Tam Bảo: Nguồn Phước Vô Cùng
#1
PHÁP HÀNH CĂN BẢN CHO HÀNG PHẬT TỬ

Quảng Tánh


Hàng Phật tử tùy gia cảnh và căn cơ mà thọ trì, tu học Chánh pháp theo những cách khác nhau. Quan trọng là phải xác định được pháp gì là quan trọng, tinh túy, cốt tủy để nương vào. 

Bốn pháp Bất hoại tịnh, tức sống trọn vẹn với niềm tin trong sạch, kiên cố vào Phật, Pháp, Tăng và Thánh giới là pháp căn bản nhất nhằm thành tựu phước báo trời người, nền tảng cho việc dự phần vào các Thánh vị.

[Image: phat-tu-tai-gia.jpg]
Phật tử tham gia một khóa lễ hoa đăng, cầu nguyện an lành
cho tự thân, gia đình và xã tắc - Ảnh minh họa


Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên đang ở trong thôn Ha-lê của họ Thích. Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên nghe gia chủ thôn chủ Ha-lê mắc bệnh khổ. Sau khi nghe, vào buổi sáng sớm, đắp y mang bát vào thôn Ha-lê khất thực, lần lượt đến nhà gia chủ thôn chủ Ha-lê…

Tôn giả nói với gia chủ:

- Thế nào gia chủ, tật bệnh có chịu đựng được không? Mọi thứ đau đớn của thân thể có thuyên giảm không? Không tăng thêm chăng?

Gia chủ đáp:

- Thưa Tôn giả, bệnh con rất khó nhẫn chịu. Những sự đau đớn của thân thể càng tăng thêm, không bớt chút nào!

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên bảo gia chủ:

- Cho nên ông nên tu tập bất hoại tịnh đối với Phật, tu tập bất hoại tịnh đối với Pháp, tu tập bất hoại tịnh đối với Tăng, tu tập và thành tựu Thánh giới. Nên học như vậy.
Gia chủ đáp:

- Bốn Bất hoại tịnh như Đức Phật dạy con đã thành tựu được tất cả…

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên bảo gia chủ:

Ông nên nương vào bốn pháp Bất hoại tịnh này mà tu tập sáu pháp Niệm. Nên niệm công đức Phật: Ngài là Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Nên niệm công đức Pháp: Đối với Chánh pháp luật của Thế Tôn, ngay trong đời này, xa lìa các phiền não bứt rứt, pháp được thông đạt, phi thời gian, duyên tự mình mà giác ngộ. Nên niệm công đức Tăng: Bậc thiện xảo thú hướng, chân chánh thú hướng, trực chỉ thú hướng, bình đẳng thú hướng, tu hạnh tùy thuận. Đó là hướng Tu-đà-hoàn, đắc quả Tu-đà-hoàn; hướng Tư-đà-hàm, đắc quả Tư-đà-hàm; hướng A-na-hàm, đắc quả A-na-hàm; hướng A-la-hán, đắc quả A-la-hán. Như vậy, bốn đôi, tám bậc, đó gọi là Tăng đệ tử của Thế Tôn, đầy đủ giới, đầy đủ định, đầy đủ tuệ, đầy đủ giải thoát, đầy đủ giải thoát tri kiến, là phước điền vô thượng của thế gian, là nơi cúng dường, cung kính, lễ bái. Nên niệm công đức Giới: Tự giữ gìn chánh giới, không hủy, không khuyết, không vỡ, không nát, là giới chẳng trộm lấy, giới cứu cánh, giới đáng khen ngợi, giới phạm hạnh, giới không bị ghét bỏ. Nên niệm công đức Bố thí: Tự mình nghĩ đến bố thí, tự tâm cảm thấy hân hoan, xả bỏ keo kiệt, tham lam; tuy ở tại gia nhưng tâm bố thí giải thoát, thường bố thí, vui vẻ bố thí, bố thí đầy đủ, bố thí bình đẳng. Nên niệm công đức chư Thiên: Niệm trời Tứ vương, trời Tam thập tam, trời Diệm-ma, trời Đâu-suất-đà, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại. Chư Thiên này với tín và giới thanh tịnh, khi chết ở cõi này được sanh về trong các cõi kia. Ta cũng như vậy, nhờ tín, giới, thí, văn, tuệ thanh tịnh, nên được sanh về trong các cõi trời kia.

Này gia chủ, như vậy nên biết nương vào bốn pháp Bất hoại tịnh và thêm sáu Niệm xứ nữa.

Gia chủ thưa Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên:

- Bốn pháp Bất hoại tịnh và sáu Niệm xứ mà Đức Thế Tôn đã nói, ở đây, tất cả con đều thành tựu. Con đang tu tập niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên.

Tôn giả Ma-ha Ca-chiên-diên bảo gia chủ:

- Lành thay! Gia chủ có thể tự xác nhận là đắc quả A-na-hàm….

(Kinh Tạp A-hàm, kinh số 554 [trích])

Sau khi thành tựu bốn Bất hoại tịnh, người Phật tử tinh cần tu tập sáu Niệm xứ (niệm Phật, Pháp, Tăng, Giới, Thí, Thiên) để thanh tịnh và thăng hoa tâm. Đệ tam quả A-na-hàm, Bất lai (không trở lại cõi người nữa, chỉ tái sanh ở cõi Sắc hay Vô sắc, từ đó tu hành và đạt quả Tối thắng, thành tựu Giải thoát tối hậu) là quả ngọt của pháp tu Lục niệm. Nếu nỗ lực, tinh cần với căn lành sâu dày, hành giả tu tập Lục niệm có thể thành tựu Chánh trí, Giải thoát ngay trong hiện tại.

Quảng Tánh
Thư Viện Hoa Sen
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
Reply
#2
TAM BẢO NGUỒN PHƯỚC VÔ CÙNG
Quảng Tánh


[Image: quy-kinh-tam-bao.jpg]
Quy kính Tam bảo là pháp hành căn bản của
người con Phật - Ảnh minh họa


Quy kính Tam bảo là pháp hành căn bản của người con Phật. Từ lúc phát tâm hướng đạo tới khi chính thức quy y, cho đến cả một đời người thì quy kính, phụng hành Tam bảo vẫn không rời hành trang của người tu Phật.  Thế nên phụng hành Tam bảo được phước báo vô cùng. Câu chuyện một vị Phật tử nhờ phụng hành Tam bảo mà thành tựu phước đức sinh lên cõi trời Sắc giới dưới đây là một điển hình.

“Một thời, Phật ở tại tinh xá Khoáng Dã. Bấy giờ có gia chủ Khoáng Dã bệnh nặng từ trần, sanh về cõi trời Vô Nhiệt. Sau khi sanh về cõi trời ấy, liền nghĩ rằng: “Ta không nên ở đây lâu, không gặp Thế Tôn”. Nghĩ xong, trong khoảnh khắc, nhanh như người lực sĩ co duỗi cánh tay, biến mất từ cõi trời Vô Nhiệt, hiện ra trước Phật. Thân thể Thiên tử ấy trụ lại trên mặt đất mà không thể tự đứng, giống như dầu bơ tụ lại trên đất không thể tự đứng. Thân thể của Thiên tử ấy nhỏ nhắn, mềm nhũn, không thể tự đứng dậy được.

Bấy giờ Thế Tôn bảo Thiên tử:

- Ông nên biến hóa thành thân thô để đứng trên đất.

Thiên tử liền hóa thành thân thô đứng trên đất. Thiên tử ấy đến đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thủ Thiên tử:

- Này, Thủ Thiên tử, những kinh pháp mà ông đã học trước đây khi làm thân người, ở thế gian này nay còn nhớ chẳng quên chăng?

Thủ Thiên tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, những gì con đã thu nhận đến nay vẫn không quên. Những pháp mà khi làm người ở thế gian, con đã nghe nhưng không hiểu hết, nay vẫn còn nhớ. Như Thế Tôn khéo nói, Thế Tôn nói rằng: “Nếu người được ở nơi an vui, có thể nhớ nghĩ pháp, chứ không phải ở chỗ khổ não”. Lời nói này rất chân thật. Như Thế Tôn ở tại Diêm-phù-đề thuyết pháp cho đủ tất cả các loài và bốn chúng vây quanh. Bốn chúng kia nghe Phật dạy, tất cả đều cung kính vâng làm. Con cũng như vậy, ở trên cõi trời Vô Nhiệt vì các Thiên nhân nơi đại hội nói pháp. Các vị trời này đều lãnh thọ tu học.

Phật bảo Thủ Thiên tử:

- Lúc ông ở thế gian, đối với những pháp gì không biết chán đủ mà được sanh về cõi trời Vô Nhiệt?

Thủ Thiên tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, con ở nơi ba pháp không biết chán, nên khi thân hoại, sanh lên cõi trời Vô Nhiệt. Những gì là ba pháp? Đó là vì con thấy Phật không biết chán nên khi chết sanh về cõi trời Vô Nhiệt. Do con đối với Pháp của Phật không biết chán nên sanh về cõi trời Vô Nhiệt. Do cúng dường chúng Tăng không biết chán nên khi chết sanh về cõi trời Vô Nhiệt.

Rồi Thủ Thiên tử nói kệ:

Thấy Phật không biết chán
Nghe Pháp cũng không chán
Cúng dưng các chúng Tăng
Cũng chưa từng biết đủ.
Thọ trì pháp Hiền Thánh
Điều phục tham trước bẩn
Ba pháp không biết đ
Nên sanh Vô Nhiệt thiên.

Thủ Thiên tử sau khi nghe Phật dạy xong, tùy hỷ hoan hỷ, rồi biến mất”.
(Kinh Tạp A-hàm, kinh số 594)

Vô Nhiệt thiên hay cõi trời Vô Nhiệt thuộc Sắc giới với phước báo thù thắng vi diệu. Vô Nhiệt có nghĩa là không còn nhiệt não bức bách thân tâm. Được sinh về một nơi an ổn, nhẹ nhàng, hạnh phúc như vậy là phước báo lớn. Chánh nhân của phước báo này này là phụng hành Tam bảo không chán mỏi. Nhờ thân cận Tam bảo, được nghe hiểu Chánh pháp, khi tái sinh vào cõi trời vẫn có thể “Vì các Thiên nhân nơi đại hội nói pháp. Các vị trời này đều lãnh thọ tu học”.

Vấn đề là làm cách nào để lễ Phật, nghe Pháp không hề biết chán, cúng dường Tăng không hề biết đủ? Trước phải phát xuất từ niềm tịnh tín. Lòng tin Tam bảo trong sạch, thuần khiết thì không gì có thể làm lay chuyển hay lu mờ. Kế là những lợi ích, an lạc mà người có niềm tin trong sạch cảm nhận được khi phụng hành Tam bảo. Hai pháp này nâng đỡ cho nhau để lòng tin Tam bảo ngày càng vững chắc, kiên cố, bất hoại. Đây là chánh nhân để thành tựu phước báo sinh thiên.

Quảng Tánh
Thư Viện Hoa Sen
Xin cứ để cho tôi đốt ngọn đèn của tôi đi… mà đừng bao giờ hỏi nó sẽ làm tan được bóng tối hay không. R. Tagore
Reply