Góc an nhiên: Tin những giọt nước mắt - Truyện Ngắn PG
#16
Nhiều cảm xúc khi xem phim "Bước chân an lạc"

GNO - Cảm xúc vẫn ứ đầy trong trái tim, mình không biết phải bắt đầu viết từ đâu nữa!

C
ó lẽ nên bắt đầu bằng cảnh mở đầu của bộ phim. Cảnh mở đầu ấy là cảnh mặt trời lên sau một rặng cây!
Bao lâu rồi chúng ta không ngồi lặng yên ngắm mặt trời lên? Và bao lâu rồi chúng ta không ngồi lặng yên ngắm nhìn sự thay đổi của đất trời?


Có lẽ từ rất lâu rồi... Chúng ta quên nhìn ngắm khu phố mình đang sống, ngôi nhà mình đang ở và người thân mình đang thương!





[Image: ramat2.jpg]
Phim được đông đảo người dân đón nhận với nhiều cảm xúc khó tả 

Như Thiền sư Thích Nhất Hạnh dạy trong cuốn Đường xưa mây trắng: Chúng ta đi ngang qua rừng cây trầm hương mà không cảm nhận được đang đi qua rừng cây trầm hương. Chúng ta đang sống mà không tiếp xúc với sự sống!

Sự sống ở đây là tia nắng ban mai đầu ngày, là tiếng chim hót líu lo trên cành, là những bông hoa đang nở, là tiếng nói cười, là những giọt nước mắt, là những bước chân đi...


Chúng ta cứ mong cầu một điều gì đó vĩ đại, mạnh mẽ, cao sâu... nhưng không biết sự sống làm nên từ những điều rất bình thường rất giản dị, như mùi của đậu hủ chiên đang chiên trên chảo, như màu xanh của những bắp cải nhỏ...


Chẳng phải tâm bình thường là tâm đạo đó sao?


Tất cả, từ tiếng chuông, giọt đàn, đoá hoa, nụ cười... đều là pháp!
Thiền sư Nhất Hạnh dạy: “Trăng thu đầy lối cũ. Pháp không đầy không vơi...”.


Theo mình chỉ hai thơ này đã quá đủ đầy thông điệp cho một bộ phim, đã quá ý nghĩa cho những người còn ngược xuôi lao nhọc đi tìm chân lý!


Nhưng phải hiểu như thế nào về câu: Pháp không đầy không vơi?


Có phải là khi chúng ta nhìn hiện tượng, sự vật như chính nó đang là, không tưởng, không đưa quan niệm, kinh nghiệm vào, không phân biệt... thì làm sao có đầy có vơi!


Như bông hoa hướng dương đang nở xinh đẹp. Ừ thì bông hoa hướng dương đang nở! Chúng ta không so sánh bông hoa này với bông hoa hôm trước hay bông hoa hôm sau!


Cũng như nhìn mọi vật, mọi người, mọi mối quan hệ... mà không buộc phải thế này, phải thế khác... Nó như vậy, ừ thì nó như vậy!


Chánh niệm có nghĩa là như vậy! Chỉ đơn giản là như vậy!


Thật sự từ đầu phim tới cuối phim mình chỉ thấy ánh sáng. Một thứ ánh sáng trong veo thuần khiết. Một thứ ánh sáng tinh khôi trong mỗi nụ cười ánh mắt. Kết thúc phim vẫn là mặt trời lên.


Theo Thiền sư, không cần xua tan bóng tối, chỉ cần thắp lại ngọn đèn tâm, tự khắc bóng tối sẽ tan biến.
Bộ phim giúp mình thấy những giấc mơ hằng đêm mình mơ, nghe từng câu thiền ca hằng đêm mình nghe.
Thấy cánh đồng hoa hướng dương lập tức trái tim reo lên: “Em đi ngang qua đồng hoa hướng dương. Hàng vạn bông hoa ngoảnh nhìn về phương Đông chói sáng. Ý thức em mặt trời tỏ rạng...”


Thấy sư chú, sư cô gióng chuông lập tức tâm hồn tỉnh thức: “tôi là chuông đại hồng, ngôi chùa xưa trên đỉnh núi, tôi khua vang báo hiệu một bình minh mới, nghe tiếng tôi xin người nở nụ cười, nghe tiếng tôi xin người đem mắt thương nhìn cuộc đời...”.


Thật, chỉ khi biết nhìn cuộc đời bằng đôi mắt thương thì mỗi bước chân đi mới trở nên an lạc, mới là một với đất Mẹ và những hạt mầm của Thiền sư gieo mới kết trái đơm hoa...

Sau buổi công chiếu ra mắt ngày 23-2, Bước chân an lạc sẽ tiếp tục đến với công chúng phía Bắc và miền Trung. Cụ thể, phim có buổi ra mắt tại Đà Nẵng, rạp Lotte vào ngày 3-3 tới đây; tại Hà Nội, rạp BHD Star Cineplex - Phạm Hùng vào ngày 10-3.


Riêng tại TP.HCM, bắt đầu từ tháng 3 sắp tới, bộ phim Bước chân an lạc sẽ chính thức được công chiếu rộng rãi tại các cụm rạp, đối với cụm rạp BHD Star Cineplex, giá vé giao động từ  60-70.000 đồng/vé và cuối tuần 90-100.000 đồng/vé.


Nguyễn Bảo Trung

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#17
Truyện ngắn Nguyên Hương: Đá quý

GN - Cuộc họp chính thức xác nhận đồn đại bấy lâu - thôn Tân Tiến thuộc xã Tân An kể từ đầu tháng tới sẽ trở thành khối phố 14 của phường Thành Ngọc.

Đang là dân vùng ven, nhờ thành phố phình rộng ra mà dân thôn Tân Tiến nghiễm nhiên trở thành người thành phố. Trước đến nay ký tá giấy tờ thì họ phải ngược vào ủy ban huyện cách mười sáu cây số đường đi ngoằn ngoèo ổ trâu ổ voi, từ nay thì mang giấy tờ ra ủy ban phường chỉ cách cây số rưỡi mà đường tráng nhựa êm ru.

Không phải làm gì hết mà đùng một cái được có hộ khẩu thành phố, đáng gọi là trúng số. Với những nhà đang còn đất rẫy thì còn hơn là độc đắc. Nhà nào đã trót lỡ cắt rẫy bán dần bán mòn bấy lâu giờ hùi hụi tiếc. 


[Image: daquy.jpg]

Nhà của Hiên không có được sự tiếc hùi hụi đó trong những xuýt xoa chuyện trò với hàng xóm vì gia đình Hiên là một trong những hộ đến đây sau cùng, khi đã có lệnh cấm phá rừng. Sang lại rẻo đất tận cuối thôn, trăm mét vuông cất căn nhà sáu chục mét còn lại để đào giếng và chuồng heo mà ba má Hiên phải trả nợ suốt ba năm mới xong.

Nhưng không phải là không có gì để nôn nao. Hiên nghe ba tính toán với má: “Vài năm nữa mấy đứa nhỏ học tới cấp ba thì chỗ này cũng đã đâu vào đó ngon lành, mình bán đi rồi về huyện xa xa mua lại một miếng xấu xấu đủ che nắng mưa tui với bà ở, còn dư ra cho mấy đứa nó ăn học tới nơi tới chốn”.

Vậy là tới đời mấy đứa em của Hiên chuyện ăn học xem ra dễ thở hơn.

Nhưng Hiên thì không đợi được tới lúc đó, chỉ một tháng nữa là khai giảng rồi.

Tiêu chuẩn hộ khẩu vùng ven được giảm năm mươi phần trăm học phí và được ở ký túc xá không mất tiền nay coi như tiêu. Sao mà Hiên mong cái cuộc họp kia lùi lại mười hai tháng, đợi Hiên học nốt năm cuối này rồi hẳn thông báo chính thức.

- Ước điều có lợi cho mình mà ngýợc lại lợi ích cộng đồng thì...

Sư Thanh lắc đầu.

Thì thôi không mong ước ngược nữa, Hiên đi đào giếng thuê kiếm tiền bù khoản học phí từ trên trời rớt xuống, tiền ở trọ nữa.

Hiên đào, thằng em xúc đổ. Đào được mét rưỡi thì xà-beng phập xuống bị dội nảy lên, đụng đá. Hiên sai thằng em về nhà lấy cuốc chim. Thằng em vừa chạy được mấy bước thì Hiên thở ra mừng rỡ, không phải đá tảng. Xoi xà-beng nạy nạy, Hiên bới ra một cục đá to bằng cái mũ bảo hiểm.

Cái xà-beng xoi nạy làm văng ra những miểng đá lóng lánh màu sắc lạ lùng khiến trái tim Hiên đập dữ dội. Vốn liếng của sự ham đọc nhắc Hiên nhớ tới cuộc triển lãm đá. Linh tính, Hiên lau tay vô quần rồi lượm những miểng đá lên và rùng mình cảm nhận rõ ràng là chỗ da tay tiếp xúc với miểng đá nóng lên như xức dầu gió.

*

Được chà rửa sạch sẽ, cục đá hiện ra màu sắc kỳ ảo choáng váng mắt nhìn và ù ù trong tai. Hiên nhớ ra cuộc triển lãm đá đó rồi. Những cục đá được nâng niu như vàng, quý hơn vàng vì vàng có thể đúc khuôn đủ kiểu còn mỗi cục đá là không thể lặp lại kiểu dáng. Đó là mới nói tới kiểu dáng thôi, chưa kể chất liệu và màu sắc…

Vô giá.

Hiên biết cục đá này là vô giá. Nó sẽ thay đổi cuộc đời Hiên, giúp Hiên đi trọn đường mơ ước chứ không chỉ lấy tấm bằng công nhân kỹ thuật bậc ba trên bảy. Hiên sẽ không ích kỷ cho riêng mình. Trong giấc mơ của Hiên có một dãy phòng trọ miễn phí dành cho học trò thôn Tân Tiến.

- Không ổn đâu Hiên - Sư Thanh khe khẽ - Không có gì đặt nền móng trên gian dối mà bền vững cả.

Hiên cắn lưỡi tứa máu. Sư Thanh luôn có lý.

Có lý khi Sư Thanh nói Hiên có phước hơn bạn bè cùng lứa trong thôn nhiều lắm, bạn bè học hết cấp hai là trở về nương rẫy, còn Hiên được ba má cho ra phố học nghề mà cái trường nghề đó lại có dạy chương trình bổ túc cấp ba, đủ cho Hiên tiếp tục nuôi hy vọng thi lên đại học.

- Cái cây mọc lên từ gian dối thì làm sao mà ra quả ngọt hả Hiên?

Hiên vuốt mặt. Từ trước đến nay Sư Thanh nói gì Hiên cũng nghe.

Gian dối? Nếu ông Chín đào giếng ở chỗ khác thì nó vẫn nằm im dưới lòng đất. Vẫn chỉ là một cục đá. Nếu người ông Chín thuê đào giếng không phải là Hiên thì nó đã bị quăng vào đống đất đợi xe xúc tới cạp đổ qua nhà khác làm nền, trở lại nằm dưới đất. Vẫn là một cục đá.

Giả sử, nếu Hiên không hiểu biết gì về nghệ thuật chơi đá cảnh thì nó sẽ bị chính tay Hiên quăng vào xô cho người bên trên miệng giếng quay lên đổ ùm vào đống đất. Vẫn là một cục đá tầm thường.

Giả sử, Hiên đã không lấy cái áo của mình gói cục đá này đem về nhà trong im lặng mà hỏi xin (cùng với đống đất) thì thế nào ông Chín cũng dễ dãi gật đầu.

- Đằng nào thì ông Chín cũng không có cục đá này mà - Hiên lẩm bẩm.

- Nếu Hiên hỏi xin khi nó lẫn trong đống đất thì đúng là ông Chín sẽ dễ dãi gật đầu - Sư Thanh nói.

Hiên đỏ mặt. Lẽ ra chuyện cục đá này Hiên không nên kể Sư Thanh nghe. Lẽ ra hãy đợi đến lúc Hiên biến ước mơ ngày trước của hai đứa thành sự thật - một xí nghiệp mọc lên ngay giữa thôn và tất cả công nhân lẫn cán bộ đều là người của thôn mình. Sẽ không còn cảnh thỉnh thoảng có kỹ sư từ thành phố về bày ra vài cuộc họp, gieo trong đầu nông dân nỗi tò mò hân hoan phương thức canh tác mới, rồi người kỹ sư đó quay về thành phố, bỏ lại mảnh vườn dở dang bao ước muốn đổi thay tốt đẹp hơn.

Hiên bật ra:

- Có cục đá này hay không thì ông Chín cũng chỉ là ông Chín, còn với con là…

- Là nghiệp chướng.

Giọng Sư Thanh nhẹ như gió thoảng mà làm Hiên nôn nao. Bạn học cùng lớp từ khi Sư Thanh còn là cậu học trò ở nhờ chùa, sự ngấu nghiến đọc bất cứ tờ giấy nào có chữ khiến Hiên thuộc nhiều kinh không kém người tu.

Ngậm lại hai tiếng “đổi đời”, Hiên nói khác đi:

- Con sẽ không chỉ vì bản thân con. Thầy yên tâm, con sẽ vẫn đi làm thuê làm mướn kiếm tiền cho việc học của mình được trồng trên sự lương thiện. Thầy biết không, trường trung cấp nghề con học chỉ có năm cái máy cassette cổ lỗ sĩ cho một trăm học viên thực tập. Đứa nào xin được làm việc không công cho tiệm sửa chữa tư nhân thì coi như là quá may mắn vì được rờ mó vào máy móc hiện đại, còn lại thì đành chịu ngu. Ra trường chắc cũng quay về làm rẫy thôi.

Sư Thanh im lặng.

- Con sẽ bán cục đá này để mua tặng trường chục cái máy đời mới nhất. Con chấp nhận mang tội để chín mươi chín học viên được phước. Vậy được không thầy?

Hiên sôi nổi nói và thấy nhẹ lòng hơn vì có lý. Ừ, Hiên sẽ vì mọi người mà thôi.

- Biết sai mà cố gán ghép với việc thiện rồi cho đó là tạo phước đức sao được. Có lẽ dân thôn mình chăm chỉ hiền lành mà cứ khổ vì hiểu về phước đức như vậy đó.

Hiên bặm miệng. Người tu nói gì cũng dễ vì có cần gì nữa đâu.

- Nếu trường có mười cái máy đời mới thì Hiên sẽ trả lại cục đá cho chủ nhân của nó chứ?

Lẽ phải. Cái điều mà vì nó Hiên đã thà làm cỏ mướn đào giếng thuê chứ nhất định không đi cưa cây cho dân buôn gỗ lậu dù tiền công gấp ba. Đào giếng thuê… nên Hiên mới gặp cục đá này.

Thử thách nặng lòng quá.

*

Hai tháng sau, một doanh nhân tặng trường trung cấp nghề của thành phố mười cái máy cassette đời mới, và mười cái máy tính có cấu hình đủ cho dân đồ họa phải thèm.

Chuyện kể là có nhà báo từ thành phố đến Tân Tiến để viết bài về những thay đổi sau khi sáp nhập thành phố, xong, trên đường về ngang chùa bỗng trời đổ mưa ào ạt, nhà báo chạy vô chùa trú mưa và nhân đó phỏng vấn vị sư trẻ.

Nãy giờ chỉ nghe về những thay đổi tốt đẹp như là đường đi được đổ bê-tông sạch sẽ, nhiều người giàu lên nhờ đất ruộng hóa mặt tiền, chợ búa buôn bán đông vui hơn, nhà văn hóa được xây dựng khang trang… Còn Sư Thanh kể về những học trò Tân Tiến háo hức ra phố học nghề với ước ao thay đổi cuộc đời để rồi trở về lại tiếp tục làm rẫy. Vì sao?

Chuyện kể là có một doanh nhân thích làm việc thiện, hôm đó ông uống cà-phê sáng và như thường lệ là đọc báo, thường thì ông chỉ quan tâm tin tức kinh tế và bóng đá, nhưng hôm đó chẳng hiểu sao bài báo viết về trường dạy nghề với năm cái cassette cổ lỗ sĩ lọt vào mắt ông…

Chuyện kể là Hiên vùi cục đá xuống sình cho bùn lấp kín các lỗ li ti, rồi vùi tiếp vào đống đất đặc hơn, và đặc hơn nữa… Trả lại cho nó hình dạng của một vật chôn lấp trăm năm, Hiên bỏ vô xô xách qua nhà ông Chín làm bộ xin ít phân chuồng về đánh luống rau. Ra về, Hiên nói như tiện thể:

- Hôm bữa đào giếng cháu thấy có cục đá nhìn cũng hay hay.

- Cục đá mà hay cái gì?

- Bác gọi điện cho một không tám không hỏi địa chỉ của mấy ông nghệ nhân chơi đá cảnh rồi sẽ biết hay cái gì.

Xong. Hiên về nhà vứt xô “choang” lăn ra ngủ. Giấc ngủ không sợ bị mất của nữa mà vẫn còn đầy mộng mị. Hiên mơ thấy xí nghiệp Hiên làm giám đốc bỗng bốc cháy, công sức mười lăm năm rụi một ngày. Thức giấc, Hiên toát mồ hôi và lúc này mới thật sự là hết tiếc nuối.

Ng.H
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#18
Cuồng nhân

GN - Trưa hắt từng tảng nắng xuống tán rừng dầu tà beng, rồi chảy tràn xuống trảng nước làm cho bầu không khí thiếu gió hanh hao càng thêm ngột ngạt. 

Con đường đất đỏ đầy hang ổ chạy dọc từ phía Thạnh Đông xuống ngã ba Đồng Pal hai bên chỉ toàn bưng trấp và da beo mấy cụm rừng còn sót lại, phía dưới lưa thưa những ngôi nhà sàn be bé không khác gì một cái phum sóc quạnh hiu. Ấy vậy mà hôm nay không biết đâu ra vài chục người tụ tập, có cả người lớn và đám con nít mặt mày lem luốc kéo nhau đi xem ai đó hay cái gì ở phía bên kia bờ trảng mà có vẻ như hồ hởi, thú vị lắm.


[Image: reuphong.jpg]

Tôi cũng hiếu kỳ, bỏ cần câu và rọng cá rô bên lùm cỏ, chạy đến níu tay hỏi một đứa cùng trang lứa trong đám người đang đi.

- Mọi người đi đâu, xem gì mà vui quá vậy?

- Đi coi ông điên, mày muốn đi thì theo tụi tao, ông điên hay lắm!

Tôi quên cả cần câu và rọng cá, lập tức chạy theo bọn họ. Băng qua một đoạn trảng cỏ nước là tới một đám rừng thưa. Tôi nghe tiếng la thét và gầm gừ dữ dội. Mọi người ai nấy tìm cho mình một chỗ đứng thích hợp để xem cảnh tượng diễn ra trước mắt. Đó là một người đàn ông ngoài bốn mươi, thân hình cao lớn, râu tóc để mặc, cởi trần trùng trục, chỉ mặc duy nhất cái quần không ra ngắn không ra dài bằng vải đen, lưng cột dây y như một hiệp khách cái bang vậy. Trên tay phải của ông ta có đeo một chiếc vòng bằng kim loại sáng ánh. Nối với chiếc vòng trong tay là một sợi dây xích dài, đầu kia buộc vào cổ một con khỉ xám. Con khỉ ngồi trên vai người đàn ông, hai tay ôm chặt mái tóc rối bồng bềnh của chủ nhân như một kẻ làm xiếc…

Người đàn ông lạ lùng này hầu như không hề để ý đến bất cứ ai trong đám người. Trước hai con mắt long sòng sọc của ông như có một đối thủ vô hình nào đó mà ông phải chiến đấu để vượt qua. Ông nhào lộn trên mặt đất với những thế quyền công phu cực nhanh. Một tiếng thét dữ dội vừa phát ra là năm ngón tay như vuốt sắt của ông bóc tróc ngay một mảnh vỏ to tướng của thân cây dầu, nhìn rất dễ sợ. Con khỉ vẫn ôm chặt lấy chủ nhân của nó. Người đàn ông nhanh như một con sóc phóng lên ôm thân cây dầu cao khoảng bốn mét, rồi ông phóng chuyền liên tục từ thân cây này qua thân cây khác y như khỉ chuyền cành. Cả đám rừng như rung lên và xao động với màn công phu kỳ lạ của một cuồng nhân. Xong màn chuyền cây, ông nhảy gọn xuống mặt đất, đứng dạng hai chân, hai tay giơ thẳng, mặt nhìn lên trời cười khanh khách, rồi bất thần ông đảo người chạy chữ chi qua lại những gốc cây to và mất hút. Mọi người không nhìn thấy ông đâu nữa. Lúc này bọn họ mới rộ lên cười nói, bàn tán đủ thứ về người đàn ông quái lạ kia. Có người nói ông biết tàng hình, có người nói ông bị ma quỷ nhập… rồi họ kéo nhau về…

Đêm ấy tôi không sao ngủ được. Cứ nhắm mắt lại là thấy hình ảnh người đàn ông và con khỉ xám. Những âm thanh gầm thét, màn công phu nhào lộn, bóc vỏ cây, chuyền, phóng chớp nhoáng cứ như những lằn điện xẹt qua xẹt lại trong đầu tôi. Tôi nằm lăn qua lộn lại, tới sáng hồi nào không biết…

Sáng ấy Chủ nhật, tôi không đi học và ba tôi cũng không đi ra tiệm hình làm như mọi khi. Nghe tiếng chó sủa dữ dội, ba kêu tôi ra mở cửa coi ai. Vừa mở cửa ra, tôi đã thấy người đàn ông quái dị hôm qua đứng ngay trước cửa nhà. Tôi chưa kịp hoàn hồn thì ông ta cất giọng rền rền:

- Có Tám ở nhà không cháu?

Tôi hoảng quá, chỉ biết thụt lùi vô trong nhà, miệng lơ lớ kêu “ba…ba…”. Ba tôi bước ra, tay vịn lấy vai tôi: “Bác Kim mà con”, lúc ấy tôi mới bình tĩnh lại phần nào. Ba tôi đối diện với ông khách, và nói:

- Anh đi đâu sớm vậy?

- Tôi đến thăm chú chứ đi đâu...! Cũng bằng cái giọng rền rền như sấm của ông ta.

Thì ra vị cuồng nhân này là bác Kim, một người bạn của ba tôi mà tôi chưa hề biết. Ba tôi pha bình trà mời bác Kim uống, xong ba kêu tôi đi luộc khoai mì và làm muối ớt cho hai người ăn sáng. Bác Kim xích con khỉ vào gốc cây mai trước nhà. Con khỉ này khá khôn ngoan, nó nắm tay bác Kim kêu chéc chéc như sợ bị bỏ rơi vậy. Bác Kim hiểu ý nó và nói: “Ngồi ở đây chơi, ba nói chuyện, lát ba cõng về”. Nghe vậy nó im re ngồi chơi với mấy chiếc lá dưới gốc mai như không có chuyện gì xảy ra. Ba tôi hỏi bác Kim:

- Mấy nay anh sao rồi?

- Trời nắng nóng quá, mới bị lên cơn ngày hôm qua. Hôm nay còn mệt trong người.

Ba tôi lấy mật thú rừng pha vô ít rượu trắng cho bác Kim uống. Hai người nói chuyện rất vui vẻ. Họ bàn về đặc tính của từng loại thú rừng và cách làm bẫy. Vì xung quanh đây còn rừng khá nhiều, bẫy được heo mễn đem chợ bán cũng là kế sinh nhai. Đại khái hai người bàn với nhau nhiều chuyện về rừng rú và chim thú hoang dã. Nhưng sao hôm nay tôi thấy bác Kim có vẻ rất hiền hậu và vui chứ không quái dị điên cuồng như người đàn ông trong cụm rừng dầu tà beng hôm trước. Đôi mắt ông chứa đựng những gì xa xăm và khó hiểu lắm, không còn long sòng sọc như đứng trước kẻ thù... Ngọn gió sớm mát mẻ từ trong khu vườn mít của nhà tôi thổi qua mái tóc bồng bềnh cùng với những tia nắng vàng soi qua bộ dạng giang hồ của bác Kim thấy ngồ ngộ… Tôi thực sự có cảm tình và quen với bác Kim từ dạo ấy… Cứ vài tuần là bác Kim ghé thăm ba tôi một lần. Hai người tỏ ra rất thân thiết với nhau. Ba tôi nói và dặn gì bác Kim cũng nghe. Rồi dần dà những cơn điên cũng hạn chế viếng thăm ông… Cứ thế mà thành ra thói quen, tôi cứ mong bác Kim ghé nhà chơi vì mỗi lần gặp ông là tôi lại có thêm nhiều điều thú vị…

Bác Kim là một chiến binh siêu hạng trở về sau cuộc chiến. Trước đây quê ông ở xứ Bắc xa xôi, ông tình nguyện vào quân ngũ. Sẵn có khả năng trời phú và được đi học chuyên ngành đặc công nhiều năm ở Trung Quốc và Liên Xô nên võ nghệ của ông vô cùng giỏi. Có lần, ông kêu ba tôi đóng hết tất cả các cánh cửa nhà lại, còn ba tôi thì đứng canh ngay cửa trước, bác Kim đứng ngoài sân. Ba tôi chỉ cần kêu lên ba tiếng: “Anh Kim ơi”, thế là bác Kim đã ngồi trong nhà tôi rồi. Nhưng ông vô cách nào thì không thể biết và cũng không thể thấy được. Một lần khác, ông biểu diễn bò lên vách tường đất nhà tôi không khác gì một con thằn lằn bò trên vách tường vậy. Ông gọi công phu này là “bích hổ du tường”, có nghĩa là con thằn lằn đi trên vách…

Nói thật, qua những câu chuyện bác Kim kể và những màn biểu diễn của ông, tôi mê và thần tượng ông lắm. Trong đầu tôi, ông không khác gì một nhân vật trong truyện Kim Dung. Mỗi lần ghé thăm nhà tôi, bác hay kể về những ngày tháng khổ luyện đã qua và bác cũng hay nói về các vị thầy đặc biệt của mình. Có lần bác Kim nói, bác qua xứ Trung Hoa khổ luyện bốn năm trời. Bốn năm ấy bác thụ giáo một vị thầy mà bác chưa hề nhìn thấy mặt. Vì ông thầy luôn trùm kín bằng bộ đồ đen y như một Ninja, và không bao giờ bác Kim chạm được vào người ông thầy này. Ông thầy này là một cái bóng hơn là một con người thực thụ. Bác nói bằng giọng xúc động: “Lần cuối cùng tớ sắp về nước sau bốn năm học, tớ cố ý nhào vô ôm thân thể của thầy cho kỳ được một lần mà tớ chỉ ôm vào chiếc bóng của thế giới hư không…”.

Bác Kim không vợ không con, ông sống trong một cái chòi tranh ven con suối nhỏ, bên cạnh một cụm rừng da beo cỡ nửa công đất. Ông sống chủ yếu bằng nghề bẫy thú. Có khi ông vào những cánh rừng xa như Cây số 18, rừng Tà Ly, Tà Ôn ở hàng tháng mới đem thịt về bán một lần. Ông nuôi con khỉ xám làm bạn, coi nó như một đứa con, ông ăn gì thì nó ăn nấy. Điều đặc biệt là con khỉ này không quậy phá mà rất biết nghe lời chủ, họ nương tựa nhau mà sống. Bác Kim nói với ba tôi, trước kia ông cũng có vợ. Rồi ông nhập ngũ, đi nhiều nơi, trải qua nhiều chiến trường… Không hiểu sao tin ông mất tích lại về với làng. Vợ ông cứ ngỡ ông chết, để tang chồng mấy năm… rồi bà cũng tái giá.

Cái năm ông về, cứ ngỡ là sẽ được đoàn tụ sau bao nhiêu năm xa cách. Ai ngờ vừa đến đầu làng hỏi thăm và biết chuyện vợ mình đã êm ấm bên một gia đình mới và với một người chồng khác. Thế là ông lẳng lặng bỏ làng quê tiếp tục ra đi, vì ông không muốn mình làm khổ vợ, thà ông đau chứ không muốn vợ thêm một lần khổ. Ông lang thang vào Nam, rồi trời xui đất khiến ông chọn ẩn cư lại xứ Đồng Pal này. Một điều mà chính ông cũng không hiểu là vì sao ông hay lên cơn “tẩu hỏa nhập ma”. Mỗi lần như thế ông luôn thấy mình chiến đấu một mất một còn với kẻ thù, chiến đấu với cả một tấm lòng nồng nàn yêu Tổ quốc… và ông luôn luôn chiến thắng trước kẻ thù vô hình đó. Chính vì vậy mà dân xứ này gọi ông là “ông điên”. Nhưng bác Kim chưa bao giờ làm tổn hại ai bao giờ, ngoài lúc điên, khi tỉnh táo ông rất hiền và thân thiện với bất cứ ai, dù quen, dù lạ.

Tôi đi học xa và rồi đi làm ăn xa. Mỗi lần về tôi hay hỏi ba bác Kim có ghé chơi không. Ba tôi nói bác Kim không biết bỏ đi đâu lâu rồi. Ngôi nhà cũ của tôi bị mưa gió làm dột nát và xiêu vẹo. Ngày ba tôi cho người dỡ ra làm lại, tôi như có cảm giác tiếc tiếc làm sao ấy. Tôi nhớ trên tấm vách này bác Kim đã từng bò lên như một con thằn lằn bám tường. Cánh cửa này bác Kim đã đi qua như một kẻ siêu hình… Nói chung ngôi nhà cũ của tôi gắn nhiều kỷ niệm, và mỗi khi bác Kim ghé chơi là để lại một dấu ấn khó phai. Ba tôi kể, lần cuối bác Kim đến, ông đem theo một hồ lô rượu và nói như một kẻ mộng du.

- Tôi đi… Tám ở lại mạnh khỏe.

Ông nốc hết bầu rượu, xong tung cước đá cái bầu rượu văng lên trời, cái bầu nát từng mảnh nhỏ. Ông cười có vẻ cay đắng, đọc hai câu trong Lương Châu từ: “Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu / Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” rồi ông biệt tích từ đó.

***

Mới đó mà đã mấy chục năm trôi qua. Thanh minh năm nay tôi về lại quê xưa tảo mộ. Cái nghĩa địa u uẩn trầm buồn nghi ngút khói nhang bên những ngôi mộ mới có cũ có. Tôi lang thang như sống lại với những người quen biết đã nằm nghỉ nơi đây qua bao lưng chừng năm tháng. Tôi đến cuối đường nghĩa địa, thắp cho bác Kim một nén nhang. Ngôi mộ đất sè sè mọc đầy những bụi cỏ úa, trông như một vết kỷ niệm xa xưa. 

Nghe nói đâu bác Kim bỏ đi từ dạo ấy là ông qua Campuchia sinh sống. Được mười mấy năm thì chạnh lòng cố quốc mà hồi hương… Những năm tháng của tuổi xế chiều bác Kim nghe nói vẫn còn khỏe lắm. Và những cơn điên hiếm lắm mới viếng một lần. Ông không còn dính líu tới nghề rừng nữa mà chuyển qua nghề canh rẫy cho người ta. 

Một lần đang đi trên đường, không biết từ đâu một chiếc xe tải mất thắng đùng đùng lao tới, phía trước là một đứa trẻ đang băng qua đường… Bác Kim liền nhào ra ôm đứa trẻ lộn qua bên kia đường. Đứa trẻ thoát khỏi nanh vuốt của tử thần. Nhưng đó là thế võ cuối cùng mà bác Kim thi triển. Thân thủ là vậy nhưng đầu của ông lại bị va vào một tảng đá xanh, chấn thương khá nặng và bác Kim ra đi vào một ngày nắng nỏ không một bóng người thân. 

Gia đình của đứa bé lo đám tang cho bác Kim xong rồi họ cũng dọn nhà đi đâu mất. Ngôi mộ bác Kim âm thầm vô chủ hằng bao nhiêu năm nay, nắm xương tàn của ông gửi vào lòng đất mẹ chắc ít ai còn nhớ. Nhưng hình ảnh của vị cuồng nhân trong cõi sinh tử vô thường thuở nào vẫn theo khói hương mà vẽ nẻo trong tôi.


  Truyện ngắn Đào Thái Sơn
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#19
Buổi sáng trong veo

GN - Sáng chớm hè, bản hòa âm của tiếng nắng cứa qua khe cửa, tiếng lích rích của những chú chim đã vực tôi khỏi giấc mơ muộn.


[Image: tapbut.jpg]
Bình yên, trong veo - Ảnh minh họa


Nhà tôi ở khoảng trung gian giữa phố và quê, lọt vào xóm đồng nên hoàn toàn tách biệt với ồn ào phố xá. Tôi trước sau vẫn trung thành với ý niệm đem thiên nhiên vào nhà nên dù chỉ là ngôi nhà nho nhỏ, không “vườn rộng rào thưa” nhưng cái ước mơ vườn tược đã được hiện thực hóa.

Bên hông nhà có lối đi lát đá, sát tường rào có trồng một hàng cây. Những cành cây tỏa bóng xum xuê trở thành nơi đi về khi các chú chim bị thị thành xua đuổi.

Một bầy chim sẻ, chúng chuyền cành, ríu rít đùa bỡn từ nhánh ổi sang cành chùm ruột. Người gần chim đến độ có thể đưa tay ra sờ được bộ lông mềm mượt của nó vậy. Những chú chim cứ rả rích, nhảy lò cò trên những bậc thang cành. Chúng âu yếm, say sưa, tự nhiên như không hề thấy sự hiện diện của gia chủ. Những bộ lông mềm như lụa, mịn như nhung bỗng lung linh khi có tia nắng tràn qua. Thiệt kỳ lạ, những giọt nắng ban mai đã giúp vạn vật phô bày hết vẻ tuyệt mỹ đang có.

Nắng sớm mai không hanh hao bỏng rát mà êm ả dịu nhạt, đến nỗi chỉ cảm nhận được màu mà không nghe được “chất” nắng. Một lát sau, khi ta phải nheo mắt thì nắng chuyển sang vàng ươm, suôn mềm, sóng sánh rồi đến nửa buổi mới bắt đầu đậm đặc.

Nắng sớm mai chảy yên ả trên da như có luồng nước ấm xối qua. Nắng trượt nhẹ từ cành cây, đậu lóng lánh trên những bông hoa. Nắng tinh khôi làm cả khu vườn bừng tỉnh một màu xanh trong trẻo. Cây liễu pháo chìa những chiếc lá xanh non mỡ màng và những chiếc hoa li ti đua nhau thắm đỏ. Những chiếc lá dày dạn và cứng cỏi của bông trang cũng chuyển từ xanh pha vàng nhạt sang xanh non, diệu kỳ hơn là sau giấc ngủ mùa hè, bông trang chào đón ban mai bằng cách nhú lên những búp hoa màu xanh lơ. Những chiếc lá của cây lưỡi hổ, cây vạn niên thanh cũng xanh hơn, mượt hơn trong nắng sớm.

Đẹp hơn cả là những hoa mướp vàng tươi buông trên giàn lá biếc. Mướp trải những chiếc lá trên giàn, mướp bung những bông hoa vàng rực. Khi những tia nắng ban mai nhảy nhót thì những trái mướp trỗi mình, da căng bóng.

Vâng! Buổi sáng, tôi luôn muốn thức dậy ở khu vườn nhà mình, cẩn trọng đi thăm từng cành cây ngọn cỏ. Tôi có thể cảm nhận được sự khác biệt của chúng sau một đêm không gặp. Tôi xót lòng khi thấy chồi cây bị cơn gió đêm làm xiêu vẹo, tôi hớn hở nhìn những chiếc lá, những búp hoa vươn mình dưới nắng. 

Có những sớm mai, tôi ngồi hàng giờ trong khu vườn yên tĩnh, nhất là những khi yếu lòng. Buổi sáng trong lành, những chiếc lá, những bông hoa, những giọt sương luôn biết cách im lặng để chia sẻ, chúng rất dễ đồng cảm, thỏa hiệp với nỗi buồn. Ngồi yên hàng giờ, chỉ nghĩ về cây về hoa, lòng tôi từ từ tịnh lại, không cồn cào sân si nỗi đời nhiêu khê, bất trắc. Tôi là vậy. Lúc lòng thấy thua buồn nhất, tôi luôn ước mình được thức dậy ở một khu vườn, xa xỉ hơn, tôi ước được là một bông hoa dại, vô danh tiểu tốt giữa khu vườn xa lạ.

Sớm nay bước ra vườn, ngửa mặt hứng những tia nắng buổi sáng, căng ngực hít những luồng khí trong lành, nhìn ngắm xung quanh, tôi nhận ra những buổi sáng thế này nếu không chịu bước ra vườn thì quả là trọng tội với bản thân, với cuộc sống. Ước chi đời toàn là những buổi sáng trong veo để ta tìm nỗi tinh khôi cho riêng mình. Ước chi những ngày tới, ta không phải đánh mất một buổi sáng trong trẻo nào.

Tản văn Nguyễn Thị Bích Nhàn

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#20
Đi con đường khác

GN - Khi đứa con gái đầu chuẩn bị nhập học vào trường đại học thì anh nhận được một lá thư chuyển nhanh gởi qua bưu điện. Trong cuộc sống, có thể có nhiều lá thư chuyển nhanh, nhưng đó là lá thư làm cho tôi và anh buồn như vừa đánh rơi một cái gì đó quý giá mà không thể nào tìm lại được.

Đó là lá thư báo cho anh biết hợp đồng làm việc của anh với báo X, đã hết hạn, và báo không có nhu cầu ký tiếp hợp đồng làm việc với anh. Mới cách đây mấy ngày thôi, hai vợ chồng đã lên phương án chi tiêu khi nghe tin con gái đầu thi đậu vào khoa Thiết kế Trường Đại học Kiến trúc. Đó là một ngôi trường nằm trên đường Phạm Ngọc Thạch, Sài Gòn. Ngôi trường ấy là giấc mơ của rất nhiều người, ngay cả khi con gái quyết định thi vào ngôi trường ấy, hai vợ chồng đều lo ngại, bởi một cô học trò tỉnh lẻ làm sao có thể đấu lại với học sinh của TP.HCM, nơi mà có những thầy giáo giỏi luyện thi để học sinh thi thố tài năng của mình trong ngôi trường đó.


[Image: aminhoa%20trngan.jpg]
Anh đưa ống kính lên say mê chụp hình ảnh con mình. Còn tôi thì vui đến ứa nước mắt - Ảnh minh họa

Hôm có kết quả trên báo là hôm anh đi theo một đoàn công tác cứu trợ nạn nhân bão lụt ở tận Bình Tuy. Theo lịch trình thì đoàn sẽ đi và về trong ngày. Buổi sáng khi anh đã theo đoàn cứu trợ, tôi ra sạp báo mua tờ báo, để rồi không dám tin vào mắt mình khi thấy tên con gái mình nằm ở trong danh sách thí sinh trúng tuyển. Thời đó chưa có điện thoại di động như bây giờ để tôi có thể gọi điện báo tin cho anh. Thế là đành đợi đến 12 giờ đêm, khi anh vừa đi xe về tới nhà, tôi đã hét to trong bóng tối loang lổ ánh đèn: “Anh ơi, con mình đậu rồi”.

Anh học Khoa học Xã hội Nhân văn, còn tôi thì đi con đường nhỏ hơn là học Cao đẳng Sư phạm, ra trường thành cô giáo viên dạy văn cấp hai.

Anh mê nghề báo, nhưng muốn làm báo thực thụ anh phải vào tận TP.HCM. Cuối cùng anh chọn giải pháp là ký hợp đồng làm phóng viên thường trú cho một tờ báo sau cả một quá trình làm cộng tác viên. Anh xông xáo đi, anh xông xáo viết với tất cả nhiệt tình, nhờ thế mức lương của anh cũng kha khá, cộng thêm nhuận bút những bài viết. Khi con gái thi đậu, hai vợ chồng lo còn một số tiền dành dụm cho con đóng học phí, lo chỗ trọ và những thứ linh tinh. Anh và tôi bắt đầu ngồi tính toán việc nuôi con ăn học. Anh bảo: “Lương của anh sẽ gởi hết cho con An, anh sẽ viết thêm cho các báo cũng tạm đủ. Lương em thì lo cho gia đình và bé Thi”. Tính toán như thế là tạm ổn.

Nhưng lá thư chuyển nhanh khắc nghiệt ấy đã làm thay đổi cuộc sống gia đình tôi. Không thay đổi sao được khi như thế đã làm thay đổi cả kế hoạch cuộc sống. Cô con gái nhỏ của chúng tôi vẫn vô tư, còn cô con gái lớn đã vào TP.HCM chuẩn bị nhập học. Một nỗi buồn lãng đãng trong nhà.

Sáng Chủ nhật, bình thường anh ra phố, tới quán cà-phê quen, ở đó có rất nhiều nhà báo cùng ngồi nhâm nhi ly cà-phê, rồi cung cấp thông tin cho nhau, lên đường lấy tin thì hôm đó anh lại trở mình trên giường, mặc cho mặt trời lên cao, phóng những tia nắng đầu ngày qua kẽ hở của ô cửa. Giờ thì anh ở nhà, anh pha ấm trà, ra ngồi ở lan-can, ngắm con phố buổi sáng vắng tanh ít xe cộ đi qua. Anh đang giấu trong lòng nỗi lo âu cơm áo gạo tiền, là lẽ thường tình của cuộc sống, mà dường như ai cũng vướng vào, dẫu cố thoát ra cũng không thể nào thoát được.

Tôi quen anh từ thuở hai đứa còn cơ hàn. Anh chưa bao giờ chịu đầu hàng bất cứ một điều gì trong cuộc sống. Anh mê nghề báo như máu thịt của mình, anh đã từng chịu khó lặn lội vào tận các bãi đào vàng, ở nơi làm những con người liều lĩnh bất kể gian nguy dầm mưa dãi nắng để mưu sinh. Một mình anh cũng lặn lội vào tận Tánh Linh, Bình Thuận khi nghe tin có đàn voi về đây quậy phá. Chiếc xe máy lao vào trong rừng bị lún lầy vẫn không làm cho anh nản lòng. Song nghề báo không đem lại giàu có, cho nên cả bao nhiêu năm trời, cuộc sống vẫn không dư dả gì. Nhưng cuộc sống luôn trôi qua. Giống như khi anh đã quyết đi trên một con đường, thì dẫu con đường đó phải vượt qua sông sâu hay núi cao thì anh không thể nào dừng bước. Tháng gởi tiền học đầu tiên cho con, anh bán chiếc xe đạp cuộc mà anh rất yêu thích. Đó là chiếc xe để anh tập thể dục hàng ngày. Anh bảo đừng cho con gái biết là anh đã mất việc, để cho con yên tâm học tập. Hai vợ chồng đã tìm cách vượt qua giai đoạn khó khăn ấy. Câu nói tâm đắc trên cửa miệng của anh mãi rồi tôi cũng quen: Khi cánh cửa này đóng lại thì cánh cửa kia sẽ mở.

Anh viết nhiều hơn, nhưng khác với khi còn làm cho một tờ báo, anh gởi bài cho nhiều báo. Tuy nhiên, cả một thị trường báo chí ấy, anh không thể chạy theo thời sự vì mỗi tờ báo đều ưu tiên bài cho phóng viên của mình. Lật những tờ báo mà mình gởi bài đi không hề thấy được đăng, anh giấu nỗi buồn bằng cách sắm một cần câu ra sông câu cá.

Tôi nhớ có lần, một cuộc điện thoại từ Đà Lạt gọi anh, đó là của một độc giả. Độc giả trẻ này bảo rằng đọc các bài báo của anh, thấy những tấm ảnh của anh chụp những góc ảnh rất đẹp, nên ngỏ ý mời anh lên Đà Lạt giúp họ thực hiện bộ ảnh cưới theo giá họ đưa ra. Giữa lúc đang xoay xở tiền cho con ăn học, anh nhận lời ngay, không từ chối. Điều khá bất ngờ là từ chuyện đi chụp ảnh cưới một cách rất nghiệp dư đó, anh được giới thiệu với nhiều người khác, anh lại liên tục xách máy ảnh đi mọi nơi, thực hiện những album ảnh cho biết bao nhiêu lứa đôi.

Rồi từ đó, anh trở thành một tay chuyên chụp ảnh cưới lúc nào không hay. Anh không giải thích cho tôi là tại sao anh không kiếm một tờ báo khác, ngoài tờ báo đã gởi một lá thư phát chuyển nhanh không đúng lúc, để trở thành một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp? Tôi chỉ biết rằng giờ đây anh phóng xe lang thang khắp mọi nơi trong thành phố, không phải là đi tìm những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống, phỏng vấn hay ghi ghi chép chép mà lại tìm những góc phố tĩnh lặng, những bức tường rêu xanh, những đồng cỏ cháy vàng… để đưa vào những góc hình nhớ đời cho một đôi uyên ương nào đó. 

Rồi anh lại thi ảnh nghệ thuật. Khá bất ngờ là anh lại liên tiếp đoạt những giải lớn nhỏ, giống như anh đang ở trong bóng tối bỗng dưng bước ra ánh sáng. Đó cũng là lúc con gái của hai vợ chồng cần một số tiền lớn để làm luận văn tốt nghiệp. Luận văn của con bé theo gợi ý của cha: “Bếp Việt xưa và nay”. Chỉ là cái bếp, nhưng anh đã phụ giúp con đi đến mọi nơi để chụp ảnh những chiếc bếp chỉ là ba cục đá ghép lại, là một thùng sắt khoan lỗ, là kiềng ba chân hay rất nhiều kiểu sáng kiến độc đáo của con người. Luận văn được cho điểm 9, đó là một số điểm khá cao.

***

Con gái gọi điện bảo ba mẹ vào TP.HCM dự lễ tốt nghiệp của con. Năm năm trời ở thành phố, con bé thay đổi hoàn toàn. Khác với ngày đầu khi anh đưa con vào cổng Trường Đại học Kiến trúc, chụp tấm ảnh nó nhút nhát chen cùng đám bạn cùng trang lứa vào chiếc cổng phụ của trường để ứng thí. Tấm ảnh đó trở thành một kỷ niệm khó phai nhòa của con. Để giờ đây con rộn ràng những bước chân mạnh mẽ.

Hai vợ chồng vào TP.HCM sớm hơn một ngày. Anh thuê hẳn hoi một căn phòng của một khách sạn nằm ngay trung tâm thành phố. Cánh cửa sổ của khách sạn nhìn xuống thấy cả một con đường xuôi ngược xe cộ. Anh bảo: “Giờ mình hưởng thụ một tí em nhé”. Tôi cười với anh, vì tôi biết anh có quyền như thế.

Buổi sáng nắng ở TP.HCM đẹp đến lạ. Hai vợ chồng theo con gái đến trường, chờ đợi con gái mặc bộ đồng phục cho các tân cử nhân và lên bục nhận bằng. Anh đưa ống kính lên say mê chụp hình ảnh con mình. Còn tôi thì vui đến ứa nước mắt. Ai lại không ứa nước mắt khi con cái mình thành đạt. Sau khi nhận bằng, cô bé xuống bên dưới, ôm chặt lấy ba mẹ: “Con cám ơn ba mẹ”.

Trên chuyến tàu trở về lại phố, anh say mê bỏ thẻ nhớ vào chiếc máy tính mang theo. Anh chuyển những tấm ảnh chụp con gái vào máy, phóng to lên ngắm nhìn. Những tấm ảnh ấy có cả hạnh phúc của anh.

Còn tôi, tôi bâng quơ nhìn ra ô cửa của con tàu. Mùa khô đang làm cho cả cánh rừng đổ một màu vàng rất lạ. Cả một thảm vàng dưới cánh rừng giống như tranh vẽ. Tôi hiểu tại sao anh lại lấy lá thư chuyển nhanh của tòa soạn báo cho anh nghỉ việc ép nhựa cẩn nhận. Cánh cửa đó đóng lại để cho anh mở một cánh cửa mới, ở một con đường khác. Như rừng rụng hết lá rồi sẽ lại mơn mởn lá xanh.

Truyện ngắn Khuê Việt Trường


May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#21
APSARA VÀ DÒNG KINH SÁM HỐI 

Nhụy Nguyên

[Image: 13-apsara-va-dong-kinh-sam-hoi.jpg]



Mẹ không ngủ suốt mấy canh giờ. Đêm trắng. Với mái tóc mẹ trắng. Dưới chân tượng Phật trắng. Tiếng mõ đều. Tiếng mõ không tắt trong giấc mơ kinh hoàng của nàng. Giấc mơ trắng. Không máu. Chỉ là trắng bất tận.

Nàng vùng khỏi cơn mê. Mồ hôi đẫm. Mẹ còn ngồi gõ mõ. Cầu nguyện. Những tên lính mặt đen ngoài cửa, hình như thay nhau đứng suốt đêm. Nàng không hay. Chúng đã canh cho giấc ngủ của nàng. Chúng sẽ còn canh giấc ngủ ngàn thu của nàng. Vẫn tiếng mõ tràn không gian. Đôi tay gầy của mẹ chưa kiệt sức. Bao dòng kinh được tụng vẫn chưa vắt kiệt tâm trí mẹ. Mọi thứ như vẫn bình an. Thanh thản như khuôn mặt Phật. Như không có sự cố nào sắp xảy ra với nàng. Như không có chút mất mát nào đối với một nữ tu chưa chứng đạo đang gõ mõ kia.

Một đêm tưởng nàng sẽ nằm bên mẹ, được an ủi. Không. Mẹ thậm chí không ôm lấy nàng, không khóc. Một cái tin rụng rời với nàng, lại nhẹ bẫng với mẹ. Mẹ quay mặt, tới ngồi dưới chân tượng Phật, cũng xếp bằng như Phật. Từ đấy là sự câm lặng đến nhức buốt gan óc. Tiếng mõ như đang gõ ngay chính sọ dừa non nớt của nàng. Tiếng mõ làm tê liệt mọi giác quan, dẫu nàng luôn trong trạng thái vùng vẫy, giãy giụa. Nàng muốn lao tới thét vào tai mẹ: Ai sẽ cứu con!

Chấm dứt sự quằn quại bên hố thẳm. Rồi nối tiếp nỗi sợ đang phình ngay trước bình minh, khi nàng đã hoàn toàn bước qua một thời khắc mới. Trắng. Lịch sử cuộc đời nàng sang trang. Một trang giấy trắng. 

Mắt nhắm. Mẹ vẫn chìm trong tiếng mõ. Nàng theo những tên lính mặt đen. Với nàng, đó đều là lính tráng của thần chết mang lệnh tới đưa nàng đi chứ không phải thân tín của vua. Dòng đời của nàng đang rỏ xuống một dấu chấm than.

Bầu trời thấp, với mây. Xám và trắng. Mây trắng vô kể. Từng cuộn chồng lên nhau. Không nắng. Trời vẫn trong. Trắng trong. Trắng trong? Nàng tự đặt câu hỏi, nhìn trời. Thật khôi hài. Sao nhất thiết sáng nay phải trắng. Diễu? Ông trời đang diễu nàng. Nàng phô diễn trước vua, trước quần thần với tấm thân nuột nà uyển chuyển, hút cả một góc trời vào những tầm mắt đắm đuối. Nhưng nàng không thể giấu được trời. Nàng, từ lâu tưởng dối lừa nổi Thượng đế.
*
Vị vua của nàng trẻ. Hơi mảnh. Khi vua cha mất, lần đầu tiên nàng mới thấy con người này lúc hắn chỉ đạo dựng giàn thiêu. Nàng không nghĩ đó sẽ là vua kế vị vương quốc Chăm, và giờ đang định đoạt số phận nàng. Nàng cũng không tin khuôn mặt có vẻ phong trần nhã nhặn ấy lại gầm lên như hổ đói khi hay “linh vật” của giàn thiêu bị đánh tháo. Một cuộc rượt đuổi xé toang cả dòng sông. Thất bại. Con thuyền hút vào sương khói ngỡ được thần linh che giấu.

Tất thảy ai, hễ là gốc gác từ đất nước của Hoàng hậu, kể cả những thân tín là người Chăm sẽ bị ném vào giàn thiêu? Nàng đinh ninh vậy. Thậm chí nàng, người đã có ánh nhìn như lửa về phía một chiến binh người Việt. Lửa ngùn ngụt. Những hình hài lửa thốc lên quặn xiết. Rần rật. Nước và máu từ vật hiến tế bén lửa táp lên bầu trời xám đục tang tóc. Cả vương quốc người người sụp dưới những đền tháp.

Lửa ô uế. Nghi lễ truyền đời của một vương quốc vấy bẩn. Niềm tin về cõi tâm linh bị xúc phạm.

Cuộc hành quân tàn khốc nhất trong lịch sử Chăm. 

Giờ đang chớm mùa lạnh. Sẽ không còn nhiều hy vọng nữa cho những chiến thắng dội về kinh đô. Nơi có ngai vàng rực chói. Nơi có ông vua đang ban đặc ân cho nàng; mà thực ra ban sự chết đến với nàng (?). Đội quân hung hãn của ông ta kéo một vệt gươm vòng ngoài lãnh thổ. Và nàng cùng với tốp vũ nữ lại tiếp tục phô sự trắng trong đời con gái với điệu múa mê hoặc quỷ thần cầu cho sự bình an của vương quốc. Như mẹ nàng cầu trời cho nàng có được lá bùa hộ mệnh.

Buổi lễ hôm đó, nàng không là người đứng đầu tốp vũ nữ, không dâng hết tài sắc làm hài lòng vị vua bên cô dâu nước Việt, nghĩa là nàng không phô phang trước mắt nhà vua những tuyệt mỹ nữ thần mà thượng đế quá ưu ái; nghĩa là nàng không gợn lên chút xúc cảm nào trong lòng vua... Hay lùi xa nữa, nếu nàng không nhìn thấy người lính đứng trước đám hộ tống nàng dâu Việt... Tôi linh cảm người lính ấy chính là tiền kiếp của mình. Tôi đã theo nàng dâu suốt dọc hành trình mà không ai có thể biết ngoại trừ những vị thần của vua và tên pháp sư từng đày đọa một linh hồn dưới vật thờ của vương quốc trong thân tướng một linga hoan phế. Không ai có thể lần ra những ý niệm tà ác khởi sinh trong tôi để không trói tôi liệng xuống lòng sông. Tôi vẫn nghĩ đến khúc ngoặt nào đó, sẽ tiết lộ bí mật của đất nước mình cho giặc, để được đổi lấy nàng cũng rẽ về một hướng khác. Và tôi cũng nghĩ đến nước thân cận với vị vua nơi vương quốc xa lạ, để vẫn được nhìn ngắm nàng, chờ cơ hội lật đổ tất cả ngoại trừ những tháp chàm chái vàng như một huyền thoại. Nhưng rồi tôi đã tỉnh lại bởi mùi hương của nhang trầm. Đêm rớm lạnh. Bên ngoài bóng tối trải dài như sa mạc. Tôi lần theo dấu chân thon của người con gái dặm trường biệt xứ. Binh lính và voi ngựa đã xóa dấu chân nàng, nhưng sóng không xóa nổi dáng hình đã in đậm trong tâm thức của tôi. Những dấu chân còn trên bãi biển mang tên một nữ nhi hiền thục nết na lần đầu tiên trong đời đặt lên đôi vai mền một phần vận nước. Hẳn nàng đã một mình đi lại trên cửa biển này, rất lâu, rồi mới lên con thuyền lộng lẫy lướt về phía những ngôi tháp đang đổ bóng dài xuống lòng sông…

Nhưng giờ. Là thời điểm đạo quân của vương quốc tiến sát biên giới Việt. Một cuộc chiến. Sự xuyên sâu lạnh lùng của nghìn trùng ngọn giáo. Lưỡi gươm, sẽ lia qua đầu người như vệt sáng kéo theo bụm máu tươi ròng siêu thực. Chắc sẽ có một sợi dây vô hình báo cho nàng mất mát. Có thể, trong số quân nước Việt ngã xuống, sẽ có sự chết mà ngay trong giây lát đó nàng chợt ớn lạnh.

Trong cơn mê hoang bất tận, tôi thấy mình ôm nàng trên ngựa xuyên qua sa mạc cho đến khi rục xuống dưới bầu trời đỏ ói. Rồi lại thấy mình đưa nàng vào bờ giữa lúc đội quân của vua đang giục thuyền xáp tới gần hơn. Tôi cúi xuống, thấy nàng là Tiên Thiên bé bỏng, lúc lại thấy là cô dâu nước Việt thùy mị; còn tôi là một chiến binh lạc trận, cũng là tên tù binh xơ tướp hình hài không biết đang làm gì và ở cõi nào. Hình ảnh người con gái giữa sa mạc hoang vu luôn hiện lên ám ảnh. Người con gái vẫn đi về phía ngôi tháp có vật thờ vào chiều, trăng lên soi bóng hình mảnh mai ấy liêu xiêu cô quạnh như một góa phụ. Người con gái cầu nguyện điều gì khi cuộc chiến đã ngừng và vị vua hết mực yêu thương nàng? Hay nàng cầu nguyện cho một chuyến trở về quê hương rồi mãi mãi nương mình nơi cõi Phật thanh cao? Nàng cầu nguyện cho sự ra đi của mình sẽ không làm tổn thương đến ai, dẫu đó là một thị nữ hay vũ nữ trinh nguyên được dâng lên dàn lửa…

Tại sao nàng phải đứng giữa nỗi giày vò khôn nguôi về tai họa sẽ giáng xuống bất cứ lúc nào. Bây giờ đã rõ. Nàng không hẳn đi vào nơi lộng lẫy xa hoa nhất của vương quốc. Mà đang đi vào cõi mù tăm. Địa ngục. Nàng đang vào địa ngục giữa trần gian. Chẳng hay sau kiếp này nàng liệu có mau chóng được đầu thai để tiếp tục là vũ nữ với điệu múa mê man chính nàng. Liệu khi đó vương quốc này còn tồn tại. Một niệm độc nảy sinh tự thẳm sâu tâm hồn trong trẻo, rằng nó sẽ tàn lụi với hình hài và vóc dáng đầy uy lực của ông vua của nàng. Hoặc nó vẫn sừng sững tồn tại, liệu nàng có gặp lại người lính ấy. Không. Là vô nghĩa. Nàng cũng vô nghĩa nốt! Dẫu còn mẹ. Còn sư Cụ. Còn đền tháp.

Đã bao lần nàng thử quên xúc cảm, ngồi xuống dưới chân Phật. Nhưng đầu óc xáo trộn. Không như bên nàng, mẹ, nét mặt đẹp lạ lùng. Mẹ không đẹp sao có thể sinh ra nàng là vũ nữ làm xiêu lòng đám cung phi. Khuôn mặt mẹ không gợn niềm đau, niềm vui. Khuôn mặt bình lặng sức sống, sự mãn khai ẩn tàng. Tại sao. Nàng lại tự hỏi. Con người không thể hạnh phúc khi vắng tình yêu? Trong lúc nàng dằn vặn, quằn mình trong kiếp nhớ bởi xa một người chưa lâu. Và nếu không còn hy vọng, nàng sẽ chết.

Nhưng giờ đang vào ngõ chết, nàng lại muốn sống. Bởi nàng vẫn hy vọng. Hy vọng về con người xa xôi ngoài lãnh thổ vương quốc, chứ không phải hy vọng vị vua sẽ ban cho nàng đặc ân về sự sống.

Ai sẽ cứu nàng. Thánh thần? Nàng thậm chí không gieo mầm hy vọng. Dẫu nàng không phủ nhận những lời kinh. Nàng không hề muốn chạm vào người mẹ khi bước khỏi nhà (mà có thể sẽ không bao giờ còn chạm được vào mẹ nữa). Nàng cũng không một lời từ biệt khẽ khàng chỉ như ngọn gió. Nàng bước khỏi cửa, mẹ vẫn cầu kinh. Những dòng kinh sám hối. Như sự sinh thành nàng đã là tội lỗi.

Cốc... cốc...
Đệ tử lâu đời luân kiếp
Nghiệp chướng nặng nề
Tham giận kiêu căng
Cốc... cốc... cốc
Si mê lầm lạc...
 
Nàng, trong lúc được xem nữ thần kết nối vương quốc Chăm với thiên triều, với một thế lực nào đó lại là nghiệt chủng. Mẹ yêu thương nàng. Nhưng tình thương lặn sâu dưới đáy của nỗi ân hận cuộc đời. Tình thương đã được cô đặc từ nước mắt nhiều kiếp trước.
*
Gần cung vua, phía trước, hai ngọn giáo xếp chéo. Con đường đến với sự chết tạm bị chặn. Hay kéo dài. Nàng sẽ chết dần bởi lo nghĩ, bởi vô vàn các dây thần kinh loạn xạ chập vào nhau, bởi dòng máu sẽ chảy ngược quá trình tuần hoàn vào tim. Kiệu được khiêng về lối khác. Không tới bên vua. Nàng được dẫn theo con đường có mái lợp hình tháp. Vòng vèo. Đoạn ngắn lại có hai tên lính lưng trần ngực phô. Số lính canh nhiều thêm. Lại rẽ. Xa hơn với con đường chính sâu vào cung điện. Xa ngai vàng trong tưởng tượng của nàng, xa vị vua trẻ ngồi trên đó, chờ nàng. Rẽ nữa. Bây giờ nàng nghĩ khác. Nàng sẽ được đưa tới một cái hố, rồi cả kiệu cả nàng tung xuống như một loại vi rút truyền nhiễm không thuốc thang, không lời nguyện nào có thể cứu. Vén màn, nàng quan sát bầu trời. Sáng bạch. Trắng trong. Nàng tìm vực thẳm. Không có. Tòa nhà hình tháp hiện ra. Người ta đợi sẵn. Nữ. Họ sắp hàng bước tới bên kiệu, đỡ nàng xuống.

Sự trinh trắng của vương quốc trưng diện thông qua điệu múa apsara để tỏ lòng với cõi trung giới. Vào đây, qua cử chỉ của đám hầu nàng nhận ra vị thế của mình; nhận ra sự chua chát đắng cay, một màn bi kịch sắp diễn mà nàng là nhân vật chính, cho chỉ một khán giả xem, là vua.

Căn phòng nhỏ, chiếc bàn nhỏ hình bầu dục, mình nàng được phục vụ điểm tâm với hai món trắng và đỏ. Trong chén màu đỏ, chính là huyết, có vị chua. Nàng không biết huyết gì, không thích, nhưng sợ, nên ăn. Ngon lịm mình mẩy, nhưng nuốt vào rồi muốn ói. Lại sợ ói chắc người ta cho điều gở. Nàng nếm món tiếp. Dễ nhìn hơn, thơm, dễ nuốt. Ban đầu nàng nghĩ, não, sau thấy không phải, mà tủy. Dùng xong nàng được tráng miệng bằng một chén nước màu đục. Nàng không còn cảm thấy gì ngoài sự sảng khoái, muốn vươn mình uốn lượn.


Ngặt nỗi đấy là điệu múa chỉ dành cho buổi lễ long trọng. Nàng cũng không được diễn cho ai xem ngoài thời gian luyện tập cùng tốp múa. Người ta lại đưa nàng tới một gác lầu bên bờ hồ nước xanh, phản xuống nền trời trong tưởng có thể tách từng đám mây riêng rẽ. Nàng nằm xuống cạnh hồ thư giãn, với lũ cá, với đám hầu gái cũng trắng nuột.


Giá bọn họ đọc được tâm trí nàng. Giá tâm trí nàng có một cái cửa sổ pha lê, họ nhìn vào thấy rối bời không thể gỡ, sẽ cho phép nàng nhảy ùm xuống hồ nước sâu không thấy đáy kia mà vùng vẫy kêu van. Thượng đế.  Mẹ. Hãy cho biết, nàng phải đối diện với sự trừng phạt nào đây. Cái chết sẽ đến với nàng như thế nào? Đau đớn triền miên hay mê lịm. Khoảnh khắc nào nàng sẽ nhìn thấy thiên đường. Còn địa ngục thì nàng đã mường tượng ra. Đang hiện hữu ngay trong trái tim nàng, khi nàng nhớ tới một người đàn ông khác ngoài vua.


Những lạch máu trên cơ thể nàng đã trộn với dòng máu khác thuộc về một dân tộc khác.

*

Vua, sẽ để nàng đứt hết kinh mạch mà chết? Rốt cục nàng sẽ chết như thế nào khi vua bày nàng ra khám phá? Nàng phải đợi đoạn kết cho cuộc đời suốt từ hôm qua, khi nhận lệnh đến với vua, rồi trắng đêm. Mãi cho tới bây giờ, nàng dằn vặn tâm thức như một con nghiện. Như linh hồn không đoạn dứt khỏi thể xác.

Giá nàng giết được thời gian. Rồi lao tới bên vua, gào lên trong cung điện đầy âm khí.


Nàng phải ngoan ngoãn theo sự chỉ dẫn nhẹ nhàng, nhẫn nhục của đám hầu. Nàng dùng bữa trưa một mình, với nhiều món ăn khác lạ. Những tên tử tù trước giờ bị xử đâm giáo vào lưng thường vẫn được ưu ái ở bữa ăn cuối cùng, với một vài món trong số hàng trăm món ăn dư thừa của vua. Nàng nghẹn đắng, vẫn không kiềm chế được vị ngon chưa từng. Nàng còn được bắt mạch, được châm cứu từ gan bàn chân lên tới đỉnh đầu. Kinh mạch được đả thông. Nàng thấy mình là đám mây bồng bềnh mênh mang giữa không gian hiện tồn ngoài tam giới theo như sự mô tả của sư Cụ một hôm ở Phật viện Đồng Dương, bên mẹ.


Rốt cục nàng là ai. Người con độc nhất của mẹ. Hẳn nhiên. Nhưng mỗi mẹ thì không thể có nàng. Hạt giống nào đã gieo vào mảnh đất khô cằn rồi bật lên một mầm xanh buốt? Không có câu trả lời. Nàng hỏi mẹ. Mẹ tới ngồi bên Phật. Nàng lại hỏi mẹ. Tiếng mõ bắt đầu. Nàng thầm hỏi. Con là ai ngoài cái hư danh tiên thiên thánh nữ? Chưa ai nói với nàng bao giờ. Chưa ai nói với mẹ bao giờ. Sư cụ cũng chưa muốn với tay xuống gạt dòng nước mắt của nàng. Những dòng kinh sám hối đã len vào tâm thức nàng. Có lẽ những dòng kinh sám hối vào một lúc nào đó sẽ tự trả lời nàng chăng?


Sư lắc đầu. Nhưng ít ra sư Cụ cũng trả lời nàng. Rằng trong bể luân hồi mạt vận, con tại kiếp này là trăm nghìn lần được đầu thai sinh nở. Con muốn biết tất thảy cha mẹ của mình ư. Con nhớ hết không? Ai là cha mẹ đầu tiên đã sinh con? Và cha con mẹ con hiện giờ cũng chưa hẳn là cha mẹ cuối cùng, nếu con còn tương hợp nhân duyên. Hãy về, tới bên mẹ, buông xuống nghiệp duyên và chân thành tụng kinh sám hối.

*

Mẹ ngồi trắng đêm. Tiếng mõ thời khắc lan xa, vươn cao. Giữa lúc nàng nghĩ mình sắp bị quẳng xuống vực, một tiếng động khiến mẹ nàng mở mắt. Bước chân qua ngưỡng cửa. Bước chân nhẹ ở mức chỉ cảm nhận bằng trực giác.


Mõ bặt âm. Cái bóng nhạt nghiêng sa. Mẹ quay lại. Chẳng ai. Nhìn ra nền trời trắng, không thánh hiện hình, mây vẫn bay. Trống rỗng. Không gợn buồn. Ánh nắng cắt một hình chữ nhật trên nền nhà. Đã đến giờ. Mẹ nàng đứng dậy. Không duỗi mình vươn vai, tấm thân thanh mảnh khép hờ cửa, mẹ để lại một vệt nắng mỏng gần những ngón chân Phật.


Phật viện Đồng Dương không xa.


Sư Cụ đang giấc thiền, tọa trên phiến đá cạnh hồ nước lớn sau Phật viện. Sương rây trên tóc, trên lông mày sư Cụ thành một lớp trắng đang dần được hong khô bởi nắng. Mẹ nàng sau lúc vào Phật viện quét dọn, hương đèn cho ngày mới, trở ra ngồi áp gót chân trên phiến đá, chếch về phía trái sau lưng sư Cụ.

- Lạy Sư. Con sắp mất một giọt máu.


Sư Cụ mở mắt, nhìn lũ cá già sọp lờ đờ bơi.

- Mất một giọt máu. Mà chưa hẳn.

- Lạy Sư con nghe...

- Điều này phụ thuộc vào Tiên Thiên... có căn duyên hay không.

- Thưa Sư... con sẽ dẫn Tiên Thiên đi cùng.

Sư Cụ lắc đầu.

- Tiên Thiên đã yêu.

- ...một chiến binh người Việt.

- Nam mô A Di Đà Phật. Giá như Tiên Thiên tẩy được bóng người chiến binh ấy.


Sư Cụ lấy trong túi áo ra tờ giấy cuộn tròn. Quay mặt. Sư Cụ gấp tờ giấy, vuốt nhẹ.


- Trong tâm Tiên Thiên, mỗi lần nhớ về người yêu là một lần vuốt nếp gấp. Còn tờ giấy này chỉ một lầngấp. Con hãy căng tờ giấy ra, ép vào trang kinh, mỗi ngày mỗi đêm Tiên Thiên đều đọc tụng sám hối, thử xem bao lâu tờ giấy mới mất nếp gấp. Không còn nếp gấp, là lúc Tiên Thiên thoát khổ.


Sư Cụ bắt đầu nhập định trở lại, có thể trưa, có thể đến chiều. Mẹ nàng lui vào Phật viện. Ngồi. Chánh niệm. Mùi nhang trầm phảng phất. Không thể an. Nàng một mình với vũ điệu apsara. Những ngón tay xòe, chân khơi khuỵu, lưng cong nét vẽ mơ hồ. Tiên Thiên với mây trời vần vũ trên đền tháp ròng vàng chói nhức. Nàng cô đơn giữa sắc màu tương phản từ cung điện thiên triều. Nàng đang nhảy múa trong đầu mẹ, theo nhịp tiếng mõ, nương vào dòng kinh sám hối rời rạc. Mê loạn.

Choàng mở mắt, mẹ nàng rời Phật viện.  

*

Bóng tối trùm vương quốc. Những ngọn bạch lạp được thắp khắp các lối đi. Khẩu phần buổi tối của nàng là đồ ăn nhẹ, thêm một hớp nước nhỏ. Sau đó không lâu họ hầu nàng tắm. Nàng đằm mình trong bồn nước ấm đầy hương hoa thảo dược. Người ta khoác lên thân nàng tấm lụa trắng muốt. Bây giờ chỉ còn ba hầu nữ. Nàng theo đến tòa tháp lớn hình linga. Đỉnh hổng. Nhìn lên thấy khoảng trời tròn điểm vài ngôi sao mọc vội. Phía trong độc nhất bệ thờ sát tường. Trên bệ là linga-kosa bằng vàng ròng, chóe lên. Một cái đầu thần Siva lồi ra ở đoạn trên của linga, tai dài thõng, ba vòng cổ có đeo trang sức. Trán đính mắt thần, tóc vấn hình đỉnh tháp. Môi dày. Khẽ cười.


Nàng quỳ trên chiếc gối mới, hướng về thần Siva. Người đàn bà ghé tai dặn nàng cầu nguyện, sau đó hãy hôn lên thần Siva, hôn lên linga-kosa. Rồi bà cùng hai hầu gái lui ra ngoài cửa tháp.


Hỡi Siva, thần của các vị thần. Người bảo con nên cầu nguyện điều gì đây? Hãy ban cho con sự sống cho đến lúc gặp chàng…

Hai ngọn đèn tiến vào, hắt bóng nàng lên đầu tượng Siva của linga-kosa. Vua đang đợi, nàng phải rời gấp.


Hỡi thần Siva, nếu nàng tách lìa khỏi thế giới này, coi như thần linh không tồn tại. Lời cầu nguyện của nàng vô nghĩa. Sự diễn giải về cõi Trung giới của sư Cụ là mù mịt hão huyền vô tăm tích.


Nàng chưa kịp hôn lên thần Siva, chưa kịp hôn lên linga-kosa. Những bước chân thon nặng trĩu.

Rồi cũng đến. Vị vua đón nàng dìu nàng vào trong. Sâu. Niềm nở làm gì, ưu ái làm gì. Cười với nàng làm gì. Kịch sắp diễn trên thân thể ngà ngọc.

*

Cốc... cốc... cốc...

Nàng vẳng nghe tiếng mẹ cầu kinh lẫn trong dòng Tin khẩn: “Quân Chăm thất trận; tướng Việt cầm đầu đạo quân truy đuổi sa lưới...”.

*

Nàng gục xuống. Tưởng chừng vương quốc sụp đổ. Nàng bay vào một thế giới khác. Nhiệm màu. Vương quốc trắng. Tường trắng. Vật dụng trắng. Những tấm rèm, giường, nệm trắng. Như một khu rừng tang tóc gió lặng. Màu trắng muốn minh chứng điều gì, nàng quá rõ. Toan trắng kia vẫn hoàn trắng. Và đấy chính là tấm khăn sẽ bao bọc nàng. Sẽ liệm nàng...


Cốc... cốc... cốc...

Tiếng mõ lần dồn dập.

Cốc cốc cốc

Đệ tử kính lạy

Đức Phật Thích Ca

Phật A Di Đà

Từ bi gia hộ...


Điệu múa tiên thiên, những đường cong uyển chuyển, sự trinh bạch vũ nữ. Nàng là vết nhơ. Nàng đã vượt thoát khỏi sự kiểm duyệt khắt khe nhất trong việc dung dưỡng vũ nữ để bịp bợm cả thiên giới. Để giờ nàng mới rùng mình tỉnh mộng, không giải thích nổi cớ gì vương quốc này chưa bị san phẳng bởi cơn thịnh nộ vô biên của quỷ thần.

Cũng chẳng có gì khác biệt. Trong mắt nàng bây giờ tất cả đã bị san phẳng bởi cơn vui cuồng của lũ ngạ quỷ. Nàng hy vọng ngọn giáo Chăm đã thọc sâu vào trái tim chàng. Để chốc nữa nàng sẽ được gặp chàng tại một không gian khác, cùng bám vào vòng quay luân hồi đánh dấu thêm một mối tình trên thăm thẳm chiều thời gian trở về uyên nguyên cõi tịnh.

Hỡi thần Siva. Hãy để vị vua trẻ của vương quốc này thọc vào con nỗi đau hơn cả một ngọn giáo. Con muốn gặp chàng. Con muốn được chết bên chàng. Đừng ban cho con lần nữa sự trinh trắng mà con đã hiến dâng cho một chiến binh bên lề trận mạc.

Nhụy Nguyên
Thư Viện Hoa Sen

Trích từ sách sắp xuất bản: Máu Đang Lọc Bởi Sự Lăng Yên

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#22
CHUYỆN ĂN TRỘM CHUÔNG CHÙA
Đào văn Bình

 
[Image: chuong-co-chua-han-son.jpg]
Chuông cổ chùa Hàn Sơn, Trung Quốc



Tống Văn đời Đường được bổ nhiệm làm tri phủ Tô Châu. Là người nổi tiếng thanh liêm, chính trực nhưng lại trọng Nho, khinh Thích.  Khi về trấn nhậm Tô Châu nghe nói sự cụ Chùa Hàn Sơn là bậc tu hành đắc đạonhưng không tin. Tống Văn lý luận rằng: Tụng kinh gõ mõ, lóc cóc leng keng ai làm chẳng được. Người tu hànhkhông quyền thế, không binh lính trong tay, không hiền lành thì hung dữ với ai. Lại nữa, có tỏ ra hiền lành thì thập phương mới cúng kiếng chứ hung dữ thì chỉ có nước bỏ chùa đi ăn mày…cho nên tìm cách thử.

Tống Văn cho điệu một tội phạm trong ngục thất chuyên nghề ăn trộm, bảo phải lấy chiếc chuông Chùa Hàn Sơnđem về đây. Tội phạm vâng dạ và xin cho một chiếc xe kéo. Lúc này sư cụ có chuyện đi xa, chùa vắng cho nên tên trộm dễ dàng lẻn vào đánh cắp chuông, đem về đặt ngay ở phủ đường.

Khi về chùa, nghe Phật tử trình báo chuyện mất chuông, nhao nhao xin sư cụ báo cáo quan phủ để truy lùng tội phạm. Sư cụ điềm nhiên hỏi:
-Trình báo để làm gì?

-Dạ thưa thầy để trừng trị tên táo tợn này dám vào chùa ăn trộm chuông. Đó là quỷ sứ hiện hình, chứ có phải người đâu. Chắc ba đời con cháu nó phải quả báo sa địa ngục.
Sư cụ hiền từ nói:

-Khi túng thiếu thì nhà quan tổng đốc nó cũng dám vào ăn trộm chứ há gì chùa. Nó ăn trộm chuông chứ con cháu nó có ăn trộm chuông đâu mà đày chúng nó vào địa ngục, tội nghiệp.

-Thế nhưng chùa bị mất chuông bây giờ phải làm sao?
Sư cụ cười nói:

-Chuông đâu phải Phật, đâu phải Bồ Tát, đâu phải La Hán. Chuông chỉ là phương tiện báo giờ cho dân gian hoặc vân tập chư tăng thôi. Nay không có chuông thì dùng phương tiện khác. Vả lại tên trộm này ít ra cũng có chút hiểu biết…

Nghe tới đây thì đại chúng đâm bực mình, nhao nhao hỏi:
-Thưa sư cụ, nếu có chút hiểu biết thì ăn trộm nơi khác, tại sao lại vào chùa ăn trộm?

Sự cụ khoát tay trấn an đại chúng rồi nói:
-Tên trộm này biết rằng chùa là chốn từ bi cho nên có vào chùa ăn trộm thì chùa chắc sẽ tha thứ. Chứ nó đi nơi khác ăn trộm thì người ta sẽ đi thưa, rồi quan nha sẽ bắt và tra khảo nó. Chùa khác với người thường ở chỗ đó. Nay chùa cũng trả thù, đòi lại thì đâu còn là chùa nữa.

Nghe sư cụ nói vậy, đại chúng lãnh hội, lạy tạ, lui ra. Rồi sư cụ ra lệnh dùng mõ báo giờ thay chuông.

Tin đó mau chóng tới tai phủ đường, Tống Văn thất kinh  hồn vía, thấy mình hồ đồ quá, vội vã thay quần áo, tới chùa lạy tạ sư cụ, trả lại chuông, xin quy y và nhận một pháp danh.

Sau đó Tống Văn đích thân bỏ tiền ra rồi vận động các phú hào của Phủ Tô Châu đóng góp, đúc một quả chuông lớn hơn nặng tới hai tấn. Nghe nói sau này, khi nghe tiếng chuông Chùa Hàn Sơn từ xa vọng tới, mà Trương Kế mới có thể kết thúc được bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc.
 
Người kể chuyện: Đào Văn Bình
(California ngày 01/7/2017

TVHS
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#23
SỢI TƠ NHỆN 
Tác giả: Akutagawa Ryunosuke   

Người dịch: Đinh văn Phước



Tác giả :
[Image: akutagawa-ryunosuke.jpg]

Akutagawa Ryunosuke sinh năm 1892 (Meiji/Minh Trị năm thứ 25) ở Irifune-cho, Kyobashi-ku, Tokyo bây giờ đổi thành Chuo-ku. Cha có nông trại nuôi bò để lấy sữa. Lúc mới đầy bảy tháng thì mẹ phát cuồng, nên được thân quyến bên ngoại, gia đình người Anh của mẹ nhận về nuôi. Năm lên 10 thì mẹ ruột mất trong bệnh viện người điên. Năm 12 tuổi mới chính thức lấy họ ngoại là Akutagawa. Ông mất năm 1927.

Vào được Đông Kinh Đế Quốc Đại học nay là Đông Kinh Đại học (Tokyo Daigaku), Ông cùng với bạn học là Kikuchi Kan, Kumei Masao những cây bút nổi tiếng đương thời tích cực hợp tác lập văn đàn và sáng tác. Năm 1916 Ông viết truyện ngắn Hana (Cái Mũi), được đại văn hào Natsume Soseki khen không tiếc lời, tháng 9 cùng năm sáng tác truyện Imogayu (Cháo khoai). Năm sau đó 1917, Ông cho in tập Rashomon (La Sinh Môn) gom góp một số truyện ngắn nổi tiếng, tự đó tạo được một chỗ đứng riêng trong văn đàn Nhật bản. Ông là một trong những cây bút đại diện cho văn học Nhật thời đại Taisho (Đại Chính). Ngày nay một giải thưởng văn chương rất có uy tín mang tên Ông, phát hàng năm cho cây bút nào với sáng tác có giá trị văn học cao.

Tác phẩm Sợi tơ nhện được sáng tác vào năm 1918 cho tạp chí Văn Nghệ Thanh thiếu niên Akai Tori (Con Chim đỏ). Trong những năm tiếp theo Ông rất tích cực sáng tác truyện ngắn cho Thanh thiếu niênchẳng hạn như Majutsu (Ảo thuật 1919), Toshishun (Đỗ tử Xuân 1920)., Torokko (Chiếc xe goòng 1922) , Sennin (Ông tiên 1922) v.v...


[Image: soi-to-nhen.jpg]


Xin kể, đây là câu chuyện xảy ra trên Cực Lạc. Một bữa nọ, Đức Thích Ca một mình lững thững đi dạo bên hồ sen. Những đóa sen trong hồ nở trắng toát, đẹp như ngọc. Từ giữa nhụy vàng một hương thơm ngào ngạt khó tả, ngan ngát tỏa ra khắp miền.

Xin thưa, trên Cực Lạc lúc đó đúng vào buổi sáng.

Đức Thích Ca dừng lại bên cạnh hồ sen. Xuyên qua giữa những lá sen phủ khắp mặt hồ, Đức Phật chợt đưa mắt nhìn xuống dưới.
Xin thưa, bên dưới hồ sen lại chính là đáy của địa ngục. Nước hồ trong vắt như thủy tinh. Đây là sông Tam Đồ, đấy là những hòn núi đầy kim. Cảnh tượng ở dưới trông rõ mồn một như được soi gương.

Dưới địa ngục, cảnh gã Kandata cùng với các tội nhân khác đang quằn quại rên siết, lọt vào mắt Phật.

Tên Kandata này là một tên trùm trộm cướp. Cả đời, y làm đủ chuyện độc ác, cướp của, đốt nhà, giết người không gớm tay. Duy chỉ một lần, y cũng làm được một việc thiện. Vâng, đó là chuyện vào một buổi nọ, tên ác ôn này đang đi trong rừng sâu, bỗng y thấy một con nhện bò bên vệ đường.

Y liền giở chân lên định dẫm chết con nhện, nhưng y nghĩ  "Không, không, nó tuy chỉ là một con vật nhỏ bé, nhưng nó cũng có một sinh mệnh, nỡ nào ta lại giết đi, như thế thì tội nghiệp cho nó quá". Nghĩ vậy y bèn thôi, không giết con nhện.

Đức Thích Ca nhìn cảnh địa ngục, nhớ lại chuyện tha không dậm chết con nhện của tên Kandata. Để ứng báo cho cái việc thiện ấy của y, Đức Phật nghĩ nếu đuợc thì cũng muốn cứu vớt tên này ra khỏi cảnh địa ngục. May thay lúc ấy, Đức Phật nhìn bên cạnh, thấy trên một lá sen xanh như cẩm thạch, một con nhện trên Cực Lạc đang giăng tơ, những đường tơ óng ánh, đẹp như bạc.

Đức Phật bèn vươn tay nhẹ vớt một sợi tơ nhện và xuyên qua giữa những đóa hoa sen trắng như ngọc, buông thẳng tuốt xuống địa ngục.

2
Xin thưa, dưới địa ngục, tên Kandata cùng với những tội nhân khác đang lặn hụp trong ao máu, lúc nổi lúc chìm.
Mà tứ bề thì tối mịt. Trong cái cõi âm u ấy, nếu đâu đó có cái gì hiện ra, thì đó lại chính là những mũi kim nhọn hoắt của các hòn núi đầy kim dưới địa ngục, lóe ánh sáng trông thật là khủng khiếp, ghê rợn. Hơn thế, cả vùng lặng ngắt như nằm trong huyệt mộ, chốc chốc chỉ nghe thấy vọng tiếng thở dài khe khẽ của các tội nhân.

Xin thưa, ai mà đã sa xuống dưới địa ngục này, thì phải chịu đủ thứ cực hình đau đớn, còn sức đâu nữa để mà khóc thành tiếng.
Cho nên dù lúc sinh tiền Kandata là tên cường đạo, thì nay giỏi lắm cũng chỉ giãy giụa, sặc sụa trong ao máu không khác gì một con ếch sắp chết mà thôi.

Nhưng xin thưa, trong lúc lặn hụp ấy, Kandata bất giác ngước mặt nhìn trời. Ô kìa trong cái cõi u minhtối mịt, xa tít từ trên trời cao, một sợi tơ nhện màu bạc như một tia sáng, lóng lánh thật mỏng, len lén buông xuống nhè nhẹ như không muốn cho ai hay, ngay trên đầu của mình.

Khi Kandata nhận ra điều này thì trong bụng mở cờ. Nếu bám được sợi tơ nhện này mà leo miết lên thì chắc có lẽ sẽ thoát được địa ngục.
Ơ này, không biết chừng có thể vào được cả chốn Cực Lạc. Như vậy thì từ nay khỏi bị đuổi trèo lên núi đầy kim nhọn, hết phải bị bắt lặn hụp trong ao máu nữa.

Nghĩ vậy, Kandata liền đưa hai tay níu chặt lấy sợi tơ nhện và cố hết sức mà leo lên, lên cao hơn.
Xin thưa, y vốn là tên cường đạo, nên chuyện như vầy thì xưa nay y đã từng quen thuộc.

Nhưng xin thưa, khoảng cách giữa địa ngục và Cực Lạc thì xa đến hàng ngàn vạn dậm, dù có muốn gấp cũng chẵng dễ gì mà có thể thoát ngay được. Kandata ra sức leo một mạch thì thấm mệt, kiệt sức, không tài nào leo nổi nữa, dù chỉ một gang

Không cách nào hơn, Kandata đành đeo cứng sợi tơ ở giữa chừng, định nghỉ một lát để lấy lại sức. Y đưa mắt nhìn xuống phía dưới xa lắc.

Thì ra, đã không hoài công leo, cái ao máu mới hồi nào đây, y đã lặn hụp trong đó thì nay, không biết tự hồi nào đã chìm mất trong bóng tối phía bên dưới. Cả những ngọn núi đầy kim sáng lờ mờ khủng khiếp kia, cũng đã khuất ở phía dưới chân của y rồi. Cứ như thế này mà leo miết lên thì không biết chừng chuyện ra khỏi được địa ngục không phải là không được
Kandata quấn sợi tơ nhện vào cả hai tay, đã mấy năm rồi từ ngày sa xuống địa ngục, y không hề thốt ra nổi một lời, nay bỗng to tiếng cười "Được rồi, chắc được rồi ".
Nhưng bất đồ y nhận ra, ơ kìa phía dưới sợi tơ nhện, không biết bao nhiêu là tội nhân cứ nối nhau, hết lòng cố leo lên theo y, đông như kiến.
Thấy vậy Kandata vừa hoảng vừa lo. Y đờ người ra, miệng há hốc, mắt đảo quanh.

Y nghĩ thầm, sợi tơ nhện này mong manh như thế, một mình y đeo không thôi cũng không biết chừng bị đứt, thế thì làm sao mà chịu cho nổi sức nặng của cả chừng ấy người.

Nếu lỡ mà sợi tơ này bị đứt giữa chừng, thì toi hết công đã leo được đến đây, và chính y cũng sẽ rớt trở lại địa ngục. Không thể được.
Nhưng ngay cả trong khoảnh khắc ấy, từ dưới ao máu tối mịt, hàng trăm, hàng ngàn tội nhân khác, lúc nhúc nối tiếp nhau bò lên, cố bám lấy sợi tơ nhện mong manh sáng, leo lên trên thành một hàng dài.

Kandata liền hét to.
- Ê bọn bây, sợi tơ nhện này của tao. Bọn bây đã xin phép ai mà dám leo lên đây. Xuống hết! Xuống hết!
Chính ngay lúc đó.

Sợi tơ nhện cho đến giây phút ấy chẳng sao cả, bỗng đột nhiên đứt phựt một tiếng, ngang từ trên chỗ tên Kandata đang đeo.
Và như thế, tên Kandata chẳng còn bám víu vào đâu được. Trong chớp mắt y rớt lộn ngược, người y cắt gió quay vòng như một con vụ, rớt tuột xuống trong bóng tối.
Xin thưa sau đó, giữa bầu trời không trăng không sao, chỉ còn lại một sợi tơ cụt ngủn của con nhện trên Cực Lạc, lòng thòng óng ánh sáng, rất mong manh.

3
Đức Thích Ca ngự bên hồ sen trên Cực Lạc, nhìn rõ mọi chuyện, mãi cho đến lúc tên Kandata chìm nghỉm trong ao máu như một tảng đá. Đức Phật như có vẻ buồn, lại lững thững cất bước đi.

Vì cái tâm không có một chút từ bi, chỉ muốn một mình thoát khỏi địa ngục, mà Kandata đã bị quả báorớt trở lại địa ngục, dưới mắt Đức Phật, là cả một điều bi đát thảm thương.

Thế nhưng, trên Cực Lạc sen trong hồ vẫn nở như không có chuyện gì xảy ra .

Những đóa hoa sen trắng như ngọc, đài hoa lay nhẹ bên chân Phật. Từ giữa nhụy vàng ngào ngạt một hương thơm khó tả, ngan ngát tỏa ra khắp miền.

Xin thưa, lúc đó trên Cực Lạc đã gần đến đúng Ngọ.

Tokyo, Hino 1-2003
(Chim Việt Cành Nam)

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#24
Tưởng


GN - Huy cảm thấy nhức đầu kinh khủng. Những dòng chữ trong trang sách trước mặt Huy tối sầm đi, hệt như người vừa đi ngoài nắng gắt bước vào nhà… Huy không lạ gì căn bệnh mà mình đã điều trị gần một năm nay. Chứng cao huyết áp vô căn. Bác sĩ bảo không tìm ra nguyên nhân sau khi đã tiến hành một loạt các xét nghiệm, siêu âm, X-quang,… Huy giờ phải đều đặn uống thuốc mỗi ngày một viên lúc 7 giờ sáng.

[Image: buong.jpg]
... chỉ duy nhất một chữ BUÔNG - Ảnh minh họa

Dạo gần đây, ngoài uống thuốc, Huy cũng tăng cường đi bộ để vừa kiểm soát cân nặng, vừa đảm bảo máu huyết lưu thông, tốt cho tim mạch. Mấy tháng nay tình hình huyết áp ổn định, không còn hiện tượng hoa mắt nhức đầu nữa. Huy nghĩ, mình đã uống thuốc, tập thể dục, kiêng ăn mặn, bớt mỡ, bớt ngọt… mà sao bệnh đã thuyên giảm nay lại tái phát.

Càng suy nghĩ, Huy càng nhức đầu hơn, mắt hoa lên.

*

Huy bồn chồn. Chờ đến hôm sau, hôm sau nữa, tình trạng nhức đầu và tối sầm mắt vẫn cứ tiếp diễn. Huyết áp 170/110, cao bằng lúc chưa điều trị. Huy nhớ người ta bảo dùng thuốc một thời gian dài sẽ có dấu hiệu kháng thuốc, tức thuốc uống vào sẽ không còn tác dụng…

Lại mất một buổi sáng với các xét nghiệm, siêu âm, X-quang. Thật kỳ lạ. Kết quả vẫn cho thấy các chỉ số hết sức bình thường, thậm chí tốt hơn năm ngoái…

Trong khi in đơn thuốc, bác sĩ lại dặn Huy cần duy trì uống thuốc đều đặn, kiêng ăn mặn, cữ mỡ và chất ngọt.

- Tất cả những gì bác sĩ dặn em đều đã  làm theo, ngoài ra còn đi bộ tập thể dục - Huy nhỏ nhẹ đáp.

- Phải có gì bất thường chứ! Bác sĩ nhíu mày. Không có lý nào. Thôi được, vậy tôi sẽ đổi thuốc điều trị.

Huy bắt đầu uống theo đơn thuốc mới…

Một ngày, hai ngày, rồi ba ngày. Nỗi thất vọng càng tăng khi chỉ số huyết áp vẫn ở mức cao và còn thêm chứng không ổn định, lúc 170/110, khi 165/100, có lúc giảm xuống 145/95, tất cả đều vượt ngưỡng an toàn…

Huy quá mỏi mệt, còn lâu mới tới ngày tái khám. Giờ không thể quay lại báo với bác sĩ là thuốc không có tác dụng trong khi chỉ dùng có ba ngày. Đành phải kiên nhẫn chờ…

Đau đầu. Choáng. Mắt tối sẫm. Huy gượng vịn bàn đứng lên, xoa xoa lòng bàn tay cho ấm, áp vào hai bên mang tai, rồi đi qua đi lại nhẹ nhàng. Cũng đỡ được đôi phần. Huy nhớ hôm nay đã uống thuốc rồi và vì là liều duy nhất lúc 7 giờ sáng nên không thể uống thêm, đành chờ qua ngày mai.

Hôm sau, tình trạng vẫn y như cũ. Huy cảm thấy lo sợ. Càng hoang mang, huyết áp lại càng không ổn định. Rốt lại là vì sao? Huy sẽ tiếp tục với tình trạng này đến bao giờ? Vừa nguy hiểm vừa kiệt sức.

Một người bạn bảo, Huy bị bệnh là do tâm mà ra.

- Đời nào. Tôi không để tâm hại ai. Tôi sống lương thiện. Tâm tôi tốt mà - Huy gạt phắt.

- Tôi nghĩ ông cần hiểu ý tôi nói đã. Một khi chưa nhận ra được gốc rễ của vấn đề thì ông sẽ không biết cách khắc phục.

Tận đáy lòng, Huy không thấy thuyết phục. Ở nơi làm việc, Huy vốn là người được nhiều người yêu mến. Hỏi về Huy, chắc sẽ nhận được nhiều lời tốt đẹp. Còn ở nhà, Huy là người con hiếu thảo, người anh hết mực thương em.

Huy lơ lửng như rơi vào một khoảng không không trọng lực. Càng nỗ lực tìm ra  câu trả lời, thì câu trả lời dường như là những vật thể lửng lơ bay xung quanh không theo một quỹ đạo nào và không thể nắm được khiến Huy chới với.

Còn mười ngày nữa mới đến ngày tái khám…

*

Huy hồ hởi đến phòng khám.

Bác sĩ cho biết huyết áp đã ổn, nhưng Huy khăng khăng mình vẫn bị chứng nhức đầu và chóng mặt hành hạ.

Bác sĩ lắc đầu nói: - Vậy phải xem sinh hoạt của anh thế nào!

Huy vốn là người sống điều độ. Một ngày của Huy bắt đầu từ 5 giờ sáng, đi bộ, chạy bộ khoảng một giờ rồi nghỉ ngơi, ăn sáng, đi làm. Trưa ăn cơm đúng giờ. Tối nghỉ ngơi thư giãn và không thức khuya, ngủ đúng giấc. Tuyệt đối không thuốc lá hay rượu bia.

Huy đi từ hoang mang này đến hoang mang khác. Có khi nào mình mắc chứng bệnh lạ không? Hay là bệnh hoang tưởng?

Huy uể oải rời phòng khám, chạy xe đến cơ quan. Đầu óc lửng lơ. Cơn chóng mặt đột ngột ập tới giữa chừng. Xây xẩm. Tấp xe vào lề ngồi nghỉ ngơi một lát, Huy quyết định gọi điện thoại báo xin nghỉ bảy ngày phép còn lại trong năm để giải quyết việc cá nhân.

Đang mùa cuối năm, còn rất nhiều công việc cần giải quyết, nhưng với tình trạng sức khỏe không tốt như vậy, Huy buộc phải tạm dừng. Huy không muốn mình kiệt sức rồi đột quỵ tại nơi làm việc giống như nhiều nhân viên Nhật Bản gặp phải mà các báo và truyền hình hay đưa tin.

Hai ngày nghỉ phép vụt trôi qua. Ngày đầu, tình trạng chóng mặt giảm, Huy đinh ninh đã tìm ra nguyên nhân gây ra chứng nhức đầu và chóng mặt. Huy còn có sáu ngày nghỉ ngơi để hồi phục sức khỏe. Sang ngày thứ hai, tình trạng chóng mặt và nhức đầu lại xuất hiện…

Hoảng loạn cực độ. Huy nằm dài trên chiếc giường nhìn ra cửa sổ. Ngoài kia, cây cỏ xanh mượt sau mấy ngày mưa liên tiếp, như đối lại với Huy đang héo hắt.

Yên tĩnh quá. Huy nghe cả tiếng thở của chính mình. Huy đang đối diện với bản thân. Đối diện với bản thân thì chẳng có gì phải ngượng ngùng che giấu, Huy nghĩ. Nếu không tìm ra nguồn gốc chứng bệnh đó, sức khỏe Huy sẽ cạn dần. Người ta nói, không sợ bệnh, chỉ sợ mình không biết mình bệnh. Thật lòng, Huy có bệnh từ tâm. Nếu chỉ là thân bệnh thì các chỉ số xét nghiệm đã cho kết quả rõ ràng. Đây là lúc Huy phải thật tâm nhất với mình, không cần phải gồng lên để làm luật sư tự bào chữa nữa.

Thành thật nhìn nhận, Huy rất tốt, sống chan hòa, thân ái với đồng nghiệp và mọi người, người khó tính đến mấy cũng khó trách Huy được. Nhưng đó chỉ là bề nổi. Tận trong lòng, Huy hiểu tính hay ganh tỵ và so sánh mình với người khác. Đi họp lớp, nghe người ta nói người này đang làm chức vụ này, chức vụ kia, bề ngoài Huy có vẻ không quan tâm “vì ai có phận nấy”. Người ta đi đến địa điểm họp lớp bằng ô-tô - giờ đi lại bằng ô-tô cũng hết sức bình thường, nên Huy có đi đến đó bằng xe máy hay ô-tô cũng không nói lên điều gì. Người này thu nhập cao hơn thì cũng có người kia thu nhập thấp hơn. Thế nhưng đêm về, Huy thường mất ngủ vì suy nghĩ: anh bạn đó có gì hơn mình, hồi đi học lẹt đẹt giờ sao có vị trí vậy? Chắc có gì tiêu cực đây? Còn cô bạn này đi làm cũng như mình, nghe đâu lương còn thấp hơn, lại nuôi hai con đang tuổi đi học thì làm gì có tiền mua xe, chắc là vay ngân hàng hoặc làm ăn không đàng hoàng…

Nhìn vào đâu Huy cũng thấy một mảng xám và tự vẽ ra những lý do xấu nhất để luận giải cho những thành công của người này, người khác. Ở công ty cũng vậy, khi ai đó được cất nhắc lên một vị trí mới, Huy đều cảm thấy con đường họ đến vị trí đó không phải bằng năng lực họ có mà bằng sự khuất tất nào đó. Huy tự bao biện mình không phải là người ganh tỵ. Chẳng qua Huy thấy những người đó không xứng đáng với những gì họ có… Ban đầu Huy thấy vui với suy nghĩ của mình vì nghĩ mình sống tốt hơn người ta, cứ vậy mà ngày lại ngày, Huy lún sâu không thoát ra khỏi cơn khủng hoảng về tâm lý vì nhìn đâu cũng không thấy được người tốt.

Tất cả cứ xoắn xiết lấy Huy. Ngột ngạt, Huy muốn đến một nơi thật thanh tịnh cho tâm tĩnh lại.

Huy nhớ ngôi chùa nằm xa xa trong hẻm núi khuất sau những rẫy mãng cầu quanh năm lá không thể xanh do bụi đỏ hai bên đường phủ lên tầng tầng… Huy nhớ những bức tranh thư pháp treo ở phía hậu liêu. Có bức là các câu thơ thiền, có bức đơn giản chỉ một chữ, được thầy viết theo lối thảo, như: Nhẫn, Yên, Phúc, Lộc, Thọ. Trong đó, Huy có dịp xem qua một bức, mà Huy chưa từng nghĩ bản thân sẽ thực hiện để có được tâm an lạc. Bức tranh đó lẩn khuất trong nhiều những bức tranh khác, chỉ duy nhất một chữ “BUÔNG”.

Tr.Q.T

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#25
Đứng đợi người đi ngang

GN - Chuyến xe đò hay dừng lại trước trại giam. Khách xuống xe phần lớn là thân nhân của những phạm nhân đang phải cải tạo ở trong trại giam kia. Khi bước xuống xe, ai cũng mang đủ thứ vật dụng tiêu dùng để thăm nuôi một người nào đó trong trại. 


Lạ, phần lớn những người bước xuống xe đều là phụ nữ, đôi khi có cả trẻ con. Thân nhân của họ ở trong trại giam rộng thênh thang kia, khuất sau hàng bạch đàn cao xanh lả ngọn, nơi con đường nhựa buồn buồn để tới chỗ cuối cùng là cổng vào trại, mà có thể bởi một lý do nào đó họ đã phạm tội. 


[Image: amhoa.jpg]
Ảnh chỉ mang tính minh họa



Thế gian này thênh thang lắm, con người ta có thể trong một ngày vượt cả vài ngàn cây số để từ một đất nước này đến một đất nước khác; nhưng với những người phạm tội kia, ranh giới của họ là những hàng rào kẽm gai, là bức tường sơn vàng ngăn cách. Họ là những người đã thành án, cho nên không còn bị nhốt trong những căn phòng chật chội, mà hàng ngày được đi ra ngoài trại để làm việc. Cách trại không xa là cánh đồng rộng, gọi là nơi sản xuất của trại. Ở nơi đó là những ruộng lúa, rẫy mì, khoai lang, bắp, mè… nói chung là đủ thứ nông sản được trồng bởi những phạm nhân. Đó cũng là lương thực hỗ trợ một phần cuộc sống của họ.

Quán nước bán thêm đủ thứ linh tinh cho nhu cầu của những người thỉnh thoảng bước xuống xe, dừng chân nghỉ ngơi, đợi tới giờ đi thăm thân nhân, họ uống ly nước, đôi khi mua thêm những thứ hàng hóa cần thiết cho người thân của mình bởi do vội vàng mà họ quên mang theo. Buôn bán lâu, tôi biết họ cần gì. Đó là thuốc lá, là bánh tráng, là đường cát, cả khăn mặt, bót đánh răng hay đôi khi là ít bánh kẹo để ăn chơi hay các loại bánh ăn liền như bánh ú, bánh bao, bánh bò…

Tôi quen hình ảnh những chuyến xe đò dừng lại ngay ngả vào trại. Tôi quen những gương mặt người già trẻ lớn bé đến đây đều với tâm trạng bồn chồn. Tình thương của họ thể hiện khác nhau đối với người thân. Mỗi người đi thăm thân nhân trong trại giam kia đều đi thẳng vào con đường đất đỏ đó, nếu họ đã đi nhiều lần, bởi trại có một khu dành riêng cho thân nhân sau khi thăm xong mà không kịp đón xe về hoặc nhà quá xa tạm trú qua đêm. Trại cũng có một khu vực được đặt tên là “Nhà hạnh phúc”, dành cho các phạm nhân cải tạo tốt được ở lại qua đêm với thân nhân họ. Có thể cả đời ở gần kề bên nhau, những cặp vợ chồng không thấy quý sự đoàn tụ, cho đến khi bị chia cắt, họ mới thấy quý hóa cái đêm hạnh phúc của chuyến thăm kia. Bởi tôi thấy sau khi bước ra khỏi ngôi nhà hạnh phúc khi bình minh bắt đầu cho một ngày mới, gương mặt của những người vợ đi thăm nuôi chồng đều vui vẻ, yêu đời.

Chuyện quán tạp hóa nhỏ của tôi chứng kiến những buồn vui trước cổng trại giam mà tôi tẩn mẩn ghi lại ấy tưởng sẽ cứ trôi mãi. Cho đến một buổi chiều trời u ám, mưa cứ bay lất phất khiến cho những người đa cảm luôn mang một cảm giác buồn buồn. Vào thời điểm đó, quán của tôi rất vắng, vì phần lớn những người thăm thân nhân không đi vào giờ này, họ chủ yếu tập trung vào ngày thứ Bảy hoặc Chủ nhật. Chiếc xe đò đáng lẽ sẽ chạy thẳng đến điểm cuối cùng là trung tâm thị trấn huyện còn non hơn 10 cây số, đã dừng lại.

Cô gái ấy đẹp, nếu không nói là rất đẹp. Chiếc mũ rộng vành che cả bầu trời, cặp kính đen hợp với khuôn mặt dễ dàng làm cho bất cứ chàng trai nào khi đi ngang qua cũng phải quay lại ngước nhìn. Mái tóc cô gái chắc do một thợ làm tóc giỏi giang nào đó đã nhúng tay vào, tạo ra những lọn tóc xoắn, ôm lấy bờ vai trần thanh tú. Cô gái ấy ăn mặc khá giản dị, chiếc pull trắng ngắn tay, chiếc quần jean có vẻ bụi bặm. Tôi phải tả kỹ càng về cô gái bước xuống xe trước của hàng của tôi vì từ sáng đến khi trời sắp chạng vạng tối, trong cơn mưa buồn ray rứt đó, quán của tôi ế ẩm đến độ tôi cứ chong mắt vào màn hình tivi xem để giết thời gian. Và trong ngần ấy thời gian cũng chẳng có chuyến xe đò nào dừng lại để khách bước xuống.

Càng kinh ngạc hơn là khi vừa xuống xe, cô gái đã bước thẳng vào quán của tôi. Cô chọn một góc khuất, nói:

- Chị ơi, chị cho em xin một chai nước lọc.

Chai nước lọc mang ra, cô gái uống một hơi giống như lâu lắm rồi cô không được uống. Uống xong chai nước, cô hỏi tiếp:

- Chị ơi, ở quanh đây có ai cho thuê nhà trọ không?

- Không, vì có cho thuê cũng không ai ở.

- Em cần ở đây mấy ngày, chị có thể giúp em?

- Ở mấy ngày làm chi? Có phải cô đi thăm nuôi ai đó trong trại không? Nếu đi thăm nuôi thì có thể vào khu nhà chờ, người ta có chỗ cho ở đó.

- Vâng, em đi thăm thân nhân. Nhưng em không thể vào đó. Em muốn kiếm một chỗ ở vài ngày.

Tôi vốn ở một mình. Mà cuộc sống một mình thì có gì vui. Ở khu làng buồn buồn này không có kẻ trộm, an ninh tương đối tốt, cho nên tôi đã nhận lời cho Thúy, cô gái đó, ở lại cùng tôi. Tôi nói:

- Thôi thì hoàn cảnh phụ nữ cả thôi, em cứ ở lại với chị. Nhà không có phòng riêng, cũng chẳng có đàn ông con trai, em cứ nằm tạm ở phòng khách em nhé.

Cô gái “dạ” thật ngọt.

*

Đúng năm ngày thì Thúy đi, tôi phải gọi anh Mẫn xóm trong chở giúp Thúy ra bến xe, cách nơi này cũng gần 6 cây số. Thúy về tận Sài Gòn, thành phố nhộn nhạo ngựa xe, Thúy sẽ không bao giờ trở lại, vì đây là lần đi cuối cùng, cũng là duy nhất của Thúy đến nơi này để chuẩn bị một chuyến đi xa, Thúy sẽ sang Úc theo diện đoàn tụ gia đình.

Thúy để lại cho tôi một bì thư, bảo: “Khi nào có dịp, chị chuyển cho anh ấy dùm em. Trong đó còn có lá thư em viết cho anh ấy”. Tôi vốn tò mò, nhưng tôi nhất quyết không giở lá thư mà Thúy gởi cho Hoàng, một phạm nhân đang chấp lãnh án tù 20 năm, đang thọ án ở trại giam này.

Sự gần gũi của những ngày bên nhau đã giúp cho tôi hiểu về cô gái đã bôn ba cả mấy trăm cây số đường để đi thăm chồng, và người con trai đó nhất quyết không cho Thúy gặp mặt.

Họ là hàng xóm với nhau, yêu nhau cả 7 năm trời để đi đến quyết định kết hôn. Theo Thúy thì Hoàng rất hiền, có tài đàn guitar và giọng ca của anh rất ngọt ngào, anh mơ mai này mình sẽ trở thành ca sĩ, nhưng giấc mơ ấy bất thành.

Tôi không hỏi lý do tại sao Hoàng lại bị bản án nặng như thế. Bởi có thể tôi sẽ gợi lại một quá khứ buồn bã cho cuộc tình của hai người. Tôi chỉ biết rằng chỉ vừa chuẩn bị lấy nhau thì Hoàng phạm tội. Họ chưa là vợ chồng.

- Ảnh bảo em còn trẻ, hãy đi lấy chồng đi. Không nên đợi anh, vì đợi ảnh lại càng không có tương lai.

Thúy nói với tôi như thế, và đó cũng là lý do tại sao Thúy lại xin tá túc trong nhà tôi. Trước đó, Hoàng ở một trại giam khác, sau chuyển về đây. Ở trại giam cũ, bao nhiêu lần Thúy đi thăm đều bị Hoàng từ chối và cũng không nhận quà thăm nuôi. Đó cũng là hình thức đoạn tuyệt một cuộc tình.

- Vậy thì cô hãy quên anh ta đi. Không ai đợi một người tù hai mươi năm.

- Em không biết, nhưng em nhớ ảnh quá. Em muốn biết ảnh sống ra sao.

Tôi biết rằng mỗi ngày những phạm nhân đều ra khỏi trại đi lao động ở cánh đồng cách trại khoảng ba cây số. Ở nơi đó cũng chen cùng những cánh đồng, nương rẫy của dân. Thế là ba ngày liền, tôi tạm thời nghỉ bán, lấy xe đạp chở Thúy ra nơi đó, với hy vọng để Thúy gặp Hoàng.

Những phạm nhân đều mặc đồng phục như nhau, đều hớt tóc cao. Họ xếp hàng đôi đi theo hai cán bộ quản giáo chốt trước và sau. Với tôi, tôi chẳng phân biệt được ai. Và lần lượt họ đi ngang chỗ tôi và Thúy, nhưng Thúy vẫn không tìm thấy Hoàng.

- Anh Hoàng.

Tiếng Thúy gọi thật to vào ngày thứ ba, khi một đoàn phạm nhân đi ngang. “Anh Hoàng”, tiếng gọi đó đã làm cho một chàng trai ngước nhìn. Ánh mắt của họ đã chạm nhau. Nhưng chàng trai lại cúi mặt xuống, tiếp tục bước đi theo đoàn.

Đó là lần gặp duy nhất của họ.

Lá thư tôi đã nhờ một phạm nhân tự giác đưa cho Hoàng. Tôi không biết kết thúc của câu chuyện như thế nào. Từ đó tôi hay chăm chú nhìn những đoàn phạm nhân đi ra trại, tôi nhìn xem trong đó ai là Hoàng. Nhưng tôi thật buồn cười, mắc gì tôi lại đợi một người đi ngang? Tôi lại nghĩ đến chuyện giá như hai vợ chồng họ có một đêm trong “ngôi nhà hạnh phúc”.

Truyện ngắn Khuê Việt Trường
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#26
Trong cánh sen tàn

GN - Hôm đó là ngày rằm, tôi đang lúi húi lau bàn thờ thì chuông điện thoại reo. Vĩnh gọi cho tôi giọng run run “vợ anh vừa mới mất”. Tôi bàng hoàng như không thể tin vào tai mình, cũng không thể cất lên lời nào hỏi han hay an ủi Vĩnh. Tôi biết Vĩnh đang tột cùng đau đớn vì Mai là tất cả những gì tốt đẹp nhất mà anh có trên đời. 

[Image: hoa-sen-tan.jpg]

Tôi muốn đến đặt bông hoa sen trắng lên linh cữu Mai và để ôm Vĩnh một cái sẻ chia. Nhưng chúng tôi đang ở quá xa nhau nên chỉ có thể tiễn đưa Mai bằng ý nghĩ. Người đàn bà ấy đã cùng tôi yêu Vĩnh suốt năm tháng thanh xuân. Khi chúng tôi còn rất trẻ, rất nghèo và cũng có rất nhiều hoài bão. Tôi và Mai chiều nào cũng đèo nhau đi chợ cóc. Một cái chợ tự phát nằm mãi tít trong ngóc ngách ngoằn ngoèo râm ran tiếng cười nói bán mua. Mai sẽ chọn ít măng chua, vài quả trứng gà vỏ đỏ rẻ tiền, cá khô hoặc vài lạng thịt. Tôi chọn mua ít táo đá đã nhăn nheo vỏ ăn rất ngọt và thơm. Với khoản tiền ít ỏi cả xóm trọ góp chung, chúng tôi chi tiêu làm sao để mỗi bữa chỉ tốn năm chục ngàn tiền ăn. Có món mặn, món canh lại có cả tráng miệng thì còn gì bằng. 

Lúc ấy thực phẩm ngâm tẩm đầy hóa chất còn chưa được truyền thông phanh phui. Chúng tôi hồn nhiên sống với túi tiền eo hẹp. Vui vẻ tận hưởng những bữa cơm đạm bạc sáu, bảy người ăn. Trong bữa cơm chúng tôi nói với nhau về những cuốn sách hay, về một vùng đất xa xôi nào đó chưa từng đặt chân đến, về ngọc trai, muối biển, cây thuốc ở rừng hay những sợi tóc bạc sớm trên đầu cũng thành chủ đề tranh luận. Mai sôi nổi và dịu dàng. Luôn biết cách khơi mào mọi cuộc tranh luận sôi nổi nhưng cũng biết cách dừng lại đúng lúc, khi quan sát cơ mặt của từng ấy con người. Mai ơi…

- Mai bị tai biến mạch máu não. Cô ấy đã làm việc căng thẳng trong nhiều năm, hay thức khuya lại ăn uống không điều độ. Anh luôn nghĩ nếu mình mang đến cho cô ấy cuộc sống tốt đẹp hơn thì Mai đã không ra đi sớm vậy.

- Anh đừng tự trách mình. Không phải chính anh từng nói con người có duyên có nghiệp cả rồi sao. Hãy cứ nghĩ Mai đã đến một thế giới tốt đẹp hơn.

- Anh cũng từng động viên nhiều người như thế. Nhưng cho đến khi Mai mất anh thấy mọi ngôn từ đều trở nên vô nghĩa. Một người chết đi cũng có nghĩa mình không còn cơ hội để nói với họ bất cứ điều gì. Nhìn không thấy. Gọi không thưa. Đột ngột và tàn nhẫn.

- Các con anh thì sao? Chúng ổn chứ?

- Chúng tỏ ra mình ổn nhưng anh nghĩ là không.

Tôi không hỏi gì thêm vì nghĩ im lặng sẽ tốt hơn. Bởi tôi biết Vĩnh tìm đến tôi không phải để nghe vài lời an ủi. Đơn giản vì chúng tôi hiểu nhau. Hiểu người còn sống và cả người đang nằm yên dưới mộ. Cuối cùng chúng tôi cũng có thể ngồi lại với nhau sau mười ba năm xa cách. Kể từ ngày tôi cầm tay Mai trao cho Vĩnh trong đám cưới ngọt ngào và nghe trái tim mình vỡ vụn. Mai nói “tụi chị sẽ đi, để lại thành phố này cho em giữ”. Chúng tôi thống nhất sẽ không liên lạc với nhau trong mười năm. Chờ cho đến khi cả ba có thể nhẹ nhõm khi nghĩ về nhau. Vì tình yêu mà tôi dành cho Vĩnh cần thời gian để nguội. Ngày cưới của tôi họ không có mặt. Tôi sinh đứa thứ nhất, đứa thứ hai bạn bè khắp nơi hỏi thăm dĩ nhiên vẫn không có lời nào của họ. 

Năm tôi ba mốt tuổi, gặp đại hạn trong đời. Làm ăn thua lỗ phải bán nhà cửa về quê trốn nợ, chồng nộp đơn ly hôn, gia đình chồng ngoảnh mặt làm ngơ. Tôi chạy vạy khắp nơi, vay mượn bạn bè không sót một ai thì vẫn dặn lòng không được gọi cho Mai hay Vĩnh. Tôi quăng quật đời mình trong cuộc mưu sinh, chẳng còn thời gian để nuối tiếc tuổi thanh xuân hoặc nhớ nhung ký ức. Gây dựng lại cửa hàng, mua lại nhà cho các con không phải sống cuộc đời ở trọ. Rồi các con mỗi tuổi tâm tính mỗi khác, tôi bận rộn cùng con vui buồn đến chật ních cả ngày. Tôi quên bẵng đi lời hứa mười năm, một hôm chợt nhớ ra thì đã mười ba năm có lẻ. Mười năm đã không gọi thì thêm vài lần mười năm nữa chắc cũng không sao. Tôi từng nghĩ sẽ chẳng có cớ gì để gọi cho nhau nữa.

Thỉnh thoảng tôi có nhớ đến Mai. Ấy là vào một buổi sáng mùa hạ mát mẻ, trong lành. Tôi đi chợ mua được bó sen thơm, nghĩ có khi sáng nay Mai cũng đang mua sen ở một nơi nào đó. Căn phòng trọ chật chội trong ký ức từng thơm ngát hương sen, át đi mùi ẩm mốc, mối mọt và kiến gián. Mai cắm sen rất đẹp. Có khi cả một chiếc bình to chỉ cắm một bông sen mà đẹp lạ. Có phải vì vẻ đẹp thanh thoát của Mai mà mọi thứ liên quan đến chị đều trở nên thiện cảm. Mai có thể không mua quần áo đẹp, nhịn ăn sáng cả tuần nhưng trong phòng nhất định sẽ thấy hoa, sách hay và trà ngon. Mỗi lần có buổi hòa nhạc ở nhà hát lớn Mai đều tha thiết đi xem. Ngay cả thứ âm nhạc mà Mai nghe hàng ngày cũng khác với chúng tôi nhiều lắm. Không ồn ã, sáo rỗng, cũng chẳng theo bất cứ trào lưu nào. Những buổi trưa nắng nóng nghe vọng từ phòng Mai tiếng gọi mời “khi thấy buồn em cứ ghé chơi/ Chim vẫn hót trong vườn đấy thôi/ Chỉ có trong tôi ngày đã sang đêm lâu rồi...” (*) Tự nhiên thấy lòng mình được dẫn dụ đến một khu vườn xanh ngắt và trong vắt tiếng chim. Vụt thoát khỏi sự chật chội, nóng bức nhớp nháp mồ hôi của một buổi trưa hè. Mai khiến chúng tôi cảm thấy mình bớt nghèo nàn. Chúng tôi nâng niu tâm hồn mong manh và đẹp đẽ của Mai.

Trong suốt mười ba năm ấy, tôi tình cờ biết được Mai không thể có con, Vĩnh bị tai nạn giao thông tưởng không qua nổi. Lần khác lại nghe nói hai người họ mới nhận con nuôi, trai gái đủ cả. Tôi thầm mừng cho họ, vì Mai là người đàn bà xứng đáng được hưởng hạnh phúc và Vĩnh sẽ khiến nó trở nên trọn vẹn. Cho đến tận khi pha sẵn trà ngồi đợi Vĩnh bằng ca khúc “Một mình” của Thanh Tùng tôi vẫn không nghĩ Mai đã rời bỏ thế giới này. Không nghĩ rằng kết cục của chúng tôi lại buồn đến thế. “Nhớ em vội vàng trong nắng trưa/ Áo phơi trời đổ cơn mưa/ Bâng khuâng khi con đang còn nhỏ/ Tan ca bố có đón đưa”. Mai cũng từng nhiều lần nghe bài hát này khi chị còn rất trẻ. Phải chăng nỗi buồn trong những bài hát Mai từng nghe chính là một phần cuộc đời của chị. Mà đâu phải mình Mai, tôi giờ cũng một mình đấy thôi, Vĩnh cũng đâu có khác.

- Mai là người hay có những dự cảm buồn. Thỉnh thoảng có nói về cái chết khi đang ngắm một cánh sen tàn.

- Vậy là Mai đã chuẩn bị mọi thứ cho một cuộc tiễn đưa?

- Không em à. Sáng đấy anh đi làm, Mai dặn tối về sớm để cùng đi nghe nhạc trên đường phố. Trên bàn máy may còn dở dang quần áo của chồng con. Sách đọc dở để trên giường. Bột bánh mua về chưa kịp nặn. Chiều ấy Mai còn chưa kịp tưới nước cho mấy chậu hoa trên sân thượng. Hứa cùng anh đi một chuyến xuyên Việt vào đầu tháng mười khi mùa thu chạm ngõ miền Bắc, những cánh đồng lúa đã kịp chín vàng và thơm ngát. Mai còn muốn ra thăm em mà chưa kịp…

- Mai có nói sẽ ra thăm em ư?

- Ừm… Mai hay nhắc tới em. Có những hôm đi chợ về nhìn túi rau củ tươi xanh Mai thấy thương chợ cóc ngày xưa và những bữa cơm đạm bạc chúng mình đã từng ăn. Nhớ xóm trọ nghèo nàn chật chội mưa dột và nắng hắt. Nhớ tóc em từng rất dài, tay em rất mềm, da em rất mát. Hôm nghe tin em ly hôn, Mai đã khóc. Cô ấy tìm cách gọi cho em nhưng không được. Nên cô ấy cứ chờ em gọi. Hơn mười năm qua, số điện thoại Mai cũng không dám đổi.

Tôi thấy mắt mình nhòa đi, trà trên môi đắng ngắt. Tôi đã nhiều lần trách Mai và cũng tự trách mình, tại sao lại không thể cầm máy gọi cho nhau một cuộc hỏi thăm. Tôi cứ nghĩ Mai muốn quên mình cùng những tháng năm tuổi trẻ sống trong xóm trọ nghèo. Quên đi rằng chúng tôi đã cùng âm thầm yêu chung một người suốt sáu năm trời. Tôi không gọi cho Mai cũng một phần vì những biến cố thăng trầm làm tôi mặc cảm. Tôi đã sai nhưng cuộc đời không cho tôi cơ hội để sửa sai. Làm sao có thể gọi sang thế giới bên kia để nói với Mai một lời xin lỗi. Để ôn lại cùng nhau một quãng thanh xuân. Vĩnh nhìn quanh nhà, dừng ánh mắt nơi bình sen vừa rụng xuống một một cánh thuyền thơm ngát.

- Anh giúp Mai thực hiện lời hứa đến uống trà cùng em.

- Em nghĩ Mai cũng đang ở đây ngụ trong một cánh sen nào đó. Hoặc là trong bài hát đi ra. Trong đáy chén trà mình đang uống.

- Cũng có thể là Mai đang khóc. Những buổi chiều quá đẹp cũng thường khiến Mai khóc. Vì nhớ nhung, vì hạnh phúc vì cả những điều còn chưa kịp vẹn tròn.

Tôi ngẩng lên nhìn Vĩnh, người đàn ông mà tôi đã từng yêu. Tóc trên đầu anh đã có vài sợi bạc. Ngọc Hạ vẫn da diết bên tai lời ca của Thanh Tùng: “Vắng em đời còn ai với ai/ Ngất ngây men rượu say/ Đêm đêm liêu xiêu con đường nhỏ/ Cô đơn, cùng với tôi về…”.

[i]Truyện ngắn [/i]Vũ Thị Huyền Trang


GNOL
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#27
Búp sen xóm núi

GN - Chị sẽ rất nhớ em, em gái!

- Em cũng sẽ rất nhớ chị! Khi nào rảnh, chị lại lên chơi với em nhé!

- Tất nhiên rồi. Chị sẽ trở lại.

Hồng Liên cứ đứng ôm lấy Thủy Chi như thế mãi nếu như bác tài không bấm còi thúc giục lần nữa. Cuộc chia tay bùi ngùi giữa đoàn thiện nguyện và người dân xã vùng núi đầy bịn rịn, lưu luyến.

[Image: rang.jpg]

Người dân xóm núi đón đoàn thiện nguyện vào một buổi chiều khi ráng trời đã đỏ au như hòn than sắp tàn. Gió núi đem hương rừng man mác phả vào tâm hồn những vị khách nơi phố thị một cảm giác thư thái, an nhiên. Hồng Liên dang hai tay hít vào lồng ngực hương rừng thoang thoảng và cảm thấy thật khoan khoái. Vậy là một phần hai chặng đường của hành trình thiện nguyện đã qua đi. Là một nữ doanh nhân, sống ở phố đã quen, giờ đứng giữa núi rừng, Hồng Liên cảm thấy tuổi 30 của mình thật ý nghĩa. Cô tự nhủ trong chuyến thiện nguyện này sẽ gom thật nhiều món quà tinh thần của rừng núi về phố khoe với ông nội.

- Em chào chị! - Đang miên man với những dòng suy nghĩ bất chợt, Hồng Liên giật mình sau tiếng chào nhẹ nhàng của ai đó. Cô quay lại. Cô bé có gương mặt rạng ngời, nụ cười sáng biếc, tóc tết thành hai bím gọn lỏn, bộ quần áo đã cũ nhưng trông rất gọn gàng, tuy cao khoảng một mét nhưng hiện lên vẻ chững chạc, chín chắn. Hồng Liên cảm thấy vui sướng khi cô bé đặt vào tay cô bó hoa rừng đủ màu trắng, đỏ dìu dịu đưa hương.

- Cảm ơn em! Em tên gì?

- Em tên Thủy Chi.

- Thủy Chi? Tên em cũng có nghĩa là hoa sen như tên chị đấy! Chị tên là Hồng Liên.

Thủy Chi nhoẻn miệng cười rồi chạy mất hút vào con đường nhỏ mọc đầy hoa dại trước mặt khiến Hồng Liên càng tò mò.

Sáng hôm sau, người dân xã vùng cao đón đoàn thiện nguyện bằng sự thân thiện, đông vui và nhộn nhịp. Trong tiết mục múa mở màn của các em học sinh, Hồng Liên nhận ra Thủy Chi. Cô bé nhỏ nhất trong đội múa nhưng lại là người múa chính với khuôn mặt sáng và nụ cười rạng rỡ. Hồng Liên chưa hết tò mò thì người phụ nữ ngồi bên vỗ tay nhiệt liệt, giọng hồ hởi:

- Cô bé nhỏ nhất đội múa ấy tên là Thủy Chi. Năm nay học lớp 12 rồi đấy. Gia đình nghèo lắm. Nhưng được cái chăm ngoan, học giỏi.

Mãi ngắm nhìn nụ cười của Thủy Chi, Hồng Liên sững lại khi nghe người phụ nữ bên cạnh nói về số tuổi của cô bé.

- Bé Thủy Chi năm nay đã học lớp 12 rồi hả cô? Nhưng bé nhỏ vậy mà?

- Đúng rồi. Con bé đã 18 tuổi rồi đấy. Nó giống ba của nó.

Người phụ nữ bỏ lửng câu chuyện khiến Hồng Liên càng muốn tìm hiểu rõ hơn về gia đình của Thủy Chi. Cuối buổi, cô men theo con đường mòn đầy cỏ dại có ý tìm đến nhà của Thủy Chi. Trước mắt cô là ngôi nhà lá liêu xiêu, tuềnh toàng. Ở góc sân, một người đàn ông nhỏ thó đang ngồi đan rổ, rá một cách tỉ mẩn. Qua câu chuyện của người phụ nữ trong thôn nói khi sáng, Hồng Liên đoán chắc đó là ba của Thủy Chi.

- Chào anh!

- Chào cô! Cô vào nhà chơi! Sau mấy câu chào hỏi, giới thiệu xã giao, anh Lừng, ba của Thủy Chi niềm nở mời Hồng Liên vào nhà. Thế rồi trước lạ sau quen, chẳng cần giữ kẽ, câu chuyện về  gia đình, về cô bé Thủy Chi qua lời kể của anh Lừng cứ thế trôi đi trong căn nhà lặng lẽ.

Cha của anh Lừng hy sinh trong chiến tranh khi anh mới lọt lòng. Một mình mẹ anh lặng lẽ nuôi anh đến năm 15 tuổi thì bà cũng ra đi sau một trận đau bệnh nặng. Chẳng may mắn như bao người khác, anh Lừng khi sinh ra đã là đứa trẻ bất hạnh khi tuổi cứ lớn dần mà chiều cao thì cứ mãi dừng lại ở 1 mét không hơn không kém. Có lần, các bác sĩ về thôn khám bệnh, họ nhìn anh rồi bảo anh bị rối loạn về nội tiết gì đó trong cơ thể. Anh biết vậy và chấp nhận sống với những thiệt thòi của mình. Cuộc sống càng trở nên khó khăn khi bản thân anh không thể mang vác nặng. Không được đến trường, anh Lừng chịu cảnh mù chữ từ bé. Tưởng như cuộc đời khép lại với anh trong sự cô đơn, buồn bã thì tình yêu lại đến với anh như một phép màu. 

Ông trời công bằng khi cho ông tơ bà nguyệt xe duyên anh với Mùi, cô gái trẻ xinh đẹp, cao ráo, nhỏ hơn anh 5 tuổi và được học hành tương đối. Mối tình so le như đôi đũa lệch ấy ban đầu bị gia đình Mùi phản đối dữ dội. Phải mất ba năm, bằng thời gian, sự kiên trì và tình cảm chân thành cả hai dành cho nhau, cuối cùng định kiến khắc nghiệt kia cũng không thể đánh đổ thành trì tình yêu của họ. Một đám cưới với đôi ba mâm cơm đạm bạc do gia đình nhà gái chuẩn bị đã giúp cho đôi trẻ nên duyên vợ chồng. Anh tập tành nghề đan lát từ ba vợ. Còn chị Mùi gánh hàng đan lát xuống chợ huyện bán kiếm tiền đong gạo. 

Hai năm sau, ước mơ có một đứa con của vợ chồng anh Lừng được toại nguyện khi chị Mùi sinh ra một bé gái khỏe mạnh. Họ đặt cho con tên gọi Thủy Chi, nghĩa là hoa sen, vì tin tưởng rằng sau này con lớn lên sẽ có ý chí, nghị lực và niềm tin trong cuộc sống.  Nhưng niềm vui chỉ đến với họ một nửa khi đứa bé càng lớn lại càng giống anh như đúc.

Thủy Chi cứ thế lớn lên trong tình yêu thương, sự bao bọc và chở che của vợ chồng anh Lừng cũng như gia đình bên ngoại. Hạnh phúc với vợ chồng anh là khi con càng lớn càng học giỏi. Không chỉ thế, Thủy Chi còn học lỏm nghề đan từ ba. Hàng ngày, một chiều đi học, một chiều cô bé ở nhà phụ ba mẹ đan lát. Dẫu vợ chồng anh Lừng khuyên con dành thời gian để học tập nhưng cô bé Thủy Chi vẫn muốn san sẻ bớt nhọc nhằn giúp ba mẹ bằng những việc nho nhỏ vừa sức với mình. Được thầy cô, bạn bè quý mến bởi ý chí cầu tiến và niềm lạc quan trong từng suy nghĩ, lời nói, hành động, Thủy Chi càng nỗ lực vươn lên khẳng định mình.

Rồi hoàn cảnh gia đình càng khó khăn hơn khi chị Mùi một lần đi chợ, trượt chân ngã xuống núi bị gãy chân. Việc chợ búa, bán buôn cũng thưa dần. Cuộc sống chật vật hơn gấp bội. Có lần, Thủy Chi đã thủ thỉ với ba mẹ về ước mơ trong tương lai của mình là muốn trở thành bác sĩ. Biết ước mơ của con là chính đáng nhưng sức khỏe của con, rồi điều kiện gia đình làm sao có thể giúp con toại nguyện. Anh Lừng bùi ngùi nhìn Hồng Liên, bộc bạch:

- Tôi chỉ mong con bé Thủy Chi có đủ sức khỏe. Con bé học được đến đâu vợ chồng tôi vui đến đó. Dù thế nào chúng tôi cũng sẽ cố gắng làm lụng để lo cho con...

Đang dở câu chuyện thì mẹ con Thủy Chi về. Trong khi chị Mùi niềm nở mời Hồng Liên ở lại ăn bữa cơm với gia đình thì Thủy Chi bưng rổ rau rừng ra khoe:

- Em theo mẹ đi hái rau rừng. Đầu mùa mưa, rau non và ngọt lắm. Chị ở lại ăn cơm luôn nghe chị!

Biết không thể từ chối lời mời chân thành của Thủy Chi, Hồng Liên mỉm cười nhận lời. Bữa cơm của gia đình Thủy Chi hôm ấy đặc biệt hơn mọi ngày bởi những câu chuyện, tiếng cười giòn tan của khách và chủ thân thiết như người trong một nhà.

Thời gian đoàn thiện nguyện ở lại cùng người dân xóm núi không dài nhưng với Hồng Liên đó là những khoảnh khắc tuyệt vời. Càng tiếp xúc với Thủy Chi, Hồng Liên càng thấy quý mến cô bé tí hon hoạt bát, vui tính và luôn lạc quan trong mọi hoàn cảnh. Hồng Liên nhìn Thủy Chi cười bảo:

- Mình kết nghĩa chị em nhé!

- Dạ. Em rất vui!... Bàn tay Hồng Liên nắm chặt bàn tay nhỏ bé của Thủy Chi. Nhìn khóe mắt Thủy Chi, Hồng Liên nhận ra niềm hạnh phúc rưng rưng ngập tràn.

Gia đình anh Lừng được chính quyền địa phương cấp cho ngôi nhà tình nghĩa đúng vào những ngày tháng 8. Thủy Chi có giấy báo vào đại học cũng trong khoảng thời gian ấy. Cô bé vui nhất khi khoe với ba mẹ được chị Hồng Liên nhận làm chị em kết nghĩa. Hồng Liên còn hứa với gia đình anh Lừng sẽ quan tâm, giúp đỡ Thủy Chi trong thời gian em học đại học cũng như sau khi tốt nghiệp ra trường. Vợ chồng anh Lừng vui đến phát khóc và chẳng biết nói gì ngoài hai tiếng cảm ơn.

Hồng Liên ngồi tần ngần trên xe ngắm cảnh núi rừng trước giờ phút chia tay xóm núi. Xe chầm chậm lăn bánh. Con đường đất núi đỏ quạch, ngoằn ngoèo sau cơn mưa buổi sáng bỗng trở nên nhèm nhẹp, dẻo quẹo. Giọt nước mắt trong vắt lăn tròn trên má Hồng Liên nóng hổi. Qua màn mưa lất phất, ngoái đầu nhìn lại, cô vẫn như thấy bóng dáng Thủy Chi dõi theo chiếc xe khách nhỏ dần và mất hút cuối con đường qua những cánh rừng cao su xanh ngút ngàn.

Truyện ngắn Lê Thị Xuyên
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#28
Rồi cũng như gió bay

GN - Con gái lớn nhà ông Hai đi tu rồi, nghe đâu xuất gia ở một chùa nào đó trong Nam. Đang yên đang lành lại đi tu, chắc là làm ăn thất bại hay buồn tình duyên nên muốn dứt duyên đời. Ở xóm nhỏ thanh bình này, mấy hôm nay bỗng trở nên xào xáo bởi chuyện đó. Họ đồn đoán, thêm thắt, phán xét theo hướng nghiêm trọng hóa vấn đề. Tính ông Hai vốn bỏ ngoài mình miệng lưỡi thế gian, còn bà Hai thì không sao tránh khỏi những gợn lòng.


[Image: nhugiobay.jpg]

Bà Hai đi đâu về, ống quần còn ghim mấy hoa cỏ may. Bà quăng cái nón cời, rồi ngồi bệt xuống nền nhà tủi hờn:

- Con người ta lớn lên thì dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, con mình thì đi vô chùa ở, để miệng đời quở ngày quở đêm!

Ông Hai ngồi trầm ngâm kéo từng hơi thuốc lá bên ấm trà mới châm. Ông lúc nào cũng vậy, chậm rãi và suy tư. Không thấy ông Hai nói gì, bà Hai lẳng lặng vào nhà nấu cơm, khói bếp thơm nồng xộc lên căn nhà già nua như chính tuổi tác của ông bà. Khói bay lờn vờn trong nhà, rồi luồn qua từng kẽ ngói, tan biến giữa thinh không. Bữa cơm trưa hôm đó thật mặn, bởi được chan thêm bao lời gièm pha của miệng đời. Ngay cả việc đưa tay xới cơm, bà Hai cũng kèm theo tiếng thở dài, nghe xiêu vẹo và mòn mỏi. Ông Hai cứ cặm cụi ăn, vừa buông chén xuống thì ông buông một câu thản nhiên:

- Không ai thương mình bằng cơm thương, cơm thương nên mới cho mình ăn được ngon! Ăn mà thở dài khác gì tự làm mình khổ!

- Số tui với ông khổ, con cái toàn chọn điều không như ý! - Bà Hai trút câu than vãn, sau khi nuốt miếng cơm nặng oằn trôi qua cuống họng.

- Là không như ý bà, hay không như ý thiên hạ?

Bà Hai lặng thinh, nhưng sắc mặt vẫn buồn man mác. Rõ ràng là không vừa ý thiên hạ, họ gièm pha, nên bà phiền lòng. Xong bữa cơm trưa, ông Hai ra nằm trên cái võng mắc phía dưới hiên, tay phẩy phẩy cái quạt mo cau, nói vọng ra chỗ bà Hai ngồi rửa chén:

- Họ nói con mình thất bại, nên vô chùa trốn tránh. Họ đâu có biết đó là con đường giác ngộ, không phải đường cùng!

Bà Hai nghe tất thảy những lời ông nói, nhưng làm sao bà hiểu hết mớ câu từ của một người đọc sách, một tú tài như ông. “Con đường giác ngộ” sao? Một cụm từ có ngữ nghĩa quá xa vời, so với một người quanh năm chỉ biết mùi chua của đất phèn như bà. Trong xóm, ông Hai nổi tiếng là người hiểu biết. Thời trẻ, ông đi nhiều nơi, học cao hiểu rộng. So với những người cùng thời, ông thuộc dạng có tri thức. Nhưng thời thế đưa đẩy, ông an phận làm một lão nông. Ông Hai có cái thú đọc sách, chiêm nghiệm kinh Phật. Hễ rảnh rỗi ông lại kê cái ghế ra hiên ngồi, đặt một ấm trà kế bên, từ tốn lật từng trang. Khi ông đọc sách, mặt ông tĩnh lặng như mặt hồ buổi sớm xuân.

Sợ bà Hai vẫn chưa hiểu, ông nhốm người dậy, nói thêm:

- Bà cứ rầu vậy, sao con đường tu tập của con bà thành tựu được? Họ nói chi kệ họ, cứ coi như gió thoảng qua tai!

Bà Hai im lặng, chẳng biết sự im lặng của bà là đã tường tận hay là sự miễn cưỡng chấp nhận. Đối với con cái, bà không hoạch định ra điều gì cả. Chọn lối đời nào cũng được, miễn bình an và đủ đầy. Tu tập là điều con bà phát nguyện từ nhỏ, là niềm tin tôn giáo mãnh liệt, là kết quả của chuỗi ngày nghe ông Hai nói nhiều về Phật pháp. Và hơn hết, đó căn duyên. Thật ra, hạnh phúc được định nghĩa dưới nhiều dạng, mỗi người có chuẩn mực hạnh phúc khác nhau, miễn họ cảm thấy bằng lòng với thực tại là được. Ông bà Hai xem chọn lựa của con mình là lối đi hạnh phúc, nhưng người đời lại lo xa quá, họ cứ cho đó là bất hạnh.

*

Ông Hai còn có cái thú trồng cây, trồng hoa. Người ta thường nói, vĩnh cửu màu xanh lá cây. Xem việc trồng cây là niềm vui, ấy hẳn là một người có tâm hồn tao nhã. Bà Hai cho đó là việc thừa, nên hay cằn nhằn. Ngược đời, dạo này bà lại có thói quen giúp ông chăm sóc cây trong vườn. Bà dửng dưng hơn với những lời nói thiệt hơn của thiên hạ. Có lẽ, khi đã xế tuổi, người ta bắt đầu thích dựa vào những điều dung dị để sống. Ngoài việc đồng áng, chăm sóc khu vườn là niềm vui của ông bà. Hôm trước đi chợ huyện, ông bà mua được hai cây cam sành miền Nam mang về trồng ngay đầu ngõ. Rải rác trong vườn, trồng khoảng chục gốc bưởi da xanh. Cây lựu đỏ ngay góc sân, được chiết ra thành nhiều cây, vì sợ mùa bão gió quật trốc gốc thì sẽ mất giống. Bà còn tỉ mỉ giúp ông vặt hết lá cây mai già, để ủ sức cho kịp ra hoa.

Khu vườn vì thế mà xanh ngát, có trái chua trái ngọt và hoa lá bốn mùa. Buổi trưa, gió nồm đông luồn qua kẽ lá, nghe lào xào như ru. Thi thoảng, thấy được đôi thằn lằn rượt nhau trên thân cây xoài, nghe cả tiếng con kỳ nhông chạy lộp bộp trên lớp lá khô khi trông thấy dáng người, vài con chim vờn nhau khi tranh ăn mấy trái lựu chín… Rất bình yên!

Có hôm, đang ngồi nghỉ dưới tán cây xoài, ông Hai triết lý:

- Bà thấy không? Đầu tư tâm tư cho loài vô thức như cây cối, lại được thảnh thơi. Quá chú trọng vào miệng lưỡi thiên hạ, chỉ làm mình phiền não!

Bà Hai chỉ “ờ ờ” cho có, chứ chẳng hiểu ý ông là mấy. Mà bà cũng không cần hiểu cặn kẽ, bà chỉ cần cảm nhận được sự an yên là được rồi.

*

Ở miền quê này, người ta chỉ làm hai vụ mùa, vụ đông - xuân và hè - thu. Không làm vụ thu - đông, vì đây là thời gian mưa bão nhiều, có làm cũng chỉ mất mùa. Thời gian ấy là mùa đất nghỉ, đất chẳng phải vắt kiệt phù sa để nuôi cây trồng. Người nông dân bắt đầu buông việc đồng áng, đây cũng là mùa mà mồ hôi được quyền ráo trên vai họ.

Ông Hai mất, vào một mùa đất nghỉ như thế.

Ông ra đi rất nhanh, nhẹ nhàng và trầm lặng như chính cuộc đời ông. Ông không có một dấu hiệu bệnh tật nặng nào để lường trước được. Ông bảo mệt, lên giường nằm nghỉ. Rồi bảo đừng nói gì thêm nữa, cũng đừng khóc. Lúc đó bà Hai hốt hoảng la lên, thì ổng đã ra đi, mãi mãi. Tai biến ấy mà, đã đến thì trở tay chẳng kịp.

Mấy mẹ con bà Hai chít khăn tang trắng xóa. Bà ứa nước mắt, đứa con gái lớn nắm chặt tay bà: “Má đừng khóc, để người ra đi được thanh thản!”. Đó là đám tang không có tiếng khóc tang thương, người ở lại không bò lê tiếc nuối người đã mất. Mẹ con bà Hai bình thản như một cách chấp nhận quy luật tự nhiên, dẫu buồn đến tận cùng. Cây cối trong vườn cũng được cột tang để tưởng nhớ người trồng, gió vẫn thổi qua khu vườn, xào xạc như ru người vừa nằm xuống.

*

Sau cái ngày ông Hai về với đất, đứa con gái thứ đi làm xa dọn về ở hẳn với bà Hai. Có hôm, bà ra chợ, nghe người đời xào xạc: “Ổng mất bất tử quá, bệnh vài bữa nửa tháng để con cháu chăm sóc trả hiếu rồi hễ đi!”, “Chồng mất, cha mất mà mẹ con nhà bả không ứa nổi một giọt nước mắt nào!”…

Bà đạp xe về. Suy nghĩ của bà khác họ, bà vẫn thường nghe lúc trước ông Hai nói “sinh, trụ, dị, diệt” - đã là một cơ thể sống thì theo quy luật tự nhiên, con người ta phải già úa và mất đi. Mất vì tuổi già, khác mất vì tai ương. Mất trong thanh thản, khác mất trong bệnh tật vật vã. Sự ra đi nào cũng đáng buồn, nhưng phải đón lấy như một lẽ dĩ nhiên. Đến giờ phút đó, quan trọng là phần tâm linh được yên ổn. Bây giờ, bà chẳng biết phải làm gì, ngoài việc tự an cái tâm cho mình bằng những điều ngày xưa ông hay nói với bà.

Sắp vào tháng bão, bà Hai ra vườn chặt bớt mấy nhánh cây để gió không quật trốc gốc, khu vườn trông trống trải hẳn ra. Buổi trưa nằm ở võng, bà không còn nghe tiếng gió luồn qua kẽ lá. Gió cứ rít thông thốc qua khu vườn trống hoác, trôi tuột qua lòng bà, không đọng lại thứ gì. Đời người, đến một lúc nào đó cũng sẽ như gió bay. Không hình hài, không níu giữ được, tan ra giữa cuộc đời bề bộn này.

Truyện ngắn Lưu Huyên
May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#29
Bỏ rơi bầu trời

GN - Năm 1993 quê tôi mới có điện. Lúc đó tôi mới lên bảy, và “may mắn” đã biết được cảnh sinh hoạt thời đèn dầu hỏa, cho đến bây giờ vẫn còn nhớ. 

Cứ mỗi chiều tối, nhà nhà bưng cơm ra thềm hiên ngồi ăn. Cơm dọn trên một cái nống cấm, tức cái mẹt hình tròn cỡ lớn. Bữa cơm quê rau dưa và thường thêm chai rượu trắng cho đàn ông trong nhà. Đạm bạc nhưng sum vầy ngon lành.


[Image: dendau%202.jpg]
Mâm cơm ấm cúng bên đèn dầu ngày xưa - Ảnh minh họa

Nhà quê lúc ấy chỉ toàn dựng từ tranh tre. Xi-măng tuy đã có nhưng chỉ để làm sân và thềm hiên. Sân cần ưu tiên đúc xi-măng để phơi lúa, thềm hiên cũng cần vì chỗ đó nước mưa tạt vào. Trong nhà chỉ nện đất với tro rơm cùng muối hột thành một mặt nền láng cứng. Thế nên người ta dọn bữa cơm tối ra hiên ngồi cho sạch sẽ, mùa hè chỗ đó lại có gió trời mát mẻ, những đêm trăng còn tiết kiệm được dầu hỏa thắp đèn.

Trẻ con ăn cơm xong kéo nhau ra đường chơi trò rồng rắn lên mây, chơi ma rà lên bậc, hoặc bắt đom đóm bỏ vào những trái bộp bộp (trái lồng đèn) giả làm đèn học Mạc Đĩnh Chi. Trẻ con hồi đó cũng chỉ đến trường một buổi, buổi kia về nhà tự học, còn ban đêm để vui chơi.

Cả làng làm nông nên đến mùa gặt hầu như nhà nào cũng ăn cơm chiều rất muộn, phải gọi đó là bữa cơm tối mới đúng. Những đêm giữa tháng, tô nước luộc rau trong xanh thêm nhờ ánh trăng lóng lánh.

Mùa gió Lào hạn hán trăng càng sáng, cả làng cùng ra đồng tát nước đêm cứu lúa, hoặc gặt thâu đêm cho kịp. Bữa cơm không còn dọn ở thềm hiên mà chuyển ra tận cánh đồng. Hẳn lúc đó cha mẹ ăn như chạy giặc, còn lũ trẻ nít chúng tôi thích thú vô cùng, cảm giác như cả làng cùng ăn chung một nồi. Trên đồng, trẻ con hái cỏ gà bện lại chơi chọi, chơi tích tè nép bắn, bao nhiêu trò bày ra giữa một đêm trăng.

Cũng những mùa hè miền Trung thuở chưa có điện, ông nội tôi thường kê chõng tre ra sân, đặt ấm nước chè ngồi uống sau bữa ăn rồi trải chiếu lên, ngủ luôn giữa trời. Tôi nhiều đêm ngủ cùng ông trên chiếc chõng tre ấy, được nghe kể chuyện làng xa xưa, với tôi đó là chuyện cổ tích.  Một cái quạt mo cau, hoặc quạt nan tre dán giấy ông phẩy nhè nhẹ. Tay ông quạt một lúc tôi đã ngủ say. Nửa đêm thức giấc, thấy trăng treo ở bầu trời phía Tây, cả một không gian sáng xanh mờ mờ ảo ảo, và dậy lên tiếng côn trùng đêm rỉ rả từ ngoài cánh đồng.

Bây giờ tôi vẫn sống ở ngôi làng quê kiểng của mình, nhưng không thấy những bữa cơm chiều dọn ở thềm hiên nữa. Điện quá sẵn, bữa tối bật đèn sáng trưng, bật thêm quạt mát rượi. Rất hiếm khi bị cắt điện, và nếu có cắt điện thì vài nhà kéo nhau lên phố ăn tiệm, hoặc chế tô mì tôm ăn cho qua bữa, thậm chí nhịn đợi có điện mới ăn nổi. Không ai nghĩ đến chuyện bưng cơm ra trước sân nhà ngồi ăn nữa.

Bữa cơm trên đồng càng không, vì bây giờ hệ thống thủy nông đã chu đáo không cần đi tát nước chống hạn. Mùa gặt có máy gặt đập liên hợp rồi, chỉ cần đem bao ra đựng chở về thôi. Nhà nông thôn kiên cố, bê-tông từ ngoài đường vào tận sau nương. Nhiều nhà còn làm cái mái che tôn phủ hết khoảnh sân, ngồi ở thềm hiên không còn thấy trăng nữa. Cũng không còn ai ngủ giữa trời nữa. Quạt điện, điều hòa vào tận phòng ngủ.

Trẻ con ở quê không còn mặn mà những thứ trò chơi dân gian đêm trăng như thuở chúng tôi. Bây giờ là máy vi tính, điện thoại thông minh. Bữa cơm mất điện không có điện thoại thật khó để dỗ đứa trẻ lên ba ăn cho được. Bữa cơm của bậc cha mẹ cũng mất ngon vì lo không sạc được cái điện thoại đang cạn nguồn pin, hoặc không nắm được trên mạng xã hội đang có chuyện gì. Chúng tôi, những đứa trẻ lớn lên dưới bầu trời ấy nhưng đến bây giờ làm cha, làm mẹ lại bỏ quên cái bầu trời của con trẻ.

Làng bây giờ được một nhà sư tài trợ nên có đèn đường thắp sáng hàng đêm. Riêng đêm rằm, nhà sư tắt đèn cho bà con ra đường ngắm trăng, tách cái smartphone để cùng trò chuyện xóm làng. Nhưng cái lý giản đơn ấy của nhà sư rất ít người hiểu ra. Người ta bảo có mỗi một đêm mà sư cũng tiết kiệm chi cho mệt.

Quên mất gió trời là một cái quạt khổng lồ và trăng cũng như một bóng đèn vĩ đại của tự nhiên, ta thu mình trong sự phụ thuộc đến kiệt cùng nguồn điện. Đâu biết rằng điện cũng là một thứ năng lượng tái tạo từ tự nhiên mà thôi.

Tạp bút Hoàng Công Danh

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply
#30
Những thước phim vô hình

GN - Từ nhỏ, tôi đã có thói quen đi lang thang một mình và nghĩ vẩn vơ về cuộc sống. Trong mắt tôi, cuộc sống trôi đi như những thước phim vậy, có lúc chầm chậm như dừng hẳn, có lúc lại tua đi hối hả. Mẹ tôi từng bảo tôi: “Con cứ ngơ ngẩn với phim như vậy sau này làm được cái gì mà ăn!”. “Con làm đạo diễn”, bằng khát khao của một đứa trẻ, tôi dứt khoát trả lời mẹ. 


Thế là tôi quyết tâm học để thi vào Trường Sân khấu - Điện ảnh, chuyên ngành đạo diễn. Lúc ấy chẳng có ai nghĩ một đứa từng vào bệnh viện tâm thần như tôi sẽ đỗ đại học. Đến khi tôi xách hành lý lên Hà Nội học, thì người ta - những người thường khinh khỉnh mẹ con tôi - mới xì xào kháo nhau rằng: “Thằng không có bố, nó đỗ đại học rồi đấy”. 


[Image: tranhminhhoa.jpg]

Năm học thứ hai, trường tôi phối hợp với các báo đài tổ chức một cuộc thi phim ngắn. Một cơ hội không thể tốt hơn để tôi chứng tỏ bản thân. Và thay đổi không khí những tháng ngày sinh viên tẻ nhạt.

Tôi bớt thời gian học và làm thêm, rong ruổi khắp phố phường Hà Nội với hành trang là chiếc máy quay mini để tìm ý tưởng cho bộ phim tài liệu dự thi của mình.

Một buổi sáng, như thường lệ, sau khi cầm máy quay đi dọc bờ hồ để tìm cảm hứng, tôi rẽ vào quán phở quen thuộc. Một quán phở bình dân nổi tiếng ở phố cổ. Khi tôi đang bình thản thưởng thức bát phở còn nóng hổi thì có hai đứa trẻ trông rất đặc biệt ngồi xuống dãy bàn đối diện với tôi. Không riêng gì tôi mà chắc mọi người trong quán ai cũng bị thu hút ánh nhìn vào hai đứa trẻ ấy. Đó là hai anh em. Lúc bấy giờ tôi đã nghĩ thế vì trông hai đứa trẻ đều đen đúa và ăn mặc rách rưới giống nhau. Người anh trạc mười hai - mười ba tuổi, gầy gò, đầu to, tóc vàng hoe cháy nắng. Người em tầm tám tuổi, loắt choắt, vẻ mặt lanh lợi, đội một chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ. Người anh nhìn người em rồi lưỡng lự đứng dậy gọi một bát phở. Sao lại chỉ gọi có một bát phở? Bất giác, tôi thấy lòng nao nao, và hơn thế, một ý tưởng mơ hồ chợt lóe lên qua “cái nhìn điện ảnh” mà tôi tìm kiếm bấy lâu nay.

Như một thói quen, tôi nhẹ nhàng cầm máy quay lên và cho nó vào chế độ hoạt động. Tôi ngắm khung hình cho chuẩn rồi đặt yên vị chiếc máy quay gần đĩa rau sống với điệu bộ thản nhiên như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Đó là một cách ngụy trang để phục vụ điện ảnh mà người ta thường gọi cách này bằng hai từ kém nghệ thuật hơn là “quay lén”. Cách này khá hiệu quả. Hai đứa trẻ bắt đầu ăn mà không chú tâm đến tôi.

Bối cảnh tương đối yên tĩnh. Ánh sáng vừa đủ. Mọi cử chỉ hành động của hai đứa trẻ hiện lên trong khung hình một cách chân thực và sống động. Người anh nêm gia vị cho bát phở rồi đẩy sang cho người em ăn trước. Người em ăn một miếng nhỏ rồi đẩy bát phở lại cho người anh. Lần lượt và đều đặn. Có thể nhìn thấy sau mỗi lần chuyển lượt trong mắt hai đứa trẻ ánh lên một sự thòm thèm, nhưng sự thòm thèm được chế ngự bởi sự nhường nhịn đầy cao thượng. Chúng chắc đói lắm! Chúng ăn ngon lành đến nỗi tôi thấy chạnh lòng và tự hỏi, đã bao giờ tôi ăn một bát phở ngon lành như thế bên cạnh người thân của mình chưa. Hồi nhỏ tôi thường bỏ bữa, lang thang, và hờn trách mẹ tôi vì sao tôi không có bố. Đã bao lần mẹ tôi khóc trong bữa cơm vì tôi, và vì niềm đau sâu thẳm trong mẹ mà tôi không thể nào hiểu hết được.

Tôi bị lạc mất vài giây suy tưởng trước khi trở về đúng guồng quay trong tâm thế của một đạo diễn. Hai đứa trẻ vẫn tiếp tục ăn. Rồi một nụ cười chợt bừng tỉnh trong lòng tôi, reo vui như giọt nắng chiếu qua khe cửa sổ. Đó là nụ cười của người em khi người anh bị sặc do ăn phải miếng ớt. Nụ cười chỉ thoáng qua, hàm răng lô nhô xỉn màu của người em cũng không đẹp lắm đâu nhưng nụ cười ấy mang vẻ hồn hậu và sáng trong của một đứa trẻ. Phải, khoảnh khắc của một đứa trẻ ngây thơ không vướng bận ưu phiền. Đến lúc này, phở đã hết, người em bưng bát nước dùng lên húp sì sụp. Những gì còn sót lại trong bát phở ấy được người em thưởng thức một cách triệt để. Ăn xong, hai anh em trông có vẻ khoan khoái và tươi tỉnh hơn. Còn tôi khi xem lại đoạn phim thì ngập tràn cảm xúc. Trong tôi bỗng nảy ra một ý nghĩ sẽ phỏng vấn hai đứa trẻ và tặng cho chúng một thứ gì đó. Tiếc là muộn mất rồi, hai đứa trẻ đã đi lúc nào không hay. Tôi lặng lẽ trở về nhà để hoàn thành nốt bộ phim của mình. Cảm giác hối tiếc vì bỏ quên một điều quan trọng nhất.

Trong một giấc mơ, tôi ngồi thu mình trên một mô đất nhỏ, nhìn xa xăm về những cánh diều của đám trẻ đang nô đùa dưới bãi cỏ. Những cánh diều như những ước mơ nhỏ nhoi chao lượn trên bầu trời. Đang suy tư, bỗng nhiên có hai đứa trẻ cầm hai chiếc diều giấy đuôi dài lướt thướt đi đến chỗ tôi. Người anh hớn hở nói:

“Ê! Ra kia thả diều không mày?”.

“Tụi nó không cho tao chơi vì tao không có bố!” - Tôi rầu rĩ trả lời.

“Bọn tao cũng không còn bố mẹ! Tụi mình đi thả diều với nhau cũng được” - Người em nhe hàm răng lô nhô cười nói.

Tôi đi theo hai đứa trẻ thả diều ở một góc riêng, gần bờ sông. Hai con diều nhỏ xíu chấp chới nô đùa giữa khoảng trời trong vắt. Chúng tôi buộc dây diều vào hai bụi cây rồi chơi trò đuổi bắt. Những tiếng cười vang lên rộn rã cả bờ sông. Tiếng cười tắt hẳn khi diều của người em bỗng đứt dây. Người em đứng trân trân nhìn con diều bay đi tít tắp. Hình như nó đang khóc mà không rơi nước mắt. Người anh đưa bàn tay trái chỉ còn bốn ngón nắm lấy tay người em, rồi ngậm ngùi nói với tôi:

“Không chơi nữa! Tụi tao phải đi đây!”.

“Đi đâu?” - Tôi hỏi.

Người em đưa ánh mắt trong veo mà thăm thẳm nỗi buồn nhìn tôi và nói:

“Đi kiếm tiền để ăn một bát phở!”.

Tôi choàng tỉnh giấc. Mồ hôi vã ra ướt hết áo. Trái tim vẫn còn đang rung động mãnh liệt. Hai đứa trẻ trong bộ phim của tôi giờ đang ở đâu? Ra sao? Tôi bồn chồn tự hỏi. Trời vẫn chưa sáng. Hai cánh diều, những tiếng cười, bàn tay bốn ngón, đôi mắt trong veo... cứ chập chờn ám ảnh trong đêm.

Hôm sau, tôi đi lòng vòng các phố phường ở Hà Nội với hy vọng được gặp lại hai đứa trẻ. Giữa thành phố hơn bảy triệu dân, tìm hai đứa trẻ lang thang gần như mò kim đáy bể. Có thể mất một ngày, hai ngày... và còn nhiều hơn thế nữa.

Gần một tháng trôi qua, một buổi sáng bầu trời u ám, tôi ngỡ ngàng khi gặp người anh trong quán phở cũ. Gương mặt người anh hiện lên sự buồn thương và tang tóc. Người em đâu? Trên bàn, có chiếc mũ đỏ nhăn nhúm mà người em đã từng đội. Một bát phở còn nghi ngút khói được đặt sang bên chiếc mũ ấy.

“Sao em không ăn?” - Tôi hỏi.

“Bát này... của thằng Tí” - Người anh ngước lên nhìn tôi, ấp úng.

“Thế Tí đâu rồi?” - Tôi hỏi tiếp.

Người anh ngạc nhiên vì câu hỏi khẩn thiết và sự lo lắng trong mắt tôi, một người lạ. Nó thở dài:

“Thằng Tí bị tai nạn giao thông chết rồi - Hôm nay là tuần đầu của nó!”.

Bàng hoàng. Cảm giác buốt lạnh chạy dọc sống lưng tôi. Thằng Tí, một đứa trẻ còi cọc, có đôi mắt trong veo và nụ cười tươi sáng được mường tượng trong đầu tôi. Thằng bé cười khanh khách và nâng tôi dậy khi tôi bị ngã, lúc nô đùa trong một giấc mơ. Thằng bé mất rồi! Cánh diều đã đứt dây và bay đi mãi mãi. Bát phở trên bàn là dành cho đứa trẻ bất hạnh ấy trong lần cúng tuần đầu. Thằng bé có nhận được không?

Tôi cố kìm nén cho nước mắt khỏi trào ra. Người anh chăm chăm nhìn tôi, nhìn vào khóe mắt ngấn nước của một người xa lạ. Nó bối rối và lại chìm vào nỗi buồn vô hạn. Tôi cố trấn tĩnh để gọi hai bát phở và bắt đầu câu chuyện của mình. Tôi kể cho nó về một bộ phim có hai đứa trẻ mà tôi đã từng quay; rồi hai đứa trẻ ấy đi vào giấc mơ của tôi, nô đùa, cười nói như thế nào tôi đều kể hết. Nó chỉ im lặng lắng nghe. Tôi có thể cảm nhận được những xúc cảm nhen lên trong đôi mắt nó. Một đôi mắt to, hai mí lớn, ánh nhìn khắc khoải.

“Thằng Tí thích ăn phở lắm! Thằng Tí bảo phải để dành thật nhiều tiền để khi nào mỗi đứa ăn hẳn một bát phở. Vậy mà thằng Tí bị ô-tô cán vào khi trên đường về chỗ ngủ”. Nó rưng rưng nước mắt kể lại.

Tôi ngỏ lời khuyên nó vào một trại trẻ mồ côi (một trại trẻ mà tôi đã từng đến phỏng vấn để viết báo). Nó lắc đầu từ chối vì cho rằng, nó đủ lớn để không phải nhận sự thương hại của mọi người. Đối diện với một đứa trẻ, tôi thấy mình nhỏ bé và yếu đuối nhường nào. Nó lặng lẽ bỏ đi, gửi lại cho tôi ánh nhìn kiên định. Xót xa trông theo bóng dáng nó đến khi khuất hẳn cuối con đường, tôi tưởng tượng đến một cánh diều nhỏ xíu đang chao nghiêng trên bầu trời, liệu sẽ chắp cánh ước mơ hay bay về đâu...

Hôm diễn ra lễ công bố kết quả cuộc thi, trong khi bộ phim của tôi được trao giải nhất thì tôi đang trở về những nẻo đường quê mà tuổi thơ tôi đã đi qua. Đối diện với những gì tôi đã từng sợ hãi. Thả một con diều. Gặp vài người bạn. Rồi ăn bữa cơm chiều ấm cúng bên mẹ... Cuộc sống vẫn cứ thế trôi, tĩnh lặng và ồn ào. Trong thâm tâm, tôi tự nhủ phải ghi vào những thước phim của mình những xúc cảm vô hình ẩn sâu trong vẻ bình dị. Nhiều khi mọi thứ quanh ta nghe nhìn không được, mà phải cảm nhận bằng trái tim và thấu hiểu bằng tâm hồn nữa.

Truyện ngắn Trần Thái 

May all Living Beings always live happily!
May they free from enmity
May they all share the blessings
Springing from the good that I have done!                
Admire Admire 



Reply