GÓP NHẶT HOA THƠM.
#61
HỒI MƯỜI MỘT 

BÒ SỮA BÒ THỊT, NGHIỆP MANG TỪ KIẾP TRƯỚC
QUÊN THÂN NUÔI NẤNG,NỢ NẦN NÀO TRẢ ĐỦ.

Ngày tháng thoi đưa đã tới thu 
Thân mang áo lạnh loại da cừu
Dư ăn dư mặc đời nhàn hạ
Giàu có phải lo đạo đức tu. 

Gian manh lừa đảo giống trâu bò,
Lông mọc đầy mình bởi chẳng tu, 
Sống chết do người, không oán hận,
Khỏa thân nhảy múa tội càng to.

 Tế Phật: 
Mùa thu đã trở về lòng cảm thấy lành lạnh, chúng sinh phần lớn đã mặc thêm áo ấm, rồi khi đông tới có áo da cừu, áo lông đều phải đem hết ra mặc, có khi còn lấy cả da bò, lông dê để bảo vệ cơ thể cho ấm áp, như vậy sự chống lạnh của người cũng giống tựa bò dê vậy. Thân xác người rét mướt há lại chẳng phát tâm yêu thương nồng ấm được sao? Bữa nay thầy hướng dẫn Dương Sinh tới một nơi để được thấy tận mắt cảnh đời của bò.
Dương Sinh: Bữa nay ân sư hướng dẫn con tới chốn này, mùi tanh tưởi xông lên nồng nặc, căn nhà này trong ngoài chất đầy từng đống từng đống những thứ gì thế kia? 
Tế Phật: Đây là xưởng thuộc da thú, sau khi bò bị giết, lấy da thuộc để làm giầy da, áo da, bao da, túi da, mũ da, bao tay da để bán cho khách hàng mua về dùng. 
Dương Sinh: Da bò thực quả có nhiều công dụng. 
Tế Phật: Vì da bò dày. 
Dương Sinh: Thưa ân sư tại sao da người còn cần phải có da bò bảo hộ? 
Tế Phật: Da bò vốn do da người biến hóa ra, không tin thầy sẽ hướng dẫn con tới lò giết bò con sẽ rõ. 

Tế Phật:, thầy sẽ hướng dẫn con tới lò giết bò ở Đài Bắc... (khoảng cách không xa, chỉ tíc tắc đã tới nơi). 
Dương Sinh: Mùi máu tanh tưởi xông lên, có cảm giác chỉ muốn ói mửa, nhìn qua cửa thấy rất nhiều bò, phải chăng chúng đang đợi tới phiên mình bị giết? Tế Phật: Đúng vậy, lũ bò đó người ta sắp đem giết. 
Dương Sinh: Chúng giống loài bò thịt.
 Tế Phật: Chúng được trại chăn nuôi, nuôi làm bò thịt. Để thầy điểm hóa xong, con có thể phỏng vấn chúng. “Bò thịt ơi! Bò thịt ơi! Đứng đó đợi người ta giết, khổ đau chất nặng, lệ chảy khôn ngăn, ai bảo ngươi kiếp trước giết chóc quá nhiều, da mặt mi quá dày, chẳng kể luân thường đạo lí, dao cắt rồi dao cắt, thịt rơi rồi thịt rơi, thời cơ đã tới, ta điểm hóa cho ngươi, mau kể hết hành vi kiếp trước để làm gương khuyên đời”.
 Dương Sinh: Tôi là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, bữa nay cùng ân sư Tế Phật phụng mệnh viết sách Luân Hồi Du Kí, hi vọng ngươi thuật rõ lại hết nguyên nhân kiếp trước để làm tài liệu cảnh tỉnh thế gian, để khuyên răn người đời.
 Bò Giáp: Vừa rồi được đức Phật Sống Tế Công điểm hóa, đột nhiên tỉnh thức, nhớ rõ kiếp trước, không dám nhìn lại kiếp này. Kiếp trước tôi sinh ra trong một gia đình giàu có, từ bé được cha mẹ chiều chuộng nên hư thân mất nết, vì tiền bạc dư thừa, tập tành thói quen cờ bạc say sưa, khi sa ngã quá, cha mẹ bất bình thường chửi mắng, tôi giận bỏ nhà đi, nhập băng du đãng, chuyên nghề trộm cướp. Một bữa giật tiền của khách đi đường, họ tri hô, tôi liền rút dao đâm vào ngực họ ba nhát, rồi cầm tiền chạy mất dạng, vì vết thương quá nặng, nạn nhân tắt thở tại bệnh viện. Cướp được món tiền đó xong, tôi vừa mừng vừa lo, thường lui tới các quán nhậu nhẹt say sưa cùng kiếm nơi hút cần sa ma tuý, còn tiền bạc tôi đem lại gởi nhà một người bạn gái. Một bữa nọ, tại sòng bài tôi huênh hoang khoe chuyện cướp tiền, bị kẻ khác mật báo với nhà chức trách, liền bị cảnh sát bắt giải tòa, lãnh án tử hình để đền tội, quỷ vô thường hắc bạch đã tới chờ sẵn, để áp giải tội hồn tôi xuống địa ngục cho Diêm Vương trừng trị, và khi ra đối chất với nạn nhân, tôi vô phương chối cãi. Sau ngày mãn hạn tù khổ sai tại địa ngục, tôi còn bị đầu thai làm loài bò thịt liền ba kiếp, kiếp này mới là kiếp thứ hai. Bà con của nạn nhân thường thích ăn thịt bò, kiếp rồi sau khi tôi bị giết, họ ra chợ kiếm mua thịt gặp ngay thịt tôi, họ liền mua về xào nấu ăn thật ngon lành, quả là phải trả nợ thịt cho kẻ bị hại. 
 Dương Sinh: Nhân quả báo ứng thật là chẳng thể bàn luận. Theo như lời trình bày của ngươi thì phải lấy thịt mình đền khổ chủ, song sức ăn của họ có hạn, mà xác bò thì lại quá to, nên phải để cho nhiều kẻ khác cùng ăn mới hết nổi, vậy thì theo ngươi trường hợp sau có liên hệ tới luật nhân quả không? 
Bò Giáp: Người nhà nạn nhân ăn không hết thịt tôi, do đó đồ tể mới bán thêm cho kẻ khác, chính ra thì một người làm ác, muôn nhà đau lòng. Song trường hợp này thì khác hẳn, họ sung sướng lúc nhai thịt tôi, giống như là được quyền thay thế nạn nhân rửa hận vậy.
 Dương Sinh: Đúng vậy, đúng vậy, những người ăn thịt ngươi chính là giúp ngươi giải trừ ác nghiệp, không những vô tội mà lại còn có công nữa.
 Tế Phật: Nếu vậy thì chẳng hóa ra là khuyến khích người đời sát sinh sao? Người tu đạo phải kiêng ăn thịt. Còn như muốn giúp loài vật giải nghiệp, phải lấy lượng từ bi mà đối xử. Người tu đạo không giết loài vật để lấy thịt ăn, thường niệm Phật tu hành, luôn mở rộng lòng thương xót cầu cho những kẻ phạm tội cùng các loài cầm thú được giải hết oan nghiệp, có như vậy thì những loài sinh vật khác ở trần gian mới được loài người giúp đỡ giải thoát có phương pháp, không những loài vật được giải tội mà tính linh còn được giác ngộ, sớm có ngày hết khổ đau. Còn vô tình ăn phải thịt những con vật có tội, phải ban ân làm phước giúp nó siêu thăng, tuyệt đối không được ăn không. Ăn một miếng thịt là có một phần trách nhiệm cứu đó, tục ngữ có câu: “Ăn nhân trả quả” đó là nguyên tắc hết sức công bằng, cho nên những kẻ thích ăn ngon, ham ăn thịt hãy suy nghĩ rồi tùy tâm lựa chọn.
 Còn như ăn rau trái do khí tinh anh của trời đất nuôi dưỡng không phải gánh trách nhiệm siêu độ chúng. Trái lại ăn thịt những loài động vật có tính linh thì phải giúp nó siêu thăng, vì nó đã hiến dâng thân xác cho mình ăn và sống, mới gọi là đối xử với nhau một cách công bình, bởi lẽ hãy ăn một miếng thịt người thử coi, hẳn là phải đền tội ngay lập tức, huống hồ động vật, thân thể bị lóc da xẻ thịt, nếu như chúng biết nói tiếng người thì những kẻ ham ăn thịt chúng hẳn là nghe rõ những lời nguyền rủa đắng cay của chúng.
 Dương Sinh: Giá thịt không quá mắc, mọi người đều có thể mua về ăn. 
Tế Phật: Nếu mọi người ăn thịt đều biết có trách nhiệm siêu độ thì cũng là điều hay lắm.
 Dương Sinh: Lời dạy của ân sư quả là chí lí. Xin hỏi lại bò, bị đầu thai làm kiếp súc sinh như thế này, bò có cảm tưởng thế nào?
 Bò Ất: Bò thịt được nhàn nhã, không giống như bò cày ruộng, phải tắm nắng dầm mưa, đánh đập chửi mắng, song không phải chỉ nuôi trong vòng một năm là bị đem đi giết như bò thịt, tôi nghĩ làm bò cày ruộng tuy khổ cực thân xác nhưng được sống lâu hơn. 
 Tế Phật: Bò cũng nghĩ tới chuyện sống lâu, kể thì trời xanh cũng xử với các ngươi công bình, không phải kéo cày nặng nhọc, chỉ cần hiến dâng thân xác cho người ta ăn thịt thì cũng là làm việc thiện rồi đấy.
 Bò Ất: Đức Tế Phật nói rất nhẹ nhàng mát mẻ, xin ngài hãy dùng thử một miếng để gọi là lưu lại một chút tình. 
Tế Phật: Ta ăn chay đã lâu rồi, chẳng thể ăn nổi một miếng thịt đâu, sợ lắm!
 Bò Ất: Nếu như đức Tế Phật ăn thịt con thì quả là phước đức, ngài ăn một miếng thịt con, con sẽ đeo dính ngài, để ngài đưa con về cõi tây phương cực lạc. Còn như người thường ăn thịt con, gặp kẻ đầy trược khí, thì thật là bất hạnh quá. Con muốn có chút công đức mà cũng chẳng được nào!
 Tế Phật: Lành thay! Lành thay! Ngươi đã có lòng vì đạo, thay vì ăn thịt ngươi ta nhổ mấy sợi lông của ngươi, ngươi muốn được ta ban ân đức thì sẽ trợ điển để tính linh của người được trở về nguồn cội, sớm có ngày siêu thăng.
 Bò Ất: Cảm tạ đức Tế Phật đã đoái thương con xin ngài hãy nhổ lông con. Tế Phật: Ngươi chẳng sợ đau sao? 
Bò Ất: Cắn răng chịu đựng, muốn có công đức thì phải kiên gan. 
Tế Phật: Được rồi, nhổ của ngươi mấy sợi lông, sẽ ban cho ngươi trăm phần công đức. 
Dương Sinh: Người đời thường nói: “Nhiều như lông bò” câu nói đó có ý nghĩa gì? Tế Phật: Nghĩa là vô giá trị. Dương Sinh hãy tiếp tục phỏng vấn đi.
 Dương Sinh: Xin hỏi tại sao ngươi lại đầu thai làm kiếp bò? 
Bò Ất: Kiếp trước tôi có tính lẳng lơ trăng gió, ngay lúc còn ngồi ghế nhà trường tôi thường có những hành động khiếm nhã đối với bạn gái cùng lớp, và thường hay chọc ghẹo gái đi đường, nhiều khi còn xâm phạm tiết hạnh phụ nữ một cách trắng trợn, chẳng sợ kẻ khác nhòm ngó. Vì mẹ tôi mất sớm cha tôi lại tục huyền, mẹ kế tôi có tính lang chạ dâm đãng, khi đó tôi lại là một chàng thanh niên đẹp trai học giỏi, mẹ kế liền đem lòng thèm khát, luôn luôn gạ gẫm tôi. Tới khi cha tôi có công chuyện phải đi xa, vắng nhà nhiều ngày, mẹ kế nhân cơ hội này đã quyến rũ tôi đi vào con đường tội lỗi. Tánh tôi vốn hiếu sắc, đã từ lâu có ý ham muốn, vả lại nghĩ rằng mẹ kế đâu có đẻ tôi ra, gần gũi cũng chẳng hề gì, cho nên tôi đã phạm tội loạn luân. 
Bởi tình gian nên lửa cháy mạnh, rốt cuộc cha tôi hay được, vô cùng phẫn nộ, song tôi bề ngoài làm ra vẻ ăn năn hối cải, tuân theo lễ giáo, nhưng bên trong vẫn chứng nào tật nấy, tiếp tục lén lút làm việc tồi bại. Sau khi chết xuống âm phủ, vì phạm tội gió trăng dâm đãng, làm nhục phụ nữ, đảo lộn luân thường đạo lí cùng gian dâm với mẹ kế, nên bị Diêm Vương trừng phạt nặng nề. Sau khi mãn hạn phải đầu thai làm kiếp gà hai đời, bò hai đời, hiện tại đang làm kiếp bò thứ nhất... Tôi rất hối hận kiếp trước làm người không biết lễ nghĩa, liêm sỉ, ngũ luân, bát đức cho nên phải đầu thai làm kiếp súc sinh.
 Tế Phật: Da ngươi dày, ngươi không có liêm sỉ, làm chuyện phản bội luân thường đạo lí xấu xa, lông mọc đầy mình, giống loại người rừng rú dã man, cho nên kiếp này phải đầu thai làm bò, da của ngươi còn bị thuộc làm da giầy, để cho người chà xát tiêu trừ tội nghiệp của ngươi. 
Bò Ất: Kính xin đức Tế Phật cứu độ con, để con được đầu thai làm người, con xin giữ luân thường đạo đức, là kẻ tốt lành, không dám sai chệch một li. 
Tế Phật: Ngươi đã thành thực khai rõ hết tội kiếp trước, kể đã có công, ban cho ngươi kiếp tới được đầu thai lên làm người. Nay được Tam Tào phổ độ, luân hồi kiếp thú khổ sở muôn phần, cho nên mới phải trước tác sách Luân Hồi Du Kí để răn đời tạo công đức, thoát vòng luân hồi súc sinh khỏi khổ. Người đời nếu như phạm tội hành động súc sinh, hoặc sát sinh quá nhiều, hoặc nhiều kiếp oan nghiệp cũng cần ấn tống sách này để khuyên đời, lo công đức thật nhiều để siêu độ cho các loài cầm thú hầu tiêu trừ tội lỗi. Như trong lò thịt, người ta cũng còn bày bàn thờ vong những con vật bị giết để mồng một, ngày rằm cầu siêu cho chúng, đó cũng là điểm biết tới lẽ đạo vậy. Kẻ sát sinh lo siêu độ hồn cầm thú, người ăn thịt chúng cũng có trách nhiệm. Thầy trò mình tới nơi khác phỏng vấn bò sữa để nghe chúng kể lại chuyện kiếp trước.
 Dương Sinh: Xin tuân lệnh, thưa con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường... Tế Phật: Đã tới nơi. Dương Sinh: Thưa đây là chốn nào mà phía trong nuôi quá nhiều bò sữa? Tế Phật: Đây là trại nuôi bò sữa thuộc Đài Bắc, chúng ta hãy vào trong phỏng vấn mấy con bò bị vắt sữa.
 Dương Sinh: Thưa ân sư, phỏng vấn bằng cách nào? 
Tế Phật: Để thầy điểm hóa chúng trước “Bò sữa ơi, mi sản xuất sữa để cho người đời uống, công đức vô biên, mau mau tỉnh dậy nói rõ chuyện tiền kiếp của ngươi”. Dương Sinh: Sau khi được ân sư điểm hóa, quả nhiên bò sữa mở miệng nói liền. Bò Bính: Hai vị là ai, tại sao bữa nay lại tới làm rộn chúng tôi?
 Tế Phật: Ta là Tế Công còn người kia là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, bữa nay thầy trò ta phụng chỉ viết sách Luân Hồi Du Kí để khuyên răn người đời, ngươi hãy mau thuật lại những hành vi kiếp trước để tạo công chuộc tội, hầu kiếp tới được đầu thai lên làm người.
 Bò Bính: Thưa, thì ra đây là đức Phật Sống Tế Công, đã điểm hóa cho con, nhờ vậy mà con mới nhớ lại hết được những hành vi kiếp trước con đã làm. Để lập công chuộc tội, con xin đem những việc đã làm của kiếp trước kể lại để người đời được rõ. Kiếp xưa, tôi sinh tại Hoa Kỳ sống bằng nghề vũ khỏa thân cho khách coi, đứng trên khán đài tôi cởi hết quần áo, để lộ cặp vú cùng của quý, khách ngồi coi lòng thích thú, mắt trợn trừng, miệng há hốc, vỗ tay hoan nghênh. Lại còn ăn nằm với biết bao thương gia, sống cuộc đời như vậy tới năm bốn mươi lăm tuổi mới chuyển nghề buôn hột xoàn, xong đời sống vẫn hoang đàng bừa bãi, cặp đàn ông chơi bời sa đọa, chẳng hề lo làm ăn lương thiện. Sau khi chết hồn bị đày xuống địa ngục, vì phạm nhiều luật của thượng đế ngăn cấm, phải chịu nhiều hình phạt khắc nghiệt, ngoài ra còn bị đầu thai làm kiếp bò sữa, đó là ác nghiệp của kiếp trước mà kiếp này tôi phải trả. Dương Sinh: Tại sao ngươi lại bị chuyển kiếp đầu thai làm bò sữa, mà không đầu thai làm loài khác?
 Bò Bính: Vì kiếp trước làm người tôi thích phô bày cặp nhũ hoa và “chỗ kín” nên khi chết bị đầu thai làm bò sữa, lúc nào bầu sữa cũng phồng căng no tròn, cùng “của quý” luôn luôn phơi bày, sở dĩ kiếp trước tôi được ái mộ là vì biết lợi dụng cặp nhũ hoa cho người mua vui, cho khách thỏa mãn tính dâm. Vì kiếp trước chẳng chịu dùng nó nuôi dưỡng trẻ thơ, nên kiếp này phải làm bò sữa để chủ nhân vắt nặn sữa cho trẻ con bú, cùng chế thành sữa đặc, và bơ... cho người lớn ăn, tất cả đều do nghiệp quả tội lỗi kiếp trước gây nên. 
Dương Sinh: Luật chuyển kiếp đầu thai này chính hợp với lòng ưa thích của ngươi ở kiếp trước sự sắp đặt của tạo hóa hiện nay thật quá siêu diệu. Giờ đây phải làm kiếp bò sữa, cảm tưởng của ngươi ra sao?
 Bò Bính: Tôi rất hối hận vì kiếp trước đã gây nghiệp, chuyên thoát y khiến tâm thần nam giới dao động, sinh tật dâm đãng, hành động tà dâm, thực quả đã phá hoại đạo đức thánh hiền không nhỏ, tội quá lớn. Bò sữa nuôi có nhiều sữa để chủ nhân vắt đem bán, còn bò chẳng được hưởng chút lợi nhỏ nào. Những lúc vú căng, chủ chưa kịp vắt, vô cùng khó chịu, sau khi vắt rồi cảm thấy rất dễ chịu. Song tự biết mỗi ngày tôi một già, tới lúc vú teo, không còn sữa nữa, chỉ sợ bị bán cho lò thịt, tôi chỉ biết cày bừa, không biết thu hoạch nên chẳng được gì, số kiếp thật là thảm thay.
 Tế Phật: Ngươi được cận kề chủ nhân, ngày ngày họ nắn bóp vú ngươi, kiếp trước ngươi có thích được làm như vậy không? Kỹ thuật ngày một tiến bộ đã sáng chế được máy vắt sữa bò, hẳn là bò sữa sẽ không còn được gần gũi chủ nhân hàng ngày như trước nữa?
 Dương Sinh: Bò sữa ơi, hãy thuật lại nhân quả kiếp trước của ngươi xem như thế nào đi? 
Bò Đinh: Được nghe đồng bạn tự thuật về hành vi kiếp trước, tôi cảm thấy xấu hổ vô cùng. Kiếp xưa tôi là gái chuyên hành nghề vũ khỏa thân, bỗng nhiên chính phủ ra lệnh cấm, nên cảnh sát lùng bắt gắt gao, do đó chỉ còn trổ  nghề lén lút, về sau xin được việc làm tại một hộp đêm có giấy phép thoát y hầu rượu, ngồi gần khách để cho khách mua vui đùa giỡn. Vì ăn ở với nhiều thương gia nên đã phá hoại hạnh phúc gia đình của họ, tạo nhiều tội lỗi. Tới khi chết hồn bị đày xuống âm phủ, Diêm Vương ra lệnh chuyển kiếp đầu thai làm bò sữa, chủ nhân vắt nặn được sung sướng nhất thời, nhưng sau đó vô cùng trống rỗng. Giờ đây có hối cũng không kịp. 
Tế Phật: Đó là lẽ thường tình, kiếp trước lợi dụng “nhũ hoa” kiếm tiền, kiếp này hiến dâng nó cho chủ nhân vắt sữa bán kiếm lời, đó là luật nhân quả báo ứng vậy. Dương Sinh: Bò sữa cung cấp bơ sữa cho loài người ăn uống cùng nuôi trẻ thơ hẳn là chúng có công.
 Tế Phật: Bọn chúng đã làm điều thiện lành để đền tội kiếp trước. Kiếp này chúng phải nuôi người để tạo công đức chuộc lại lỗi lầm, do đó người đời không được coi thường chúng, chúng là ân nhân của trẻ thơ, những điều vừa nói chỉ là luật nhân quả mà thôi. Dương Sinh: Trẻ thơ hiện thời phần lớn không bú sữa mẹ mà chỉ bú sữa bò, nguyên nhân tại sao?
 Tế Phật: Phụ nữ ngày nay muốn giữ thân hình đẹp đẽ, sợ rằng cho con bú bộ ngực sẽ xấu đi, nên chỉ nuôi con bằng sữa bò. Cũng may những kẻ thích đầu thai làm kiếp bò ngày một đông, nên mới có thể cung cấp đủ nhu cầu dùng bò sữa hiện thời đòi hỏi. 
Dương Sinh: Thưa có phải vú bò đều do những loại đàn bà vừa kể trên chuyển kiếp hóa thành không? 
Tế Phật: Phần lớn đúng. Phàm những phụ nữ mặc áo hở ngực, để lộ cặp nhũ hoa, cùng những tài tử đóng phim khỏa thân, đã làm tổn thương phong hóa, khích động dâm tính, phá hoại đạo đức, biếng nuôi nấng con cái, đều bị chuyển kiếp làm loài bò sữa.
 Dương Sinh: Trẻ con nuôi bằng sữa bò, lớn lên nhiễm tính bò, không hiếu thảo với cha mẹ. Biết làm sao cải thiện đây. 
Tế Phật: Cuộc thế đổi thay, đạo hiếu thảo ở các nước ngày một suy đồi, việc uống sữa bò phải hết sức thận trọng, tha thiết khuyên những bà mẹ phải dùng sữa mình để nuôi con, có như vậy mới gây dựng nổi tình mẫu tử thiêng liêng, vì sữa người mang tính người, sữa bò mang tính bò. Đạo hiếu thảo cổ kim khác biệt nhau rất xa, quan trọng rất lớn. Mong các bà mẹ trên đời tỉnh ngộ, trời xanh ban cho mình hai bầu sữa, thiên chức sinh sản để tiếp nối đời sau, nuôi nấng con cháu, nên không được coi thường thiên chức cao quý đó, không được sống thiếu đạo đức, ngược lòng trời. Phải dùng sữa mình nuôi nấng con thơ, cách dinh dưỡng này rất quan trọng vì nhờ nó mà tình mẹ thương con thiêng liêng cao cả mới có thể duy trì và phát huy nổi. Bữa nay tạm kết thúc cuộc phỏng vấn ở đây.
Reply
#62
HỒI MƯỜI HAI 

VỚI NGƯỜI ,SÚC VẬT KHÁC LOÀI ,NHƯNG CHUNG TÍNH .
LEN ẤM CHE THÂN ,PHẢI NHỚ ĐẾN ƠN CỪU .

Đạo đức lo tu ,họa mới yên.
Thái hòa ba cõi, nhạc vang rền.
Người người vui sướng, nhà êm ấm.
Nhân loại đại đồng ,sóng biển êm. 

Đầu thai kiếp thú, khổ muôn vàn.
Đánh đập bởi người ,lệ chứa chan.
Ngẫm kĩ làm người ,mà lại quý.
Tiêu dao tự tại, niệm Quan Âm. 

Tế Phật:
 Sự cách biệt giữa kiếp thú và kiếp người có thể so sánh cùng vực thẳm với trời cao. Văn minh hiện đại đề cao đời sống con người, loài vật được thương yêu, các giống chó quý đều được những người có tiền nuôi nấng săn sóc vô cùng chu đáo. Song nhìn chung loài vật vẫn ở mức thấp hơn người, bị người cai quản, sự sống chết của loài người do loài người định đoạt, còn loài vật thì bị loài người khống chế, nên chúng thường bị người giết thịt, đó là chỗ loài người thắng loài vật. Mong người đời bảo vệ thiên chức được làm người của mình, để tránh khỏi có những hành vi giống loài cầm thú, vì những kẻ phạm tội sẽ bị đánh đập, đày ải, xử tử hết sức kinh hoàng, bị coi ngang hàng với thú vật, bị tước đoạt quyền làm người. Từ khi trước tác sách Luân Hồi Du Kí đến nay, những ai đọc được đều giật mình tỉnh thức, kẻ ác tâm nhìn thấy vỡ mật, người lương thiện nhìn thấy lòng kính nể chẳng dám đi vào đường tà, sách này có tác dụng khuyên răn đời, tỉnh thức đời, giác ngộ đời, mong người đời chớ cho là tầm thường. 
Dương Sinh: Thưa có người hoài nghi cho là loài vật và loài người không liên hệ chi hết, thì làm sao bàn luận với họ được? Họ nghĩ loài vật chỉ là giống xác đi thịt chạy, tính linh chẳng tồn tại. Nếu như đem đề tài này ra bàn luận rồi viết vào sách hẳn là sẽ lưu lại ngàn đời. 
Tế Phật:
 Người đời phần đông thiển cận, xưa có Công Dã Tràng, hiểu được tiếng chim, thường nói chuyện với chim. Chung Tử Kì chỉ nghe tiếng đàn của Bá Nha mà hiểu được tâm sự bạn hiền nên gọi là “tri âm”. Lại nữa, hạc trắng của tiên ông Nam Cực nghe hiểu tiếng tiên, chó trời của nguyên sư Dương Tiễn hiểu đặng tiếng tiên sư. Quán Âm cưỡi rồng, Thiền Sư cưỡi cọp, hai tướng rùa, rắn dưới chân Huyền Thiên Thượng Đế, há chẳng đều chứng minh thần thánh và súc vật cùng chung một thể sao?
 Nếu như loài vật không có tính linh, thì làm sao chúng có thể lên tới cõi trời, sinh sống trú ngụ cùng với Tiên Phật được? Có những giống thú được huấn luyện, nghe được tiếng người nói, làm việc thay người, giữ nhà, biểu diễn trò chơi, học được những điều người chỉ bảo. Qua những bằng chứng cổ kim vừa nêu trên, hẳn là đã rõ động vật tuy không mang thân người song tính linh giống nhau không thể phủ nhận được. Mỗi loài thú đều có tiếng nói riêng, chỉ tiếc đám phàm phu tục tử nghe chẳng hiểu mà thôi. Loài kiến cúi rạp đầu xuống đất để truyền tiếng nói, loài chim gặp nạn kêu ran, đồng loại của chúng nghe thấy hiểu ngay. Người hay vật đều có những chỗ mê muội, người không hiểu được tiếng nói loài vật, loài vật nghe loài người đàm đạo với nhau, chẳng hiểu được sự kì diệu, bèn cho người là loài vật khác giống với mình. Người đời không được bài xích khinh thị loài vật. Ta hướng dẫn Dương Sinh bàn luận được với loài vật là vì ta sử dụng pháp Phật, giúp chúng khôi phục nguyên linh, để chúng nói được tiếng người. Lấy một ví dụ, ta hướng dẫn Dương Sinh tới phỏng vấn một người Mỹ, và ai ai cũng biết rằng nói tiếng Hoa thì làm sao có thể đàm đạo? 
Kỳ thực, phàm những động vật có tính linh, thì đều có thể học nói mọi loại ngôn ngữ của các quốc gia. Vì ta ban pháp Phật để cho loài vật có thêm tính linh để chúng nói tiếng người, như một kẻ tính linh sáng suốt có thể nói các thứ tiếng Hoa, Anh, Đức, Pháp. 
Các nước đều có sở thú, có thầy dạy thú, song mỗi nước lại dạy thứ tiếng nói riêng của mình mà loài vật vẫn hiểu như nhau, đủ chứng tỏ các loài động vật đều có tính linh chỉ cần phát triển huấn luyện là chúng thích ứng được liền.
 Lấy một ví dụ về khoa học kĩ thuật hiện đại mà nói thì dùng máy ra đa người ta có thể nhìn thấy cơn lốc chuyển động từ xa. Loài người và loài vật đều có đầu óc, làn sóng phát ra từ não bộ, chỉ cần hướng dẫn thêm, thì loài người và loài vật đều có chỗ giống nhau. Làn sóng phát ra từ bộ não là làn sóng điện, những loài động vật tinh anh minh mẫn làn sóng này phong phú hơn người thường gấp ngàn lần, cho nên đạo Phật coi ngả luân hồi của loài vật là một trong sáu ngả, vì sáu ngả luân hồi do một hóa thành sáu, có thể nói: “Một thân mà sáu mặt” (Nhất thể lục diện)
 Nếu như loài vật chẳng thể giao tiếp bằng ngôn ngữ với người thì hẳn là thuyết lục đạo luân hồi không đứng vững, những động vật dưới chân tòa sen chư Tiên, chư Phật tại cõi tây phương không có thực. 
Cho nên thánh nhân nói: “Vạn vật với ta là một” (Vạn vật dữ ngã vi nhất) hẳn đã thuyết minh thiên địa vạn vật không phân chia tính linh và tính vật, với tính linh thì lấy thiện đối đãi, với tính vật thì lấy thiện sử dụng. Một chén cơm làm nên bữa ăn thịnh soạn, một cặp mắt kiếng mang lại ánh sáng, các thứ đó đều là sự biểu hiện của tính vật, là vật của tính vật phải dùng thiện để sử dụng chúng, chớ có coi thường mà vất bỏ chúng.
 Tính vật đã như vậy, thì tính linh lại có thể phủ nhận được sao? Thánh nhân coi vật như người nên lấy lượng từ bi đối xử với chúng, như phía nam tỉnh ta có kẻ ham giết nhiều chim để mua vui, các nhân sĩ cùng chính phủ đương nhiệm, lại một lần nữa ra thông cáo cấm chỉ việc bắt và giết chim, bởi ăn một miếng thịt là sát hại một mạng sống, bắt một con chỉ bán được mười đồng, lời quá nhỏ.
 Chim cũng có quyền được sống, giết chóc chúng bừa bãi không những làm thương tổn tình người mà còn phá hoại đời sống thiên nhiên, hủy diệt đạo bác ái. Những điều vừa trình bày đã luận rõ về thuyết nhân trị, tức lấy đức nhân mà trị, mọi người phải đem lòng từ ái đối xử với loài vật. Trời vốn hiếu sinh, người đời nếu như cảm được lòng trời, phát huy đức nhân, thực hiện những điều trình bày trong sách này thì nó sẽ được khen ngợi là một cuốn kinh quý báu, nhằm triển khai đức từ bi, tâm bác ái vậy. Kẻ mất con gà nhỏ, tìm kiếm khắp nơi, người bắt gà đem giết lòng sung sướng; đánh người, giết người không gớm tay nhưng khi bị muỗi chích thì lòng căm giận.
 Đem tâm so sánh với tâm mới thấy tâm mình có tốt hay không? Điểm dẫn chứng vừa rồi cho thấy tâm người vị kỉ bất nhân, tâm động vật phi phàm, đáng được coi là bằng hữu của nhân loại. Chúng hi sinh tính mệnh nuôi sống loài người, loài người chớ vong ân bội nghĩa. Sách Luân Hồi Du Kí chứng minh linh hồn bất diệt, sự chuyển kiếp đầu thai là sự thật. Mong người đời chớ tán tận lương tâm làm điều ác, phải làm người đường hoàng chính trực để tránh khỏi phải đầu thai làm loài thú để cho người ta giết chóc, sai khiến. Tóm lại mục đích của sách này cảnh cáo người đời gần lành lánh dữ, không được hành động dã man như thú vật.
 Dương Sinh: Ân sư đã phải nhọc sức mỏi miệng dẫn chứng sự thực để giúp người đời hiểu rõ luật chuyển kiếp luân hồi, loài vật cũng có trời đất riêng của chúng, sách Du Kí này đã trình bày rõ để giúp người đời nhận thức đúng đắn về loài vật, những điều dẫn chứng rất hợp với sự lí luận vậy.
 Tế Phật: Dương Sinh mau lên đài sen, chuẩn bị di chuyển tới nơi khác phỏng vấn thêm. 
Dương Sinh: Thưa ân sư tới chốn nào? 
Tế Phật: Ra nước ngoài xem xét tình hình.
 Dương Sinh: Thưa ân sư, mình tới nước nào?
 Tế Phật: Tới Tân Tây Lan phỏng vấn loài cừu. 
Dương Sinh: Nhân dịp này du lịch một phen hẳn là hay lắm, bữa nay khí trời đột nhiên trở lạnh, len của Tân Tây Lan rất nổi danh, chắc phải mua một ít về dệt áo mặc.
 Tế Phật: Sự tính toán của con thật là thông minh, thôi thầy trò mình lên đường... Đã tới nơi, Dương Sinh xuống đài sen.
 Dương Sinh: Ở đây có nhiều cừu, con nào lông cũng rậm dài so với cừu nước nhà khác nhau xa, không rõ tại sao lông nó lại có thể nhiều đến như vậy được?
 Tế Phật: Lông cừu mọc từ thân cừu, nơi đây cỏ hoang nhiều, rất tiện cho việc nuôi cừu, cừu muốn giữ thân ấm áp, thì mình phải mọc nhiều lông, đó cũng là sự xếp đặt kì diệu của tạo hóa vậy. 
Dương Sinh: Mùa đông đã tới, người đời muốn khỏi chết lạnh phải mặc áo len, nên việc cung cấp len để đan áo ấm, cừu đã giúp đỡ nhân loại rất nhiều. Thưa ân sư có thể phỏng vấn về đời sống của cừu không?
 Tế Phật: Bữa nay tới đây phỏng vấn cốt để hiểu rõ về lai lịch của chúng. “Cừu ơi! Cừu ơi! Mình ngươi mọc đầy lông, ngươi được mặc một tấm áo ấm của tạo hóa ban cho, ngươi hãy thuật lại rõ lai lịch của ngươi coi. Ta ban diệu pháp, đánh thức bản lai tính linh của ngươi để ngươi kể lại chuyện kiếp trước hầu khuyên răn người đời”.
 Dương Sinh: Bầy cừu sau khi được ân sư ban pháp Phật đã tỉnh ngộ, con xin phỏng vấn chúng. Xin hỏi cừu hãy cho biết cảm tưởng sau khi bị đầu thai làm kiếp cừu ra sao?
Cừu Giáp: Kiếp trước tôi là kẻ tham nhũng, gây tội giết chết nhiều người cho nên kiếp này bị đầu thai làm cừu. 
Dương Sinh: Tham nhũng như thế nào? 
 Cừu Giáp: Tôi kiếp trước làm quan, được ủy nhiệm trông coi việc xây một cây cầu, vì lợi riêng đã cấu kết với nhà thầu, bớt công, giảm xi măng, đá sỏi, sắt thép, v.v... tới một phần ba không xây đúng số lượng vật liệu theo như đồ án thiết kế của kiến trúc sư để lấy tiền bỏ túi. Cầu xây xong, tiền vãng lai của người qua lại thâu được thật nhiều. Có lần mưa lũ từ trên núi đổ xuống, cầu bị sập, khách bộ hành xe cộ trên cầu rớt xuống sông bị nước cuốn dìm chết. Vì tội giết người đó mà kiếp này tôi phải đầu thai làm cừu, toàn thân mọc đầy lông, khi lông dài bị người ta lấy kéo cắt đem bán cho các nước chế thành len dệt áo, một đời chỉ biết mọc lông dài dâng hiến cho người để trả nợ kiếp trước.
 Cừu Giáp: Phản bội sự chính trực phải đền nợ sự gian trá, còn sống năm nào mọc lông dài năm ấy để trả nợ, chẳng hé răng than thở một lời.
 Dương Sinh: Biết sám hối trả nợ, tin rằng món nợ thiếu đó chắc chắn sẽ trả xong.
 Tế Phật: Ngươi kể lại việc làm kiếp trước khiến người nghe lạnh hồn, vì ngươi bao kẻ phải làm hà bá, kiếp này gắng tăng áo lông cho người đời chống lạnh, cho thân họ ấm áp, đó là trả ác nghiệp quả báo
. Dương Sinh: Xin hỏi cừu khác, cớ sao ngươi phải đầu thai chốn này?
 Cừu Ất: Cảm tạ đức Tế Phật cùng Dương Thiện Sinh đã lưu tâm tới tôi, cùng giúp tôi tỉnh thức. Kiếp trước tôi là một gian thương chuyên bán len giả, hàng vải nội hóa nói dối là hàng ngoại quốc, khách hàng mua cho là vải quý bằng lòng mua giá mắc, thành họ bị lừa, không những chẳng hay mà lại còn tỏ lòng sung sướng. Suốt đời tôi chuyên bán vải xấu nói vải tốt để kiếm lời nhiều, lấy hai vợ, trọn kiếp hưởng hạnh phúc tràn trề. Lúc sống tôi không tin có nhân quả báo ứng, nhưng sau khi chết đứng trước đài gương soi ác nghiệp mới vô cùng sợ hãi, đã chịu đủ mọi hình phạt đớn đau do Diêm Vương trừng trị lại còn bị đầu thai làm kiếp cừu tại nước ngoài. Lông trên mình tôi cũng là áo mặc thân tôi, ăn cỏ, hấp thụ dinh dưỡng để cho bộ lông mọc dài, vừa đúng lúc thành bộ y phục đẹp đẽ liền bị người ta lột trần để dệt thành len đan áo, nên có thể nói tôi chỉ cày bừa không được thâu hoạch. Quần áo vừa mới mặc vào đã phải cởi ra, thực là bất hạnh muôn phần. 
 Tế Phật: Không được sinh lòng oán giận, quần áo lông của ngươi chẳng được mặc lâu là vì ngươi bạc phước. Ai bảo ngươi kiếp trước bán vải giả, khiến kiếp này phải thường hàng thật và giá thật một trăm phần trăm len cho người đời mặc để tiêu trừ tội nghiệp.
 Cừu Ất: Nghe lời dạy của đức Tế Phật lòng con hối hận vô cùng. Kiếp trước vinh hoa phú quý, song chỉ được hưởng ít chục năm, còn kiếp này phải đày đọa giữa chốn đồng hoang chịu cảnh mưa nắng gió sương để sản xuất len cho người ta bán mà mình không được một cắc, chỉ còn biết tự trách mình thôi! 
Dương Sinh: Xin hỏi cừu kia nữa, tại sao ngươi phải chuyển kiếp đầu thai làm cừu? 
Cừu Bính: Kiếp trước tôi mở ngân hàng, những kẻ cần tiền tôi đều bắt chẹt cho vay lấy lời thật cao, phàm những ai cần gấp tới vay tiền của tôi đều phải chịu lời cao, nên có thể nói lợi đó là “lợi máu”, ăn của tôi một bữa cơm muốn trào máu họng, giống như bị tôi thọc huyết vậy. Vì gặp cảnh khốn quẫn cần tôi giúp đỡ, thì điều kiện nào họ chẳng chịu, tôi bèn nhân cơ hội này đòi ăn nằm với vợ và con gái họ, họ bị bắt ép trắng trợn, song cũng đành nuốt hận cắn răng chấp nhận. Lợi dụng sự nguy khốn của họ mà cướp đoạt tiền tài nhan sắc, nên đã phạm luật trời, sau khi chết bị đày xuống âm phủ chịu hình phạt khắc nghiệt, cùng chuyển kiếp đầu thai làm cừu, đày đọa tại chốn này thật là thê thảm. Kiếp trước giàu, xe sang gái đẹp, còn giờ  tay trắng, đầu thai làm loài khác, mình mọc lông, đầu mọc sừng, xấu xa không chịu nổi.
 Dương Sinh: Thưa ân sư cứ cho vay kiếm lời đều phạm tội cả đúng không?
 Tế Phật: Không thể kết luận như vậy được. Ngân hàng cho vay lấy lời không có tội, nếu như cho vay để giúp đỡ người, không lấy lời có công, lấy lời nhẹ thì không có tội. Với mục đích giúp người hoạn nạn vượt nguy khốn kể như giúp người một nửa. Còn ngược lại lấy lời nhiều của kẻ nguy khốn kể như làm ác, thuộc hàng bất nhân, lợi dụng kẻ nguy khốn túng thiếu để gian dâm với vợ và con cái họ ắt phạm luật trời. Những điều vừa trình bày đúng là như vậy, tục ngữ nói: “Lông cừu mọc trên thân cừu” coi rẻ người là tự hạ giá mình, hại người là hại mình, bằng chứng trên đây là bài học cảnh cáo người đời, nên gắng làm người đàng hoàng ngay thật, chắc chắn sẽ hái được trái lành. Còn nếu như gian trá lừa gạt, tham ô không những luật đời khó tha mà luật trời còn ghét bỏ. Đã không chịu làm người lương thiện, kiếp sau trời cao sẽ đày đọa, chịu mọi nỗi đắng cay khổ nhục. Các ngươi đã thuật lại hết tội lỗi, khuyên người tạo công, ta ban phước cho các ngươi kiếp sau được đầu thai lên làm người, song chớ quên giữ đạo để tránh lại bị đầu thai làm kiếp thú. 
Reply
#63
HỒI MƯỜI BA 

BIẾT ĐAU ,BIẾT ĐỚN, ĐỘNG VẬT LO TÍNH MỆNH,
Ở RỪNG Ở NÚI KHÔNG NHÀ HỐI LỖI XƯA .

Trời đất hiếu sinh lẽ tự nhiên.
Nguyên linh loài thú vốn ngoan hiền .
Cùng nhau máu mủ là huynh đệ .
Thân khác lòng chia ấy chớ nên. 

Chẳng biết làm lành mở rộng tâm.
Giúp người giúp vật khỏi ưu phiền .
Đời nay nâng đỡ cùng tha thứ .
Kiếp tới đền bù bởi nhớ ơn. 

Tế Phật:
 Gần đây lòng ta thực là cảm thấy khoan khoái khi nghe các trường học phát động phong trào bảo vệ thiên nhiên. Nhà trường ra những đề thi cho học sinh nội dung khuyến khích phát huy lòng thương yêu đối với loài vật, do đó ảnh hưởng lan ra tới mọi gia đình, ai ai cũng mở rộng lòng yêu mến loài vật, lãnh vực sinh tồn của loài vật đương nhiên được mở rộng. Biển rộng trời cao, ta được ngao du khắp chốn, đó là sở nguyện của vật cùng người vậy. Trừ phi động vật có hành vi hại người mới cần phải trừng trị để bảo vệ sư an toàn, còn giết chúng để ăn thịt, để thỏa mãn tính ham chém giết là hành động dã man. Thế giới văn minh phải đề cao đức nhân từ, lòng quảng đại, vả lại nếu không giới sát chắc chắn sẽ có ngày loài vật tuyệt chủng. Ta phụng chỉ cùng Dương Thiện Sinh viết sách Luân Hồi Du Kí để phát huy tình thương của con người đối với loài vật, ta cũng rất vui mừng khi thấy các nhân sĩ hô hào bảo vệ súc vật, đó là hành động “thuận lòng trời, hợp lòng người, vô cùng ích lợi cho loài vật”. Như vậy đủ chứng tỏ sách Luân Hồi Du Kí rất hữu ích cho đời, thế gian chớ coi thường. Dương Sinh chuẩn bị khởi hành. 
Dương Sinh:Thưa con đã lên đài sen, kính mời ân sư khởi hành. Tế Phật: Bữa nay thầy trò mình dạo thăm Châu Phi, đường khá xa. 
Dương Sinh: Cưỡi đài sen tới Châu Phi miễn phí, kể cũng là chuyện lạ.
 Tế Phật: Thế giới tâm linh không xa cõi Phật do đó người đời phải chú trọng tu dưỡng tính linh, để khi nó xuất ra khỏi nhục thể như luồng điện, luồng ánh sáng bay thật lẹ tới cõi thanh cao, và Tiên Phật luôn luôn giúp sức người có năng lực siêu phàm. Tu tới cảnh giới này, tự nhiên sống chết là một, không bị số mệnh luân hồi ràng buộc. Thôi chúng ta mau thẳng tới Châu Phi... Đã tới nơi. 
Dương Sinh: Chốn này rừng rậm hoang vu, mới thoạt nhìn đã thấy sợ hãi. 
Tế Phật:Yên tâm đi, có thầy đây đừng sợ hãi. 
Dương Sinh: Phía trước có một bầy cọp, chúng nhìn trừng trừng, vẻ hung dữ vô cùng, liệu có tránh khỏi bị chúng ăn thịt không?
Tế Phật: Chúng ta tới đây bằng thân pháp, cọp không có cách gì ăn thịt nổi, đừng khiếp hãi.
 Dương Sinh: Cọp sinh ở chốn rừng hoang rất hung dữ.
 Tế Phật: Chúng sống ở chốn núi sâu không người coi sóc nên đầy tính dã man. Trẻ thơ cũng vậy, nếu như không được cha mẹ, thầy cô dạy dỗ, uốn nắn cũng trở thành đứa con hoang đàng. Bữa nay thầy trò mình phỏng vấn lũ cọp này, để thầy thuyết pháp điểm hóa cho chúng trước: “Cọp, cọp, cọp, cọp ơi! Đừng lộ vẻ hung dữ nữa, hãy hiền lành lại đi, không ai dám đến gần ngươi, như vậy há chẳng cô đơn man dại lắm sao? Mau mau sám hối, cải đầu quy chính trở lại làm người, bỏ tính bạo tợn, Tế Phật ban pháp điểm hóa, mau mau kể hết lại những chuyện kiếp trước để răn đời, mới hi vọng thoát thai hoán cốt, đầu thai làm người”. 
Dương Sinh: Cọp được ân sư điểm hóa, hiện rõ hình người tiền kiếp, có nam có nữ, vẻ rất hung ác, muốn gây hấn cùng kẻ khác. Tế Phật: Dương Sinh có thể phỏng vấn họ. 
Dương Sinh: Tôi là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, phụng chỉ theo ân sư Tế Phật trước tác sách Luân Hồi Du Kí để khuyên răn người đời. Bữa nay đặc biệt tới đây phỏng vấn, mong quý vị thuật rõ lại nhân quả kiếp trước, khả dĩ tạo công chuộc tội, kiếp sau được đầu thai lên làm người, hết phải còn sống cảnh màn trời chiếu đất giữa chốn rừng rậm núi sâu, hãy thuật mau đi. 
Cọp Giáp:Kiếp trước tôi là người thượng du, thuộc bộ lạc sống trong rừng, thân hình thô kệch khỏe mạnh, chuyên săn bắn thú rừng để sống như các dân chưa khai hóa khác. Một lần cãi lộn với người bạn, khí giận xung thiên, liền cầm dao giết cả nhà cùng phóng hỏa đốt chòi họ cháy trụi. Vì không có pháp luật xét xử, nên tôi không bị trừng trị. Sau khi chết xuống âm phủ, thân thể bị chặt nhiều mảnh bỏ vào vạc nấu. Sau đó phải đầu thai làm hai kiếp thú, kiếp trước là sư tử, kiếp này là cọp chuyên sống trong rừng khổ sở muôn phần.
 Tế Phật: Tính thú của ngươi quá hung dữ, giết người như giết vật, không có chút nhân tính, hành vi bạo ngược, chuyên ăn thịt các loài động vật, ăn nhiều trở thành thói quen, kiếp này sống trong rừng tiếp tục bắt sinh vật khác ăn là ngươi cũng tạo ác nghiệp. Mong từ nay thức tâm, cởi bỏ thú tính, mau mau bỏ tính cũ lập tính mới, kiếp tới ban phép cho ngươi được đầu thai làm người, song phải chịu nghèo khổ, làm việc cực nhọc để đền tội.
 Cọp Giáp: Cảm tạ Phật Sống Tế Công cùng Dương Thiện Sinh, kiếp tới tôi được làm người nhất định cố gắng tu thân, không dám làm ác để tránh khỏi mãi mãi bị đi đường ác. Dương Sinh: Xin hỏi một vị khác, kiếp trước làm những việc ác như thế nào?
 Cọp Giáp: Kiếp trước tôi là một tướng cướp, chuyên cướp của giết người, hiếp dâm đốt nhà, việc ác nào cũng làm như cơm bữa. Từng giết chết hai người, làm bị thương mười ba người, cướp được hai triệu, phóng hỏa đốt nhà hai lần, cưỡng hiếp phụ nữ ba lần, một đời không lo làm ăn lương thiện, chỉ lo đè đầu bóp cổ, muôn người thống khổ. Đến khi vận tới, vì phạm tội giết người, cảnh sát lùng bắt gay gắt, bỏ chạy vào núi, cướp của dân sơn cước sống. Một bữa đang nằm ngủ dưới gốc cây trong rừng, bị rắn nhào tới cắn, vì không có thuốc chữa trị, lại không dám ra khỏi núi nhờ người ta chữa, do đó đành chịu nằm chết trong núi. Sau khi chết thần núi áp giải xuống địa ngục, giao cho Diêm Vương xử tội, chịu nhiều hình phạt đớn đau, sau đó còn bị chuyển kiếp đầu thai làm hai kiếp rắn, một kiếp hổ, một kiếp trâu, sau đó mới được đầu thai làm kiếp người. Kiếp rắn đã làm xong, kiếp này làm cọp tại Châu Phi, nghĩ lại vô cùng hối hận.
 Tế Phật: Quả là dữ như cọp, chuyên ăn thịt người, tội ác quá lớn. Chết tại núi sâu, xương phơi trắng đất không người chôn cất, hình phạt địa ngục khắt khe cay nghiệt, lại còn phải chuyển kiếp đầu thai làm loài thú. Bữa nay ngươi may mắn được dịp thuật lại những hành động ác độc kiếp trước, đã tạo công chuộc tội, kiếp tới đầu thai lên làm người, không phải làm thân trâu ngựa, sống thiếu chân thiếu tay, phải bò lết ăn xin để tránh làm hại kẻ khác.
 Cọp Ất: Cám ơn Phật Sống Tế Công đã giúp con thoát khỏi cảnh khổ. Tế Phật: Khổ đó mình làm mình chịu, ta đã giúp người không ít, phải biết tự đủ, không được tham lam.
 Cọp Ất: Thưa vâng, thưa vâng. Dương Sinh: Xin hỏi vị kia, kiếp trước phạm phải những tội ác gì? Là phái nữ mà cũng đầu thai làm cọp sao? 
 Cọp Bính: Xin Dương Thiện Sinh chớ lấy làm buồn cười, tôi đã hối hận song quá trễ, kiếp trước tôi là một phụ nữ hung bạo, vì thuở bé sinh trong một gia đình không có nề nếp, nên tính tôi ngược ngạo kiêu căng, cuối cùng sa đọa vào xã hội đen, chuyên bán ma túy và chứa gái mại dâm kiếm tiền. Con gái con trai nghe lời dụ dỗ của tôi sa đọa rất nhiều, những kẻ nào cưỡng lại tôi đều bị đánh đập giết chóc, giới giang hồ của xã hội đen đặt biệt danh cho tôi là “Hắc Mân Côi” (Đá Ngọc Đen). Là một phụ nữ chúa tàn độc, tôi đã gây tội ác ngập trời, sau khi chết phải chịu hàng trăm hình phạt đớn đau, kiếp này phải đầu thai làm cọp cái, đó cũng là do tội lỗi của tôi gây nên.
Tế Phật: Ngươi không phải là người mà là cọp cái, kiếp này làm cọp du đãng chốn núi sâu, song thần khí vẫn còn nối tiếp với kiếp trước, nếu sám hối tu thân, kiếp sau sẽ được chuyển kiếp đầu thai lên làm người, nhưng thường bị kẻ khác làm nhục để tiêu oan giải nghiệp, mong ngươi kiếp tới sẽ cố gắng làm người lương thiện.
Cọp Bính: Cảm tạ đức Tế Phật đã cứu giúp con. 
Tế Phật: Tạm ngưng cuộc phỏng vấn cọp ở đây, tới nơi khác phỏng vấn bầy voi.
 Dương Sinh: Thưa vâng, con đã chuẩn bị sẵn sàng, kính mời ân sư khởi hành...
Tế Phật: Đã tới nơi.
 Dương Sinh: Ở đây có một bầy voi rất to, có một con nhỏ xíu, giống như là voi con. 
Tế Phật: Voi không có người coi chưa phải là voi, tất cả đều thiếu người bên cạnh.
 Dương Sinh: Ân sư dạy rất chí lí, những con voi to lớn này, thân mình thô kệch, khỏe mạnh, lai lịch chúng chắc chắn khác xa các loài khác. 
Tế Phật: Để thầy điểm hóa cho chúng. “Voi lớn voi nhỏ ơi! Sinh ra không có kẻ chăn dắt, thân hình thô kệch, quả bất tiện, hãy mau mau tỉnh ngộ, lên thuyền từ kể rõ lai lịch”. 
Dương Sinh: Sau khi được ân sư điểm hóa, đàn voi này cớ sao lại tỏ ra kiêu ngạo tự đắc?
 Tế Phật: Chúng rất khó nhận lãnh, thầy phải hết sức vận dụng Phật lực, song thân voi quá lớn, nhất thời hồi quang phản chiếu, nguyên linh xuất hiện có chút trở ngại. Thân hình quá lớn hoạt động khó khăn, cho nên mới có triệu chứng như vậy.
Dương Sinh: Thì ra nguyên nhân là như vậy. Lúc này bầy voi đã tạm thoạt biến thân hình, hóa thành những tay “quản tượng” tức kẻ chăn voi, kẻ nào kẻ nấy tướng mạo dữ dằn, ngó thấy mà sợ. 
Tế Phật: Chúng đều là những đại lực sĩ hóa thân nên thân hình to lớn. Dương Sinh có thể phỏng vấn chúng.
 Dương Sinh:Tôi là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, phụng chỉ theo chân đức Phật Sống Tế Công viết sách Luân Hồi Du Kí, phỏng vấn để thấy rõ nhân quả, hầu khuyến hóa người đời. Bữa nay đặc biệt tới đây phỏng vấn quý vị, nếu như tự thuật nguyên nhân kiếp trước để khuyên đời, khả dĩ lập công chuộc tội, quả là cơ hội tốt, chớ có giấu giếm sự thật, kể hết lại lai lịch của mình được chăng?
 Voi Giáp:Nhờ đức Phật Sống Tế Công điểm hóa nên tôi vừa tỉnh thức, hoảng hốt nhớ lại trạng thái làm người của kiếp trước, có cơ hội lập công tôi xin thuật rõ lai lịch như sau: Kiếp trước tôi là võ thuật sư, tập võ luyện thân từ bé, do đó mà thân thể cường tráng, vì biết võ nên sinh lòng kiêu ngạo, kết giao với bọn giang hồ tà đạo, giết người không gớm tay. Có lần ban đêm vào nhà hàng ăn nhậu say sưa, lớn tiếng la lối chửi bới, coi thiên hạ như cỏ rác, khách ngồi bàn bên cạnh không chịu nổi, bèn lên tiếng: “Này bạn ơi! Lịch sự một chút đi”. Tôi nghe xong liền nổi giận xông tới đánh đập họ tàn nhẫn khiến người đó bể gan dập lá lách chết tươi. Tôi thấy chuyện không yên, bèn bỏ chạy, về sau bị bắt lãnh trọng hình.
. Sau khi mãn hạn tù, tánh ác không sửa đổi, vẫn chứng nào tật nấy hung bạo chẳng chừa, hành động gian manh khắp chốn, coi thường đời sống lương thiện, tội ác ngập trời, sau khi chết đã bị Diêm Vương trừng phạt nặng nề, còn bị đầu thai làm voi tại Phi Châu, đó là hành vi kiếp trước của tôi.
 Dương Sinh: Bị chuyển kiếp làm voi có cảm tưởng ra sao?
 Voi Giáp: Thân hình to lớn kềnh càng, xác mang rất nặng, đi đứng tốn nhiều sức, có cảm giác rất khó coi.
 Tế Phật: Thân xác, chân tay ngươi to lớn nhưng thiếu đất dụng võ. 
Dương Sinh: Voi dùng vòi để quắp đồ ăn thảy vào miệng là cớ tại sao? 
Tế Phật: Vì kiếp trước được huấn luyện thành thục nên chân tay linh hoạt, co duỗi lẹ làng, cố công khổ luyện thân thể, cho nên kiếp này mới có cái tay lạ lùng, lấy vật bắt người rất ư dễ dàng, mặc dầu coi không đẹp mắt.
 Dương Sinh: Tạo vật thần lực phi phàm, mọi việc sắp xếp thật là chu đáo, đường luân hồi muốn bỏ hay muốn đi đều do mình tự chọn, thích trái nào cứ ăn quả nấy. Xin hỏi vị khác, hành vi kiếp trước của vị ra sao mà kiếp này phải đầu thai làm loài voi?
Voi Ất:Tôi kiếp trước sinh trưởng trong rừng, chưa gột rửa hết tính dã man, khí chất hung ác, tâm tàn lực bạo, yêu một người con gái trong họ, bị cha mẹ cô ta phản đối, tôi nổi giận đã giết hết cả nhà còn cắt thịt ăn cho nguôi cơn giận, có thể nói như vậy là hết sức tàn nhẫn. Kiếp trước hành động phản đạo làm người, cho nên kiếp này phải đầu thai làm loài voi.
 Dương Sinh: Coi họ giống một người ngoại quốc thuộc bộ lạc bán khai, trên mặt có nhiều đường gạch, trông thực lạ lùng. 
Tế Phật:Con voi này là loại voi hai nanh rất lớn, đó cũng là răng ăn thịt người. Răng loài người ngắn nhỏ đều đặn, là loại răng trời ban cho để ăn rau trái, còn loại voi muốn ăn  chắc phải mài răng trước đã, chúng lại ham phá hoại khủng bố, người và thú khác biệt nhau, có thể căn cứ vào đó mà phân loại. Răng văn minh ngắn nhỏ đều đặn, răng dã man dài nhọn, sắc như dao bén. Do đó mong người đời hành xử theo trình độ văn minh, không được giấu dao hại người, tránh hành động như dã thú. bữa nay tam ngưng cuộc phỏng vấn ở đây.
Reply
#64
Tịnh Thất tu hành của các Vị Sư  Nguyên Thủy ở Ấn Độ. Thuyết minh bằng tiếng Tàu . Nghe chẳng hiểu   được , nhưng chỉ quan sát cũng đủ gây cảm xúc mạnh mẽ và nhắc nhở chúng ta giử mình thanh tịnh , dừng tâm tỉnh ý , mọi nơi ,mọi chốn . Mặc dù mình không được có thuận duyên ở nơi núi rừng hoang vắng , dể nhiếp tâm , nhưng ở nơi chốn thị thành mà tu tập thiền hành và thiền tọa , đạt được tâm thái bình yên y như các vị Sư đó , cũng rất đáng được trân trọng. Ở nơi không gian nhỏ hẹp của căn bếp hay phòng khách , lúc vắng người ,ta làm nơi thiền hành . Đi tới trong khoãng 20 bước chân rồi quay lui cho 20 bước kế tiếp. Để tâm nơi bước chân , mỗi bước chú tâm vô 4 động tác : giở , bước , đụng, đạp . Rồi đến bước thứ 2 ,..thứ 3 .Làm thật chậm rải , rất chậm . Khi tác ý và khi bước, tâm trụ ở nơi đó. Nếu hoàn toàn chú tâm , có thể thực hành đến 2 giờ đồng hồ và sau khi xã thiền , cảm giác rất mát mẽ và bình yên , hạnh phúc.

https://youtu.be/NUne7GR5kuc
Reply
#65
HỒI MƯỜI LĂM

TẠI QUÁN “CÂY CÒN” ĐÀN CHÓ ĐẦY PHẪN NỘ 
NƠI NHÀ HỌ TRẦN CHÓ TRẮNG BÁO ƠN XƯA.

 Bút giáng Thánh Đường hiện mỗi đêm.
Muôn loài khắp chốn được ban ơn .
Trời cao đang lúc ban chân pháp .
Mọi giới mau lo luyện thánh tiên.

 Thịt chó vu oan Phật Sống ăn .
Nhà nhà cứu độ thoát dương trần.
 Mong đem đạo lớn truyền nhân thế .
Thơm nức cầy tơ há dám tham..

 Tế Phật: Các loài cầm thú cùng tất cả chúng sinh là một, vì thú và người cùng ở trên mặt đất, chúng lại được trời cao ban cho quyền sống giống như người. Người đời đói biết ăn no, rét biết mặc ấm, biết đau biết đớn, cho nên cũng là loài sinh vật có tình cảm, có giác quan, sinh mệnh quả là có nhiều sinh lực. Người ta lúc không còn sự sống chẳng khác nào là đồ phế thải. Nhân loại có được loài vật thân yêu do trời sinh ra để cùng chung sống quý hóa biết bao, bởi vậy phải biết luật sống hòa đồng để duy trì mối tương quan tương ái. Loài vật hóa trang giúp loài người là những diễn viên trên trái đất, nên loài vật đã trở thành bạn đường thân thiết của loài người. Song có một thiểu số thiên lệch, không chịu nhìn nhận sự thực này, để rồi đưa đến cảnh giết chóc khiến thịt đổ máu rơi. Bữa nay thầy hướng dẫn Dương Sinh phỏng vấn một số động vật để thâu lượm tài liệu sống khuyến hóa bến mê. Dương Sinh lên đài sen, chuẩn bị khởi hành.
 Dương Sinh: Thưa, con đã sửa soạn xong, kính mời ân sư lên đường. 
Tế Phật: Đã đến nơi, Dương Sinh xuống đài sen. 
Dương Sinh: Thưa, vừa lên đài sen lại xuống ngay là tại sao?
 Tế Phật: Bán anh em xa mua láng giềng gần, bữa nay chẳng cần đi xa, tới chợ ở Đài Trung cũng gặt hái được kết quả. 
Dương Sinh: Thưa gặt hái kết quả gì?
 Tế Phật: A, thịt cầy nướng. Con hãy nhìn quán bên đường kia, trên lồng đèn có viết dòng chữ “Mộc Tồn Vương Nhục”. 
Dương Sinh: Thưa con đã nhìn thấy cái lều bán thịt chó dựng bên đường, ban ngày hình người, lòng vô cùng phẫn uất, khăng khăng đòi nợ kẻ đã giết nó, quả là hồn oan chẳng thể tiêu tan.
 Dương Sinh: Người đời thường nói ân sư lúc còn ở thế gian rất thích ăn thịt chó, bữa nay tới đây chắc hẳn thầy cũng sẽ ăn một bữa thật no nê. 
Tế Phật: Trò ngoan thật khéo pha trò, ta ăn thịt chó nhưng không phải thứ thịt chó này mà là loại chó trời, thứ đó mới chính hiệu “vương nhục” còn đây chỉ là loại thịt chó phàm tục thì làm sao có thể gọi là “vương nhục” được.
 Dương Sinh: Thưa tại sao lại gọi là thịt chó trời? Quả là lần đầu tiên con mới được nghe nói tới. 
Tế Phật: Tục ngữ có câu: “Ăn thịt cóc hủi lại ngỡ thịt ngỗng trời!”. Còn ta thì quan niệm kẻ phàm tục không được ăn thịt chó trời, vậy chó trời là gì? Sao lạ vậy? Kì hơn nữa người đời đề phòng trộm cắp, ngoài cổng lại còn đề câu: “coi chừng chó dữ”. Trong các truyện viết về Tế Công soạn giả cho người đọc thấy ta là một hòa thượng chuyên ăn thịt chó, nhiều kẻ liền tin ngay không chịu nghĩ sâu, chẳng lẽ ta đã xuất gia mà lại còn phá giới phá luật được ư! Tiểu thuyết chỉ là giả tưởng như rượu bỏ thêm men, nguyên nhân chỉ tại ta vốn là la hán hóa thân, kiếp trước đạo pháp thâm hậu cho nên lúc ở chùa Linh Ẩn bị nhiều kẻ ghét. Mỗi khi ta làm pháp luân thường chuyển, nước ngọt quỳnh tương tuôn chảy khắp châu thân, tỉnh tỉnh say say quay cuồng cùng trời đất, cho nên họ tưởng là ta say rượu. Rượu tục làm loạn trí, rượu thánh an định trí, biết bao lần ta đã cắn răng co lưỡi, chỉ đôi khi nói ít câu về thiền định, thử hỏi có gì quá quắt lắm đâu? Mua rượu phải có tiền mà ta thì lại túi rỗng. Mặc dù hai tay trắng, nhưng khi muốn uống rượu bồ đề không phải rượu thường thì ta lại chỉ cần với tay là có, không tiền cũng vẫn trả được vì đó chính là mưa pháp cam lộ tắm gội tâm linh thức tỉnh trong lành. Có những kẻ phàm tục mới uống ít chén đã say sưa ói mửa, nghiêng nghiêng ngửa ngửa ma men hành hạ cả thể xác lẫn tâm hồn. Ta là Phật Sống đồng thời cũng là quỷ say làm sao so sánh được? Còn việc ăn thịt chó thì trong mỗi con người ai chả có một con chó thực ác độc, tham dâm ngang ngược, chuyên cắn trộm chủ nhân, lỡ có thứ chó này không giết mà nhậu quách đi, còn muốn nuôi nó tới bao giờ? Người đời không rõ lẽ đó, nên đã vô tình nuôi một con chó ác độc đó trong người, mỗi lần có cướp trộm tới nó liền cúi đầu quẫy đuôi hân hoan đón tiếp, nhưng khi thấy chủ thì cắn lại liền, loại chó này ta rất thích nhậu thịt nó
 Dương Sinh: Những lời ân sư vừa chỉ dạy, ân sư đã lấy ác niệm trong tâm người đời ra ví dụ. Thứ chó ác độc ấy cũng là nguyên linh của người, vốn trong sáng thuở chưa giáng phàm biến thể thành cho nên còn gọi là chó trời. Ăn thịt chó trời biểu thị giết chết được vọng niệm, trừ khử nổi tư dục, diệt sạch được tà kiến, thưa có phải như vậy chăng?
 Tế Phật: Đúng vậy, chúng ta bất kì nằm ngồi đi đứng lúc nào cũng pháp luân thường chuyển thì nước ngọc quỳnh tương tràn đầy, chân khí bay lên như hơi men rượu bốc ngất ngây, trong lòng vô cùng sung sướng, hoàn toàn tự tại. Những tăng ni tâm ưu ý sầu, có hột bồ đề mà không biết đem trồng ở đâu, lòng chẳng nở hoa hôn mê chìm đắm không thể chịu nổi, lối tu khổ hạnh này không thể chịu nổi, lối tu khổ hạnh này vô ích. Ta có quạt bồ, quạt một cái là có gió mát trong lành. Một đôi giày cỏ, đạp khắp chân trời góc biển. Một chiếc mũ nỉ che tai về thăm nước Phật. Chuyên đánh chó dữ khuyên đời, thích nâng chén lành để tâm được tĩnh, có gì chẳng được? Người đời nếu như có lực đạo này tâm tính không điên loạn, chân tay không cuống quýt, học pháp Tế Công ta ắt thành Phật Sống. 
Dương Sinh: Thưa ân sư vừa trình bày bí quyết tu đạo, phàm những ai có lòng chắc chắn sẽ lãnh hội được chân lí. Mùa đông lạnh lẽo nhiều kẻ ham ăn thịt chó, vì họ cho rằng thân thể sẽ được nóng ấm cường dương, những người thân thể yếu đuối cũng thường nghĩ vậy, còn ân sư ăn thịt chó trời có cảm giác ra sao? Tế Phật: Vương nhục, vương nhục tại sao lại hấp dẫn người ta? Vì ăn nó vào thân thể nóng như thiêu như đốt, mà vẫn chẳng hay rằng hồn chó rên siết, quằn quại, giãy giụa, cắn nhai khiến huyết mạch trong người căng thẳng mà còn cho là bổ béo, không biết đó là tính chó hoành hành, lại còn cho là ơn ích, ăn rồi còn nhả ra chi bằng chẳng ăn có hơn không? Người xưa nói: “Tiết dục tốt hơn bồi bổ tinh dịch”. Nếu như người đời không mua thịt chó mà ăn thì ốm o gầy yếu cả hay sao? 
Dương Sinh: Thưa, thịt chó không có hương tại sao người đời gọi là “hương nhục” tức thịt thơm? Tế Phật: Kẻ bán thịt muốn đắt hàng mới gọi thịt chó là “vương nhục” hay “hương nhục” cốt để quảng cáo cho đông khách hàng. Chó hoang suốt đời không tắm, ăn xác chết sình thối cùng phân người, hãy ngửi chó thử coi hẳn là sẽ thấy hôi rình, các chủ quán thịt chó thử quảng cáo là “thịt chó hôi” xem có còn thực khách nào dám tới ăn không? Cho nên họ phải mượn cái tên đẹp đẽ “hương nhục” hay “vương nhục” là lẽ dĩ nhiên. Nếu như họ dùng dầu thơm tắm cho chó trước khi làm thịt thì cái tên “hương nhục” nghe còn có lí đôi chút. Chẳng kể chó hoang, chó có chủ thịt chúng ăn cũng không hợp vệ sinh, bởi lẽ chúng chuyên nằm dưới đất, phần đông mang đầy vi trùng bệnh hoạn, khuyên người đời chớ ăn là hơn. Còn nếu như muốn ăn thì đừng nói là bắt chước Tế Phật, vì thịt chó mà Tế Phật ăn là thịt chó trời, do chính mình nuôi dưỡng nó, ngày ngày tắm rửa, đánh răng, xức nước bông, thuốc sát trùng thuốc tiêu độc, mỗi bữa đều cho ăn loại rau có tánh dược, hàng ngày dẫn lên núi tản bộ, đêm ngủ nằm chung giường thì đó mới là chó thuần bổ ích ăn thịt mới có lợi. Một khi chó đã thân cận với mình thì tình nghĩa nảy sinh sâu đậm, chưa kể lại còn giữ cửa, coi nhà dùm, lại nỡ lòng giết một người thân cận trung thành để ăn thịt cho bổ béo thân xác, thì chẳng hóa ra là kẻ lòng lang dạ sói sao? Hành động như vậy chỉ ích cho thân mà hại cho tâm, hối hận suốt đời.
 Dương Sinh: Thưa, đệ tử thường nghe tăng chúng hay phỉ báng ân sư vì trước kia thầy thích ăn thịt chó, nay lại lớn tiếng thuyết về trai giới giữa đàn cơ khuyên dạy chúng sinh, há chẳng ngược với bản tính của ân sư sao? Hay là trước nhậu nhẹt rượu thịt quá nhiều, nay đã sửa sai, tự mình đổi mới, tạo công chuộc tội, thuyết pháp độ đời? Tế Phật: Ha ha, tăng khùng tụng chính kinh khiến đám tăng chúng giả kinh nghi ngờ. Ngày xưa ta dùng thân Phật Sống biến hóa hình thể, giễu cợt thế tục, huệ nhãn của họ chưa mở, dùng mắt tục nhìn đời đương nhiên tự dìm mình trong vũng bùn. Chúng sinh đã hân hoan nghe ta giảng chính kinh, hiện tại nếu chẳng muốn thì cớ sao lại còn phỉ báng ta?
 Dương Sinh: Bữa nay quán thịt cầy náo nhiệt vì thực khách quá đông.
 Tế Phật: Vì thân xác họ suy nhược rồi, không còn cách nào ứng phó nên chỉ còn cách cầu cứu thịt chó thôi. 
Dương Sinh: Thưa thịt chó bổ dưỡng cơ thể lắm sao? Tế Phật: Giết chó không những bị cảnh sát bắt giải tòa vì hành vi thiếu đạo đức, thiếu vệ sinh nên dù cho có bổ đi nữa thì cũng là bổ ác, chẳng phải bổ thiện. 
Dương Sinh: Thưa, vậy thì lẽ đạo đó ra sao? 
 Tế Phật: Chó rất trung thành với loài người, nên chẳng nỡ giết chó ăn thịt, nuôi gà vịt để ăn thịt thì nhiều mà nuôi chó để ăn thịt thì rất ít. Bởi vì hiếm chó cho nên những tay buôn thịt chó thường đánh bả cho chó chết rồi đem về làm thịt, nên thứ thịt chó đó có nhiều độc tố, ăn vào sinh ra nhiều chứng bệnh ngặt nghèo. Chó hoang chuyên lục thùng rác ăn đồ dơ bẩn thối tha, nên nó bị nhiễm nhiều loại vi trùng, có lắm kẻ sau khi ăn phải loại thịt của loài chó này, trúng độc không chữa trị nổi, bởi vậy người đời nên cử thịt chó là hơn. 
Dương Sinh: Hiện có nhiều chó đang kêu gào rên siết ở sau quán, thưa ân sư có nên phỏng vấn chúng không? Tế Phật: Rất cần phỏng vấn chúng, có thể phóng điển để chúng hiện hình thuyết pháp.
 Dương Sinh: Kính xin ân sư điểm hóa hầu giúp chúng hiện hình người để cùng đàm đạo.
 Tế Phật: “Chó ơi, chó ơi, các mi đều có Phật tánh, thân tuy hôi hám song nhiều người lại nói là thịt mi thơm, hãy ngẩng đầu lên, trước cái chết của thể xác chớ có kinh hoàng, oán giận, bạo tợn. Người ta không sợ thịt mi hôi mà lại còn xưng tụng là thơm, mi nên lấy đó làm hài lòng. Hãy thử nhìn xác con người sau khi chết coi, nó thối rình, không dám lại gần, chỗ thiêu xác chẳng ai bảo chốn đó thơm cả. Vậy thì được làm kiếp chó là điều vinh hạnh, hãy coi nhẹ và vất bỏ cái xác thân đã chết đó đi, mau giác ngộ bản lai tính Phật, không được kêu la rên siết hoài như vậy,  mi không cắn thân thịt của họ nổi nên họ chẳng sợ mi. Hãy chấp nhận số mệnh, thịt hôi của mi đã thoát phàm trở thành chả thơm với cái tên đẹp đẽ ‘hương nhục’”. 
Dương Sinh: Nghe xong lời dạy của ân sư, tâm linh chúng dường như được điểm hóa nên không còn thấy chúng oán hận sủa vang, mà chạy lại gần thầy trò mình mắt ứa lệ, quỳ gối, dần dần hiện rõ hình người, có nam có nữ, y phục đủ màu, nào trắng nào đen, nào cà phê sữa, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, vẻ rất thê thảm. 

Tế Phật: Ta là Phật Sống Tế Công, phụng mệnh hướng dẫn thánh bút Dương Thiện Sinh tới đây phỏng vấn, vừa rồi ta đã ban Phật pháp điểm hóa cho các ngươi, ai nấy hãy thuật rõ lại nghiệp quả của mình để chép vào sách Luân Hồi Du Kí, một là lập công chuộc tội, hai là sinh linh siêu thoát, công đức vô lượng.

Chó Mực: Cảm tạ Đức Phật Sống Tế Công đã độ hóa cùng ân ban linh quang, chúng con chẳng may bị đầu thai làm kiếp chó, ăn cơm thừa, gặm xương gặm xẩu. Mùa đông giá lạnh đã không mảnh vải che thân lại còn bị người ta đem giết, thật là đau đớn không sao tả nổi, hi vọng lời vàng ngọc khuyên can của đức Phật Sống, kẻ lòng đang muốn giết, muốn bán cùng người miệng thèm ăn hẳn tâm sẽ tỉnh, kính xin ngài giải oan nghiệt cho tất cả chúng con! 

Dương Sinh: Oan có thể giải không thể buộc. Các ngươi hiện thời thân đâu còn là thân sống mà là giả thân, nên để cho họ lấy xác, làm lông, ăn thịt cho thân họ ấm, há chẳng an nhiên tự tại lắm sao? Chó Mực: Nói thì dễ mà làm mới khó. Khi bị giết đau đớn vô cùng, lông dựng đứng hết lên. Tôi sinh tại làng Thái Bình huyện Đài Trung, một bữa chạy rong ngoài đường bị một kẻ cầm gậy sắt từ phía sau đập tới trúng đầu, bể sọ, máu chảy lênh láng, nằm lăn ra đất giãy chết. Hắn bèn lượm lên thảy vào cốp xe hơi, trong đó có nhiều đồng loại cũng đang rên la thảm thiết. Chúng tôi bị hắn chở về nhà, ở nhà đã có sẵn thùng nước sôi, chúng tôi từng mạng một bị thảy vào, có kẻ còn đang ngắt ngoải, gặp nước sôi lửa bỏng, chồm lên kêu bạn chạy trốn, rồi sau đó mới dần dần trút linh hồn, do đó sự thống hận tăng vượt bực. Bị nhúng vào nước sôi cả hồn lẫn xác đau đớn, muốn vỡ tim nứt phổi, sau đó bị lóc da, mổ bụng, lưỡi dao sắc cắt thịt nhức buốt, vô cùng kinh hoàng. Sau khi làm thịt xong người ta đem phân phối cho các quán thịt cầy, kiếm được tiền lời rất nhiều, chúng tôi sẽ tố cáo với Diêm Vương. 
Tế Phật: Thôi đừng tố cáo, hãy tự kiểm thảo xem kiếp trước như thế nào? 
Chó Mực: Thưa vâng, nghe lời khuyên của đức Tế Phật lòng con lắng dịu hẳn lại. Nhớ lại kiếp trước làm quan hành động chuyện mờ ám, chuyên tham nhũng hối lộ, thấy vợ con của kẻ thuộc cấp có nhan sắc liền thi hành thủ đoạn gian dâm, nếu như không nghe lời liền nghĩ kế hãm hại. Có một người vợ của kẻ dưới quyền con rất đẹp, con  muốn mà không được liền nghĩ, trước bỏ tù chồng, sau làm áp lực với vợ bằng cách đòi điều kiện nếu như chịu hiến thân sẽ thả chồng ra. Người vợ vì quá thương chồng nên đành chịu nhục hiến thân. Sau đó con nghĩ nếu thả người chồng ra ắt chẳng còn những dịp may, cho nên lại khép tội chồng nặng hơn, để khỏi có ngày ra tù, rồi nói dối với người vợ là mặc dầu con đã ráng hết sức lo liệu cho chồng nàng, nhưng không thể cứu gỡ nổi, do đó chẳng còn cách nào khác có thể thả chồng nàng ra được. Người vợ thấy rõ kế gian manh của con vô cùng căm phẫn và tuyệt vọng, bèn uống độc dược quyên sinh, vì con phạm tội quá lớn này, sau khi chết bị chuyển kiếp đầu thai làm loài chó.

 Tế Phật: Trước đã như vậy, giờ phải hiến thịt cho kẻ khác ăn há còn bất bình được sao? Kẻ ăn thịt ngươi, ngươi không nhận ra họ là ai sao? Đó chính là người vợ bị ngươi bức dâm nên tự sát chuyển kiếp đó, cõi u minh đã xếp đặt để cho người đó ăn thịt ngươi, thôi ngươi quên hết những nỗi giận hờn đi. Ngươi thấy người đó ăn rất ngon lành so sánh với cái thuở mi làm ác chẳng kém nhau đâu, đó cũng là lẽ nhân quả báo ứng, nên người mới ăn thịt ngươi như thế đó. Thời gian ở tại quán thịt cầy này đã lâu, thôi thầy trò mình tới nơi khác để thay đổi không khí. 
Dương Sinh: Thưa tới nơi nào? 
Tế Phật: Tới nhà số... thuộc hẻm 112 đường Đông Hưng, thôn Đông Hưng, làng Đại Lí, huyện Đại Trung, phỏng vấn một con chó rất có duyên với chủ. Thôi theo ta lên đài sen. 
Dương Sinh: Thưa, xin tuân lệnh... 
Tế Phật: Đã tới nơi, đây là nhà họ Trần, có nuôi một con chó vá, hàng ngày nó theo chủ đi đây đó, tối về ngủ chung giường với chủ thật quả như hình với bóng chẳng rời nhau. Trước đây có một độc giả của tạp chí Thánh Đức dẫn con chó đó tới Thánh Đức Đường, giới thiệu là con chó đó rất mực kì dị, khác hẳn những con chó khác, giờ hi vọng thầy trò mình phỏng vấn để nghe nó thuật rõ lại lai lịch của nó, con có muốn như vậy không?

 Dương Sinh: Thưa con muốn lắm. Bữa trước Trần Tiên Sinh và một bạn đồng tu dùng xe chở con chó đó tới bản đường tham bái Tiên Phật cùng để cho các tín hữu phỏng vấn nó, con chó đó rất đẹp đẽ, hiền lành.
 Tế Phật: Thầy điểm hóa cho nó để nó hiện hình người rồi phỏng vấn nó. “Tiểu Viên, Tiểu Viên cái tên mà chủ nhân thường thân mật xưng hô, sớm tối được gần nhau, hẳn là có tiền duyên, này chó kì dị ở thế gian ơi! Hãy thuật lại chuyện kiếp trước của ngươi”.
 Dương Sinh: Ân sư vì chó mà ban pháp điểm hóa, niệm xong câu chú, chó dần dần biến thành một người con gái mặc áo trắng thêu hoa hồng, vô cùng diễm lệ. Tế Phật: Trò ngoan có thể phỏng vấn.
 Dương Sinh: Tôi là thánh bút Dương Sinh thuộc Thánh Đức Đường ở Đài Trung, bữa nay đặc biệt theo thầy Tế Phật tới đây để phỏng vấn cô, vậy mong cô thuật lại chuyện kiếp trước cho tôi được rõ. 
Tiểu Viên: À thì ra đức Phật Sống Tế Công điểm hóa cho tôi, nên mới rồi tôi có cảm giác như vừa tỉnh mộng, giống như đương từ nơi tối tăm chợt thấy ánh mặt trời... Tôi xin thuật lại chuyện kiếp trước cũng như kiếp này tôi làm kẻ hầu nhà họ Trần. Từ bé nhà nghèo tôi phải tới giúp việc cho nhà họ Trần, vì tôi làm việc chăm chỉ cho nên được chủ nhân quý mến, tôi họ Trương tên Viên nên cả nhà gọi tôi là Tiểu Viên và tôi lấy làm sung sướng lắm. Chủ nhân đối xử với tôi thật là tốt, đã từng giúp tiền để mua thuốc chữa cho cha mẹ tôi khỏi bệnh. Vì mang ân cứu mạng song thân, dần dần tôi đem lòng cảm phục yêu thương chủ nhà, song vì lễ giáo nghiêm ngặt, tôi chẳng dám hé răng nên mắc bệnh tương tư. Từ đó thân thể suy nhược ốm yếu. Có một bữa trong cơn mê sảng tôi đã âu yếm kêu họ tên chủ nhà, người vợ chủ nhà nghe được thấy vô cùng kì quái, âm thầm dò xét tình ý của tôi nên đã rõ sự việc, liền thuật lại với chồng. Chủ nhà bèn tới an ủi tôi, khuyên tôi không nên nghĩ ngợi vẩn vơ, cố giữ cho tâm được trong sáng, cả nhà đối xử với tôi rất tốt, tôi cứ an tâm dưỡng bệnh mới là hay hơn cả, rồi mua thêm thuốc chữa trị cho tôi. Song vì căn bệnh tương tư của tôi đã lâu ngày, nên phổi bị lao, cuối cùng lìa bỏ cõi trần. Sau khi chết hồn xuống tới âm phủ, mối tình này khó quên, Diêm Vương thấy tôi bệnh tình trầm trọng, nên muốn cắt đứt nghiệp quả, song vì thời Thánh Hiền Đườn cơ chưa tới, đành phải chờ đợi tại âm phủ. Tới khi chủ nhân qua đời chuyển kiếp tái đầu thai làm người, thành gia lập nghiệp xong tôi mới được đầu thai làm chó để đền ơn kiếp trước.
 Dương Sinh: Cô đã chung tình đến mức đó, cớ sao Diêm Vương không cho phép cô được đầu thai lên làm người, để cùng người chủ cũ sống đời chồng vợ? Tiểu Viên: Vì người chủ nhà có nhân duyên chồng vợ với người khác, vả lại ba kiếp nhân quả của tôi tội nghiệp nặng nề, nên dù người chủ nhà đã giúp đỡ tiền bạc để cứu mạng cha mẹ tôi và mặc dù tôi rất chân tình song chỉ đủ làm thân khuyển mã để đền ơn thôi, chứ không đủ tư cách để chuyển kiếp đầu thai lên làm người sống đời chồng vợ. Dương Sinh: A thì ra nguyên nhân là như vậy. 
Tiểu Viên: Tôi ở quán bán chó, chủ nhân họ Trần thấy được, tự nhiên trong lòng vui thích, liền bỏ tiền ra mua tôi đem về. Ở nhà họ Trần mỗi ngày tôi một lớn khôn, hết lòng giữ nhà giữ cửa, luôn luôn làm tròn phận sự. Họ cũng đối xử với tôi rất tốt, hàng ngày tắm rửa cho tôi, vì kiếp trước có nhân duyên nên tôi và chủ nhà rất là thân mật, hình bóng chẳng rời nhau, ban ngày chủ nhân ra ngoài làm ăn buôn bán, đều cho tôi leo lên xe chở đi, mỗi bước có nhau. Ở nhà chủ luôn luôn để tôi leo lên ghế, tối đến cho tôi ngủ chung giường, chủ nhân bảo sao tôi nghe vậy liền, tới giờ đi làm tôi biết đánh thức chủ nhân tỉnh dậy, tuy không phải là vợ chồng thực sự song cũng cảm thấy vô cùng an ủi. Đó là nhân quả kiếp trước của tôi.
 Dương Sinh: Thực là câu chuyện kì lạ chưa từng được nghe giữa người và súc vật lại có thể có được. Vì hiện tại ngôn ngữ chẳng thông, chẳng rõ có điều gì muốn nói cùng chủ nhân chăng?
 Tiểu Viên: Vợ chồng chủ nhân đối xử với tôi rất tốt, nên lòng tôi vô cùng cảm kích, chỉ mong họ bớt bận rộn bởi kế sinh nhai, có dư thì giờ nghiên cứu kinh sách, gần người hiểu đạo tu tâm dưỡng tính, sửa đổi được những thói quen không mấy tốt lành, có như vậy kiếp tới mới có thể phiêu diêu miền cực lạc, hoặc chuyển sinh vào một gia đình tốt đẹp hơn. Nếu như đọa lạc không tu chắc chắn kiếp tới sẽ xuống dốc rất nhiều, khi ấy hẳn là lòng tôi đau đớn lắm.
 Dương Sinh: Hoàn cảnh này thực là cảm động, mong chủ nhân thể hiện được đời sống tinh thần trong lành để người con gái si tình kiếp trước khỏi thất vọng.
 Tế Phật: Câu chuyện người con gái si tình Tiểu Viên khiến ta xúc động vô cùng, đã thành thực thuật rõ lại hết nhân quả kiếp trước, rất có công trong việc khuyên đời, kiếp tới ban phước cho ngươi được đầu thai lên làm người tại một gia đình phú quý vinh hoa. Bữa nay thời giờ đã muộn, chúng ta chuẩn bị trở lại Thánh Đức Đường.
Reply
#66
LỜI VÀNG CỦA THẦY TÔI (phần 11) Sách trọn bộ của Đạt Ma Patrul Rinpoche . Việt dịch Lý Thu Liên.( Trung tâm Diệu Pháp Âm diển đọc)

://www.youtube.com/watch?v=K9pJO96ftXs
Reply
#67
Sư Cô NHƯ THỦY: VÀI MẨU CHUYỆN ĐẠO

https://www.youtube.com/watch?v=Hy_VYZRWkgg
Reply
#68
Ni sư NHƯ THỦY.(Giãng pháp buổi chiều)

https://www.youtube.com/watch?v=vl1nDTNXfvw
Reply
#69
Ni sư NHƯ ĐỨC  : LÝ DO ĐI TU  (1)

https://www.youtube.com/watch?v=oU41hqf_...-KShKLqJmd
Reply
#70
NI SƯ NHƯ ĐỨC : LÝ DO ĐI TU (2).

https://www.youtube.com/watch?v=D3SMWk-O...md&index=2
Reply
#71
NI SƯ NHƯ ĐỨC : LÝ DO ĐI TU (3).

https://www.youtube.com/watch?v=mW32apoV...md&index=3
Reply
#72
Tình Mẹ Con
Như Đức

        Khu vườn có nhiều tiếng chim. Chúng có thời khắc nhất định trong ngày, chịu khó để ý sẽ nghe. Buổi sáng mát mẻ, tiếng chim chích chòe lanh lảnh dồn dập: “Ngồi yên hết trơn”, “Ngồi yên quá tay”, “Vọng tưởng chút chút thôi”, “Đừng đi quá xa”. Giữa những đoạn ngắn, đôi khi chúng tuông ra một tràng: “Đôi khi cũng muốn đi lòng vòng”, “Đôi khi cũng muốn đi về nhà”… Dĩ nhiên đây là diễn dịch của người nghe, ai có trong tâm chuyện gì thì nghe ra chuyện đó.
        Thỉnh thoảng có giọng chim trầm trầm đều đều chen vào đổi tông. Không biết tại sao người ta gọi nó là chim Mồ Côi, để dịch tiếng hót đổ hồi của nó thành ra: “Père, mère, frère tout est perdu” (Nghĩa là: Cha, mẹ, anh em tất cả đều mất). Đây ắt là qua lỗ tai của một người Pháp xa xứ, cô đơn hay sao mà cho tiếng hót có nghĩa như thế. Nhân đây lại nhớ đến tiếng cắc kè. Thường buổi tối, ở góc nhà thường vang lên: “Cắc kè è è è…” Nhân tiếng đó mà người ta đặt tên, còn mấy cái âm è è ở sau nghe tức cười. Nhưng có người nói, hồi ở ngoài Bắc mới vào, nghe nó kêu như nhắc mình: “Bắc kỳ, Bắc kỳ” nhớ nhà chịu không nổi. Rồi có người cãi, tại nghe như vậy chứ rõ ràng nó kêu “Tắt đèn, tắt đèn”, chắc biểu mình hà tiện điện.
        Trở về với tiếng chim, vì vườn nhiều cây, lùm bụi rậm rạp, giang sơn riêng một thuở của nhiều giống chim. Ai biết được có bao nhiêu loài cư ngụ trong vườn, chỉ nghe tiếng mà biết chim gì, hoặc thỉnh thoảng bắt gặp một cánh chim xanh lao vút qua, biết là chim Bói Cá hoặc trong Nam còn gọi chim Thằng Chài. Chẳng nghe nó hót, có lúc thấy đậu tuốt trên đọt me, kêu một vài tiếng đục trầm. Có lẽ nó cần im lặng để rình cá. Loài không có tiếng hót hay thì màu lông phải đặc biệt một chút, để gọi là không bị lãng quên. Chim Hoàng Oanh, tên nghe hay mà giọng hót rất lạ, phải có thì giờ đi rất lâu, có khi cả buổi trong vườn râm mát, mới nghe giọng nó trong thanh. Lớn hơn chim sẻ, màu lông như mà lá vàng nhạt, chìm lẫn trong khóm cây, ít khi lộ diện. Tiếng của nó không hiểu sao người ta lại đem so sánh với tiếng thỏ thẻ của người đẹp, có lẽ làm vui tai. Chùa ở núi, có giọng chim oanh kêu, cũng gợi nên thi hứng. Vương Duy thi hào đời Đường đã từng làm bài thơ tứ tuyệt có hai câu: Hoa lạc gia đồng vị tảo Oanh đề sơn khách do miên. (Hoa rụng gia đồng chưa quét Oanh kêu sơn khách còn nồng.)
        Đủ biết tiếng chim không đủ lớn để đánh thức. Thiệt dễ chịu nếu mình ngủ lại trong một khu vườn, buổi sáng nằm nghe chim hót, với tâm trạng thư nhàn chỉ muốn nằm yên, không vội chi với cuộc đời.
        Không phải tiếng chim nào cũng hay. Có con chỉ hót hai tiếng, giọng cao xé ngang bầu trời như giọng Opera độc tấu. Nghe hơi chói, nhưng trong chốn tĩnh mịch, mấy cô đang lo chăm chăm canh chừng tâm, lại khen là nó nhắc mình: “Trí tuệ!” Hồi xưa mỗi lần như thế, Hạnh Giải lại nói với tôi: “Chị nghe không, nó kêu Trí Tuệ đó!” Tôi phải phục thầm cô em ham tu, nghe ra mọi thứ tiếng đều là Phật pháp. Trong tâm một thiền sinh thì như thế, nhưng với một người khách mới đến tò mò thì nghe ra là: “Mấy cô?” Đâu nhiều, chỉ khoảng một trăm cô, nên câu hỏi đó sẽ đổi thành: “Quá đông!” Thiệt vui khi chỉ có một tiếng chim thôi mà biến thiên theo tâm tình người nghe đủ kiểu. Chim cũng không cần biện minh, chúng hót cứ hót.
        Có một loài chiếm số đông nhất trong vườn, không có giọng hót đặt biệt, cũng chẳng đẹp đẽ sang trọng gì, nhỏ bé và ríu rít suốt ngày, ở khắp mọi nơi nhưng thích nhất là mái nhà. Chúng tụ tập ở chánh điện, bay vào bay ra, cãi nhau, rượt nhau, có khi hai con vừa đánh lộn vừa rớt xuống, bay lên mổ nhau tiếp. Tha rơm làm rớt đầy thềm, hương đăng vừa quét xong là dơ liền, ị phân lên cả bồ đoàn tọa cụ của mấy cô. Ở đậu không biết thân, mỗi khuya đại chúng ngồi thiền là nghe rộ một tràng om sòm, hoặc chúng tưởng trời sáng gọi nhau đi ăn, hoặc cằn nhằn mấy cô làm mất giấc ngủ. Hình như chúng thích ở chỗ trung tâm, nên lúc nào cũng thấy bay thấp thoáng trong sân. Ngoài vườn mấy loài chim lạ, còn chúng chỉ tụ tập quanh nhà, sà xuống sân ăn gạo, rúc vào đám cát tắm chơi nô giỡn. Hồi còn nhà ăn cũ, nhìn ra sân thấy lũ chim sẻ rúc rích nhào lộn trong cát, như con nít vọc nước, cũng vui.
        Không ai thấy chim sẻ làm tổ nuôi con ra sao, chỉ thấy thỉnh thoảng mấy con chim non chập chững tập bay rớt xuống. Thường thì chim mẹ rối rít lăng xăng hối con bay lên, mà quý cô cũng để tự nhiên cho chúng tập luyện. Rớt nhằm nhà của người, nếu cõng được thì má nó đã bay xuống cõng con lên cho lẹ. May phước là mấy con mèo còn bận ở đâu đó, không thì quý cô cũng ra tay can thiệp. Có nhiều con chim còn yếu, chưa tới lúc tập bay, lông mọc chưa đủ, bò ở trên cái tổ theo meo nóc nhà, mẹ cản không kịp nên rớt. Cả mẹ và con cùng la, tiếng hốt hoảng của chim mẹ, y như bà mẹ người thấy con mình bò gần miệng giếng. Mấy cô ngồi gần đó lượm lên, lượm vải lót vào cái rổ, cho nó nằm trong đó, đợi chim mẹ tới nhận. Chắc là chim mẹ lo lắng vô cùng, nhưng đành lẩn quẩn ở trên nhìn xuống. Mấy cô thì không biết tổ nó ở đâu, con ai mà gởi trả. Chim sẻ con nào cũng giống con nào, thấy bay đầy sân vườn, không thể đăng báo hoặc nhắn tin, Mít… Xoài gì đó. Ôi thế là mẹ con chia tay. Có cô phát tâm làm dưỡng mẫu dùm, nhai gạo mớm cho nó, nhúng tay vào nước rồi kề gần mỏ, nó chíp chíp chút nước trên tay. Nuôi không khéo nó bị sình bụng vì không quen ăn gạo sống, hoặc thiếu hơi ấm của mẹ. Mặc dù cẩn thận lót vải, đậy lồng bàn, hoặc tối bỏ vô mùng, đề phòng mèo chuột. Nhưng nuôi kiểu của người, ít khi thành công.
        Một đôi khi, rất hiếm, vài con cứng cát hơn, qua được giai đoạn ăn nhờ ở đậu, thường chỉ vài ba ngày hoặc một tuần, một hôm nào chắp cánh bay về với mẹ. Có nhớ ơn nghĩa thì xuống đậu nơi cửa sổ nhìn vào chỗ tạm trú, hoặc bay vòng vòng gần đâu đó, kiểu như thăm lại má nuôi. Viên Quang có lần nuôi được con chim rất lâu. Mỗi khi làm gạo, sàng sảy thóc lúa, đều để nó một bên. Lúc đầu nó nằm im trong rổ, sau dạn hơn nhảy loi choi mổ thóc, lẫm đẫm bên Viên Quang, đại chúng đi qua lại thấy đều trầm trồ khen. Như một cơ duyên hãn hữu, ít có con chim nào quyến luyến người lâu như vậy.
        Giờ Quá đường, sáng hoặc trưa, có con chim sẻ nâu bay vù vào bàn ăn, đậu lên vai cô này cô nọ, chộp mổ mấy hột cơm trên bàn, tự nhiên như mình cũng là thành phần trong chúng. Mấy cô cũng vui chia sớt, nó ăn đâu có bao nhiêu, nhưng với cách đậu cách đi tự tin trên bàn, cách đón đợi giờ ăn của nó, biểu hiện sự cảm thông giữa muôn vật.
        Bàn ăn của tôi vì là chức sự nên chỉ có bốn người, con chim sẻ thường ghé, chắc nó ưa ăn gạo lứt, vì tôi bỏ cơm ra bàn nó mổ hết. Lâu dần cũng nhận ra được con nuôi của Viên Quang, đại chúng chỉ cho tôi, mấy con chim khác chỉ đậu ở cửa sổ rồi đi, con này đậu lâu hơn, ngó nhìn rồi bay sà tới bàn ăn chứ không đi. Nó tin tưởng mình như vậy, và tôi tới giờ ăn, cũng hay ngó qua cửa sổ đợi một dáng chim quen. Ít lâu sau, nó không đứng ăn trên bàn mà mổ cơm rồi bay đi. Chúng bàn với nhau, nó có con rồi, nên tha cơm về nuôi con. Mà thiệt, cách nó đến đi lật đật, bay hai ba lượt, ngậm cơm rồi đi như thế, phải là đang nuôi con. Cho nó hai phần cơm, tôi nhủ thầm, mày ăn đi rồi tha về cho con cũng được. Nhưng không khi nào nó nhởn nhơ đứng ăn như trước nữa. Chúng cũng nhắn vói: “Thôi bữa nào dắt con mày về thăm chúng”. Tưởng ra ở một góc nào đó, có mấy mẹ con chim ríu rít, mẹ nó sẽ kể lại thời kỳ bị té, được mấy cô nuôi.
        Về sau, không thấy nó trở lại bàn ăn, chẳng có con chim nào dạn dĩ tới nỗi bay đến quý cô tha cơm. Hạnh Nghiêm thường rải gạo tấm ra sân để chúng tự do. Biết chắc rằng mẹ con chim không bao giờ đói. Tôi vẫn nhớ đến cách ăn của chim sẻ, lúc chưa và lúc nuôi con. Hình ảnh của người mẹ tận tụy, tình mẹ trải khắp trong muôn loài.
Reply
#73
Thiền Viện Viên Chiếu

        Thiền viện Viên Chiếu được khai sinh từ những ngày đầu tháng 5 năm 1975 (một tuần lễ sau ngày Giải Phóng) trên một khoảng rừng, thuộc xã Phước Thái (nay là Phước Bình) huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, cách quốc lộ 51 chừng 2 km.

[Image: VC_banso.jpg]        Ban sơ Thiền viện chỉ là một ngôi nhà gác lửng, chắp nối bằng đủ thứ cây rừng, tôn, lá tranh, tre, khoảng chừng hơn mười người với một mẫu ruộng nước phèn và mấy mẫu rừng dang dở. Dần dà đến năm 1982, xây dựng được ngôi chánh điện đầu tiên vách ván, mái tôn, vườn và ruộng đã ổn định thành hình từ từ, tuy nhiên vẫn còn phải đối phó với nước lụt mỗi năm, vì nằm trên dòng suối gần đập Thủy Lợi. Thiền viện đã có một quần thể gồm tăng đường, nhà kho, nhà bếp, nhà khách, số Ni chúng lên đến hơn ba chục vị. Công tác chính là ruộng rẫy thường xuyên, mỗi tháng học kinh với Hòa Thượng một ngày và học với các vị giáo thọ trong viện, vào lúc rảnh.

[Image: chuavienchieu_old.jpg]        Cho đến năm 1994, Thiền viện thay hình lột xác quan trọng. Nhờ các yếu tố thuận lợi bên ngoài, bên trong là sự dìu dắt chu đáo của Hòa Thượng cùng nỗ lực tận tình của Ni chúng. Thiền viện đã xây dựng ngôi chánh điện khang trang như hiện nay, sau gần hai mười năm lao động. Ruộng vườn đẹp hơn xưa, một mẫu lúa nằm trên cánh đồng mà trong địa bạ gọi là đồng Viên Chiếu, chung quanh là ruộng lúa của dân cư đã theo dấu khẩn hoang vào đây sinh sống. Vườn tràm, vườn đậu phọng, sầu riêng, tiêu, chôm chôm, mít, xoài, điều, chiếm khoảng năm mẫu đất.

        Số ni chúng tăng gấp đôi, sinh hoạt đã thành nếp, mỗi ngày lao động buổi sáng, buổi chiều học kinh - trừ những ngày mùa. Đến năm 1998, chương trình tu nhập thất được Hòa Thượng đưa vào Thiền viện, và một khu vực nhập thất dành cho các hành giả thay phiên nhau vào an cư tĩnh tu.

        Đến nay 1999 Thiền viện đã được gần hai mươi lăm tuổi. Đổi thay đẹp hơn xưa, đời sống tu học vững vàng, tinh thần thiền đã chỉ đạo hướng dẫn mọi lối cho người hiện tại và mai sau. Từ quyết định ban đầu của Hòa Thượng viện trưởng Trúc Lâm, cho đến ngày nay, Thiền viện Viên Chiếu sống Hòa hợp an vui trong ân đức của Ngài. Hiện tại số ni chúng gần chín mươi vị, ban lãnh đạo gồm Trụ trì: Thích nữ Như Đức, Phó trụ trì: Thích nữ Hạnh Phước, Thủ bổn: Thích nữ Hạnh Huệ và một ban Giáo thọ gồm quý vị đã sống khai hoang từ những ngày đầu và đã dạy thêm trên những trường Phật học của huyện.

        Tinh thần giác ngộ và tự lực đã thành công qua mô hình của Thiền viện. Với sức mạnh tin tưởng vào chính khả năng mình, cùng sự phát triển thuận tiện của đất nước, Viên Chiếu luôn sống nhịp nhàng bên cạnh các Thiền viện do Hòa Thượng viện trưởng Trúc Lâm lãnh đạo.

Viên Chiếu 1999
Reply
#74
Viên Chiếu Thuở Vị Thành Niên
Hạnh Đoan
        Khi khu vườn Viên Chiếu hoa nở ngát hương, những cánh chim trưởng thành lần lượt tiếp sức đầu đàn dắt dìu đàn em, thì người ta luôn bắt gặp những nhân dáng trang trọng, nghiêm túc để có thể xứng đáng làm mô phạm cho hậu sinh, nên ít ai biết, tưởng tượng được đến cái thời đầu ngô nghê của Viên Chiếu, cái thuở vị thành niên còn nhiều bất toàn, và nụ cười hồn nhiên còn rộn rã ngân vang.
        Từ Bát Nhã xuống Viên Chiếu, mỗi người được phát cái thùng giấy to để đựng “gia tài sản nghiệp” gồm ba bộ đồ, mùng mền, vật dụng tùy thân. Chỉ có cái đơn cô Đức là vật thể an toàn duy nhất, nằm giữa trung tâm cái cốc lá râu ria, đựng đủ thứ đồ hằm bà lằng, gồm tài sản riêng cô và của chung cả chùa – nghĩa là ngoài chiếc thùng giấy – chúng tôi cần gì cứ giở đơn cô ra lấy: tập vở, đơn từ, dây thun luồn quần, kim chỉ, nút, viết…
        Tôi xuống Viên Chiếu chậm sau mấy chị cả tháng, nhưng chỗ hành lễ vẫn chưa thiết lập, nên thời kinh đầu của tôi diễn ra trong cái mùng tập thể giăng trên gác, cái mùng có sức chứa năm sáu người ngủ, vẫn khá rộng để chúng tôi ngồi tụng kinh. Tới giờ, chỉ việc ôm mõ chuông vào mùng, ngồi tụng ê a, đọc Tam tự quy xong là đã có thể ngã lăn ra, nằm bẻ tay chân lắc cắc trong mùng.
        Tuần lễ sau, chỗ lễ lạy được thiết lập với bức hình Tổ Đạt-ma treo sát vách lá dừa, phía dưới là cái kệ đơn sơ để mõ chuông, án hương. Chúng tôi đã có thể đắp y áo hành lễ chỉnh tề, nhưng đây vẫn là thời nở rộ đủ trò nghịch ngợm.
        Chị Minh Ánh có lần cạo đầu cho cô Đức đã ranh mãnh chừa lại ba vá làm gương mặt cô trông giống hệt hình vẽ mấy tiểu yêu của Hồng Hài Nhi, rồi chị cũng bị cô Hoa chừa lại cho một vá trên đầu giống hệt cái bàn chải chà chân. Rồi lúc hành lễ, khi giọng tán Phật của cô Đức xướng vút cao, kéo ánh mắt chúng tôi bay bổng lên và dừng lại nơi các vá, chóp, dựng đứng chơm chởm ai cũng phải tủm tỉm cười. Dù chúng tôi có thế nào thì gương mặt của đức Thế Tôn vẫn bao dung muôn thuở.
        Rồi các vá chóp kia cũng được tẩy sạch sẽ. Chuyện cạo đầu tưởng như đơn giản nhưng cũng trở thành vấn đề khi cô Đức buộc phải xin phép Thầy cho chúng tôi mỗi tháng cạo một lần, thay vì nửa tháng.
        Dao lam khan hiếm nên phải nhờ quý thầy Thường Chiếu mài lại cho chúng tôi xài. Tội nghiệp! Chắc là quý thầy mài mỏi tay, vì tháng nào cũng phải mài cho chúng tôi có mà thí phát (hết mài phảng cho chúng tôi phảng cỏ thì lại phải mài dao cho chúng tôi… “phảng” đầu.)
        Đôi khi chị Huệ cũng ra sức mài phảng cho đỡ “báo đời” quý thầy, nhưng chắc chắn là không thể nào bén ngọt bằng Thường Chiếu mài cho. Tôi hỏi chị Huệ:
        - Chị biết mài dao lam không?
        - Chịu thôi! Chỉ có quý thầy biết! Dao lam khó mài lắm!
        - Mài sao hả chị?
        - Tui thấy thầy Thiện Trung bỏ vô cái ly mài mài!
        Thầy mài thiệt hay, dao mài về bén ngót. Nhưng tóc mỗi tháng mới cạo một lần, dao mài đi mài lại, lướt trên mười mấy cái đầu chúng tôi nghe rồn rột cứ như nạo dừa, thỉnh thoảng nó có dằn xóc như xe dằn ổ gà, khiến người được cạo đầu cuối cùng mặt nhăn thấy mà thương.
        Sau đó không biết ai biếu cho chùa hai cái tông-đơ - nghe tới tông-đơ chớ có mà tưởng bở. Gặp tông-đơ lụt và chưa giỏi sử dụng thì sẽ là kẹp, giựt, nhổ… tóc “chứ không phải hớt tóc đâu”. Hồi nhỏ có lần thấy cái tông-đơ, tôi liên tưởng ngay đến cảnh “đẩy ngọt xớt” của các bác thợ cạo và hứng chí cầm nó lên “thử nghiệm” với chị tôi. Sẵn cái đầu chị tới tháng cạo, tôi cầm tông-đơ tới, kề sát vào đầu chị và đẩy một phát, chắc mẩm là chị sẽ vui sướng, nồng nhiệt khen ngợi tôi, nào ngờ chị nhảy dựng lên hét:
        A, á! mày muốn ám sát tao đấy hả?
        Nói vậy là đủ để hiểu chế độ cạo dao lam ngưng thì cái đầu đáng thương của chúng tôi phải nếm đủ mùi “tra tấn, hành hạ” của tông-đơ do những bàn tay chưa thạo nghề mà sử dụng tông-đơ lụt (Tôi chẳng nghe nói đến việc mài tông-đơ bao giờ). Chị Huệ “hành nghề” đỡ đau hơn những thợ tay ngang khác, nhưng muốn chúng tôi đỡ đau thì chị phải gồng kềm cái tông-đơ, cho nó đừng nhổ tóc, buông tông-đơ ra mu tay chị đỏ chạch đến tội. Rồi dần dà các thợ cạo Viên Chiếu sử dụng tông-đơ thuần thục, chị Huệ vẫn còn đỏ tay nhưng chúng tôi đã hết đau. Song tôi vẫn thắt thẻo thương nhớ cái dao lam: - Ôi dao lam! Em đi đâu? Về đâu? Cho nên nổi…?
        Rồi trong buổi họp thường nhật sau khi thỉnh nguyện, thêm một tin mới: Phải tiết kiệm xà- bông tối đa, có thể sẽ không có để mà xài nữa! Chị Hạnh Thanh mách:
        - Em thấy bông tràm ngâm cũng ra bọt nhiều, giặt đồ được lắm!
        Có người hiến kế nên xài nước tro nhưng tính ra ngâm bông tràm có vẻ sạch sẽ hơn, song dễ làm mục đồ. Chỉ thời gian ngắn, chúng tôi được xài xà-bông lại, mỗi người được cắt chia một cục nhỏ, nếu ai xài hết trước thời gian ấn định thì ráng mà nhịn, nhưng chúng tôi đều biết cách tiện tặn, nên không đến nỗi nào.

        Có lần tôi được cô Đức cắt cho công tác rất ư là phong lưu: Đi mua đồ “hợp tác xã” cái xã chút xíu thời ấy làm gì có “thương hiệu” mà “hợp tác”? Nói cho oai vậy chứ, thật sự là ra nhà bà Năm Quán sắp hàng chờ mua đồ! Tôi sắp hàng ngót hơn một tiếng thì được gọi tên tới đóng tiền mua được gói hộp quẹt diêm và mười mấy mét vải xoa màu xanh chói mắt (không lãnh phải vải hoa là may rồi) Hợp tác xã bán gì thì lãnh thứ ấy. Hồi đó vải hiếm nếu có thì cũng mắc, sắp hàng mua nghe như cực, nhưng giá bán rẻ hơn ở chợ nên cũng đỡ (có còn hơn không mà!) Thế là vải đem về chị em chia nhau, mỗi người may được một cái quần, đi nghe sột soạt như “Liên khúc quần xoa…”
        Mùa đậu, chúng tôi kéo hơn nửa chúng ra làm rẫy gần đất Thường Chiếu. Trên đường đi, chiều gió lộng phả hơi me ngào hấp dẫn từ ngõ nhà bà Tám Đời, chúng tôi dừng lại, bu quanh chảo me ngào (Hồi đó, mỗi lần đi công tác xa chùa thường đưa cho người lớn nhất trong nhóm giữ ít tiền dằn túi để phòng có sự cố). Tôi nghĩ là cứ ngắm quà bánh thì chẳng có tội vạ gì, nhưng chị Huệ đã mua mấy đồng me ngào, bà hàng múc cho một dúm (to cỡ nửa bàn tay) bỏ vào miếng lá chuối, chúng tôi xin thêm mười mấy que tăm cùng xúm xít thưởng thức me ngào đến liếm sạch lá, lần ấy tôi đã âm thầm “nể” chị Huệ mà không dám nói ra (nể vì chị dám xài sang hào phóng mua me cho chúng tôi để cùng “ăn hàng tập thể”. Bởi ngân phí vốn eo hẹp, mọi thứ quà vặt đều là xa xí phẩm, chỉ nên nhìn chứ không nên với tới, lần này cùng nhâm nhi me, mặt ai cũng tươi roi rói, khiến người ta phải buột miệng khen: “Mấy cô tu sao mà vui quá”.
        Thường Chiếu thương em út, lâu lâu có cái bánh hay món gì ngon cũng nhắn chúng tôi ra ăn. Đi công tác hay ra Thường Chiếu dự “tiệc”, chuyện lội bộ đi sớm về khuya là chuyện thường. Đường bộ hồi ấy vắng hoe vắng ngắt, càng về khuya chỉ có chúng tôi là khách lữ hành, cái máu văn nghệ lại nổi lên, chị Huệ hát thật hùng: “Không phải là lúc ta ngồi mà chờ có được tốt đẹp. Mà phải khởi từ nhọc nhằn hay gian khó…”, tiếng hát xua tan cái lạnh giữa đêm thâu, rồi chị em cùng nắm tay nhau ca bài: “Nối vòng tay lớn” của Trịnh Công Sơn, dưới ánh trăng khuya vằng vặc soi đường.
        Trăng ở rừng luôn huyền ảo và đẹp mê hồn. Do vậy mà xả thiền xong, vừa rảo rảo đi kinh hành chợt nghe vang lên tiếng hát của một người say trăng: “Đêm nay trăng sáng quá ai ơi” Còn đang ngơ ngẩn thì đã nghe bồi tiếp: “Gác trọ về khuya trăng gió lùa”. Giọng hát êm êm và thật du dương, đích thị là giọng của cô Đức! Chúng tôi ngứa cổ phụ họa theo: “Trăng gầy nghiêng bóng cài song thưa”, nhạc “Ráp” được hình thành, kết nối bởi những câu ngắn ngủi để diễn tả cảm xúc dạt dào với trăng. Thời ấy, ở độ tuổi sung sức dư hơi hát hò, nên giọng ai cũng hay cực kỳ ! Khó mà cấm được màn hòa tấu văn nghệ đột xuất. Chị Minh Ánh còn ráng chen thơ thẩn vào với cái giọng Quảng chắc nụi: “Tối nay có một nửa trăng thôi. Còn nửa kia ai… cắn mất rồi?”
        Màn hợp tấu kết thúc, chúng tôi lục tục đi ngủ. Đêm vào khuya chỉ còn lại tiếng côn trùng nỉ non và mảnh trăng vắt ngang lưng trời dịu dàng tỏa sáng.

        Chúng tôi đang dùng cháo chiều, cô Đức từ ngoài ngõ đi vào, thả túi xách xuống đã kể ngay:
        - Trưa hôm qua chị với Giải Thiện đón xe đi thành phố, chờ hoài không thấy xe, gặp ông cà-rem đi tới chị mua cho mỗi đứa một cây, vừa mua xong thì xe trờ tới.
        - Vậy rồi sao hả cô?
        - Thì phải lên xe với cây cà-rem, chị đứng quay vô kẹt, che cái nón lá để ăn - nhưng mà không có yên – thằng nhỏ ngồi trên xe khóc ré lên, hét đòi:
        - Ba, cà-rem! Cà rem!
        Ba nó nhìn dáo dác, ngơ ngác hỏi:
        - Cà-rem đâu con?
        Nó chỉ tay về phía chị:
        - Đó! Cà-rem! Cà-rem!
        - Thiệt mắc cỡ muốn chết!
        Cà-rem thời ấy có khi nửa ngày mới gặp bán một lần, nghĩ đến cảnh cô Đức leo lên xe với cây cà-rem “bỏ thì thương vương thì tội”, chúng tôi thấm ý cười dài.

        Mỗi khi làm ruộng mệt cô Đức thường ngồi trên bờ đê hát: “Ta đã thấy gì trong đêm nay, cờ bay muôn ngọn cờ bay”. Ban ngày, nên tôi chẳng thấy cờ mà chỉ thấy mạ xanh rờn tít tắp, nhưng giọng ca êm nhẹ của cô rất hay. Dòm cái mặt ngẩn ngơ của tôi, cô mỉm cười nói:
        - Để chị dạy cho mà hát: Nào! Thùng thung lủng, thùng lủng thùng bể, thùng thung bể, thùng bể thùng lủng, thiếc thau thau thùng… thùng thau! Âm điệu vui nhộn của cô làm tôi khoái chí vỗ tay đôm đốp nhịp theo.

        Thời gian đầu Viên Chiếu ăn toàn tương do cô Giải Thiện chế biến, tương cô làm ăn hoài không hết, dù chỉ có một hũ nhỏ, bởi lẽ cô cứ nấu nước muối đổ vô khi nó vừa cạn. Chị Thủy thường gọi là tương “chồn”, tương mới làm gặp mưa dầm khí ẩm màu lờ lợ mùi lại hăng hắc. Cô Thiện thuộc dạng đảm đang khéo léo nhưng bị hai chữ “tiết kiệm” trói tay, vả lại, có một câu thành ngữ quen thuộc: “Ai khéo mấy vô Viên Chiếu cũng phải bị tổ trác”. Đó là lí do tương có mùi khó ngửi và màu sắc không giống ai, thêm màn nước muối đổ vô hoài, ăn riết chịu hết thấu, chị Thủy nhăn nhó phản kháng:
        - Giải Thiện Này! Mi đừng lén đổ nước muối vô tương nữa, ăn hết nổi rồi!
        Cô Thiện cười hì hì và sau lần kêu rêu đó tương “chồn” mới cáo chung.
        Cô Thiện xuất thân từ “lò” miền Trung nên kiểu tụng niệm của cô có âm điệu rất hay cộng thêm âm thanh “chuông vàng” trời phú. Nhưng ở Viên Chiếu thời gian lâu, bị cách tụng “phang ngang” của chúng tôi ảnh hưởng, cô than thở:
        - Ôi! Thiền tông làm hư cái giọng em! Về ngoài nớ tụng ai cũng cười em hết!
        Dù vậy mỗi khi cô hô chuông tọa thiền, nhiều Phật tử đến chơi nghe được đã buộc miệng xuýt xoa:
        - Trời ơi! Cái giọng nghe như tu đâu mười kiếp rồi vậy! Nghe là muốn đi tu liền!
        Quả thật tiếng niệm, kệ chuông của cô khiến người nghe mang cảm giác lâng lâng siêu thoát. Nhưng có một lần tiếng cô đã làm tôi bủn rủn tay chân, hồn phi phách tán. Ấy là vào một đêm khuya không trăng, tôi kinh hoàng lạnh cả xương sống vì tiếng ré inh ỏi của hai giọng nữ the thé lanh lảnh: Cháy! Cháy! – Đúng là giọng thanh tao xuyên suốt từng truyền cảm của cô Giải Thiện, giờ đây nó đang truyền sự kinh hãi tột độ bởi âm thanh được bật lên vào lúc 0 giờ với tâm tư cực kỳ hoảng sợ, thừa sức làm rởn óc người nghe. Thêm vào đó là tiếng hét như còi cứu hỏa của chị Thủy cũng không thua kém! Hai âm thanh nữ này “hợp xướng” đủ để tôi bật dậy như cái lò xo, rụng rời hết tứ chi, không còn biết đâu là cửa mùng để chui ra, và mình đang hiện diện ở chốn nào nơi trần thế? Cuối cùng tôi cũng chui ra khỏi mùng (sau khi đã đâm đầu vào vách lá dừa mấy bận). Tôi thấy người leo lúc nhúc nơi cầu thang ọp ẹp để tiến đến gác (trung tâm của điểm cháy).
        Nguyên do là cây đèn dầu bé tí nơi kệ thờ nổi hứng phựt lửa cao táp vào bức hình Tổ Đạt-ma treo sát vách lá. Thật may, đúng ngay lúc ấy cô Đức trở mình quay qua bắt gặp, cô vội la lên. Thế là một loạt báo động của những kẻ còn đang say ngủ, mắt còn nhắm, nhưng miệng đã la được inh ỏi, đủ sức dựng tất cả thức dậy cứu hỏa. Cô Hoa bình tĩnh nhất, giường cô nằm kế tôi ở dưới đất; nhưng cô đã leo lên gác tự lúc nào và đang chỉ huy dập lửa. Chị Phượng lúc ấy ở Sài Gòn ra chơi cũng xăng xái phụ chữa lửa bằng cách xách một thùng nước, leo lên cầu thang trao tận tay cô Hoa. Cô nhanh nhẹn đón lấy và thảng thốt la lên:
        - Trời đất! Sao đưa chị cái thùng rỗng, không có nước?
        - Hả? Hơ!... Quýnh quá em quên múc nước!
        Khi lửa được dập tắt xong thì thiệt hại chỉ là bức hình Tổ Đạt-ma, hình vẽ Ngài cháy hết, còn trơ lại chiếc giày (nhờ quảy ở trên cao). Chị Thủy hí hoáy ghi vào nhật ký: “Tổ Đạt-ma nhập Niết-bàn hồi 1 giờ khuya để lại chiếc giày”.
        Thật may mắn cho chúng tôi, lửa phựt cháy giữa khuya, vách là lá dừa, sàn toàn ván thông, đều là các thứ dễ bén lửa, nếu không có cái trở mình nhiệm mầu của cô Đức và tài chỉ huy chữa lửa kịp thời của cô Hoa thì thiệt hại không phải nhỏ!
        Kiểm điểm tổn thất sau cuộc cháy xong, chị em nhìn nhau cười rạng rỡ, vì rõ ràng may nhiều hơn rủi, vách lá mọi thứ đều còn y nguyên, chỉ có Tổ là… hy sinh.

        Rồi Huệ Chiếu được thành lập, tình giao hảo của các thiền viện luôn thắm thiết. Huệ Chiếu sinh sau vẫn tiếp nối truyền thống ăn độn. Xuống thăm Huệ Chiếu lúc nào cũng thấy bằm khoai lóc cóc. Khoai mì, khoai lang phơi đầy từ sân ra ngõ, vậy mà hễ có gì ngon là cô Minh (Trụ trì chùa Kim Liên bây giờ) ít khi chịu hưởng một mình, cô luôn hào phóng, bắn tiếng mời chúng tôi xuống dự. Chẳng hạn “sắm” được mớ nấm với ít đồ lê-ghim để nấu nước lèo, cô sốt sắng mời Viên Chiếu xuống ăn mì gói. Gia tài Viên Chiếu chỉ có vài chiếc xe đạp, dù đường lộ đã có xe khách đi rải rác, nhưng cái túi tiền không cho phép chúng tôi “sang cả” ngự trên xe. Thế là chị em kéo nhau lội bộ xuống Đại Tùng Lâm dự “yến tiệc”, tất nhiên phải đi vào ngày nghỉ công tác. Sáng đi, trưa đến, chiều về, tô mì gói cũng tiêu hóa theo từng bước chân cuốc bộ. Nhưng cái chính là tấm lòng tốt của những vị pháp hữu luôn còn mãi và đến bây giờ vẫn chưa tan trong tôi.
        Thời ấu nhi của Viên Chiếu tất nhiên là không giống lúc trưởng thành. Những người tuổi trẻ thuở xưa nay đã tóc bạc, mặt nhăn, vai mang đầy trọng trách; không còn luyến lưu gì với trò chơi bong bóng nước và những thú vui đùa ngày nhỏ.
        Xưa và nay dẫu có cách biệt thì vẫn còn một điểm chung để giống. Đó là cái tâm trong sáng, giàu lòng từ ái, chính cái tâm này đã giúp cho Viên Chiếu sống an hòa dù ở bất cứ thời điểm nà
o.
Reply
#75
Nhật ký Viên Chiếu
Như Đức
          Ngày mùng một năm Nhâm Thìn (23.01.2012)
          Đêm Giao thừa, đại chúng đã cùng nhau ngồi thiền từ 7g30 đến 11g30. Tuy nhọc mệt nhưng ai cũng cố gắng ngồi vì những lao xao ồn ào của tâm cứ dấy động không ngừng nghỉ, cần ngồi để lắng. Có người buồn ngủ ghê lắm vì mấy ngày cuối năm bao nhiêu việc dồn dập, thôi thì cũng cứ ngồi đại trên bồ đoàn vì “ngủ là ngủ, tu là tu”.
          Đêm cứ khuya, một đêm của cuối năm có nhiều ngôi sao cùng thức với nhau trên bầu trời trừ tịch. Gần 12 giờ, một trận mưa nhẹ lất phất bay qua, mình chợt nghĩ năm nay là năm rồng, bầu trời nhiều mây, chắc là một ông rồng nào đó mới vừa thử nhá tín hiệu. Đại chúng cùng lễ vía Phật Di-lặc đón giao thừa. Chánh điện có một cái trống mới, đầu tiên khai trống lễ Phật, chuông trống vang lên giữa xóm làng tịch mịch. Lễ Phật xong là gần 1g sáng, bắt đầu năm mới, mình đã lăn đùng ra ngủ. Không biết tại sao phải ngủ mới chịu nổi với cuộc đời? Rồi nghe mơ hồ ba hồi kiểng thức chúng, hình như Hạnh Huệ đã đi hô thiền canh năm, mình thì còn nằm trên giường. Lạy Phật con xin sám hối! Mở choàng mắt ra thấy gần 5g sáng. Hôm nay hẹn ra đảnh lễ Hòa thượng, ủa sao mọi người vẫn còn nín thinh. Lật đật cuốn mùng xếp mền, tỉnh hơn một chút vì biết hôm nay sẽ rất nhiều việc. Xuống bếp một vòng nhìn lửa cháy trong lò, chỉ là thói quen thôi, trở lên nhìn đồng hồ mới 4g rưỡi. Ồ, được lời nửa tiếng, mừng quá, nhờ nhìn lầm đồng hồ mà dậy sớm.
          Xe chú Ánh chở ra Thường Chiếu trời vẫn chưa sáng, vẫn còn đèn đường, một vài chiếc xe chạy sớm. Hôm nay là ngày đầu năm, lần đầu tiên chúng mình xếp hàng lễ Phật, lễ Tổ. Thường Chiếu uy nghiêm một vùng. Ngồi chơi một chút, làm khách một chút, cùng huynh đệ chuyện trò để đợi đảnh lễ Hòa thượng. Thấy bóng người đắp y vàng quanh thất, cùng đại chúng vội tề tựu, không ai nói ai nhưng cùng hiểu là không thể chần chờ. Nhìn qua khung cửa kiếng, bên trong các vị thị giả đảnh lễ Hòa thượng, hình ảnh rất cảm động. Hòa thượng còn cho phong bao lì xì, ai nấy mặt mày rạng rỡ. Quý Ni sư Linh Chiếu, An Lạc, Hương Hải dần có mặt rủ nhau vào trong thất đợi Hòa thượng. Mình cũng biết mới sáng sớm Hòa thượng chưa ăn điểm tâm, vậy mà bầy con đã kéo đến. Một năng lực từ bi bao quanh đại chúng, cùng rạp mình lễ lạy, lời chúc tụng thầy được khỏe, sống lâu với chúng con để chúng con nương tựa vững bền. Hòa thượng nhìn từng gương mặt, không nói gì nhưng hiểu rõ ước vọng của con cháu. Mỗi người cũng được phong bao lì xì giống trẻ nít được quà.
          Yên tâm về Viên Chiếu để lo cho một ngày đầu năm. Các em Gia đình Phật tử chúc Tết, hàng xóm láng giềng người xa kẻ gần đến viếng chùa chúc mừng, đãi nhau dưa hấu đỏ, bánh tét dưa món. Năm nay thức ăn nào cũng ngon, hay là tại đói bụng nên ăn ngon? Nếu Hòa thượng ở Trúc Lâm Đà Lạt thì sau 12g trưa đại chúng một số đã lên xe dong ruổi đường xa. Sẽ đến Hương Vân khoảng 8g tối, cùng gặp mặt các huynh đệ thiền viện tông môn để sáng mồng 2 đảnh lễ. Năm nay, sẽ không là như vậy. Biết rằng mọi thứ không có gì trùng lặp, nhưng đến chiều vắng khách, gọi điện thoại cho Hạnh Như, chỉ để nói rằng “Nhớ Tết Đà Lạt”.
          Chiều tối 6g, đại chúng đảnh lễ quý Thầy, cùng dặn dò nhau ráng tu, để coi, Hạnh Huệ có nói rằng năm nay là năm rồng. Rồng chuyên coi việc làm mưa, theo truyền thuyết, không cần phải hút hết nước biển mới có mưa, chỉ cần phun một ngụm nước là có mưa ngay. Chuyện Tây Du Ký kể như vậy. Đại chúng nên phun ra những đám mưa, không cần tốn khí lực mà hiệu quả vô cùng. Để xem thử tu cách nào mà vừa khỏe vừa có lợi.

          Ngày mùng hai (24.01.12)
          Những ngày Hòa thượng dưỡng bệnh ở Thường Chiếu thật ấm cúng. Sáng nay đại chúng cũng được đi đảnh lễ, những người hôm qua chưa đi. Nếu Hòa thượng ở Đà lạt, mỗi lần đi nhiều nhất cũng chỉ được 25-26 người, một năm chia làm sao mà ai cũng được gặp Hòa thượng một lần. Trong sổ chia phiên, lần cuối đại chúng đi Đà lạt là ngày lễ vô hạ, nhằm Phật đản. Đi bất cứ nơi đâu, gặp Hòa thượng là mọi người đều hoan hỷ. Chiếc xe 15 chỗ nhưng nhét 30 người không kể tài xế, khi xuống xe tại nhà khách Thường Chiếu cứ thấy người bước xuống hoài không ngớt. Gặp sư già H. Liễu, đi từ Long Hải đâu từ hồi khuya, đảnh lễ thầy rồi bây giờ cũng nhập đoàn theo vào.
          Đại chúng sắp hàng đứng bên ngoài, trụ trì vào trước trong thất, thầy đang dùng sáng. Hôm nay ăn cháo đậu xanh và một món đồ kho, hai Ni sư Linh Chiếu cũng có mặt đứng sau lưng. Thầy ăn chầm chậm, mọi thứ chung quanh được giữ cho yên lặng không được hối thúc vội vã. Người già bệnh dễ bị sặc, bị mắc nghẹn, bị ho… mỗi lần như thế đệ tử lo lắng vô cùng. Nếu thầy nhìn ra ngoài thấy có người đứng lấp ló thì sẽ phân tâm, sợ đệ tử con cháu đứng lâu, ăn nửa chừng không đủ lượng. Thị giả toan tính chu đáo, thầy ăn xong phải đưa đi một vòng trong thất, nếu thấy có khách lại không chịu đi, nên dặn người đứng chờ phải ẩn khuất, đừng lố nhố đông nhiều.
          Hạnh Nguyên, H. Nhàn, Thuần Kim cũng đến, cùng chờ được đảnh lễ, khi thầy được đưa ra cửa phòng thì mọi người đã nhanh nhẹn tề tựu. Hôm nay có H. Nguyên đại diện chúc Tết, chúng quỳ sát rạt kín ba bên bốn phía, được gặp và được cúi lạy ở gần, vẻ trang nghiêm pha đôi phần cảm động chân thành. Thế là đại chúng Viên Chiếu đã được đảnh lễ đủ hết, một ước ao nhỏ như vậy cũng phải đợi biết bao lâu. Nhớ những năm xưa, mỗi lần mùng hai tết ra Thường Chiếu, cả một rừng y áo vàng tăng ni, Phật tử bao quanh, những gì tốt đẹp nhất trong một năm được thể hiện nơi đây.
          Mọi người lần lượt ra về, bên những cội mai vàng in bóng áo lam, thôi thì mừng vui nho nhỏ như thế cũng tạm an ủi tấm lòng. H.Huệ đưa các em huynh trưởng thiếu nhi đảnh lễ Hòa thượng, các em dồn tiền lì xì để cúng dường, H. Như ở Hương Vân về cũng kịp thời. Thăm và đảnh lễ thầy trụ trì Thường Chiếu, mấy hôm nay thầy bị chóng mặt đi đứng phải vịn, bước lừng chừng. Thị giả nói, vì thầy làm việc quá tải. Thầy bảo mấy đứa nhỏ hát cho thầy nghe, rồi khen hay giống như ca sĩ nào đó. Tụi nhỏ về kể lại mặt mày hí hửng, tiếc là không hát cho Hòa thượng nghe. Ờ, không ai nghĩ ra chuyện này, một phần vì sự nghiêm trang cẩn thận trong thất. Có thể hẹn một dịp khác được không? Mình sẽ tính tới chuyện này.
          Nhà khách Viên Chiếu năm nay trưng bày đơn giản, có mô hình tổng thể của viện, Truyết và các thiếu nam đã gắn từng cây tăm chuốt nhỏ, mấy em có sáng kiến làm mấy chiếc honda nhỏ dựng bên sân chùa, y như thật. Nơi bàn tô màu, viết chữ thư pháp được các em chiếu cố tận tình, bé nào ghé vào cũng đòi ở chơi, ba mẹ níu mấy cũng cứ dùng dằng. Màn hình chiếu lại sinh hoạt Viên Chiếu, ai muốn xem thì xem, film tự do và tự sáng kiến của mấy cô. Khách đến và đi lớp này lớp nọ, cười nói và chúc nhau. Người lớn chúc bé con mau lớn học giỏi, bé con chúc người lớn khỏe mạnh sống lâu. Những nếp sinh hoạt tốt đẹp như vậy vẫn còn giữ được. Đại gia đình Tấn Phương vào thăm, kể lại hồi xưa xa lắc xa lơ, lúc Tấn Phương có chiếc xe cải tiến chở vật liệu, chở tro, chở Viên Chiếu đi tắm biển Long Hải. Đi cà rịch cà tang từ bốn giờ khuya đến trưa mới tới, hồi đó chưa có Chơn Chiếu, tắm ở chỗ Tịnh xá Ngọc Hải. Bây giờ là một ông chủ tóc pha sương, các em đã lập gia đình thêm con cháu. Tấn Phương gọi Hòa thượng là bác ruột, mỗi lần vào thăm đầy nhóc một nhà, Hòa thượng phải hỏi đứa này đứa kia tên gì, không sao nhớ hết. Mấy đứa bé vô tư nhìn ông bác của mình, trẻ và già là hai đối cực của đời sống. Rồi một lúc nào đó không cần nhớ hay quên, mọi thứ cứ trôi đi, thản nhiên mà trôi đi.
          Muôn việc nước trôi nước
          Trăm năm lòng nhủ lòng.
          (Trần Nhân Tông)

          Nước đã là một thứ trôi chảy, mà còn có thứ trôi chảy hơn nó. Tâm tình người ta là một thứ ưa lưu giữ, ưa chứa cất. Đem cái trôi chảy mà lưu giữ với vô cùng. Ngày hôm nay đã là như thế rồi, một ngày như chớp bóng, như phim ảnh. Buổi tối đại chúng miễn tụng kinh ngồi thiền để xem film, giải trí ba ngày tết, cười đùa với các nhân vật vừa xuất hiện trên màn.

          Ngày mùng 3 (25.01.2012)
          “Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy” nhân gian truyền tụng như vậy. Tất cả các đạo tràng kéo nhau ra thiền viện, rộn ràng từ sáng tới chiều. Thầy Giác Thiên ghé thăm lúc 10g sáng, gặp lúc vắng khách nên ngồi ca hát khí thế bừng bừng, thầy lì xì cho mỗi người một phong bì, trong đó có một câu trích từ Tín Tâm Minh, từ Chứng Đạo Ca. Rất tình cờ cũng đôi lúc phù hợp, thầy lấy câu “Tròn đồng thái hư, không thiếu không dư...” làm chủ đề giảng cho chúng. Câu này rất hợp với Viên Chiếu, vì lúc nào cũng tròn trịa. Thầy nói như một chai nước đầy, đầy ứ và đậy nút thật chặc, dù lắc cách mấy nước cũng không chao động. Thí dụ này dễ hiểu. Sở dĩ mình bị chao động lung tung và tâm mình không được tròn đầy, vì còn có chỗ cho vọng khởi, có quá nhiều mong muốn tham cầu, vì thiếu nên mới tham cầu, từ đó đụng chỗ nào cũng thấy bị lúc lắc, long đong. Nếu tâm thấy đã đủ, đã vừa rồi, chẳng còn khoảng trống nào cho vọng khởi, thì thật là tròn trịa như hư không. Thiệt hay, đơn giản, thâm trầm. Câu này trong Tín Tâm Minh của tổ Tăng Xán, mình có đọc mà không dè hôm nay được thầy cho thấy một tin tức mới. Mỗi người đọc câu của mình, thầm nghĩ nếu dễ hiểu thì thôi, khó quá thì đem hỏi thầy. Tri sự Huệ Hân được câu “Mạc tồn thuận nghịch” (chớ chứa trong lòng việc thuận hay nghịch). Đúng quá đi chớ, tri sự là sắp đặt việc, thuận và nghịch theo nhau liên miên. Viên Tín đưa ra câu của mình, hình như có chữ gì có nghĩa là chậm trễ, cả chúng đều cười vì thiệt tình Viên Tín chậm chạp. Tuy nhiên cô giáo Thuần Chánh có khen Viên Tín dịch bài chữ nho rất thấu đáo, có lẽ nhờ chậm rãi suy nghĩ.
          Hát cho thầy nghe những bài ngày xưa của thầy “Một ngày không làm là một ngày không ăn...”, thầy cao hứng hát Chứng Đạo Ca, hát bài Tập Tầm Tâm của thiền sư Minh Chánh. Nhớ về những ngày tết cũ xưa, thầy còn làm Tri sự Thường Chiếu, ngày tết vắng vẻ không có một người khách làm thuốc, thầy chở một xe máy cày đầy người vào Viên Chiếu, ca hát vang trong mớ cây rừng. Bây giờ, lâu lâu nghe thầy đi nằm nhà thương, lâu lâu nghe bệnh đi không nổi, vậy mà tỉnh dậy là đi giảng dạy khắp nơi, nói năng rổn rảng không cần micro. Đầu năm Viên Chiếu được một sư huynh trong ban Quản trị vào thăm, các viện kia cũng được thăm như thế, quyền huynh thế phụ.
          Buổi chiều thôi khỏi nói, các đạo tràng sẽ đi một vòng, Thường Chiếu trước nhất để thăm Hòa thượng, thẳng đường lên Chân Không, nghe nói trên ấy kẹt xe, có đoàn không lên được. Khi trở về thuận đường thăm Phổ Chiếu, Huệ Chiếu, Viên Chiếu, Trí Đức... Có thêm một điểm mới là chùa Quốc Ân Khải Tường nằm trên trục quốc lộ 51, không xa Thường Chiếu, đang có một pho tượng Phật ngọc rất đẹp, nghe mọi người rủ nhau ghé. Ngôi chùa này nếu hoàn thành sẽ lớn nhất Đông Nam Á, rộng 25 mẫu. Địa điểm Long Thành Bà Rịa sẽ có nhiều nơi hành hương. Bà Ánh ghé, cười nói tía lia “Đầu năm đi chùa te tua”. Hôm nay không dẫn đoàn, đi một mình kể lể mọi nỗi đa sự đa đoan lọt trong tầm nhìn của mình. Kể về những cốc thất của chư Tăng không có hàng rào, những người đẹp phóng xe honda vào thẳng. Kể về những nơi có vị thầy bắt đọc câu “Mô Phật, mỗi người mỗi tật” để nhớ. Cười nghiêng ngả lăn chiên. Phật tử là nguồn thông tin đầy đủ về chùa này chùa nọ, về sinh hoạt của giới tu sĩ bên trong cổng thiền môn. Người ta chỉ vui miệng kể lại, xong rồi không nhớ, nhưng tin tức truyền đi mau hơn lên đài phát thanh. Khen thì cũng cao độ mà chê cũng cao độ. Sở dĩ vì thế Phật dạy giới luật, nghiêm cấm điều này điều kia, đôi lúc là những chi tiết rất nhỏ “Không được há miệng lớn đợi cơm mà ăn, không được quăng cơm vào trong miệng.” vân vân và vân vân. Mình thấy không đáng gì, cho tới một hôm nghe một câu thoáng qua “Tui thấy ông thầy kia bận áo thun”. Té ra người ta để ý dữ vậy! Tu sĩ không thua người mẫu, nhất cử nhất động đều được nghiên cứu.
          Bạch Cư Dị, quan Thượng thư bộ Hình ở đời Đường (có thể tương đương Bộ trưởng Bộ Tư pháp thời nay), thấy thiền sư Ô Sào ở trên cây cheo leo bèn hỏi, Sư làm chi ở chỗ nguy hiểm thế? Sư trả lời, chỗ của ông còn nguy hiểm hơn ta. Tôi làm quan trong triều có gì không ổn? Chỗ của ông ngồi trên đầu lưỡi thiên hạ. Trên đường quan chức, Bạch Cư Dị có lần bị đưa ra khỏi triều, về Giang Châu làm Tư mã, xem xét việc quân. Có lần ông tự than “Trong vòng danh lợi thương ta. Cái thân nhăng nhít cho qua với đời”. Đủ biết làm quan không phải ngon ăn, mà làm thiền sư ở trên cây cao vì sợ thiên hạ dòm ngó cũng không phải dễ. Thử coi, mình mà cất chòi ngồi thiền trên cây là hình được đưa lên mạng liền. Thiên hạ sẽ thuê xe ùn ùn kéo đến. Một nhà thơ cảm thán:
          Đời tu sĩ con còng già bỏ tổ
          Lên non cao còn sợ nước triều dâng.

          Thế đấy!

          Ngày mùng 4 (26.01.2012)
          Mới sáng sớm Hạnh Như gọi điện báo tin “Tiểu Nhân đã chết sáng này, có đại chúng Hương Vân trợ niệm.” Thành thật chia buồn, Tiểu Nhân là tên do Hòa thượng đặt cho. Lúc Hương Vân vừa xây dựng xong (1997) có bác Mười đem cho hai con chó nhỏ trắng như bông gòn ra mắt Hòa thượng, được đặt tên Tiểu Nghĩa (anh), Tiểu Nhân (em). Thành viên đầu tiên của Hương Vân, từ lúc còn để gọn trên bàn tay, mỗi ngày khi Hòa thượng đi dạo được ẵm bồng theo quanh Trúc Lâm. Tiểu Nghĩa lớn lên thích đi chơi xa, lên Nhà khách Trúc Lâm giành ăn với mấy con chó, Tiểu Nhân nhỏ nhẹ ở nhà quanh quẩn bên Hạnh Như, Hạnh Bảo.
          Hòa thượng mỗi sáng sớm thường đi kiểm tra khu vực trồng hoa kiểng, vòng quanh hồ thấy nhánh cây khô gãy đưa gậy chỉ liền. Quý Thầy đi theo cầm sẵn kéo bấm, cưa nhỏ lập tức thu gọn sạch sẽ. Bóng áo vàng của Hòa thượng và quý Thầy vừa xuất hiện trên lối vào Hương Vân, Tiểu Nhân đã mừng rỡ chạy quắn lên, sủa gâu gâu, chồm theo Hòa thượng, chào đón phía trước phía sau, đợi Hòa thượng đứng lại vỗ đầu vài cái mới chịu thôi.
          Nhắc đến Tiểu Nhân tưởng cũng nên nhắc đến những tiểu cẩu đồng thời, một phen quanh quẩn bên Hòa thượng. Tiểu Hỷ lông quăn từ đầu đến chân, thường leo lên xe trước mỗi khi Hòa thượng đi thăm các viện. Hòa thượng giảng dạy, nó đi quanh bục giảng rồi chui vào bàn nằm suốt thời pháp, không sủa tiếng nào. Khi Hòa thượng rời Thường Chiếu lên Trúc Lâm, Hỷ ta cũng được theo lên thiền viện mới, trời lạnh cho mặc áo bông, tuổi già chết bình yên trong chúng. Sau Tiểu Hỷ là Pha Lê, có quá trình lâu dài hộ vệ bên Hòa thượng, mập to như gấu mắt đỏ tròng vàng. Ngó bộ dạng dễ sợ nhưng hiền queo, đôi khi Hòa thượng chưa đến Hương Vân nhưng thấy nó chạy trước biết là có Thầy, quý Cô kịp thời chuẩn bị. Hòa thượng nhập thất thì nó cũng ở yên dưới thất, thời chưa có thị giả ngủ bên cạnh Hòa thượng, quý Thầy căn cứ vào động tịnh của Pha Lê để ứng phó tình hình. Pha Lê cũng có con mắt biết nói, biết giờ nào Hòa thượng ở đâu lâu hay mau, sắp rời ghế là nó đã đứng dậy đi trước. Một thời Tiểu Mặc, Tiểu Hiền... rất là nhiều chú cẩu canh gác Trúc Lâm. Có một thanh niên tập sự theo chư Tăng, giờ tọa thiền trong nội viện cứng chân, chú ngồi ngoài sau len lén xả thiền, cà nhắc bước ra, một bầy gần chục con chó ùa đến sủa vang. Mất hồn, không muốn động mà đã động, chú lẹ làng rút vào trong thiền đường, ngồi nín thở cho hết giờ.
          Buổi trưa một đoàn khách ghé thăm xin ăn trưa và nghe pháp, thông lệ của đoàn Bích Hải. Thầy Huệ đăng tòa giảng cho một bài thơ của cao nhân hiền triết:
          Cấp cấp mang mang khổ truy cầu
          Hàn hàn noãn noãn độ xuân thu
          Triêu triêu mộ mộ doanh gia nghiệp
          Muội muội hôn hôn bạch liễu đầu
          Thị thị phi phi hà nhật liễu?
          Phiền phiền não não kỷ thời hưu?
          Minh minh bạch bạch nhất điều lộ
          Vạn vạn thiên thiên bất khẳng tu.

          Bài thơ nói về sự bôn ba qua một đời, đạo trước mắt mà không chịu tu. Tạm dịch:
          Gấp gáp lo toan khổ tìm cầu
          Bốn mùa ấm lạnh chợt qua mau
          Hôm sớm suốt ngày sầu gia nghiệp
          Tối tăm hồn vía bỗng bạc đầu
          Phải trái lăng nhăng ngày nào dứt?
          Buồn phiền bực bội lúc mô thôi?
          Sáng rỡ rõ ràng đường trước mắt
          Muôn ngàn lần thấy chẳng chịu tu.

          Trong cái bận rộn vội vàng của đời sống, tưởng như không níu giữ được gì ngoài mớ tóc bạc. Heraclite nói “Không ai bước xuống cùng một dòng chảy hai lần được vì dòng nước thường xuyên chảy, nó đã thay đổi. Các vật thể của chúng ta cũng chảy như những dòng sông, chúng luôn đổi mới như nước...” Trường Giang sóng sau xô sóng trước, trong cuộc đời, người sau kế thừa người trước, hoặc là người sau đẩy người trước vội vàng. Cha mẹ mới dắt tay con đi chùa ngày tết, vội lo chăm cho con ăn ngon mặc đẹp, lo con học thành tài, làm việc, nên gia thất, sanh con nối dòng, thúc đẩy như bánh xe lăn không dừng.
          Trong cái lướt qua như sóng đó, có thấy được vầng trăng nguyên sơ.
          Em về mấy thế kỷ sau
          Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?

          (Bùi Giáng)


          Ngày mùng năm tháng Giêng (27.01.2012)
          Ngày mùng năm Tết, không ai kiêng cữ đi ra đường. “Mùng năm, mười bốn, hăm ba. Đi chơi cũng lỗ lựa là đi buôn”, lời ông bà để lại nay đã hết tác dụng. Người ta đi còn đông nhiều hơn mọi ngày, hình như đi chùa lạy Phật sẽ làm bay đi mọi sự rủi ro. Vả lại mùng năm đi chùa chớ không phải đi chơi hãy đi buôn, không sợ lỗ mà cũng chẳng tính lời. Có những câu chúc rất vui, thí dụ “Chúc cho cô, ai đau thì đau cô đừng đau”’ ý là mong cô mạnh hoài để đi giảng dạy. Bé con thì chúc “Chúc Sư bà mạnh khỏe, cho con học giỏi”, nghĩa là vừa chúc cho mình, vừa chúc cho sư. Chúc phát tài phát lộc là sự thường, chỉ chúc ham học là tốt nhất.
          Khách đông, xe đò lớn ghé tấp nập ì ì trước cổng, nhà khách không vội vã lắm vì mọi người chỉ vào lễ Phật rồi ra xe đi luôn, phải đi đủ mười chùa hay mười hai chùa, mỗi nơi ghé dâng một tờ sớ ghi tên cả gia đình, cẩn thận hơn ghi luôn sao hạn của từng người. Chỉ là thói quen tâm lý, nhưng điều đó biểu hiện tình thương yêu, sự quan tâm, nỗi niềm mong muốn cho người lớn trẻ con của nhà mình được tai qua nạn khỏi. Dù rằng cũng có câu “Cầu nguyện không bao giờ thực tế vì giống như đứng bên nay bờ mà mời bờ kia sang với mình”. Đức Phật cũng dạy đạo sĩ thờ lửa Ca Diếp rằng “Tế lễ cầu nguyện cũng như người đứng trên bờ thấy một tảng đá chìm dưới sông, xúm nhau cầu nguyện cho tảng đá nổi lên”. Đức Phật rất thực tế, chỉ dạy con đường tốt đẹp, mọi người phải thực hành điều tốt đẹp, không phải mời gọi hay khẩn cầu. Nhưng nói gì thì nói, đầu năm mới lời nguyện bình an vẫn nghe hay hơn.
          Nhân dịp tiếp khách lăng xăng chộn rộn, đọc lại một câu chuyện của Viên Chiếu hồi những năm 90. Giờ thỉnh nguyện, tri khách Đồng Kính tỏ bày tâm sự buồn vì bài thơ vịnh tri khách của thầy Huệ có câu “Mấy cô tri khách chạy như gà”. Buồn để bụng từ mấy ngày Tết, vì thể diện của một bộ phận quan trọng của thiền viện, làm sao mà như gà. Con gà mái chạy tới chạy lui tìm một chỗ có lót rơm, biết là nó muốn gì. Té ra cô tri khách này không nói hết ý, nhưng suy nghĩ dài lâu thấy hỏng được. Hạnh Huệ phân bua nói mình không có ý nói tri khách, ngày hôm đó quý thầy Thường Chiếu vào đông, hình như có công tác mượn đồ đạc gì của Viên Chiếu, cả nhà chạy ra rót nước không kịp nên có vẻ luýnh quýnh. Thôi, bây giờ sửa lại câu thơ là “Tri khách chạy như voi!”.
          Đoàn Phật tử lễ Phật, chúc Tết và thỉnh dạy cho đôi lời pháp nhủ. Bất ngờ không chuẩn bị, trụ trì chợt nhớ đến hai chữ tinh tấn, nghĩa là siêng năng luôn luôn. Nhớ luôn bốn câu thơ:
          Trên đường đạo không gì bằng tinh tấn
          Không gì bằng trí tuệ của đời ta
          Sống điêu linh trong kiếp sống ta bà
          Chỉ tinh tấn là vượt qua tất cả.

          Tinh tấn không có nghĩa là hì hục cong xương sống cóng xương sườn để làm một việc gì khó khăn trọng đại. Tinh tấn chỉ có nghĩa là chậm rãi chỉ làm một việc, cứ từ từ mà làm không thôi, ngày này qua ngày khác, đều đặn tu tập. Cũng có khi hơi mệt, thí dụ ba ngày Tết lo tiếp khách, lo công chuyện mệt quá thì cho nằm nghỉ, hết mệt tu tiếp, miễn là làm sao không rời mục đích của mình. Đó là gương tinh tấn hành đạo của đức Phật Thích Ca trải qua vô số đời kiếp, đời nào cũng làm một hai việc lợi ích chúng sanh. Trong cuộc đời cũng phải có ăn ngủ, dạo chơi, shopping… chẳng bắt buộc là cứ 12 giờ khuya dậy ngồi thiền mới là tinh tấn.
          Đối với Phật tử, tinh tấn cũng có nghĩa là là đối với năm giới cấm của Phật, vừa khởi tâm trộm cắp liền đoạn trừ, vừa muốn nói dối liền dừng lại, vừa muốn uống rượu hay ra quán nhậu chơi liền stop không đi. Nếu tinh tấn được như thế sẽ chóng vượt qua những thói dở xấu của mình, trở nên người hoàn hảo. Tinh tấn là điều kiện tốt nhất, như người chèo thuyền ngược gió, không ngừng nghỉ để được cập bến an toàn.
          Buổi chiều đi ngang quá đường, thấy một nhóm Phật tử đang ăn mì gói với bắp cải luộc, cà chua bỏ vào tô. Người nào cũng hoan hỷ không phàn nàn. Chỉ vì tất cả thức ăn buổi trưa đều hết, khách hành hương về tới điểm này đều than đói bụng “Còn gì ăn không cô?” Ban trực đem ra mì gói, bình thủy nước sôi, mỗi người tự túc. Lúc đói ăn gì cũng ngon, nhất là ăn trong chùa. Mình thấy người ta ăn mà cũng muốn ngồi xuống xin một tô.

          Ngày mùng sáu (28.01.2012)
          Hôm nay thầy Phó, thầy Huệ cùng một ít chúng đi Thốt Nốt, khai pháp đầu năm chùa Vi Phước của Chơn Như. Một số chúng đi Chơn Không, thăm Trí Đức, Chơn Chiếu, Tịch Chiếu, Phổ Chiếu, Huệ Chiếu, vì ngày hôm qua không tìm được xe.
          Còn dự định leo núi Thị Vải, thăm chùa Bửu Lộc, thăm thiền viện của sư Viên Minh. Vùng núi Dinh có rất nhiều cốc thất, tu viện, tịnh xá, dường như vùng này hợp với người tu. Chưa tìm ra được một ngày rảnh để du xuân, chỉ ở nhà đón khách. Chúng đi Trí Đức về khen đẹp mê luôn. Ghé Chơn Chiếu ăn trưa, sư già Liễu đãi bún riêu. Vùng biển này ngoài khu du lịch Thùy Dương còn có suối nước nóng Bình Châu, du lịch Hồ Cốc, du lịch Hồ Tràm… toàn là những nơi nghỉ dưỡng vùng biển rất tốt cho sức khỏe. Dân mình sở hữu một gia tài nắng và gió biển thiên nhiên, đón xe từ Sài Gòn đi khoảng hơn hai tiếng đồng hồ là đã ra đến biển. Tiêu xài xa xỉ hay tiết kiệm bình dân đều được hít thở ngang nhau. Suốt tháng Giêng, mỗi Chủ Nhật đường Vũng Tàu đều kẹt xe, sáng đường ra chiều đường về, nối đuôi nhau honda và xe hơi. Muốn băng qua đường, nhát gan thì đứng đợi, nhìn dòng xe tuôn mà ước chi có một cái dù bay để qua đường.

          Ngày mùng bảy (29.01.2012)
          Người xưa gọi ngày mùng bảy là tết khai hạ, cầu mong sự may mắn cho cả năm. Cũng có nơi gọi ngày mùng bảy là lễ hạ nêu, báo hiệu chấm dứt tết Nguyên đán, đi vào hoạt động bình thường. Hôm nay cũng là ngày Chủ nhật, ngày nghỉ cuối tuần, ngày vui chơi cuối cùng của một dịp lễ Tết. Ngày mai học trò đi học, người lớn đi làm, nhưng vẫn còn một bộ phận đi chơi, đi chùa lai rai. Trong một tờ giấy kèm với tiền cúng dường có ghi chú tên một bé gái, 9 tuổi, cúng dường cầu cha bỏ rượu. Trong những nỗi niềm nhân sinh, bé này đã cảm nhận sớm nỗi khổ. Có một ông cha say xỉn, không biết tình hình thế nào để con mình phải lên tiếng cầu xin với Phật. Nói với ai trên cõi đời này về sự việc bất khả kháng này?
          Kẹt xe dữ dội, xe đổ xô về Sài Gòn, từ miền Tây miền Đông, ai cũng hối hả về thành phố để đi làm. Sự tình này chỉ một mình Sài Gòn lãnh đủ.
          Trước Tết thì chen nhau về quê, về lại xóm làng, về nơi thưa vắng từ độ mình ra đi. Sài Gòn quả thật lạ lùng, như một cái túi thần kỳ hút bao nhiêu cũng được. Ai cũng có một chỗ đứng, một chỗ để chạy rong, một chỗ để đặt lưng khiêm tốn vừa chiếc chiếu. Quanh năm không nói buồn hay vui. Bao nhiêu người đủ mọi miền mọi xứ ở bên nhau, chen vào nhau, cài ngược cài xuôi gì cũng xong. Tới tháng 11 báo động vé xe, vé tàu, ai cũng lật đật hối hả tính chuyện về quê. Những con đường ra tỉnh miền Tây, về miền Trung bắt đầu thấy ùn tắc. Chỉ có miền Đông, ờ miền Đông khỏe ru vì gần sát thành phố, đi bộ cũng tới, thiền viện mình ở miền Đông nên chẳng cần chen lấn với ai.
          Người ta bảo nhau, mấy ngày Tết về thành phố rất rộng, rất thoáng. Sài Gòn có nhớ những cư dân mới vừa bồng bế dắt dìu nhau rời xa mình?
          Và hôm nay là ngày cuối, là điểm hẹn để mở đầu một năm kẹt xe, một năm có đủ thứ việc, có vàng ròng và có cả cứt chuột nơi cửa hàng Sài Gòn. Cũng không hiểu tại sao lại có một thế giới sinh hoạt lạ lùng, mà năm nào cũng diễn ra y chang.
          Ngày 28 Tết, buổi khuya sau giờ thiền nhìn ra thấy một con trăng khuyết, ngày mùng năm buổi tối nhìn ra cũng một con trăng khuyết. Những ngày đầu năm trời có mưa ở một vài nơi, trời có mây ở những ngày đi hành hương. Một ngày mùng bảy rất vừa chừng, không mưa không nắng, gió thổi những cánh mai rụng bay lơ ngơ đâu đó. Qua mùng, mai sẽ rụng hết, hoặc những nụ trễ sẽ đón ngày Rằm tháng Giêng.

          Ngày mùng tám (30.01.2012)
          Chương trình tuần tu từ mùng 8 đến 14. Sáng tọa thiền đến 6g, ăn cơm tự chọn để giữ yên lặng, ai ăn xong trước rửa chén bát nghỉ ngơi, không tụ họp một lần nên không ồn. Quét sân quét nhà rồi 8g ngồi thiền đến 10g, buổi sáng dễ buồn ngủ nên nhà bếp để sẵn cà phê, trà bánh, vừa tu vừa uống trà. Hạnh Huệ ra thăm Thầy, ngồi kế bên khoe “Con tu giỏi lắm, ngày tu hai ba lít”, Thầy gõ đầu một cái, đệ tử mừng ơi là mừng, vì đã làm Thầy vui.
          Một tấm bảng đề “Xin giữ im lặng”. Suốt ngày không nghe ồn trong khu vực nhà bếp, nói gì cũng thì thầm. Hạnh Bảo gọi điện thoại, Viên Minh nói rất nhỏ, không la làng như mọi khi. Hạnh Bảo ngạc nhiên sao nói nhỏ vậy? Hôm nay thinh lặng mờ. Cũng ngộ ghê, mới hôm qua khách khứa rần rần, mà hôm nay im vắng từ trước ra sau, thiệt là khỏe gì đâu. Chúng nhà cứ việc tọa thiền, mạnh ai nấy nín, có quy định chung nên không cần hỏi han gì. Công tác cũng nhẹ nhàng nên dù phải nín thinh lâu, ai cũng hoan nghênh.
          Phổ Chiếu làm lễ giỗ Sư bà, vừa hoàn thành xong Trai đường và Nhà bếp, khung cảnh trang nghiêm vượt xa Viên Chiếu. Thỉnh mời một trăm chú tiểu La Vân thọ trai, áo vàng nghiêm chỉnh, tụng một thời kinh nơi chánh điện, chú nào cũng gân cổ lên, có khi lái bè hợp xướng qua mặt chủ lễ. Phật tử đứng tụng theo, thấy vậy chỉ cười.
          Buổi chiều chỉ có đoàn Phước Hải ghé, đạo tràng của sư già Liễu phần lớn là gia đình có ghe đánh cá. Gặp mùa biển động thì đi chùa đông, trời yên bể lặng thì vắng hoe. Nguồn sinh kế chính của dân biển là cá, mực,... vậy mà cũng chịu đi chùa nghe pháp, tu Bát quan trai mỗi tháng một lần. Tuy ít oi nhưng giữ được lời Phật dạy không phải dễ. Tính khí chơn chất, rất ít nét thuần lương mềm mỏng. Có lẽ vì thế mà hợp với Trụ trì Chơn Chiếu. Hạnh Liễu ngày còn cư sĩ pháp danh Diệu Hương, một cô y tá bệnh viện dịu dàng áo dài, áo blouse đằm thắm. Buổi đầu Viên Chiếu hay đau ốm, sốt rét, đau bụng, ho hen mổ xẻ gì đều gởi vào nhờ tay Hạnh Liễu. Có khi Thuần Ẩn bị đau bụng tiêu chảy, chúng bắt kiêng cữ đến xanh xao. Đưa vào Hạnh Liễu mua cho cây cà rem biểu ăn, làm nước đá chanh hai ba ly uống trừ cơm, vài ba ngày hồng hào trả về. Trị bệnh rất mạnh tay, xài toàn thuốc xịn, nếu người khác không ai dám cho uống.
          Khi xuất gia, Thầy đặt pháp danh Hạnh Liễu, chắc còn nét tha thướt. Ở Viên Chiếu thời gian, không biết ảnh hưởng ra sao mà càng lúc càng giống... tướng cướp. Một cây búa chuyên chém chặt không vị tình, và cũng rất nhiệt huyết trong công việc. Thời gian bị bướu nơi cần cổ, về bệnh viện mổ thì nghe bè bạn bác sĩ y tá nói “Ba năm nữa là chết!” Cũng không ngán gì lắm, thầy bổ xứ về trụ trì vùng biển Long Hải, ngày đi nhập tự chắc là có xe máy cày Tấn Phương – lâu quá không nhớ chi tiết. Sống nhăn tới giờ này hơn mười năm, huynh đệ gặp ai cũng hỏi “Ủa sao chưa chết?” Y chỉ cười, giọng nói bây giờ khào khào, 72 tuổi rồi cũng còn mạnh và nhanh. Mấy đứa trẻ Viên Chiếu xuống công tác, không đứa nào vừa ý. Nan sư nan đệ, ở vùng biển mà làm thầy dân đánh cá thiệt là hợp.

          Ngày mùng chín (31.01.2012)
          Buổi sáng chú Hai con cô Viên Duyên ra chở hai cây mai về chăm sóc, nó đã nở mãn khai mấy ngày Tết rực rỡ. Mai là cây hoa đặc biệt, từ rằm tháng Chạp lặt lá, tưới nước vô phân đến Tết là trổ. Thích mọc từng chùm hoa, chen nhau mà nở, được một cây mai đặc kín nụ thì kể như ăn Tết lớn. Một màu vàng tươi sáng trưng lộng lẫy, rụng cũng không đổi sắc. Đi đến nhà ai có cây mai chưng ở phòng khách hay mọc ngoài sân, ngắm thôi cũng thấy vui. Hình như quà tặng của mùa xuân không gì bằng mai, nhà tranh nhà lá hay biệt thự phồn hoa, chỉ cần hiện diện một cây mai là con nít người lớn đều thấy ra vẻ Tết. Càng ở rừng, càng quê vắng, một cây mai, bộ bàn ghế đơn sơ và bình trà, thấy rất đủ cho những ngày nhàn nhã.
          Viên Chiếu hồi mới khai phá, tự nhiên trong rừng có mấy cây mai mọc chen ở đâu đó, bận lu bù không để ý. Đến Tết chẳng ai lặt lá, tự nở bung vài nụ mai. Tình cờ đi ngang thấy một hai cành lác đác, bỗng vui và ngẩn ngơ nhớ những mùa Tết xa xưa. “Khởi tri lưu lạc phục tương kiến.” Đâu biết trên đường lưu lạc lại gặp nhau, Tô Đông Pha nói như thế trong khi gặp lại cành mai cũ. Tương kiến, chữ trang trọng dành cho người, nhưng ở đây đối với hoa mai diễm lệ ở góc trời viễn xứ, ông đem hết tâm tình đón nhận như gặp bạn cố tri. Nó giống như ông, phong lưu văn nhã mà phải chịu linh đinh. Trong vườn cau, riêng một gốc mai tú lệ, chỗ quê mùa bỗng rực rỡ như ri.
          Trường điều bán lạc lệ chi phố
          Ngọa thọ độc tú quang lang viên.
          Bến sông cây vải nghiêng cành
          Vườn cau riêng một cội lành đào xuân.

          Ông tâm tình với hoa mai rất nhiều. Mai Trung Hoa, miền Bắc gọi là hoa đào, càng lạnh càng đẹp. Mai vàng miền Nam thì càng lạnh càng nở không nổi. Mai hay đào gì cũng là cái cớ để chợt ngẫm nghĩ mình ra đi từ độ ấy.
          Buổi chiều Giải Thiện từ Hội An vào, hẹn đi đảnh lễ Hòa thượng. Chồng chất một xe thầy trò và đồ đạc, du hí từ Trung vô Nam, lên Đà Lạt, Dăklăk, tật mê chơi cũng không bỏ. Được đảnh lễ và chụp hình bên chân Thầy, những đứa đệ tử đầu chớm bạc, từ lúc theo học ở Chơn Không đến bây giờ. Thầy gieo cho hạt giống, lâu ngày ủ mầm trong tâm, dù làm gì cũng không thể quên những khắc ghi của một thuở học trên núi. Dòng chảy thời gian cứ mải miết như thế, thành tựu và lớn lên âm thầm, cành tuy khô gầy mà nụ hoa vẫn mướt. Thầy như một cụ lão mai, càng già con cháu đông vầy, từng đoàn từng đoàn kéo nhau về thăm cội gốc. Chỉ mong sao dù sương pha tuyết điểm, vẫn rực sáng một trời thiền.
          Vì còn trong tuần tu, nói năng gì cũng ý tứ một chút, chúng cũng không thưa chào rầm rộ. Buổi khuya cho mấy đệ tử Bảo Châu lên ngồi thiền, ráng nín đến phát ho, cũng được một phen ngồi cho bằng chết, không ai dám bỏ cuộc.

          Ngày mùng mười (01.02.2012)
          Đã sắp bước vào mùa khô, cái se lạnh ban mai không còn nhiều. Chỉ có giờ tọa thiền sáng đến 6g, trời mát dịu và một chút tĩnh lặng đầu ngày, phương Đông hơi rựng sáng, tiếng gà gáy lao xao. Xả thiền xong, nhìn quanh ai cũng có vẻ tươi tỉnh vì đã ngồi nín từ khuya đến chừ, không có có gì phải thúc hối phía trước, có quyền hưởng một ngày êm ả lặng thinh.
          Mấy chậu cúc, vạn thọ chưng từ Tết đã xuống màu, cái rộn rịp tưng bừng cũng theo đó ra đi. Thu dọn mai đào, tỉa cành và chăm sóc lại để cây được bồi bổ sau một trận đơm bông. Sau rằm tháng Giêng sẽ thật sự bước vào mùa nóng, các ban vườn, ruộng, rẫy, tiêu, dừa đều lấy trớn làm việc. Có muốn nghỉ ngơi thêm cũng hết dà cao hứng. Phải học bài, dò bài, trả bài ôn kinh luyện sử, cô giáo Thuần Chánh đi sang Anh mấy tháng, học trò ở nhà chắc xếp lại bản đồ Trung Hoa, không nghe kể chuyện Tổ sư. Mỗi người có một năng khiếu, chịu khó tra tìm và tạo không khí cái cho các Viên lớp nhỏ học hỏi, có Thuần Chánh khơi mào. Đêm họp mặt ở Viên Chiếu, thấy các em chuẩn bị đóng kịch, dựng lại các giai thoại Tổ sư từ Sơ tổ đến Lục tổ Huệ Năng, tuy vụng về nhưng cũng gậy thích thú. Các thầy và sư chú cảm thấy cao hứng nên cũng hát hò đáng kể.
          Viên Ngộ từ Phần Lan hỏi về các thiền sư Việt Nam, các nước Âu Mỹ biết về thiền sư Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn vì đã có sách sử bằng Anh văn giới thiệu. Việt Nam mình có thiền tông, có thiền sư nhưng thiếu thông tin phổ cập nên thế giới hoàn toàn không biết. Đi sang Trung Hoa thấy các vị tu thiền, chắc cũng cỡ như mình, nhưng bề dày lịch sử và uy tín thiền Trung Hoa làm mọi người e dè nể trọng. Mình cũng có nhân sự tại viện nhà, nên hay không lập một bộ phận phiên dịch lịch sử chư tổ Việt Nam để truyền bá rộng rãi? Hiện tại nay tư liệu mình không thiếu, từ Bắc vô Nam đều liên lạc dễ dàng, giấc mộng tìm về nguồn cội miền Bắc chừng nào thực hiện đây? Chợt dấy lên một nỗi niềm ước vọng biên soạn và phiên dịch ra Anh ngữ các tài liệu thiền sư của mình hiện có. Nếu cứ chần chờ, sợ quá sức mình, không khởi động được thì uổng công một đời Hòa thượng đã đem hết tâm lực khơi dậy nguồn thiền, con cháu đã nắm được tông chỉ và biết cách tu, sao mình cứ đứng ở đâu mà ngó quanh quẩn.
          Năm 2010, Andy nói chuyện với Đoan Trang, không hề biết về thiền Việt Nam, ông tỏ vẻ ngạc nhiên khi tiếp xúc với đoàn thiền Trúc Lâm. Mình cũng bỏ qua ước vọng giới thiệu lối tu của mình, nghĩ rằng “Thôi cứ lo rị mọ mà tu đi, còn chuyện ai biết hay không biết về thiền Việt Nam không quan trọng. Không biết như vậy là đúng hay sai? Chợt tiếp xúc giới trẻ và gặp những câu hỏi thắc mắc, mình không biết có nên kể một đôi điều, theo cách của mình, và sẽ nhờ phiên dịch ra một tập sách nhỏ để giới thiệu. Nếu làm được điều này chắc không uổng phí công Hòa thượng chỉ dạy, và luống uổng thời gian trôi qua kẽ tay.
Reply