Góc an nhiên: Tin những giọt nước mắt - Truyện Ngắn PG
#1
Gã Điên

Chiêu Hoàng





Gã vẫn ngồi đấy. Khờ khạo và chờ đợi. Khuôn mặt hốc hác vì đói, đôi mắt thất thần. Thỉnh thỏang gã lại mỉm cười, rồi lập tức cau mày, khó chịu. Có khi gã chửi đổng một cách vu vơ, rồi rú lên như con thú bị thọc tiết.


Hiển nhiên là thế. Trong đầu óc gã cả ngàn ý niệm phụt lên liên tiếp. Mỗi ý niệm loé lên - nếu có đủ thời gian phổ ra thành hành động - thì nó cũng chớp nhoáng như một nháy mắt. Nhưng không có nghĩa tâm thức gã không nhận được điều ấy, chỉ có điều, vừa nhận được ý niệm này thì đã quên phứt mất ý niệm trước, vì vậy mà hành động trở nên hồ đồ, khi cười, khi khóc, khi giận dữ, khi hiền lành, khi đau khổ, khi hạnh phúc… 
Này nhé. Gã biết mình đang đói, nhưng lại không biết phải làm gì cho hết đói. Một thiếu nữ đi qua. Chao ơi, nàng hiền dịu và đẹp như một nàng tiên. Tà áo trắng của nàng phớt qua gây lên một làn gió thoảng.

“Kìa, Cô tiên...” 


Thiếu nữ dừng lại sau tiếng kêu tựa như con thú bị một vết dao đâm. Đôi mắt nàng mở lớn nhìn gã. Tội nghiệp làm sao. Nàng khẽ khàng đặt một chiếc bánh bao vào tay gã rồi mỉm cười. Gã chộp lấy định đưa lên miệng, nhưng hốt nhiên ý niệm khác lại loé lên trong tâm tưởng: gã chợt thấy chiếc bánh chính là cục xà-bông gã cần từ bao nhiêu lâu nay. Gã vội vã cầm chiếc bánh xát vào tay, chân. Tưởng tượng đang trầm mình vào một dòng nước mát lạnh với những bọt xà phòng óng ánh. Chiếc bánh bị vỡ ra do sự cọ xát. Gã thấy phần nhân thịt phía trong.... Lại một ý niệm khác, cùng với sự giận dữ sầm sập kéo đến: Ồ, đây chính là quả lựu đạn bà chằng vừa đưa cho ta. Thật là quá sức không thể tưởng tượng nổi. Thiên hạ thật xấu xa, đáng ghét... Ta phải đánh con mẹ này cho vỡ mặt nó ra... Bằng tất cả sự giận dữ sôi lên sùng sục, gã hét lên be be, quăng chiếc bánh bao vào mặt thiếu nữ. Chưa đã giận, gã còn quăng đất, cát, sỏi đá vào người nàng... Thiếu nữ hốt hỏang lùi lại nhiều bước... Miệng nàng méo xệch với đôi mắt đã bắt đầu ướt vì sợ... Nàng vội vã quay lưng. Không dám ngóai lại. Nhưng vẫn không quên ý niệm cầu sự bình an cho gã... 


Gã cười khóai trá khi thấy con mẹ điên kia đã bỏ đi. Ta là một ông vua không ngai, Là một thiền giả. Ta có nhiều quyền lực và tất cả những người chung quanh đều sợ ta. Á à... Thế mà chúng lại bảo ta điên. Phải không nhỉ? Ha...ha...ha... Chính chúng mới thực điên! Thật là buồn cười và ngây thơ đến đần độn. Tất cả - ngọai trừ ta - đều là những người điên, đang quay cuồng sống trong guồng máy vô hình của Thời-Gian...


Vài phút trôi qua. Khi gã vừa thiu thiu ngủ trong cơn đói, bỗng đâu lại nghe tiếng rú của chiếc xe cảnh sát sầm sập tới. Người đâu mà bu đông thế kia? Gã không hiểu họ coi gì mà những cặp mắt cứ đổ dồn vào gã. Không một ai dám đến gần, họ đứng thành vòng tròn vây gã vào giữa. Nhìn quanh. Chỉ có gã. Gã cười sằng sặc.. Ha...ha...ha... Đã bảo mà. Ta là một ông vua không ngai, những người bu chung quanh chính là thần dân của ta đấy. Họ đang khép nép đứng chờ mệnh lệnh ta ban... Mà. Ô kìa, con mẹ chằng điên hồi nãy vừa mới bỏ chạy sao nó trở lại để làm gì nhỉ? Cái đứa manh nha đã từng có ý tưởng giết ta mà ta đã khởi tâm từ bi tha thứ cho nó. Thấp thoáng, một số cảnh sát vẹt đám đông bước vào. Gã bỗng tức đến uất nghẹn khi hiểu ra một điều chính con mẹ đó đã gọi cảnh sát đến bắt gã...

Tiếng người nữ loáng thoáng: 
“Thật tội nghiệp quá đi thôi. Cháu đã gọi cảnh sát để đưa ông ta vào bệnh viện. Ông ấy ở ngòai này chỉ thêm vài ngày nữa thì đói và chết mất...”

Gã rít lên: 
“Khốn nạn! Cả một lũ giả dối!”
Cơn giận làm gã lồng lên như một con thú dữ. Chưa kịp làm gì thì bốn, năm người cảnh sát ập đến. Họ vật gã xuống đất rồi khóa chéo khuỷu tay một cách rất lẹ làng... Cơn đói làm gã yếu sức, không vùng vẫy được mấy đỗi. Một người mặc áo trắng dài xuống tới gối đến bên và đẩy vào bả tay gã một mũi chích. Gã từ từ rơi chơi vơi vào một vùng mù sương lãng đãng.... 




Ở đây. Không gian thật yên lặng đến rợn người, thỉnh thỏang chỉ nghe được tiếng hú dài chen lẫn với tiếng cười sằng sặc từ những phòng kế bên. Gã nằm trên chiếc giường phủ drap trắng. Chung quanh gã, từ tường vôi đến chiếc bàn con bên cạnh giường đều là một mầu trắng muốt. Chỉ có khung cửa bên phía trái cho gã nhìn thấy một vùng trời xanh xanh với những cụm mây trắng đong đưa. Từ giường bệnh, gã nhìn qua khung cửa. Hình như nó hơi bị lệch thì phải. Chẳng có ai ở đây. Hình như gã vừa được nói chuyện với Chúa. Chúa là ai? À. Không phải. Gã vừa nói chuyện với một người mặc áo chùng đen với cuốn kinh nhỏ trên tay. Nghe chừng ông ta không phải là Thần Chết đến bắt gã…

Mà sao gã lại nhớ nàng đến thế nhỉ? Sự nhớ thương làm gã khóc lên rưng rức...

Có một cành cây thấp theo gió đập vào cửa kính làm tâm thức gã chợt nhớ lại một vài hình ảnh của căn chòi nhỏ. Có một cái bồ đoàn mà gã chính là người ngồi trên bồ đoàn ấy mỗi đêm... 

Rồi sao nữa nhỉ? Tại sao ta lại ở đây? Ôi, sao gió thổi dữ vậy? Gió động hay tâm động? Không biết cành cây kia có bao nhiêu lá? Những chiếc lá mầu xanh lục như viền mắt người thiếu nữ. Đôi mắt với tròng nâu đen sâu thăm thẳm mà cả tâm hồn gã đã bị chìm đắm trong ấy. Nàng là ai? Ồ, nàng đẹp tuyệt trần... Hummm.... Một thiền giả không nên đắm vào nữ sắc. Tại sao không? Có thể đó là những nghiệp quả chín muồi.... Hừ, chỉ là biện luận, tất cả, chỉ là biện luận thôi... 


Có tiếng kẹt cửa. Một người nữ y tá bước vào. Lại một bà tiên hiền dịu đến cứu ta đây. Gã nhìn bà tiên với giọt nước mắt lưng tròng, thổn thức: 
“Nàng đã bỏ ta đi mất rồi...” 
Cô y tá vẫn hoay hoay làm việc của mình. Cô xem lại hồ sơ bệnh lý, hý hoáy biên chép... Rồi bỏ mấy viên thuốc trong một cái ly nhựa nhỏ, nói trống: 
“Tới giờ uống thuốc rồi...”

“Cô đã nói chuyện với Nàng chưa?” 

Cô y tá trả lời bừa, cho qua:
“Chưa...” 
“Vậy cô hãy đi nói với nàng rằng ta rất yêu nàng và vẫn chờ đợi nàng về...” 
“Vâng. Nhưng thuốc đây. Ông uống đi...” 

“Uống để làm gì?” 
“Để khỏi bệnh.” 
“Tôi có bệnh gì đâu mà cầu khỏi?” 
“Thì ông cứ uống trước đi đã...” 
“Không. Cô phải nói tôi biết tôi bị bệnh gì?” 
“Bệnh Điên.” 
“Ha... ha... ha...” 
“Khi người điên không biết mình điên thì chính là điên vậy!” 

“Vậy cô tỉnh hay điên?” 
“Tôi không điên!” 
Gã nhắc lại lời cô y tá vừa nói ban nãy: 
"Khi người điên không biết mình điên thì chính là điên vậy! Ha...ha...ha...” 


Đôi khi, gã rất sáng suốt, đối đáp với người đối diện một cách sắc bén như một thiền giả đã tu tập từ lâu, nhưng có thể, vì một lý do nào đó, mà hốt nhiên trong tâm gã bị bung ra như nước vỡ bờ, tất cả những tư tưởng đều đảo lộn, tùng phèo; ý nghĩ chạy quanh co, vòng vèo như con đường đi quanh dốc núi. Chợt phụt, chợt tắt, ngớ ngẩn, nhớ trước, quên sau... 


Một cách máy móc, cô y tá nhét mấy viên thuốc vào miệng gã rồi đưa cho gã một ly nước. Gã uống ừng ực. Cảm thấy dòng nước mát trôi dần vào cơ thể. Gã vẫn còn cảm thấy nực cười trước sự ngớ ngẩn của cô y tá. Gả xòe răng cười và thì thầm ra vẻ rất bí mật: 
“Ta cho cô biết một điều. Chớ đừng để lộ cho ai. Ta chính là... là...” 
Nói tới đây. Hốt nhiên gã không nhớ gã là ai. Một ý niệm khác lại loé lên trong đầu. Chà. Cái khung cửa kia thật đáng ghét làm sao. Nó chói chang đến nhức mắt. Rồi gã bỗng run lên bần bật khi ý tưởng một lát nữa thôi, mặt trời sẽ nổi lên đốt gã. Gã rú lên thảm thiết. Nằm vật xuống rồi lấy mền trùm kín mặt: 
“Nó sẽ đến. Nó đến đốt ta đấy... Hu...hu...hu...”

“Ai đến?” 
“Thì nó chứ ai?” 
“Nó nào?” 
“Làm sao ta biết được!” 

Nói xong, gã cười lên rinh rích. Cho rằng mình đối đáp với tiên nữ một cách rất thông minh. Gã vỗ hai bàn tay vào nhau nói như người nhập vào một cơn mộng du sâu thẳm: 
“Để tôi nói cho cô một điều rất kỳ thú. Thiên hạ ngu lắm! Họ không biết cách sống, chỉ bôn ba, bận bịu vào những thứ vật chất cỏn con, mất thì giờ vô ích…. Cô xem này. Khi tôi vỗ tay, sẽ tóe ra những đốm sáng. Đó chính là những ánh sáng trí tuệ đấy! Có những đêm trăng sáng, sau khi xuất thiền, vuốt dọc theo cánh tay, ánh sáng tóe ra như lân tinh. Những kết quả ấy làm tôi càng hứng khởi và tu tập tinh chuyên hơn. Vì không có thầy, nên sự tập luyện của tôi chỉ chấp vá qua những sách vở. Đến một hôm thì có một điều lạ xảy ra. Thỉnh thỏang phần bụng dưới bị nóng ran và cứng ngắc, nó nhộn nhạo, khó chịu vô cùng. Càng tu tập, bệnh càng nặng, đôi khi trong lúc ngồi thiền tôi như muốn phát cuồng vì dục vọng nổi lên đùng đùng. Cho tới một ngày kia.... Ôi, đó chỉ là một ngày chín muồi của căn bệnh, tôi bị vấp vào giọng cười khanh khách của một nữ nhân, tiếng cười cưu mang cả một mùa xuân tươi mát. Nàng đẹp như huyền thọai, da thịt nàng mát và mềm như lụa, nàng đến tình cờ như một ngày mưa, ra đi khi đêm vừa tắt... Tâm thức tôi tan hoang như một bãi chiến trường. Nàng đi đâu? Nàng về đâu? Hay đó chỉ là những tâm tưởng hoang loạn trong tôi?” 

Chẳng ai trả lời gã. Người y tá dường như đã quá quen với những cảm xúc bất chợt của bệnh nhân. Nàng làm đầy đủ bổn phận rồi bước ra khỏi phòng. Trước khi đi, nàng đặt trên bàn ngủ một cái máy nhỏ bằng bàn tay, dặn dò một cách ân cần: 
“Hình như ông là một Phật tử? Ở đây, chúng tôi may mắn có được một số máy Niệm Phật do ngôi chùa phát tâm bố thí. Ông có thể bật lên nghe. Họ niệm Phật nghe như hát... Chỉ khỏang năm phút nữa là ông sẽ ngủ. Tôi xin chúc ông ngủ ngon, và có đầy mộng đẹp...” 
Tiếng nàng nhẹ nhàng thanh thóat. Gã tung mền, nhìn người vừa phát ra âm thanh ấy. Có phải Nàng đấy không? Nàng đã trở về? Phải chăng? 
“Em... Em ơi...” 


Cánh cửa khép lại đã lâu. Gã nghe câu niệm Phật liên tục và bàng bạc phát ra từ chiếc máy nhỏ xíu. Tiếng niệm kết thành một màn sương lãng đãng, thành một cái nền trên vùng tâm thức hoang tưởng. Gã thấy mình chơi vơi trong vùng tâm thức ấy. Gã đi qua nhiều con đường với đèn xanh, đèn đỏ chi chít dòng xe cộ ngược, xuôi. Nhưng chẳng có một chiếc xe nào đâm vào gã cả. Tiếng niệm Phật vẫn đều nhịp theo bước chân. Nhận ra mình đang đi ngược về quá khứ. Những quá khứ dường như rất xa mà cũng rất gần như những sợi lông mi trên mắt nên chẳng mấy ai nhìn thấy được chúng một cách rõ ràng. Ấy vậy mà gã lại thấy, tựa như gã đã tách ra làm hai, một nửa đứng nhìn cái nửa kia đang quay cuồng trong vọng tưởng. Gã thấy cái chòi mà trong đó chính gã đang say sưa đi vào những cơn vọng định. Thích thú cho rằng mình đã chứng đắc được nhiều thứ và chấp vào những thứ cỏn con ấy. Chợt nhớ lại lời dạy ân cần của vị sư già: 

"Này con. "Biết" chưa phải là "Ngộ". Mà "Ngộ" chưa phải là "Chứng đắc". Hãy suy tư và quán tưởng thêm về điều này." 

Lời dạy rất giản đơn, nhưng sao tới giờ mới hiểu một cách rõ ràng đến thế? Gã đã mỉm cười hóm hỉnh về những háo thắng của chính mình. Lại thấy mình trôi thêm về quá khứ, trở thành một đứa bé con sống dưới một mái chùa với vị sư già khụ, nơi đây lồng lộng những cát, gió của biển. Nhưng gã vẫn không ngừng ở đấy, vẫn đi như người đi ngược chiều gió. Nhiều mảnh đời chắp vá từ vài kiếp liên tiếp nối nhau, từng mảnh, từng mảnh, như những bức hình nhiều màu lộn xộn phụt lên... 

Rồi bỗng nhiên, ở một tầng mức sâu thẳm nào đó, Gã bỗng nhận thấy một cái gì vừa sụp đổ, để lại một khoảng không gian thênh thang mà tầm nhìn của gã không còn bị giới hạn nữa. Một niềm vui òa ngập như nước vỡ bờ. Gã bỗng biết được một điều hiển nhiên rất đơn giản. Mình là tất cả. Một giải nắng tung tăng nhảy múa dưới ánh Mặt Trời. Một con chim đại bàng với đôi cánh rộng. Một mặt nước xanh biếc dưới vực sâu. Một con cá nằm dãy chết trên mặt cát. Một vì sao vừa tắt trên cao... 
Người sinh ra, kẻ chết đi, đây đó xôn xao sự sống và nỗi chết, chập chùng, biến hiện qua những niềm vui, nỗi buồn bất tận... 
Mọi sự, mọi vật đều biến chuyển không ngừng, chập chờn như giấc mộng.... 


* * *


Nửa đêm hôm ấy, có một bóng người lẳng lặng rời bỏ khu nhà thương điên. Hành trang duy nhất của ông là một cái máy niệm Phật rất nhỏ bé cùng với bộ đồ bẩn thỉu, rách nát trên người. Nhưng chỉ có ông mới cảm nhận được tâm ông rất tinh khôi như người vừa thoát kiếp. Ông đi đâu. Nào ai biết được! 

(tháng 4 2006)

www.buddhahome.com
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#2
RỒI SAO NỮA?

Chiêu Hoàng


Thày Chị. Một vị đại đạo sư với đầy đủ phẩm hạnh và lòng từ bi bao la. Người mà Chị luôn kính trọng và yêu quý. Người mà thỉnh thoảng Chị trộm nghĩ thày có vài tướng quý của Phật mà ít ai biết tới. Như con mắt của thày. Con mắt của một vị Phật... 

Thày thường có nhiều lối dạy học trò tùy theo căn cơ của họ. Với Chị. Một người dễ cảm xúc. Ngoài giờ thuyết pháp chung cho đại chúng vào cuối tuần, thày thường dạy Chị bằng một câu hỏi rất đơn giản: "Rồi sao nữa?" 

Ban đầu Chị không hiểu ý thày. Nhưng sau này, khi gặp những cảnh ngang trái khổ đau trong đời, và người thày yêu quý đã đi xa hoằng pháp. Chị ngồi nhớ lại những mẩu chuyện cũ, mới hiểu ra được phần nào ý thày muốn dạy. 

Nói cho cùng. Chị là một đệ tử lẹt đẹt kém cỏi nhất trong đám đệ tử. Ngoài tài thỉnh chuông, và có được một giọng tụng rất hay . Chị chẳng làm thêm được một điều gì khác nên thân . Chị rất dễ bị cảm xúc. Niềm vui, nỗi buồn đối với Chị đều bị nhân lên gấp đôi so với người bình thường. Nhất là nỗi buồn... Đôi khi, gặp những tình cảnh khó khăn hoặc tai họa giáng xuống đời sống. Chị dường như không thể chịu đựng nổi. Những lúc như thế, Chị thường chạy lên thày. Ngồi thụp dưới chân thày kể lể. Thày ngồi nghe cho đến khi Chị kể hết câu chuyện. Xong, thày hỏi: 

"Rồi sao nữa?". 

Dĩ nhiên, Chị trả lời thày bằng tất cả sự lo lắng và tuyệt vọng của mình. 

Thày lại hỏi: 

"Rồi sao nữa?" 

Thày hỏi, cho đến khi Chị không còn một câu trả lời nào khác, dù bằng sự suy luận hay tưởng tưởng sự việc trong tương lai có thể xảy ra... Những lúc như thế, Chị thường im lặng, cố lục tìm trong trí để lấy ra một nguyên nhân, một sự cố, một hoàn cảnh hay một sự khổ đau tàn phá trong tâm thức để làm câu trả lời. Thày vẫn yên lặng chờ đợi. Một lúc, như để cho Chị thấm được phần nào. Thày hỏi lại: 

"Con ơi.... Rồi sao nữa?"... 

Lúc đó. Chị không còn có thể tưởng tượng thêm câu chuyện sẽ ra sao. Những sự lo lắng, những khổ đau Chị cảm nhận, sẽ cảm nhận... Nếu đi đến tận cùng thì việc gì sẽ xảy ra nữa? Hả??? "Rồi sao nữa?!!" 

Tiếng thày hỏi lại, giọng trầm trầm đầy từ bi: 

"Rồi sao nữa hả con?" 

Chị thật bối rối. Chị thực không có một câu trả lời nào nữa cả. Tất cả đã đi ra ngoài sự tưởng tượng và những tâm thức lăng xăng trong Chị. Cuối cùng, Chị ngập ngừng: 

"Rồi thì... rồi thì.... Ôi thày ơi, rồi thì... chẳng sao hết... Chẳng còn gì!!" 

Đó là ý thày muốn dạy. 

Mọi sự, mọi vật được trổ quả theo chu kỳ nghiệp lực của nó. Khi nghiệp đã có đầy đủ nhân duyên thì ta không thể biến một quả khổ đau thành một trái Hạnh Phúc. Ta không thể thay đồi được hoàn cảnh, nhưng hoàn cảnh ấy - nếu đã trổ quả - thì nó cũng cần có thời gian để tàn. Có đến thì sẽ có đi... Nó Không thể mãi mãi sẽ là niềm đau khổ. Bản chất của nó là Vô-Thường, và bị chi phối hoàn toàn bởi luật Nhân-Quả. Chính vì vậy, cách khôn khéo nhất là ta chỉ có thể có những cách hành xử và lối nhìn cho phù hợp với hoàn cảnh đang xảy ra để giữ gìn tâm thức đừng bị vọng động mà thôi. 

Khi tâm thức không còn vọng động thì bóng dáng của khổ đau cũng không thể ngự trị trong tâm. 





Nhưng đó là nói trên lý thuyết. Thực hành quả là rất khó. Đối với Chị - vì chưa chứng được lý như huyễn, luật vô thường của vạn pháp - Nên Chị thấy tai họa vẫn có thật, và khổ đau thì vẫn muôn đời hiện hữu... Dẫu sao, những lúc buồn hay gặp những điều bất như ý. Chị thường hay tự hỏi: "Rồi sao nữa?". 

Hình như ba chữ ấy có một huyền lực thế nào ấy. Khổ đau, một ít nhiều cũng đã nguôi ngoai. 

Hay là bạn thử đôi lần xem sao.


Buddhahome.net
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#3
MỘT HẠNH PHÚC KHÔNG ĐỔI THAY 
Nguyễn Duy Nhiên 


Giữa những bận rộn của cuộc sống, thỉnh thoảng có những thời gian ta tìm cho mình một góc nhỏ, ngồi yên trong một buổi sáng, là một hạnh phúc. Mà trong cuộc đời ta cần có những niềm vui nhỏ ấy. 
Trời năm nay bắt đầu vào đông bằng những ngày mưa thật lạnh. Vào những tuần cuối năm, bên này chúng tôi thường có những ngày nghỉ lễ gọi là winter holidays. Cuối một năm bận rộn thì đây cũng là dịp để người ta refresh, làm mới lại con người của mình.

Và bên này, cũng có những thiền viện họ mở những khóa thiền mười ngày cho các thiền sinh vào dịp nghỉ lễ. Nghĩ cũng thú vị phải không bạn, trong khi mọi người đang nhộn nhịp đón chào một năm mới, thì ta quay trở về ngồi lại với chính mình trong tĩnh lặng. Trong khi người chung quanh đang rộn rịp vào những ngày cuối năm, thì ta tập buông bỏ hết, chậm lại trong mỗi bước đi, ngồi xuống và không làm gì hết. 

Thầy Thái Tuệ hỏi tôi trong dịp nghỉ lễ cuối năm này có đi chơi đâu xa không. Tôi không đi đâu hết, có thời gian nghỉ, tôi muốn thong thả được làm những gì mình thích. Ở gần nhà có một tiệm sách lớn, những dịp rảnh rỗi tôi lại thường ghé qua đây, mua một ly cà phê nóng, và tìm một góc ngồi đọc sách. 

Giữa những bận rộn của cuộc sống, thỉnh thoảng có những thời gian ta tìm cho mình một góc nhỏ, ngồi yên trong một buổi sáng, là một hạnh phúc. Mà trong cuộc đời ta cần có những niềm vui nhỏ ấy. 

Con phố cuối năm đông người qua lại, nhưng nơi ta ngồi với tách cà phê thơm vẫn yên lạ. Quyển sách trên tay thơm mùi giấy mới. Ánh nắng sớm mai chiếu qua khung cửa sổ lớn in một vạt sáng êm ả nơi góc phòng, ấm áp chỗ tôi ngồi. 

Bức Tranh Trên Cát 

Sáng nay tôi tìm thấy một quyển sách có một tựa đề rất lạ, tình cờ giở đọc vài trang, trong ấy có một câu truyện giả tưởng khá thú vị. Có một anh chàng rất yêu nghệ thuật, nhất là tranh vẽ. Một ngày nọ anh đứng trên một bờ đá, nhìn xuống phía dưới là bãi biển cát trắng. 

Xa xa, anh thấy có một người đàn ông đang cắm cúi vẽ một bức tranh trên cát. Người ấy vẽ hình của một gương mặt, nhưng với một cái nhìn lập thể, như là nó được nhìn dưới nhiều góc cạnh khác nhau, cùng một lúc. Giống như là tranh vẽ của Picasso! 

Nghĩ đến đó, anh ta cố gắng nhìn kỹ lại người hoạ sĩ đang vẽ. Tim anh như ngừng đập, người ấy chính là nhà danh họa Picasso. Mỗi ngày anh vẫn thường đi dạo trên lối đi này, và anh biết chỉ vài giờ nữa thôi, thuỷ triều sẽ dâng lên, và bức tranh kia của Picasso sẽ bị sóng cuốn xoá tan đi. Anh phải làm gì bây giờ đây? Anh biết mình phải bảo vệ bức tranh vô giá trên cát ấy, nhưng bằng cách nào đây? 

Anh đâu thể ngăn được nước thuỷ triều đang lên! Anh cũng đâu có thì giờ để xây một bức tường bảo vệ nó! Hay là anh chạy về nhà, lấy một chiếc máy ảnh để chụp lại bức tranh ấy, nhưng rồi nó cũng chỉ là một phóng ảnh của bức tranh nguyên thuỷ mà thôi. Mà cho dù anh có làm việc ấy đi chăng nữa, chưa chắc gì khi anh trở lại, bức tranh ấy vẫn chưa bị sóng cuốn trôi đi. 

Hay là việc duy nhất mà anh có thể làm bây giờ, là ngắm nhìn bức tranh có một không hai đó, thưởng thức cái hay và đẹp của nó, cho đến khi nào con nước đến mang nó đi. Đứng yên đó, anh không biết mình nên mừng vui hay buồn tiếc. 

Mà bạn nghĩ sao, anh ta nên mừng vui hay tiếc nuối? Thật ra thì chúng ta cũng đâu có khác gì mấy với anh chàng ấy đâu bạn nhỉ! 

Trong một ngày cuối năm, ngồi trong góc phòng nhỏ, tôi cũng đang nhìn ngắm một bức tranh đẹp, với ý thức rất rõ rằng thuỷ triều đang lên, và tất cả rồi cũng chỉ là còn lại trong ký ức! 

Trong cuộc sống, chúng ta cũng đã từng đối diện với những hoàn cảnh như anh chàng ấy, có biết bao nhiêu những hình ảnh mà ta muốn lưu giữ mãi, và cũng có biết bao nhiêu những phiền muộn, mà ta cứ tưởng rằng chúng sẽ không bao giờ đổi thay. Nhưng tất cả rồi cũng chỉ là phù du thôi, cho dù đó là một hạnh phúc hay khổ đau. 

Và sự nắm bắt của mình, đôi khi khiến ta cứ ngở như tất cả sẽ không bao giờ thay đổi! Tôi đi xa nhà đã lâu. Lần đầu tiên trở về là cũng sau gần 30 năm. Và tôi cũng có dịp trở về thăm lại ngôi trường cũ của mình sau một thời gian dài rất xa. 

Tôi ghé ngang qua vào một buổi chiều hè, sau giờ tan học nên ngôi trường vắng tênh. Bước vào lớp học cũ, ngồi vào chiếc bàn ngày nào, nhìn lên bảng đen, vẫn chiếc bục bằng xi măng, vẫn khung cửa sổ với tàng cây xanh lớn. Dường như tôi vẫn ngữi thấy cũng một mùi gỗ ẩm ướt ấy! 

Tôi đi theo dãy hành lang rộng và im vắng, tìm đến một góc sân, ngày xưa cùng đám bè ngồi bàn chuyện tương lai, chuyện của tuổi mới lớn. Bước lên chiếc cầu thang rộng mà mỗi giờ tan học, bọn chúng tôi ồn ào theo nhau ra về. 

Trường xưa dường như vẫn không có thay đổi bao nhiêu, có thêm dãy nhà thư viện, phòng thí nghiệm mới xây, nhưng tất cả vẫn còn như xưa, vẫn sân trường rộng tráng xi măng, vẫn mấy cây phượng bóng mát, dãy lớp học vẫn có mặt y như những ngày nào… 

Đi dạo quanh ngôi trường cũ, tôi bất chợt nhận thấy mình không có những xúc động như mình vẫn tưởng tượng trước khi về lại thăm. Có gì thay đổi rồi chăng? Cảnh vật không thay đổi, hay có lẽ chính mình đã thay đổi? Chắc là vậy! 

Nhưng chúng ta nhiều khi lại vô tình ít chịu nghĩ đến điều ấy. Tôi bây giờ đâu phải là tôi của gần 30 năm trước, tôi đâu có những suy tư, những hoài bão, những ước mơ của ngày xưa nữa. 

Nhưng trong ký ức mình vẫn cứ giữ nguyên và đóng khung, như đó là một thực tại không bao giờ biến đổi. Bạn có thấy vậy không, chúng ta đứng nhìn bức tranh trên bãi cát, đang bị nước dâng lên cuốn trôi đi, tiếc nuối, nhưng đâu hay rằng chính mình cũng đang bị xoá tan đi trong từng mỗi giây phút! 

Dòng Sông Vẫn Chảy Trôi 

Ngày xưa đức Khổng Tử đứng nhìn một dòng sông đang trôi và cất lời cảm thán Thệ giả như tư phù bất xả trú dạ! "Ngày đêm chảy mãi thế này ư!" Một triết gia Hy Lạp cũng nói rằng "Có ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông đâu!" 

Thật vậy, cuộc đời vẫn cứ trôi chảy liên tục có bao giờ ngừng nghỉ. Ta đâu có thể nào bước lại chỗ mình đứng lần thứ hai bao giờ đâu. Không gian cũng vô thường như thời gian. 

Tôi thấy, chúng ta thường nghĩ rằng tuy cuộc đời này thay đổi, nhưng mình thì bao giờ cũng vẫn vậy. Ta bao giờ cũng vẫn mãi là ta. Ta dễ thấy được sự vô thường của cuộc đời, nhưng ít khi chịu nhìn lại để thấy được cái vô thường của chính mình. 

Triết gia Heracleitus nói rất đúng, chúng ta không bao giờ có thể nào bước chân xuống hai lần trong cùng một dòng sông. Lần thứ nhì ta bước xuống, thì dòng sông ấy đã khác với dòng sông lần trước rồi. 

Nhưng bạn biết không, đức Phật còn nói thêm rằng, người bước xuống dòng sông lần thứ hai ấy, cũng không còn là một với người bước xuống dòng sông lần thứ nhất. Không phải chỉ có dòng nước đã trôi đi mà chính ta cũng không còn y như xưa nữa! 

Vậy mà trong cuộc sống, nhiều khi ta cứ ôm ấp mãi những khổ đau xưa cũ, như không có gì là thay đổi. Ta, người làm khổ ta, và ngay chính nỗi muộn phiền ấy, tất cả đâu còn như xưa nữa, nhưng mình thì vẫn cứ nuôi dưỡng và giữ nó nguyên như vậy. Mà cái tưởng của mình thì bao giờ cũng rất khác với sự thật! 

Trước khi về lại trường cũ, tôi có những tưởng tượng và ký ức về những kỷ niệm xưa. Nhưng khi đứng yên một mình trước không gian ấy, ta lại chợt thấy rằng tất cả không quan trọng và lớn lao như mình nghĩ. Ta bây giờ đã khác. Mặc dù ta bao giờ cũng muốn đóng khung lại những gì trong quá khứ, và không cho phép nó được đổi thay, nhưng làm sao ta có thể tiếp xúc được với thực tại nếu ta không nhận thấy được điều ấy bạn nhỉ! 

Tôi thấy, thực tập buông bỏ có thể mang lại cho ta rất nhiều hạnh phúc, và nhất là một thực tại mới! 

Mùa đông năm nay trời chưa bắt đầu lạnh lắm, nhưng vào những hôm trời âm u và có gió thì rất lạnh, mặc hai ba lớp vào mà vẫn thấy không đủ ấm. Trên cao có những đám mây xám che ngang khuất hết ánh nắng mặt trời. 

Bạn biết không, từ dưới này thì những áng mây xám trên cao ấy có vẽ như là một khối đặt, cố định. Nhưng tôi nghe nói, thật ra bản chất của mây là 99.9% trống không. Và vì bản chất của nó là rỗng không, cho nên nó sẽ tan biến và đổi thay, bầu trời sẽ trở lại trong xanh, và nơi này sẽ có ngàn tia nắng ấm. 

Tôi nghĩ chúng ta cũng thế, chúng ta không cố định và cũng rỗng không như những áng mây ấy! Dầu cuộc đời có mất mát đến đâu, cũng sẽ không có gì là thật sự hư hao hết. Và tôi nghĩ, cũng nhờ sự trống không ấy mà hạnh phúc thật sự có thể có mặt, bạn có thấy vậy không, vì ta có dính mắc vào một khổ đau nào đâu! 

Những ngày vào đông cuối năm, buổi sáng ngồi với một quyển sách hay và tách cà phê thơm là một hạnh phúc. Ở bên này tôi lại bắt đầu quen uống cà phê lúc nào không hay. 

Hôm về thăm nhà, ghé qua thăm thầy Nhuận Phổ, thầy có rót mời tôi một tách trà, nhưng có lẽ thấy tôi không đụng đến, nên Thầy mang ra cho tôi một ly nước lọc. Thầy cũng khéo để ý! 

Không hiểu sao, sau này khi uống trà tôi lại bị khó ngủ, nhưng cà phê thì lại không sao hết. Đã nói là cái gì cũng thay đổi mà! Những hôm lên tu viện, được ngồi uống trà với thầy Viện Trưởng, thầy pha một tách nhỏ thật đậm, vậy là tôi thức gần nguyên đêm. Với lại, bên đây vào tiệm sách nào mình cũng có thể tìm được một ly cà phê nóng thơm ngon hết. Thật tiện! 

Còn Lại Tình Thương 

Ở nơi này có bốn mùa rõ rệt. Trên con đường nhỏ tôi đi mỗi ngày, có những buổi sáng bụi phấn hoa phủ xanh trên những vũng nước mưa, và có những hôm tàng lá cây xanh rợp bóng mát che mưa chở nắng, cũng có những ngày con đường nhỏ được trải một thảm lá thu đầy màu sắc, và có những buổi sáng tuyết phủ trắng xóa kín cả mặt hồ. 

Nhưng con đường nhỏ của tôi bây giờ cũng biến đổi nhiều theo sự phát triển của cuộc sống chung quanh. Khu rừng nó đi ngang qua giờ đã thu nhỏ lại, với những cao ốc lớn bắt đầu xuất hiện cùng với các sân cỏ rộng xanh tươi. 

Tôi nhớ những năm trước, vào những ngày mưa đi ngang qua đây, tôi phải bước rất cẩn trọng, vì có rất nhiều con trùng đất bò ra đầy trên lối đi. Có những lúc nắng lên, thỉnh thoảng tôi phải dừng lại "giúp" vài con trùng qua được đến bờ bên kia, khi mặt đường bắt đầu khô nóng. 

Nhưng bây giờ tôi không còn thấy có những con trùng đất ấy nữa! Hai bên đường ngày nay là những sân cỏ xanh tươi rất đẹp, được người chăm sóc kỹ lưỡng quanh năm. 

Vào mùa lá đổ, tôi thấy người ta đến hút mang đi hết ngàn chiếc lá khô từng đã làm tươi tốt thêm cho vùng đất ấy. Họ dọn dẹp sân cỏ rất sạch sẽ, và mang đổ những chiếc lá vàng ấy đến một nơi xa xôi nào khác. Bây giờ vùng đất này được nuôi dưỡng thay thế vào bằng các phân bón hóa học. 

Những bãi cỏ dường như xanh đẹp hơn xưa, nhưng có lẽ nó đã trở nên một vùng đất chết. Sau những ngày mưa, nắng lên, bây giờ chỉ có bước chân tôi trên một mặt đường nhựa bốc đầy hơi nước. 

Tôi nghe kể về Aldous Huxley, ông là một nhà văn và cũng là một triết gia người Anh rất nổi tiếng của thế kỷ 20. Thời gian ngắn trước khi ông mất, có người phỏng vấn và hỏi ông rằng, ông đã học được gì từ cuộc sống của mình, từ những vị thầy, và các đạo sư mà ông đã có dịp tiếp xúc? 

Ông thinh lặng một hồi rồi đáp, "Tất cả chỉ là như vầy 'Learning to be kind' !" Ta hãy tập sống làm sao để mình trở nên dễ thương hơn, có từ tâm hơn, biết đối xử với nhau bằng tình người hơn. 

Trong một khóa tu học, một chị có chia sẻ với chúng tôi về một bài thơ của bác chị viết, 

"Trăm năm trước thì ta chưa có 
Trăm năm sau có cũng như không 
Cuộc đời sắc sắc không không 
Trăm năm còn lại tấm lòng từ bi" 

Cuộc đời này dù có hay không gì thì chúng ta vẫn cần có một tình thương. Dù cuộc sống có biến đổi đến đâu thì tình thương vẫn sẽ còn tồn tại mãi, bởi vì nó là chân thật. Cái gì chân thật thì sẽ không bao giờ đổi thay phải không bạn! Tình thương có một năng lượng mang lại hạnh phúc, nó ôm ấp và chuyển hóa hết mọi khổ đau cho dầu có to tát đến đâu! 

Một tình thương cho chính mình, cho người khác và cho thiên nhiên chung quanh ta. Thật ra chúng cũng chỉ là một. Bạn biết không, tôi không nghĩ chúng ta phải cần có một tâm đại từ, đại bi, một tình thương lớn mới có thể mang lại hạnh phúc và chuyển hoá những khổ đau của cuộc đời. 

Không phải tôi cho rằng tình thương lớn là không cần thiết, nhưng tôi nghĩ rằng chúng ta phải bắt đầu với chính mình, và chỉ cần bắt đầu với những tình thương nhỏ mà thôi. Những tình thương mà ta có thể thực tập được, thể hiện được, một tình thương cụ thể, nó sẽ làm sáng thêm cuộc đời một chút. Mà bớt đi một chút khổ đau thôi, thì ta cũng có thể mang lại cho cuộc sống này rất nhiều hạnh phúc rồi phải không bạn! 

Quyển "Hạnh phúc và Con đường tu học" của tôi viết mấy năm trước, đang được xuất bản lại ở bên nhà. Đó cũng là một niềm vui. Có một người quen xem bản thảo của quyển sách ấy, và đề nghị tôi sửa lại một câu mình viết trong đó. 

Tôi có viết là "đời sống của người xuất gia chắc chắn có nhiều những hạnh phúc nho nhỏ," anh ấy đề nghị tôi nên bỏ đi chữ "nho nhỏ." Anh chia sẻ, chữ "hạnh phúc nho nhỏ" ấy có thể gây ra sự hiểu lầm về đời sống xuất gia, một cuộc sống đang hướng đến niềm hạnh phúc vô biên, tràn đầy chứ không chỉ là nho nhỏ, vụn vặt... 

Có lẽ anh nhận xét rất đúng, chúng ta có thể dễ hiểu lầm. Nhưng theo tôi nghĩ thì chúng ta chỉ cần bắt đầu bằng những hạnh phúc, những tình thương nhỏ thôi. Mà những cái "nho nhỏ" ấy đâu phải dễ thực hiện phải không bạn? 

Trong những ngày tu học ở đây, chúng tôi cũng cố gắng thực tập những điều nho nhỏ ấy. Chúng tôi tập có ý thức và thể hiện tình thương trong mỗi việc mình làm, cho dù có vụn vặt đến đâu. Trước khi bước chân xuống giường, chúng tôi được hướng dẫn tập dừng lại trong vài hơi thở và đọc thầm, 

Sáng, trưa, chiều và tối 
Mọi loài hãy giữ gìn 
Nếu dưới chân lỡ đạp 
Xin nguyện chóng siêu sinh 

Và khi cần trả lời điện thoại hay nói một điều gì, chúng tôi cũng tập dừng lại và niệm thầm: 

Tiếng đi ngoài ngàn dặm 
Xây dựng niềm tin yêu 
Mỗi lời là châu ngọc 

Mỗi lời là gấm thêu 

Chúng tôi tập làm những việc nho nhỏ ấy, trong mỗi bước chân, trước mỗi lời nói của mình. Và tôi nghĩ rằng, những việc nhỏ ấy tự nó cũng chính là một biểu hiện của một tình thương rộng lớn. 

Chúng tuy rất nhỏ nhưng vô cùng cần thiết. Nếu chúng ta không thể sửa đổi được một tánh nhỏ của mình, thì nói đến chuyện chuyển hóa khổ đau và mang lại hạnh phúc cho cuộc đời cũng hơi khó và xa vời bạn nhỉ! 

Bạn biết không, trong cuộc đời ta sẽ có những ngày mà mình cho rằng rất quan trọng và đáng nhớ, ví dụ như là ngày lễ ra trường, ngày đám cưới, những ngày ta ăn mừng các thành đạt trong cuộc sống chẳng hạn. 

Nhưng ta có thể quên rằng, ngày lễ ra trường có được là do những ngày tháng học tập, ngày đám cưới có mặt là do những năm tháng của thương yêu, những thành đạt là kết quả của những cố gắng nho nhỏ. 

Nhà văn Nhật Chiêu có chia sẻ rằng, một giọt nước cũng là biển lớn, một tia nắng cũng là mặt trời, mà một lá cỏ cũng đủ là thiên nhiên, và đó là một điều rất thật phải không bạn? 

Một Hạnh Phúc Không Đổi Thay 

Trời đất vào cuối năm và cũng là một bắt đầu cho năm mới. Chúng ta cũng như anh chàng trong câu truyện bức tranh trên cát của Picasso, đối diện với một cuộc sống đầy những đổi thay, có cố nắm bắt hay tránh né thì cũng chỉ mang lại cho mình thêm những muộn phiền không cần thiết. 

Cuộc đời này rồi vẫn sẽ tiếp tục có những nắng mưa, những ngày họp mặt, những buổi chia tay, những ngày lễ hội đông vui, hay những đêm dài lo âu, và cũng có những bất ngờ mà ta không bao giờ đoán trước được… Nhưng giữa những biến đổi ấy bao giờ cũng có một cái gì rất chân thật và sẽ tồn tại mãi, đó là một tình thương phải không bạn! 

Năm ngoái khi về quê nhà, có một người bạn rũ chúng tôi cùng đi trên một chiếc thuyền rất tiện nghi, mình sẽ được ngủ lại trong một vùng biển núi đẹp và hoang vắng, để được nhìn buổi chiều hoàng hôn buông xuống sau đồi núi, đêm cùng ngồi dưới bầu trời lấp lánh đầy sao, và buổi sáng được ngắm mặt trời bình minh mọc giữa trời nước bao la. 

Tôi cũng rất thích, nhưng không có dịp thực hiện được điều ấy! Mà tôi cũng không mấy tiếc nuối, vì chúng tôi cũng có dịp giúp các thầy cô đến mang lại những nụ cười cho một bà mẹ mang thuốc về cho đứa con mình đang sốt, cho một em nhỏ được tiếp tục mang sách đến trường, che lại vài mái nhà cho bớt những nắng mưa… 

Có cảnh bình minh hay trăng sao nào mà lại đẹp hơn những nụ cười ấy bạn nhỉ! Và tôi cũng tin rằng đó là những hạnh phúc mà sẽ không bao giờ đổi thay. 

Nguyễn Duy Nhiên 
Nội San Hoằng Pháp (Thừa Thiên Huế) 22 tháng 7 năm Mậu Tý 


TVHS
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#4
(2018-03-07, 09:46 PM)Nonregister Wrote:
RỒI SAO NỮA?

Chiêu Hoàng


Thày Chị. Một vị đại đạo sư với đầy đủ phẩm hạnh và lòng từ bi bao la. Người mà Chị luôn kính trọng và yêu quý. Người mà thỉnh thoảng Chị trộm nghĩ thày có vài tướng quý của Phật mà ít ai biết tới. Như con mắt của thày. Con mắt của một vị Phật... 

Thày thường có nhiều lối dạy học trò tùy theo căn cơ của họ. Với Chị. Một người dễ cảm xúc. Ngoài giờ thuyết pháp chung cho đại chúng vào cuối tuần, thày thường dạy Chị bằng một câu hỏi rất đơn giản: "Rồi sao nữa?" 

Ban đầu Chị không hiểu ý thày. Nhưng sau này, khi gặp những cảnh ngang trái khổ đau trong đời, và người thày yêu quý đã đi xa hoằng pháp. Chị ngồi nhớ lại những mẩu chuyện cũ, mới hiểu ra được phần nào ý thày muốn dạy. 

Nói cho cùng. Chị là một đệ tử lẹt đẹt kém cỏi nhất trong đám đệ tử. Ngoài tài thỉnh chuông, và có được một giọng tụng rất hay . Chị chẳng làm thêm được một điều gì khác nên thân . Chị rất dễ bị cảm xúc. Niềm vui, nỗi buồn đối với Chị đều bị nhân lên gấp đôi so với người bình thường. Nhất là nỗi buồn... Đôi khi, gặp những tình cảnh khó khăn hoặc tai họa giáng xuống đời sống. Chị dường như không thể chịu đựng nổi. Những lúc như thế, Chị thường chạy lên thày. Ngồi thụp dưới chân thày kể lể. Thày ngồi nghe cho đến khi Chị kể hết câu chuyện. Xong, thày hỏi: 

"Rồi sao nữa?". 

Dĩ nhiên, Chị trả lời thày bằng tất cả sự lo lắng và tuyệt vọng của mình. 

Thày lại hỏi: 

"Rồi sao nữa?" 

Thày hỏi, cho đến khi Chị không còn một câu trả lời nào khác, dù bằng sự suy luận hay tưởng tưởng sự việc trong tương lai có thể xảy ra... Những lúc như thế, Chị thường im lặng, cố lục tìm trong trí để lấy ra một nguyên nhân, một sự cố, một hoàn cảnh hay một sự khổ đau tàn phá trong tâm thức để làm câu trả lời. Thày vẫn yên lặng chờ đợi. Một lúc, như để cho Chị thấm được phần nào. Thày hỏi lại: 

"Con ơi.... Rồi sao nữa?"... 

Lúc đó. Chị không còn có thể tưởng tượng thêm câu chuyện sẽ ra sao. Những sự lo lắng, những khổ đau Chị cảm nhận, sẽ cảm nhận... Nếu đi đến tận cùng thì việc gì sẽ xảy ra nữa? Hả??? "Rồi sao nữa?!!" 

Tiếng thày hỏi lại, giọng trầm trầm đầy từ bi: 

"Rồi sao nữa hả con?" 

Chị thật bối rối. Chị thực không có một câu trả lời nào nữa cả. Tất cả đã đi ra ngoài sự tưởng tượng và những tâm thức lăng xăng trong Chị. Cuối cùng, Chị ngập ngừng: 

"Rồi thì... rồi thì.... Ôi thày ơi, rồi thì... chẳng sao hết... Chẳng còn gì!!" 

Đó là ý thày muốn dạy. 

Mọi sự, mọi vật được trổ quả theo chu kỳ nghiệp lực của nó. Khi nghiệp đã có đầy đủ nhân duyên thì ta không thể biến một quả khổ đau thành một trái Hạnh Phúc. Ta không thể thay đồi được hoàn cảnh, nhưng hoàn cảnh ấy - nếu đã trổ quả - thì nó cũng cần có thời gian để tàn. Có đến thì sẽ có đi... Nó Không thể mãi mãi sẽ là niềm đau khổ. Bản chất của nó là Vô-Thường, và bị chi phối hoàn toàn bởi luật Nhân-Quả. Chính vì vậy, cách khôn khéo nhất là ta chỉ có thể có những cách hành xử và lối nhìn cho phù hợp với hoàn cảnh đang xảy ra để giữ gìn tâm thức đừng bị vọng động mà thôi. 

Khi tâm thức không còn vọng động thì bóng dáng của khổ đau cũng không thể ngự trị trong tâm. 





Nhưng đó là nói trên lý thuyết. Thực hành quả là rất khó. Đối với Chị - vì chưa chứng được lý như huyễn, luật vô thường của vạn pháp - Nên Chị thấy tai họa vẫn có thật, và khổ đau thì vẫn muôn đời hiện hữu... Dẫu sao, những lúc buồn hay gặp những điều bất như ý. Chị thường hay tự hỏi: "Rồi sao nữa?". 

Hình như ba chữ ấy có một huyền lực thế nào ấy. Khổ đau, một ít nhiều cũng đã nguôi ngoai. 

Hay là bạn thử đôi lần xem sao.


Buddhahome.net

Rồi sao nữa ?
Thở ra nhẹ một kiếp người
Buông tay bỏ lại một đời phù vân
Reply
#5
Con Bé và Gã Lang Thang

Chiêu Hoàng


"Đợi tôi với.... Bác tài ơi, đợi tôi với..."

Con bé vừa chạy, vừa la bải hải khi thấy chiếc xe bus bắt đầu chuyển bánh. Tiếng gọi lanh lảnh như một niềm thất vọng gấp gáp sắp đổ ập xuống đầu, cùng với tiếng chân chạy thình thịch của nó làm cho túi vải đeo đập liên tu sau lưng. Tiếng kêu bay bắn đi, nhanh hơn bước chân chạy, lọt thẳng vào tai bác tài xế. Ông ngoảnh lại, nhìn thấy một con bé khoảng 13,14 tuổi cùng với bà mẹ đang gấp gáp chạy về phía mình, hai tay nó quơ quào loạn xạ cố gây thêm sự chú ý của ông.

Chiếc xe bus mới dợm bánh, nay từ từ dừng lại. Bác tài bấm nút mở cửa chờ nó đến. Khoảng vài phút sau, con bé đã đứng trên bậc tam cấp của xe, nó vừa thở hổn hển, vừa tụt cái túi đeo sau lưng lục tìm vé đưa cho bác tài. Một số khách tỏ vẻ khó chịu vì sự chậm trễ ấy. Một bà với khuôn mặt khó đăm đăm nhìn nó không mấy gì thiện cảm, gắt:

"Thôi, nhanh lên đi cho người ta nhờ. Đã hẹn giờ giấc đoàng hoàng rồi mà lại còn trễ. Đúng là...người Việt Nam!"

Bà nói thế, tựa như bà là một người ngoại quốc nào đó chứ không phải người Việt. Nhưng rõ ràng bà cũng là người đồng hương cùng nói một ngôn ngữ với nó. Khuôn mặt bà loè loẹt, dị dạng do sự "tân trang" sửa chữa quá nhiều nên trông có cái vẻ khó tính một cách dị thường. Một số người Việt khó chịu khi nghe bà nói câu đó. Họ quay lại nhìn bà, nhưng chẳng ai nói gì. Con bé thì cuống cuồng trình vé rồi đảo mắt một vòng tìm chỗ ngồi ghi trên tấm giấy. Ánh mắt nó đậu ở một ghế còn trống gần cửa sổ. Bên cạnh, có một gã đàn ông đang ngồi lơ đãng...

Phải mất thêm vài phút nữa mọi thứ mới êm suôi. Con bé chen vào chỗ trống duy nhất đã dành cho nó. Nó ngồi thở dốc, nhưng khuôn mặt đầy khích động và vui sướng. Nó nhìn ra ngoài cửa sổ, đưa tay vẫy vẫy người thiếu phụ đang trông theo với một nét lo lắng rõ rệt hiện trên nét mặt:

"Má.. Con đi nghe má.... Không sao đâu mà. Con thương má... "

Nói rồi. Nó chu miệng, dán vào kiếng xe, hôn chùn chụt:

"Bye má... "

Chiếc xe bắt đầu chuyển bánh. Tiếng bà mẹ trẻ nói với theo:

"Cẩn thận nghe con. Tới nơi nhớ điện thoại má liền nghe... "

Chiếc xe từ từ đi nhanh dần, để lại người mẹ trẻ trên bến xe. Nó nhìn theo cho đến khi bóng bà khuất sau một khúc rẽ, lúc đó nó mới thở phào. Sửa đổi lại thế ngồi cho ngay ngắn, kéo cái bịch đeo trên lưng xuống để trên đùi. Khuôn mặt nó rạng rỡ vui tươi. Có lẽ, nó đang cần phải nói. Nói thật nhiều để đổ tuôn ra những khích động trong nó. Nó lén nhìn gã đàn ông ngồi cạnh - Người đồng hành với mình đây - Nó nghĩ thầm. Trông mặt gã có vẻ... hơi dữ bởi những nét nhăn đậm trên trán và ở đuôi con mắt như những vết cắt. Gã có một vết sẹo dài chém từ góc tai trái xuống tới cằm. Đôi mắt gã hơi giảo hoạt, bất lương. Nhưng hề gì. Con bé nhìn thấy ai cũng như nhau. Nếu không nói là mọi người đều rất tốt. Nó chẳng biết gì về thế giới bên ngoài mái nhà nó thường sống, mà trong đó một bà mẹ trẻ, góa bụa luôn luôn gìn giữ nó một cách quá quắt tới độ nó cảm tưởng mình đang sống trong ngục tù. Phải nói mãi, năn nỉ mãi và quả quyết cả hơn ngàn lần "sẽ không có chuyện gì xảy ra" để mẹ nó xiêu lòng, cho nó lấy một chuyến xe đò đi dự một khóa tu tập cấm phòng ở ngôi chùa cách xa nhà khoảng sáu tiếng lái xe.

"Má à. Thiệt tình là con không hiểu sao má lại không cho con đi chớ. Má đưa con ra bến xe, con ngồi trên xe đò một mạch. Tới nơi đã có người trong chùa ra đón con rồi. Ở hai ngày là lại có người đưa con ra bến xe, con lại về với má mà... "

"Mày đi xa xôi dữ vậy. Không có người kèm sao đi tới nơi? Lỡ giữa đàng có chuyện chi thì tao biết tính sao đây chớ? Thôi, bỏ qua đi!!. (Dỗ dành) Đợi tới chừng má xin nghỉ được vài ngày thì má sẽ đi với con nghe."

"Chời! Má!! Đợi má nghỉ thì qua thời tu tập còn đâu nữa, lên trển làm chi không biết!"

Nhì nhằng, năn nỉ gần cả tháng, sau khi đã điện thoại lên chùa cả chục lần, bà mẹ mới bằng lòng đóng tiền và ghi danh cho nó. Mới sáng mơi này, trước khi đưa con ra bến xe, bà cũng còn cẩn thận, thắp nén hương lầm rầm khấn vái:

"Nam mô A Di Đà Phật. Xin trời Phật độ trì. Xin ngài Quan Âm gia hộ cho đứa con khờ khạo của con đi tới nơi, về tới chốn. Mọi điều dữ đều tai qua, nạn khỏi. (Rồi bà kể lể ỷ ôi tựa như đang nói chuyện với một người bằng xương, bằng thịt đứng trước mặt). Con chỉ có đứa con duy nhất. Từ ngày ổng mất cho tới nay, con không dám bước thêm bước nữa, mọi tình thương con đều dành cho nó hết. Nó khờ khạo, bé bỏng, cần được những bàn tay yêu thương che chở. Xin ngài độ trì cho nó đi đường bình an."

Nói xong, người mẹ trẻ vái thêm ba vái, rồi kính cẩn cắm mấy nén hương vào lư, trong khi đó, con bé sốt ruột chờ đợi ngoài cửa:

"Má ơi... Đi chưa má, trễ quá rồi đó nghe!"

Bà mẹ gắt khẽ:

"Thì từ từ chớ. Mày hối như hối tà, hối ma vậy!"


*

Xe bắt đầu ra xa lộ. Dòng xe cộ ngược xuôi, hối hả tăng theo với sự vui mừng của con bé. Nó nhìn đồng hồ. Mới có ba giờ trưa. Chắc khoảng chín, mười giờ tối mới tới nơi. Khoảng sáu giờ chiều thì xe sẽ ngừng lại ở một thành phố nhỏ cho khách ăn uống, xả hơi, đi đứng cho dãn gân cốt. sau đó đi tiếp chừng bốn tiếng nữa là tới. Ở đó đã có một chị Phật tử trên chùa sẽ đón nó tận bến. Chời. Sao mà vui thích chi đâu á!

Nó kẽ liếc nhìn gã đàn ông và mỉm cười với gã bằng một nụ cười đầy thiện cảm. Gã cũng nhìn nó, nhếch mép. Gã có thể nghe được mùi hương trinh nữ của nó thoang thoảng, cộng thêm vì ngồi quá gần, gã nhìn thấy được cả những sợi lông măng trên đôi má không son phấn. Gã còn nhìn sâu qua cổ áo, thấy được thấp thoáng một phần ngực trắng hồng. Trong gã, nổi lên một dục tâm bất chính. Gã lân la làm quen:

"Đây là lần đầu tiên cô em đi xa một mình?"

Con bé trả lời bằng một giọng khích động:

"Phải. Và điều này làm em rất sung sướng!"

Nói rồi. Con bé luyên thuyên kể về cuộc hành trình của nó. Tuy ngắn ngủi, chỉ có hai ngày. Nhưng đối với nó quả là một cuộc "cách mạng" vĩ đại, vì nó có thể thuyết phục được má nó, chứng tỏ cho má nó biết rằng, nó đã lớn!!

Gã đàn ông gật gù:

"Phải rồi. Thế giới bên ngoài thật đẹp. Đáng lý em phải biết nó sớm hơn nữa..."

Con bé mở tròn đôi mắt nhìn gã, hỏi bằng một giọng ngây thơ:

"Thiệt hả ông? Sớm hơn là bao sớm?"

"Như tui nè. Tui ra đời năm mới có chín tuổi mà đâu có chết chóc chi đâu. Đâu có bị gì..."

Con bé nghe gã nói thế. Nhưng ánh mắt nó bỗng đậu lên vết thẹo chém trên má trái làm cho mặt gã thêm dữ, ánh mắt nửa ngờ vực, nửa tò mò:

"Còn cái sẹo này là ông bị sao vậy?"

Gã đưa tay sờ cái sẹo. Ậm ừ..

"Cái này hả? Thì hồi đó...bị bệnh. Đưa vô nhà thương mổ gấp nên còn lại vết thẹo..."

Hắn nói dối trơn tru như mỡ. Vết thẹo đó, một thời dành gái, đánh nhau với nhóm băng đảng khác nên bị chém. Nhưng, hề gì. Con bé nói gì nó chả tin. Lại nữa. Gã đang nghĩ cách làm thế nào để có thể chiếm đoạn con nhỏ trước khi nó đi đến nơi muốn đến. Trông nó tinh khôi như một viên ngọc quý. Càng tinh khôi lại càng gợi cảm và làm cho gã kích thích hơn nữa. Gã chỉ có một cơ hội duy nhất là ở trạm dừng xe giờ cơm chiều. Gã nhìn con bé thèm thuồng như con quỷ thèm ăn thịt người. Trong đầu óc gã đầy tính toán. Nhưng gã hiểu, dù có ngây thơ cách mấy, nếu không khéo làm cho con bé sợ nó sẽ lánh xa. Bây giờ nó đang vui, là một cơ hội rất tốt để tạo thêm tình thân và lòng tin tưởng ở nó.

Bằng một giọng thân mật, gã gạ gẫm:

"Nè em. Tí nữa tới giờ ăn chiều, xe đò sẽ ngừng lại ở một thành phố nhỏ. Để tui đãi em một bữa cơm làm quen nghen."

Con bé ngước mắt lên nhìn gã, cảm động:

"Cảm ơn ông. Nhưng má em có gói theo thức ăn nhiều lắm. Lại nữa. Em ăn chay..."

Gã dở giọng ngang tàng, bất chấp:

"Thì ăn mặn một bữa có sao đâu. Trời, Phật có phạt mình vì tội ăn mặn đâu mà lo!!"

Con bé trợn tròn mắt. Tưởng như mình không thể tin được đôi tai đang cắm trên cái đầu nhỏ bé của nó khi nghe gã nói những câu như thế. Nó cãi:

"Ý cha! Không được đâu ông à. Em không có ăn mặn được đâu, vì má nói, phải giữ gìn cho thân tâm trong sạch trước khi thọ "bát quan trai" đó!"

Gã tò mò:

"Thọ bát quan trai là cái gì vậy hả? Sao tui thấy mấy cái đạo, cái nào cũng rắc rồi, hà rằm. Luật này, luật nọ... Nhức cái đầu!"

Con bé toét miệng cười rồi giải thích:

"Đức Phật nói một phật tử tại gia cần phải làm lễ thọ bát quan trai một tháng ít nhất một lần. Nếu lên chùa để thọ thì tốt lắm, bằng không làm ở nhà cũng được. Thọ bát quan trai là mình hứa với đức Phật một ngày, một đêm giữ đủ tám giới cấm, và chỉ ăn một bữa trưa mà thôi. Trong lúc thọ giới, thì ráng giữ gìn tâm ý được trong sạch mà nhất là không phạm các giới mình đã hứa..."

Gã nghe con bé nói vậy, tuy chẳng hiểu gì thêm, nhưng cũng ậm ừ cho qua:

"Thôi. Nếu vậy, em cho tui đãi em một ly nước được không? Chắc là ly nước thì ông Phật cho chứ gì?"

Con bé cười toét miệng:

"Được chứ! Nước thì được uống thả dàn. Chỉ sợ uống nhiều...bể bụng thôi!!"

Sau câu nói đó. Con bé cười khúch khích. Nó bắt đầu huyên thuyên kể về những gì nó thích và những người thân chung quanh nó. Lối kể chuyện của con bé thiệt là không mạch lạc chút nào. Từ chuyện này, nó nhảy qua chuyện khác cái rụp tựa như nó đang vất vả chạy theo cái tâm thức thay đổi luôn luôn trong đầu nó. Nó đang nói đến người mẹ, rồi lại nhảy qua con bạn thân đang khổ sở, buồn sầu vì đã không được đi theo nó. Rồi nó lại tưởng tượng tới cảnh chùa và buổi tu tập trong hai ngày sắp tới. Hình như nó nói chuyện mà không cần sự trả lời của gã. Nó nói một thôi, nghe chừng hiểu được gã đang chán phải nghe nó nói, nên quay lại hỏi gã:

"Còn ông. Ông cũng đi chùa hả?"

"Không. Tôi đi có... công chuyện..."

Mà công chuyện gì kia chứ. Gã là một gã lang thang, sống đầu đường xó chợ. Ai mưới gì thì làm nấy. Trong quá khứ gã đã từng liên hệ tới băng đảng và giết người. Gã là một kẻ vô thần, không tin vào bất cứ ai ngoại trừ mình. Mà chính gã, đôi khi gã cũng chẳng tin lấy chính mình, vì nhiều lần toan tính đều bị trật lất. Đôi khi gã trộm nghĩ, cuộc đời ưa chơi khăm gã, đì gã miết tới độ gã không thể ngóc đầu lên nổi. Hôm nay, còn lại một ít tiền trong túi, gã định làm một cuộc hành trình qua một thành phố khác coi có gì khá hơn chăng, tình cờ lại gặp được con bé. Gã nhìn con bé thòm thèm. Lâu lắm rồi gã chưa được làm tình.

Ý nghĩ đó làm cho lòng gã rạo rực. Gã lén thò tay trong túi, sờ thấy được mấy viên thuốc kích thích tình dục nằm cồm cộm mà gã có được do một thằng du côn trả công gã trong lần khuân vác đồ cho nó tuần trước. Định bụng, tí nữa, trong giờ nghỉ lao ăn chiều, gã sẽ lén bỏ một viên trong ly nước của con bé. Ý nghĩ đó làm cho gã cảm thấy rạo rực và khó chịu ở phần dưới. Gã nhìn lén con bé. Lúc này, nó đang dựa đầu vào thành xe ngủ gà, ngủ gật. Chắc hẳn, sau một lúc nói chuyện liên tu, nó đã hết chuyện để nói và bắt đầu mệt.

Xe lao đi vun vút như nuốt lấy đường dài. Nhưng với gã, sao gã cứ thấy thời gian trôi qua chậm như rùa. Gã xoay trở luôn luôn. Mùi hương thơm nồng của con bé cứ tỏa ra thoang thoảng. Nếu như không có người chung quanh, có thể gã cũng đã làm bậy, xé quần, xé áo con bé ra rồi. Nhưng gã cũng phải cố. Cố gắng kìm giữ cái "con quỷ dâm dục" trong gã.

Cuối cùng rồi xe cũng ngừng lại ở một thành phố nhỏ. Mặt trời đã bắt đầu ngả bóng. Người tài xế nói oang oang, nhắc nhở trong khi mọi người lục tục xuống xe và tản mát vào trong những quán ăn:

"Xin bà con cô bác vui lòng trở lại đây sau 45 phút. Xe sẽ bắt đầu chạy lại đúng một tiếng nữa."

Con bé đứng phắt dậy. Gã cũng đứng lên theo nhắc nhở:

"Nè cô em. Cô em đi theo tui nghe. Ngay dưới kia có cái quán ăn ngon lại rẻ tiền. Họ cũng dễ dãi lắm nghe. Vô trỏng, tui sẽ nhờ nhà hàng hâm cơm dùm cho cô em và xin đãi cô em ly nước..."

"Được mà. Nước thì em uống được. Nhưng... (ngập ngừng) Hay khỏi cần nhờ vả người ta hâm cơm chi. Em sợ phiền họ đó ông à. Mình đã không mua gì của người ta mà lại còn làm phiền người ta nữa!!"

Sợ con bé đổi ý. Hắn dễ dãi:

"Được. Cô em tính vậy cũng tốt..."

Gã đi theo sát con bé, như sợ nó bỗng biến mất. Còn con bé vẫn ngây thơ chẳng biết gì. Nó đeo cái túi trên lưng trở lại, theo dòng người xuống xe. Trong tâm nó thấy cái gã đàn ông này thật tốt. Mới có gặp vài tiếng trên xe đã giúp đỡ nó đủ thứ. Cả hai vào một quán vắng. Gã ép con bé vào một chiếc bàn ở góc quán, cố lấy giọng tự nhiên:

"Mình ngồi đây cho phẻ. Ăn uống xong là ra xe liền kẻo trễ nghe."

Con bé nhìn quanh. Lòng hơi lo âu:

"Ông à. Sao mình vô quán này vắng quá. Em thấy ai cũng vô cái quán gần xe, quán này xa xe quá, ông đưa em vô đây làm chi?"

Gã nói khỏa lấp:

"Chà... Sao cô em không biết gì hết. Quán vắng họ mới làm nhanh được. Cô em vô quán đông sợ kêu đồ ăn, làm chậm, ăn không kịp đó!"

Nghe gã nói như vậy, thấy có lý, con bé khe khẽ kéo ghế ngồi xuống. Đối diện với nó là gã đàn ông khắc khổ với khuôn mặt có vết sẹo dài. Trong cảnh tranh tối, tranh sáng của một buổi chiều gần tàn. Trông mặt gã thật đáng sợ, con bé có cảm tưởng như gã đang manh nha muốn nuốt trửng lấy mình. Vừa có ý nghĩ đó. Con bé bỗng cảm thấy hối hận tột cùng. Sao lại đi nghĩ xấu cho một người đã từng tốt với mình đến thế? Nó sụp đôi mắt xuống lâm râm cầu nguyện. Nó sám hối những tư tưởng xấu mà nó vừa dành cho gã.

Người bồi bàn bưng ra hai ly nước lạnh và hỏi họ cần ăn gì. Gã đọc tên một món ăn rẻ tiền nhất. Vừa lúc người bồi quay đi, gã đàn ông đã nhanh như cắt, bỏ một viên thuốc nhỏ mà gã vừa xé ra từ một cái túi giấy. Gã ngoáy ly nước cho thật điều rồi đẩy về trước mặt con bé, trong lúc nó đang cúi xuống cầu nguyện và sám hối:

"Nè. Có nước cho cô em đây!"

Con bé ngước lên. Nhìn gã bằng một đôi mắt thiên thần, đầy sám hối. Nó thong thả lôi ra trong túi của mình một phần cơm trắng trộn với muối mè, nó để ngay ngắn trước mặt với ly nước gã vừa đẩy về phía nó. Chắp hai bàn tay lại nguyện khẽ:

"Nguyện cho thức ăn và nước uống này biến thành những thức trân vị và thánh thủy dâng lên chư Phật mười phương. Và xin nguyện cho con và toàn thể pháp giới chúng sanh, có được một đời sống tinh thần và vật chất thong dong, hồi tâm vào đạo và khi mãn báo thân này được vãng sanh vào cõi tịnh độ của Ngài."

Đôi mắt con bé khép hờ. Khuôn mặt trong sáng thánh thiện của nó cùng câu nguyện trước khi ăn làm cho gã cảm thấy mình như vừa bị ai xáng cho một cú trúng đầu tới tối tăm mặt mũi. Trong một vùng tâm thức sâu thẳm nhất, gã nhìn thấy được khuôn mặt đứa con gái của gã, cũng khoảng bằng tuổi con bé ngồi trước mặt. Nhưng đó là một khuôn mặt tím bầm đầy những khổ đau của độc dược mà nó đã dùng để tự tử khi biết được trong bụng mình đang cưu mang một bào thai không có người thừa nhận. Đứa con gái gã chết tức tưởi ngay sau đó vài giờ.

Gã bống kêu rú lên khi nhìn con bé từ từ nâng ly nước lên môi, cùng lúc, như một phản xạ tự nhiên, tay gã vung lên, gạt mạnh vào ly nước, chiếc ly tuột khỏi tay con bé rớt xuống nền nhà vỡ tan. Gã nhìn thấy đôi mắt ngạc nhiên của con bé:

"Ồ... Ly nước đã đổ... (Ngước nhìn gã như nói một lời an ủi). Nhưng không sao ông ạ. Chắc chắc ông đã được ban phước lành vì em đã chú nguyện trong ấy rồi...."


Nhưng dường như gã không còn nghe con bé nói gì nữa. Gã lảo đảo đứng lên, chân tay thừa thãi, lóng cóng làm đổ nốt ly nước của mình trên bàn, lắp bắp:

"Tôi...tôi... tôi xin... lỗi em. Có lẽ...không cần nữa...."


Nói rồi, gã đi thẳng một mạch ra cửa. Để lại con bé ngồi ngơ ngẩn, chẳng hiểu có chuyện gì mà gã phải đi gấp tới thế?

*

Khoảng một tiếng sau. Chiếc xe bus lại bắt đầu chuyển bánh. Nếu có người để ý kỹ sẽ thấy trên xe còn một ghế bỏ trống bên cạnh chiếc ghế con bé đang ngồi...


Buddhahome.net. [Image: smile.gif]


May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#6
NGÀY XƯA CÓ MỘT ÔNG VUA 

Rabindranath Tagore
Nhị Tường dịch

---o0o---



"Ngày xửa ngày xưa có một ông vua"

Khi chúng ta còn thơ ấu, không cần phải biết ông vua trong câu chuyện thần tiên đó là ai. Cũng không cần phải biết vị vua tên gọi là Shiladitya hay Shaliban, ông ta sống ở Kashi hay Kanauj. Cái điều làm cho trái tim của một cậu bé lên bảy đập rộn rã, rộn rã với niềm hân hoan, là một chân lý tối thượng, một sự thật trong tất cả những sự thật: "Ngày xưa có một ông vua".

Nhưng độc giả thời hiện đại này thì ngày càng đòi hỏi sự chính xác. Khi họ nghe một lời dẫn nhập câu chuyện như vậy, ngay lập tức họ có ý dè bĩu và nghi ngờ. Họ dùng ngọn đèn pha của khoa học soi vào truyền thuyết mờ ảo ấy và hỏi ngay: "Vị vua nào?"

Những người dẫn chuyện đành phải trở nên chi li hơn. Họ không còn hài lòng với kiểu mập mờ cũ "Có một ông vua" nữa, mà làm ra vẻ sâu sắc nghiêm trọng và bắt đầu: Có một ông vua tên là Ajatasatru"

Tuy nhiên tính tò mò của độc giả không dễ gì được thỏa mãn. Anh ta nháy mắt với tác giả sau cặp mắt kiếng khoa học và hỏi lại lần nữa: "Ajatasatru nào?"

"Mọi cậu bé đều biết", tác giả tiếp tục, "rằng có nhiều Ajatasatru. Người đầu tiên sinh ra vào thế kỷ 20 trước công nguyên, và chết yểu ở khi mới được hai năm tám tháng tuổi. Tôi rất tiếc rằng không thể tìm thấy từ bất kỳ một nguồn gốc xác đáng nào một hồ sơ chi tiết về vương triều của vị này. Ajatasatrus thứ hai được các sử gia biết khá rõ. Nếu bạn tham khảo Bách khoa Thư về Lịch sử bản mới…"

Vào lúc này những mối nghi ngờ của độc giả thời hiện đại đã tan biến. Anh ta cảm thấy có thể an tâm tin tưởng vào tác giả. Anh tự nói với mình: "Giờ đây chúng ta sẽ có một câu chuyện mang cả hai tính cách tân và tư liệu"

A! Tất cả chúng ta đều thích bị lừa dối làm sao. Chúng ta có một nỗi sợ hãi bí mật đó là bị cho là ngu dốt. Và rốt cuộc chúng ta kết thúc nỗi sợ hãi đó cũng bằng sự vô minh, chỉ có điều là chúng ta đã thực hiện điều này theo một con đường dài và lòng vòng.

Có một ngạn ngữ Anh: "Đừng hỏi tôi điều gì, tôi sẽ không nói dối bạn". Đứa trẻ lên bảy đang lắng nghe câu chuyện thần tiên tuyệt đối chăm chú; cậu bé nén những câu hỏi của mình lại trong khi câu chuyện đang được kể. Vì vậy những sự lừa dối nguyên sơ và vén khéo vẫn còn trần trụi và ngây thơ như một đứa bé; minh bạch như chân lý, trong sáng như những bóng bọt. Nhưng những lời dối trá nặng nề và thông thái của những con người hiện đại chúng ta đã khoác lên sự thật những rèm che trướng phủ. Và nếu có khám phá ở bất kỳ nơi nào một lổ thủng nhỏ bé nhất của sự lừa dối, độc giả sẽ quay ngoắt đi với một thái độ phẫn nộ kiểu cách, còn tác giả sẽ bị mất uy tín.

Khi chúng ta còn trẻ, chúng ta cảm nhận được tất cả những điều thuần khiết; và chúng ta có thể khám phá những tinh túy này trong một câu chuyện thần tiên bằng một thứ khoa học chính xác của riêng chúng ta. Chúng ta chẳng bao giờ quan tâm đến những điều vô dụng của kiến thức như vậy. Chúng ta chỉ quan tâm đến lẽ phải. Và những trái tim non nớt của chúng ta biết rõ Cung Điện Chân Lý bằng Pha Lê nằm ở đâu và đi đến đó bằng cách nào. Nhưng ngày nay chúng ta chờ đợi những trang giấy với những thông tin thực tế, trong khi chân lý chỉ đơn giản là thế này:

"Có một ông vua"

Tôi nhớ rất rõ cái buổi chiều ở Calcutta khi câu chuyện thần tiên ấy bắt đầu. Mưa bão không ngớt. Toàn bộ thành phố bị ngập lụt. Trong đường hẽm nước ngập đến đầu gối. Tôi tràn trề hy vọng, gần như tin chắc rằng gia sư của tôi sẽ không đến được chiều hôm đó. Tôi ngồi trên chiếc ghế trong một góc của hàng hiên và nhìn xuống con đường, với trái tim càng lúc càng rộn ràng. Từng phút chăm chú nhìn ra mưa, và khi mưa bắt đầu dịu hơn tôi cầu nguyện bằng tất cả sức lực: Lạy trời, hãy mưa nữa cho qua bảy giờ rưỡi". Bởi vì tôi sẵn lòng tin rằng mưa chẳng cần thiết cho điều gì khác ngoài việc bảo vệ một đứa bé yếu đuối trong một góc ở Calcutta thoát khỏi những khắc nghiệt cực kỳ của vị gia sư , một buổi tối. Nếu không vì để đáp lại lời nguyện cầu của tôi, dù sao đi nữa thì cũng thuận theo những luật lệ của thiên nhiên, mưa vẫn không ngừng.

Nhưng, lạy thánh A La! Không phải gia sư của tôi đó chứ.

Chính xác đến từng phút, tại góc cua của con hẽm, tôi thấy cái dù của ông đang đến gần. Cái bong bóng vĩ đại của niềm hy vọng vỡ tan trong lòng tôi, trái tim tôi tan nát. Đích thực, nếu có sự trừng phạt tội lỗi sau khi chết, thì gia sư của tôi sẽ tái sinh thành tôi và tôi sẽ tái sinh thành gia sư của tôi.

Ngay khi tôi thấy chiếc dù của ông, tôi chạy ào vào phòng mẹ tôi. Mẹ và bà ngoại đang ngồi đối diện nhau đánh bài dưới ánh sáng một ngọn đèn. Tôi chạy vào phòng ném mình lên giường bên cạnh mẹ tôi và nói:

"Mẹ ơi, gia sư đến, mà con nhức đầu quá; Con không thể nghỉ học ngày hôm nay sao mẹ?"

Tôi hy vọng không một đứa trẻ nào ở tuổi non nớt được phép đọc câu chuyện này, và tôi thành tâm mong muốn câu chuyện này không được sử dụng trong sách giáo khoa hoặc sách vỡ lòng trong các trường học. Bởi vì điều tôi đã làm thật là quá tồi tệ, và dù vậy tôi cũng không nhận một sự trừng phạt nào. Ngược lại, cái tính tai quái của tôi lại được tưởng thưởng một cách xứng đáng.

Mẹ nói với tôi: "Được rồi", và quay sang người hầu và nói: "Hãy bảo với gia sư là có thể về nhà".

Thật vô cùng dễ hiểu rằng mẹ không hề nghĩ tôi ốm nghiêm trọng khi mẹ tiếp tục chơi bài như trước và không chú ý gì thêm. Và tôi cũng vùi đầu vào trong gối, cưỡi với trái tim mãn nguyện. Mẹ tôi và tôi hiểu nhau rất rõ.

Nhưng ai cũng biết thật khó làm sao khi một đứa trẻ bảy tuổi phải giả vờ ốm trong một thời gian dài. Khoảng sau một phút, tôi túm lấy bà và nói: "Bà ơi, kể cháu nghe một câu chuyện đi".

Tôi phải yêu cầu nhiều lần. Bà và mẹ cứ tiếp tục chơi bài và không để ý gì. Cuối cùng Mẹ nói với tôi: "Nhóc con, đừng quấy rầy. Đợi đến khi chơi xong đã". Nhưng tôi cứ nài nỉ: "Bà ơi, kể cho cháu nghe một câu chuyện đi". Tôi bảo mẹ có thể chơi tiếp vào ngày mai, nhưng mẹ phải để bà kể tôi nghe một câu chuyện ngay lúc ấy.

Cuối cùng mẹ ném những quân bài xuống và nói: "Tốt hơn là mẹ nên chiều theo ý nó. Con không thể nào quản được nó". Có lẽ trong đầu mẹ lúc đó là mẹ sẽ không phải kèm cặp mệt nhọc vào ngày mai, còn tôi buộc sẽ phải trở về với những bài học ngốc nghếch kia.

Ngay khi mẹ đồng ý, tôi chạy ngay đến bà. Tôi nắm lấy tay bà, hân hoan nhảy múa, kéo bà vào trong mùng. Tôi vồ lấy chiếc gối trong sự cuồng nhiệt, nhảy lên nhảy xuống trong thích thú, rồi tôi trầm tĩnh hơn một chút và nói: "Kể đi bà, kể một câu chuyện đi bà!"

Bà tiếp tục: "Và nhà vua có một hoàng hậu". Thật là hay khi bắt đầu như thế. Vị vua chỉ có duy nhất một hoàng hậu.

Thường thường thì những vị vua trong các chuyện thần tiên có rất nhiều hoàng hậu. Và bất cứ khi nào chúng ta nghe nói đến có hai người vợ là trái tim ta đã bắt đầu trĩu xuống. Chắc chắn sẽ có một người gặp bất hạnh. Nhưng trong câu chuyện của bà thì mối nguy hiểm đó đã qua. Nhà vua chỉ có một hoàng hậu. Tiếp theo đó chúng ta nghe rằng nhà vua không có con trai. Lúc bảy tuổi, tôi đã không nghĩ rằng có điều gì phiền hà đối với một người đàn ông không có con trai. Vị vua chỉ có một trở ngại duy nhất đó.

Chúng ta không hăm hở lắm khi nghe rằng nhà vua đã ra đi vào rừng để hành xác mong cầu một đứa con trai. Duy chỉ có một điều có thể làm cho tôi phải đi vào rừng sâu đó là trốn chạy khỏi vị gia sư!

Nhưng nhà vua đã để lại hoàng hậu và đứa con gái nhỏ, một người sau đó sẽ lớn lên thành một công chúa xinh đẹp.

Mười hai năm trôi qua, nhà vua vẫn tiếp tục sống đời khổ hạnh, và không bao giờ nghĩ gì về đứa con gái xinh đẹp của mình. Công chúa đã đến lứa tuổi thanh xuân rực rỡ của nàng. Còn hoàng hậu thì héo hon trong nỗi buồn và than khóc: "Con gái ngọc ngà của ta sẽ phải chết già mà không ai đến rước ư? Ôi chao, số phận của ta mới hẩm hiu làm sao"

Thế rồi hoàng hậu gởi một thơ đồng đến gặp nhà vua, khẩn khoản hãy ngài trở về một đêm và dùng một bữa tiệc trong cung điện. Và nhà vua đồng ý. Hoàng hậu đích thân nấu các món ăn vô cùng kỹ lưỡng, sáu mươi tư món ăn; đặt nơi ngự tọa bằng gỗ đàn hương; đồ ăn thức uống được bày trong những đĩa vàng, ly bạc. Công chúa đứng ở phía sau với chiếc quạt lông công trên tay. Nhà vua, sau mười hai năm vắng mặt, giờ đây đã về nhà, và công chúa phe phẩy chiếc quạt, sáng ngời cả căn phòng với vẻ đẹp rực rỡ của nàng. Nhà vua cứ nhìn mãi khuôn mặt công chúa và quên cả dùng bữa.

Cuối cùng ngài hỏi hoàng hậu: "Này, cô gái mỹ miều như pho tượng nữ thần bằng vàng là ai vậy? Cô gái ấy là con của ai thế?"

Hoàng hậu dập đầu khóc: "Than ôi, số kiếp tôi mới bất hạnh làm sao! Bệ hạ không biết con gái của chính mình hay sao?"

Nhà vua giật mình sửng sốt. Cuối cùng ngài nói: "Con gái nhỏ xíu của ta giờ đã trở thành một thiếu nữ rồi đó ư"

"Chứ còn gì nữa" Hoàng hậu đáp với một tiếng thở dài. "Bệ hạ không nhớ rằng mười hai năm đã trôi qua rồi sao?"

"Nhưng sao nàng không tính chuyện trăm năm cho nó?" Nhà vua hỏi.

"Bệ hạ đi xa, " Hoàng hậu đáo. "Làm sao thiếp có thể tìm thấy một người chồng phù hợp cho nó".

Nhà vua bỗng trở nên vô cùng phấn khích. Ngài nói: "Người đàn ông đầu tiên ta gặp ngày mai khi ta rời khỏi cung điện sẽ được cưới công chúa".

Công chúa vẫn tiếp tục phe phẩy chiếc quạt lông công, và nhà vua cũng dùng xong bữa ngự thiện.

Sáng hôm sau, khi nhà vua ra khỏi cung điện, ngài thấy con trai của một người Bà la môn đang nhặt cành khô trong khu rừng phía ngoài cổng của hoàng cung. Cậu bé vào khoảng 7, 8 tuổi.

Nhà vua nói: "Ta sẽ gã con gái của ta cho cậu bé"

Nào ai dám trái lệnh đức vua? Ngay tức khắc cậu bé được gọi đến và cậu cùng công chúa quàng cho nhau những vòng hoa cưới.

Đến đoạn này, tôi tiến gần bà hơn và hỏi một cách nôn nóng: "Rồi sao nữa bà?"

Từ đáy trái tim tôi có một nỗi khao khát vô cùng chính tôi được thay thế cho cậu bé nhặt củi bảy tuổi tốt phước kia. Trời đêm vang tiếng mưa rơi lộp độp. Chiếc đèn ngủ bằng đất bên cạnh giường tôi đã lụi dần. Giọng kể của bà vẫn đều đều tiếp nối câu chuyện. Tất cả những điều đó đã hình thành trong một góc trái tim cả tin của tôi một niềm tin rằng tôi đã từng nhặt củi trong một sớm bình minh tại một vương quốc xa xôi của một vì vua vô danh nào đó, và trong thoáng chốc đã từng cùng với một nàng công chúa xinh như Nữ Thần Sắc đẹp trao nhau vòng hoa cưới. Nàng có dải băng vàng trên tóc và đôi hoa tai bằng vàng trên tai. Nàng có sợi dây chuyền vàng cùng những vòng xuyến bằng vàng, một sợi dây lưng bằng vàng thắt ngang eo và đôi kiềng vàng kêu leng keng trên đôi chân nàng.

Nếu bà là tác giả của câu chuyện thì chắc bà phải đưa ra không biết bao nhiêu là lời giải thích cho câu chuyện nhỏ bé này! Trước tiên, người ta sẽ hỏi tại sao nhà vua phải ở lại trong rừng mười hai năm? Thứ hai, tại sao con gái của nhà vua vẫn còn chưa nên gia thất trong suốt thời gian đó? Điều này sẽ được xem như là ngớ ngẩn. Thậm chí công chúa cũng không một lời phàn nàn bất tuân, mà lẽ ra phải khóc lóc than van về chính cuộc hôn nhân này. Thứ nhất, điều đó không bao giờ xảy ra. Thứ hai, làm sao có một cuộc hôn nhân giữa công chúa con của một chiến binh và con trai của tu sĩ Bà la môn? Độc giả của bà sẽ ngay lập tức tưởng tượng rằng tác giả đang bí mật tuyên giáo chống lại những tập tục xã hội. Và ắt là họ sẽ ghi chép.

Vì vậy tôi cầu nguyện bằng cả trái tim rằng bà của tôi sẽ được tái sinh là người bà lần nữa, và không phải chịu số phận khổ sở như cháu trai bất hạnh của bà. Vì vậy rộn rã niềm vui và khoan khoái, tôi hỏi bà: "Rồi sao nữa bà?"

Bà tiếp tục: Thế rồi trong một nỗi khổ sở khôn cùng công chúa đem người chồng bé nhỏ của mình ra đi, xây một lâu đài thất cung nguy nga, rồi bắt đầu nuôi dưỡng người chồng hết sức chu đáo.

Tôi nhảy choi choi trên giường ghì lấy chiếc gối chặt hơn bao giờ hết và hỏi: "Rồi sao nữa bà?"

Bà tiếp tục: Cậu bé đến trường, học nhiều bài học từ những người thầy của mình. Khi chàng lớn lên những người bạn cùng lớp bắt đầu hỏi: "Quý nương xinh đẹp sống cùng với bạn trong lâu đài thất cung là ai vậy?" Con trai người Bà la môn cũng nôn nóng muốn biết nàng là ai. Chàng chỉ có thể nhớ một ngày kia chàng từng nhặt củi và một biến cố lớn lao xảy ra. Nhưng tất cả đã quá lâu, ký ức đã bị xoá mờ.

Bốn hoặc năm năm cứ thế trôi đi. Những người bạn vẫn luôn hỏi chàng: "quý nương xinh đẹp sống cùng với bạn trong lâu đài thất cung là ai". Và con trai người Bà la môn từ trường trở về nhà buồn bã nói với công chúa: "Những bạn học của ta cứ hỏi quý nương xinh đẹp sống trong lâu đài này là ai mà ta không thể trả lời họ. Hãy nói cho ta biết, hãy nói đi, người là ai!" Công chúa đáp: "Hôm nay hãy cho qua chuyện đó. Ta sẽ kể cho người vào lúc khác". Cứ như thế bốn , năm năm nữa lại trôi qua.

Cuối cùng con trai người Ba la môn mất hết kiên nhẫn, đã nói: "Nếu hôm nay người không nói cho ta biết người là ai, thưa công nương xinh đẹp, ta sẽ rời khỏi lâu đài này". Thế là công chúa nói: "Ta hứa chắc sẽ nói cho người vào ngày mai". Ngày hôm sau, ngay khi đi học về con trai người Bà la môn liền nói: "Nào, hãy kể cho ta biết nàng là ai." Công chúa nói: "Đêm nay ta sẽ nói cho chàng biết sau bữa ăn tối, khi chàng đi ngủ".

Con trai người Bà la môn đáp: "Tuyệt lắm"; và chàng bắt đầu đếm từng giờ trong sự đợi chờ đêm đến. Về phía công chúa, nàng trải những bông hoa trắng trên chiếc giường bằng vàng, thắp sáng chiếc đèn ngủ bằng vàng với dầu thơm, trang điểm mái tóc, mặc cho mình một chiếc váy màu xanh da trời, và bắt đầu tính từng giờ trông đợi đến đêm.

Buổi tối hôm đó khi chồng nàng_ con trai người Bà la môn đã dùng bữa xong, quá nôn nóng đến nỗi không thể ăn được, và chàng đã đến bên chiếc giường bằng vàng trong căn phòng ngủ rắc đầy hoa, chàng nói với chính mình: "Đêm nay, ta sẽ biết chắc chắn công nương xinh đẹp trong lâu đài thất cung này là ai ".

Công chúa đã dùng hết bữa ăn mà chồng nàng để lại, rồi chậm rãi bước vào phòng ngủ. Trong đêm nay nàng phải trả lời câu hỏi, quý nương xinh đẹp sống trong lâu đài thất cung này là ai. Và khi nàng lên giường để kể với chàng thì nàng thấy một con rắn đã bò ra khỏi những đóa hoa và cắn con trai người Bà la môn. Cậu bé - chồng nàng đang nằm trên chiếc giường đầy hoa với khuôn mặt xám ngoét đã chết.

Tim tôi đập liên hồi, tôi hỏi với giọng tắt nghẹn: "Rồi sao nữa?" Bà nói: "Thế rồi…"

Thế nhưng, phỏng có lợi ích gì khi tiếp tục câu chuyện này? Nó chỉ dẫn đến những điều càng lúc càng viển vông. Cậu bé bảy tuổi không biết điều đó, nếu có một điều gì "rồi sao nữa" sau cái chết, thì không một người bà nào có thể kể cho chúng ta biết được.

Nhưng niềm tin của một đứa trẻ không bao giờ biết đến sự thất bại, và niềm tin đó sẽ túm lấy áo của người chết và đem chàng trở về. Thật tổn thương cho cậu bé khi phải nghĩ rằng một câu chuyện trong buổi chiều vắng bóng gia sư bỗng dưng lại kết thúc như vậy. Vì vậy bà ngoại lại phải tái hồi câu chuyện từ đoạn căn phòng ngủ đã đóng cửa vĩnh viễn bởi cái Kết thúc tuyệt đẹp; nhưng bà đã làm việc đó thật đơn giản: chỉ đơn thuần là cho thi thể trôi bồng bềnh nơi một bè chuối trên dòng sông, và thêm vài câu thần chú được đọc lên bởi một thầy phù thủy. Nhưng trong cái đêm mưa tầm tã và trong ánh đèn leo lét, cái chết đã mất đi sự kinh hoàng trong trí óc của cậu bé, và dường như không có gì hơn ngoài một giấc ngủ sâu của một đêm thành tín. Khi câu chuyện kết thúc thì mi mắt cũng nặng trĩu cơn buồn ngủ. Vì thế, đó là duyên do chúng ta để cho thân hình bé nhỏ trôi bềnh bồng trên lưng của giấc ngủ băng qua dòng nước tĩnh lặng của thời gian, để rồi vào lúc ban mai niệm một vài câu thần chú trao trả chàng lại thế giới của sự sống và ánh sáng./.

Buddhahome.net

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#7
BỨC TƯỢNG CỔ
Mấy năm dài ở Mỹ nằm nghe mốc cả người, tôi bỗng nhiên muốn sang chơi Trung Quốc một thời gian, một phần cũng để trau dồi vốn liếng chữ Hán còm cõi của mình. Trong những ngày trôi nổi đó, vào chuyến đi Thượng Hải lần đầu, tôi đã có dịp ghé thăm Tô Châu rồi Hàng Châu, quê hương của những hòn giả sơn và vườn cảnh lừng danh thế giới. Trước sau, tôi đã dừng chân ở Hoa Lục chỉ vỏn vẹn một năm nhưng từ đó ra đi, tôi thấy mình không còn là mình ngày nào nữa. Tôi đã chết ở Trung Quốc và tiếp tục sinh tồn bằng một hóa thân mới. Người đã khiến tôi thực hiện cuộc thoát thai hoá cốt đó là một nhà sư tình cờ hạnh hội trên đường phố Hàng Châu.

Hôm đó trong lúc đang đứng chọn lựa một miếng đá để đưa ông chủ tiệm khắc cho một con dấu làm kỷ niệm, một nhà sư tuổi trạc trung niên, ăn vận giống tôi, xem chừng cũng phái Phật Giáo Nam Truyền, đã đến cạnh tôi chào hỏi. Giữa xứ Tàu mênh mông, gặp được một bạn tu đồng môn, tôi mừng lắm. Đợi lấy xong con dấu, chúng tôi cùng đến một ngôi lương đình tương đối yên tịnh để chuyện vãn.

Vị sư kia vốn người Hoa, gia đình sang lập nghiệp ở Singapore đã mấy đời. Có một tuổi trẻ hào hoa và nhiều điều kiện, thời trai trẻ sư đã theo học cùng lúc hai ngành hội họa và âm nhạc với giấc mơ trở thành một nghệ sĩ đa năng. Sau đó dù tốt nghiệp cả hai ngành, nhưng do tổ nghiệp, sư trở thành một tay buôn cổ vật thường qua lại các nước trong khu vực Đông Nam Á. Trong lần sang Miến Điện để theo dấu một món cổ ngoạn, sư đã phát tâm xuất gia và rồi được thọ Đại Giới với pháp danh U Sotthiyo. Sư rũ tôi về Thiên Tân, nơi sư đang lưu trú và hi vọng sẽ xây dựng một ngôi chùa Nam Tông với sự giúp đỡ của một số Phật tử người Hoa ở Singapore và Miến Điện. Chổ ở hiện tại của sư chỉ là một ngôi nhà cũ được nhượng lại với giá rẻ. Chúng tôi còn gặp lại nhau hai ngày sau đó rồi chia tay. Tháng sau, tôi tới Thiên Tân.

Ngôi nhà của sư Sotthiyo nằm ở ngoại ô Thiên Tân. Mái ngói rêu phong với một dãy hành lang ẩm mốc, nhà nằm khuất sau một đám chuối tiêu um tùm. Vừa bước chân vào ngõ, nhìn quanh một lượt, tôi nói với sư là tôi vừa nhớ đến Basho. Căn phòng của sư còn đơn giản nữa. Ngoài chiếc giường con kê sát tường, trong phòng chỉ còn lại một giá sách với mấy cuốn dày cộm, bìa da, vừa sách chữ Tàu vừa sách chữ Miến. Trên cùng, tôi ngó thấy một bức tượng Phật cao chừng một gang tay, bằng đất thó, do chính sư nặn lấy. Bức tượng giản phác mà có thần. Mấy thứ đáng giá nhất trong phòng sư Sotthiyo có lẽ là bộ ấm chén uống trà và cái giá bút bằng gổ đỏ treo tòn teng vài ngọn bút lông mà tôi đoán là thứ tốt. Nhưng cái tôi thích nhất chính là cái cửa sổ dường như vừa được sửa lại. Khung cửa thấp lắm, đến mức có thể nằm dưới đất vẫn có thể nhìn ra mảnh đất sau nhà, nơi sư treo hờ mấy giò lan xem chừng chỉ là giống rẻ tiền.

Đêm thứ hai sau ngày tôi đến Thiên tân, trong buổi trà khuya kéo dài tới gần ba giờ sáng vì cả hai không ai buồn ngũ, sư Sotthiyo đã kể lại cho tôi nghe câu chuyện đời mình và con đường dẫn sư về với đạo Phật. Sư có cách kể chuyện chậm rãi thâm trầm nhưng rất có duyên.

Thế danh của sư Sotthiyo trước khi xuất gia là Triệu Chân. Gia đình Triệu Chân tương đối khá giả, nhưng song thân của cậu không có hạnh phúc. Họ là một cặp chỉ phúc giao hôn do cha mẹ đôi bên đính ước từ lúc họ còn trong bụng. Lấy nhau có một mặt con, họ vẫn không có được tình yêu và mỗi người đều có một mối tình trong quá khứ. Đều là dân trí thức lại con nhà gia giáo, cả hai không xúc phạm đối phương nhưng đều thầm hiểu họ không thuộc về nhau. Triệu Chân lớn lên, hiểu được mọi chuyện, và nhận ra mình đang bị cầm tù trong một gia đình nhiều bi kịch. Chưa vào đại học, cậu đã thường xuyên say khướt ở khắp các trà lầu tửu quán để tìm quên. Đêm kia ở vũ trường, cậu đã quen được một người con gái. Chính cô này đã dẫn dắt cậu tìm đến hội họa và âm nhạc vì cha cô là từng là một mặc khách đa tài, sở trường cùng lúc cả hai lĩnh vực.

Sư Sotthiyo ngừng lại một lát, đoạn đưa mắt nhìn ra song cửa như muốn chìm mất vào bóng đêm :

- Niềm đam mê nào cũng là chất nhựa nuôi sống người ta sư à, sau này học Phật tôi mới hiểu chúng sinh trầm luân là vì chất nhựa đó. Người con gái đó là niềm đam mê đầu đời của tôi và tiếp theo, tôi đã yêu nhạc với họa còn nồng nàn hơn nữa. Cô ấy biết rõ điều đó, dĩ nhiên rất buồn. Cô đã khóc với tôi suốt một đêm dài rồi lặng lẽ ra đi. Phần tôi, sau khi ra trường, vì gia nghiệp, đã làm thương nhân và chỉ trong vài tháng đã không còn nhớ gì đến hội hoạ hay âm nhạc. Trong đầu óc tôi dần dần chỉ còn là những tô chén cổ ngoạn và những tờ giấy bạc. Tôi đã sống như vậy gần hai mươi năm trời. Cho đến một ngày, năm đó tôi đã bốn mươi tám tuổi, có người bạn thân cũng dân buôn cổ vật đã rỉ tai tôi về một bức tượng thỏ ngọc mà anh ta cả quyết là giá trị liên thành. Câu chuyện đã thật sự cuốn hút tôi vì nó kéo theo đó một giai thoại truyền kỳ.

Trong lúc theo ngõ Sơn Hải Quan tràn vào Trung Quốc, quân Mãn Châu đã chia thành tám nhánh để xung kích nhà Minh và mổi quân đoàn đã chọn lấy một màu cờ làm tiêu biểu. Sử sách Trung Hoa đời sau vẫn gọi họ là Bát Kỳ Quân. Từng người trong số họ, kể cả các tử sĩ, sau đó đều được kể vào hàng khai quốc công thần, con cháu đời đời hưởng lộc công khanh. Và tương truyền, mỗi quân đoàn trong Bát Kỳ Quân được giao trọng trách bảo quản một phần tài sản quốc bảo của nhà Thanh phòng khi có quốc biến. Trọng nhậm đó được tiếp tục truyền thừa qua nhiều đời con cháu của Bát Kỳ Quân. Những gì nhà Thanh muốn cất giấu dĩ nhiên vô cùng quý giá và cực kỳ bí mật, người Hán không sao biết được. Nhưng trong dân gian vẫn kín đáo truyền miệng nhau rằng phần quốc bảo do vị thân vương cánh Huỳnh Kỳ bảo quản là một số lượng vàng ròng rất lớn ( phải gần năm trăm cổ xe song mã mới có thể chở hết ), tất cả đều được đúc thành từng khối lớn không có hình thù và để bảo mật, người ta đã nhuộm đen tất cả bằng một thứ dung dịch đặc biệt không phai, có màu như đồng gỉ, để che mắt trộm cướp. Số vàng đó nghe đâu đã được chôn giấu bí mật dưới một thung lũng hầu như không có ngõ vào và nổi tiếng ma thiêng nước độc. Người đời sau tương truyền rằng mật mã địa đồ của kho báu lại nằm trong một bức tượng thỏ ngọc có tính năng kỵ lữa ( Tị Hỏa Châu). Nói vậy, chỉ riêng bức tượng thỏ ngọc cũng đủ là một gia tài muôn ức. Và dĩ nhiên mọi chuyện trước sau vẫn chỉ là giai thoại truyền khẩu khó biết thực hư.

Bức tượng thỏ ngọc cũng có một số phận rất đặc biệt và đã lần lượt qua tay nhiều chủ. Không ít người sau trăm phương ngàn cách vẫn không thể khám phá ra địa đồ kho tàng đã nghĩ đến việc đập vỡ nó để tìm kiếm. Nhưng chính giá trị liên thành của bức tượng đã cứu nó. Người ta ngại chuyện thả mồi bắt bóng. Thế rồi chẵng biết vì sao, từ đời Quang Tự, bức tượng thỏ ngọc đột nhiên thất tung, rồi có thời gian lại cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi, thiệt giả khó phân, dần dần người ta không còn ai biết gì về món bảo vật truyền kỳ này nữa.

Câu chuyện ly kỳ đến thế, ấy vậy mà ông bạn của Triệu Chân lại cả quyết rằng đã theo dấu được bức tượng thỏ ngọc và cho biết nó hiện trong tay một thương gia Miến Điện ở Moulmein. Triệu Chân không hề nuôi mộng đi tìm kho báu, ông không tin chuyện đó, nhưng chẵng hiểu sao ông lại tin câu chuyện về con thỏ ngọc tạc bằng Tị Hỏa Châu. Triệu Chân sau đó đã tìm đến người thương gia kia và được nghe kể lại toàn bộ câu chuyện. Thì ra trong thời chiến tranh giữa hai nhà Mao Tưởng, một viên sĩ quan của Tưởng Giới Thạch đã tình cờ phát hiện ra kho báu kia, và vì chỉ là một võ phu lại thêm giữa thời khói lữa, nên ông ta đã vội vã đem bán tất cả cho một tay buôn đồ đồng với giá rẻ mạt. Còn bức tượng thỏ ngọc trên đường trôi nổi, tương truyền đã lọt vào tay một nông phu nghèo khổ và đám trẻ con ông trong lúc nô đùa đã đem ném xuống sông như một món đồ chơi. Dĩ nhiên, không ai có thể biết được đó có phải là bức tượng thật hay không.

Câu chuyện sao nghe như một vở hát tuồng. Cả một kho tàng quốc bảo của nhà Thanh ai ngờ lại bị mất trắng vào tay một anh lính vô danh và đám trẻ con nghèo khổ.

Nghe xong câu chuyện về bức tượng thỏ ngọc và kho vàng nhà Thanh, Triệu Chân bỗng dưng chán ngán chuyện đời, không thiết tha gì nữa. Suốt mấy ngày liền, ông đã lang thang khắp chốn để khuây khỏa và nhân duyên đã xui ông gặp được ngài Kaccano Sayadaw ở Mandalay, tức hoà thượng bổn sư của sư Sotthiyo bây giờ. Là chổ thầy trò, Triệu Chân đã đem chuyện kho vàng nhà Thanh và bức tượng thỏ ngọc kể lại cho hòa thượng Kaccano. Điều thật thú vị là câu chuyện qua tay ngài đã trở thành những thoại đầu sâu sắc và Triệu Chân đã được điểm hoá lúc nào không hay :

- " Mấy ngàn năm trước ở Ấn Độ có một vị hoàng tử cực kỳ thông tuệ. Chuyện gì khó khăn đến mấy, ngài nhìn qua một lần đã hiểu. Ai cũng cho đó là sự minh mẩn. Nhưng đọc kỷ đời ngài, ta sẽ thấy rằng khả năng giải quyết mọi sự của vị hoàng tử ngoài sự thông tuệ hơn người, còn có một yếu tố khác cũng quan trọng tương đương. Đó chính là lòng can đảm. Sự can đảm chấp nhận các giả thuyết. Do luôn bị sống vây hãm giữa quá nhiều điều kiện ràng buộc như thể chất, giáo dục, tình cảm và cả môi trường sống, nên mỗi người chúng ta luôn kín đáo từ chối tất cả những con đường suy tư đi ngược lại những thứ vẫn vây hãm mình. Khổ thay, thường khi giải pháp thực sự lại nằm trong chính những con đường đó. Những người từng sở hửu bức tượng thỏ ngọc kia rất có thể đã tìm ra kho vàng nếu họ không bị cái giá trị của bức tượng ám ảnh. Trong lịch sử đã từng có những cái nhút nhát giằng co làm chết cả một dân tộc hay tệ hại hơn, bôi đen cả một trang sử văn minh nhân loại. Trong khi đó, vị hoàng tử Ấn Độ kia chỉ vì muốn thử nghiệm một suy tư của mình, lúc chưa được ba mươi tuổi, ngài đã từ bỏ ngai vàng và trở thành một tu sĩ đói lạnh. Ngài chính là đức Phật Cồ Đàm. Phật giáo truyền thống gọi sự can đảm đó của Ngài là Trạch Pháp Giác Chi, và hành trình phân giải những do dự, tức sự chọn lựa sáng suốt ở những ngã ba tư tưởng chính là Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh.

Trong lòng mỗi người đều có một vài bức tượng thỏ ngọc. Chỉ vì không thể cam tâm đập vỡ nó, nên cái mà người ta có được chỉ là chừng đó. Và dĩ nhiên, chỉ có trời mới biết những bức tượng thỏ ngọc đó là giả hay thật. Và dù là đồ thật hay giả, trong trí tuệ Phật giáo, những bức tượng thỏ ngọc đó được gọi tên bằng một thuật ngữ là Thân Kiến, một trong những chướng ngại quan trọng bậc nhất mà một người tu hành chắc chắn phải vượt qua để chứng ngộ thánh trí. Trường hợp viên sĩ quan không nhận ra giá trị của mấy khối vàng thật ra cũng tương tự như hoàn cảnh của của những người ôm giữ bức tượng thỏ ngọc. Họ chỉ khác nhau ở điểm duy nhất là một bên bị cái quý giá ám ảnh và một bên bị cái tầm thường ám ảnh. Tâm cảnh nào cũng là cực đoan cả, và cái đó đi ngược lại trí tuệ Trung Đạo cần có ở một người đi tìm cái thật. Câu chuyện về anh cùng tử trong kinh Pháp Hoa của Phật giáo hậu thời và trong cả Thánh kinh của Cơ Đốc giáo, thật ra đều nhắm vào ý tưởng mà ta vừa nói, chỉ tiếc là vì chỉ nhắm vào những mục đích cá nhân nên một số người diễn dịch đã không giữ lại được lý tưởng cần có của nó.

Con đường giải thoát trong đạo Phật xem ra cũng ly kỳ như một cuộc tìm kiếm kho tàng. Mọi thứ cần được ngắm nhìn cẩn thận và khi cần, người tu phải có cái gan tự chẻ xương mình để tìm thấy chân lý. Bản thân mỗi người là một hào lũy khó vượt qua nhất. Người tu phải có can đảm đập vỡ tất cả bức tượng thỏ ngọc trong lòng mình và một tay chơi cổ ngoạn bậc thầy là người dám coi thường tất cả. Cái quan trọng là được việc. Hai ngàn năm trước, đức Phật đã dạy rằng mọi thứ gặp được trên đường tu đều chỉ là phương tiện giả nhất thời chi dụng, dùng xong việc rồi phải bỏ nó đi, như một chiếc bè cỏ đối với người muốn qua sông…"

Đâu đó có tiếng sương đêm rơi trên những tàu lá chuối. Đêm Thiên Tân mát mẻ yên bình. Rót cho tôi thêm một chén trà vừa mới pha, sư Sotthiyo nheo mắt gật gù :

- Mấy câu nói của ngài Kaccano đã làm thay đổi cuộc đời tôi. Tôi thấy nếu không bỏ hết để đi tu thì tôi còn vô tri hơn đám trẻ nhà quê đã ném bỏ bức tượng thỏ ngọc kia nữa. Cái gì tôi cũng đã nếm qua cả rồi, và chuyện đời đúng là chỉ có chừng đó. Cứ vậy mà tôi đi tu, sư à. Nhưng chuyện chưa hết đâu. Xuất gia rồi, thú thiệt, tôi vẫn còn chút đam mê đối với một món trong mớ cổ vật đã sưu tầm hồi trước và tự cho là mình có thể giữ lại mà không có tội gì hết. Đó là mấy cây bút lông kết bằng râu chuột nghe đâu từng qua tay Lý Liên Anh. Dù là người tân học, nhưng tôi đã sớm nghiện thư pháp và tự nghĩ bây giờ dù có đi tu thì tôi cũng có thể thỉnh thoảng viết chơi cái gì đó bằng mấy cây bút lông tuyệt vời này chứ. Sau năm năm tu học bên chân thầy, một ngày kia ngài hoà thượng bảo tôi về Thiên Tân theo lời thỉnh nguyện của ai đó với ngài. Hôm tôi chuẩn bị ra đi, tình cờ ngài Kaccano nhìn thấy mấy cây bút lông và đã hồn nhiên hỏi tôi :

- Người Hoa vẫn còn dùng loại bút này sao, xem chừng đây cũng là đồ xưa phải không ?

- Thưa, người Tàu vẫn cho rằng chữ Tàu phải viết bằng bút lông mới đẹp. Con quen dùng thứ này và cũng thấy quý, mấy cây bút này cũng gần trăm năm rồi, thưa thầy.

Ngài mỉm cười gật đầu và khi ra đến cửa phòng tôi, ngài chợt đứng lại, mắt vẫn nhìn ra sân, giọng nói xa xôi :

- Hãy làm chủ nó, đừng để nó làm chủ mình và cây bút dù quý đến mấy cũng không quan trọng bằng những gì mình viết.

Tôi đã về Thiên Tân với câu nói đó của ngài hòa thượng như một món hành trang vô giá. Mấy cây bút đó tôi mang theo không vì chúng là cổ vật mà là vì chúng nhắc nhở tôi về câu nói của ngài Kaccano. Bây giờ ngài đã mất rồi, vào giữa mùa an cư năm ngoái. Tôi đã không kịp có một bức ảnh nào chụp chung với ngài. Tôi chỉ còn cái giá bút đó để nhớ thầy. Tôi đã vĩnh viễn chia tay thế giới cổ ngoạn, nhưng cái tôi có được bây giờ còn quý giá hơn thế rất nhiều sư à!

Ngồi nghe sư Sotthiyo nói tới đó, tôi bất giác ngó lên giá bút của sư rồi chiếc nghiên đá Đoan Khê phủ bụi đang nằm bên cạnh và ngậm ngùi nghĩ đến ngài Kaccano, một người mà tôi chưa từng gặp mặt.

Trung Quốc từ đó đối với tôi trở thành chốn kỷ niệm của một lần tái sinh, nơi có một nhà sư với câu chuyện kho vàng thời Thanh Mạt và sau cùng là một căn nhà nhỏ ở ngoại thành Thiên Tân với cái giá bút vô ngôn mà nói rất nhiều.


TOẠI KHANH

Buddhahome.net

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#8
Thích truyện của Mr. Thoại Khanh.  Clap
Reply
#9
Bà lão cụt chân

GN - Anh này, bà Phỏng bán bún hôm nay lại khất tiền em nữa đấy!

Tay cầm hai bì bún, Thoa lững thững bước vào trong nhà, giọng đầy khó chịu. Cường đang loay hoay gõ bàn phím lách cách, thấy vợ phân trần về chuyện mua bún, anh dừng lại nhìn vợ rồi cười xòa:

- Chắc là bà khất nợ vì không có tiền lẻ thật. Em thông cảm cho bà ấy. Trách người già cả làm gì.

- Không... không! Rõ ràng em thấy trong bọc tiền để ở túi áo của bà có rất nhiều tiền lẻ mà. Không thể có chuyện không có tiền lẻ được. Rồi Thoa còn phân trần thêm: Sao mấy người lạ qua đường ăn hoặc mua về, bà ấy không khất họ như mình đi! Bà thối tiền lại đầy đủ mà. Rõ ràng như thế!... 

[Image: a%20mhoa%20tngan.jpg]

Sau đoạn kể lể, chồng Thoa lắc đầu mỉm cười rồi lại chăm chú lách cách gõ máy. Giọng Thoa thôi cằn nhằn. Cô đánh tiếng gọi con dồn dập:

- Hiền, Hòa, hai chị em dậy thôi nào! Muộn giờ lên lớp rồi...

Từ khi chuyển đến trọ ở ngôi nhà đầu phố, có rất nhiều việc khiến Thoa ưng ý, nhưng cũng có vài chuyện lặt vặt khiến cô chẳng vừa ý chút nào. Đại loại như chuyện của bà lão cụt bán bún tên Phỏng kia. Ngày nào cũng vậy, mỗi sáng, Thoa đều mua đồ ăn sáng về chuẩn bị cho con xuống trường đi học. Hai con gái của cô lại cứ thích ăn bún của bà Phỏng nấu. Có bữa vì không vừa ý bà, Thoa đánh bạo sang quán bún khác mua. Thế mà chiều đến trường đón con, nghe cô bảo, hai đứa con Thoa không chịu ăn sáng vì không phải bún của bà lão cụt thường ngày. Và rồi từ hôm sau, dù thể nào, Thoa cũng phải đến đó mua cho con. Chúng ăn bún chẳng biết chán, quanh đi quẩn lại: hết bún thịt, bún trứng cút, lại đến bún chả cá. Ngày nào chúng cũng chỉ “nghiền” mỗi món bún. Còn bà lão cụt Phỏng thì... Mà sao bà lại phải làm như vậy. Thoa chẳng thể lý giải được. Cô nghĩ rồi lắc đầu.

Chuyển đến khu phố này ở trọ được hơn một tháng thì mất hơn nửa tháng, hai con của cô ăn bún của bà lão cụt nấu. Cứ nghĩ đến là Thoa lại bực mình. Nào mua có hai bì bún 8 ngàn, Thoa đưa tờ 10 ngàn để bà thối lại. Ấy vậy mà hôm nay bà bảo: Bà hết tiền lẻ rồi. Cho bà khất lại 2 ngàn! Đến mai mua đưa tờ 10 ngàn, bà lại bảo: Bà còn có mỗi tờ 2 ngàn à. Để lại 2 ngàn, mai con lại mua tiếp nghe! Chả lẽ Thoa lại nói là không, nếu không vì hai cô con gái của Thoa thích ăn bún của bà nấu thì Thoa đã thôi mua từ lâu rồi. Vậy mà bà viện lý do lý trấu rằng không có tiền lẻ. Thái độ và hành động của bà lão cụt khiến Thoa bức bối trong người. Cô không khó khăn đến mức vì chuyện nhỏ ấy mà đem lòng ghét một ai đó, nhưng việc lặp đi lặp lại, cô không chịu được. Định nói thẳng nhưng nghĩ đi nghĩ lại, Thoa lại nấn ná. Với lại nhìn bà bị cụt mất một chân mà vẫn ngồi bán bún, Thoa cũng thấy thương cảm phần nào. Hơn nữa, bà lại sống đơn độc trong căn nhà thuê trọ như vợ chồng Thoa.

Buổi chiều, đón con từ trường về, Thoa thấy mấy bà, mấy cô ngồi tụm năm tụm bảy trò chuyện trước ngõ. Thấy mẹ con Thoa, bà Yến vẫy cô lại hỏi chuyện. Cũng chỉ là chuyện mua bún bà lão cụt góc phố, bởi bà Yến thường thấy sáng nào Thoa cũng xách hai bì bún từ đó đi về. Câu chuyện về bà lão bán bún qua lời kể của xóm giềng khiến Thoa vỡ lẽ.

Bà Phỏng ngày xưa đẹp lắm. Vẻ đẹp đoan trang, thùy mị đánh đổ cả đám trai phố huyện ấy chứ! Ấy vậy mà trái tim bà chỉ dành riêng cho người con trai nghèo tên Pha, cùng xóm. Gia đình bà vốn chẳng khá giả gì nhưng thấy bà chọn chỗ nương thân nghèo túng, ba mẹ bà phản đối dữ lắm. Vì thương Pha nên bà Phỏng nhất mực van lạy cha mẹ cho lấy, sướng khổ gì mình chịu hết.

Gạt đi nước mắt, ba mẹ bà chấp nhận cuộc hôn nhân của con gái. Những tưởng tình yêu sẽ át đi sự nghèo khổ, ai dè, khi hai đứa con gái của bà mới còn học cấp 1 thì một tai nạn giao thông ập đến khiến bà phải cưa bỏ đi một chân. Bà trở thành người tàn phế. Chồng bà thấy bà chẳng thể làm được gì, chỉ ngồi một chỗ, tính tình anh ta đâm ra thay đổi. Gã ta bỏ đi theo người đàn bà khác, để lại hai đứa con nheo nhóc cho người vợ cụt mà chẳng nhắn nhủ một lời.

Để có tiền nuôi con, bà bán ngôi nhà trong hẻm vắng rồi thuê ngôi nhà nhỏ nơi góc phố, cạnh cổng trường học để mở quán bán bún. Nghề bán bún của bà vốn được người bạn xã bên mách kế. Ban đầu lưa thưa vài ba khách, nhưng dần dà người đến ăn bún bà nấu cũng nhiều. Đa số khách đến đều là học sinh, những người lao động nghèo tiện đường ghé qua. Cả trẻ con, như hai đứa con gái của Thoa chẳng hạn. Hồi con còn nhỏ, công việc đi chợ, bà Phỏng thường nhờ cô em họ ở bên cạnh mua bán. Khi con cái lớn, chúng đi chợ thay bà. Rồi khi con đi học xa nhà, bà đặt hàng cho người ta đem đồ đến tận nhà. Cứ thế, bà chỉ việc thức khuya, dậy sớm nấu nướng, bán hàng. Dẫu chỉ còn một bên chân, di chuyển khó nhọc, nhưng làm riết cũng quen. Rồi bà bén duyên với nghề cũng đã gần 30 năm rồi. Ba mẹ con nương tựa vào nhau đi qua những ngày gian khổ nhất khiến hàng phố nhìn vào, ai nấy cũng động lòng. Hai cô con gái của bà đều trở thành cô giáo cũng nhờ quán bún của bà cả.

Hôm trước, Thoa cuốc bộ từ nhà lên mua bún cho con. Trong khi chờ đợi, cô thấy ông cụ khoảng ngoài 70 tuổi ngồi cắm cúi gắp từng sợi bún để ăn. Dù bán hàng cho khách, nhưng thi thoảng bà vẫn hướng cái nhìn về phía ông lão đáng thương bằng đôi mắt sẻ chia. Khi ông lật đật đứng dậy sờ soạng trong túi áo và lôi ra những tờ bạc lẻ nhàu nát được vuốt lại ngay ngắn đưa về phía bà, bà mỉm cười đôn hậu:

- Hôm nay tôi bán bún miễn phí cho cụ. Cụ không phải trả tiền đâu. Ngày mai, cụ lại đến đây ăn bún nghe!

Ông lão cười để lộ hàm răng đôi ba cái đã rụng, giọng ồm ồm:

- Cảm ơn chị. Thi thoảng chị bán miễn phí thì lấy đâu ra lời lãi?

Quay nhìn Thoa, ông lão vui tươi:

- Bà ấy tốt lắm. Không chỉ riêng tôi đâu. Học sinh ăn sáng ở đây thỉnh thoảng cũng được bà bán miễn phí đấy!

Thoa gật đầu và mỉm cười đáp lại. Bóng ông trên chiếc xe đạp khuất dần ở khúc cua, bà Phỏng nhìn Thoa cười:

- Ông ấy hiền lành và tội nghiệp lắm cháu! Con cái bỏ đi làm ăn hết, một mình ông sống thui thủi ở cuối phố. Tôi thương đức tính tốt nên mới vậy. Với những người quen thân, tôi vẫn thường thối tiền nhưng để lại một, hai ngàn không phải để giữ khách hay bắt họ phải đến ăn bún tôi nấu mà vì tôi muốn được gặp họ mỗi ngày, được trò chuyện, được hiểu thêm về họ. Bà nói với Thoa như giãi bày.

- Và bởi tôi bị cụt mất một chân, ít đi lại đây đó được nên muốn có người trò chuyện lắm.

Giọng người đàn bà gần tuổi 60 rưng rưng. Thoa cầm hai bì bún, trả tiền. Như thường lệ, Thoa vẫn đưa tờ 10 ngàn để trả tiền hai bì  bún. Bà Phỏng cẩn thận lấy trong túi áo tờ 2 ngàn định thối thì Thoa mỉm cười ngăn lại:

- Bà không phải thối đâu ạ. Sáng mai, con lại lên mua bún cho hai cháu mà! Bà nhìn Thoa bằng nụ cười cảm ơn.

Bước chân ra về, Thoa nghĩ lại những lời tâm sự của bà Phỏng, nhớ những suy nghĩ thiển cận của mình về bà mấy hôm trước đó, và cả những câu chuyện nghe được từ hàng xóm,... Ngoái đầu lại nhìn, Thoa thấy bà vẫn đang ngồi bệt trên cái ghế nhựa cũ đã cắt sát bốn chân. Có khách đến, bà vừa bán bún vừa nói cười vui vẻ. Bao bực dọc trong người Thoa giờ đây bỗng nhiên tan biến chỉ còn lại hình ảnh bà lão cụt thật đáng trân trọng và khâm phục.

Truyện ngắn Lê Xuyên
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#10
Trả vợ

GN - Không cần dọn mớ rau lợn đang cắt mứa. Anh kêu chị đứng dậy, đưa tay anh băng chỗ bị đứt. Cầm máu, anh lấy xe bảo chị đi luôn thể. Đường về nhà ngoại gần ba chục cây số êm ru mà xe chạy chậm rì. Hai người chẳng ai nói với ai một lời nào, anh thì muốn mang chị về trả cho nhà vợ còn chị cũng muốn rời xa nhà chồng. Chẳng cần gì nữa, chán khủng khiếp. 

Lấy nhau gần chục năm không mụn con, anh cày cuốc gì ngoài đồng mà đi sớm về muộn. Lúc nào cũng nghe mùi rượu, có lúc nghe mùi gì tựa phấn đàn bà. Chấm hết, chị thích anh chiều. Anh chỉ cần nói vài câu rồi sẽ bỏ chị lại cho bố mẹ vợ. Chị sẽ giải thích với bố mẹ rồi được nằm trên giường ấm nệm êm đợi ngày ra tòa ly hôn. Chẳng thiết, đứa con làm cầu nối không có, kinh tế đếm mãi không ra một trự tiền ngoại trừ bầy lợn nhung nhúc nuôi mãi không lớn mà cứ eng éc đòi khựa nhau. Đợt này thêm lợn rớt giá thê thảm như người ta nhảy cầu. Tức chết đi được, ở cái nhà đó lợn kêu, người say rượu ói, chó sủa ma buổi chiều tạo nên dàn âm thanh không cần loa máy. Tóm lại là chị mệt, anh cũng mệt, hai người quyết định chia tay. 



[Image: a%20duyen%201.jpg]

Ông già vợ thấy đứa con rể đến đột ngột kèm vẻ mặt thảm cảnh của cô con gái ít nhiều hiểu được sự tình. Nhưng chẳng nghe chúng nói gì nên ông lặng im. Cứ làm cái gì đó ngồi lai rai rồi nó nói cả thôi, lúc ấy chẳng cần hỏi han gì. Hơn năm mươi tuổi nhưng mấy món nhậu ông là người sành bậc nhất. Chỉ hơn ba mươi phút rượu mồi được bê lên. Con rể và bố vợ ngồi chung chiếu. Chị chui vào giường nằm thở ra, ngoài này nghe nên rượu chẳng mấy lúc cạn. Hơi thở dài của đàn bà là lực đẩy cho rượu vào mồm đàn ông. Anh uống liền tù tì mấy chén rồi quay sang bố vợ hỏi mẹ đâu. Bố vợ chỉ cười trừ, có câu rất dễ mà khó trả lời đến thế. Dốc hết chén rượu, bố vợ xách chai ra cổng ghé quán mua thêm. Còn con rể tranh thủ đi ngang phòng xem người ta nằm trong ấy thế nào. Coi như là nhìn nhau lần cuối. Vì lát nữa anh sẽ về. Thế, nhẹ tựa móng heo khi để lại cái khối thịt gần 50kg ôm ấp mười năm. Cũng không lạ lẫm gì, chuyện hợp tan là thường tình. Chị đã ngủ, thời gian đi đường cộng với tinh thần tồi tệ khiến chị rơi vào giấc ngủ một cách nhanh chóng. Anh ngồi đợi rượu, bố vợ về, mặt ông đỏ gắt. Nắng cộng với rượu thấm vào người. Nhà ngoại chỉ có mỗi vợ anh, trước anh yêu nói đủ điều thề thốt. Đứa con một được nhấc ra khỏi nhà, hồi đó chừng 48kg, giờ gần 50. Về cân nặng coi bộ cũng ổn, đi 48 về 50 anh không bỏ đói. Nhưng ngán quá, không biết nói thế nào. Lâu không về chơi, hôm nay đem vợ về bảo trả. Mà không có mẹ vợ, trả mỗi mình bố vợ sao được? Không biết mẹ đi đâu, muộn mấy cũng phải chờ để giải quyết cho xong việc. Anh đằng hắng, nói chuyện chẳng đâu vào đâu, cứ nói một câu uống liền tù tì ba chén rượu. Bố vợ thấy rõ điều này nhưng cũng để mặc. Nó buồn cứ để nó uống. Với lại trong bàn rượu người ta hay có thói ăn gian.

Mới đầu hè, trời đã gắt, nắng cứ tha hồ nắng nên gió cũng nghe hơi lửa hừng hực. Lũ ve cứ hát mãi một bài từ thủa cha sinh mẹ đẻ chúng, thật là nhàm chán. Anh nói với bố vợ, giọng ngập ngừng.

- Bố, con chở Huyên về.

- Ờ, bố đã thấy anh chở con Huyên về.

Hết một lượt đối thoại, hai người ngồi lặng im. Chỉ tiếng cốc chạm vào nhau. Con rể vẫn uống kép, bố vợ ngồi nhìn càng lâu càng ngán nhưng chẳng biết nói gì. Tình cảnh hai người không hơn gì nhau. Vợ ông đã về nhà ngoại sớm nay, bất đồng là về ngoại, suốt như thế từ ngày lấy nhau đến khi con gái đi lấy chồng.

- Bố... bố... có... thương... con... không?

Giọng anh rể lè nhè, gãy khúc, nói một từ nấc đến ba bốn lần và anh ói ra nền nhà. Bố vợ đi lấy cái thau đặt cạnh bên chiếc giường, bảo anh lên đó nằm nhưng anh từ chối. Hôm nay anh uống thật say. Phải hết sức say mới đủ can đảm nói chuyện trả vợ anh lại cho bố mẹ. Anh càng uống càng tỉnh, mỗi say cơ học chứ tâm trí anh vẫn còn mẫn chán. Anh rể lại hỏi.

- Bố... bố... có... thương... con... không?

- Bố không thương anh bố thương ai.

- Bố thương con Huyên không?

- Nó là con gái bố, bố không thương nó bố thương ai.

- Bố có thương vợ bố không?

- Không.

Bố vợ buột miệng, anh con rể nhấc cái đầu nặng trĩu nhìn lên mặt. Quái lạ, anh cười rồi gãi đầu. Như thế này là cùng mùi rượu, cùng chai rượu, cùng hoàn cảnh. Anh cất bớt chiếc cốc, giờ thì hai người uống chung cốc, cứ rót ra người một chén, uống xem ai say, uống xem ai khổ hơn ai, nói xem ai bi kịch hơn ai.

- Bố, con chịu hết nổi với con Huyên rồi.

- Nó làm sao?

- Con không biết, bố hỏi nó nói cho nghe.

- Ơ hay, anh nói cho bố nghe chứ.

- Con không nói.

Bố vợ ngồi nhíu mày, đoạn nghĩ hay là gọi con gái ra. Nhưng lúc này gọi ra không xong, thằng con rể đã uống nhiều rượu, gọi đứa con gái ra chúng lớn tiếng thì rất nhọc. Ông ngồi suy nghĩ rồi quyết định gọi con gái. Huyên ra nhưng cô chẳng nhìn ai, hồi lâu Huyên hỏi bố mỗi câu.

- Mẹ đâu hả bố?

- Mẹ con đi đâu đó...

Nhìn vẻ mặt khó xử của bố vợ, đứa con rể cười trong khi nốc cạn vài ly rượu nữa. Suy đoán của anh có lẽ đúng, mẹ vợ đã giận bố nên đi rồi. Giờ nói thế nào, anh đằng thằng chở vợ về nhà mẹ đẻ còn bố thì để vợ mình tự đi. Cái này chẳng phải so bì nhưng về mức độ văn minh thì anh hơn bố vợ chán. Anh chở vợ về trả đàng hoàng. Cái khó là chẳng biết nói thế nào, hồi trước lấy kiên quyết thuyết phục nhà vợ vì mục tiêu trước mắt với bao điều tốt lành, giờ kiên quyết trả vợ vì mục tiêu trước mắt là ai đi đường nấy. Khó quá, và rất nặng nề. Con người mình lấy dễ bỏ khó. Đến cả bố vợ còn tránh chuyện vợ về nhà mẹ chứ huống gì đứa trẻ người non dạ như anh. Nhưng chắc phải nói, phải nói, anh tự nhủ nhiều lần như thế. Lúc anh định nói thì bố vợ xen chuyện vào, mà toàn kiểu khen vợ chồng anh con rể mới khổ.

- Anh chứ được phước, hai vợ chồng muộn con nhưng thương yêu nhau là tốt rồi. Con đường trước mắt còn dài, tốt phát huy, sai sửa chữa. Bố mong có thế, mỗi mụn con gái bố gửi cho anh.

- Bố...

- Anh nói đi.

- Con chở Huyên về đây, bố cho Huyên ở đây...

- Thế nhà anh bị hỏng?

- Nhà con hỏng rồi.

- Nếu nhà bố cũng hỏng thì sao?

Hai người đàn ông nhìn nhau không nói thêm câu nào nữa. Huyên đứng phía cửa thở dài.

Chiều nắng gắt, tiếng ve cứ ngang nhiên thả ra những âm thanh bực dọc. Hai người đàn ông mang hai khuôn mặt đỏ gắt ngồi cạnh nhau. Lâu lâu họ cụng ly rồi uống nhưng đã oải hẳn. Bố vợ mấp máy môi kiểu như người bị bệnh, định nói với chàng rể điều gì đó nhưng lại thôi. Con người ta lạ, chỉ chọn mỗi điều mình thích. Hết thích thì bỏ, hết thích thì trả. Đến con người cũng trả nốt. Oái oăm thế, giá mà có cái máy sàng lọc tình cảm, sàng lọc rủi may ở đời... ông nghĩ đến đó rồi bỏ mứa. Chẳng biết nếu có máy đó thì tốt xấu và ai sẽ nhận cho. Ông thở dài, con gái ông năm lần bảy lượt hỏi mẹ nó đi đâu ông đều lảng tránh. Thì thôi nói cho nó biết mẹ đã về bên nhà ngoại, giận ông nên mới đi. Tự đi chứ không ai chê bai hay xua đuổi gì. Nhưng kẹt cái thằng rể ở đây, sĩ diện gia cảnh tuổi tác hơn là cảm thông cho người đồng cảnh ngộ. Mà nói ra chuyện đó khác gì chịu chấp nhận con Huyên ở lại cái nhà này, khó quá. Ông hỏi chàng rể sự tình.

- Anh rể, tiếng ông nhỏ nhẹ. Con Huyên nó làm sao?

- Nó càng ngày càng hỏng bố ạ.

- Hỏng ra làm sao?

- Ghen tuông mù quáng, ăn nói bỗ bã, không tôn trọng chồng…

- Anh có gì để nó ghen không?

- Tay cày tay cuốc, lam lũ ngoài đồng thưa bố. Có bấy nhiêu.

- Bảo ban nó từ từ chứ con, sắt người ta vẫn phải rèn.

- Sắt còn rèn được, bố ạ. Chứ Huyên thì hết nước rèn rồi...

Bố nhìn Huyên, nhìn cánh tay đang dính băng. Giận chồng Huyên cắt tay luôn, lúc ấy đang thái rau cho lợn. Anh rể tường trình, Huyên thừa nhận. Bố không ưa gì hành động này vì nó tạo nghiệp, cái này đeo đẳng mãi nếu Huyên không khéo sửa thì nó sẽ lớn lên thành hình và xâm chiếm lấy Huyên. Cơ sự đã thế, ông bố tạm thời nhận Huyên ở lại. Đang định nói điều này với con rể thì vợ ông ngoài ngõ đon đả trở về. Chẳng hiểu vớ được của gì mà vừa đi vừa nói, hay làm trò như thế để lấp đi chuyện mình bỏ nhà đi trước mặt chồng con. Thôi thì kệ, về là tốt rồi, về đúng lúc này càng tốt. Ông khỏi giải trình xung quanh bốn từ “mẹ con đi đâu” của con gái và chàng rể. Anh rể thấy mẹ vợ về vui vẻ chợt dụi mắt nhìn, chắc không phải như mình nghĩ. Anh lẩm bẩm, giờ đến lượt nói với mẹ vợ chuyện của Huyên xong thì về. Nhưng với đàn bà khó lắm, nói không khéo là sẽ được trận đòn cũng nên, có khi là màn đánh võ mồm. 


Nghĩ đến đây anh ngán, quay sang gọi vợ. Huyên ra, thấy rượu trên chiếu đã hết cầm chai đi mua, đi được đoạn thì anh gọi lại. Bảo rằng uống như thế đủ rồi, hai bố con nghỉ để ăn cơm tối. Ăn xong ngủ lại luôn, xin bố mẹ một đêm lấy hên rồi mai hai vợ chồng về, biết đâu sau chuyến đi này hai người có em bé. Huyên nghe thế ngoảnh mặt lại cười nhưng vẫn mang chai đi mua rượu, cô bảo uống thêm chút chẳng sao. Trông Huyên và mẹ, người đi mua rượu, người lúi húi nấu cơm dưới bếp mới thực ấm lòng. Đúng là hôm nay đẹp trời, tiếng ve trở lại đầy râm ran. Anh rể nhìn bố vợ nói. Còn bố vợ thì nghĩ, con ve kêu, con người kêu. Tình duyên con người cũng như cái nghiệp, có họa, có phúc, có buồn, có vui.  Đừng có cầu may cho mình.

Truyện ngắn Hoàng Hải Lâm
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#11
Nhậu chay

GN - Sao mẹ chịu thương cha?

Sau mỗi cơn nóng nảy của cha, tôi thường hỏi mẹ vậy.

Mẹ cười, hồi đó lấy chồng không dễ ra riêng ngay như bây giờ, khi gật đầu với người ta là coi như gật đầu chịu làm dâu. Mà thời đó… bao nàng dâu chỉ biết nuốt nước mắt. 


[Image: nhauchay.jpg]
Nghĩ về cha - Ảnh minh họa


Mẹ kể bà nội chăm chỉ đi chùa lắm. Dân buôn bán, cực chẳng đã lỡ đụng chuyện phải nghỉ vài ngày là đủ mối lo, lo mất khách lo sạp kế bên giành mối rồi thì tiền đâu mà góp hụi ngày, có hụi ngày mới có hụi tháng…

Vậy mà bà nội đều đều mỗi tháng nghỉ bán mùng một và rằm. Mấy sạp gần quanh đó ngày nào không thấy bà nội dọn hàng mà có khách hỏi thăm là họ trả lời: “Tới chùa chắc chắn gặp liền”. Có người chỉ dẫn rõ ràng hơn: “Không gặp liền thì đợi chút xíu, coi chừng là đi chợ mua ngò thơm đó”.

Vậy, bà nội đi chùa làm công quả. Việc gì cũng làm không nề hà. Lau chùi, quét sân, tỉa lá héo úa những chậu kiểng, phụ bếp… Lần đó nhà bếp quên chút ngò thơm nêm canh nhờ bà nội đi mua trở thành giai thoại vì tiền đi xe ôm ra chợ tốn gấp sáu lần tiền ngò thơm. Mọi người trách bà bếp chính khó tính không đáng, lỡ thiếu tí rau nêm thì có sao. Người thì nói ủa, bếp chùa nấu chay mà cũng kỹ tính vậy à? Bà nội lắc đầu, nồi canh rau nêm chút ngò thơm để mấy chú ngon miệng hơn là điều rất nên làm. Quý thầy tu sâu sắc rồi thì sao cũng được, thương là thương mấy điệu mấy chú còn trẻ quá, mình chẳng giúp được gì, tí tiền xe ôm tính toán so đo làm chi.

Là mẹ nghe người ta kể lại vậy chứ ngay khi đó mẹ chưa biết bà nội. Mẹ chỉ là người bán mớ ngò thơm. Nói đúng hơn, mẹ là con của bà bán rau. Chợ trưa rồi, thấy cái xe thồ thắng kít lại tưởng gặp may được khách mua bao hết gánh rau ế giùm cho, ai ngờ chỉ lấy mấy cọng ngò. Mẹ xịu mặt. Bà nội kêu lên: “Con nhỏ này được phước trời cho mặt mũi dễ thương mà sao bí xị nhìn dễ ghét uổng quá vậy. Cười lên đi cưng”.

Mấy gánh hàng chung quanh cười ồ mà mẹ không cười nổi, chỉ thấy sượng sùng. Bà nội tiếp tục: “Đừng có để chuyện bán được mớ rau hay không khiến mình buồn vui con à. Mớ rau mà làm chủ được cái tâm của mình sao con?”.

Rất lâu sau mẹ mới hiểu được lời nội nói, còn khi đó mẹ chỉ thấy rối rắm. Rồi thì bà nội thường xuyên tới mua rau. Nhớ lời bà nội nên mẹ luôn cố gắng mỉm cười, chỉ là để lấy lòng khách thôi. Nào ngờ một ngày kia bà nội nói: “Thiệt tình là con trai bác hơi nóng tính, mà con chịu làm dâu bác không?”.

Một bà mẹ chồng hay cười và thích người khác cũng cười vui. Dân chợ nói cô gái nào làm dâu bà nội là được phước ba đời. Vậy nên mẹ gật đầu.

Và mẹ theo bà nội đi chùa từ đó.

*

Cha thẳng thừng không thích mẹ theo bà nội đi chùa, chùa chiền là dành cho mấy bà già. Bà nội tỉnh bơ, nhờ phước đức làm công quả nên mới có được nàng dâu hiền, cha là con của bà nội nên chỉ được hưởng phước lây thôi mà cũng có được vợ vừa hiền vừa xinh đẹp.

Cha thích mẹ ăn diện rực rỡ để cha khoe vợ với bạn bè, mà mẹ chỉ thích màu sắc đằm thắm giản dị. Trước đây, mùng một và rằm, bà nội đi chùa thì cha tới quán cơm gà. Nay, có vợ rồi thì cha ăn ở nhà, nhìn mâm cơm nửa chay nửa mặn cha cau có thốt lời châm chọc là nhà chia thành hai mà mẹ là phe kia, cha còn đòi đóng cửa sổ lại rủi lỡ hàng xóm tò mò nhìn qua tưởng chồng keo kiệt cho vợ ăn toàn rau với rau.

Rồi làm sao mà cha chịu ăn chay hả mẹ?

Ừ, nhờ có con. Hôm đó là lần cuối cùng cha quăng đồ đạc vô tường, lần cuối cùng, là vì con khóc thét lên. Những lần trước, mẹ cố che chắn để con không phải chứng kiến, mà lần đó mẹ không kịp. Nỗi kinh hoàng khiến con đổ bịnh, tiếng động nhẹ cũng khiến con giật mình lên cơn co rút. Cả nhà ai cũng sợ hãi…

Không dễ có gì khiến cha sợ hãi đâu con.

Lần đầu tiên cha tự nguyện quỳ trước bàn thờ Phật để cầu xin cho con được bình an mạnh khỏe, cha hứa sẽ ăn chay…

Mới biết là cha thương con lắm. Lấy chồng có tính phong kiến mẹ không dám mong được chồng yêu chiều, nhìn thấy cha bộc lộ nỗi thương con là mẹ đủ vui rồi, nhất là con chỉ là con gái. Mẹ sinh con phải mổ, con là duy nhất. Nhiều khi nghe mấy ông hàng xóm cười cợt cha chỉ là ông ngoại, mẹ thương cha thắt lòng mà chẳng biết làm sao. Những chiều cha uống rượu tới tối chưa về, mẹ nghĩ gần xa, biết đâu cha đang cố kiếm đứa con trai. Thôi thì…

*

Vậy nên tôi ghét cha. Mẹ hiền quá nên tôi ghét giùm luôn phần của mẹ. Tỉnh rượu cha nhìn quanh nhà tìm dấu vết đổ vỡ và tỏ vẻ sẵn sàng nhận lỗi lỡ tay trong cơn say. Trong khi mẹ vội trấn an là tối qua về tới nhà là cha ngủ vùi luôn thì tôi tự hỏi vẻ sẵn sàng nhận lỗi kia có phải để che giấu sự mãn nguyện?

Bà nội hỏi tôi mong ai mà dạo này sao hay giật mình nhìn ra cổng? Ban đầu tôi nín lặng. Bà nội cứ hỏi dồn, tôi thẳng tuột luôn là chờ gặp người đàn bà của cha và thằng bé. Phải, với một thằng bé thì người ta có quyền ngang nhiên lắm.

Bà nội thảng thốt, cháu nghe ai nói?

Cháu tự biết, tôi trả lời.

Bà nội vốn hay cười mà lúc này như chết lặng. Tôi cũng chết lặng. Lời cay đắng thốt ra như lưỡi dao từ trái tim bà nội xoay ngược lại đâm vào tim tôi.

Mẹ nghẹn ngào. Đừng nói bậy, con.

Con không nói bậy. Tôi cãi bằng giọng không để mẹ nói gì được nữa. Người đàn bà đó với thằng nhóc đó mà về đây thì con sẽ đi liền. Mẹ cam chịu chứ con thì không đâu.

*

Lời tuyên bố bỏ nhà đi khiến bà nội không chần chừ phút giây nào, ngay lập tức bà nội đi tới xưởng mộc là nơi cha làm việc. Cái máy cưa inh tai. Thợ thầy đang xẻ gỗ, đơn hàng gấp, không bỗng nhiên mà đòi tắt máy được.

Cha gỡ cái khẩu trang và hét lên: “Bụi bặm điếc tai má tới đây làm gì?”.

Bà nội kể lại, lúc đó nhìn cha khó coi lắm. Mạt cưa bám đầy từ tóc xuống cổ mà cái cổ rướn lên nổi đầy gân ngoằn ngoèo, chỗ đeo khẩu trang được che chắn khiến khuôn mặt cha vằn vện.

Khi nổi giận bà nội cũng ghê gớm, bà túm vai áo kéo cha ra đường. Thợ thầy kinh ngạc đến nỗi nhấn nút tắt luôn cái máy cưa để nghe cho rõ chuyện gì mà bà già thích đi chùa đâm ra dữ dằn vậy.

Mày lăng nhăng với ai hả? Bà nội quát lên.

Cha lắc đầu, mạt cưa trên tóc cha rắc xuống tay bà nội châm chích châm chích...

Má nói gì?

Nói gì hả? Tao nói là đời tao đây chỉ đón dâu một lần thôi.

Cha dụi mắt, mạt cưa từ ống tay áo khiến mắt cha đỏ kè.

Mấy ông thợ cười ha hả. Con trai của bà nhậu chay thôi bà ơi, nhắm rượu với đậu khuôn mà bà lo gì chớ.

*

Bà nội nói tôi phải đọc kinh sám hối cái tội vọng tưởng. Mẹ tự thú là chính mẹ cũng tưởng. Bà nội bắt mẹ kể lại tỉ mỉ đúng từng câu chữ nghe ra làm sao mà tôi đòi bỏ nhà đi.

Bà nội lắc đầu, sao tôi không thấm thía: “Mới biết là cha thương con lắm” mà lại để mình thấm chuyện tào lao kia?

Cha cáu kỉnh đi lên đi xuống đi qua đi lại khắp nhà. Khi nổi nóng cha thường hay vậy, nện bàn chân khắp nhà, cứ như cái điều làm cha tức giận đang kẹt trong ngóc ngách nào đó mà chân cha sẽ đá trúng và nó chắc chắn phải văng ra tan nát.

Cha gầm lên, tưởng mấy người đi chùa hay ho lắm, ra là cũng nghĩ ngợi nói năng lung tung. Cả ngày khiêng vác gỗ ván, chiều tối anh em làm xị rượu thuốc giải mỏi mà cũng thành chuyện được à?

Không để cha có cớ suy diễn lỡ nặng lời mắc tội, bà nội át đi, may mà trắng đen rõ ràng kịp, chứ lỡ mà con gái con đứa ngu dại bỏ nhà đi…

Miệng ba đang há rộng vụt ngậm lại, tắt lịm cơn cáu kỉnh, cha nhìn tôi sợ hãi xót xa.

Tôi chỉ biết cúi đầu, đúng là tôi tưởng không đâu, nhắm rượu với đậu khuôn là cha vẫn giữ trọn lời hứa với Phật, vì tôi, đúng vậy mà…

Truyện ngắn Nguyên Hương

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#12
Quả báo

GN - Sáu Khê chống nạnh hai quai, đầu nghiêng, mắt liếc, xem chừng rất vừa ý cái chòi mới cất cách dốc cầu chừng trăm thước. Nhà y nằm phía trong chỉ với mấy công vườn tạp. Vốn là một kẻ tứ chiếng giang hồ, lười lao động, ham ăn chơi, nên từ khi lập gia đình, y đã bán dần mấy chục công đất của cha mẹ để lại. 

Chị Sáu vợ y là một người phụ nữ hiền lành hơi chút khù khờ nên thường bị y bắt nạt. Thằng con trai lớn tánh tình y hệt cha, làm ít ăn nhiều, đua đòi lũ bạn xấu bỏ học, rồi mỗi ngày gây biết bao chuyện. Xóm giềng hễ thấy mặt cha con Sáu Khê đều muốn tránh xa. Chỉ họa hoằn có đám, không thể không mời y. Nhưng ai cũng sợ, cũng không muốn ngồi chung bàn với cái của nợ đó.


[Image: raidinh.jpg]

Do lười lao động, nên mấy công vườn còn lại cũng xác xơ. Người vợ khờ của y mỗi ngày đi chằm lá mướn, rồi còn bắt ốc hái rau. Cái ăn trong nhà đều trông vào chị. Đứa con gái út cũng không được học hành nhiều. Nó đã xin vào làm trong xí nghiệp chế biến thủy sản của tỉnh. Mỗi tháng, nó về thăm nhà một lần vào kỳ lương để giúp mẹ. Nó thương mẹ vất vả, chỉ muốn bù đắp. Và nó lại sợ cha, sợ anh, hai người đàn ông như hai hung thần của xóm.

Thằng Cảnh vừa tới sau lưng cha, nó vỗ tay bôm bốp: “Ngon lành nghe! Ông cất cái chòi đẹp thiệt! Vậy mà giấu nghề!”. Sáu Khê trừng mắt: “Tao thua mày chắc? Hổng làm thì thôi! Làm thì phải coi được chút! Mà mày chuẩn bị ‘đồ nghề’ chưa?”. Thằng Cảnh bước tới sát bên cha nó, nói nhỏ: “Ông yên tâm đi! Tui phải lên thị xã, kiếm trong một chỗ chuyên môn mới có hàng xịn đó!”.

Cả xóm thấy cái chòi vá xe đạp, xe Honda của Sáu Khê thì không khỏi ngạc nhiên: “Mặt trời mọc hướng Tây rồi chắc! Cái thằng chuyên môn ăn nhậu, bây giờ lại chịu làm!”. Người dễ tánh hơn thì nghĩ tốt cho y: “Chơi hoài cũng chán. Y đã chịu làm thì mừng giùm cho y!”. Ngày khai trương, y làm không nghỉ tay. Thằng Cảnh cũng lăng xăng phụ việc. Mấy người tốt bụng mừng cho y. Bây giờ, có công ăn việc làm, cha con nó bớt nhậu, bớt kiếm chuyện với lối xóm, cũng đỡ lo.

Chị Sáu vừa bắc nồi cơm lên bếp, thằng Cảnh đã bước vào: “Mai, tui đi mua cho bà nồi cơm điện, bà khỏi nấu củi nữa!”. Chị Sáu nhìn con. Thằng con trai lúc nào cũng tò tò theo ba nó. Nó học tới hết những thói hư tật xấu của y. Nó chưa bao giờ quan tâm tới chị. Bữa nay sao nó lại tốt vậy! Mua nồi cơm điện là sao! Thằng Cảnh thấy mẹ ngơ ngác thì cười lớn: “Bà hổng biết bây giờ tui có tiền rồi sao? Bây giờ ăn cũng ngon hơn một chút. Đừng tối ngày cứ cá kho, ốc luộc… tui nuốt hết nổi rồi!”. Và đúng như lời nó nói, bữa sau, nó đem về cái nồi cơm điện cho chị nấu cơm.

Hai cha con Sáu Khê làm nghề chưa được hai tháng, trong nhà đã có thêm cái tivi màu và cái quạt máy. Trước kia, khi ấp vừa có điện, nhà y chỉ hai bóng đèn nhà trước nhà sau. Bây giờ, từng món từng món đồ đã có mặt trong nhà khiến chị Sáu cũng vui. Tuy chị không biết mỗi ngày chồng con mình làm gì (chị đã quen phục tùng nên Sáu Khê có làm gì chị cũng không dám hỏi. Mỗi ngày, chỉ biết làm công việc của mình), nhưng thấy y bớt nhậu, bớt kiếm chuyện với lối xóm, chị thấy yên tâm hơn. Thằng Cảnh vừa đem về một con gà với mớ đồ nấu, nó nói với giọng mất dạy: “Bà làm con gà, bữa nay tui với ổng nhậu một bữa. Chừa lại một chút ăn cơm đi. Chút nữa tui vô lấy!”. Chị Sáu luýnh quýnh làm. Chị vẫn chưa dám bước ra nhìn cái chòi vá xe của ổng.

Hai Ninh trưởng công an ấp với mấy anh em trong tổ dân phòng vừa xong cuộc họp. Chuyện tai nạn xe máy gần đây sao xảy ra nhiều quá! Nếu lấy cái cầu làm tâm điểm, thì cỡ một cây số bên đây và một cây số bên kia, số tai nạn tăng lên đột biến. Hai Ninh nhíu mày. Anh đã nghĩ ra điều gì đó, nhưng vốn tính thận trọng, anh vẫn chưa phát biểu. Thằng Tượng lúc trước vẫn la cà với thằng Cảnh, nay vào tổ dân phòng, ngập ngừng một lúc rồi nói: “Con thấy chắc tai nạn xe là có lý do. Chắc là có ai đó… rải đinh!”. Thằng On là em chú bác của thằng Tượng cũng gật đầu, nhưng vẻ mặt lại có vẻ lo lắng. Hai Ninh uống một ngụm trà rồi dằn mạnh cái ly xuống bàn, giọng cương quyết: “Tôi phải tìm cho ra nguyên nhân. Trong địa bàn tôi quản lý, quyết không để ai làm việc phạm pháp”.

Mấy dĩa đồ ăn trên bàn đã hết sạch. Mặt mày cha con Sáu Khê đỏ lừng. Trời vẫn còn chút nắng le lói. Sáu Khê ra lịnh: “Dọn dẹp rồi về. Bữa nay hổng làm nữa!”. Thằng Cảnh ngạc nhiên: “Hổng làm nữa là sao ba?”. “Hổng làm tối nữa. Bây giờ đâu phải mình không tiền!”. “Nhưng… có xe phải vá thì làm sao?”. “Mày ngu quá! Sụp cửa xuống. Mày nằm chơi trong này đi! Không thì đi lấy bộ bài, tao với mày chơi vài ván. Ai cần thì kêu cửa, giá cao hơn. Nếu họ không chịu thì thôi! Ai cần ai cho biết!”. Thằng Cảnh nhìn cha rồi cười híp mắt. Đúng là ổng lắm mưu nhiều kế. Xe phải dắt bộ, giá nào họ cũng vá.

Tổ tuần tra của xã đã vất vả suốt một tuần. Anh em đi tuần suốt cả buổi tối, vẫn không phát hiện điều gì. Số người dẫn xe tìm chỗ vá vẫn tăng lên. Hai cha con Sáu Khê vẫn đều đều làm việc của mình. Chiều nay vừa vắng khách, y đã dặn thằng Cảnh: “Mày phải cẩn thận nghe! Tụi nó đi tuần sáng đêm đó!”. “Ông lo gì! Tui đi sau đít tụi nó. Tụi nó qua rồi tui mới rải. Yên tâm đi!”. “Nhưng Hai Ninh là con cáo già. Nó nghi rồi đó. Liệu hồn!”.

Lại thêm mấy tháng trôi qua. Tổ tuần tra vẫn chưa bắt quả tang người rải đinh. Mấy anh em đành phải mỗi ngày đi lượm. Cha con Sáu Khê vẫn làm công việc của họ. Trên cổ thằng Cảnh đã lấp lánh sợi dây chuyền vàng. Chị Sáu lúc ngồi chằm lá đã nghe tiếng gần tiếng xa: “Làm ăn thất đức cũng có ngày gặp quả báo!”. “Để coi tụi mày cười được bao lâu!”. Chị Sáu nghe buồn, muốn nói gì đó, nhưng biết nói làm sao! Cho dù khù khờ, chị vẫn từ từ vẫn hiểu ra mọi chuyện. Đồ đạc trong nhà, rồi chuyện thằng Cảnh sắp mua xe… Chị nghe mắt cay cay, mặt cúi gầm, tay thoăn thoắt.

Những người qua lại đoạn đường thường xuyên xảy ra tai nạn này không hiểu sao cái chòi vá xe lại đóng cửa. Tai nạn đã giảm nhiều. Lối xóm thì đã rõ. Ông bà mình thường nói “Ác lai ác báo” quả đúng không sai. Sáu Khê mặt mày ủ dột, đi lại không dám nhìn ai. Chị Sáu không còn chằm lá nữa mà phải túc trực ở bệnh viện nuôi thằng Cảnh. Con Út cũng xin nghỉ việc về giúp mẹ. Thằng Cảnh bị chấn thương sọ não và một tay bị gãy. Buổi sáng, nó đi thị xã mua xe, mặt mày hớn hở. Gặp mấy thằng bạn cũ, nó làm một chầu nhậu thỏa thuê. Bây giờ, ai dám xem thường cha con nó nữa! Nhà nó đầy đủ tiện nghi. Bây giờ, có thêm chiếc xe gắn máy này, thiệt không còn niềm vui nào bằng.

Đã chín giờ đêm. Sáu Khê vẫn thập thò trông ngóng. Lòng y như lửa đốt. Y linh cảm điều gì đó chẳng lành. Thêm một tiếng đồng hồ nữa trôi qua. Y thấy có ánh đèn lấp lóa. Rồi tiếng Hai Ninh kêu lớn: “Anh Sáu ơi! Anh Sáu à! Có ở đây không?”. Sáu Khê giật mình, tay chưn như bị điện giật. Y bước ra khỏi cửa: “Có chuyện gì vậy?”. “Thằng Cảnh té xe rồi! Bị thương nặng lắm! Người ta đưa vô bệnh viện rồi!”.

Sáu Khê chết đứng. Y mường tượng thằng con té xuống, giống như những người đã cán phải đinh. Y bước theo Hai Ninh như một xác ướp. Lối xóm cũng ùa theo. Văng vẳng đâu đây, tiếng của người nào đó: “Đúng là quả báo!”.

S.Q

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#13
Những nốt thăng trong cuộc đời

Quote:Pớc duyên gì được dự vào hàng ngũ xuất gia? (Tĩnh Am đại sư)



[Image: not%20thang.jpg]

GN - Con à! Nếu có ai đến xin gạo, con đừng múc lưng lon gạo, nhớ múc đầy vun nghe con!

Trước khi ra khỏi nhà, mẹ hay dặn ba chị em Mai như vậy.

Mai nhớ, đó là năm cô được 7 tuổi. Mấy chị em cô hễ nhìn thấy những người ăn xin thì rất vui mừng, vì được giành nhau đem lon gạo đầy vun cho họ, để mẹ được vui lòng.

Về sau, những người ăn xin vào xóm ngày càng ít, nếu có, họ chỉ xin tiền. Và lúc nào mẹ của Mai cũng ân cần vui vẻ cho họ một ít tiền, chứ không bao giờ lắc đầu từ chối trước những bàn tay khó khổ và những mảnh đời lam lũ tình cờ tìm đến.

Từ khi biết nói cho đến khi khoác lên người chiếc áo nâu sồng, Mai chưa bao giờ thốt lên một lời thiếu ngọt ngào với cha mẹ. Có phải vì cô đã được đọc kinh Vu lan từ thuở nhỏ, hay vì chưa bao giờ nghe cha mẹ nói một lời thiếu lễ độ với ông bà nội ngoại hai bên?

Nhưng có một lần duy nhất trong đời, Mai đã trái ý cha cô. “Con hãy lựa chọn, nếu con không xuất gia, đất đai, nhà cửa… con sẽ đứng tên tất cả. Còn nếu con xuất gia, ba sẽ xóa tên con khỏi hộ khẩu, ba sẽ viết-đơn-từ-con”. Không một giây do dự, Mai trả lời cha: “Ba ơi! Con nhất định phải xuất gia!”.

Lúc ấy, người cha điềm đạm đứng lên và không nhìn mặt cô nữa cho đến ngày cô xuống tóc đi tu.

Năm 20 tuổi, Mai bị bệnh thập tử nhất sinh, mẹ cô nguyện với Quán Thế Âm Bồ-tát, nếu cô không thể qua khỏi, mẹ cô nguyện xin được chết thay cô.

Mai biết khi Mai xuất gia rồi, một ngày nào đó, cô sẽ không dễ dàng rơi nước mắt nữa. Và người khiến cô rớt những giọt nước mắt cuối cùng, chắc chắn sẽ là người mẹ thân yêu của cô.

“Mẹ rất hãnh diện vì sinh được người con như con, con là người con gái không giống ai trong dòng họ - con là người đầu tiên xuất gia, con hãy xứng đáng là con của Phật, con gái của mẹ…”.

Mai muốn nói với mẹ: “Mẹ ơi! Con sẽ vì mẹ mà có thể chết, nhưng không phải chỉ vì đền đáp công ơn bao la trời biển của mẹ, mà vì con muốn được thành Phật. Con muốn được như Đức Phật Thích Ca, là người con hiếu xuất thế gian. Con muốn vì giải thoát tất cả chúng sinh mà không tiếc xả bỏ thân mạng, vì cứu độ cha mẹ mà có thể lóc hết thịt xương, dù con chỉ là một đứa con gái nhỏ bé trong lòng mẹ… Con không muốn bất cứ ai phải vì con mà khóc, con muốn ai nhớ đến con cũng sẽ cười, sẽ giải thoát, sẽ thành Phật, sẽ không còn ai phải khổ… Mẹ ơi!”.

Năm hai mươi tám tuổi, Mai xuất gia. Mọi người đều gọi cô bằng cái tên mới: Tuệ Hương. Mai nhận ra cuộc đời bây giờ mới là cuộc đời mà mình luôn ước vọng: thanh tịnh, vô cùng thanh tịnh. Đó là điều cô lờ mờ nhận ra mình sẽ có được trong tương lai từ khi còn rất nhỏ. Bây giờ cô hiểu vì sao mình chỉ thích sự giản dị, mộc mạc tuyệt đối trong tất cả, vì sao mối quan tâm của mình chỉ là những mảnh đời bất hạnh, tình hình đất nước và thế giới đang khó khăn: nạn đói, thiên tai…, dù mình chỉ mới học cấp 1; vì sao mình phải đau xót, ám ảnh khi thấy một cụ già nghèo cô đơn run rẩy dưới cơn mưa, vì sao mình phải lặng lẽ khóc khi nhìn những gia đình cùng khổ cơ cực kiếm miếng ăn giữa chợ đời, vì sao mình đủ dũng khí đứng ra bảo vệ một người phụ nữ đang bị đối xử bất công dù biết mình phải đối mặt với những thế lực hơn mình trong xã hội. Vì sao ẩn bên ngoài người con gái yếu đuối là tâm hồn can đảm, mạnh mẽ hơn cả đàn ông? Vì sao?

Phải chăng vì sớm hay muộn, Mai sẽ xuất gia? Vì sớm hay muộn, cô cũng phải cống hiến cả đời mình cho Phật pháp?

Mai là một nữ tu sĩ.

Mùa đông năm ấy, cha Mai tình cờ đọc được dòng kinh trong phẩm “Phổ Hiền hạnh nguyện” mà cô chép ra trên giấy:

Thưng được xuất gia tu tịnh giới

Không nhơ, không li cũng không hư.

Linh cảm là Mai sẽ xuất gia, ông đem quyển kinh “Phổ Hiền hạnh nguyện” lẫn quyển “Đường về Cực lạc”mà cô thường đọc, đem giấu đi. Ông đâu biết cô chỉ phát tâm xuất gia sau khi đọc được kinh Diệu pháp Liên hoa.

Cha không tin nổi Mai sẽ vĩnh viễn rời xa thi ca. Cô đam mê nó, không thể sống thiếu nó từ khi bài thơ đầu tiên cô viết đã được đăng báo năm cô 13 tuổi.

Mai cảm ơn cha vì ông là nguyên nhân lớn nhất khiến Minh không dám đến nhà cô. Ông nghiêm nghị, ít nói và chưa bao giờ cười hay hỏi thăm khi Minh đến nhà.

Mùa đông năm ấy, Mai 25 tuổi. Nếu ai hỏi cô: “Bao giờ cô lấy chồng?”. Mai nghiêm nghị trả lời: “28 tuổi”. Sau đó, cô sẽ nhanh chóng bỏ đi chỗ khác.

Minh là một bác sĩ trẻ. Anh đã tặng cô quyển kinh Diệu pháp Liên hoa, vì biết cô rất thích tìm đọc kinh Phật.

Mai đã cố tình làm tổn thương Minh để anh đừng đến nhà cô nữa. Cô nói với anh là cô sẽ lấy chồng.

Thời gian sau, bạn bè của hai người kể, Minh nói, anh muốn trở thành một thiền sư. Nhưng anh chưa thực hiện ý muốn đó thì Mai đã xuất gia. Đến nay, anh vẫn là một bác sĩ. Nhưng Mai biết, Minh sẽ không bao giờ lập gia đình.

Cuộc đời Mai là một câu chuyện cổ tích đẹp đẽ. Cô nói với mọi người: “Cuộc đời tôi kết thúc có hậu, vì tôi đã được xuất gia”. Hai mươi tám năm làm con gái của cha mẹ, cô luôn luôn hạnh phúc. Cô lạc quan, yêu đời, dù ở một mình hay giữa đám đông. Cô yêu thế giới này dù cô đã nguyện sinh về cõi Cực lạc. Cô đã bao lần đạp xe trên con đường Nguyễn Huệ nở đầy hoa phượng với ý nghĩ cuộc đời này thật là đẹp, có khác gì cõi Phật đâu.

Thế nhưng, sau mười lần đọc bộ kinh Diệu pháp Liên hoa mà Minh tặng, cô bỗng muốn xuất gia, muốn lìa bỏ gia đình.

Mai đã vô cùng hốt hoảng và xúc động khi đang xem kinh thì thấy hình ảnh đẹp tuyệt vời hiện ra trong tâm: Cô là một nữ tu sĩ đang từng bước chân chánh niệm trên hành lang của một thiền viện vắng lặng. Hình ảnh ấy đẹp đến nỗi Mai không còn thiết tha gì sự nghiệp thơ ca từng cuốn hút tâm trí cô gần 15 năm qua. Vị thầy ngôi chùa mà cô quy y nói đó là chủng tử xuất gia của cô đang hiện về. Vị thầy ấy đã gieo vào tâm cô những ý niệm đầu tiên về con đường xuất gia.

Mai đã sống yêu thương tất cả mọi người trước khi xuất gia, và bây giờ cũng vậy. Nhưng có một người mà cô đã làm tổn thương, là Minh, người đã tặng cô bộ kinh Diệu pháp Liên hoa.

Ngày đầu tiên Minh đến nhà tìm cô, nói chuyện với mẹ cô, lúc ấy cô đang lúi húi ngoài vườn, xới cỏ trồng cây và quét dọn. Từ ngày ấy đến khi cô kể cho Minh nghe về giấc mơ kỳ diệu của cô là 5 năm. Giấc mơ ấy là nguyên nhân khiến cô và Minh chia tay, không bao giờ gặp lại nhau nữa.

Mai kể cho Minh nghe, trong giấc mơ, cô thấy Minh đến nhà cô, vừa đọc một bài kệ kinh rất lạ cho cô nghe, vừa đánh khánh. Giây phút ấy làm cô hoảng sợ đến cùng cực, rồi cô chết đi, sống lại không biết bao nhiêu lần. Một người đàn bà hàng xóm chạy đến nhà cô rồi kêu la khắp mọi ngả đường, thông báo với mọi người về cái chết của cô.

Giấc mơ ấy có thật. Nó đến khi cô đang bị bệnh, sau một thời gian ngắn đọc kinh Diệu pháp Liên hoa.

Cô nhớ trong mơ cô nghe âm thanh của tiếng kẻng, tiếng khánh, và vô số âm thanh làm cô sợ hãi vì liên tưởng đến cái chết của chính mình. Sau này, khi xuất gia rồi, Mai mới biết đó là âm thanh của các loại pháp khí chỉ thường sử dụng ở chùa chiền. Trong mơ, có ai đó cảnh báo, nếu Mai lập gia đình, dù với Minh, hay với ai đi nữa, cô cũng sẽ nhanh chóng đi vào cõi chết. Chết, và nhất là sẽ chết ngay trong đêm tân hôn…

Rất lâu sau giấc mơ ấy, Mai mới nhớ, khi còn học cấp 2, chứng kiến một người con gái quẫn trí vì bị phụ tình, cô đã thầm nguyện cầu, cuộc đời mình đừng bao giờ dính líu đến đàn ông.

Mai bước từng bước chậm rãi trên hành lang chánh điện, vừa bước vừa niệm: “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật …”.

Mùa xuân lại đến, ánh nắng chan hòa trên nhánh cây Sa la. Chú chim bồ câu vừa ăn vừa nhảy nhót. Sân chùa im vắng, buổi sáng êm đềm như tâm hồn thanh thản của Mai. Cô mỉm cười, hạnh phúc với thực tại. Chiếc áo nâu sồng đơn sơ mà cô đang mặc làm nền cho sự bình yên của một bức tranh giải thoát, tự tại chốn thiền môn.

“Đức Phật của con ơi! Con đã về với Cha của con rồi đây, con đã về lại ngôi nhà xưa của con rồi đây, con không còn là gã cùng tử lang thang nữa, cuộc đời con có hậu vì con là con gái của đấng từ bi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

Mẹ và cha đã quy y Tam bảo. Tối nay, thời Tịnh độ, Mai sẽ đánh chuông trong chánh niệm. Cô sẽ khoác chiếc y vàng, thong thả đọc bài kệ chuông ngân nga. Tiếng chuông sẽ vang khắp pháp giới, trên cúng dường mười phương chư Phật, dưới giải thoát tất cả chúng sinh khỏi biển khổ luân hồi sinh tử, đó là tâm nguyện mà cô hằng ấp ủ:

Nguyện tiếng chuông này khắp pháp giới

Thiết vi u ám thảy đều nghe

Căn trần thanh tịnh chứng viên thông

Tất cả chúng sinh thành Chánh giác…

Biết đâu ngày mai, có một người sẽ thế phát xuất gia, và người đó đã từng là một bác sĩ trẻ…

Truyện ngắn Ngọc Hạnh

GNOL
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#14
Truyện ngắn An Viên: Chiếc hộp tiết kiệm

GN - Huy chạy vào phòng. Thằng bé lục tìm cái gì đó rất quan trọng đang được giấu kỹ trong một cái thùng sắt đặt bên dưới chiếc bàn gỗ đã ngả màu đen xỉn. Đó cũng là nơi đựng đồ dùng học tập, sách vở của anh em Huy mấy năm nay. 


[Image: a%20mhoa.jpg]
Ảnh minh họa


Chiếc bàn gỗ tuy cũ kỹ nhưng vẫn khá chắc chắn. Nó được anh Gia - ba Huy - sửa lại bằng cách đóng thêm mấy mối đinh để gắn các nếp gỗ đã hở liền lại với nhau. Sau một hồi lục lọi, mắt Huy sáng lên. Nụ cười tươi rói ngự trên đôi môi tím nhạt của cậu bé lên 10 có thân hình nhỏ hơn so với tuổi. Cậu vui sướng chạy ra nhà ngoài:


- Ba ơi, đây rồi!

- Cái gì vậy con?... Đang trăn trở về điều gì đó, vẻ mặt trầm tư, nghĩ ngợi, đầu anh Gia khẽ lắc qua lắc lại. Đôi mắt anh buồn xo, thêm vào đó là những nếp da nhăn nheo xô lại như sóng lượn, trông đến tội nghiệp.

- Có tiền chữa bệnh cho em Hiền rồi ba!

- Cái gì? Tiền nào? Tiền ở đâu mà có? Vừa đặt ra những câu hỏi liên tiếp, anh Gia vừa ngạc nhiên nhìn chiếc hộp bánh bích-quy Huy cầm trên tay. Cậu bước lại gần ba rồi nhẹ nhàng đặt chiếc hộp lên bàn. Chiếc hộp giấy hình chữ nhật, được dán bên ngoài bởi một lớp băng keo trông khá chắc chắn. Giữa hộp là một chiếc lỗ được khoét tròn nho nhỏ. Huy mỉm cười nhìn vào đôi mắt người cha đang sững sờ như một dấu chấm hỏi và nặng trĩu nỗi lo toan, giọng cậu hồ hởi:

- Ba lấy số tiền này chữa bệnh cho em Hiền đi ba!

- Con… Số tiền này con tiết kiệm từ bao giờ. Con lấy tiền đâu ra mà tiết kiệm? Anh Gia bình tĩnh, nghiêm túc hỏi con trai.

- Con tiết kiệm cả một năm nay đó ba. Con đã để dành lại tiền ăn sáng. Con đã nhặt nhạnh ve chai, thi thoảng còn cắt cỏ thuê cho nhà bác Sáu nữa. Số tiền có được, con đều đem bỏ vào trong chiếc hộp bánh này! Huy nói với ba bằng sự ngây thơ, thành thật. Nhìn sâu vào đôi mắt luốc lem nhưng sáng ngời của con, anh Gia nghẹn ngào. Anh chẳng thể kìm nén được sự xúc động, nước mắt anh chực trào rồi cứ thế lăn tròn xuống khóe miệng. Anh kéo Huy lại, ôm con thật chặt vào lòng:

- Con trai của ba... Con trai tội nghiệp của ba. Tại sao con lại làm thế? Vỗ nhẹ lên vai con, từ trong đáy tim mình, anh nghe rộn lên cảm xúc vừa đau đớn vừa yêu thương. Anh tự trách sao mình cứ mãi nghèo. Rồi anh đau khổ khi không thể lo cho con có được cuộc sống hạnh phúc như bao đứa trẻ khác. Ôm lấy thằng Huy, anh lại thấy mình may mắn vì có được một đứa con biết nghĩ, biết lo, biết thương ba. Một đứa trẻ mới lên 10 như nó đã có suy nghĩ chững chạc như một người lớn. Huy đứng im lặng trong vòng tay ba. Thấy ba nghẹn ngào, mắt nó cũng rơm rớm…

Ngôi nhà đơn côi, tròng trành của ba con Huy nằm sát bên con lạch mọc toàn lau lách, thiếu đi bàn tay người vợ, người mẹ đã mấy năm nay. Cuộc sống của những gia đình xóm Lạch nơi đây, nhà nào cũng nghèo rớt mồng tơi. Sinh ra anh em Huy, sống với chồng chưa tròn chục năm, mẹ Huy mất vì căn bệnh hiểm nghèo mà không có tiền chữa trị. Rồi ba Huy một mình gà trống nuôi con. Huy thương ba vì phải đầu tắt mặt tối. Sáng ba đi làm khi anh em Huy còn nằm trong chăn ấm. Tối ba về nhà khi anh em Huy đã lên giường nằm ngủ. Vậy mà, nghèo vẫn hoàn nghèo. 

Có tháng, tiền công anh Gia đi làm chẳng đủ để lo cho cuộc sống của ba cha con. Con lạch nước nổi quanh năm. Ngày trước cá tôm nhiều, bữa cơm còn có cá, có cua. Ai cũng nghĩ cuộc sống của mình sẽ nhờ vả hết vào con lạch ấy. Thế nhưng chẳng bao lâu sau, cá tôm cũng hết. Nước nhiễm mặn. Lúa má ngoài đồng cũng thất bát dần. Có mùa, rơm rạ gánh về thì nhiều mà lúa chẳng được là bao. Mà đói thì đầu gối cũng phải bò, anh Gia phải làm thuê làm mướn hết việc này đến việc khác để kiếm tiền lo cho cuộc sống gia đình.

Một năm trước, bé Hiền có dấu hiệu vàng da, chán ăn, đau vùng bụng và sức khỏe yếu dần. Anh Gia đưa con đi khám mới hay con gái bị một khối u hiếm gặp ở gan. Giữa lúc gia đình khó khăn, nay lại càng khó khăn hơn nữa, Huy đã phải nghỉ học giữa chừng để phụ ba. Thương con, anh lại càng dặn mình cố gắng, chăm chỉ hơn. Ai thuê gì làm nấy, dẫu việc nhỏ việc to, miễn là việc lương thiện, miễn là có tiền. Thấy ba cực nhọc, Huy chẳng cam lòng. Có hộp bánh quy bà con trong xóm đến thăm bé Hiền đã ăn hết, Huy bần thần rồi chợt nghĩ ra ý tưởng biến chiếc hộp ấy thành hộp tiền tiết kiệm. Điều này, Huy không nói cho ba và em gái biết. Huy muốn dành cho ba, cho em gái một điều bất ngờ. Chính vì vậy, suốt một năm qua, Huy đã âm thầm nuôi lớn chiếc hộp ấy bằng số tiền mình dành dụm, kiếm được.

Bé Hiền nằm trong nhà đã nghe hết được câu chuyện của ba và anh nó. Con bé tuột xuống khỏi giường, bước ra. Nó òa lên khóc rồi sà vào lòng ba. Mắt nhìn trân trân vào ba và anh, nức nở:

- Con thương ba, em thương Hai nhiều lắm. Khi nào con khỏi bệnh, con cũng muốn tiết kiệm giống anh Hai. Con cũng muốn giúp ba. Thế rồi ba cha con nhìn nhau, người nào mắt cũng ngân ngấn nước.

Bé Hiền nằm viện điều trị. Huy thay ba ở lại chăm sóc em. Thể theo nguyện vọng của Hiền, Huy làm cho em một chiếc hộp tiết kiệm từ vỏ hộp bánh đã hết. Con bé tỏ ra rất thích thú. Dù đau bệnh nhưng nó vẫn rất lạc quan, vui vẻ.

Phòng bệnh của bé Hiền hôm nay rất đông người. Họ là người bệnh, là người nhà bệnh nhân, là bác sĩ thường xuyên ra vào, hỏi han, trò chuyện, nhỏ to liên tục với bệnh nhân. Nhận ra những ánh mắt tò mò đổ đồn về phía hai anh em, Huy rụt rè liếc nhìn qua loa rồi đưa mắt về giường, nơi bé Hiền nằm. Một người phụ nữ trong số đó chăm chú nhìn vào hai đứa trẻ nhỏ thó, gầy gò. Cô đã hỏi về gia cảnh, ba mẹ, nơi ở của anh em Huy. Huy trả lời không giấu giếm điều gì. Rồi người phụ nữ ấy khẽ lắc đầu với vẻ thương cảm. Cô càng thương cảm anh em Huy hơn khi thấy bé Hiền cầm chiếc hộp trên tay và hiểu được ý nguyện của nó.

- Đó là chiếc hộp tiết kiệm. Anh Hai con làm cho con đấy. Khi nào con khỏi bệnh, khi nào có tiền, con sẽ tiết kiệm tiền bỏ vào trong này. Mỗi khi ba hết tiền, mỗi khi anh em con đau bệnh, con sẽ đưa tiền cho ba dùng. Bé Hiền trả lời rành rọt khi được người phụ nữ hỏi đến và xin được cầm, xem chiếc hộp. Người phụ nữ có vẻ mặt sang trọng, quý phái nhưng lại ăn mặc thật giản dị và dễ gần. Cô đến đây thăm người thân chứ không phải chữa bệnh... Huy nhìn người phụ nữ và nghĩ ngợi, đoán thế.

Một lúc sau, cô y tá bước vào phòng, gọi tên bé Hiền và nói người nhà phải nộp tiền viện phí, tiền thuốc để được tiếp tục điều trị. Huy nhỏ nhẻ:

- Cô thư thư cho ba con. Chiều nay ba con đi làm về, sẽ lên nộp tiền được không?

 - Nhưng bệnh viện quy định phải nộp tiền bây giờ mới được tiếp tục cấp thuốc. Cô y tá nhìn Huy và giải thích.

- Dạ… nhưng…! Huy chưa dứt câu, người phụ nữ khi nãy đã lên tiếng:

- Được rồi, cô cứ về đi. Tôi sẽ giúp ba cậu bé thanh toán đầy đủ số tiền trên cho bệnh viện. Cô y tá mỉm cười ngạc nhiên nhìn người phụ nữ. Trong đầu cô chắc đang nghĩ rằng, tại sao lại có một người tốt đến như vậy. Rõ ràng không quen biết nhau… vậy mà... Huy nhìn cô y tá bước ra khỏi phòng rồi quay nhìn người đàn bà:

- Cô… cô lấy tiền đâu mà trả viện phí cho em cháu. Nhà cháu nghèo lắm. Ba cháu sẽ chưa có tiền trả cô đâu.

- Không phải lo đâu cậu bé. Là cô muốn giúp ba cháu, giúp em cháu chữa bệnh. Người phụ nữ nhìn hai đứa trẻ với ánh mắt trìu mến rồi bước ra khỏi phòng. Ai nấy nhìn nhau, nhìn anh em Huy rồi bàn luận:

- Cô ấy là doanh nhân giỏi đấy. Cô ấy tốt bụng lắm, thích làm việc thiện mà không cần đáp lại đâu…

Anh Gia cầm lấy chiếc hộp giấy con bé Hiền đưa về phía tay mình và vô cùng ngạc nhiên khi thấy trong chiếc hộp ấy có một mảnh giấy nhỏ. Lấy mẩu giấy ra, anh không thể tin vào mắt mình khi nhìn vào dòng chữ: “Tôi đã lo và sẽ chi trả toàn bộ số tiền điều trị cho bé Hiền cho đến khi cháu khỏi bệnh. Anh đừng ngạc nhiên và tìm tôi làm gì. Đơn giản chỉ vì tôi muốn ba con anh sẽ có cuộc sống ổn hơn”. Anh Gia không thể ngờ rằng, trong cuộc sống này vẫn còn có người tốt đến vậy. Cầm chiếc hộp giấy trên tay, ôm hai con vào lòng, anh thấy mình thật hạnh phúc.

A.V
GNOL
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#15
Mộng du

GN - Một ngày nó nhận được một gói quà màu nâu cánh gián với chiếc nơ thắt ruy-băng màu vàng rất tuyệt. Nó mở ra: màu đỏ của hộp mứt dâu tây, một quyển sách và một cái bóng đèn quả dâu bằng pha-lê trong suốt. Chúng được quấn quanh bằng giấy mềm thật cẩn thận. Một mảnh giấy nhỏ ghi vỏn vẹn: hướng dẫn sử dụng bóng đèn ở trang 68. 


[Image: mongdu.jpg]

Nhìn quanh căn phòng của nó, ra tới ngoài ban-công, chỗ nào cũng mắc đầy những đèn. Ngôi nhà của hai mẹ con nó treo rất nhiều đèn, căn phòng của nó luôn bật đèn. Đèn con bọ, đèn lồng, đèn ở tranh, đèn trần... chúng đầy đủ kiểu dáng. Nó bị chứng mất ngủ và hay bị đánh thức bởi giấc mơ. Giấc mơ thường dẫn nó đi trong bóng tối và khiến đôi tay nó bị run lên khi dò dẫm đường đi. Những bóng đèn xanh đỏ tím vàng cam cứ chớp thoáng thay đổi theo nhịp công-tắc nó cài đặt. Nó loay hoay mở dây nối bóng đèn. Nó định sẽ treo bên phải phòng ngủ. Rất vội vàng, nó giở quyển sách, từng tờ từng tờ, đến trang 68: nghệ thuật gấp thuyền giấy. 

Thuyền giấy và bóng đèn? Chúng có liên quan gì nhau cơ chứ? Bóng đèn tỏa sáng và đẩy lùi những suy nghĩ ám ảnh đen tối trong đầu nó. Còn thuyền giấy? Nó đọc xuống trang: “thuyền giấy có thể đi xuyên và lệch so với quỹ đạo, sẽ mang lại cho bạn cảm giác đi qua các chu kỳ nước trên bề mặt của cuộc sống. Chiếc thuyền sẽ di chuyển tới viên ngọc màu xanh mà bạn đang ao ước. Viên ngọc ấy sẽ phát sáng trên từng bước chân của bạn. Hàng ngày bạn hãy viết điều mình muốn và thả thuyền giấy ấy trôi đi, bạn sẽ được toại nguyện và giấc mơ của bạn sẽ xa rời bóng tối”. 

Nó đưa tay xé vội tờ giấy trong cuốn sổ và ghi: “Nguyền rủa bóng đêm”, nó xếp nó lại thành chiếc thuyền giấy và đi vội ra ngoài ngõ. Nó thò tay vào và thả chúng xuống đường cống. Nó đoán chắc chiếc thuyền giấy đã trôi hoặc chìm, thây kệ. Nó chạy vội vào, trời cũng vừa đổ mưa. 

*

 Tối hôm ấy, mọi chiếc đèn đều sáng. Nó ngồi đó đến khuya. Nó tắt tất cả, chỉ chừa lại cây đèn dâu tây. Nó nằm và nghĩ tới chiếc thuyền được nó thả dưới ống cống. Nó nhắm mắt và thấy những con chữ đã tan rã ra, chúng mang trên mình màu đen gớm ghiếc và hôi hám. Chúng trôi dạt khắp nơi, mỗi nơi chúng ghé đến đều biến thành một màu đen. Tất cả những ngôi nhà, cây cối, con đường, cả những cái cột đèn điện... chúng đều mang một màu đen đáng sợ. Nó chẳng dám sờ tay vào chúng. Những mảng đen cứ lúc nhúc xô chồng lên nhau rồi đi qua. Nó không biết chúng đi về đâu. Nó cứ đứng đấy và nhìn. Nó thấy những dòng nước đen chảy tràn qua các lỗ nhỏ và chui qua những hốc mũi màu đen. Họ vừa đi vừa thở. Những dòng không khí đen rặc. Nó rùng mình và có cảm giác bị sặc. Tất cả những con người ấy đang hối hả lắm. Có thể họ cũng đang đi tìm viên ngọc màu xanh, nó nghĩ vậy. Nhanh lên thôi, chân nó hối thúc. Nó phải đến trước họ. Nó sẽ có viên ngọc màu xanh ấy, và bóng đêm sẽ không còn đeo bám nó nữa. 

Nó mở mắt, nhìn thấy chiếc bóng mình đang chảy dài trên tường. Nó có màu đỏ của dâu tây. Nó thấy cái bóng trống rỗng và hình như nó đang chao qua chao lại ngoài cánh cửa sổ. 

Nó nghe thấy chiếc bóng đang nói chuyện với cái cửa sổ. Kính trong cửa sổ nhà nó phụ thuộc số phận vào bóng đèn. Cửa sổ căn phòng nó luôn khép kín hai lớp nên cũng chẳng hơn gì chiếc bóng đèn không được bật lên. Cái bóng và cửa sổ đang so sánh số phận với nhau, đều giống nhau khi nó tắt đèn và bật đèn. Số phận của chúng phụ thuộc vào đôi tay của nó. Nó cứ ngồi vậy, chẳng bật ti-vi, nó ngồi nhìn đèn đến khuya. Nó đang đối thoại điều gì đấy và thiếp đi trên chiếc ghế dài ở giữa phòng.

*

- Chỉ có vẻ như vậy nếu cô nói cho tôi biết.

- Nói về điều gì ?

- Về điều ý nghĩa nhất, khi bóng đèn được bật lên, cô sẽ thấy điều gì trước tiên? 

- Tôi muốn thấy thực tế, về một bí ẩn được chở đi từ chiếc thuyền giấy kia, rằng nó chưa bị đắm và tôi sẽ tìm được viên ngọc màu xanh ấy.

Nó thò tay bật công-tắc đèn: vàng vọt, đỏ chóe, tím rịm, màu khói hương bay giữa cánh đồng, màu cam đang cháy ở bên kia núi, màu nâu của lá khô, của đất, màu trống rỗng… Nó chẳng thấy màu xanh. Rõ ràng nó bị mất một chiếc bóng đèn màu xanh. Có thể viên ngọc đang ẩn mình trong chiếc đèn ấy. Tay nó run run bật / tắt / bật / tắt. Ẩn hiện / ẩn hiện / cánh đồng / lá khô / đất / khói hương. Không một điều gì động đậy. Không gì cả. Tất cả đứng yên như một pho tượng rỗng đang gào gió trong lồng ngực. 

Gió từ đâu thổi ào tới. Những chiếc nón đang úp bỗng bị cuốn bay lên. Nó nhìn kỹ trong từng chiếc nón rách tả tơi kia - không hề thấy một viên ngọc xanh nào. Nó phải tìm được trước khi trời tối. 

*

Con thuyền giấy tối nay đã trở lại. Nó đã bị nát và hôi hám lắm. Nó ngồi đó sợ hãi. Tay nó không ngừng bấm bấm cái công-tắc.

- Mày trở lại rồi à? Tao đã đoán như vậy, rằng mày sẽ không biến mất vĩnh viễn ở dưới đường cống kia. Mày làm sao thế. Bọn chúng đen ngòm và bu bám vào cả người mày à. Tao biết chúng cả một màu đen rặc đấy. Tao sợ những cái miệng cống màu đen há ra. Chúng đã nhai và nuốt tất đấy. Chúng đã nuốt cả màu xanh ở thành phố này, đất nước này vào trong cái miệng đen ngòm. Mày nhìn kìa, những con đường lởm chởm những bóng màu đỏ. Rồi tao sẽ tìm ra viên ngọc màu xanh. Tao sẽ không cần những ngọn đèn xanh vàng chết tiệt này nữa. Tao sẽ không cần mày chở gì đi dưới cái miệng cống thối tha đó nữa. 

Mắt nó liếc nhìn chiếc thuyền giấy, lúc này lũ ruồi đã bâu tới dày đặc. Chúng vo ve vo ve như thể hát đồng ca mừng về cuộc tái ngộ của những người bạn.

*

Một buổi sáng, nó nhớ về giấc mơ đêm qua. Chỉ còn những cái bật / tắt và một mảng màu đen ngòm mà nó không thể nhìn ra cụ thể. Bất chợt những tia màu lóe trên những hạt sương làm nó giật mình. Viên ngọc xanh và con thuyền giấy. Nhưng nó lại thấy buồn thiu khi giấc mơ chỉ là con thuyền giấy trôi giữa ống cống đen ngòm. Cảm giác trên mấy đầu ngón tay nhưng nhức. Nó nhớ lại hôm qua chúng bị bật cả máu ra. Nó hốt hoảng nhìn quanh chiếc giường nằm. Đã mất sạch hết dấu vết. 

Nó vội lấy quyển sách trên đầu giường, giở trang 68. Nó lại gấp những chiếc thuyền giấy. 

Đêm. 

Trời đã mưa. Những con thuyền giấy được nó đặt ở góc bàn, chúng đang nằm chờ đến lượt sẽ đi. Những con thuyền giấy nhiều màu được gấp thật đẹp. Chốc nữa thôi,  chúng sẽ được thả khi cơn gió tới. Ngoài cửa sổ đen kịt. Nó rùng mình và đôi tay không ngừng bật / tắt. Đèn được bật sáng trưng ra tới ngoài ngõ. Nó lắng tai nghe, tiếng mưa rào rào và có tiếng bước chân thình thịch. Nó hốt hoảng vơ vội những con thuyền giấy và đi ra phía ngõ. 

- Tao sẽ cho chúng mày lên đường thôi, nếu không họ sẽ đuổi kịp và bu bám chúng mày, nếu thế thì chúng mày sẽ rách nát và chìm nghỉm trong những vòm miệng đen ngòm ấy mất, nhanh lên thôi, không đợi gió nữa, nó vừa đi vừa lẩm nhẩm trong miệng.

Nghe rõ hơn tiếng bước chân thình thịch đang đến gần. Nó khom mình chạy giữa trời mưa với những chiếc thuyền giấy nằm gọn trong đôi tay đặt trước ngực.

Đêm nay chúng sẽ lên đường.

Truyện ngắn Nguyễn Hoàng Anh Thư
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply