ĐỘC GIÁC PHẬT TRUYỆN
#1
Rainbow 
ĐỘC GIÁC TRUYỆN

Từ Sớ Giải Kinh Tê Ngưu
Khaggavisāṇasutta
Việt dịch: TK GIÁC NGUYÊN




LỜI DẪN

ĐỘC GIÁC PHẬT


Không nhờ ai khai thị, cũng không khai thị cho ai, các Ngài tự ngộ và suốt đời tịch cư ẩn trú…
Hiểu rất sâu, sống rất nhiều, nhưng nói rất ít

Tình thương cho đời vẫn vô hạn nhưng không tự gánh lấy sứ mạng một đấng Đạo Sư nào cả
Không vì Ghét đời hay Thương mình, suốt đời im lặng và cô độc đến đi…

Đó là chân dung của Phật Độc Giác!
Đó là hành trình giác ngộ của một số Độc Giác Phật quá khứ.

Từ những hình ảnh hết sức đời thường, các Ngài đã có được những khám phá phi thường, từ trăm nỗi nhiêu khê đã tìm ra một kiếp đời tự tại, từ những giọt nước mắt hệ lụy đã tìm ra nụ cười giải thoát, dựa trên bản chất tương đối của vạn pháp để thực hiện những đánh đổi thật tuyệt vời… Bằng vào cái gì để các Ngài có được những hành trình rất ư thần thánh đó?

Đây chính là điểm nóng của Độc Giác Truyện mà là một vấn đề đòi hỏi ở chúng ta một chút trăn trở…

Độc Giác Truyện chỉ đưa ta đến ven rừng chân núi, còn có tìm được trụ xứ của cao nhân hay không, đó là trách nhiệm của mỗi chúng ta.

Chúng ta không thể tìm thấy chư Phật Độc Giác khi chỉ đọc Độc Giác Truyện bằng lý tưởng của Lưu Thần, Nguyễn Triệu.
Chúng ta phải biết lắng tâm để đọc Độc Giác Truyện như Sử (Vasudeva) của Hermann Hesse đã biết lắng nghe để học hỏi dòng sông.

Nếu nhờ thế mà Vệ Sử hiểu được dòng sông muốn Nói gì thì có lẽ cũng nhờ vậy chúng ta sẽ biết được chư Phật Độc Giác đã THẤY gì…

Bửu Đức ngày 30.5.1991
Dịch giả
Giác Nguyên.
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#2
Mục Lục


Lời dẫn


1. Giã từ vũ khí
2. Gửi tình lại cho đời
3. Chia tay phiền lụy
4. Đi tìm tự tại
5. Rời nẻo nhiêu khê
6. Bỏ phiền lại sau lưng
7. Tiễn đưa khách trọ
8. Mây trời muôn hướng
8. Bỏ rừng nhân tâm
9. Vẫy tay phù du
10. Tuy hai vẫn một – Tuy một vẫn hai
11. Bể vòng tử sanh
12. Của đời xin trả cho đời
13. Tất cả cho một lần chiến thắng
14. Khoái lạc nguy hiểm
15. Dấn bước vào trở lực
16. Hành trình vào bể dâu
17. Hai thoát ly cho một giải thoát
18. Tình đời sao tệ
19. Hổ luôn lánh hồ
20. Giọt nước là đại dương
21. Bỏ thau lấy vàng
22. Sự đô như hí
23. Tất cả cho thức ngộ
24. Bận tâm để không bận tâm
25. Tự thắng viết thắng
26. Một tỉnh thức thần thánh
27. Cư trần bất nhiễm trần
28. Trong sợ hãi đi tìm vô úy
29. Sự thành thân thoái
30. Bỏ đời đen bạc
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#3
1. GIÃ TỪ VŨ KHÍ


"35. Sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ
Aheṭhayaṃ aññataramhi tesaṃ
Na puttamiccheyya kuto sahāyaṃ
Eko care khaggavisāṇakappo"

35. Ðối với các hữu tình,
Từ bỏ gậy và trượng,
Chớ làm hại một ai
Trong chúng hữu tình ấy.
Con trai không ước muốn,
Còn nói gì bạn bè,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.

(HT Thích Minh Châu dịch)


"Từ bỏ đao trượng đối với các chúng sanh, không nhiễu hại ai và cũng chẳng ái luyến ai dù con cái hay bè bạn, hãy độc hành như một tê ngưu"


DUYÊN SỰ:

Dưới thời Đức Phật Kassapa có một vị tỳ khưu trì hạnh ẩn lâm sống trong rừng sâu suốt hai mươi năm để bổ túc pháp độ cho chí nguyện Độc Giác của mình. Sau khi mệnh chung, vị này sanh về thiện giới một thời gian khá lâu rồi lại sanh xuống cõi người làm con của Đức vua Bārāṇassī.

Từ lúc mang thai vị này, hoàng hậu Bārāṇasī được chăm sóc cẩn như một thiên hậu. Lúc lọt lòng mẹ, hoàng tử xinh đẹp chẳng khác một hòn bảo thạch khéo dồi, sáng chói và đầy đặn. Vua Bārāṇassī thương con lắm, ông đã cắt đặt 66 cô bảo mẫu nuôi nấng hoàng tử một cách kỹ lưỡng. Năm 16 tuổi, hoàng tử đã được phụ vương chính thức nhường ngôi cho làm vua cai cả lãnh thổ Bārāṇāsī mênh mông với hơn hai muôn thành phố trù mật. Trong kinh ghi rằng vương quốc Bārāṇasī lúc đó bao gồm toàn cõi Diêm Phù Đề và các vị vua lớn nhỏ trong đó đều là chư hầu của hoàng triều Bārāṇasī. Sau khi lên ngôi kế vị vua cha, hoàng tử lấy đế hiệu là Brahmadatta.

Tương truyền rằng vua Brahmadatta này rất giàu có, bất cứ người vật nào trong tay ông cũng không dưới hai muôn: hai muôn tòa lâu đài, hai muôn ngựa quý, hai muôn bảo tượng, hai muôn ngự tọa, hai muôn cỗ xe, hai muôn binh lính ngự lâm quân, hai muôn cung nữ và đến hai muôn triều thần.

Với chừng đó sản nghiệp và sức mạnh, vua Brahmadatta không say đắm hưởng thụ như bao vị đế vương khác. Do túc duyên giải thoát cao dày, dù trong hình thức cư sĩ, vua đã chứng đại ngũ thông bát định giữa bao thứ khoái lạc. Cảm thấy nhàm chán đời sống bận rộn của một đấng đứng đầu trăm họ nhưng không thể rời bỏ cung đình ra đi một cách vội vã, nên vua chỉ giao hết việc triều chính cho một vị Đại thần rồi vào sống tịnh cư trong một lâu đài biệt lập để an hưởng thiền lạc.

Cả nửa tháng trời không thấy mặt vua, Hoàng hậu Bāraṇāsī hỏi các quan. Biết chồng không còn màng gì đến dục lạc thế tục, Hoàng hậu nói với quan nhiếp chánh:

- Đã thay vua trông coi triều đình quốc sự thì ông cũng phải thay ngài chăm sóc ta chứ.

Sau ba lần kiên quyết từ chối, quan nhiếp chính chấp nhận lời đề nghị của hoàng hậu. Nàng còn trẻ và nhan sắc kiều diễm nên chẳng bao lâu sau, quan nhiếp chính đã mê nàng như điếu đổ. Hai người công khai đi lại với nhau, chẳng kể gì đến thể thống triều đình hay lời đàm tiếu dị nghị của mọi người. Đã vậy, càng lúc quan nhiếp chính càng tỏ ra ngang tàng như một hoàng đế chính thức đương triều.

Không thể làm ngơ trước sự kiện đó, các triều thần đã vào tâu lại với vua Brahmadatta mọi việc. Mấy lần họ vào gặp, vua vẫn không tỏ thái độ gì, ông dửng dưng như không. Sau khi tận mắt thấy quan nhiếp chính đang tư thông với hoàng hậu, vua bèn cho triệu tập quần thần lại hỏi cách giải quyết. Các quan tâu nên gia hình nặng nề hoặc tịch biên gia sản của quan nhiếp chính nhưng vua không nỡ làm thế, ông chỉ ra lệnh trục xuất quan nhiếp chính ra khỏi vương quốc và cho phép mang theo tất cả những gì sở hữu.

Bỏ vua Bārāṇasī ra đi, quan nhiếp chính lập tức đến đầu phục một vị vua xứ láng giềng và được thu dụng ngay. Thế rồi, nhân một cơ hội thuận tiện, gã phản thần này gợi ý với vua bản địa việc đánh chiếm Bārāṇasī. Vốn rất e ngại trước sức hùng cường của triều đình Bārāṇasī nên vị vua này đã tỏ ý không chấp thuận. Sau nhiều lần được gã phản thần khích dụ, ông ta đồng ý nhưng cũng thận trọng cho người sang Bārāṇasī dò xét trước tình hình.

Biết vua Bārāṇasī là một bậc hiền vương đức độ, không ưa chuyện binh đao, vị vua láng giềng an tâm kéo quân sang vây hãm các thành phố của Bārāṇasī rồi gửi chiến thư cho vua Brahmadatta.

Trước tình hình đó, các quan vào gặp vua Brahmadatta để bàn cách đối phó. Hầu hết triều đình đều chủ trương động binh, nhưng một lần nữa vua lại thể hiện đức tính từ bi của mình, ông nói:

- Trẫm không muốn xảy ra chiến tranh. Đánh nhau là phải giết chóc, trẫm không thể làm điều đó được đâu.

Quân giặc ngoài thành mỗi lúc một hung hăng hơn, các quan Bārāṇasī lại vào gặp vua để xin được xuất binh. Để đáp lại lòng ái quốc của họ, lần này vua Brahmadatta tỏ ra tích cực hơn trong việc giữ thành nhưng vẫn là đường lối khoan hòa:

- Có lẽ đã tới lúc chúng ta phải cho họ hiểu rằng không phải Bārāṇasī bất lực nhưng các khanh nên nhớ là cố gắng tối đa để tránh đổ máu. Chỉ có vậy trẫm mới bằng lòng thân chinh.

Sau khi hội thảo chớp nhoáng, mộ phương án độc đáo, các triều thần trình lên vua để hỏi ý. Thấy đó là một chiến thuật  chẳng những không gây đổ máu mà lại có nhiều khả năng đối phó với quân địch nên vua Brahmadatta lập tức đồng ý. Lệnh vua ban ra, quân tướng Bārāṇasī chuẩn bị sẵn sàng.

Đêm hôm ấy, trời tối đen như mực, cả doanh trại quân giặc đang ngủ say bởi chúng yên chí rằng chỉ trong nội nhật ngày mai, kinh thành Bārāṇasī sẽ bị triệu hạ, làm gì được chứ thứ vua như Brahmadatta nhu nhược, nhút nhát. Ngay lúc đó, cổng thành bật mở, một đoàn quân lặng lẽ tiến vào trại giặc. Người ngựa đều cất lạc ngậm thẻ nên đêm vẫn yên lặng. Đức vua Brahmadatta trực tiếp điều quân trong trận này.

Bước tới tận chỗ vua láng giềng đang nằm ngủ, vua Bārāṇasī phát ngay khẩu lệnh ứng chiến. Bên mình vua lúc đó có mặt đông đủ các viên tùy tướng thân tín, chỉ trong nháy mắt, khắp cả trại giặc inh ỏi những tiếng la hét và rực sáng như ban ngày. Vua tôi xứ láng giềng kinh hoàng tháo chạy trối chết. Họ không hiểu tại sao cả một đội quân hùng hậu với đầy đèn đuốc như binh lực của Bārāṇasī lại có thể vào tận bên trong quân doanh của họ mà không bị phát hiện. Họ có biết đâu rằng mỗi người lính Bārāṇasī đều cầm theo một cái nồi đậy kín, trong đó là một cái đèn thắp sẵn. Khi lệnh vua vừa truyền ra là tất cả binh lính đều nhất loạt lấy đèn ra khỏi nồi và thế là cả trại giặc sáng rực. Thử hỏi với một sự bất ngờ như vậy ai lại không kinh hồn tán đởm và điều làm cho đoàn quân xâm lăng ngạc nhiên hơn nữa là không có ai nhớ được là mình có bị tấn công bằng vũ khí hay không. Hình như đám người xuất quỷ nhập thần kia chỉ biết đốt đèn và la hét.

Nhưng vị vua láng giềng và các mưu sĩ của ông thì rất hiểu. Họ biết rằng vương quốc mà họ muốn xâm lăng chính là xứ sở của một vị đại vương có lòng nhân từ cao siêu như trời bể. Họ biết vua Brahmadatta vừa tha chết cho họ chỉ vì ông không muốn nhìn thấy một giọt máu nào rơi xuống trên lãnh thổ của ông. Xúc động và hối hận đầy lòng, sau một đêm dài thao thức, nhà vua láng giềng đem hết binh lính đến gặp vua Brahmadatta xin quy hàng. Thấy vị vua láng giềng quỳ gối trên đất, Bārāṇasī đã hỏi Ngài chứng đạt thượng pháp bằng đạo lộ nào. Đức Phật Độc Giác thuyết giảng tổng quát cho họ về án xứ Từ tâm và Thiền quán, rồi ngâm lên bài kệ cảm hứng:


- "Từ bỏ đao trượng đối với tất cả chúng sanh, không nhiễu hại ai và cũng chẳng ái luyến ai dù con cái hay bè bạn, ta độc hành như một tê ngưu"

Tập sớ giải thích rằng tiếng "độc hành" ở đây ám chỉ cho cuộc sống xuất gia không nhà cửa, chư Phật Độc Giác luôn có khuynh hướng viễn ly quần chúng, không ưa tìm bè bạn; các Ngài là những vị không tầm cầu tham ái (nataṇhādutiyakā – không đánh bạn với ái), hoàn toàn thoát ly phiền não, chứng ngộ Độc Giác Trí (tự mình chứng ngộ và cũng không đủ sức độ cho ai chứng ngộ), tách ly đời sống thế tục và chỉ đi - đứng - nằm - ngồi một mình (sinh hoạt độc lập). Đó là những ý nghĩa của tiếng Độc Hành trong bài kinh này.

Nói về triều thần Bārāṇasī khi thấy vua của mình đã trở thành Phật Độc Giác, biết Ngài không thể trở về sống ở hoàng cung, nên họ lo lắng hỏi:

- Thế bây giờ, Ngài sẽ ngụ ở nơi nào ạ?

Đức Phật Độc Giác quán xét biết rằng chư Phật Độc Giác luôn sống trên núi Gandhamādana trong dãy Tuyết Sơn, nên sau khi nói cho triều thần biết chỗ ngụ của mình, Ngài đã bay về đó.

Tại đây, trên núi Gandhamādana có một truyền thống đặc biệt là cứ mỗi khi có một vị Phật Độc Giác nào vừa mới giác ngộ đi đến cư ngụ thì các vị Phật Độc Giác đã sống trước ở đó đều tụ họp lại vấn an và chúc mừng. Khi được các vị hỏi về quá trình tu chứng, Phật Độc Giác Brahmadatta đã ngâm lên bài kệ tâm đắc nhất mà mình đã hứng khởi lúc mới chứng ngộ.


[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#4
Giã từ vũ khí


Sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ
Aheṭhayaṃ aññataramhi tesaṃ
Na puttamiccheyya kuto sahāyaṃ
Eko care khaggavisāṇakappo

“Từ bỏ đao trượng đối với các chúng sanh, không nhiễu hại ai và cũng chẳng ái luyến ai dù con cái hay bè bạn, hãy độc hành như một tê ngưu”

DUYÊN SỰ:
Dưới thời Đức Phật Kassapa có một vị tỳ khưu trì hạnh ẩn lâm sống trong rừng sâu suốt hai mươi năm để bổ túc pháp độ cho chí nguyện Độc Giác của mình. Sau khi mệnh chung, vị này sanh về thiện giới một thời gian khá lâu rồi lại sanh xuống cõi người làm con của Đức vua Bārāṇassī.

Từ lúc mang thai vị này, hoàng hậu Bārāṇasī được chăm sóc cẩn thận như một thiên hậu. Lúc lọt lòng mẹ, hoàng tử xinh đẹp chẳng khác một hòn bảo thạch khéo dồi, sáng chói và đầy đặn. Vua Bārāṇassī thương con lắm, ông đã cắt đặt 66 cô bảo mẫu nuôi nấng hoàng tử một cách kỹ lưỡng. Năm 16 tuổi, hoàng tử đã được phụ vương chính thức nhường ngôi cho làm vua cai trị cả lãnh thổ Bārāṇāsī mênh mông với hơn hai muôn thành phố trù mật.

 Trong kinh ghi rằng vương quốc Bārāṇasī lúc đó bao gồm toàn cõi Diêm Phù Đề và các vị vua lớn nhỏ trong đó đều là chư hầu của hoàng triều Bārāṇasī. Sau khi lên ngôi kế vị vua cha, hoàng tử lấy đế hiệu là Brahmadatta.

Tương truyền rằng vua Brahmadatta này rất giàu có, bất cứ người vật nào trong tay ông cũng không dưới hai muôn: hai muôn tòa lâu đài, hai muôn ngựa quý, hai muôn bảo tượng, hai muôn ngự tọa, hai muôn cỗ xe, hai muôn binh lính ngự lâm quân, hai muôn cung nữ và đến hai muôn triều thần.

Với chừng đó sản nghiệp và sức mạnh, vua Brahmadatta không say đắm hưởng thụ như bao vị đế vương khác. Do túc duyên giải thoát cao dày, dù trong hình thức cư sĩ, vua đã chứng đại ngũ thông bát định giữa bao thứ khoái lạc. Cảm thấy nhàm chán đời sống bận rộn của một đấng đứng đầu trăm họ nhưng không thể rời bỏ cung đình ra đi một cách vội vã, nên vua chỉ giao hết việc triều chính cho một vị Đại thần rồi vào sống tịnh cư trong một lâu đài biệt lập để an hưởng thiền lạc.

Cả nửa tháng trời không thấy mặt vua, Hoàng hậu Bāraṇāsī hỏi các quan. Biết chồng không còn màng gì đến dục lạc thế tục, Hoàng hậu nói với quan nhiếp chánh:

– Đã thay vua trông coi triều đình quốc sự thì ông cũng phải thay ngài chăm sóc ta chứ.

Sau ba lần kiên quyết từ chối, quan nhiếp chính chấp nhận lời đề nghị của hoàng hậu. Nàng còn trẻ và nhan sắc kiều diễm nên chẳng bao lâu sau, quan nhiếp chính đã mê nàng như điếu đổ. Hai người công khai đi lại với nhau, chẳng kể gì đến thể thống triều đình hay lời đàm tiếu dị nghị của mọi người. Đã vậy, càng lúc quan nhiếp chính càng tỏ ra ngang tàng như một hoàng đế chính thức đương triều.

Không thể làm ngơ trước sự kiện đó, các triều thần đã vào tâu lại với vua Brahmadatta mọi việc. Mấy lần họ vào gặp, vua vẫn không tỏ thái độ gì, ông dửng dưng như không. Sau cùng khi tận mắt thấy quan nhiếp chính đang tư thông với hoàng hậu, vua bèn cho triệu tập quần thần lại hỏi cách giải quyết. Các quan tâu nên gia hình nặng nề hoặc tịch biên gia sản của quan nhiếp chính nhưng vua không nỡ làm thế, ông chỉ ra lệnh trục xuất quan nhiếp chính ra khỏi vương quốc và cho phép mang theo tất cả những gì sở hữu.

Bỏ vua Bārāṇasī ra đi, quan nhiếp chính lập tức đến đầu phục một vị vua xứ láng giềng và được thu dụng ngay. Thế rồi, nhân một cơ hội thuận tiện, gã phản thần này gợi ý với vua bản địa việc đánh chiếm Bārāṇasī. Vốn rất e ngại trước sức hùng cường của triều đình Bārāṇasī nên vị vua này đã tỏ ý không chấp thuận. Sau nhiều lần được gã phản thần khích dụ, ông ta đồng ý nhưng cũng thận trọng cho người sang Bārāṇasī dò xét trước tình hình.

Biết vua Bārāṇasī là một bậc hiền vương đức độ, không ưa chuyện binh đao, vị vua láng giềng an tâm kéo quân sang vây hãm các thành phố của Bārāṇasī rồi gửi chiến thư cho vua Brahmadatta.

Trước tình hình đó, các quan vào gặp vua Brahmadatta để bàn cách đối phó. Hầu hết triều đình đều chủ trương động binh, nhưng một lần nữa vua lại thể hiện đức tính từ bi của mình, ông nói:

– Trẫm không muốn xảy ra chiến tranh. Đánh nhau là phải giết chóc, trẫm không thể làm điều đó được đâu.

Quân giặc ngoài thành mỗi lúc một hung hăng hơn, các quan Bārāṇasī lại vào gặp vua để xin được xuất binh. Để đáp lại lòng ái quốc của họ, lần này vua Brahmadatta tỏ ra tích cực hơn trong việc giữ thành nhưng vẫn là đường lối khoan hòa:

– Có lẽ đã tới lúc chúng ta phải cho họ hiểu rằng không phải Bārāṇasī bất lực nhưng các khanh nên nhớ là cố gắng tối đa để tránh đổ máu. Chỉ có vậy trẫm mới bằng lòng thân chinh.

Sau khi hội thảo chớp nhoáng, mộ phương án độc đáo, các triều thần trình lên vua để hỏi ý. Thấy đó là một chiến thuật chẳng những không gây đổ máu mà lại có nhiều khả năng đối phó với quân địch nên vua Brahmadatta lập tức đồng ý. Lệnh vua ban ra, quân tướng Bārāṇasī chuẩn bị sẵn sàng.

Đêm hôm ấy, trời tối đen như mực, cả doanh trại quân giặc đang ngủ say bởi chúng yên chí rằng chỉ trong nội nhật ngày mai, kinh thành Bārāṇasī sẽ bị triệu hạ, làm gì được chứ thứ vua như Brahmadatta nhu nhược, nhút nhát. Ngay lúc đó, cổng thành bật mở, một đoàn quân lặng lẽ tiến vào trại giặc. Người ngựa đều cất lạc ngậm thẻ nên đêm vẫn yên lặng. Đức vua Brahmadatta trực tiếp điều quân trong trận này.

Bước tới tận chỗ vua láng giềng đang nằm ngủ, vua Bārāṇasī phát ngay khẩu lệnh ứng chiến. Bên mình vua lúc đó có mặt đông đủ các viên tùy tướng thân tín, chỉ trong nháy mắt, khắp cả trại giặc inh ỏi những tiếng la hét và rực sáng như ban ngày. Vua tôi xứ láng giềng kinh hoàng tháo chạy trối chết. Họ không hiểu tại sao cả một đội quân hùng hậu với đầy đèn đuốc như binh lực của Bārāṇasī lại có thể vào tận bên trong quân doanh của họ mà không bị phát hiện. Họ có biết đâu rằng mỗi người lính Bārāṇasī đều cầm theo một cái nồi đậy kín, trong đó là một cái đèn thắp sẵn. Khi lệnh vua vừa truyền ra là tất cả binh lính đều nhất loạt lấy đèn ra khỏi nồi và thế là cả trại giặc sáng rực. Thử hỏi với một sự bất ngờ như vậy ai lại không kinh hồn tán đởm và điều làm cho đoàn quân xâm lăng ngạc nhiên hơn nữa là không có ai nhớ được là mình có bị tấn công bằng vũ khí hay không. Hình như đám người xuất quỷ nhập thần kia chỉ biết đốt đèn và la hét.

Nhưng vị vua láng giềng và các mưu sĩ của ông thì rất hiểu. Họ biết rằng vương quốc mà họ muốn xâm lăng chính là xứ sở của một vị đại vương có lòng nhân từ cao siêu như trời bể. Họ biết vua Brahmadatta vừa tha chết cho họ chỉ vì ông không muốn nhìn thấy một giọt máu nào rơi xuống trên lãnh thổ của ông. Xúc động và hối hận đầy lòng, sau một đêm dài thao thức, nhà vua láng giềng đem hết binh lính đến gặp vua Brahmadatta xin quy hàng. Thấy vị vua láng giềng quỳ gối trên đất, vua Brahmaddata bồi hồi xúc động. Đêm qua với tư cách là kẻ thù với nhau, ông còn tha thứ được huống nữa là bây giờ kẻ đối lập đã ăn năn. Vua Brahmadattta đưa tay đỡ vị vua láng giềng đứng lên và mỉm cười thông cảm. Vị vua láng giềng mừng lắm, ông xin được cai trị một kinh thành nằm gần Bārāṇasī nhất để có dịp gần gũi với vua Brahmadatta. Ông không thể rời xa con người bao dung này được nữa, Hôm qua ông đem sức mạnh đi đánh chiếm người nhưng đã thất bại, để rồi hôm nay người ta dùng tình thương chinh phục ông mà lại thành công.

Thế rồi, giữa chốn ba quân, vua Brahmadatta đưa mắt nhìn quanh và hồi tưởng lại mọi việc. Ông chợt thấy hoan hỷ dào dạt và chỉ trong thoáng chốc, với sự tinh thực của thiền định, ông suy tư về cuộc đời, về vạn pháp hữu vi, rồi thánh trí Độc Giác khởi lên, vua Brahmadatta trở thành vị Phật Độc Giác.

Lúc bấy giờ triều thần Bārāṇasī nhắc vua hồi cung để còn tưởng thưởng quân tướng, nhưng vua Brahmadatta lúc này đã là một đức Phật Độc Giác nên Ngài đã trả lời:
– Ta không phải là vua nữa, ta là một vị Phật Độc Giác,

Triều thần ngạc nhiên nhìn Ngài rồi đồng tỏ vẻ ái ngại:
– Chư Phật Độc Giác không vị nào có hình thức như Đại Vương đâu ạ.

– Nghĩa là phải như thế nào?

– Thưa, các Ngài có đủ y bát cùng các vật dụng của hàng xuất gia và tóc của chư Phật Độc Giác thì dài lắm chỉ khoảng hai ngón tay thôi ạ.

Ngay lúc ấy, vua Brahmadatta đưa tay lên sờ đầu mình, và trong nháy mắt, hình thức cư sĩ biến mất để Ngài thật sự trở thành một đức Phật Độc Giác với đầy đủ hình thức và nghi hạnh của một bậc xuất gia thâm niên. Rồi đức Phật Độc Giác thị hiện thần lực bay lên khỏi lưng voi và ngồi trên hư không nhìn xuống ba quân tướng sĩ. Trước hình ảnh đó, tất cả những người hiện diện đồng loạt quỳ xuống đảnh lễ đức Phật Độc Giác và các quan Bārāṇasī đã hỏi 

Ngài chứng đạt thượng pháp bằng đạo lộ nào. Đức Phật Độc Giác thuyết giảng tổng quát cho họ về án xứ Từ tâm và Thiền quán, rồi ngâm lên bài kệ cảm hứng:


– “Từ bỏ đao trượng đối với tất cả chúng sanh, không nhiễu hại ai và cũng chẳng ái luyến ai dù con cái hay bè bạn, ta độc hành như một tê ngưu”

Tập sớ giải thích rằng tiếng “độc hành” ở đây ám chỉ cho cuộc sống xuất gia không nhà cửa, chư Phật Độc Giác luôn có khuynh hướng viễn ly quần chúng, không ưa tìm bè bạn; các Ngài là những vị không tầm cầu tham ái (nataṇhādutiyakā – không đánh bạn với ái), hoàn toàn thoát ly phiền não, chứng ngộ Độc Giác Trí (tự mình chứng ngộ và cũng không đủ sức độ cho ai chứng ngộ), tách ly đời sống thế tục và chỉ đi – đứng – nằm – ngồi một mình (sinh hoạt độc lập). Đó là những ý nghĩa của tiếng Độc Hành trong bài kinh này.

Nói về triều thần Bārāṇasī khi thấy vua của mình đã trở thành Phật Độc Giác, biết Ngài không thể trở về sống ở hoàng cung, nên họ lo lắng hỏi:
– Thế bây giờ, Ngài sẽ ngụ ở nơi nào ạ?

Đức Phật Độc Giác quán xét biết rằng chư Phật Độc Giác luôn sống trên núi Gandhamādana trong dãy Tuyết Sơn, nên sau khi nói cho triều thần biết chỗ ngụ của mình, Ngài đã bay về đó.

Tại đây, trên núi Gandhamādana có một truyền thống đặc biệt là cứ mỗi khi có một vị Phật Độc Giác nào vừa mới giác ngộ đi đến cư ngụ thì các vị Phật Độc Giác đã sống trước ở đó đều tụ họp lại vấn an và chúc mừng. Khi được các vị hỏi về quá trình tu chứng, Phật Độc Giác Brahmadatta đã ngâm lên bài kệ tâm đắc nhất mà mình đã hứng khởi lúc mới chứng ngộ.

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#5
CHIA TAY PHIỀN LỤY


37. Mitte suhajje anukampamāno
hāpeti atthaṃ paṭibaddhacitto,
etaṃ bhayaṃ santhave pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

Do lòng từ thương mến,
Ðối bạn bè thân hữu,
Mục đích bị bỏ quên,
Tâm tư bị buộc ràng,
Do thấy sợ hãi này,
Trong giao du mật thiết,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)


“Mãi lo quấn quít với bạn bè thì tự đánh mất lợi ích bản thân, thấy được nguy hiểm này trong tương giao, hãy độc hành như loài tê ngưu”


DUYÊN SỰ:

Câu kệ trên đây là lời cảm hứng của một vị Phật Độc Giác mà lúc còn cư sĩ đã là hoàng đế cai trị kinh thành Bārāṇasī

Vua Bārāṇasī ngày ấy là một đế vương kỳ lạ, ông khước từ mọi khoái lạc ngay từ ngai vàng của mình. Vua thích độc cư thiền định ở một biệt điện vắng vẻ hơn là xúng xính trong bộ vương phục với những ngọc đái kim bào rồi xuất hiện trước triều đình hay thần dân để mọi người trọng vọng. Và muốn được thật sự an tâm bỏ quên mọi chuyện, vua Bārāṇasī đã đem giao hết mọi việc nước cho bốn vị đại thần thay mình giám sát kèm theo một lời nhắn nhủ:

-Các khanh hãy giúp ta trông coi việc chính sự nhưng nhớ phải luôn sống và hành động đúng pháp.

Vua dặn sao thì dặn, bốn viên đại thần nhân lúc vua vắng mặt để thao túng khuynh loát triều ca. Sự việc mỗi lúc một tệ hại hơn, cuối cùng triều đình quyết định mời vua đích thân lâm triều để giải quyết. Bất đắc dĩ vua Bārāṇasī phải ngự triều. Nhưng rồi trong lúc vua đang bận lo xét xử tội trạng bốn vị đại thần thì bên ngoài dân chúng tụ tập đông đảo và la hét ầm ĩ. Họ hài tội và bêu riếu bốn vị quan nhiếp chính đủ điều: nào là tham nhũng, không công bằng, sâu dân mọt nước. Bị chói tai với mớ âm thanh hỗn độn đó, nhà vua cảm thấy mình bị phiền phức không thể chịu nổi, ông khó chịu dứt áo đứng dậy bước ra khỏi pháp đình để đi về biệt điện rồi ngồi xuống đó suy tư một mình:

-Giữa dục lạc của đời sống đế vương với sự tịnh lạc của nếp sống thiền định độc cư, ta phải chọn một trong hai thôi, không thể để hai cái cứ nhập nhằng lẫn nhau như thế này mãi…

Điều nên biết là vua Bārāṇasī trong đời sống bình nhật vốn là một vị đã chứng đạt sơ thiền, một cấp độ ly dục khá ổn định, nên đối với ông, dục lạc chỉ giống như một cây gai nhọn hay nói trên phương diện nào đó thì giống như một bãi nước bọt. Sự chọn lựa không mấy khó khăn, vua đã chấp nhận từ bỏ dục lạc. Và trong bước tiến tiếp đó, ông phát triển Chỉ Quán toàn triệt rồi chứng quả Độc Giác Phật.

Bỏ lại hoàng cung và cả kinh thành mà một thời trị vì, Đức Phật Độc Giác bay về núi Gandhamādāna với các vị đồng Phạm hạnh. Khi được hỏi về tiến trình tu chứng, Ngài đã ngâm lên bài kệ trên để trả lời, đồng thời cũng xem đó như lời cảm hứng tâm đắc nhất của mình.
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#6
GỬI TÌNH LẠI CHO ĐỜI


36. Saṃsaggajātassa bhavanti snehā
snehanvayaṃ dukkhamidaṃ pahoti,
ādīnavaṃ snehajaṃ pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.
Do thân cận giao thiệp,
Thân ái từ đấy sanh,
Tùy thuận theo thân ái,
Khổ này có thể sanh.
Nhìn thấy những nguy hại,
Do thân ái sanh khởi,
Hãy sống riêng một mình,
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)


“Từ sự tương giao quan hệ sẽ nảy sinh tình cảm. Từ tình cảm sẽ nảy sanh đau khổ. Nhìn thấy được mặt trái của tình cảm, hãy sống độc hành như loài tê ngưu.”


DUYÊN SỰ:

Thuở xưa ở Bārāṇasī có một nhà vua rất mực hiền minh đức độ. Lần đó, hoàng hậu của vua mang thai rồi sanh ra một hoàng tử. Mới vừa từ cõi Phạm thiên sanh xuống nên từ lúc còn ẵm ngửa, hoàng tử đã tỏ ra khác người với một bản tính kỳ lạ là không chịu cho bất cứ người phụ nữ nào chạm đến thân thể mình. Cứ mỗi lần nhìn thấy một cung nữ là hoàng tử lại kêu khóc bực bội. Thậm chí muốn cho hoàng tử bú, để cả hoàng hậu hay các bảo mẫu cũng đều phải ăn mặc như đàn ông, nếu không như vậy thì hoàng tử thà nhịn sữa chứ không chịu bú. Đã vậy chỉ cần hơi hám nữ giới thôi cũng đủ khiến cho hoàng tử khóc la, có dỗ dành mấy cũng chẳng nín. Thấy hoàng tử lạ lùng như vậy nên ai cũng gọi chàng là Anitthigandhakumara (vị hoàng tử ghét mùi đàn bà).

Khi hoàng tử được mười sáu tuổi, vua Bārāṇasī nghĩ tới việc lập bề gia thất cho con để duy trì dòng dõi nhưng biết hoàng tử vốn không màng gì tới nữ nhân nên vua vô cùng khổ tâm và cuối cùng ông nhất quyết nhờ cậy một vị quan đại thần tìm mọi cách đánh thức tình cảm giới tính ở hoàng tử. Tuân lệnh vua, vị đại thần bèn dẫn một đoàn nữ nhạc tới gần cung điện của hoàng tử rồi tổ chức ca xang múa hát.

Nghe ồn ào bên ngoài, hoàng tử Anitthigandha hỏi các người hầu cận xem âm thanh gì thế. Khi được trả lời là lời ca tiếng hát của đám nữ nhạc, hoàng tử nổi giận. Chàng khiển trách vị quan đại thần một cách gay gắt rồi truyền lệh đuổi đám nữ nhạc đi ra chỗ khác. Thấy hoàng tử vẫn một mực có thành kiến với phụ nữ, mà như thế thì có nguy cơ thiếu người nối dõi tông đường, lần này vua cho người sang mời hoàng hậu – tức mẹ của hoàng tử để nhờ bà lay chuyển tâm hồn chàng bởi xưa nay dù không ưa gì hàng phụ nữ nhưng đối với cá nhân hoàng hậu thì hoàng tử vẫn luôn luôn nể vì.

Trước những lời giãi bày phân tích và rồi cả những giọt nước mắt của bà mẹ, hoàng tử Anitthigandha cảm thấy không thể giữ mãi thái độ cứng nhắc của mình được nữa, chàng cho thợ lấy vàng ròng đúc nên một bức tượng đàn bà thật đẹp rồi nói với mọi người:

-Chỉ khi nào gặp được một cô nàng kiều diễm như vầy thì Anitthigandha này mới lấy làm vợ, còn hàng nữ nhân ngoài ra thì xin được từ chối hết cả vậy.
Để chiều con, vua Bārāṇasī truyền cho một nhóm đại thần đem bức tượng vàng kia đặt lên xe đưa đi khắp các quốc độ để tìm một mỹ nhân tương đương như thế đem về cho hoàng tử.

Đi đã nhiều nơi, nhưng đám triều thần Bārāṇasī vẫn không tìm được một người đẹp nào cho vừa ý bởi bức tượng vàng của hoàng tử đặt vàng đẹp quá, ai nhìn thấy cũng trầm trồ khen ngợi. Mà các triều thần Bārāṇasī thì không cần tới những lời trầm trồ đó, họ muốn tìm thấy một nhan sắc đủ làm lu mờ nét đẹp bức tượng, hay ít nữa cũng tương đương. Theo các triều thần Bārāṇasī thì ở đâu còn có người khen bức tượng vàng là đẹp thì ở đó không có mỹ nhân tuyệt sắc cho nên những tiếng trầm trồ chỉ làm họ thất vọng.

Thế rồi đám triều đình Bārāṇasī đã không hoài công khi đặt chân tới kinh thành Sagala của vương quốc Maddha. Ở đây người ta không mấy kẻ trầm trồ bức tượng vàng kia nữa, bởi nàng công chúa của đức vua bản xứ còn đẹp hơn thế nhiều. Cái đẹp vô hồn của bức tượng vàng chỉ làm họ gợi nhớ tới nhan sắc thiên kiều bá mị của công chúa. Nghe mọi người tán tụng về nàng, đám triều thần Bārāṇasī mừng lắm, họ vội vã tìm vào hoàng cung gặp mặt đức vua rồi trình bày mọi chuyện.

Thấy con gái cưng của mình được một xứ hùng cường như Bārāṇasī đến xin cầu hôn, cộng thêm câu chuyện về vị hoàng tử khó tính kia, vua Madda bội phần đẹp dạ, ít gì ông cũng có thể hãnh diện là mình đã sanh được một đứa con gái xứng đáng mệnh danh là vưu vật trên đời. Vua đã đồng ý gả công chúa cho hoàng tử Bārāṇasī.

Rồi các triều thần Bārāṇasī tìm mọi cách nhắn tin về cho vua mình hay là đã tìm được vợ cho hoàng tử và hỏi họ xin ý kiến về nghi lễ rước dâu. Được vua trả lời là hãy đem công chúa xứ Maddha về thẳng kinh thành Bārāṇasī, các triều thần lập tức sửa soạn xe kiệu rồi mời công chúa lên đường.

Nói về hoàng tử Anitthigandha khi nghe tin là đã tìm thấy một mỹ nhân xinh đẹp như bức tượng mà mình đã ra kiểu với tất cả những đòi hỏi tinh vi nhất thì tự nhiên chàng nghe lòng xao xuyến lạ. Một thứ tâm trạng không có tên gọi. Tự nhiên đi bận lòng vớ vẩn một người dưng không quen biết và chưa hề gặp mặt. Tâm hồn khô cháy của hoàng tử như mới được đón nhận một cơn mưa trong đó đã bắt đầu vỡ mầm, nảy mộng những chồi học của rung cảm. Như đối với một mối tình đầu, hoàng tử Anitthigandha đem tất cả khả năng tưởng tượng vốn rất phong phú của mình để mơ mộng và tô vẽ hình ảnh kẻ ý trung nhân. Một cuộc chuyển đổi mạnh mẽ vừa xảy ra trong tâm hồn hoàng tử. Từ thuở nhỏ, những năm tháng còn biết chán ghét đàn bà, hoàng tử chứng đạt sơ thiền và luôn xem đó như nguồn vốn sống tâm linh. Với mức độ ly dục đó, tâm hồn hoàng tử trong sáng và cao khiết như một ẩn sĩ. Thế nhưng bây giờ, tư tưởng về nàng công chúa xứ Maddha đã chi phối hoàng tử sâu sắc. Mà sự đổ vỡ ghê gớm nhất đã xảy ra là hoàng tử tự làm hoại thiền của mình. Cái tinh hoa đã bị đánh đổi bằng chút phù du.

Nhưng như một người say đắm sống mãnh liệt và quên mình bằng ảo giác, hoàng tử Anitthigandha vẫn không hề bận tâm là mình vừa đánh mất cái gì. Với hoàng tử lúc này chỉ còn là sự vùng dậy của một thứ tình cảm vừa tỉnh giác trong cái mà từ lâu chàng vẫn chán ghét. Chàng đã biêt yêu đàn bà dù đó là cội nguồn cho sự đổ nát vừa xảy ra trong tâm hồn mình.

Thế rồi cơn mơ tình ái của hoàng tử chưa được kéo dài bao lâu đã bị xé nát bằng một hung tin khủng khiếp: Do quá yếu đuối không thể chịu đựng nổi những nhọc nhằn trong cuộc đi đường dài, công chúa xứ Maddha đã qua đời ngay trên đường về Bārāṇasī.

Tin buồn đó bay về Bārāṇasī như một dữ kiện khủng khiếp nhất, đức vua lo âu, triều thần dân chúng ai cũng e ngại cho hoàng tử, cho cả vận mệnh của hoàng triều. Mà người bị kích xúc nhiều nhất dĩ nhiên vẫn là hoàng tử Anitthigandha. Lần đầu tiên trong đời mình, chàng biết thế nào là yêu và cũng là lần đầu chàng nếm trải được vị đắng nghiệt ngã của nó.

Nhưng ngoài ra những lúc xông pha trận mạc hay đối đầu kẻ thù, con chiến tượng còn có một thời điểm khác để phát huy toàn lực đó là lúc bị sa lầy hay sụp bẫy. Trong cơn đau vật vã của nội tâm, như một phản ứng mang tính bản năng của một con người có chiều sâu tư duy, hoàng tử Anitthigandha đột nhiên nhận diện được chính mình rõ ràng hơn bao giờ hết. Có phải chăng nỗi đau giằng xé kia đã làm chấn động đến tận đáy sâu tâm tưởng của chàng. Nếu như trước đây mấy hôm hìnhảnh về nàng công chúa xứ Maddha đã khơi dậy ở hoàng tử thứ tình cảm nam nữ thì hôm nay cái chết của nàng đã đánh thức ở hoàng tử một khả năng trí tuệ tiềm tàng. Giữa trăm ngàn nhức buốt của nỗi nhớ thương đau khổ, tự nhiên trong đầu hoàng tử nảy sinh một câu hỏi: “Sao ta lại đau khổ đến thế này nhỉ?”

Cứ thế, sau mỗi câu tự hỏi là một câu tự trả lời, hoàng tử lần lượt trầm tư về nguyên lý Duyên Khởi. Kết thúc của dòng tư duy đó, hoàng tử Anitthigandha chứng ngộ Độc Giác Trí và trở thành một đức Phật Độc Giác.

Vẫn nghĩ hoàng tử còn đang đau khổ cùng cực, quần thần tìm mọi cách an ủi và hứa hẹn với hy vọng là xoa dịu cho ngài nhưng họ đã được trả lời bằng một câu nói uyên áo:


-Ta đã là một đức Phât Độc Giác. Ta không còn gì buồn khổ nữa. Sự quan hệ hay tương giao sẽ gây tạo tình cảm, tình cảm chỉ gây tạo đau khổ, ý thức được điều đó, từ nay ta độc hành như một tê ngưu.

[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#7
ĐI TÌM TỰ TẠI

38.Vaṃso visālo va yathā visatto
puttesu dāresu ca yā apekhā,
vaṃsakaḷīro va asajjamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

Ai nhớ nghĩ chờ mong,
Ðối với con và vợ,
Người ấy bị buộc ràng,
Như cành tre rậm rạp,
Còn các ngọn tre cao,
Nào có gì buộc ràng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)


“Như một cây tre có nhiều cành lá dĩ nhiên là bị vướng vít, một người bị tình cảm vợ con chi phối thì cũng bị bận bịu vướng vít như cây tre kia vậy. Ai sống không bận bịu, trói buộc thì chẳng khác gì một măng tre tự do, có thể sống đơn độc như loài tê ngưu.”


DUYÊN SỰ:
Trong thời giáo pháp Đức Phật Kassapa có ba vị tỳ kheo tu tập thiền định rất ư tinh tiến. Họ là bạn thân với nhau trong suốt cuộc sống Phạm hạnh dài hai muôn năm. Sau khi mệnh chung, cả ba vị đều về sanh thiên giới hưởng phúc cả một thời gian dài rồi lại cùng tái sanh xuống cõi người. Một vị thì sanh vào làm hoàng tử của vua Bārāṇasī và hai vị còn lại đã sanh làm hoàng tử của một vương quốc biên địa. Hai hoàng tử nay lớn lên đi xuất gia trong rừng và trở thành hai Đức Phật Độc Giác.

20
Còn vị hoang tử ở Bārāṇasī thì được lên ngôi kế thừa vương vị của cha.

Một hôm, sau khi xả định, hai Đức Phật Độc Giác suy nghĩ về công hạnh nào đã tác thành Độc Giác Trí cho mình và hai vị đã quán xét thấy được tiền kiếp làm tỳ kheo dưới thời Phật Ca Diếp và biết mình còn một người bạn nữa hiện vẫn chưa làm tròn tâm nguyện giải thoát trong khi trước kia vẫn là một người sư huynh khả kính cho hai vị.

Thế rồi chọn một ngày thích hợp, hai Đức Phật Độc Giác đã từ Tuyết Sơn bay xuống kinh thành Bārāṇasī và vào thẳng vườn ngự uyển ngay lúc đức vu đương triều đang ngự du ở đó.

Nhìn thấy hai vị xuất gia lạ mặt đứng tại cổng vào ngự uyển với một phong thái cao nhã siêu phàm, đức vua chợt đem lòng kính mến và lập tức xuống voi đi tới gần chào hỏi:
-Chẳng hay hai vị là người ở đâu đến và có thể cho quả nhân được biết cao danh quý tánh?

-Chúng ta vẫn được gọi là những con người vô ngại đấy đại vương ạ.

Nghe câu trả lời lạ lùng như vậy, vua Bārāṇasī rất đỗi ngạc nhiên, ông nhìn hai vị lần nữa, rồi hỏi lại:
-Vô ngại, vô ngại nghĩa là sao thưa các vị?

Đưa mắt nhìn lên bụi tre trước mặt, một Đức Phật Độc Giác trả lời vua:
-Bụi tre này đầy những cành lá um tùm nên nếu có được đốn ngã xuống cũng khó mà vác đi được bởi nó có nhiều cái làm vướng vít. Đại vương cũng thế, ngài đang bị trói trăng hệ lụy vướng vít bận bịu với đủ thứ phiền toái nên không thể thong dong tự tại như chúng ta được. Chúng ta muốn đi đâu thì đi, bốn phương đều là trú xứ, khứ lai vô ngại, tự tại đến đi…
21

Nói rồi hai Đức Phật Độc Giác cùng bay lên hư không đi về núi Gandhamādāna. Ở khe Nandamūlaka, hai vị bay cho vua nhìn thấy đến tận chỗ ngụ.

Bị xúc động mãnh liệt trước hình ảnh đó, vua Bārāṇasī nhớ lại câu nói khi nãy của hai Đức Phật Độc Giác. Ông thấy mình như đang bị tù đày, xiềng xích. Phải, gia đình và vương nghiệp đã giam cầm làm ông vướng vít. Với ý hướng thoát ly mãnh liệt, vua Bārāṇasī phát triển chỉ Quán, chứng ngộ Độc Giác Tr1i, rồi bay về Gandhamādāna. Và lời nhắc nhở của hai vị Phật Độc Giác kia đã trở thành nội dung cho bài kệ cảm hứng của Ngài.
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#8
RỜI NẺO NHIÊU KHÊ
39. Migo araññamhi yathā abaddho
yenicchakaṃ gacchati gocarāya,
viññū naro seritaṃ pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.

39. Như nai trong núi rừng,
Không gì bị trói buộc,
Tự đi chỗ nó muốn
Ðể tìm kiếm thức ăn.
Như các bậc Hiền trí,
Thấy tự do giải thoát,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)
Như nai rừng sống không hệ lụy
Giữa sơn lâm, như ý ruổi giong
Xưa nay người trí thong dong
Như loài tê giác độc hành đơn thân


DUYÊN SỰ:

Câu kệ trên đây là lời cảm hứng của một Đức Phật Độc Giác mà sau đây là câu chuyện về Ngài:
Ngày xưa dưới thờp giáo pháp Đức Phật Ca Diếp, có một vị tỳ kheo tu hành tinh chuyên rất mực. Đến khi chết đi, vị này sanh lại làm một công tử con nhà triệu phú ở Bārāṇasī.

Trong cuộc sống có quá nhiều điều kiện vật chất của một gia đình giàu có, cậu công tử tự nhiên buông mình theo nếp sống trụy lạc trác táng. Cậu đã xâm phạm tiết hạnh của không biết bao nhiêu phụ nữ để rồi với ác nghiệp đó, cậu bị sanh xuống địa ngục. Từ địa ngục sanh lên làm người, cậu công tử ngày xưa bây giờ lại trở thành cô tiểu thư của một gia đình triệu phú. Thân nữ nhân chính do ảnh hưởng của nghiệp tà dâm đời trước của cô.

Vì quả xấu của nghiệp xưa chưa dứt hẳn trong lúc nằm ở bụng mẹ, cô tiểu thư cứ như một hòn than nóng. Bản thân cô bị nóng bức mà đến cả bà mẹ cũng có cảm giác như vậy. Cô tiểu thư chào đời như một cái gì khó chịu đối với mọi người. Ai cũng thấy chán ghét cô, từ người thân đến người dưng. Rồi cô cũng trưởng thành và cũng có chồng như bao cô gái khác.

Nhưng cô tiểu thư không được hạnh phúc với chồng. Chồng cô là một công tử triệu phú chẳng hiểu sao cũng thấy không thể yêu cô được. Họ sống chịu đựng nhau như một cực hình, mà cô tiểu thư có xấu gì cho cam, cô cũng chẳng phải thứ gái bọt bèo nghèo khổ. Thế mà cô vẫn cứ bị xem như một thứ của nợ.

Để tìm quên người vợ mà mình chẳng yêu tí nào, cậu công tử kia cứ thả mình vào những vòng tay đàn bà khác, kỹ nữ, gái điếm cũng mặc. Miễn sao đó không phải là cô vợ đáng chán của cậu.

Lần ấy, nhân một ngày lễ hội của thành phố, các thanh niên nam nữ ở Bārāṇasī dẫn nhau đi chơi dập dìu. Lễ hội kéo dài đến mấy ngày, dĩ nhiên không thể nằm lì ở nhà, cậu công tử cũng ra phố rong chơi và dẫn theo một nàng kỹ nữ. Nghe được việc ấy, cô tiểu thư buồn lắm. Đến khi chồng về, cô năn nỉ xin được cùng đi chơi vào ngày mai. Cậu công tử vốn chán vợ nên một mực tìm cách từ chối. Sau cùng thấy nàng đau khổ quá, cậu đồng ý.

Hộm sau, trang điểm cẩn thận, cô tiểu thư ngồi chờ chồng dẫn đi chơi. Nắng đã lên cao vẫn không thấy mặt công tử, cô tiểu thư gọi nữ tỳ vào hỏi thì mới hay chồng mình đã lẻn ra khỏi nhà từ sớm. Quá tuyệt vọng với sự phụ bạc của chồng, cô tiểu thư quyết định trở về với cha mẹ ruột. Sau khi đem hết tư trang chất lên hết lên xe, cô đánh ngựa đi và xe cô đã chạy ngang vườn ngự uyển của vua.


Buổi sáng hôm đó, trên núi Gandhamādāna có một Đức Phật Độc Giác vừa khởi xuất thiền Diệt. Theo truyền thống thánh nhân, ngài dùng thiên nhãn tìm xem người nào xứng đáng được mình tế độ sáng nay, bởi bất cứ công đức chi bất luận lớn nhỏ được thực hiện với một vị mới vừa xuất khỏi thiền Diệt đều đem lại đại công đức. Nhìn thấy cô tiểu thư bất hạnh kia xứng đáng với đặc ân đó, Đức Phật Độc Giác bèn sửa soạn y bát tề chỉnh rồi bay xuống ngự uyển, nơi cô tiểu thư nọ vừa đi tới.

Cảm thấy cực kỳ hoan hỷ trước nghi hạnh đặc thù của Đức Phật Độc Giác, cô tiểu thư vội xuống xe, bước đến đảnh lẽ Ngài rồi đem thực phẩm cùng mấy cái hoa sen dâng lên Ngài. Sau đó cô chắp tay phát nguyện:
-Bạch Ngài! Do phước báu này xincho con dù sinh ra ở kiếp nào cũng hãy được mọi người nâng niu thương mến như đối với hoa sen này vậy. Và vì nằm trong bụng mẹ là một điều đau khổ nên xin cho con kiếp nào cũng sanh ra trên hoa sen, từ hoa sen xuất hiện. Lời nguyện sau cùng là xin được làm nam nhân để tu tập đạo lộ giải thoát, đừng bao giờ phải mang thân nữ nhân hầu hạ người khác.

Đức Phật Độc Giác cầu chúc cho cô tiểu thư được toại nguyện điều mong ước rồi Ngài bay về núi.

Nói về gia đình nhà chồng của cô tiểu thư lẫn gia đình cha mẹ ruột của nàng tự nhiên hôm ấy cảm thấy nhớ thương nàng kỳ lạ, họ cho người đi rước nàng về để chăm sóc cẩn thận như một bà chúa. Và dù gì đi nữa, tất cả những ân cần đó vẫn không sao tẩy xóa được mặc cảm nữ nhân của cô tiểu thư. Nàng suốt đời nhất tâm cầu được thân nam giới.

Mãn kiếp nhân loại, cô tiểu thư sanh lên thiên giới và như lời nguyền năm xưa, cô tự hóa sanh thành một đóa sen lớn và trở thành một vị thiên tử có mỹ danh là Mahāpadumā (Đại liên tiên nữ). Từ thiên giới chết đi, vị thiên tử Mahāpadumā sanh xuống cõi người và cũng được sanh ra từ một đóa sen. Như một chút tinh hoa của đất trời, hài nhi trưởng thành với một phong cách khác phàm, và khi đủ trí khôn đã bỏ vào rừng sâu xuất gia tu hành, cuối cùng chứng quả Độc Giác và vị này đã chọn bai kệ trên làm lời cảm hứng của mình.
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#9
BỎ PHIỀN LẠI SAU LƯNG


40. Āmantanā hoti sahāyamajjhe
vāse ṭhāne gamane cārikāya,
anabhijjhitaṃ seritaṃ pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.
Giữa bạn bè thân hữu,
Bị gọi lên gọi xuống,
Tại chỗ ở trú xứ,
Hay trên đường bộ hành.
Thấy tự do giải thoát,
Không có gì tham luyến,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)


“Hễ còn bè bạn thì bất cứ chỗ nào cũng bị phiền phức bởi những phiếm luận dây dưa, kẻ nhận thức được những gì không thật sự cần thiết, hãy lên đường độc hành như loài tê ngưu”.


DUYÊN SỰ:
Vua Baranasi có một nhóm đại thần thân tín. Vua tôi xem nhau như bè bạn. Điều đó xem ra có nhiều cái hay nhưng đôi lúc cũng gây phiền phức cho vua không ít. Vì không muốn xử bạc ai nên đối với vị đại thần nào vua cũng chiều lòng để không người nào thấy mình là bị rẻ rúng. Mà vua thì dĩ nhiên chỉ có một. Một người không sao làm vui lòng hết mọi người trong một lúc và thế là biết bao chuyện rắc rối cứ xảy ra triền miên. Thôi thì đủ thứ ghen tỵ, mặc cảm, tự ái, dèm xiểm, cạnh khóe cứ hòa quyện vào nhau để tạo ra trong triều đình một không khí không thể chịu nổi.


Lần đó, nhân lúc vua đang ngồi một mình, một vị đại thần đến mời ông vào chỗ vắng để bàn chuyện cơ mật gì đó. Vua chưa ngồi được bao lâu thì một viên đại thần khác lại vào mời đi tuần du thành phố. Để chiều lòng, vua cũng lên voi ra phố. Ngang qua thượng uyển, một vị quan nằng nặc thỉnh vua vào vườn ngự để dạo cảnh còn một vị khác thì lại kiên quyết ngăn cản. Thấy cứ sống chiều người khác là một điều phiền toái, vua tuyên bố bỏ ngôi đi xuất gia để lại toàn bộ vương quốc cho đám đại thần mặc tình chia chác nhau.

Thế nhưng mọi việc vẫn chưa ổn thoả như vua nghĩ. Nhóm đại thần đầu triều không ai chịu nhường ai những phần lãnh thổ trù phú. Họ cãi vã, tranh giành, xung đột nhau, rồi cuối cùng dẫn nhau đi tìm đức vua lúc đó đã xuất gia để nhờ phân xử bởi dù gì họ vẫn cứ xem ông như một người cha.

Trước mặt vua, các vị đại thần chẳng nể nang gì nhau nữa, họ buộc tội nhau rồi công kích, vạch lỗi nhau thậm tệ. Cảm thấy mình bị quấy rầy nhiều quá, vua Baranasi ngán ngẩm: “Thật chẳng biết phải sống sao cho vừa lòng người, nhân tâm cứ trắc trở rối ren thế này thì chỉ còn có cách bỏ hết lại sau lưng để độc cư một mình”.

Thế rồi sau tư tưởng dứt khoát đó, vua Bārāṇasī đem khổ lòng yếm thế của mình vào một hướng tư duy khác. Ông thực chứng được bản chất của vạn pháp và trở thành một đức Phật Độc Giác. Rồi để nhắc lại nguồn động lực đã đưa mình ra khỏi dòng đời phiền luỵ, Ngài đã chọn bài kệ trên làm lời cảm hứng.
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#10
TIỄN ĐƯA KHÁCH TRỌ

41. Khiḍḍā ratī hoti sahāyamajjhe
puttesu ca vipulaṃ hoti pemaṃ,
piyavippayogañca jigucchamāno
eko care khaggavisāṇakappo.
Giữa bạn bè thân hữu,
Ưa thích, vui cười đùa,
Ðối với con, với cháu,
Ái luyến thật lớn thay,
Nhàm chán sự hệ lụy,
Với những người thân ái,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)


Có bạn bè phải mất thời gian cười đùa du hý, có con cái phải bận tâm yêu thương. Khi đã nhàm chán những hệ lụy trong tình cảm, hãy ra đi độc hành như loài tê ngưu”


DUYÊN SỰ:
Thuở xưa ở Bārāṇasī có một đức vua tên là Ekaputtikabrahmadatta. Vua chỉ có một hoàng tử duy nhất nên cưng chiều con rất mực. Vua ở đâu thì hoàng tử ở đó, hoàng tử ở đâu thì vua có ở đó. Hai cha con như bóng với hình không rời nhau một phút.

Hôm ấy, nhà vua uống rượu say mèm rồi tìm vào ngự uyển để nằm nghỉ. Do uống rượu nhiều quá, vua chẳng còn nhớ gì nữa và quên luôn cả hoàng tử. Thế rồi do một cơn bạo bệnh thình lình, hoàng tử qua đời ngay hôm đó, trong lúc vua còn mê man ở ngự uyển.

Biết vua rất thương con, triều thần bàn tìm cách cho vua biết hung tin ấy mà không để ông phải quá bi lụy đau khổ. Bởi có ai biết được điều gì xảy ra khi nhà vua biết tin đứa con trai duy nhất của mình đã chết thật đột ngột.

Một đêm trôi qua, nhà vua tỉnh rượu và thật tự nhiên, ông cho người mời hoàng tử vào gặp mặt. Suốt đêm qua hoàng tử không có trong tay ông. Ông nhớ lắm. Triều thần nhìn nhau ái ngại và cuối cùng họ phải cho vua biết hết sự thật.

Vua như không tin ở tai mình nữa, ông thấy trời đất quay cuồng trước mặt và trái tim quặn thắt. Nó đã chết rồi sao, mới hôm qua đây nó vẫn còn nắm tay ta, còn ăn uống vui cười. Vua đau đớn nhớ lại hình ảnh hoàng tử. Bất chợt, trong nỗi giằng xé khôn nguôi đó, một tia sáng xuất hiện trong nội tâm nhà vua:
-Do có cái này mới có cái kia, vạn pháp hữu vi do tương quan tương thuộc lẫn nhau mà có.

Thật tình cờ, vua khám phá toàn diện nguyên lý duyên sinh và ngay tại chỗ ngồi, trong chiếc long bào còn ướt đẫm nước mắt khóc con, vua đã trở thành một Đức Phật Độc Giác.

Và để đánh dấu phút giây giải thoát của mình. Ngài ngâm lên kệ ngôn trên.
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#11
MÂY TRỜI MUÔN HƯỚNG

42. Cātuddiso appaṭigho ca hoti
santussamāno itarītarena,
parissayānaṃ sahitā achambhī
eko care khaggavisāṇakappo.
42. Khắp cả bốn phương trời,
Không sân hận với ai,
Tự mình biết vừa đủ,
Với vật này vật khác,
Vững chịu các hiểm nguy,
Không run sợ dao động,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)

“Một con người hòa mình vào bốn phương trời đất, sống không hiềm hận xung đột và có thể bằng lòng với những gì có được, chấp nhận những gì thử thách chung quanh và với tinh thần vô úy dấn thân một mình như loài tê ngưu.”

DUYÊN SỰ

Trong thời giáo pháp của Đức Phật Kassapa có năm vị tỳ kheo rất thân thiết với nhau và cùng tu tập Phạm hạnh trong cả hai vạn năm. Bỏ thân nhân loại, năm vị sanh về cõi trời rồi lại sanh xuống cõi người để tiếp tục con đường bỏ dở.

Một trong số năm vị đã trở thành hoàng đế của kinh thành Bārāṇasī và bốn vị còn lại thì làm vua ở các vương quốc biên địa.

Thế rồi hạt giống bồ đề trong bốn vị vua biên địa đã tới lúc vỡ mầm, các vị bỏ vào Tuyết Lãnh sơn tu hành và đều chứng thành Độc Giác Phật. Một hôm, khi quán xét biết được rằng
31
mình vẫn còn gửi lại ở chợ đời một người bạn đường chí tiết, bốn vị cùng nhau bay xuống Bārāṇasī.

Nói về vua Bārāṇasī trong đêm trước đó, tự nhiên cứ cảm thấy nội tâm bàng hoàng, thảng thốt một cách vô cớ. Chỉ trong đêm ấy, ông đã ba lần nói mê và giật mình. Sáng ngày, vua cho mời vị giáo sĩ thân tín nhất vào kể chuyện mình đêm hôm rồi xin ý kiến. Quan giáo sĩ vì nhu cầu của nghề nghiệp nên tâu với vua rằng đó là điềm gở báo một tai họa khủng khiếp sắp đổ xuống cho vua và hoàng tộc, theo quan giáo sĩ thì muốn chận đứng tại họa đó chỉ còn có cách giết thú để hiến tế thần linh.

Quyền lợi của hoàng triều là trên hết nên một cuộc tế đàn lập tức được tổ chức trọng thể với hàng trăm con vật hy sinh đã cột sẵn bên dưới tế đàn để chờ tới giờ hành lễ.

Ngay buổi sáng hôm đó, bốn Đức Phật Độc Giác từ Tuyết Sơn bay xuống kinh thành Bārāṇasī vào đứng trước hoàng cung. Vua Bārāṇasī trông thấy các Ngài liền cung thỉnh vào cúng dường thực phẩm. Sau bữa ăn, vua lên tiếng hỏi thăm:

-Chư tôn đức có thể cho trẫm biết được đại danh?

-Này đại vương! Chúng tôi có biệt danh là những người của bốn phương!

-Xin lỗi, các ngài có thể giải nghĩa mỹ danh đó được không ạ?

-Sở dĩ chúng tôi chọn cho mình biệt danh đó là vì trong bốn phương trời đất bao la, chúng tôi vốn chẳng biết đến sự sợ hãi là gì cả, đại vương ạ!

-Thưa, làm sao chư vị lại có thể đạt đến tinh thần vô úy tuyệt vời đến thế được, trẫm thật tình muốn biết, xin các vị hoan hỷ cho biết.

-Nào có gì đâu, này đại vương! Chúng tôi vẫn luôn luôn hướng về tất cả mọi loài trong bốn phương bằng Tứ vô lượng tâm. Chúng tôi không biết gây sợ hãi nên cũng không biết sợ hãi.

Nói rồi bốn vị Phật Độc Giác từ biệt nhà vua và bay về trú xứ của mình.

Cuộc gặp gỡ với các vị đại thánh đã thật sự làm dao động tâm hồn đức vua Bārāṇasī. Ông suy nghĩ thật nhiều về những câu nói của các Ngài. Cuộc gặp gỡ đó đã dạy cho ông nhiều điều quá, ít nhất cũng là bài học về tình thương. Chỉ trong thoáng chốc, vua thấm thía sâu sắc cái bao la vô hạn của đức hiếu sinh và như để thể hiện sự hoán chuyển vĩ đại của nội tâm, vua ra lệnh phóng thích tất cả các thú vật hy sinh. Rồi trên nền tảng tư tưởng đó, vua Bārāṇasī lại tiếp tục chuyển hướng để phát triển tột cùng trí tuệ về bản chất tam tướng của vạn pháp hữu vi.

Vua đã chứng quả Độc Giác ngay sau đó và bỏ lại vương quốc sau lưng, Ngài bay về đại ngàn Tuyết Sơn.

Khi được các vị đồng Phạm hạnh hỏi về chánh trí tác chứng, Ngài đã ngâm lên bài kệ kinh trên để trả lời.
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#12
BỎ RỪNG NHÂN TÂM

43. Dussaṅgahā pabbajitāpi eke
atho gahaṭṭhā gharamāvasantā,
appossukko paraputtesu hutvā
eko care khaggavisāṇakappo.

43. Có số người xuất gia,
Chung sống thật khó khăn,
Cũng như các gia chủ,
Ở tại các cửa nhà,
Sống vô tư vô lự,
Giữa con cháu người khác,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)

“Người đời thật là khó chịu, hạng cư sĩ tại gia thì đã đành, đến cả một số người xuất gia cũng thế, thật khó mà thu phục. Thôi thì màng chi đến con cái người khác, hãy ra độc hành như loài tê ngưu.”

DUYÊN SỰ
Xưa, ở Bārāṇasī có một nhà vua tuy vẫn còn trẻ nhưng kém may mắn về tình duyên. Hoàng hậu của vua mất sớm khi chưa kịp có với ông một đứa con nào.

Một phần muốn vua quên được người cũ, một phần cũng vì vương nghiệp của hoàng triều, nên triều thần gợi ý vua tìm một hoàng hậu khác. Tuy không tha thiết với chuyện đó nhưng vì vị lòng tất cả, vua Bārāṇasī cũng miễn cưỡng đồng ý và cho các quan được quyền định liệu như ý. Nghĩa là họ tìm được ai thì vua sẽ chấp nhận người ấy.

34
Triều thần Bārāṇasī cho người đi khắp các quốc độ để tìm cho vua một mỹ nhân khả dĩ xứng đáng nhưng trước sau vẫn không thấy ai.

Lúc đó, một nhà vua láng giềng của Bārāṇasī vừa băng hà, để lại bà hoàng hậu trẻ đẹp đang có mang.

Thấy bà hoàng hậu láng giềng với vua mình có cùng hoàn cảnh, hy vọng cả hai sẽ dễ dàng cảm thông và bù đắp những trống vắng cho nhau, vả chăng hoàng hậu cũng là một người tài sắc, nên triều thần Bārāṇasī quyết định qua đó dò hỏi để xin cưới về cho vua Bārāṇasī.

Biết vua Bārāṇasī có thể là chỗ nương cho mình, hoàng hậu láng giềng rất bằng lòng nhưng lúc đầu nàng có vẻ ái ngại về tình trạng bụng mang dạ chửa của mình. Liệu vua Bārāṇasī có thể chấp nhận nàng trong lúc này hay không. Sau một phút đắn đo, hoàng hậu nói rõ việc ấy với triều thần Bārāṇasī để họ về thưa lại với vua.

Mọi việc diễn ra thật tốt đẹp, vua Bārāṇasī đã đồng ý và cho rước ngay hoàng hậu láng giềng về sống với mình, dĩ nhiên cũng trên cương vị chánh hậu.

Bào thai của hoàng hậu ngày một lớn dần và rồi nàng đã cho lọt lòng một hoàng tử thật dễ thương. Vua Bārāṇasī xem hoàng tử như con ruột của mình, ông cưng chiều và ẵm bồng hoàng tử luôn tay. Chẳng hiểu sao đám tùy thần của hoàng hậu lại tỏ ra không thích thái độ ấy của vua, họ tìm mọi cách để ngăn cách vua với hoàng tử, hay nói rõ hơn là để hai người không yêu thương nhau nữa.

Thời gian qua mau, hoàng tử dần dần khôn lớn. Một hôm, đám tùy thần của hoàng hậu tìm gặp riêng hoàng tử rồi kể lại hết sự thật cho hoàng tử biết chàng không phải con ruột của đức vua Bārāṇasī, phụ vương của chàng là nhà vua láng giềng đã băng hà, chồng trước của hoàng hậu.

Ngồi nghe từ đầu đến cuối câu chuyện, hoàng tử cảm thấy như có một cái gì đó đổ vỡ tan nát trong lòng. Chàng nghe chết
35
điếng cả người khi biết được rằng mình chỉ là một đứa trẻ mồ côi và người mà chàng vẫn nghĩ là cha ruột thật ra chỉ là một người xa lạ. Đầu óc non nớt của hoàng tử đã va chạm phải một thử thách quá sức chịu đựng và thật tự nhiên, nó trở nên băng giá cứng lạnh. Từ hôm đó, hoàng tử tỏ ra thờ ơ hờ hững với mọi người, kể cả đức vua Bārāṇasī, người vẫn dành cho hoàng tử thứ tình thương máu mủ.

Sự thay đổi đột ngột của hoàng tử đã khiến vua chú ý và lấy làm lạ, ngài tìm hiểu nguyên nhân. Hiểu ra mọi việc, vua nghe cay đắng làm sao. Ừ thì nó không là con ruột của mình đã có gì đâu, mình vẫn thương nó với cả chân tình kia mà. Nhưng vua biết là tất cả đều do những người lớn mà nội tâm vốn trắc trở dối gian chớ không phải do hoàng tử.

Chán ngán tình đời, vua nhất định bỏ ngôi đi tu. Đông đảo triều thần và dân chúng cũng đi xuất gia theo vua.

Lúc đầu thì cái gì cũng đẹp nhưng rồi sau đó, vua Bārāṇasī lại phải tiếp tục chịu đựng tất cả những phiền phức từ đám đồ chúng. Đời sống của một bậc xuất gia làm sao có thể đủ điều kiện vật chất để làm vừa lòng những người trọng vật chất. Những lần vua đem cho người này cái gì thì kẻ khác lại phiền trách đố kỵ, không cho cũng trách, cho ít cũng trách, và cho đồ xấu cũng trách.

Biết không thể cảm hóa được những tâm hồn quá ư hạn hẹp, vua thấy mình phải bỏ đi một lần nữa. Bận trước bỏ lại triều đình, bận này bỏ luôn những con người chỉ biết gây phiền lụy. Nhân một đêm tối trời, vua lặng lẽ thu xếp y bát rồi âm thầm trốn vào rừng sâu.

Tại đây, vua cảm thấy thật sự an ổn và thoải mái. Ông nỗ lực thiền định và cuối cùng chứng thành Độc Giác Phật. Để nói lên tâm trạng giải thoát của mình, ngài đã ngâm lên bài kệ trên.

Việt dịch: GIÁC NGUYÊN
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#13
VẪY TAY PHÙ DU

44. Oropayitvā gihī vyañjanāni
saṃsīnapatto yathā koviḷāro,
chetvāna vīro gihibandhanāni
eko care khaggavisāṇakappo.
44. Từ bỏ, để một bên,
Mọi biểu dương gia đình,
Như loại cây san hô,
Tước bỏ mọi lá cây,
Bậc anh hùng cắt đứt,
Mọi trói buộc gia đình.
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
-(HT Thích Minh Châu dịch)

“Sau khi vứt vỏ hết tất cả những gì thuộc về thế tục như cội cây đã rũ bỏ hết những lá, bậc đại hùng cắt đứt hệ lụy của chốn chợ đời và lên đường độc hành như loài tê ngưu”

DUYÊN SỰ
Thuở quá khứ, ở Bārāṇasī có một nhà vua tánh tình khoan hòa và rất chuộng nếp sống nhàn hạ. Vua yêu thiên nhiên, cũng như thích được thong dong.
Năm đó, vào tiết đầu hạ, vua ra nghỉ ngơi ở vườn ngự uyển. Thấy có một cội danh mộc cổ thụ xum xuê cành lá, vua thích lắm. Ông sai người dọn cho mình một chỗ nằm ngay dưới gốc cây đó.

Tháng sau, vua lại ra ngự uyển và lại cũng đến nằm nghỉ ở chỗ cũ. Lúc này cội cây đã ra hoa nên vua ra lệnh cho người giữ vườn phải chăm sóc cội cây nhiều hơn. Lúc đã chán, vua hồi cung nhưng vẫn còn nhớ hoài cội cổ thụ trong ngự uyển.
37
Đến cuối mùa hạ, vua lại xa giá ra chơi vườn ngự uyển và cũng như mấy lần trước, ông cho người đến dọn sẵn chỗ nằm cho mình dưới gốc cổ thụ kia. Nhưng đã là cuối mùa hạ nên hầu hết cây cối trong vườn ngự uyển đều trụi lá trơ cành, cả cội danh mộc được vua thích nhất cũng vậy. Biết tình trạng hiện tại của cội cổ thụ có thể làm vua thất vọng nhưng người giữ vườn vẫn sửa soạn gốc cây thật nghiêm chỉnh.

Vừa xuống xe ở cổng ngự uyển, nhà vua đi thẳng vào gốc vườn, nơi có cội danh một cổ thụ với hy vọng là sẽ được nằm xoải người dưới bóng mát của nó để quên hết mọi âu lo phiền lụy trên đời. Nhưng kìa, trước mắt vua chỉ còn là một thân cây khổng lồ với những cành nhánh khẳng khiu trông có vẻ tàn tạ chết chóc làm sao.

Nhìn dáng đứng cằn cỗi của cội cổ thụ, vua chợt nghe buồn vẩn vơ và một cái gì đó thật lạ lùng như vừa thức dậy trong nhà vua. Ông tự nhiên nghĩ tới kiếp người. Phải, về phương diện nào đó, cây với người chẳng khác gì nhau. Qua đi giai đoạn vùng dậy lớn mạnh, cả con người lẫn cội cây đều phải đi tới giai đoạn suy kiệt tàn tạ, một sự hiện hữu trong mệt mỏi, sẵn sàng cho một lần đổ gục, phân hóa, băng hoại…

Cội cây vô tình đã trở thành án xứ tuệ Quán cho vua Bārāṇasī. Ông chứng thành Độc Giác Phật ngay dưới gốc cây cổ thụ.

Thấy trời đã chiều, các quan mời vua về nghỉ, nhưng lúc này đức vuya đã là một vị Phật Độc Giác, Ngài nói với họ:
-Ta không còn là vua để hồi cung nữa, ta là một vị Phật Độc Giác, ta có núi rừng.

Nói rồi đức Phật Độc Giác ngâm lên kệ ngôn trên để xác định bản thân mình.

Việt dịch: GIÁC NGUYÊN
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#14
TUY HAI VẪN MỘT – TUY MỘT VẪN HAI

45. Sace labhetha nipakaṃ sahāyaṃ
saddhiṃ caraṃ sādhuvihāri dhīraṃ,
abhibhuyya sabbāni parissayāni
careyya tenattamano satīmā.
45. Nếu tìm được bạn lành,
Thận trọng và sáng suốt,
Bạn đồng hành chung sống,
Bạn thiện trú Hiền trí.
Cùng nhau đồng nhiếp phục,
Tất cả mọi hiểm nạn,
Hãy sống với bạn ấy,
Hoan hỷ, giữ chánh niệm.
(HT Thích Minh Châu dịch)

“Nếu tìm được một người bạn khéo biết tự bảo vệ, có thêm trú xứ thích hợp thì không chóng thì chầy ta cũng sẽ được như bạn”

DUYÊN SỰ:
Dưới thời giáo pháp Đức Phật Kassapa có hai vị tỳ kheo là bạn thân với nhau và cả hai đều tinh tiến trong tu tập. Khi mãn tuổi thọ, hai vị sanh lên thiên giới hưởng phúc rồi lại sạnh trở xuống cõi nhân loại. Vị lớn sanh vào làm hoàng tử của vua Bārāṇasī, còn vị nhỏ thì sanh làm con trai của quan giáo sĩ đại thần cũng trong triều đình Bārāṇasī.

Hai người cùng sanh ra một ngày và cùng là những người sinh trong hoàng thành, nên từ bé, hoàng tử với cậu công tử con quan đại thần đã có điều kiện đễ trở thành bạn thân vớinhau. Cậu công tử rất thông minh, luôn tỏ ra vượt xa người bạn hoàng tử của mình về nhiều mặt. Một hôm cậu nói với hoàng tử:
-Cậu à, trước sau gì tụi mình cũng kế thừa sự nghiệp của hai nhà. Cậu sẽ làm vua còn mình thì có lẽ cũng sẽ thay cha làm giáo sĩ đại thần. Cái đó đơn giản quá, theo mình nghĩ thì ngoài cái may mắn sẵn có, chúng ta cần tạo thêm cho mình một kiến thức hay tài nghệ nào đó để đáng mặt con nhà chứ.

Vốn nể phục sự thông tuệ của bạn, hoàng tử nghe theo cậu công tử. Cả hai rời hoàng thành ra đi để tìm thầy cầu học, môn gì cũng được miễn là mở mang kiến thức.

Thế rồi hai chàng trai trẻ đã đi tớimột ngôi làng xa xôi nằm cuối vương quốc. Ở đây họ cũng hòa mình vào với cuộc sống thôn dã và vẫn tiếp tục nuôi chí tầm sư cầu học. Hôm đó, có đông đảo các vị Phật Độc Giác từ Tuyết Sơn xuống làng khất thực. Đã quen với hình ảnh những bậc xuất gia khả kính đó, dân chúng trong làng rủ nhau phục vụ và cúng dường các Đức Phật một cách nhiệt thành và vui vẻ.

Lặng lẽ nhìn đám dân làng hiền hậu chăm sóc chư vị Độc Giác, hoàng tử và cậu công tử con quan đại thần tự nhiên có cùng suy nghĩ:
-Người ta không tiếc gì với các vị tu hành này chắc là do họ có một tài nghệ nào đó, hay là mình xin theo làm học trò học chắc hay đấy, biết đâu chẳng học được một cái gì cần thiết…

Nghĩ rồi, hai người bàn bạc với nhau và đến đảnh lễ chư Phật Độc Giác rồi cung kính nói:
-Nếu chúng con không lầm thì các ngài có một tài nghệ đặc biệt nào đó, các ngài có thể nhận hai đứa tụi con làm học trò được không ạ?

Thấy được túc duyên giải thoát của hai người trẻ tuổi đang đứng trước mặt, các đức Phật Độc Giác trả lời ngắn gọn:
-Bọn ta không nhận người cư sĩ làm môn đệ, muốn theo bọn ta để học thì phải xuất gia mới được.

Đang thiết tha cầu học, hoàng tử và cậu công tử lập tức chấp nhận ngay điều kiện đó của chư vị Độc Giác và cả hai đã được dẫn về Tuyết Sơn.

Sau khi dạy hai người cách sử dung y bát và uốn nắn oai nghi theo phẩm mạo xuất gia, chư Phật Độc Giác cho họ ở riêng mỗi người một chòi lá rồi dạy rằng:
-Muốn học thành tài thì trước hết phải biết sống độc cư. Hai người ráng đào luyện nội tâm sao cho thích thú được nếp sống cô độc một mình mà vẫn thấy vui. Đó là điều kiện tiên quyết phải nhớ lấy.

Nhờ trí tuệ sắc bén, chỉ trong một thời gian ngắn sống độc cư, cậu công tử đã chứng đạt thiền định. Trong khi đó đời sống cô độc chỉ làm cho hoàng tử mỗi lúc một buồn chán. Chàng cảm thấy hiu quạnh và không sao có được một tiến bộ nào về tinh thần. Thế rồi trong lúc chịu đựng không nổi sự lẻ loi đó, hoàng tử lại tìm sang người bạn công tử để trò chuyện và thường than buồn nản.

Khuyên nhắc, sách tấn hoàng tử mãi không được, cậu công tử sợ mình cứ tiếp tục bị quấy rầy nên lén bạn trốn vào rừng để có thời giờ thiền định.

Nói về hoàng tử, chẳng hiểu sao vẫn thấy buồn chán và theo thói quen, chàng lại nhớ đến công tử, muốn qua gặp bạn để có chỗ san sẻ. Đứng trước chòi lá vắng ngắt của công tử, hoàng tử chợt hiểu. Chàng quay về chỗ ngụ của mình, rồi cố gắng tập trung tất cả khả năng có được của bản thân để khám phá tận cùng sự an lạc trong cô độc và chàng đã thành công. Hoàng tử đã chứng thành Độc Giác Phật.

Nói về cậu công tử, sau khi trốn vào rừng tu tập cũng đã chứng quả Độc Giác như hoàng tử. Sau đó hai vị cùng gặp nhau trên Sơn lãnh Manosilā và bài kệ trên trở thành lời cảm hứng cho cả hai.

Sư Giác Nguyên dịch thuật. 
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply
#15
BỂ VÒNG TỬ SANH

48. Disvā suvaṇṇassa pabhassarāni
kammāraputtena suniṭṭhitāni,
saṅghaṭṭamānāni duve bhujasmiṃ
eko care khaggavisāṇakappo.

48. Thấy đồ trang sức vàng,
Lấp lánh và sáng chói,
Ðược con người thợ vàng,
Khéo làm, khéo tay làm,
Hai chúng chạm vào nhau,
Trên hai tay đeo chúng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
(HT Thích Minh Châu dịch)


“Chỉ cần hình ảnh hai vòng xuyến khua nhau trên một cổ tay cũng đủ để người trí lên đường độc hành như loài tê ngưu”

DUYÊN SỰ:
Ngày xưa, ở Bārāṇasī có một nhà vua nhân bữa nóng nực vào chơi trong vườn ngự uyển.

Lúc đó có một nàng ca kỹ đứng quạt hầu cho vua. Trên hay tay nàng đều có đeo vòng xuyến, bên này hai chiếc, bên kia chỉ một chiếc. Hai vòng xuyên nằm chung cứ khua nhau mãi tạo nên một thứ âm thanh vui tai. Và tự nhiên âm thanh đó đã khiến nhà vua nghĩ ngợi nhiều. Nhìn hai chiếc vòng, ông trầm ngâm:

-Trong cuộc sống vẫn thế, hễ còn chung đụng tiếp xúc thì phải có những xáo động phiền lụy. Nếu chỉ sống một mình thì có lẽ an tĩnh, thoải mái hơn.
Cứ nhìn nàng ca kỹ và đắm mình trong suy tư, vua quên hết mọi người chung quanh. Ánh mắt của vua đã khiến hoàng hậu hiểu lầm. Bà nghĩ rằng chồng mình đã phải lòng cô ca kỹ, nếu không thế sao họ lại nhìn nhau đắm đuối đến thế chứ. Tuân theo bản năng ích kỷ của nữ giới, hoàng hậu bảo cô ca kỹ đi chỗ khác để mình quạt hầu vua.

Trên tay hoàng hậu còn có nhiều xuyến vàng hơn cô ca kỹ nữa. Chúng khua nhau nhộn nhịp hơn và với âm lượng đó, sự chán nản của vua Bārāṇasī mỗi lúc một ứ đầy nội tâm. Tiếp nối sự yếm ố cao độ đó, tuệ quán được hình thành và cuối cùng nhà vua chứng quả Độc Giác Phật.
Nói về hoàng hậu, để ý thấy vua cứ nhìn vào đôi tay của mình không chớp mắt, bà nhớ lại ánh mắt khi nãy của vua lúc nhìn cô ca kỹ. Cộng ghép lại rồi suy diễn, hoàng hậu cho là bữa nay nhà vua đã trở nên lãng mạn và có lẽ ngài đang rất cần một đôi tay ngà ngọc nào đó. Đấng quân vương nào mà chẳng vậy. Yên chí mình đã suy luận đúng, hoàng hậu nép mình vào lòng vua âu yếm:

-Để thiếp xoa bóp cho đại vương một xíu nha!

Điều hoàng hậu chẳng ngờ trước được là bà bị đẩy ra một cách lạnh lùng, đầy vẻ từ khước và hoàng hậu lại càng sửng sốt khi nghe nhà vua buông một câu nói sắc lạnh:
-Bữa nay thì chẳng còn vua với chúa gì nữa!

Trước hình ảnh đó, triều thần cứ ngỡ hôm nay vợ chồng nhà vua cắn đắng, giận hờn gì nhau nên họ đồng quỳ xuống van xin nhà vua, và rồi họ lại cũng nhận được một câu trả lời tương tự:
-Hôm nay ta không còn là một ông vua nữa!

Sau câu nói đó, thật kỳ lạ, râu tóc của vua tự nhiên sạch sẽ và từ trong nháy mắt, ngài trở thành một đức Phật Độc Giác với đầy đủ y bát.

Thế rồi từ vườn ngự uyển, đức Phật Độc Giác bay về đại ngàn Tuyết Sơn và để nhắc lại cơ duyên chứng ngộ của mình, ngài ngâm lên bài kệ trên.


Việt dịch: Sư Giác Nguyên
[Image: with-love-smiley-emoticon.gif]
Reply