.
Tan hợp bên trời áng bạch-vân !
Biển nổi dâu chìm duyên cảnh thế,
Bao giờ cảnh Phật tựa lầu ngân.

Ẩn tu, bốn mặt khói sương đầy.
Hỏi gạn ai người niệm Phật đây?
Cười mỉm, Duy Ma không phúc đáp,
Song hồ, nửa khép cánh am mây !

Ẩn tu, trì niệm cảnh hồn nhiên.
Trong lặng, âm-thanh vẫn dịu hiền.
Đoan-đích, tìm chi tin-tức thật?
Tiếng chuông đêm vắng đến ngư thuyền.

Ẩn tu, niệm Phật nhẹ lâng không.
Hồn bướm Trang Chu tỉnh giấc nồng !
Ý vị âm thầm trăng tỏa sáng,
Hình dung lóng lánh ,tuyết ngần trong.

Ẩn tu, đã có luỹ non mây.
Cao thấp, đồi xa ủng hộ bày,
Trước mắt rõ ràng chân cảnh lộ,
Màu thu lai láng nét thu gầy.

Ẩn tu mưa phới khắp ngàn tiêu.
Bát ngát lâm tuyền cảnh tịch liêu !
Tiếng gió canh thâu hoà tiếng Phật,
Bên thềm hoa rụng ít hay nhiều.

Ẩn tu ca nhạc có chim rừng !
Bay hót vần quanh tợ đón mừng.
Đủ sắc phi-cầm, tranh vẽ đẹp,
Điểm-tô cảnh Phật, một màu Xuân.

Ẩn tu, hoa cỏ dáng thờ ơ.
Thời mạt nhơn tâm đã khác xưa,
Lòng thú, hình người, đầy lớp lớp,
Cảnh đời gió gió, lại mưa mưa !

Ẩn tu, kham nhẫn cõi Ta Bà.
Nỗi khổ muôn ngàn, khó kể ra,
Cực Lạc, niềm vui vui bất diệt,
Khổ vui đều bởi tự nhân mà !

Ẩn tu, đàn suối cạnh triền non
Tươi tỉnh hoa ngàn tợ phấn son
Sáng lạ vừa tan vầng ráng đỏ.
Đẹp xinh, lại hiện bóng trăng tròn !

Ẩn tu, ai bảo chẳng Di Đà.
Thiện Đạo, quang-minh niệm niệm ra,
Khang Tổ, mỗi câu sanh hoá PHẬT,
Cười hàng ngu chấp cố dèm pha.

Ẩn tu, ai bảo niệm hồng danh,
Không có Tây-phương chẳng vãng sanh.
Liên hữu xưa nay nhiều hiện ứng,
Thánh-Hiền-Lục đã chép ghi rành.

Ẩn tu, chân thật chớ bề ngoài.
Tu dáng, tu hình lạc-lối sai.
Tu tánh, tu tâm lên giải thoát,
Khuyên làng tu Phật chớ khoe tài.

Ẩn tu, hiếu thuận niệm Di Đà.
Siêu độ cửu huyền đến mẹ cha,
Hiếu đây mới là chăn thật hiếu,
Đời tươi như gấm, đạo như hoa.

Ẩn tu, xót cảnh đạo đời suy,
Lý học Đông Tây đã dự tri,
Thiên giáo chỉ rành cơ tận thế,
Tiên ghi tận diệt đến thời kỳ.

Ẩn tu, lý đạo nói sao cùng !
Nhân-quả nghiêm minh, xử lạnh lùng !
Tài, sắc, giàu, sang âu cảnh tạm,
Sáng tươi ,chiều héo đoá Phù Dung.

Ẩn tu, thế chiến biết kỳ ba!
Nước lửa sơn lâm khắp hải hà,
Mấy cuộc lọc thanh đầy huyết-lệ,
Bay hồn thảm khổ, lướt khôn qua.

Ẩn tu, bom đạn, rõ điềm hung,
Tan-tác thành đô, quả đất rung.
Đổi cảnh, đổi người, thời tiết đổi,
Núi nhô, núi sụp, chuyện khôn cùng.

Ẩn tu, mạt-kiếp thấy lời ghi.
Trước mất Lăng Nghiêm pháp diệu kỳ.
Lần lượt các kinh đều diệt hết,
Duy còn Phật hiệu độ cơ-nguy.

Ẩn tu, khuyên khắp sớm hồi đầu,
Lìa khỏi dòng mê, sóng nước sâu,
Phước huệ đủ trong câu niệm PHẬT,
Tám muôn tư pháp cũng gồm thâu.

Ẩn tu, chầm chậm bóng dương đi,
Ngoài cửa hoa nhàn liễu rũ mi,
Đại-mộng hỏi ai người sớm tỉnh?
Ngày xuân chưa dễ hẹn tiên-tri !

Ẩn tu, khẩn nguyện khắp nơi-nơi,
Niệm PHẬT, xứng cơ lại hợp thời,
Biển mộng hỏi ai, thuyền lạc bến,
Sông mê này chút ánh sen rơi !

Ẩn tu, nghĩ tiếc bậc tài cao !
Biển luỵ trần ai đắm kiệt hào !
Giọt lệ Tần-Đình thương đất nước
Bên song kiếm ẩn thán công hầu !

Ẩn tu, nhìn lắm kẻ chơi vơi,
Gào khóc quên tu cũng huyễn thôi !
Niệm PHẬT để cho tròn tánh PHẬT,
Kiếp người chẳng uổng được thân người.

Ẩn tu, tâm PHẬT hội Tào Khê,
Kiếp ngoại trời xuân sáng bốn bề,
Hoa nở sắc hương thành Chủng trí,
Gió thông kim cổ, đạo Bồ-Bề.

Ẩn tu, giải đạo phải dùng lời.
Biển lớp ngôn âm cảnh lẫn người.
Tự xét đã riêng không sở đắc,
Nói nhiều thêm lỗi vọng mà thôi.

Ẩn tu, phương tiện mượn thi ngâm.
Thức ngộ mình người khởi đạo tâm.
Đâu nghỉ hoa đào ra động bích,
Mà mong Lưu Nguyễn ghé vào thăm?

Ẩn tu, sông chết việc ưu tiên.
Kinh cảm luân hồi trải khắp miền !
Sa đoạ ba đường như đại địa,
Móng tay cát bụi cõi nhơn thiên !

Ẩn tu, tổng-yếu Tịnh môn mầu.
Bí quyết đừng xa nghĩ ngợi cầu,
Thanh tịnh chí thành trong mấy điểm,
LỰC,HÀNH, NGUYỆN THIẾT với TIN sâu.

Ẩn tu, niệm niệm bút sanh hoa.
Thi-tứ, nguồn tâm một mạch ra,
Danh-tự vị nguyên là Phật-nhãn,
Non Tây rực rỡ dệt hồng hà.

Ẩn tu, trắc trắc, lại bình bình.
Niệm đạt vô-tình lẫn hữu tình
Lầu tuyết rã tan ngàn thế giới,
Chân trời pháp nhãn lộ bình-minh.

Ẩn tu, niệm vỡ chụp pha-lê.
Muôn ổn ngàn yên lặng khắp bề !
Riêng một bóng Tăng ngồi tĩnh-tọa
Lâm-viên vừa bặt tiếng sơn khê.

Ẩn tu, sừng-sửng cội cây khô.
Một ngón Thiên Long, dứt ý-đồ.
Phật tử đến thăm như hỏi đạo,
A Di Đà Phật lại NAM MÔ.


Ẩn tu, nhơn cảnh chợt đều quên
Sáng-rỡ vầng-nga rọi trước thềm
Mùi đạo Lan-thanh riêng tự biết
Kêu mưa đã vắng giọng cưu đêm.

Ẩn tu, suối lặng bóng chim qua
Chim, nước đều như tự tại hoà
Di Lặc trao cho xem túi vải
Dưới trên đều rỗng, giọng kha kha !!!

Ẩn tu, bên viện tiếng chuông dồn!
Sấm nổ, Oai âm tỉnh mộng hồn.
Chồn nhảy vào hang Sư tử chúa,
Sư Vương lại dạo Dã hồ thôn.

Ẩn tu, trì niệm tháng năm qua.
Đạp lối Sen thanh trở lại NHÀ,
Tin-tức ngày nay vừa thấy được,
Tiếng chuông Sơn tự, bóng trăng tà 

Nam mô Phương Liên Tịnh Xứ,
Mật-Tịnh đạo tràng.
Hoà Thượng Thích Thiền Tâm
Reply
#90
CHÚ SA DI NIỆM PHẬT VÃNG SANH

Thích Nữ Giác Anh
Theo lời Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể rằng, những ngày Hòa Thượng còn ở quê nhà, nơi Tổ đình Thiên Ấn – miền Trung, có một chú sa di tên Diệu Mãn. Thường nhật Chú chỉ làm công việc quét chùa. Chú người hiền lành, ít nói, tánh tình ngồ ngộ. Đặc biệt trong chúng, ai nhờ việc gì đều hoan hỷ làm ngay. Cũng chính vì vậy, chú thường bị quí sư huynh đệ la rầy, sao đang làm việc này lại bỏ đi làm việc kia… Tuy vậy, nhưng lúc nào chú cũng hoan hỷ, không ai thấy chú câu chấp việc gì bao giờ.
Chú Diệu Mãn thường lấy niệm Phật làm công phu tu hành. Ngày ngày, tháng tháng, năm năm… hai thời công phu sáng tối chú gìn giữ đều đặn. Ai làm gì thì làm, mặc người nói ra nói vào điều chi, thậm chí có ai chọc ghẹo, chú cũng hoan hỷ im lặng cười xòa.
Thời gian thấm thoát trôi qua, cho đến một hôm, giữa buổi thọ trai, chú Diệu Mãn đắp y ra tác bạch với Hòa ThượngBổn Sư và đại chúng, chú chấp tay cung kính thưa: “Bạch Hòa Thượng và đại chúng, con nay xin thành tâm đảnh lễ ân đức của Hòa Thượng và đại chúng đã trưởng dưỡng con cho đến ngày hôm nay, nay thời gian đã đến, con tác bạch xinHòa Thượng cho phép cho về với Phật”. Đại chúng ngẩn ngơ nhưng bình thường thấy chú Diệu Mãn ngồ ngộ, nên tưởng hôm nay chắc chú ấy cũng giỡn chơi. Hòa Thượng dạy rằng: “Này Diệu Mãn, tiết trời lúc này đang mùa mưa, con về với Phật mùa này cũng ướt át lắm, thôi để 23 tết đưa ông Táo về trời, rồi con hãy đi luôn cho tiện.” Chú Diệu Mãn đáp: “Mô Phật, bạch Thầy, Thầy dạy như vậy, con xin vâng”.
Sau lần tác bạch ấy, đại chúng không nhắc gì thêm về việc ấy nữa. Cứ nghĩ tánh chú ngộ nghĩnh vậy mà. Chú Diệu Mãntrở lại công việc thường ngày, vẫn hoan hỷ, vẫn ngồ ngộ, vẫn quét chùa như ngày nào. Mọi người ai nấy dường như đã quên lời tác bạch của Chú Diệu Mãn hôm nao.
Thời gian thấm thoát trôi qua, đến ngày 23 tháng chạp gần Tết năm đó, giữa cái chộn rộn, xôn xao của những ngày cuối năm, quí huynh đệ đột nhiên thấy Chú Diệu Mãn thần sắc lạ hơn ngày thường, y áo chỉnh tề bước lên hậu Tổ, lễ Tổ xong rồi ngồi thế hoa sen chấp tay niệm Phật. Đại chúng ai nấy đều thấy lạ, và đâu đó trong tâm khảm của mỗi người đều cảm được một điều gì đó rất tôn nghiêm, rất kính cẩn. Tự dưng không ai còn khởi niệm đùa cợt trước thái độ của chú Diệu Mãn trong giờ phút ấy nữa. Chú thưa với đại chúng rằng : “Nhờ chư huynh đệ hoan hỷ thỉnh Hòa Thượng từ bi lên tụng cho Diệu Mãn thời Kinh tiếp dẫn”.
Quý Thầy hấp tấp chạy mau xuống thưa với Ôn Hòa Thượng, thỉnh Ôn lên hậu Tổ. Khi Ôn đã lên tới, chú Diệu Mãn chấp tay cung kính thưa: “Bạch Thầy, hồi trong năm con đã bạch Thầy cho con về với Phật, Thầy dạy lúc đó trời mưa quá không tiện đi, đợi cuối năm hãy đi. Nay đã là ngày 23 tháng Chạp, thời giờ đã đến. Con xin Thầy cùng đại chúng từ bitụng Kinh tiếp dẫn cho con.”
Thời gian không gian lúc ấy dường như ngừng lại, mọi người từ Hòa Thượng xuống tất cả huynh đệ, tâm trạng ai ai cũng tràn đầy cảm xúc khó tả. Hòa Thượng xướng bản Kinh A Di Đà, đại chúng cùng hòa theo. Chú Diệu Mãn vẫn chấp tay an tọa nơi đó. Tụng xong bản Kinh, Hòa Thượng đến xem thì thấy Chú đã an tịnh ra đi tự lúc nào !
Chú Diệu Mãn đã an tường ra đi, ra đi biết trước giờ khắc. Ra đi giữa sự tiếp dẫn của Hòa Thượng Bổn Sư và các sư huynh, sư đệ. Ra đi giữa bổn nguyện trong Kinh A Di Đà, ra đi có định hướng. Ôi, Phật Pháp thật nhiệm mầu làm sao !
Chú Diệu Mãn ra đi nay đã hơn 70 năm, nếu đại chúng chưa đủ duyên lành, thì ngày nay tấm gương nhất tâm tu trì ấy,thế hệ mai sau đâu dễ gì được nghe Hòa Thượng trưởng lão Huyền Tôn kể lại. Chúng con xin thành tâm cảm niệm ân đức Hòa Thượng đã kể lại những mẫu chuyện chuyên tu chuyên hành như vậy, để đàn hậu tấn chúng con càng thêm vững bước trên con đường chấm dứt sinh tử luân hồi.


Trích: Giữ Tâm Một Chỗ, Việc Gì Cũng Xong.
TKN Thích Nữ Giác Anh
Reply