GÓP NHẶT HOA THƠM.
#16
Giai thọai về cố Hòa thượng Thích Giác Nhiên (tiếp theo)
12/06/2009 06:23Trường Khánh – Trường Sanh
Kích thước chữ: [Image: font_decrease.gif] [Image: font_enlarge.gif]
4. CHUYỆN MỘT VỤ KIỆN:

Một đạo hữu bổn đạo của chùa, có thân phụ qua đời, đến chùa xin lễ cầu siêu ký tự. Sau ngày lễ, đêm hôm đó Cố nằm mộng thấy hương linh ấy về, và thưa:

- Bạch Ngài, Ngài cho phép con được vào nương nhờ Tổ đình. Ngày nay con vào nhưng các vị thân hình to lớn chận đường, giữ cửa chùa, không cho con vào, họ bảo: Trong sớ chỉ cầu siêu mà không ký tự. Vậy xin Ngài can thiệp cho con được vào chùa.

Sáng hôm sau, Ngài gọi thầy công văn đến hỏi, thì sự thật, khi viết sớ, thầy chỉ ghi cầu siêu mà không có ký tự. Ngay trong ngày hôm ấy theo lời Cố dạy, chúng tôi làm thêm một lễ cầu siêu ký tự cho hương linh đã về báo mộng với Cố.

Theo kinh Phật, người chết trong thời gian 49 ngày, thân trung ấm chưa thể đầu thai, chờ lãng vãng đợi nhân duyên để thác sanh kiếp khác.

Trường hợp báo mộng thường xảy ra trong nhân gian.          

5. CHUYỆN CON CHIM CU:

Vào năm 1974, tại Tổ đình Thuyền Tôn có một con chim cu, loài chim nhát gan nhất trong mọi loài chim, từ núi Thiên Thai thường bay vào liêu Cố. Lúc đầu, tăng chúng trong chùa ngỡ là chim của ai nuôi bị lạc, nhưng càng lâu ngày mới biết nó sống ở núi Thiên Thai bay về. Phải chăng chim đã cảm mến đức độ của Cố? Mỗi ngày vài ba lần, chim bay vào đậu ở hộp tợ, nơi mà Cố Tăng Thống thường an tọa để ngọ trai, xơi nước hoặc xem kinh sách. Ở đây chim được vuốt ve chìu chuộng, Chim bay về thật đúng lúc, mỗi khi Cố Tăng Thống ngọ trai biết ý của chim, Cố thường để dành thức ăn cho chim mỗi khi nó bay vào. Mỗi khi được cho ăn xong, chim nhảy lên vai, lên cánh tay của Cố để đợi vuốt ve hoặc để ngủ, có ai vào hoặc Cố đi nghỉ chim mới chịu bay trở về núi Thiên Thai. Điều này cũng dễ hiểu. Hồi Đức Phật còn tại thế, một hôm có một con chim sẻ bị trúng đạn, hoảng sợ bay đến nép vào Ngài Xá Lợi Phất nhưng chim vẫn còn run rẫy sợ sệt. Sau đó, chim lại bay đến luồn mình vào tay áo của Đức Phật. Ở đây chim thấy an toàn và không hề run sợ nữa. Được hỏi về nguyên nhân của hiện tượng, Đức Phật dạy: Nơi Xá Lợi Phất chủng tử sát sanh tuy đã tận diệt, nhưng chưa sạch được tập khí vi tế.

Năm 1975, lúc chiến cuộc sôi động, Cố Tăng Thống vào Saigon để tích cực vận động Hòa bình cho dân tộc, cho đất nước. Trong thời gian này, chim chỉ đến có vài lần trong trạng thái ngơ ngác, ủ dột. Rồi từ đó, không thấy chim đâu nữa. Đức độ tu trì và lòng thương bao la của Đức Tăng Thống đã cảm hóa chim muông.          

6. ĐIỀM CHẲNG LÀNH:

Trời mưa như thác đổ, từng lằn chớp ngoằn ngoèo vạch xé bầu trời. Một tiếng sét nổ tung rung động bầu trời, chúng tôi lấy làm kinh hoàng khôn xiết. Mùi khét bốc lên, tưởng chừng như ngôi chùa bị trúng sét. Cố Tăng Thống chống gậy bước ra hỏi:

- Sét đánh mô rứa?
- Bạch Cố, chúng con chưa rõ.
- Bạch Cố, không sao.
Trời tạnh hẳn, chúng tôi ra sân, thì cây Bồ Đề trước cổng chùa đã bị sét đánh gãy một cành lớn. Thấy vậy, chúng tôi vào trình Cố. Khi nghe tin cây Bồ Đề bị gãy, gương mặt cố có chiều tư lự, Ngài dạy:

- Đây là điềm không tốt, có lẽ sẽ có chuyện gì không hay xảy ra cho Giáo hội chúng ta.

Đúng như lời Ngài dạy, cờ Phật Giáo bị triệt hạ vào năm 1963 rồi Pháp nạn 1966. Phải chăng do kinh nghiệm của Cố? hay do đức độ tu hành mà Ngài đã linh cảm và biết trước được những gì sắp xảy ra. Điều này, có ai từng sống bên cạnh Cố, từng được nghe lời Cố dạy mới cảm thức sâu xa những gì đã có linh nghiệm trong thời sinh tiền của Ngài.

Trường Khánh – Trường Sanh ghi.
Reply
#17
Những giai thoại về Cố Hòa thượng Thích Giác Nhiên (Trich trong Thiền môn xứ Huế .Trang nhà Liểu Quán,Huế)
10/06/2009 22:39Trường Khánh – Trường Sanh
Kích thước chữ: [Image: font_decrease.gif] [Image: font_enlarge.gif]
Những mẫu chuyện nhỏ dưới dây, có trong khoảng thời gian từ 20 năm lại đây được các thầy ở tổ đình Thiền Tôn Huế ghi lại, đôi chuyện, nghe qua có vẻ hoang đường thần thoại nhưng là những chuyện có thật xảy ra trong thời sinh tiền của Đức Tăng Thống Thích Giác Nhiên. Chuyện nhờ công hạnh tu hành đức độ mà cảm hóa được chim muông thú vật, không phải là chuyện hiếm hoi trong lịch sử và trên thực tế. Chúng tôi cho đăng tải để cống hiến Phật tử xa gần. 

1. BIẾT TRƯỚC NẠN XỨ

Thầy Mậu Lâm có chí cần cù nhẫn nại. Thầy đã tự khai một khu rẫy ở cạnh giếng chùa. Sáng nào thầy cũng dậy sớm. Sau khi công phu xong, thầy vác cuốc đi phơ rẫy đến khi trời sáng hẵn mới trở về chùa lau quét.

Một sáng nọ, vừa vác cuốc đi ra, thầy đã thấy Cố (danh từ mà các thầy trong chùa dùng để xưng với Đức Tăng Thống) đứng ở cửa liêu. Ngài nhìn thầy Mậu Lâm và dạy:

- Hãy lui đã. Sáng nay đi gặp nạn.

Nghe vậy thầy Mậu Lâm cúi chào Cố rồi trở lui. Năm phút sau, một tiếng nổ vang dội  ở phía giếng. Số là hồi đó, có một bác cư sĩ lối xóm, thường hay lên chùa ngủ và coi chừng giùm, sáng ngày lại về. Sáng hôm đó, khi bác về, con chó của bác tung tăng chạy trước, đến gần giếng thì tiếng nổ đã làm con chó chết tại chỗ. Phát hiện ra thì đó là tiếng nổ của một quả đạn B40, không biết có từ hôm nào.

Nếu Cố không ngăn, thầy Mậu Lâm đã lâm nạn trên đường mà sáng đó thầy đi qua. Không hiểu sao Ngài đã linh cảm được chuyện sẽ xảy ra!          

2. ĐÓM LỬA TÌNH THƯƠNG

Sau khi đã phát xong đám rẫy, tăng chúng trong chùa quyết định đốt rẫy để trồng sắn. Việc này được bạch Cố, Cố dạy:

Bao giờ  đốt?

- Bạch Cố, chiều nay.

- Khoan đã ba ngày sau hãy đốt.

Chúng tôi hoãn ngày đốt lại, và từ đó sáng nào Cố cũng chống gậy ra khu rẫy. Ngài đứng ở khu rẫy, chúng lấy làm ngạc nhiên trước việc làm của Cố. Ngài dạy:

Cực chẳng đã mình mới chặt cây đốt rừng. Điều này luật đã cấm, nhưng trường hợp đặc biệt này, mình phải báo tin để cho mọi loài hiện sống trong khu rẫy này di chuyển đi nơi khác, vì lòng từ bi, chúng ta không nên quên công việc thiện dù là nhỏ nhặt này
Đến lúc nổi lửa đốt rẫy, chúng tôi nghĩ rằng cũng không sao khỏi có ít nhiều chúng sinh không thoát chết trong lần đốt rẫy này, nhưng đại đa số đều đã di cư nơi khác.

Tình thương của Đức Tăng Thống thật đã tỏa rộng và bao trùm muôn loài.     

3. CHUYỆN MỘT CÂY BÙI

Phía sau nhà hậu Tổ đình Thiền Tôn, có một cây Bùi, lớn bằng hai người xoác. Cây Bùi quá già cỗi, nên đã khô chết. Chúng tăng quyết định nhờ hai bác thợ rừng đốn làm củi. Điều đáng làm mọi người ngạc nhiên là trước những nhát rìu mạnh và sắc của hai bác thợ, vẫn không làm xây xuể thân cây.

Thấy vậy, chúng tôi vào trình lại Cố. Ngài chống gậy bước ra và dạy:

- Cây Bùi tuy đã già chết, nhưng nó lại là nơi an của người ta, những người khuất mặt khuất núi. Muốn hạ, trước hết phải cáo cho họ biết.

Dạy xong, Ngài đến đứng gần cây Bùi, miệng lâm râm điều gì không ai nghe rõ, năm phút sau, Ngài hướng về hai bác thợ và bảo:

- Bây giờ các đạo hữu hãy chặt đi, tôi đã xin phép cho rồi đó.

Từ đó hai bác thợ mới thực hiện xong việc hạ cây Bùi.

Câu chuyện có mang màu sắc huyền thoại, nhưng có ai được sống bên Cố, được mục kích tận mắt thấy được sức mạnh của nguyện lực. Điều này không lạ đối với chư vị chân tu liễu đạo.          

Trường Khánh – Trường Sanh ghi.
Reply
#18
8. CHUYỆN NHÂN QUẢ BÁO ỨNG

Trụ trì chùa Bích Liên ở Quảng Nam là sư cụ Huyền Quang, năm nay 90 tuổi, nhưng tinh thần tốt lắm, nhứt là mặt đạo hạnh thì thật là tấm gương sáng trong cửa thiền. Lạ một điều, về mặt kinh kệ, cụ không được uyên bác như các vị sa môn khác.
Nguyên cụ là một người lính (tạm gọi theo pháp danh là Huyền Quang). Lúc Tây mới qua, trong xứ ta không được yên ổn. Ở biên giới phía Bắc thường bị bọn giặc khách quấy nhiễu. Chúng tụ tập ở trong núi, rồi thình lình kéo ra đánh cướp. Vì thế nên chánh quyền phải cho lính đóng đồn ở biên giới ấy để canh giữ. Huyền Quang bấy giờ là lính được đổi đi Móng Cái cùng với một toán quân do viên quan hai người Pháp chỉ huy.
Gần đồn Huyền Quang đóng có bà già góa chồng, tuổi ngoài 60, nghèo nàn hết sức, sống bằng cái nghề buôn bán kiếm lời từng cắc, từng xu. Trong đồn có người lính tên Lợi, rất càn rỡ, rất điêu ngoa. Thường bà già ấy đem đồ đến bán thì Huyền Quang cũng như các lính khác đều ra mua. Ngày một ngày hai, đôi bên thành ra quen thuộc. Sự buôn bán cũng từ chỗ quen thuộc ấy mà sanh ra thiếu đủ cùng nhau. Nhưng bà ấy là một người nghèo, đồng vốn của bà chính là tiền vay nợ góp của người khác.
Một hôm thình lình nghe có lịnh chuyển quân, bà liền tới trước cửa đồn để đón thân chủ của mình đòi món nợ cũ. Người đôi ba cắc, kẻ một đồng. Huyền Quang biến đâu không thấy, còn Lợi mãi đến nhá nhem tối mới trả một đồng bạc. Bà cầm đồng bạc ấy về mau mau đem trả người cho vay tiền góp. Than ôi, đó là đồng bạc giả. Chủ nợ mắng nhiếc bà thậm tệ, hăm he bắt bà giải quan vì tội tiêu tiền giả. Bà nghe vậy uất quá, tên Lợi đi xa rồi, lấy tiền đâu trả cho người ta. Đành rằng bán hết đồ đạc trong nhà đi thì cũng có thể lo kham được, nhưng sẽ lấy gì mà sống? Nghĩ đi nghĩ lại chỉ còn có nước chết mà thôi. Bà liền cởi dây lưng treo cổ mình lên cây trính. Bỗng đâu Huyền Quang bên ngoài xô cửa bước vào. Huyền Quang lật đật nhấc hổng chân bà lên, rồi cởi dây đỡ cho bà nằm xuống giường, chạy đi kiếm nước gừng đổ cho bà tỉnh lại. Bà nhìn Huyền Quang khóc nức nở, nói không ra tiếng. Huyền Quang thấy vậy mới hỏi nguyên do. Bà vừa khóc vừa kể lại chuyện tên Lợi làm và nông nỗi của mình nghèo khổ, chủ nợ hăm he. Huyền Quang nghe vậy động lòng nhơn, liền móc lưng lấy ra một đồng với mấy cắc đưa hết cho bà mà rằng: “Cái đồng bạc của anh Lợi đâu, đưa tôi tìm ảnh đổi lại. Còn bây giờ tôi đưa đồng bạc của tôi đây cho bà.” Thế là bà ấy thoát khỏi thần chết.
Tốp lính kia thì cứ vâng lịnh trên mà kéo ra mặt trận Lào Cai. Không ngờ, toán quân ấy đang quanh co men theo đường núi, bỗng bị quân địch núp trong hốc đá bắn vãi ra. Tên Lợi là người trước nhứt ngã nhào xuống đất và Huyền Quang cũng trúng đạn ngã theo. May sao có cứu viện kéo tới đánh lui được bọn giặc và chở các người tử thương về trại. Lạ thay, Huyền Quang lần hồi tỉnh lại. Thầy thuốc xem xét khắp người Huyền Quang không có vết thương nào cả. Khi khám tới túi áo Huyền Quang thấy có dấu đạn. Lật đật cởi áo ra coi thì đồng bạc ở túi áo văng ra lăn tròn xuống đất. Huyền Quang lượm lên, thấy nó bị lõm sâu một lỗ. Đồng bạc giả kia chính là cái bia đỡ cho Huyền Quang viên đạn ấy.
Về sau Huyền Quang liền xin thôi lính, xuống tóc đi tu.
(Theo Đào Thiều Thuật, báo Sài Gòn, ngày 16-4-1939)
Bàn thêm. Có tích một hàn sĩ vác lều chõng đi thi, được thầy tướng số danh tiếng cho biết sẽ chết trước khi tới trường, và khuyên anh hãy trở về. Thế mà anh cương quyết đi tiếp và thi đỗ. Chuyến vinh qui anh lại gặp thầy tướng số. Thầy hỏi anh có làm việc gì phước lớn không. Anh nói không có. Ông quả quyết rằng ông đoán chưa hề sai, thì anh mới nhớ lại: Có vớt một nhánh cây bần bị gió bão làm gẫy trôi sông, vì thấy tội nghiệp đàn kiến đang bò lúc nhúc trên đó. Cứu mấy con kiến còn được phước báo huống gì cứu độ một người thoát nạn, hay khỏi bệnh. Vậy chúng ta đừng chê việc phước nhỏ mà không làm. Phước nhỏ lớn là do tâm mình làm lành vì trắc ẩn hay vì háo danh, vị kỷ.
 
(Trích: Bồi Dưỡng Đức Tin của Ngọc Giáo hữu Bùi Văn Tâm.)
Reply
#19
Vì đâu phúc đức mấy đời của tổ tông lại bị hủy hoại chỉ trong một sớm?

Từ xưa đến nay, ái tình và những chuyện nam nữ luôn là thứ khiến người ta phải động lòng. Nhưng những thứ văn chương chứa đầy dâm sắc ấy quả thực là gây hại cho người ta, thậm chí mang họa tới cho tổ tông con cháu.

Một cây bút của văn nhân, dùng đúng chỗ có thể giáo hóa  con người .Tổ tiên hành thiện tích đức, đời sau sẽ sinh
ra hiếu tử hiền tôn, phúc đức vẹn toàn. Ngược lại, tổ tiên hành ác, họa sẽ giáng lên đầu con cháu, khiến cả gia tộc đều phải chịu liên lụy, những ví dụ loại này trong các sách cổ nhiều không kể hết.
Khi đã làm những việc bất nhân bất nghĩa, tổ tiên dù bao thế hệ tích phúc tích đức đều sẽ bị hủy trong chốc lát. Điều gì lại mang đến hậu quả nghiêm trọng như vậy?

Sáng tác dâm thư khiến cả nhà gặp tai ương

Vào những năm Vạn Lịch triều Minh có một vị tiến sĩ họ Trương, đã đọc qua rất nhiều kinh thư, cũng rất có tài văn chương, thơ phú. Tiếc rằng, ông ta không đem tài học vấn đi theo con đường chân chính, mà lại thích sáng tác văn thư dâm loạn rồi phát hành cho mọi người đọc, mê hoặc rất nhiều dân chúng địa phương.

Ông Trương rất chịu khó sáng tác, sách bán được rất chạy, bạc tiền kiếm được cũng không ít, nên luôn cảm thấy dương dương tự đắc, cho rằng mình chỉ viết một số sự tình giả dối hư ảo, không ảnh hưởng đến ai, cũng sẽ không gây tổn hại đến âm đức của mình.

Thế rồi vào một buổi tối, ông Trương nằm mộng thấy một sự việc hết sức kỳ quái, nhưng lại rất chân thật. Ông mơ thấy người cha đã khuất của mình, mặt mũi tái nhợt, đi đến gặp ông trách cứ: “Đứa con bất hiếu này, ngươi viết những thứ dâm thư đó, khiến thế nhân lấy giả làm thật, hoa mắt say mê, tâm tồn tà niệm, làm bại hoại đạo đức của con người.

Ngươi vốn dĩ tiền đồ xán lạn, quan lộ hanh thông, phúc thọ lâu dài, nhưng lại vì sáng tác những thứ dâm thư đó, nên đều đã bị tước sạch rồi. Phúc đức tổ tiên tích lại bao đời trong nháy mắt cũng đều đã bị ngươi hủy hết. Bây giờ chúng ta biết phải làm sao?”.

Ông Trương bừng tỉnh, khiếp sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, trong lòng vừa kinh vừa sợ, cũng không biết phải làm như thế nào. Không lâu sau, ông cùng gia quyến ngồi thuyền tới Phúc Kiến để nhậm chức tri huyện thì giữa đường gặp gió lớn, thuyền bị gió to đánh lật úp và chìm nghỉm, cả nhà không một ai sống sót.[Image: BcKCN8.jpg]

Một cây bút của văn nhân, dùng đúng chỗ có thể giáo hóa chúng sinh, dùng sai chỗ tất gây bại hoại luân lý, tạo nghiệp vô cùng. Con người sỡ dĩ khác với cầm thú, là bởi vì con người có đạo đức, có thể biết luân lí làm người, có thể phân biệt thiện ác, thế nhưng, những sách báo dâm loạn làm mê hoặc thế nhân, không chỉ hủy hoại danh tiết của chính mình, còn liên lụy tới tổ tông, con cháu.
Trong lịch sử còn rất nhiều trường hợp khác, cũng vì sáng tác những thứ văn thư dâm loạn, phỉ báng Thánh hiền mà phải chịu báo ứng. Dưới đây là một số ví dụ:

Thi Nại Am viết “Thủy Hử truyện”, trong tác phẩm đã dùng không ít bút mực miêu tả quá trình gian dâm, trộm cướp, giết người rất tường tận cụ thể, chẳng khác gì hối thúc người ta trộm cướp tà dâm. Kết quả là con trai, cháu trai, chắt trai của Thi Nại Am sinh ra tất cả đều bị câm.
Lý Tông Ngữ, tác giả cuốn “Hậu Hắc Học”, thích nhất là phản bác ngôn luận của các bậc tiền nhân và Thánh hiền, ngụy biện thị phi, tạo thành cách nói dị thường đi ngược lại với đạo lý để đạt được uy tín danh lợi. Một đời của ông sống trong nghèo khổ, thất vọng và cô độc, cuối cùng phải chết một cách bi thảm.

“Mẫu Đơn Đình” kể chuyện một đôi trai gái yêu nhau bỏ trốn, hơn nữa văn chương dùng từ ngữ hoa lệ, ai ai cũng thích đọc, cũng vì thế mà chịu nhận ảnh hưởng, từ đó phản đối lễ giáo, truy cầu tình ái. Điều đó khiến nhiều người ngộ nhận việc dâm dật thành hành vi phong nhã. Sau khi tác giả cuốn sách là Thang Hiển Tổ qua đời, có người từng chết đi sống lại kể rằng đã chứng kiến cảnh ông ấy bị giam tại phòng tối nơi âm phủ, chịu cảnh thiêu đốt, nóng đến mức không chịu nổi, da bị nứt đến mức lòi cả thịt, vô cùng thống khổ.
Tác giả “Tây Sương Ký” là Vương Thực Phủ, có sở trường miêu tả chuyện nam nữ tư tình vụng trộm, khiến rất nhiều người sau khi xem xong truyện này liền khởi dâm tâm tà niệm. Người ta lưu truyền rằng tác giả chỉ vì soạn cuốn sách này mà bị dưới âm khiển trách, chưa viết xong đột nhiên vô cớ ngã vật ra, tự mình cắn lưỡi mà chết.

    Viết ra những tác phẩm ca ngợi những chuyện tình vụng trộm, đề xướng tà dâm. Việc này chính là gây hại cho người đọc, làm bại hoại đạo đức xã hội.
Nguyên tác giả “Hội Chân Ký” là Nguyên Chẩn, vì muốn lấy vợ là người em họ Thôi Oanh Oanh nhưng không được, lấy làm căm phẫn mà sáng tác nên truyện ký này, đem em họ ra làm nhân vật chính, vừa để gièm pha em họ và những người có hành vi yêu đương vụng trộm.
Điều đó khiến nàng Thôi Oanh Oanh trong sạch không tỳ vết phải chịu nhục ngàn thu, lại cũng khiến nam nữ thanh niên đời sau bắt chước theo việc hẹn hò vụng trộm. Có người nói Nguyên Chẩn lúc chết cực kỳ đau đớn khổ sở, chết rồi lại bị sét đánh nhằm trúng thi thể để báo ứng.

Lawrence ,nhà biên kịch  nổi tiếng. Tuy nhiên, sau này khi viết bộ sách “Người tình của phu nhân Chatterley”, trong đó dùng văn từ tỉ mỉ miêu tả quá trình ngoại tình và loạn tính ngoài hôn nhân.
Sách này từng bị chính phủ các nước phê phán, liệt vào loại  sách đồi trụy và cấm xuất bản, phát hành. Sau 1 năm viết xong bộ tiểu thuyết này, Lawrence đã mắc bệnh hiểm nghèo mà chết vào tháng 3/1930, lúc đó ông mới chỉ 44 tuổi.
-***-
Cổ nhân nói: “Vạn ác dâm vi thủ“, ý rằng vạn điều ác thì tà dâm đứng đầu. Con người ta, chỉ một niệm dâm dục, sẽ dẫn khởi nhiều ác niệm, làm ra những chuyện không còn liêm sỉ, đi ngược với luân lý, các loại ác nghiệp cũng từ đó mà sinh ra.
Viết những ngôn luận tà dâm, tà niệm, kích động ham muốn dục vọng của người khác, khiến người khác rơi vào u mê, chính là đang gây tội nghiệp nặng, sẽ phải vào địa ngục chịu tội. Một khi nghiệp báo đã đến thì hối hận cũng không kịp!
Trong xã hội ngày nay, có thể thấy rằng đâu đâu người ta cũng nói cũng viết về những chuyện về dâm loạn, tình dục… Sách báo, tác phẩm văn học nghệ thuật, phim ảnh, truyền hình đều lấy đó làm đề tài nóng bỏng thu hút độc giả. Như vậy đủ để thấy nhân loại đang đứng trước bờ vực nguy hiểm như thế nào![size]
                                                                                     Theo Daikynguyen.[/size]
Reply
#20
Tỷ phú lại chọn cuộc sống nghèo khổ- bạn có tin được không?
04-08-2017
[b]Chuck Feeney được sinh ra tại bang Jersey. Ông và vợ hiện đang sống trong căn nhà cho thuê nhỏ hẹp ở San Francisco, nước Mỹ. Ông là một tín đồ Thiên Chúa giáo ngoan đạo.

Ông ấy chưa bao giờ mặc quần áo hàng hiệu, kính mắt tả tơi, đồng hồ đeo tay được mua ở quán hàng ở góc phố. Ông không
thích đồ ăn sang trọng mà là những món ăn giá rẻ như  pho mát và bánh sandwich cà chua.  Vì không có xe riêng của gia đình nên khi đi ra ngoài ông thường đi xe buýt và cặp là một cái túi vải nhỏ. Khi đi ngủ thì nhất định phải tắt đèn và ông cũng yêu cầu người khác như vậy.
Trước đây, ông từng tốn quá nhiều tiền cước phí cho các cuộc gọi đường dài. Sau đó thì ông đã dừng sử dụng điện thoại của gia đình và con gái ông đã truyền đạt lại những chuyện được nghe từ công chúng qua điện thoại cho ông.
Dù hiện đang sống một cuộc sống như một người nghèo như vậy nhưng thật ra ông ấy là một tỷ phú.
Năm 1960, ông đã thành lập nhóm cửa hàng miễn giảm thuế và xây dựng  lên lượng lớn tài sản.
Ông cũng sáng lập lên “Quỹ hội từ thiện Đại Tây Dương” với số vốn 8 tỷ đôla và đã quyên góp đến hơn 4 tỷ đôla. Ông quyết định quyên góp toàn bộ số  tiền hơn 4 tỷ đôla còn lại vào trước năm 2016. Từ đó hàng năm ông  đều quyên góp đến hơn 400 triệu đôla trở lên. Đến nay, số tiền quyên góp được của ông đã đứng thứ  3 toàn nước Mỹ.
Ông cũng rất quan tâm đến giáo dục. Và đã quyên góp cho đại học Cornell 5 trăm 88 triệu đôla, đại học California  1 trăm 25 triệu đôla, đại học Stanford 60 triệu đôla, các trường học Ailen và Bắc Ailen là một tỷ đôla. Hơn nữa, ông cũng cung cấp phí phẫu thuật cho trẻ em  bị hở hàm ếch ở các nước đang phát triển, đầu tư lượng lớn tiền để áp chế các bệnh dịch truyền nhiễm cấp tính ở châu Phi.


Trong xã hội hiện đại ngày nay, người người đều chạy theo những hưởng thụ vật  chất, tiền được đặt lên hàng đầu. Thì lại có một vị tỷ phú dành gần hết tài sản của mình làm từ thiện. Quả thật là khó mà tin nổi.
Khi được hỏi về phương châm sống của mình ông chia sẻ:

“Hai chân mỗi chân chỉ có thể đi được một chiếc giày, tấm vải liệm thi thể là không có gắn túi đựng tài sản. Thiên đường không cần tiền”.
Trang Nhung
Theo ĐKN Nhật Bản
 
Reply
#21
Cực Tịnh Sanh Động
Hòa Thượng Thích Huyền Tôn (Trang nhà Quãng Đức)


Cách đây 28 năm (1973), hồi đó tôi 16 tuổi (1945), nghe kinh Bát Nhã và pháp Bảo Đàn, bỗng nhiên lòng tôi không còn luyến tiếc gì bản thân và muốn xa lìa tất cả để lên non cao tu luyện. Tôi đem ý nguyện ấy thưa với Bổn sư là Hòa thượng Diệu Quang, Tổ thứ sáu của Tổ đình Thiên Ấn và là vị khai sơn chùa Viên Giác núi Thanh Thanh - nơi tôi đang tu học.
Hòa thượng nhìn tôi và nghiêm trọng bảo - ông nên dẹp bớt lòng bồng bột ấy đi! Vì khi đang học đạo thì ai cũng tưởng mình có thể thực hành sáu pháp lục độ chẳng mấy khó. Nhưng khi va chạm vào thực cảnh, chịu đói lạnh vài ba tháng, những cơn sốt rét ở rừng sâu và biết bao cảnh trạng kỳ quái cứ đêm đêm lại hiện về như trêu cợt, như dọa nạt thì thối chí ngay. Nếu chí thoát trần mạnh mẽ có thể vượt qua được, thì bấy giờ cái "Động" ở nội tâm lại hiện ra. Tổ xưa đã dạy: "Cực tịnh sanh động".Ông nên tham cứu nghĩa lý ấy và nán lại năm sau, hay đợi khi thọ đại giới rồi sẽ cho ông đi cũng không muộn. Rồi Hòa thượng đưa tay chỉ về trảng núi phía tây mà hỏi :
- Ông có biết cái động bằng đá ong ở đầu dốc đó không?
- Dạ, bạch thầy con biết, chúng con đi hái củi thường trèo xuống đó để xem, nhưng chúng con nghĩ chỗ ấy có vẻ như ai tạo nên thì phải ?
Hòa thượng gật đầu :
- Ừ, chính Thầy tạo ra đấy! Cách đây 12 năm Thầy tạo chùa này, sau đó thì ông Chơn Dung đến xin làm đệ tử cầu pháp của Thầy. Ông nguyện ăn mỗi ngày một bữa cơm trưa và thọ trì kinh Pháp Hoa. Được hơn nửa năm ông ấy thưa với Thầy rằng, ở đây ồn ào không tu hành gì được, ông xin lên núi cao để tu tập. Thầy cản ngăn và hứa sẽ tạo nơi yên tịnh cho ông. Bởi đó, nên Thầy mới tạo ra cái động đá ấy để cho ông tu trì. Sau khi ông Chơn Dung ra đó được ba tháng thì ông không chịu ăn cơm nữa mà chỉ ăn rau thôi, mà ăn bằng rau khô. Thầy cũng tùy theo nguyện lực của ông, cứ đúng trưa thì đem ra ông một tô rau hấp. Đôi khi Thầy ra nghe ông tụng kinh. Có một điều rất lạ, là bất cứ ai, khi ông đang tụng kinh mà bước vào động là cảm thấy rùng mình và không biết một uy lực gì khiến cho kẻ đó phải sinh lòng sợ hãi, kể cả Thầy là sư phụ của ông ta mà cũng không tránh khỏi cái cảm giác sợ hãi đó! Và kỳ diệu hơn là ăn rau như thế mà ông mạnh vô cùng. Có một lần ông ta vào hầu chuyện với Thầy, gặp lúc trong chúng đang dùng đòn bẩy để khiêng 1 cái cối đá bốn năm người ì ạch coi mệt nhọc lắm, thì ông cười và bảo để đó ông vác cho. Rồi ông xắn tay hự mạnh một tiếng đưa cái cối lên vai, vác đi trông rất nhẹ nhàng.
Từ đó tiếng đồn lan ra, mọi người dưới đồng nội mới lên trước lễ bái, sau cho biết ông. Trong số người ấy một phần vì ngưỡng mộ, một phần vì tính hiếu kỳ.
Tình trạng ấy làm xáo trộn sự tịnh tu của ông, nên 1 hôm, nửa đêm ông lén Thầy ra đi, có để lại 1 phong thơ sám hối, chỉ vì sự tu niệm nên cam thất lễ. Thầy cũng chẳng biết ông đi phương nào, núi nào, ở đâu ? Vì ông không đề cập đến.
Hai năm sau, thì Thầy được tin ông tu ở núi Thạch Động, khoảng giữa của dãy Trường Sơn, thuộc quận Trà Bồng, Quảng Ngãi. Ở đó, hằng đêm những rắn to Rắn nhỏ, mầu sắc kỳ dị, đến trước cửa động ngóc đầu nhìn vào như tuồng để nghe kinh. Kinh dứt, chúng tản mác hết. Trước kia núi nầy cọp rừng hung dữ, đường núi không ai dám đi. Chỉ có làng Thượng ở đó, mỗi khi đi phải mười hay hai mươi người, giáo mác và đánh phèn la inh ỏi mới có thể đem quế, gạc, nai, da cọp xuống đồng để đổi lấy gạo muối. Ấy thế mà từ khi ông Chơn Dung về tu ở Thạch Động, một vài người cũng dám đi. Nếu có thấy cọp, họ niệm Phật hoặc kêu tên ông Chơn Dung là bình an vô sự. Điều đáng tin tưởng hơn là cả làng Thượng đều về quy y với ông cả.
Nhưng than ôi! nghiệp chướng còn mang nặng với ông, mới ba năm thì ông bị đọa lạc bởi người con gái tên Trầm Thị Két. Bỗng dưng rừng núi nổi phong ba: cọp gầm, rắn gáy chung quanh động suốt đêm. Uy lực linh thiêng đã biến hết! Ông và một số đồ đệ phải bôn đào về đồng nội. Rồi từ đó ông không còn dám gặp Thầy nữa. Danh Nho thường nói: "Dục tốc bất đạt" và chư Tổ cũng dạy: "Cực tịnh sanh động"quả thật là chí lý.
- Dạ, bạch Thầy, ông Chơn Dung hiện giờ ở đâu? Và con muốn biết nguyên nhân gì khiến ông đọa lạc dễ dàng như thế ?
- Nghe nói ông ở dưới làng Đông Phước thuộc phía Tây Bắc chân núi này. Còn nguyên nhân thì có lẽ do nội chướng ở tự tâm của ông ta chỉ được đè nén bởi công đức thọ trì chứ chưa biết phương pháp trừ diệt, đó chính là Tâm động mà cảnh tịnh, cũng như cỏ gấu bị đè, khi vật đè đã hất đi thì cỏ ấy lại mọc mạnh hơn trước.
Tôi cúi đầu lạy Thầy, định ra khỏi phòng thì Thầy lại bảo :
- À, còn điều này mới lạ, đệ tử của ông thuật lại cho Thầy biết rằng hồi đầu ông mới lên thì trong làng sắc tộc cho một người đại diện biết tiếng Việt ra trao cho ông một cái dĩa bằng gỗ trầm có chạm hình, một cái hoa sen búp và một con chim cắt đang rỉa cái bông mà ăn, người Mọi ấy bảo rằng cái dĩa đã lưu truyền ba đời rồi, cách đây trên một 100 năm có một nhà sư không biết từ đâu tới và đi ngả nào đến trao cái dĩa cho tổ phụ và dặn chừng nào có một nhà sư lên ở ngôi Thạch Động thì trao lại cho nhà sư ấy. Ông Chơn Dung nhận cái dĩa nhưng ông không nhận biết được ý nghĩa của cái dĩa để làm gì - đến giờ thì chắc ông Chơn Dung đã hiểu ý nghĩa nó rồi. Đâu, ông thử đoán xem có đúng không ?
Tôi suy nghĩ giây lát rồi thưa :
- Dạ, bạch Thầy, theo thiển ý của con thì bông sen là ứng về ông Chơn Dung, còn con chim két là ứng cho cô Trầm Thị Két rồi, còn nghĩa kín của nó là: - Hữu hoa tất hữu quả", một khi cái bông bị hư nát thì quả làm sao kết tụ được. Có điều đáng tức là làm sao ông Chơn Dung lại xem khinh sự lưu truyền hy hữu như vậy! Biết đâu với vị thiền sư xa xưa ấy không phải là bậc Bồ Tát ?
Thầy cười và bảo :
- Ông nhận xét rất đúng, rất hợp với ý của Thầy lắm! Nhưng nếu ông chưa nghe câu chuyện thì vị tất ông đã đoán được như vậy.
Câu chuyện trên quả đã làm cho tôi kinh sợ về cái "khó" cho bước đường tu học của đời tôi.
Sau đó, bổn sư tôi cho tôi đi tha phương tu học một thời gian. Trải qua sáu năm khi tôi trở về thì chiến cuộc ở tỉnh nhà đã đến hồi khốc liệt. Tôi vâng mệnh Thầy giữ chức vụ thủ tọa ở chùa Viên Giác.
Bỗng một sáng tinh sương, chúng tôi đang cùng nhau kéo nước thì ở đầu dốc hiện ra một người, trên vai vác một cuộn dài độ hơn 1 thước. Chúng tôi ngạc nhiên đợi khi người ấy đến gần, tôi quan sát thấy ông ta đầu đội một cái khăn nâu, mặc đồ "bà ba", nước da ngăm đen, mặt lưỡi cày, dáng đi hùng dũng, riêng đôi mắt sáng quắc như kẻ đã từng tập thôi miên. Vật ông vác trên vai là chiếc chiếu cuộn tròn, tôi có cảm tưởng trong ấy là một cái gối dài. Khi đến nơi ông hạ bó chiếu xuống đất đánh thịch một tiếng rồi thở ra một hơi dài. Ông đưa hai tay lên vái chúng tôi:
- A Di Đà Phật, có Hòa thượng ở nhà không các huynh ?
Chú Nuôi liền nhanh nhẩu :
- Dạ, Hòa thượng bây giờ Ngài không ở đây, Ngài giao cho Thầy thủ tọa, có việc gì thì bác cứ thưa với Thầy thủ tọa vậy.
Người ấy có vẻ sửng sốt, gương mặt thoáng buồn.
- Vậy Thầy thủ tọa ở trong chùa hay ở đâu ?
Chú Nuôi liền chỉ vào tôi.
- Đó, Thầy đamg đứng trên thành giếng kéo nước đó.
Người ấy hơi tỏ vẻ kinh ngạc, nhưng rồi lại vui vẻ đến chào tôi và hỏi:
- Chào Thầy Thủ, bộ hết người sao Thầy đi làm việc chung với chúng thế ?
Tôi nhảy xuống thành giếng xá ông rồi cười đáp :
- Chấp lao phục dịch là việc chung, bây giờ khác, hồi xưa khác, mà bác.
Tôi chỉ vào cuộn chiếu, hỏi :
- Bác vác cái gì trong chiếu ấy ?
Bỗng ông cười như mếu :
- Thưa Thầy xác chết !
- "Xác chết" ? Chúng tôi đều sửng sốt, các chú kinh ngạc đến há hốc mồm ra mà nhìn ông rồi nhìn chiếc chiếu !
Bấy giờ chúng tôi ngưng hẳn việc kéo nước mời ông vào chùa, ông ta không quên vác theo chiếc chiếu cuộn tròn.
Cái cảnh người chết bó gọn trong chiếc chiếu làm cho không khí thêm nặng nề. Không ai mở miệng hỏi câu gì. Chính tôi cũng chưa biết phải hỏi ông thế nào, trong thâm tâm có hàng chục câu hỏi. Vì tôi chưa biết ông là ai? Xác chết và ông ta có liên hệ gì ?
Nhưng ông ta đã phá tan bầu không khí u trầm ấy :
- Thưa Thầy, tôi bị nghiệp trần đày đọa, có hai đứa con trai, thằng Minh và thằng Mẫn. Thằng Minh thì khù khờ, thằng Mẫn được cái lanh lợi nhưng chẳng may nó lại chết sớm! Tôi chẳng có chỗ đất mà chôn nó. Nay xin cho con tôi một chỗ nằm và tế tự cho nó, nhưng rủi cho tôi chẳng được gặp mặt bổn sư, vậy xin Thầy từ mẫn cho tôi xin chỗ đất chôn nó và xin 1 mâm cơm rau để cúng nó, tôi với Thầy cũng nghĩa đồng sư, chắc Thầy không nỡ từ chối !
Tôi nhìn đôi mắt sáng của ông đã ngập lệ, tôi thân mật :
- Vậy ra bác cũng là đệ tử của Thầy tôi ?
- Dạ phải !
- Bác có thể cho tôi biết pháp danh ?
- Dạ, tôi là Chơn Dung.
- Chơn Dung? Chúng tôi đều thốt lên tiếng kinh ngạc và trố mắt nhìn ông.
Câu chuyện Thầy tôi kể năm xưa và hình ảnh người tu sĩ gan dạ phi thường kính mến lại hiện về trong tâm tưởng càng làm cho chúng tôi ngỡ ngàng tưởng chừng như giấc mộng! Nhưng chúng tôi còn phân vân không biết có phải ông Chơn Dung đó, hay có kẻ trùng tên (?), dù sao niềm kính trọng cũng vẫn còn trong chúng tôi. Tôi đổi cách xưng hô.
- Thầy là Chơn Dung, có phải người đã tu 3 năm trên non Thạch Động ?
- Dạ nhắc lại làm gì ? Tôi cảm thấy run sợ và hổ thẹn - Ông nói.
Thế là chúng tôi hiệp sức với ông lo chôn cất và cúng kiếng, mọi việc hoàn tất, trước khi ra về ông thưa với tôi :
- Thưa Thầy, dưới đồng tôi cũng ở nhờ nhà của người ta, tôi sinh kế bằng nghề thầy thuốc, vì thế thằng Minh không nơi giáo dục, tôi muốn cho nó về đây, nhưng e ngại quí Thầy khinh cha nó !
Tôi liền chận lại và nói :
- Thầy đừng nghĩ vậy, nếu quả thực Thầy đã cảm thấy chồn chân, trên đường phiêu lưu với duyên trần nghiệp chướng, thì cả Thầy lẫn cháu Minh cùng về đây sống với chúng tôi.
Ông Chơn Dung đứng lên và cảm động, nói :
- Thầy tốt lắm, tôi không ngờ tôi lại được may mắn trở lại cảnh chùa xưa.
Qua một thời gian, Hòa thượng về thăm chùa, Ngài mời sư Chơn Dung và tập chúng đông đủ, Ngài nói :
Ông Chơn Dung đáng lẽ câu chuyện sa đọa của ông nên dấu đi mới phải, nhưng tôi xét thấy quãng đường hành đạo của ông có lắm việc ly kỳ, mà trong thực tế, thời mạt pháp ít thấy xảy ra. Vì thế, mà tôi muốn ông nên vì kẻ hậu học, can đảm thuật lại những gì đã trải qua trong thời sa đọa của ông. Không biết ông có vui lòng để một kinh nghiệm cho về sau hay không?
Lúc ấy, tôi nhìn gương mặt của ông Chơn Dung, tôi nhận thấy không một điểm nào, chứng tỏ ông tàm quí trên vấn đề ,mà ngược lại ông hoan hỉ và trong sáng vô cùng, ông nhìn Hòa thượng rồi nói :
- Bạch Thầy, bao lâu nay anh em gạn hỏi, nhưng con vẫn từ chối, nay được gặp mặt Thầy, chính là sự chờ đợi của con và cũng là ngày con lại giã biệt Thầy.
Chúng tôi cảm thấy bùi ngùi nghe đến chữ "giã biệt" và cũng cảm thấy cuộc đời của ông như có sự chỉ định, ông kể :
- Ngày trước con là đệ tử của Ngài Hoàng Phúc, sau con về cầu pháp làm đệ tử của Thầy, vì Thầy là người bổ khuyết chỗ sở đắc bộ Kinh Pháp Hoa cho con - bộ kinh mà con say mê hâm mộ nhất, vì chỗ ứng dụng độ sanh của kinh nầy thật bao la vô tận. Chỉ nghe câu "nhược nhơn tán loạn tâm, nhứt xưng Nam Mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo". 
Tam dịch: Nếu có người lòng đang rối loạn, mà xưng niệm một câu Nam Mô Phật, Những người đó, đều sẽ thành Phật đạo.
Đó là nói người tâm tán loạn mà còn được như thế, nếu chí thành xưng niệm thì lợi ích biết bao. Thứ nữa, trong kinh dạy: "Người thọ trì hằng được Đức Phổ Hiền Bồ Tát và chư thiên hộ trợ, dù hiện thế chưa chứng đắc A la hán, nhưng lục căn được tinh minh đến độ như gần bậc ấy, đó là 1 trong nhiều nhân duyên con chọn Kinh Pháp Hoa làm cửa vào đạo.
Trước khi con rời động đá do Thầy tạo ra cho con, một hôm con đã mộng thấy một vị thiền sư mặc áo trắng bảo rằng: "Kinh Pháp Hoa vi diệu vô lượng, tuy dị hiển nhưng nan thành, nếu cầu chấp vào đó, ông là người phải gánh chịu những dư báo gian truân và chứng minh cái nghĩa "TỊNH" và "ĐỘNG". Biểu thị việc làm "tiệm tiến" là bước đi vững chắc, còn "dục tốc" thì sẽ sa ngã, nơi thực nghiệm của ông là rừng thiêng nhiều thú dữ, về phía Tây cách đây ba mươi dặm, ông đến đó sẽ gặp nhiều di tích.
Mộng tuy sáng tỏ, nhưng chỉ dẫn lại mơ hồ, núi rừng bao la, cứ nghe phương nào có tiếng cú kêu, có tiếng hố gầm là con đến, quả nhiên, nhờ đó mà gặp được ngôi Thạch Động vừa ý. Vì ở đây có cảnh động hùng vĩ, có suối ngọt, có cây rau "Ranh" để sống, chắc Thầy biết rau này lá nó dài hơn một gang tay, có thể ăn sống, ăn luộc, hoặc nướng thì phồng lên như bánh tráng rất thơm ngon. Có những lúc con đi hái rau gặp số voi năm, bảy con, chúng cũng ăn rau Ranh, trông chúng rất hiền từ, khi chúng thấy con thì vòi hất lên cao liền nghe những tiếng âm vang réo rắt như tuồng tiếng sáo. Những chú voi con là gạch nối thân thiện giữa con và các con voi lớn. Có một điều là từ lúc quen với chúng rồi, thì số rau chung quanh động, chúng không bao giờ ăn đến một lá, hình như chúng chừa lại để dành cho con vậy. Điều đó, con âm thầm thấy là một khích lệ thiêng liêng làm cho con phấn chấn trên việc tu niệm nhiều hơn.
Một tháng sau con mới tiếp nhận cái dĩa trầm do người Thượng trao đến. Điều nầy thì Thầy và các chú đã biết.
Khi người Thượng về rồi, con đem cái dĩa ra chiêm nghiệm, thoạt đầu con ngửi thì nghe mùi thơm nhưng không phải mùi trầm, một lúc sau con thấy choáng váng vì hơi nồng kỳ lạ, đến nỗi khí quan gần như tắc nghẹn. Con nổi bực vất cái dĩa đó vào động, con nằm nghỉ rồi mê thiếp đi và một giấc mộng hãi hùng lại đến.
Con thấy đã vào trong một vườn hoa và gặp một người con gái, cô gái trao cho con một tờ giấy vàng, trong giấy vẽ hình một con đường từ núi xuống đồng bằng, hai bên đường chỉ toàn là những chấm đen và rắn rít. Con đường nầy chấm dứt ở giữa đồng, chỗ chấm dứt có hình một người đàn ông cõng hai đứa bé, hình người nầy trông hao hao giống con. Kế lật trang sau thì thấy ở đầu tờ giấy viết hai chữ "lai sanh" và vẽ một cái dĩa giống như cái dĩa mà người Thượng đã trao, nhưng trong dĩa thiếu hình con chim két.
Lúc ấy con nghe tiếng nói văng vẳng "cuộc đời gánh chịu và thực nghiệm của ông là đấy". Con giựt mình tỉnh giấc.
Hai điềm mộng, khi con lén giã biệt Thầy và bấy giờ, tuy khác nhau nhưng tựu trung ý hướng lại có chỗ phù hợp. Càng suy diễn lòng con càng thắc thỏm cho tiến trình tu luyện của con, nhưng nhờ tinh tấn dần dần con lại quên và cũng cho đó là mộng mị mà thôi.
Sự tiến tu như vậy gần hai năm, thì bỗng nhiên bản tâm con tự thấy sáng suốt có thể thấy biết những việc ở xa khoảng mười lăm cây số trở lại - có điều con biết thứ sáng suốt nầy không phải là "tuệ" tự nơi mình hiển hiện, mà chính ở khả năng công đức thọ trì kinh Pháp Hoa. Mỗi lần tụng kinh tuy con không nhìn lại nhưng con vẫn thấy rõ được hình dáng các vị thiên thần uy nghi khi biến, khi hiện ở bên cạnh, và có bao nhiêu cọp, beo, rắn rết gần xa nghe kinh ở trước động.
Cái uy nghi bất khả thuyết ấy, tự nhiên lan rộng, làng Thượng về quy y, dân chúng hâm mộ lên cầu phước - Từ đó động mới có Tăng chúng và tín đồ, và cũng từ đó động mới chứa đựng những món ăn, gạo nếp, đậu, mè của đồng nội. Sự kiện đông đảo có lẽ là một nguyên nhân cho "Tịnh diệt động sanh" vậy.
Theo sự xác nhận của quần chúng thì từ đây núi rừng nó đã khoác lên bộ mặt mới - hiền hòa nhưng rộn rã. Cọp vốn thích ăn người nhưng khi thấy người chúng lại bỏ đi, nếu ai gan dạ nhìn ngắm chúng thì chúng cũng nhìn lại, nhưng khác với cái nhìn cân lượng để vồ bắt.
Cũng bởi đó, mà hàng tháng mấy chục bịnh điên họ võng cáng mang lên. Có những con bịnh trông xanh xao ốm yếu, nhưng khi cơn bịnh phát lên thì sức mạnh của họ lại mãnh liệt phi thường. Họ có thể nhổ một thân cây to như cổ tay và cao hàng hai ba, thước. Họ vung mạnh đủ sức ngã lăn năm sáu người chung quanh. Ấy thế mà họ thấy con là quỳ lạy như đứa trẻ ngoan sợ trị tội. Con đâu có biết chữa điên, con chỉ vì lòng thương đem bài chú "Đại bảo quảng bát lầu cát" mà nguyện cho họ. Rồi từ đó về sau bịnh họ không còn tái diễn nữa.
Cũng từ đây, cảnh Tịnh đã hóa nên vô tịnh, và cũng từ đây con mới nhận chân được cái nghĩa của điềm mộng ban sơ. Tuy nhiên con sợ uổng phí công phu, muốn đi ngược lại cái điều gọi là "Cơ duyên dĩ định". Có lẽ vì sự cưỡng cầu đó mà con lại gặp phải một tai nạn - hay nói rõ hơn là bị một độc chất kỳ dị :
Mùa mưa năm ấy cô Trầm Thị Két đi hái lá rau Ranh. Cô gặp trên thân cây một cái nấm nở to như bàn tay sè, mùi của nấm rất thơm, ngâm trong nước muối không thay đổi màu nước, chứng tỏ nấm rất hiền và ăn được. Thế là họ hấp chung với rau cho con. Sau khi ăn xong độ ba giờ thì con phát bịnh, tứ chi đau nhức, mồ hôi vã ra, mắt như mờ hẳn không sao chịu nỗi. Con phải gắng hết sức thọ trì kinh chú mong qua cơn bịnh ngặt nghèo. Bấy giờ Kinh Pháp Hoa đối với con đã nhập tâm. Không còn phải nhìn vào Kinh nữa, chỉ cố tưởng và duy trì những phát hiện kỳ hiệu trong khi thọ niệm mà thôi. Nhưng quái dị, hình ảnh cái dĩa mà con đã vứt vào xó động từ lâu, giờ nó lại hiện rõ ra trước mắt: Cái cảnh hoa sen lại bị xé nát, những hạt non rơi rụng, rồi cơn đau nhức lại mãnh liệt hơn.
Sự cầm cự, chịu đựng đã qua ba ngày đêm, nhưng chỉ có tăng mà không giảm. Từ ông Hồng Trí, người thị giả, đến mọi người họ chỉ than khóc, kêu cứu, người Thượng giỏi thuốc cũng đành vô phương. Trong ba hôm đó, lúc nào cô gái họ Trầm cũng núp sau vách động vừa khóc vừa cầu nguyện, nhìn mọi người làm thuốc, thoa dầu, hơ bóp cho con.
Các bà cụ bảo cô đến làm việc ấy nhưng con không cho. Bỗng thoáng một ý tưởng ngộ nghĩnh lại đến "Con két có thật mổ bông sen hay nó bắt sâu cho sen ?" và con lại chấp nhận lời thỉnh cầu của các cụ để cô ta săn sóc - cô săn sóc trước sự hân hoan chăm chú của mọi người !
Cũng chai dầu quế ấy, nhưng đến tay cô ta thì một công hiệu trừ bịnh quả thật mau lẹ, dần dần con thấy bớt đau nhức. Con vươn mình đứng lên và cho mọi người an nghỉ. Thì... một hiện tượng kinh khiếp đã xảy ra như có vẻ chờ đợi từ trước: hàng chục con rắn vằn vện mà mọi khi chúng hiền hòa như có thể ve vuốt được, nhưng giờ phút nầy chúng lại phồng mang trợn mắt, phun phì phì như đón chặn chẳng cho một ai ra khỏi cửa động. Còn chung quanh động có cả hằng trăm tiếng chim cú đua nhau rúc dài, vang dậy như một rừng ma hiển hiện. Con đứng lên xô đuổi thì chúng thụt lùi nhưng vẫn trong tư thế ương ngạnh bất phục. Để thí nghiệm đối phó với đột biến quá lạ ấy, con liền trở về tụng kinh, thì cảnh tượng quái vật tự động im lặng, nhưng cơn đau nhức lại tái phát và lần nữa cô Két lại lấy dầu thoa bóp, khi cô và mọi người trở ra thì cũng rắn gáy, cũng cú kêu lại có phần hơn trước.
Bấy giờ tinh thần mọi người đã quá mỏi mệt và con cũng thực nhận được hậu quả của điềm mộng "tờ giấy vàng" câu "cực Tịnh sinh Động" Thầy dạy năm xưa, quả nhiên con đã vướng mắc vào ấy.
Chúng con bàn cùng nhau quyết định trả lại sự yên tịnh cho núi rừng, cho cổ động.
Hôm rút lui mới thật hãi hùng khủng khiếp - con nói hãi hùng là nói với mọi người, chứ riêng con việc sanh tử con coi đó là một ảo hóa, dù có tự đưa đầu vào miệng cọp, và miệng cọp có từ từ khép lại con cũng coi thường, thì sá gì cái cảnh chờn vờn hăm dọa của bọn chúng.
Đoàn người xuống núi, trừ con ra, còn có ba chú, hai cụ già, ba bà lão và cô Két. Chúng con rời động lúc đúng trưa, đi vừa được cây số, thì trước mặt chúng con, có sáu chú cọp vằn ngồi choán bít cả lối đi. Nhìn phía sau càng thêm kinh hãi, có cả rắn móc đuôi trên cây thòng đầu xuống, cọp ngồi trên vách đá cheo leo, chúng lom lom nhìn bọn con như xô đuổi. Con phải hét lên dẫn đường, số cọp phía trước không buồn nhìn lại. Chúng chỉ vẫy đuôi lên vừa chạy vừa phóng uế ra trên mặt đất, trên lá cây hai bên truông rừng. Báo hại quí bà, quí chú sợ đến xanh người. Mình chúng con dính đầy phân cọp từ trên lá rừng. Chắc Thầy biết cái thối của phân cọp được liệt vào hạng nhứt. Cũng may sự dọa dẫm ấy chỉ trong vòng đoạn đường ngắn là hết.
Từ đó, đời con phải chấp nhận cái khổ gian truân của một phàm phu tục tử và chấp nhận sự khinh bỉ của mọi người. Đời đọa lạc của người tu hành còn phải gấp mười lần hơn kẻ thế tục. Con xin nhấn mạnh là kẻ có thực tu hành kia. Chứ còn những người nương vào đạo để mượn sức dây cung hầu nhảy vọt cho một nếp sống riêng tư - hạng ấy cái khổ báo chưa đến với họ.
Ông kết luận :
- Bạch Thầy, con kể như vậy cũng tạm đủ, sự việc của con chỉ hiện hai câu Thầy dạy và chứng minh sự mong cầu "được độ" mà bỏ mất phần "tự độ".
Sau ngày kể chuyện, ông vội từ giã Thầy và chúng tôi dẫn chú Minh ra đi. Từ đó chúng tôi không biết ông ở đâu, sống hay chết (!)
Tôi, kẻ viết bài nầy, đã từ lâu đắn đo suy nghĩ, đem chí nguyện của mình so với sư Chơn Dung, thật quá kém xa vạn bội. Lúc đầu tôi cũng đã khẩu trách, ý trách sư Chơn Dung là mù quáng và thiếu học. Nhưng khi tỉnh ngộ...
Thì ra, cuộc đời của Sư Chơn Dung không phải kẻ sa đọa thuộc hàng mê muội tục tử, mà là một thứ sa đọa bởi đức tính hy sinh dĩ định, nếu không nói đó là hiện thân của hạnh nguyện vị tha! Biết đâu không phải là một trong "lục quần Tỳ kheo" làm kẻ dọ đường cho hai lãnh vực "Tịnh" và "Động", trong thời mạt thế.
Nếu tôi không lầm thì hầu hết học tăng khi học đạo đều muốn sống nơi non xanh u tịch. Sư Chơn Dung là mẫu người cho ta thấy ở trong cái "Động nhập thế" để tìm ra "tịnh xuất thế". Hơn là tìm cái tịnh để rồi biến ra Động luân chuyên.
Hơn nữa, Sư Chơn Dung còn cho ta một kinh nghiệm, khi tâm mình chưa Tịnh, dù sáu căn có được tinh minh bởi công đức thọ trì đi nữa thì cũng chưa phải là cứu cánh.
Xin thành thật cầu nguyện những sơ tâm tiến. Đạo được kiên cố.
Trích Tạp chí Hoằng Pháp của Viện Hóa Đạo do Hòa thượng Trí Thủ làm Tổng Vụ Trưởng, 1973).
Reply
#22
CHÂN TUỚNG SỰ THẬT CỦA THỦ DÂM 

Hiện thời là thời đại dục vọng giàn giụa [tràn lan], người ta không những không lấy làm hổ thẹn, ngược lại còn cho đó là vẻ vang, thật là xấu hổ đến cùng cực.

Lòng đại từ bi của chư Phật Thế Tôn thật là bao la, không bờ bến. Thích Ca Mâu Ni Phật, lúc còn tại thế đã từng nhiều lần ân cần dạy bảo hàng chúng đệ tử nhất định phải đoạn-dâm, bao g…ồm cả chánh-dâm! Chánh-dâm chẳng đoạn, quyết định chẳng thể thành Phật, chỉ có đi theo dòng sinh tử tương tục nơi lục đạo luân hồi, còn tà dâm thì nhiều kiếp phải chịu thống khổ trong địa ngục. Thời đại mạt pháp, Phật Bồ Tát ở vào thiền định hoặc trong mộng nhiều lần gợi ý cho những đệ tử hữu duyên, dẫn dắt bọn họ rời xa họa hại của dâm dục! Chánh-dâm phải nhanh đoạn dần, tà dâm thì lại càng không có chỗ để nhân nhượng, phải lập tức đoạn trừ, vô cùng khẩn cấp vậy!

Tà dâm nhận lãnh đại khổ báo, sự thống khổ của nó so với khoái cảm của dục lạc vượt quá trăm triệu lần. Vạn phần khủng bố khó mà có thể chịu nỗi.

Rất nhiều đồng học, đặc biệt là vào buổi tối quyến luyến những trang web đen, có lúc lại chơi điện tử, sau đó thì vào nhà vệ sinh hoặc phòng ngủ để thực hiện hành vi thủ dâm tự tàn hại mình. Than ôi! Bên cạnh họ có một đám các loài oán-linh, “hấp tinh quỷ”, ma và la sát vui vẻ đến tột bực! Mà những đồng học này vốn đã thọ tam quy và ngũ giới, thần hộ pháp cũng rời xa họ – đứng ở trên mái nhà, trên không, trên mây trút tiếng thở dài!

Rất nhiều đồng học ý chí không kiên cố, lập chí quyết tâm đoạn tà dâm rồi, nhưng về sau lại tái phạm lần này đến lần khác. Như thế cứ vòng đi vòng lại, năm này tháng nọ thân thể cũng bị tổn hại không khác biệt gì, ắt phải tiêu tan! Điều này khiến cho chư Phật Bồ Tát cảm thương sâu sắc.
Xin mọi người lập tức khởi lòng tận hết hiếu đạo, trọn vẹn thiên lý, tuân giữ quốc pháp, tu hành chánh đạo, thể nhận Phật tâm, liễu thoát sanh tử, tức khắc đoạn dâm!

Thủ dâm chẳng khác nào tự hại mình. Muốn trừ bỏ thói quen xấu thủ dâm này thật là không dễ dàng! Có người vì đã từng [tiếp xúc qua], việc ấy để lại cho họ cảm giác hưng phấn, kỳ thực loại cảm giác này là “giả tướng” [không phải thật]! Sau lưng của sự hưng phấn chính là tự tàn hại mình! Trong không gian này của chúng ta có rất nhiều loài “quỷ hấp tinh khí”. Mỗi thời mỗi thời khắc, bọn họ đều ở bên cạnh thân của người ham thích thủ dâm, chờ đợi thời cơ. Mỗi khi cơn hưng phấn của người thủ dâm qua đi, tinh khí còn sót lại, đây chính là báu vật [đồ ăn] của “quỷ hấp tinh khí”. “Quỷ hấp tinh khí” yêu thích nhất loại mùi hôi thối này. 

Mỗi lần nghe được có người nhiễm lấy thói xấu này, thật là khiến cho lòng dạ chúng ta đau thương khôn xiết!

Tinh-Khí-Thần“” là tam bảo (ba vật quý) của con người! Quyết không thể tùy tiện “quyên tặng” cho ma quỷ. Một người nếu như có thói quen thủ dâm, khi-sắc của họ nhất định rất tàn tạ. Người đem “tinh” (thứ quý giá nhất của bản thân) rò rỉ [phung phí] thì là kẻ ngu si nhất. Rất không thể tha thứ. Chúng ta tu hành, điều kiện trước tiên là phải có đầy đủ “tinh-khí,-thần”. “Tinh” đủ thì hóa thành “khí”, “khí” lại hoán chuyển thành “thần”. Có “tinh thần” mới có thể đẩy lùi yêu quỷ. Không thì cả ngày đem “tinh” của bản thân rò rỉ [phung phí], không thần không khí đích xác là giống như loài quỷ.

Bên cạnh thân của người ham thích thủ dâm thường dẫn theo một đám “quỷ hấp tinh khí”, như vậy vận-khí cũng sẽ không tốt [trở thành quyến thuộc của quỷ]. Thủ dâm thì phải xuống địa ngục! Ngàn vạn lần đừng đẩy bản thân mình xuống địa ngục. Phải thức tỉnh! Thủ dâm chính xác là không dễ dàng trừ bỏ, thật giống như hút ma túy vậy. Thế nhưng nếu bạn có quyết tâm, nói khó thì cũng không khó. Chính là xem bạn có thật lòng thật dạ trừ bỏ hay không!

Thật muốn trừ bỏ thủ dâm mà nói, không phải là không có biện pháp:

Thứ nhất, xem bạn có quyết tâm đến cùng hay không.

Thứ hai, nghĩ đến ân đức của cha mẹ, thủ dâm khác nào tự hại mình, bạn không phụ lòng cha mẹ sao?

Thứ ba, mỗi ngày đối trước Phật Bồ Tát [chân tâm thành khẩn sám hối], tốt nhất mỗi ngày nên bái-sám lễ Phật.


Thứ tư, thời thời khắc khắc đề khởi chánh niệm, đừng mãi nghĩ đến những thứ đó. Lúc nghĩ đến thì hãy dốc sức trì chú hoặc đọc kinh niệm Phật hiệu.

Thứ năm, quán tưởng một tý, sau mỗi lần thủ dâm, các loài “quỷ hấp tinh khí” kia đang đua nhau nhấm nháp bảo bối của bạn. Mạng của bạn cũng bị rút ngắn theo từng ngày một, địa ngục cũng dành cho bạn một chỗ. Các bằng hữu thân mến, thật là đáng sợ biết bao.

Bạn không thấy được đám yêu ma kia, cũng không có nghĩa là bọn họ không tồn tại! Chính là vì bạn không thấy được bọn họ, mỗi ngày bọn họ lại càng vui vẻ theo bạn, đợi chờ ăn bảo bối của bạn.
Hy vọng bạn có thể thật tâm hướng Phật Bồ Tát để sám hối, cải sửa lỗi lầm. Nếu không thì dù cho tôi có khuyên đến một trăm lần đi nữa đều là dư thừa. Hãy mau mau thức tỉnh, mau mau thức tỉnh! Trăm điều thiện hiếu làm đầu, người từ dâm dục mà sanh, muôn điều ác dâm đứng đầu, người từ dâm dục mà chết.

Báo ứng hiện đời của người thủ dâm, không thể không thận trọng:

1, Người phạm thủ dâm, thân thể sẽ ngày càng suy yếu, thường thường cảm mạo, ù tai, hoa mắt, miệng lưỡi sanh lỡ loét [nhiệt miệng, lưỡi], đau xương sống thắt lưng, đau chân, nghẹt mũi …

2, Người thủ dâm, tinh lực thiếu kém, đầu óc mê mờ, não trướng nặng đầu. Ban ngày luôn muốn ngủ, buổi tối lại ngủ không yên, sinh hoạt khó có thể như người bình thường …

3, Người thủ dâm, tướng mạo [hình dáng] sẽ ngày càng kém. sẽ ngày càng xấu xí [khó coi], khuyết thiếu dương cương – sức sống sinh lực thanh xuân. Ngày thường là một bộ dạng ủ rũ tục tĩu …

4, Người thủ dâm, tổn hại nghiệm trọng đến cơ năng của não, dẫn đến sức ký ức (sức nhớ) xuống thấp trầm trọng, đánh mất năng lực học tập …

5. Người thủ dâm, lúc đối mặt với nữ sinh thì không được tự nhiên, thẹn thùng, khó có thể kết giao [khai thông] bình thường với người khác phái, nói yêu thương cũng rất khó vừa lòng đẹp ý …

6. Người thủ dâm, công danh bị xấu rất nhanh, rất khó thi đậu ngôi trường mà bản thân hy vọng. Thăng chức tăng lương các loại, thường sẽ không thuận lợi

7. Người thủ dâm sẽ hao tổn đi rất nhiều phúc báo của bản thân, sau cùng phần lớn biến thành người bình thường, nghèo túng …

8. Người thủ dâm, tương đương với chỗ tự sát mãn tính, là đại bất hiếu vậy …

9. Người thủ dâm, tựa như một cái phễu lớn, sẽ nhanh chóng chảy mất công đức mà mình tích góp được, tu hành không có chỗ nào thành tựu …

10. Người thủ dâm, đóng đi cánh cửa của các điều thiện, khiến Thiện thần hộ pháp rời xa; hãm vào trong vực sâu của vạn điều ác, được ma-dâm tà quỷ gia trì. Nếu không đoạn trừ, hiện đời chung mạng lập tức đọa lạc vào chốn địa ngục, muôn kiếp khó ra …

Báo ứng hiện đời của người thủ dâm, không thể không thận trọng! Nam Mô A Di Đà Phật

Lược dịch: Song Thân
Chia sẻ của một đồng học
Reply
#23
CÓ NHỮNG TÁC HẠI CỦA THỦ DÂM.

.Vì cứ 40g máu, cơ thể mới tạo ra 1g tinh trùng, cứ 40g tinh trùng mới chế tạo ra được 1g tủy xương, cứ 40g tủy xương mới chuyển hóa chế biến thành 1g tế bào não.

=> 1600g tinh trùng mới tạo thành 1g tế bào não.
Vì vậy tác hại thủ dâm nhiều là bị giảm trí thông minh, trí nhớ là điều dễ hiểu.
2 – Thiếu máu, suy nhược cơ thể.
Vì máu đã chuyển hóa thành tinh trùng quá nhiều. Máu rất quan trọng để nuôi các phủ tạng của cơ thể. Thiếu máu thì toàn bộ cơ thể bị suy nhược.
3 – Loãng xương, khô khớp
.
Vì không đủ tinh trùng để sản sinh tủy nuôi xương. Tác hại thủ dâm nhiều sẽ bị tình trạng khớp khô, nếu nặng sẽ nghe tiếng lạo xạo trong khớp khi cử động. Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến thoái vị đĩa đệm và gây đau nhức xương khớp về sau.

4 – Suy thận.

Vì theo Đông Y, thận có vai trò quan trọng trong việc sản sinh tinh trùng. Việc thủ dâm nhiều khiến thận phải làm việc quá sức để tạo ra tinh trùng mới.
Như thế nếu thủ dâm mà không cho xuất tinh thì sao? Như vậy thì còn nguy hiểm hơn vì trong quá trình thủ dâm, tinh trùng đã ra ngoài túi tinh và đi theo ống dẫn tinh, tuyến tiền liệt. Phần tinh trùng này sẽ chết và gây mủ ở đây. Lâu dài sẽ gây viêm và khả năng ung thư.
5 – Giảm tuổi thọ.

Điều này thường thấy ở các vị vua dâm loạn. Họ thường chết sớm ở tuổi 30-40 và trước lúc chết cũng đầy bệnh tật.
6 – Nguy cơ ung thư.
Như trên đã nói, tinh trùng trong lúc thủ dâm sẽ chết nơi ống dẫn tinh gây mủ. Lâu dài sẽ bị viêm và khả năng gây ung thư.
7 – Khó thành công
.

Vì muốn thành công phải có phước lớn. Mà phước đã đem xài hết trong khi hưởng thụ dục lạc nên còn ít phước. Và vì ít phước nên làm gì cũng khó khăn, trắc trở, dễ thất bại. Đây là 1 tác hại của việc thủ dâm mà nhiều người không ngờ tới.
8 – Tăng tính ích kỷ
Nguyên tắc của tâm lý là càng hưởng thụ nhiều bao nhiêu thì sẽ càng trở nên ích kỷ bấy nhiêu. Ai hưởng thụ tình dục nhiều sẽ trở nên vô tâm, ích kỷ với mọi người xung quanh, thường không để ý đến buồn vui của người xung quanh.
Đây cũng là 1 tác hại thủ dâm không thể biết được. Chỉ có người xung quanh nhận ra mà thôi.
9 – Bị nhút nhát, rụt rè
.
Theo Đông y, tinh thần mạnh mẽ liên quan chặt chẽ tới thận. Thận yếu tinh thần sẽ bạc nhược, yếu đuối, dễ sợ hãi rụt rè. Bên cạnh đó, người phước nhỏ cũng sẽ là người nhút nhát rụt rè. Thủ dâm nhiều khiến phước bị tổn hại nên người đó sẽ càng ngày càng trở nên sống khép kín và nhút nhát hơn.
Qua đây thấy tác hại thủ dâm không đơn thuần chỉ là sức khỏe, mà còn làm hại đến cả tâm hồn.
Vì làm tổn hại sức khỏe bản thân. Mà sức khỏe, cơ thểnày là do cha mẹ nuôi nấng hàng chục năm mới được.
Nhiều người không nghĩ đây là 1 tác hại thủ dâm. Họ cho rằng cơ thể họ muốn làm gì thì làm. Nhưng nếu không được cha mẹ nuôi thì làm cách nào họ từ 1 bào thai trở thành 1 người trưởng thành?
11 – Phạm tội tà dâm.
Tà dâm nghĩa là có hành vi, tư tưởng dâm dục với người không phải là vợ hoặc chồng. Người thủ dâm thường không thủ dâm đơn thuần mà kết hợp với tưởng tượng hoặc xem phim ảnh đồi trụy.
Các đối tượng này mỗi lần mỗi khác. Vì thế dù là không ngoại tình ngoài thực tế nhưng tư tưởng đã là ngoại tình, và vì thế đã phạm tội tà dâm. Quả báo của tội tà dâm tùy nặng nhẹ, có biết sám hối hay không mà có thể đọa địa ngục sau khi chết hay không.


Nguồn:http://cainghientinhduc.net/11-tac-hai-thu-dam-o-nam-gioi/
Reply
#24
NHỮNG CHUYỆN TÍCH VÃNG SANH (Trích trong Trang nhà Quãng Đức . Niệm Phật Luận của Đaị Sư Đàm Hư, Việt dịch: Thích Tâm An).

Đối với việc niệm Phật được vãng sinh của người xuất gia, tại gia, nam, nữ, người già, trẻ thơ, và những tướng lạ trang nghiêm xảy ra vào giờ phút lâm chung của những người niệm Phật đã có ghi chép trong truyện Vãng Sinh, nếu nói ra đây thì không sao kể hết.
Từ ngày tôi xuất gia đến nay, chính tôi đã chứng kiến người niệm Phật được vãng sinh hơn hai mươi lăm vị, trường hợp vãng sinh được nghe người khác kể thì rất nhiều. Nhân đây, tôi xin kể ba vị mà tôi đã tận mắt thấy họ vãng sinh, mong sao qua những câu chuyện đó, có thể giúp được phần nào làm cho tín tâm niệm Phật của các bạn càng thêm tăng trưởng.

Vị thứ nhất là một người xuất gia, pháp sư Tu Vô, quê ở Quản Vi. Ngài xuất thân trong một gia đình làm nghề gạch ngói. Vì gia cảnh gặp khó khăn, làm công rất gian lao vất vả. Do đó mới cảm nhận cuộc đời khổ nhiều vui ít, mạng người trong hơi thở, tạm bợ như giọt sương đầu ngọn cỏ, như làn điện chớp trong không trung. Thế mà hằng ngày mọi người lại tranh đấu hơn thua, giành giựt lẫn nhau để rồi phải đau khổ. Ngài thường tư duy về pháp diệt khổ, nghe người ta bảo niệm Phật tốt, nên phát tâm niệm Phật. Sau đó xuất gia, chính thức được học Phật pháp, nhất là pháp môn Tịnh độ, sau khi được nghe lại càng khẩn thiết niệm Phật, ngài gặp người khác cũng khuyên niệm Phật.

Năm Dân Quốc thứ 50, tôi ở tại chùa Cực Lạc, Đông Bắc Cáp Nhĩ Tân, thỉnh lão Pháp sư Đế Nhàn truyền giới.
 Một ngày nọ, có một vị sư đến tìm tôi và nói cho biết rằng : “Có một vị sư là Tu Vô từ Quản Vi đến, trong kỳ giới này phát tâm hành khổ hạnh”. Sau đó đưa vị sư vào gặp tôi, tôi mới hỏi sư có thể làm được gì ? Sư đáp : “Tôi phát nguyện chăm sóc những người bệnh”. 
Lúc đó, Pháp sư Định Tây trụ trì chùa Cực Lạc nhận sư vào chùa, cho sư ở một căn phòng ngoài viện. Chưa đầy mười ngày, sư lại đến tìm tôi nói cần phải đi. Lúc đó Pháp sư Định Tây đang ngồi với tôi hỏi sư rằng : “Thầy phát tâm trông coi những người bệnh, vì sao chưa đầy mười ngày lại đòi đi ? Như vậy tâm thầy không kiên cố rồi !”. Sư Tu Vô đáp : “Tôi không đi xứ nào cả mà tôi về Tây phương, kính thỉnh sư giám viện mở rộng lòng từ bi, chuẩn bị cho tôi mấy trăm cân củi, để thiêu sau khi tôi đi vậy”. Pháp sư Định Tây hỏi lại : “Vậy khi nào thầy đi ?”. Sư Tu Vô đáp : “Trong vòng mười ngày nữa”. Trả lời xong, sư trở về thất. Ngày thứ hai, sư lại đến tìm tôi và Pháp sư Định Tây nói : “Kính thưa Pháp sư ngày mai tôi đi, thỉnh Pháp sư chuẩn bị cho tôi một căn phòng, và tìm cho tôi mấy người trợ niệm để đưa tiễn tôi đi”. Sau đó Pháp sư Định Tây cho người quét dọn một căn phòng trong nội viện, tìm một số gỗ khô, chất thành một đống, lại tìm mấy thầy chuyên tu niệm Phật để chuẩn bị trợ niệm. 

Trước giờ phút vãng sinh, những người trợ niệm nói với sư rằng : “Sư Tu Vô trước lúc vãng sinh cũng nên làm mấy câu thơ, câu kệ, để lại cho chúng tôi làm kỷ niệm chứ !”. Sư đáp lại rằng : “Tôi vốn xuất thân từ nơi khổ cực, sinh ra đã phải chịu sự ngu dốt, vì vậy thơ kệ đều không biết làm, thế nhưng tôi có một câu kinh nghiệm, xin đọc cho chư vị nghe, đó là : “Người nói được mà không hành được, không phải làngườichân trí tuệ”.
 Sau đó sư ngồi kiết già, mặt hướng về hướng Tây niệm Phật, chưa đầy mười lăm phút sau thì vãng sinh. Từ lúc sư vãng sinh cho đến chiều, không khí ngoài trời rất nóng, thế nhưng sắc diện của sư đầy vẻ thanh thoát lạ thường, thi thể tỏa ra một mùi thơm, cũng không có một con ruồi. Pháp sư Đế Nhàn cùng một nhóm Phật tử đến xem khen ngợi trường hợp thật hy hữu. Sau đó, đem thi thể sư hỏa thiêu hoàn toàn không có một mùi hôi nào. Về sau, cư sĩ Phan Đối Phù nghe được sư việc, lấy sự việc bình sinh niệm Phật của sư Tu Vô viết thành một tập sách để làm mô phạm cho người niệm Phật.

Vị thứ hai, là cư sĩ Trịnh Tích Tân, người Sơn Đông, là một thương gia. Vì xem kinh Phật, biết được niệm Phật là tốt, từ đó phát tâm niệm Phật, bản thân không lấy vợ. Năm 1922, tại Thanh Đảo được nghe tôi giảng tam quy và những lợi ích của việc niệm Phật, sợ mình không chuyên tâm niệm Phật, nên cư sĩ đem mọi chuyện buôn bán trong gia đình giao cho em trai lo liệu. Từ đó chuyên tâm vào niệm Phật, về sau ông tập luyện và giảng Kinh Di Đà. Mỗi năm có kỳ hội giảng kinh tại Thanh Đảo, đều có ông chủ trì giảng một hai ngày, rồi sau đó ông lại đến huyện Bình Độ giảng cho bạn bè. Năm 1924, cư sĩ có mời tôi đến Bình Độ giảng một lần. 
Mùa Xuân năm 1928, cư sĩ lại đến Bình Độ và Thanh Đảo giảng kinh. Thấm thoát thời gian trôi qua, một hôm có người từ Bình Độ đến nói với tôi : “Lão Pháp sư ông có biết không ! Cư sĩ Trịnh Tích Tân đã quy Tây rồi”, (theo tập tục Giao Đông người ta gọi người chết là nhật quy). Nghe người đó nói xong tôi rất ngạc nhiên, tôi mới hỏi : “Trước đây mười ngày tôi còn gặp ông ta, thấy còn rất mạnh khỏe, vì lý do gì mà ông ta đi nhanh như vậy ? Ông ta có bệnh hoạn gì không ? Hay có gặp tai nạn gì ?”. Người ấy lại đáp : “Sau khi ông giảng bộ Kinh Di Đà xong, mọi người đều ra về, chỉ còn khoảng năm sáu vị cùng ngồi lại nói chuyện và dùng cơm trưa, phần lớn những người này lại bạn bè thân thiết của ông. 
Sau buổi cơm trưa, ông mời tất cả những người bạn vào một căn phòng, rồi nói ông phải đi. Mấy người bạn mới hỏi : “Ông đi đâu sao lại mời chúng tôi vào phòng thế ?”. Cư sĩ đáp : “Tôi vãng sinh, vì e ngại ra đi tại nhà người khác sẽ phiền phức, nên mới mời chư vị vào đây vậy”. Các bạn ông lại nói : “Chúng ta là bạn tri giao đã nhiều năm, chẳng những bạn vãng sinh, mà ngay cả khi bạn bệnh hoạn mất tại nhà chúng tôi cũng không sao, cần gì phải tìm một gian phòng khác. Hiện tại, nơi đây có rất nhiều người tin Phật, niệm Phật. Nếu bạn chắc chắn vãng sinh, cũng nên để chúng tôi mời tất cả những khác đến xem, để lấy đó làm tấm gương noi theo vậy”. Nói xong, những người bạn ông vội quét dọn hai căn phòng rồi chọn lấy một. Cư sĩ Trịnh nói đôi lời tạ từ cùng các bạn, sau đó ngồi xếp bằng, mặt xoay về hướng Tây nói với những người bạn ông ta : “Xin cáo từ chư vị, tôi vãng sinh đây ! Chúng ta là những người tin Phật niệm Phật, kính thỉnh chư vị hãy niệm Phật để tiễn tôi một phen”. 
Những người bạn lại nói : “Nay bạn vãng sinh sao không để lại vài câu kệ cho chúng tôi làm kỷ niệm ?”. Cư sĩ lại đáp : “Không nên để kệ lại, nếu mọi người đến đây xem thì đó là một bằng chứng rồi, cũng là một kỷ niệm đẹp rồi !”. Nói xong, mọi người đồng niệm để trợ tiễn ông ta, chưa đầy mười lăm phút sau ông ta mỉm cười rồi vãng sinh. Do đó mà cả huyện Bình Độ ai ai cũng tin niệm Phật là tốt, đồng thời có nhiều người tin Phật hơn.

Em trai của cư sĩ Trịnh, ban đầu thấy anh xả bỏ sản nghiệp chuyên tâm niệm Phật thì chưa tin niệm Phật mấy, nghe anh khuyên niệm Phật cũng miễn cưỡng niệm, nhưng tâm chưa khẩn thiết cho lắm. Thế mà sau khi chứng kiến cảnh anh trai mình niệm Phật được vãng sinh, biết trước ngày giờ và ra đi trong thanh thản, từ đó về nhà cũng tin sâu, nguyện thiết niệm Phật. Ba năm sau, cũng vãng sinh biết trước ngày giờ, chỉ khác anh trai là lúc lâm chung có ít bệnh.

Vị thứ ba là nữ cư sĩ họ Trương, sinh được một trai một gái, gia cảnh rất khó khăn, chồng làm nghề kéo xe ở một bến cảng, còn cô Trương buôn bán trong chợ Thanh Đảo. Nhà ở cạnh tịnh xá Trạm Sơn, trong tịnh xá có thành lập hội Phật học. Mỗi ngày cô đều đến tịnh xá lễ Phật và nghe kinh, do nhân duyên đó mà quy y Tam Bảo, được nghe Phật pháp, một lòng tin Phật. Bình thường ở nhà niệm Phật, hằng ngày đều dẫn hai con đến tịnh xá lễ lạy và nghe kinh. Nghe xong, lại quay về nhà chăm lo gia đình, một bề niệm Phật.

Cuối năm 1926, một sáng nọ, cô Trương gọi chồng đến nói : “Anh ở lại chăm sóc các con, ngày nay tôi phải vãng sinh Cực Lạc”. Anh chồng nghe vợ nói như vậy, vì cuộc sống khó khăn, lại là người ít học tập Phật pháp nên gắt gỏng bảo với vợ rằng : “Đi đi ! Tôi bần cùng chắc không đủ khả năng nuôi bà, bà muốn đi thì cứ đi !”. Sau khi nói xong không hỏi lại vợ một câu, rồi đi làm việc. Cô Trương gọi hai con đến gần căn dặn : “Các con ở lại phải nghe lời cha dạy bảo, không được ngỗ nghịch, nay mẹ phải vãng sinh về thế giới Cực Lạc”. Lúc đó hai đứa con của cô ta còn nhỏ, đứa lớn chưa đầy mười tuổi, đứa bé khoảng năm hoặc sáu tuổi gì đó. Nghe mẹ chúng nói những lời như vậy, cũng không hiểu ý mẹ muốn nói gì. Vì vậy rồi cũng chạy đi chơi, sau khi chồng và con đều đi cả, cô Trương vội thu xếp việc nhà gọn gàng, tắm rửa sạch sẽ, vì nhà nghèo không có áo quần mới để thay nên cô đành phải mặc lại áo quần cũ, lên giường ngồi xếp bằng, chắp tay niệm Phật vãng sinh.

Nói đến hai đứa con của cô ta, sau một hồi đi chơi trong lòng cảm thấy đói nên quay về nhà ăn cơm. Thấy mẹ đang ngồi trên giường lại chưa nấu cơm, ban đầu chúng cất tiếng gọi nhưng không thấy mẹ trả lời, sau đó chúng đến gần lay mạnh vẫn thấy mẹ ngồi yên, hai đứa bé mới biết mẹ chúng đã chết. Chúng vội khóc than gọi hàng xóm đến, mọi người hay tin đến xem, thấy cô Trương tuy đã chết từ lâu, thế nhưng sắc diện giống như người còn sống, họ rất ca ngợi công phu niệm Phật của cô Trương. Sau đó người chồng đi làm về khóc lóc thảm thương. Vì gia cảnh nghèo khó, không có tiền để liệm, nên các vị có tấm lòng tốt trong hội Phật học đứng ra chi phí toàn bộ lễ tang.

Việc quan trọng của đời người là niệm Phật để liễu sinh thoát tử. Không luận là như thế nào, mọi người hãy tự xét hoàn cảnh của chính mình, dù trong bận rộn hay nhàn nhã, hãy sắp xếp cho mình một thời khóa công phu niệm Phật nhất định. Chẳng những vậy, ngay cả lúc làm việc có thể trụ tâm mặc niệm. Bằng ngược lại suốt ngày làm các điều sát sinh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, tạo nhiều nghiệp ác khác thì khó mà tránh đọa lạc tam đồ, luân hồi trong lục đạo, thọ nhận khổ não vô tận. 

Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật có nói : “Loài nào cũng thương yêu thân mạng, muốn cho mình được sống, nên tham ăn những vật bổ dưỡng. Vì thế trong thế gian này, loài mạnh ăn thịt loài yếu, loài khôn giết hại loài dại. Bốn loài (thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh) ăn nuốt lẫn nhau, gốc tại lòng tham sát”.
 Chúng sinh vì tình ái kết chặt, thương tưởng quyến luyến nhau không rời, cho nên thế gian này, cha mẹ, con cháu tiếp tục sinh ra không cùng tột, gốc chỉ tại lòng tham dục”. Tóm lại, vì ba nghiệp sát, đạo, dâm làm gốc, nên nghiệp và quả nối nhau không bao giờ cùng tận. Mọi người hãy nghĩ coi tạo nghiệp sát, đạo, dâm, chịu khổ biết dường nào. Vì thế kính khuyên mọi người niệm Phật, nên niệm càng nhiều càng tốt. Cổ đức có nói : “Niệm Phật một câu phước tăng vô lượng, lễ Phật một lễ tội diệt hà sa”. 

Trên đây, đem những lợi ích của việc niệm Phật nói sơ lược qua, nếu mọi người muốn rõ hơn hãy tham khảo các tập sách “Tịnh Độ Ngũ Kinh” hoặc “Tịnh Độ Thập Yếu” v.v… Nay nói sơ lược đôi điều như vậy cho người sơ cơ có tín tâm niệm Phật. Hy vọng rằng quý vị biết được niệm Phật là tốt rồi, hãy nên phát tâm kiên cố niệm Phật, niệm hết sức thành khẩn, lão thật niệm Phật. Trong tương lai, chắc chắn chúng ta sẽ gặp nhau trong hội chúng ở Tây phương vậy.
Nam mô A Di Đà Phật
(Ngày 1/1/ 1950, năm Canh Dần, tại Học Viện Nam Học, Hương Cảng)



[/url][url=https://quangduc.com/a29296/luan-niem-phat-nguyen-tac-dai-su-dam-hu-viet-dich-thich-tam-an#]
Reply
#25
NIỆM PHẬT LUẬN ( Đại sư Đàm Hư , Việt dịch :Thích Tâm An.)

Trong thời khóa niệm Phật, mỗi ngày chúng ta nên đọc Kinh Di Đà, thường nên đọc vào công phu chiều. Đọc một lần, là một lần bạn đã huân tập cảnh giới thanh tịnh trang nghiêm vào trong tàng thức. Giống như bạn xem phim, một lần xem là một lần những hình ảnh trong phim đã huân tập vào tàng thức của bạn. Cũng vậy bạn đọc Kinh Di Đà lâu ngày, cảnh giới thù thắng trang nghiêm của cõi Cực Lạc sẽ dần dần huân tập vào trong tàng thức của bạn. Tuy hiện tại bạn chưa sinh Cực Lạc mà trong tâm đã được bao vây bởi cảnh giới Tây phương. Trong tương lai, đến giây phút lâm chung của bạn, ngoài công đức trì niệm danh hiệu Phật mà hằng ngày bạn huân tập, sẽ được Phật và Thánh chúng hiện ra tiếp dẫn. Lại còn những cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh mà hằng ngày bạn đọc Kinh A Di đã được huân tập, cũng từ trong tâm thức hiện ra trợ giúp cho bạn vãng sinh nhanh chóng hơn.
Mỗi lúc mọi người lên chánh điện lạy Phật hay nhiễu quanh Phật đều niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Lúc nói chuyện hay trả lời người khác mọi người đều niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Tuy nhiên, mục đích tối hậu là không ngoài việc vãng sinh Tịnh độ thấy Phật thành Phật. Điều đó cho thấy rằng pháp môn niệm Phật rất phương tiện lại còn phổ biến. Giới luật cũng không kém quan trọng, Phật pháp có hưng thịnh hay không, cũng từ chỗ đệ tử của Phật có giữ gìn giới luật thanh tịnh hay không. Mọi người có giữ gìn giới luật thì Phật pháp trụ thế, ngược lại thì Phật pháp sẽ diệt vong.

Thời Phật còn tại thế, xứ xứ mọi người đều lấy Phật làm thầy. Sau khi Phật diệt độ, tất cả mọi người đều lấy giới luật làm thầy. Vào giờ phút Phật nhập diệt, bốn chúng đệ tử đều thỉnh Phật trụ thế, vây quanh mà khóc lóc thảm thiết. Lúc bấy giờ, Tôn giả Vô Bần, lòng đầy bi thương suy nghĩ : “Lúc Phật còn tại thế, mọi người lấy Phật làm y chỉ. Nay Phật nhập diệt rồi, muốn cho Phật pháp cửu trụ thế gian phải làm gì ? Cần phải thưa hỏi Phật cho rõ”. Lúc đó, tôn giả A Nan cũng đang khóc lóc thảm thương. A Nan là thị giả Phật, đồng thời mỗi khi Phật thuyết pháp A Nan đều có mặt bên Phật. Do đó mà tôn giả Vô Bần nhờ A Nan hỏi Phật bốn việc. Trong đó có hai điều : Thứ nhất, lúc Phật còn tại thế mọi người an trú vào Phật, nay Phật diệt độ nên an trú vào đâu ? Thứ hai, lúc Phật còn tại thế mọi người lấy Phật làm thầy, khi Phật diệt độ rồi, lấy ai làm thầy ? Phật dạy : “Sau khi ta diệt độ các thầy nên an trú vào tứ niệm xứ, lấy giới luật làm thầy”. Lời di giáo sau cùng đó cho chúng ta thấy giới luật thật quan trọng biết chừng nào.
Phàm là người đệ tử Phật phải nên giử giới . Tuy nhiên, không giữ được trọn vẹn, cũng phải giữ những giới quan trọng. Vì giữ bao nhiêu giới thì có lợi ích bấy nhiêu, nếu giữ được trọn thì sẽ có định lực rất lớn. Các đại tòng lâm Nam tông cũng như Bắc tông đều có quy củ và gia phong. Quy củ và gia phong đó chính là mọi người đồng tu cùng giữ gìn giới luật. Thử hỏi một tự viện, một am thất, một tịnh xá, một niệm Phật đường mà không giữ gìn giới luật thì Phật pháp sẽ ra sao ? Đó là những nơi mọi người thường vãng lai, ứng nhân tiếp vật, do đó cần phải có giới luật. Điều đó cho thấy rằng niệm Phật và trì giới quan trọng như nhau. Hiện tại, Luật tông có Luật sư Hoằng Nhất, ngài tuy là người chuyên hoằng truyền giới luật, thế nhưng lại cũng chuyên niệm Phật và khuyên người khác niệm Phật. Ngoài Luật sư Hoằng Nhất ra còn có lão Pháp sư Đế Nhàn, lão Hòa thượng Hư Vân v.v… không người nào là không chú trọng niệm Phật. Cho nên cổ đức có nói : “Giáo diễn bổn tông, tu hành Tịnh độ” là vậy.

Người niệm Phật ngoài việc nhất tâm niệm Phật, nếu còn lo sợ thân tâm phóng dật hoặc tín, hạnh, nguyện không kiên cố, có thể lấy Tứ niệm xứ và Bát chánh đạo để ràng buộc, kiểm điểm thân tâm. Đối với phương pháp niệm Phật, cũng nên dựa theo căn tính của chính mình mà lựa chọn. Ngoài các phương pháp trì danh niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, thật tướng niệm Phật, còn có một phương pháp hết sức phương tiện, là phương pháp hô hấp niệm Phật. Hít vào bạn niệm “Nam mô A”, thở ra bạn niệm “Di Đà Phật”. Chỉ cần người niệm Phật có tâm kiên cố niệm Phật, từng giây từng phút, trong các oai nghi đi đứng nằm ngồi, không lìa một câu “Nam mô A Di Đà Phật”. Đó là phương pháp rất tiện lợi cho bất kỳ một người nào, dù bạn là một công nhân đang làm việc trong các xí nghiệp, nhà máy hay là một công ty kinh doanh v.v… cứ thực hành như vậy, đến giây phút lâm chung, nghiệp thức cả đời bạn cũng tùy thuộc theo hơi thở niệm Phật cuối cùng đó mà vãng sinh Cực Lạc, được thấy Phật A Di Đà
Reply
#26
NIỆM PHẬT LUẬN ( Tiếp theo)

Người tại gia niệm Phật, trước tiên phải Quy y Tam Bảo, và thọ trì Ngũ giới
Tam Bảo là gì ? Là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. 
“Phật” bao gồm Phật Thích Ca Mâu Ni hiện thân ở cõi Ta Bà, cho đến chư Phật hiện tại, quá khứ và vị lai.
 “Pháp” có nghĩa là quy tắc, đó là lời dạy của chư Phật.
 “Tăng” có nghĩa là hòa hợp, là những người xuất gia thay Phật hoằng dương chánh pháp, làm mô phạm cho thế gian.
Ngoài quy Tam Bảo, mọi người cần giữ gìn năm giới để làm trợ hạnh cho việc niệm Phật.
 Ngũ giới bao gồm : 
không sát sinh,
 không trộm cắp,
 không tà dâm,
 không nói dối,
 không uống rượu.

Không sát sinh là nhân, không trộm cắp là nghĩa, không tà dâm là lễ, không nói dối là tín, không uống rượu là trí. Bạn giữ ngũ giới tức là đã giữ ngũ thường của thế gian. Vì thế gian thường xem trọng nhân nghĩa. Không tàn nhẫn là đạo nghĩa, không cường bạo là lễ nhượng, không tà nhu là thật tín, không dối trá là lý trí, là không ngu si. Người niệm Phật trì ngũ giới là đã nuôi dưỡng nhân nghĩa, đạo nghĩa, lễ nhượng, thật tín, lý trí vừa là chánh nhân quân tử lại có thể làm tư lương cho Tịnh độ.

Ngoài tam quy ngũ giới ra, người niệm Phật còn phải tu tập quán niệm Tứ niệm xứ và Bát chánh đạo trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
 Tứ niệm xứ là gì ? “Tứ” là bốn, “xứ” là nơi, là chốn, là vị trí, là đối tượng, là sở tri, là sở quán. Tứ niệm xứ là bốn cái mà người niệm Phật cần phải nhớ và quán niệm.
 Thứ nhất,Quán thân bất tịnh. Quán niệm thân thể này từ gót chân cho đến đỉnhđầu nơi nơi đều bất tịnh. Thân thể là xác thịt do tinh cha huyết mẹ hợp lại mà thành. Tất cả những gì làm nên và chứa đựng trong thân thể (như : thịt, máu, mủ, phân, nước tiểu, mồ hôi, nước mắt, lông, móng, da v.v…) đều dơ bẩn, hôi hám, không có gì là trong sạch, tất cả đều bất tịnh.
 Thứ hai, Quán thọ là khổ. Khổ nói tóm có tám loại : sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, thương yêu chia ly là khổ, muốn không được là khổ, thù nhau mà sống chung là khổ, năm ấm bất hòa là khổ. Còn nói đến những khổ nhỏ thì trong thế gian này có vô lượng vô biên. Bạn nghĩ xem từ một người, cho đến một gia đình, xã hội nào mà không có những điều khổ. Do đó người niệm Phật hãy quán niệm rằng, dù cảm thọ có vui có khổ, nhưng ở thế gian không có niềm vui chân thật, còn khổ đau thì đầy dẫy. Nếu có vui cũng là cái vui tạm bợ và chỉ có cái khổ trá hình, rốt cuộc cái vui là nguyên nhân của cái khổ. Vì thế, mọi cảm thọ đều là khổ đau. 
Thứ ba, Quán tâm vô thường. Người niệm Phật phải quán chiếu rằng tâm niệm chúng ta luôn thay đổi trong từng sát na sinh diệt, không có một ý nghĩ nào là bền vững chắc chắn, niệm này qua niệm khác lại đến, sáu căn tiếp xúc với sáu trần mà sinh ra vọng tưởng điên đảo, không có một ý nghĩ nào là bền vững, chắc chắn. 
Thứ tư là Quán pháp vô ngã. Phải quán niệm vạn pháp trong thế gian đều do nhân duyên hòa hợp mà làm nên, không vật gì là có bản tính độc lập, là chân thật. Tất cả đều là giả danh giả tướng không có cái gì là có thực ngã. Đó là nói lược về tứ niệm xứ, người niệm Phật phải thường trực tỉnh giác quán niệm như thế, thì tâm niệm Phật mới được vững vàng.
Bát chánh đạo là gì ?Bát chánh đạo là tám nguyên tắc hành động chân chính, là một trong những đạo lý căn bản của đạo Phật. Về mặt nhân bản, đó là nền đạo đức học thực nghiệm của Phật giáo nhằm rèn luyện con người có được một nhân cách đẹp đẽ cao thượng, trọn vẹn. Về mặt tôn giáo, đó là con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau, đạt được an lạc giải thoát, chứng nhập Niết Bàn.
 Bát chánh đạo bao gồm :
 Thứ nhất là chánh kiến, là thấy biết đúng đắn sự thật, là cái thấy vạn vật là vô thường, vô ngã, duyên sinh, đúng với bản chất của chúng, cái thấy không bị phủ che bởi vô minh, thành kiến cố chấp. Trái với chánh kiến là tà kiến. Chánh kiến là trí tuệ của bậc giác ngộ.
Thứ hai là chánh tư duy, là suy nghĩ chân chính, suy nghĩ đúng với bản tính của các pháp là vô thường, vô ngã, duyên sinh. Từ suy nghĩ chân chính sẽ mang đến cho ta tư tưởng chân chính. Nếu tư tưởng xấu xa, sai lầm sẽ làm cho ta trở nên một con người thấp kém, thô lỗ.
 Thứ ba là chánh ngữ, là lời nói chân chính, nhiều khi chúng ta không nói dối nhưng vẫn sai với sự thật. Chúng ta thấy biết như thế nào thì nói như vậy. Nhưng vì cái thấy biết đã sai lạc, lầm lẫn nên dẫn đến chúng ta nói không đúng sư thật. Lời nói chân chính là lời nói không dối trá, không độc ác, không đâm thọc, không thêu dệt và siểm nịnh, là lời nói không xuất phát từ lòng tham dục, ích kỷ, hận thù, giận dữ, ngu dốt, ganh tỵ. Nói năng chân chính là không nói lời nhằm lừa gạt, nịnh hót, phỉ báng, chửi mắng, vu oan, mà luôn nói những lời từ ái, hòa nhã, dịu dàng, đem an vui, lợi ích, tin tưởng cho người.
 Thứ tư là chánh nghiệp, là hành động chân chính. Có ba loại hành động (tam nghiệp) : hành động của ý (ý nghiệp), hành động của miệng (khẩu nghiệp) và hành động của thân (thân nghiệp). Hành động chân chính là hành động được soi sáng bởi chánh kiến, chánh tư duy, được thúc đẩy bởi tình thương và hiểu biết, là đi đứng nằm ngồi đều hành động theo chánh pháp.
 Thứ năm là chánh mạng, là mưu sinh chân chính, là nghề nghiệp chân chính. Ví dụ người niệm Phật, đối với xã hội thường làm các công việc từ thiện. Bác sĩ có công việc chuyên chữa trị bệnh, để cứu lấy sinh mạng cho người bệnh, lại có những người chuyên bán quan tài, giết trâu mổ lợn đó cũng là nghề nghiệp v.v… Tuy nhiên, trong cuộc sống mưu sinh, người người đều phải làm việc vì miếng cơm manh áo, thế nhưng công việc kiếm sống cũng có những nghề nghiệp tốt và nghề nghiệp xấu. Đã là người tu học theo lời Phật dạy, bạn không nên chọn những nghề gây đau khổ cho người khác, hoặc tăng thêm sự bất công cho xã hội, hoặc tàn hại thiên nhiên và nhẫn tâm giết hại sinh mạng của mọi loài. Bạn nên tìm công việc lương thiện, trong sạch, để tăng thêm phước đức, không nên có tâm niệm gian tham, bóc lột sức người, không nên kiếm sống một cách bất lương trên mồ hôi nước mắt của người khác.
Thứ sáu là chánh tinh tấn, là siêng năng chân chính. Chánh nghiệp và chánh tinh tấn có quan hệ mật thiết với nhau. Đứng trên phương diện nghề nghiệp mà nói, cũng là siêng năng, thế nhưng có nghề thì đưa con người đến cuộc sống thăng hoa giải thoát, có nghề lại đưa người ta vào con đường đọa lạc, như nghề đồ tể chẳng hạn. Người niệm Phật tinh tấn không ngừng là nhắm thẳng đến thành Phật, cho nên chánh tinh tấn và tà tinh tấn khác nhau là như vậy. Chánh tinh tấn được đặt nền tảng trên tứchánh cần (những điều ác chưa sinh đừng cho phát sinh, những điều ác đã sinh thì trừ diệt, những việc thiện chưa sinh làm cho phát sinh, những điều thiện đã sinh thì làm tăng trưởng). 
Thứ bảy là chánh niệm, là nhớ nghĩ chân chính, khi làm việc gì thì bạn nên để hết tâm ý vào công việc ấy. Trong cuộc sống đời thường, hằng ngày bạn thường tiếp xúc với nhiều người, nếu bạn không có chánh niệm chắc chắn bạn sẽ gây đau khổ cho mình và người. Người niệm Phật, điều nhớ nghĩ tốt nhất là nhớ nghĩ đến bản nguyện của Phật A Di Đà, nhớ một câu “Nam mô A Di Đà Phật” là tốt nhất. 
Thứ tám là chánh định, là thiền định chân chính. “Định” là giữ tâm ý an trụ vào một đối tượng duy nhất. Phàm làm việc chân chính, bạn nên nhất tâm nhất ý mà làm. Việc gì là tốt ? Là những việc đem lại lợi ích cho mình và cho người cả hiện tại và tương lai. Niệm Phật là việc tốt, do đó bạn nên nhất tâm mà niệm, một khi đã nhập vào niệm Phật tam muội thì đó là chánh định. Trên đây nói sơ lược về Bát chánh đạo cho người sơ cơ niệm Phật. Thực ra Bát chánh đạo khi đi vào nghiên cứu chuyên sâu, chẳng đơn giản như đã trình bày, mà còn nhiều khía cạnh thậm thâm vô cùng.
Reply
#27
KHUYẾN TẤN NIỆM PHẬT (Thích Chân Hiếu).

https://www.youtube.com/watch?v=tgd1gZ-1p4Q
Reply
#28
Chánh Hạnh Niệm Phật.
Đại sư Hám Sơn (Mộng Du Tập)
---o0o---
Cội gốc sanh tử tức là các thứ vọng tưởng hàng ngày của chúng ta, các thứ nghiệp phiền não thương ghét, tham lam, giận hờn của chúng ta, nếu còn một mảy may không dứt thì tức là còn gốc rễ sanh tử. Nay muốn tham thiền đốn ngộ liễu thoát sanh tử, hãy tự suy nghĩ xem có thể một niệm dứt ngay phiền não của nhiều kiếp như chặt đứt một cuộn chỉ hay chăng ?
Nếu chẳng thể dứt sạch phiền não thì dẫu cho đốn ngộ, cũng thành nghiệp ma, đâu nên xem thường ? Các vị tổ xưa kia đốn ngộ, cũng nhiều đời tích lũy công phu tu tập dần dần (tiệm tu) mà được, cho nên “đốn ngộ” này nói thì dễ mà thật ra là rất khó. Nếu không có hai, ba mươi năm hạ thủ công phu, thì làm sao có thể ở trong chốn phiền não lẫy lừng mà được một niệm đốn ngộ. Điều thiết yếu là phải tự biết căn khí mình như thế nào ? Đến như một môn niệm Phật, người đời không biết sự nhiệm mầu của nó, xem là thiển cận, kỳ thật mỗi bước thực hành cho đúng thì như thế nào ? Chúng ta từ khi có sanh tử đến nay, niệm niệm vọng tưởng phan duyên tạo nghiệp sanh tử, đâu từng có một niệm quay trở về soi lại tự tâm, đâu từng một niệm chịu đoạn dứt phiền não. Nay nếu có thể đem tâm vọng tưởng chuyển làm niệm Phật thì niệm niệm dứt phiền não. Nếu niệm niệm dứt được phiền não thì niệm niệm ra khỏi sanh tử.
Nếu một niệm niệm vững chắc không đổi dời nhất tâm bất loạn, so với tham thiền còn có kết quả hơn. Tóm lại, chỉ do một niệm thiết tha chân thực mà thôi. Nhưng tham thiền nhất định cần phải chết đi hết tâm thế tục không còn một niệm vọng tưởng, còn niệm Phật là lấy tưởng tịnh chuyển tưởng nhiễm, dùng tưởng trừ tưởng, là Pháp Hoán Chuyển, cho nên đối với căn khí của chúng ta ngày nay dễ thực hành hơn.
Tu tịnh độ không cần phải kiến tánh, chỉ chuyên lấy niệm Phật làm chánh hạnh và lấy bố thí, trai tăng, tu các công đức phước điền làm trợ nhân trang nghiêm cõi nước Phật trong tâm niệm Phật, tuy phát nguyện vãng sanh, nhưng cần phải biết trước tiên chặt đứt cội gốc sanh tử mới có hiệu quả. Cội gốc sanh tử tức là sự tham lam, hưởng thụ vật chất thế gian tất cả đều là gốc khổ và mọi thứ tâm suy ấy chấp trước giận hờn, cùng các thứ giáo pháp do tà sư tà ma ngoại đạo thuyết, đều phải tận mình mửa ra cho hết, chỉ tin một pháp môn Niệm Phật tâm không lúc nào quên danh hiệu Phật. Phật là Giác, nếu niệm Phật không quên Phật, tức là niệm niệm minh giác. Tâm nếu quên Phật liền là Bất Giác. Nếu niệm đến trong mộng cũng niệm được tức là thường giác không mê muội ! Hiện tại nếu tâm nầy không mê muội thì lúc lâm chung tâm nầy không mê muội, ngay chỗ tâm nầy không mê muội tức là kết quả, nay công việc bận rộn không thể tham thiền, duy có niệm Phật là tốt nhất, bất kể rỗi rảnh, bận rộn, chỗ nào cũng niệm được, chỉ cần một lòng không quên, không còn có pháp nào hay hơn !.
Tham thiền cần phải lìa tưởng, niệm Phật chú trọng vào chuyên tưởng, vì chúng sanh từ lâu nay chìm trong vọng tưởng, đây là lấy độc trị độc, là pháp hoán chuyển mà thôi. Cho nên thâm cứu khó ngộ, niệm Phật dễ thành. Nếu tâm thiết tha muốn giải quyết xong việc lớn sanh tử, đem tâm tham cứu đổi thành tâm niệm Phật, thì lo gì một đời nầy không liễu thoát sanh tử ?.
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si, buông bỏ đến chỗ không còn gì để buông bỏ, chỉ để khởi một câu “A DI ĐÀ Phật”, rõ rành phân minh trong tâm không gián đoạn như sợi chỉ xỏ xâu chuỗi. Dụng công như thế, bất cứ cảnh riêng nào, cũng không bị lôi kéo đánh mất, hàng ngày như vậy trong cảnh náo đông không tạp, không loạn, thức ngủ như một, dụng tâm như thế, niệm đến lúc mạng chung, nhất tâm bất loạn, đó là thời tiết Siêu Sanh Tịnh Độ.
Nếu tâm tha thiết vì việc sanh tử niệm niệm như cứu lửa cháy đầu, chỉ e một phen mất thân người muôn kiếp khó được lại, cần phải cắn chặt lấy một câu danh hiệu Phật nầy, nhất định phải chiến thắng vọng tưởng, bất cứ chỗ nào cũng niệm niệm hiện tiền, chẳng vì vọng tưởng ngăn che. Hạ thủ công phu thiết tha như thế lâu ngày thuần thục tự nhiên tương ưng chẳng cầu thành khối mà tự thành khối.
Phương pháp tu niệm Phật cũng có thứ lớp, người tại gia không cần câu chấp theo thời khoá của chư Tăng trong tự viện, chỉ cần lấy niệm Phật làm chính, mỗi ngày buổi sáng sớm lễ Phật, tụng một quyển kinh Di Đà, lần chuỗi niệm Phật A Di Đà hoặc ba nghìn, năm nghìn, mười nghìn, rồi hồi hướng phát nguyện vãng sanh về cõi nước Cực Lạc. Khoá buổi tối cũng như vậy lấy đây làm định khoá, hàng ngày nhất định không có thiếu sót. Pháp nầy có thể áp dụng phổ thông cho mọi người, nếu vì việc lớn sanh tử thì công phu cần phải khẩn thiết hơn, mỗi ngày trừ hai thời khoá kể trên, suốt ngày đêm chỉ đem một câu “A Di Đà Phật” đặt trong lòng, niệm niệm không quên, tâm không mê muội, tất cả việc đời đều không nghĩ tưởng, chỉ lấy một câu niệm Phật làm mạng sống của mình, cắn chặt không buông, cho đến trong các sinh hoạt hàng ngày, một câu Phật nầy vẫn luôn luôn hiện tiền.
Nếu gặp lúc tâm bất an
do các cảnh giới nghịch thuận phiền não buồn vui quấy nhiễu, chỉ cần đề khởi một câu niệm Phật nầy lập tức thấy phiền não tiêu diệt. Vì niệm niệm phiền não là gốc khổ sanh tử, nay dùng niệm Phật tiêu diệt phiền não, ấy là Phật độ chỗ khổ sanh tử. Nếu niệm Phật tan được phiền não thì có thể thoát sanh tử. Nếu niệm Phật đến trình độ làm chủ được trên phiền não thì ở trong mộng làm được chủ. Nếu ở trong mộng làm được chủ thì ở trong lúc bệnh khổ làm được chủ thì lúc lâm chung rõ ràng biết được chỗ đi. Việc nầy không khó làm, chỉ cần một niệm tâm tha thiết vì sanh tử, nắm chặt một câu Phật không còn nghĩ ngợi gì khác, lâu ngày thuần thục, tự nhiên được đại an lạc, cái vui ngũ dục thế gian không thể sánh được. Ngoài pháp môn Tịnh Độ nầy, không còn có pháp môn nào thẳng tắt giản dị hơn./.
Reply
#29
LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH . (Đại sư Liên Trì)

CHƯƠNG XX .11

1.Việc đại ác ở trần gian.
Trên đời có một việc cực ác mà tất cả người đều hay phạm phải. Những việc cực ác này người đời đều cho là thường, không lấy gì là sai trái. 
Việc cực ác này chính là ăn thịt. Thật vậy, ăn thịt là một việc cực ác tạo ra thế giới này vô số thảm hoạ không may như bệnh ung thư khó chữa, còn tạo ra vô số người cô độc không vợ không con, gia đình ly tán, nhà cửa tan nát. Kinh Lăng Nghiêm đã nói:”Ăn thịt bằng tội với giết hại”.Ăn thịt là giết hại. Một ngày ăn thịt là một ngày phạm tội giết hại. Đã phạm tội giết hại ắt sẽ nhận lấy quả giết hại rất khổ đau. Đây là đạo lý nhân quả không sai lệch một ly. Nên nói rằng việc cực ác và điều bất hạnh trên thế gian chính là ăn thịt và giết hại mạng sống.

2. Việc thiện lớn nhất trên đời.
Trên đời có một việc thiện lớn nhất mà tất cả người đời đều có thể thực hành được. Nhưng việc đại thiện này lại bị người đời huỷ báng, khinh chê, ngăn cản và phê bình, lại còn khinh bỉ và coi thường nữa. 
Việc đại thiện nhất này chính là phóng sinh. Phóng sinh chính là việc thiện lớn nhất để người đời thoát khỏi nạn binh đao và giết chóc chiền miên. Người thực hành hạnh này thành tựu được nguyện vọng khoẻ mạnh, sống lâu, gia đình đoàn tụ, giàu sang và an lạc.Kinh Dược Sư nói rằng:”Cứu giúp mạng sống chúng sinh bệnh nặng được tiêu trừ, giải thoát được tai nạn”…”Tu phước phóng sinh qua được khổ ách, không gặp tai nạn”.
Phóng sinh là việc làm cứu lấy mạng sống chúng sinh, bởi mạng sống chúng sinh là quý báu nhất.
 Vì thế, công đức phóng sinh rất lớn, các việc thiện khác không thể so sánh được.
Đã gieo trồng công đức phóng sinh sẽ được loài vật cảm đến ân đức, Long Thiên hộ trì, chư Phật hoan hỷ và sẽ đạt được phước báu lớn cho bản thân. Đây là đạo lý nhân quả báo ứng không sai lệch. Nên nói rằng: việc thiện và phước báo lớn nhất trên thế gian chính là chuộc mạng phóng sinh vậy.

3. Hết sức vô lý
Việc đáng tiếc chính là người đời chỉ chú ý ở chỗ đoạn dứt việc ác nhỏ mà không chú trọng đoạn việc cực ác. Nguyện sẽ sửa đổi bao nhiêu thói hư xấu nhưng khi nghe nói đến ăn chay và không giết hại, họ không bỏ được hai thói quen xấu ác này. Còn một hạng người chỉ chú ý làm việc thiện nhỏ nhưng không nguyện làm những việc thiện lớn. Họ nguyện làm tất cả những việc thiện nhưng khi nghe nói đến chuộc mạng và phóng sinh, lại ngại lo trước sau chưa muốn làm. Chúng sinh thời kỳ mạt pháp ngu si không trí tuệ, quá sức vô lý, thật đáng thương. Không còn gì vô lý hơn nữa ở việc làm của họ!

4. Được không bằng mất
Ví như có thùng nước rỉ chảy ( tu hành còn hữu lậu) chúng ta nhất định phải nhanh chóng bít lại chỗ thủng ( giữ giới, sửa lỗi) là việc làm cấp bách. Đương nhiên bít lại chỗ thủng là việc làm nghiêm trọng và cấp bách (ăn chay, không giết hại). Nếu bỏ đi chỗ thủng lớn nhất không bít lại, đi tìm những lỗ thủng nhỏ để bít, thì thùng nước sẽ không còn toàn vẹn, nước đã rỉ chảy hết rồi! Hạng người này nhất định tu hành thì nhiều nhưng kết quả không được bao nhiêu, chỗ được không bù đầy chỗ mất. Họ sẽ vĩnh viễn không có ngày thành công.

5. Lựa chọn
Ví như muốn thêm nước đầy vào một bồn chứa nước (tích luỹ công đức), chúng ta nhất định cần đem ống dẫn để thêm nước vào bồn chứa (bố thí, làm việc thiện). Loại ống dẫn nước có rất nhiều, chúng ta phải nhanh chóng lấy ống dẫn tốt đẹp, vừa vặn nhất (chuộc mạng, phóng sinh). Cách làm này được hiệu quả rõ ràng. . Nếu bỏ đi ống tốt không dùng, lại theo ý làm càn dùng ống nhỏ hẹp cũ rỉ mà muốn cho nước vào đầy bồn chứa thì việc đã khó lại càng khó thêm.

6. Hai điều kiện quan trọng
Việc tu hành của chúng ta cũng giống như cách chứa và giữ nước trong thùng vậy. Việc nỗ lực trì giới chính là bít lại những chỗ rỉ chảy để phòng ngừa công đức tán mất mà chúng ta rất khổ sở tích chứa được. Giữ giới, giới không sát sinh được chú trọng hàng đầu. Không quản là Ngũ giới, giới Sa-di, giới Tỳ-kheo hay giới Bồ-tát, giới trọng thứ nhất là không sát sinh. Vì thế, muốn trì giới trước tiên nên ăn chay và phóng sinh làm gấp. Chúng ta nỗ lực tu hành nghiệp thiện cũng như ra sức thêm nước vào thùng. Đó là tích luỹ vốn liếng, phước đức cho nhiều. Hạnh thiện trước hết là phóng sinh, bởi phóng sinh chính là hành động cứu thoát sinh mạng chúng sinh, duyên lành rất sâu, phước đức rất lớn. trong mười điều thiện thì điều thứ nhất là không sát sinh. Suy cho rộng ra đó chính là phóng sinh. Có thể biết được công đức phóng sinh rất lớn. Do vậy, làm việc thiện nên dùng chuộc mạng phóng sinh làm trước.

7. Phóng sinh tức trả tự do cho chư phật vị lai
Đại sư Ngẫu Ích trong “Linh Phong Tông Luận”, đối với việc phóng sinh phân tích rõ ràng:”Sát sinh tức giết chết tự tâm của chư Phật vị lai. Ngược lại, phóng sinh là trả tự do cho chư Phật vị lai. Nếu trả tự do cho chư Phật vị lai tức là Chân Niệm Phật Tam-muội. Tu pháp Niệm Phật Tam-muội này tức là thường chuyển kinh Pháp Hoa ngàn vạn ức bộ”.

8. Phóng sinh và nước Từ bi Tam-muội
Đại sư Ngẫu Ích dạy:”Muốn được tâm người chứng tâm Phật, chuyển kiếp ô trược thành Tịnh độ, không có phương pháp nào hơn phương pháp phóng sinh . Một pháp phóng sinh được mở rộng lâu dài như một bát nước không cứu được xe củi cháy. Giả sử mỗi người một bát, một bát rồi lại thêm một bát nữa. Nhiều bát nước, xe củi cháy phải được dập tắt. Ngày nay, sự giết hại xoay vần tới tấp, nên cùng đồng phần nghiệp ác chiêu cảm. Chẳng phải nước từ bi Tam-muội làm sao dễ dàng dập tắt được!”

9. Đạo lý phóng sinh rất sâu
Đạo lý phóng sinh rất sâu xa. Ngu si, thấp kém như chúng ta chỉ có thể theo lời dạy mà vâng làm, còn không thể lãnh hội một phần nhỏ của chân lý phóng sinh. Phóng sinh chính là trả tự do cho tự tâm chư Phật vị lai. Phóng sinh là chân niệm Phật Tam-muội, là thường chuyển kinh Pháp Hoa ngàn vạn ức bộ. Phóng sinh là nước từ bi Tam-muội. Hạng này đối với phóng sinh có sự hiểu biết và thể nhận sâu sắc. Chỉ có những vị đại sư Ngẫu Ích là bậc cao đức có hạnh tu trì thâm sâu và trí tuệ siêu việt mới có thể có chỗ lãnh hội.

10. Không giết hại, phóng sinh; việc đơn giản, lý lại sâu
Đại sư Ấn Quang thường nói:”Việc không giết hại và phóng sinh cạn mà dễ thấy. Lý của việc không giết hại và phóng sinh sâu lại khó biết”.Chúng ta không đạt đến chỗ lý và sự viên dung đầy đủ như chư vị Tổ sư, nhưng chỉ cần chúng ta có thể đích thân thực hành, thành thật phóng sinh là được. Trên việc làm chân chánh, thực hành công phu, công đức vô hạn có thể đạt được. Đáng sợ nhất chính là tự mình không biết gì cả, chỉ biết phê bình huỷ báng. Không những tự mình không muốn phóng sinh, lại dùng thế trí biện thông ( trí lưu loát của thế gian) và các thứ tà kiến làm cản trở người khác phóng sinh. Hạng người này vô tình giết chết vô số vô biên sinh mạng, tương lai hình phạt tàn khốc trong địa ngục tuyệt đối không sao tránh khỏi.

11. Phật pháp là môn giáo dục giác ngộ
Phật pháp là một môn giáo dục về sự giác ngộ. Giác ngộ được tội ác lớn nhất trần gian chính là ăn thịt và giết hại. Khi đã giác ngộ như vậy, chúng ta phải nhanh chóng sửa đổi lỗi lầm, liền trì giới và ăn chay. Biết được việc thiện lớn nhất trên thế gian chính là chuộc mạng phóng sinh, chúng ta phải đích thân thực hành và đề xướng rộng ra, mong mọi người thực hành. Còn biết thêm rằng chính trước đây đối với việc ăn chay và phóng sinh có nhiều lúc phê bình vì hiểu sai, nay phải cấp tốc sám hối và sửa sai, thề không bao giờ tái phạm. Đây chính là người có sự giác ngộ, mới xứng đáng là đệ tử chân chánh của Phật
Reply
#30
LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH
Tác Giả: Liên Trì Đại Sư
Lời tựa

Thời đại mạt pháp, các bậc Thánh Hiền ngày càng xa. phật pháp suy vi, tà sư nói pháp nhiều như cát sông Hằng. Tà trí, tà kiến đầy khắp thiện hạ. Đáng tiếc cho chúng sinh nghiệp chướng sâu nặng, huệ cạn phước mỏng, người học phật đi trên đường chánh rất ít, kẻ chìm đắm lại nhiều. Thậm chí rất nhiều người thêm nhiễm tri kiến mà mị, ra vào làm con cháu nhà ma, gieo xuống đời vị lai nhân khổ địa ngục mà không tự biết. Xét kỹ nguyên nhân này, chính là không gặp thiện tri thức, không tìm đúng đường chánh, tu hành chẳng như pháp không thể đắc lục, mất hết thời gian tiền của và tâm lực, cuối cùng không được một chút lợi ích thực của Phật pháp.
May mắn biết bao, chúng ta ở vào thời mạt pháp, còn có thể gặp được một vị thiện tri thức hiếm có. Đây chính là pháp sư Viên Nhân, là vị Đạo sư của chúng ta. Sư phụ đã 90 tuổi, ở ẩn nơi am trong núi, tu hành thanh tịnh đến nay hơn 30 năm. Trên sự tu hành, sư phụ cẩn thận tuân theo lời dạy của Phật Đà, chính là hết lòng chân thật chấp trì một câu Thánh hiệu Nam mô A-di-đà-phật, đồng thời lấy pháp môn tịnh độ hành trì và giáo hoá mọi người. Khuyên khắp tất cả mọi người đến hỏi han về Phật pháp là chuyên nhất niệm Phật cầu sinh Tây Phương, tuyệt đối không xen tạp và mơ hồ.

Về mặt hành trì, sư phụ sinh hoạt hàng ngày có thể tỉnh thì tỉnh, có thể tiết kiệm thì tiết kiệm, tất cả đều hết sức đơn giản và mộc mạc. Sư phụ yêu cầu chúng ta lấy giới làm thầy. Chỗ chỗ nghiêm ngặt giữ vững giới luật, nơi nơi lưu tâm cẩn thận để công đức của mình khỏi rỉ chảy mất. Sư phụ hết sức nhấn mạnh người niệm Phật cần nhanh chóng ăn chay, bởi vì ăn thịt chính là sát sinh. Mỗi ngày ăn thịt là đồng thời mỗi ngày phạm vào giới sát sinh. Kết oán mối thù truyền kiếp, tương lai báo ứng hết sức đớn đau, lại thêm trở ngại sự nghiệp lớn vãng sinh của chúng ta còn thiếu từ lâu vô biên vô lượng. Vả lại, việc phóng sinh chính là tích cực trả món nợ từ đời quá khứ đến nay do chúng ta giết hại vô số. Hơn nữa, trong qúa trình phóng sinh tâm từ bi của người học Phật thu được nhiều điều bổ ích, lại cùng với đông đảo chúng sinh kết duyên sâu rộng, hiện tại và vị lai đều có ảnh hưởng không thể nghĩ bàn.
Sư phụ nhấn mạnh Phật giáo là một cách thức giáo dục thực tiễn. Chỉ nói mà chẳng luyện tập một chút cũng không đến chỗ lợi ích thực sự. Sư phụ dùng thân giáo thị hiện một vị tu hành mẫu mực, chân thật. Không nói lời cao xa, nghiên cứu thực tiễn, dạy bảo tất cả người học Phật phát tâm lâu dài. Đem Phật pháp thật sự thực hiện trong sinh hoạt của chúng ta. Bản thân mình ra sức thực hành, nỗ lực. Đó là người học Phật chân chánh.
Cuốn sách “ Liên Trì Cảnh Sách”này là do đệ tử kết tập lời khai thị quý báu của sư phụ thường ngày, sắp xếp lại mà thành. Trong này chỉ rõ rất nhiều khuyết điểm vì lơ là mà chính chúng ta là người hiện tại học Phật thường phạm phải. Nguyênj có thể đối với những người chân chánh có tâm tu hành, cần đời này liễu sinh thoát tử. Hy vọng mỗi một vị học Phật đều có thể nắm chắc và chính xác phương hướng tu hành, không đến nỗi điên đảo lầm loạn, luống uổng.
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta. Chỉ nguyện những người cùng học Phật đều có thể chuyên tâm và hết sức ở nơi đây. Đối với sự nghiệp lớn vãng sinh của chúng ta, tất nhiên có ảnh hưởng quyết định và sâu xa.

Nam mô A-Di-đà Phật
Hội Phật giáo Liên Trì Công Đức
Kính ghi
Reply