Tháng 4 và những mảnh đời
#16
(2021-04-08, 02:44 PM)Tuy duyen Wrote: người lính thì kiêu hùng
còn những người làm chính trị thì thủ đoạn, tham nhũng
chỉ tội nghiệp cho những quả phụ cô nhi

Dạ chính trị luôn có những nước cờ "dơ bẩn" để dành phần thắng vì lợi ích của đảng phái, tổ chức và cá nhân.  Trong khi những người lính họ đặt "tổ quốc-danh dự-trách nhiệm" lên hàng đầu.   Smiling-face-with-halo4
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#17
Đây là một bài Kỳ viết cũng rất lâu rồi gửi chú đọc cho vui.   Shy

...

30 tháng tư - Đứa con sau chiến tranh


Ngày cưới của mẹ

30 tháng 4 năm 1975...

Sài Gòn thất thủ, xác chết chất chồng, những sinh linh vô tội vất vưởng chưa biết đường siêu thoát. Kẻ khóc tang chồng, người tự sát, thây chạy dẫm lên nhau mà cố giữ lấy cái mạng đẫm máu đào. Tiếng máy bay gào thét, bom đạn trong từng giấc ngủ gục run sợ...

Ngày 2 tháng 6, 1975.

Mẹ từ giã cuộc sống của một tiểu thư đài các chuẩn bị du học bên Nhật. Giải phóng miền Nam, giấc mơ và bao sự chuẩn bị của mẹ tan thành mây khói như bao thiếu nữ đôi mươi thời ấy. Người yêu của mẹ đã cùng cành nguyệt quế đang tu nghiệp bên Mỹ không còn cơ hội trở về cùng mẹ xây đắp tòa lâu đài tình ái như đã hẹn ước, thuở nào mẹ còn là cô bé trong áo dài trắng Gia Long. Mẹ quẹt giọt nước mắt của tủi hờn, lòng thắt lại. Bố cầu hôn và mẹ nhận lời, cành nguyệt quế giờ đây chỉ còn là một kỷ niệm, dư âm một mối tình thơ mộng ngọt ngào. Đóa hoa hồng vàng bố rút từ trong ngực áo trao cho mẹ, sáng rực một khoảng trời nhuộm đỏ huyết người...

Ngày cưới của mẹ, chỉ có bàn thờ gia tiên..., vài phút nữa thôi Bố sẽ lên tàu ra khơi, bỏ lại nàng dâu mới còn chưa biết hai chữ vợ chồng.

Cả bọn đầu trâu mặt ngựa hùng hổ, sấn sổ, súng ống ập vào nhà, chúng bắt bố vì bố là sĩ quan của chế độ Cộng Hòa, bọn chúng gọi là "Ngụy".  Áo cưới của mẹ loang lổ ố vàng vì nước mắt.  Bố đi tù cải tạo khi ngón tay gầy của mẹ còn chưa đeo được chiếc nhẫn trăm năm.

Ba năm dài đăng đẳng, mẹ vượt suối băng rừng thăm nuôi bố, tới những nơi rừng sâu nước độc, sống bằng bo bo và cháo với muối... gạo nấu tan thành nước cháo nuôi được nhiều cái bao tử cồn cào quằn quại hơn.

Bà ngoại bị bắt đi kinh tế mới vì bị liệt vào hàng "Tư bản", nhà cửa bị niêm phong, bọn côn đồ vơ vét tra tấn đến khi nào trước mắt chúng chỉ là một cái xác trong đống gạch vụn.

Bố được thả vài ngày.

Ngày 24 tháng 4

Tôi ra đời trong một toa xe lửa bỏ hoang, rồi mẹ cũng vào tới được bệnh viện Đức Chín, nơi mẹ nằm bệnh hết hơn 1 tháng trời. Con chuột con của mẹ sinh ra chỉ được có 1.3 kg, nhỏ xíu đỏ hỏn, nhưng đôi mắt đen láy sáng ngời trong đêm tháng 4. Mẹ kể lại, "trước khi mẹ biết mẹ có mang con, trong một đêm đang nằm ngủ thiếp đi trong toa xe lửa lót rơm làm đệm, mẹ đã mơ thấy Phật Bà Quan Âm, tay ôm một đứa bé rất kháu khỉnh và trao cho mẹ..." Mỗi lần nói tới đây, bàn tay gầy guộc dày dạn tháng năm đau khổ của mẹ vuốt tóc tôi..."Con là con Trời con Phật ban cho mẹ đấy..."

Bố tôi là thuyền trưởng, ông lái tàu đưa người vượt biên, nhưng vì tư lợi riêng và mạng sống của những tài công. Mạng của bố tôi đã bị bán rẻ mấy lần, lần nào cũng vậy, bố lại vào lao tù và bị tra tấn hành hạ đủ trò. Bọn ác ôn nhốt ông vào trong một cái thùng phi, bên ngoài chúng vừa lăn vừa lấy dùi gõ vào phát ra một âm thanh u oán rợn người của kẻ nằm bên trong. Sau những lần bị tra tấn như thế, 2 lỗ tai bố tôi đều bị thủng màn nhĩ, máu chảy ướt vai.

Cuối cùng mẹ và tôi cũng đáp cánh con diều hâu an toàn về mảnh đất bình yên này sau nhiều ngày lam lũ. Tôi không biết nhiều về cảnh tan thương khi mất nước, nhưng tôi nhìn ra được những mảnh đời khốn khổ qua từng vết sẹo in hằn trên làn da mượt mà như lụa của mẹ, qua những câu chuyện thương tâm mẹ kể lại, như lúc mẹ đang mang tôi trong bụng mà phải nhảy ghe đi thăm nuôi bố.

Giọt nước mắt của bố tôi rơi xuống hôm nay không phải vì lầm lỗi gây ra với mẹ, nhưng vì những gì chúng ta, những con người Việt Nam lưu lạc và cái giá chúng ta phải trả cho 2 chữ Tự Do thật quá đắt.

Việt Nam, "dù còn một ngày để sống, con vẫn là người con gái Việt Nam da vàng mang dòng máu của một dân tộc oai hùng qua bao nghìn năm đẫm máu."

Mẹ ơi, con xin nhớ mãi những lời này...

LTK
30 tháng 4, 2009



Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#18
(2021-04-08, 03:00 PM)Lục Tuyết Kỳ Wrote: Dạ chính trị luôn có những nước cờ "dơ bẩn" để dành phần thắng vì lợi ích của đảng phái, tổ chức và cá nhân.  Trong khi những người lính họ đặt "tổ quốc-danh dự-trách nhiệm" lên hàng đầu.   Smiling-face-with-halo4

Td có người thân từ hai bờ chiến tuyến, đúng vậy, người lính cả hai miền đều là những con tốt trong bàn cờ, luôn bị thí, khi cần thiết thì "nướng quân"

tạo nên biết bao nhiêu người vợ mất chồng, con mất cha
Reply
#19
cám ơn Kỳ nhiều cho Td biết được câu chuyện thương tâm trên, điều quan trọng nhất bây giờ là làm sao cho người già tâm an thân khoẻ, chắc Kỳ dư sức làm được 

Cheer
Reply
#20
Cách đây vài năm , anh coi chương trình Huynh Đệ Chi Binh trên đài SBTN , đã được nghe Tuyết Kỳ chia sẻ về câu chuyện của ông , rất xúc động .🌹
Reply
#21
(2021-04-08, 03:26 PM)Tuy duyen Wrote: cám ơn Kỳ nhiều cho Td biết được câu chuyện thương tâm trên, điều quan trọng nhất bây giờ là làm sao cho người già tâm an thân khoẻ, chắc Kỳ dư sức làm được 

Cheer

Dạ ông bà sống an nhàn khỏe mạnh ở phần cuối đời là đủ rồi thưa chú, mọi việc khác thì đã có bọn trẻ anh chị em tụi Kỳ làm và gánh vác.  Câu nói đáng quý, khích lệ nhất đối với mấy anh chị em Kỳ là được nghe câu nói, "bố mẹ yên tâm và ủng hộ việc làm của các con."   Smiling-face-with-halo4

@langdu:  Dạ cám ơn anh, cũng đã khá lâu rồi show đó là của chú Huy Phương.   Shy
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#22
LỜI TỎ TÌNH
PHạm Thành Châu

Sau khi chiếm được nam Việt Nam, năm 1975, Cộng Sản miền Bắc lùa số lớn công chức, quân nhân, đảng viên các đảng phái quốc gia, các nhà tu hành của các tôn giáo miền Nam, ra Bắc "khổ sai biệt xứ". Liên Xô có Xi-bê-ri thì Việt Nam có vùng núi non Tây Bắc khắc nghiệt, tuy không lạnh bằng Xi-bê-ri nhưng cũng đủ cho tù chết dần. Chết vì lạnh, vì đói, vì lao động kiệt sức và vì bịnh mà không có thuốc chữa.

Thông thường, tù phải tự đốn cây, cắt tranh làm lán cho mình ở, phải phá rừng, làm rẫy trồng trọt khoai củ nuôi thân. Nhà nước Cộng Sản không phải tốn phí nuôi tù cải tạo. Ban ngày tù vào rừng lao động, chiều về, vào lán, cán bộ coi tù khóa cửa lại, sáng hôm sau, mở cửa cho tù đi lao động tiếp.

Mấy năm đầu, tù chết quá nhiều nên chính quyền Cộng Sản Việt Nam cho thân nhân tù được gửi thuốc, áo quần (giới hạn) bằng đường bưu điện, về sau được thăm nuôi, nghĩa là được gặp mặt tù và tiếp tế lương thực, mùng mền, thuốc men...giúp tù chịu đựng, tiếp tục khai phá núi rừng và chết chậm hơn.
Trong chuyện nầy, tôi không kể về những sinh hoạt trong nhà tù mà kể về một anh bạn tù nằm cạnh tôi.

Anh Hùng, (nằm cạnh tôi) là người ít nói nhưng thường quan tâm đến người khác. Buổi tối, vào lán, thấy ai có vẻ trầm tư, suy nghĩ, là anh sà đến, nói huyên thuyên những chuyện trên trời dưới đất, chuyện nào cũng khiến người nghe bật cười. Thế là người bạn đó bớt buồn. Khi quay về, anh bảo tôi
- Khá rồi! Lo buồn làm mình suy sụp nhanh nhất.

Nhanh hơn cả bịnh hoạn. Chỉ cần mất ngủ vài ba đêm là không đủ sức gượng dậy.

Ai cũng biết điều đó, nhưng rất khó vượt qua, nhất là những người không được thăm nuôi, thậm chí không nhận được thư của thân nhân gửi vào.
Họ được gọi là "con bà xơ" (nữ tu), ý nói là con hoang trong trại mồ côi do các bà xơ (soeurs) nuôi dưỡng.

Các tù nhân con bà xơ nầy, mỗi khi thấy người nào ra thăm thân nhân, đem đồ tiếp tế vào là họ tránh chỗ khác, tìm những người cùng hoàn cảnh (không có thăm nuôi) mà chuyện trò, ăn mấy củ khoai, củ sắn với nhau. Được tặng thức ăn (thăm nuôi) họ có thể nhận một lần, lần sau thì từ chối.

- Xin cám ơn anh, tôi nhận thì không có gì tặng lại. Anh thông cảm cho tôi. Xin giữ lấy.

Trong tù, chỉ nghĩ đến miếng thịt, cây kẹo cũng đủ chảy nước miếng, vì cơ thể quá cần, nhưng nhận chút thực phẩm của bạn cho, lấy gì trả lại?

Tôi với anh Hùng, may mắn, được vợ thăm nuôi, dù cả năm chỉ được một lần và chỉ được một xách nhỏ. Một gói đường tán đen, gói cá khô, ít đậu và gạo, ít thuốc men, chỉ vậy thôi, vì tiền xe cộ đi hàng nghìn cây số (từ miền Nam ra núi rừng tây bắc), ăn uống dọc đường...hết cả!

Chúng tôi nghèo quá, nhưng vợ chồng gặp mặt nhau là may rồi. Tôi mừng, nhưng anh Hùng lại mừng hơn. Lần thăm nuôi nào anh cũng bảo.
- Đây là lần chót!

Thế nên, mỗi khi được gọi tên ra gặp thân nhân thì anh ngạc nhiên.
- Ai thăm tôi? Bà cụ thì quá yếu, không đi nổi!

Tôi cười bảo.
- Không phải vợ thì ai vào đây?

Theo vợ tôi kể, trong một lá thư gửi cho tôi, chỉ một lần vợ tôi cùng đi thăm nuôi với vợ anh Hùng mà hai người thành bạn thân. Cả hai đều ở trong một con hẻm vùng Đa Kao lại có chồng là bạn nằm cạnh nhau trong tù, cùng hoàn cảnh nên hai người đàn bà thương nhau, thường giúp đỡ nhau trong việc buôn bán mưu sinh.

Vì thấy anh vui hơi quá đáng mỗi khi được thăm nuôi nên tôi tò mò, cố tìm hiểu vì sao? Đúng ra, trong tù không nên biết chuyện gia đình người khác, nếu người đó không tự ý kể ra. Tôi không nhớ mình đã gợi ý cách nào khiến cho anh Hùng kể chuyện vợ con của anh.

Sau đây là câu chuyện theo lời Anh kể.
. . .

- Tôi là con trai độc nhất của bà cụ tôi. Đúng hơn, tôi là độc đinh của cả giòng họ nhà tôi. Nếu mẹ tôi không sinh ra tôi thì coi như họ Hoàng Đắc của tôi tuyệt tự.

Mẹ tôi săn sóc, chăm lo cho tôi, vì tình thương mà cũng vì trách nhiệm bên nhà chồng giao phó, là phải có người thừa tự, lo nhang khói, cúng giỗ để vong linh ông bà, tổ tiên khỏi bơ vơ, thành ma đói, ma khát, vất vưỡng trong cõi u minh.

Thế nên, khi tôi vừa xong tú tài là mẹ tôi lo tìm vợ cho tôi, vì bà sợ tôi vào quân đội, không biết chết lúc nào, sẽ không kịp có con trai để nối dõi tông đường.

Tôi thì không để ý đến chuyện đó. Ngay trong thời đi học, bạn bè yêu cô nầy, cô kia, tôi chỉ biết bài vở và các môn thể thao như đá banh, học võ...

Đến khi thi xong tú tài một, tôi tình nguyện đi sĩ quan Thủ Đức. Mẹ tôi, thời trẻ là đảng viên một đảng phái Quốc Gia, thông hiểu tình hình đất nước, bà cụ bảo tôi "Khi tổ quốc lâm nguy, làm con dân phải có bổn phận cùng với mọi người bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào.

Những tên trốn lính, sống chui, sống nhủi chỉ thêm nhục. Nhưng con phải lấy vợ, sinh con trai để sau nầy lo nhang khói cho ông bà, tổ tiên".

Mẹ tôi hỏi tôi có để ý cô nào chưa? Tôi thưa rằng "Mẹ xem cô nào vừa ý mẹ thì cưới cho con chứ con không có người yêu". Mẹ tôi đến nhà các bà bạn, ngắm nghía cô nầy, dọ hỏi cô kia, cuối cùng bà chọn được một cô.

Mẹ tôi nhờ người mai mối, gia đình cô ta đồng ý ngay. Để tôi được gặp cô gái, mẹ tôi mua một ít trái cây, sai tôi đem đến biếu gia đình cô ta.

Hình như cô gái không biết có sự xếp đặt giữa hai gia đình nên cô ta tiếp tôi rất hồn nhiên, vô tư như với bạn bè. Tôi thấy cô cũng xinh, hiền lành, vui vẻ nên về thưa với mẹ tôi rằng "Mẹ thấy vừa ý thì con xin vâng lời".

Quả thật, cô gái hoàn toàn không biết gì về việc cô sẽ là vợ tôi. Trước ngày tôi vào quân trường, hai gia đình muốn tổ chức lễ hỏi, cưới luôn một lần. Lúc đó, cô gái mới được thông báo. Cô ta phản đối quyết liệt. Hóa ra cô đã có người yêu.

Sau nầy tôi mới biết, người cô yêu là một nhà thơ. Anh chàng có dị tật ở chân nên anh ta khỏi phải đi lính. Nhờ thế anh ta yên tâm vui chơi và ăn bám gia đình.

Hết làm thơ đăng báo tán tỉnh cô nầy, cô kia thì la cà các quán cà phê, quán nhậu. Con gái mới lớn, cô nào cũng mơ mộng. Anh chàng thi sĩ nầy làm thơ ca tụng, tỏ tình với cô vợ tương lai của tôi thì chẳng khác gì bỏ bùa cô ta.

Cô ta yêu mê mệt chàng thi sĩ, quyết cùng chàng "Một túp lều tranh hai quả tim vàng". Bất ngờ cô bị ép phải lấy tôi làm chồng. Cô tuyên bố thẳng thừng với cha mẹ rằng cô ta sẽ trốn đi với chàng thi sĩ, nếu không trốn được mà bị ép duyên, cô ta sẽ uống thuốc rầy tự tử.

Gia đình cô ta hình như có xích mích gì đó với gia đình "nhà thơ" nên không muốn làm sui gia với họ. Thế nên bà mẹ mới bảo với con gái rằng
"Mầy muốn trốn theo trai thì cứ trốn đi, nhưng không được theo thằng chó chết của nhà đó. Nếu mầy theo nó, thì nhớ ba ngày sau quay về dự đám ma tao. Còn mầy muốn tự tử thì tao mua cho mầy chai thuốc rầy, nhưng uống nửa chai thôi, để một nửa cho tao. Nuôi mầy khôn lớn để mầy làm nhục cha mẹ..."

Lời tuyên bố đó khiến cô gái không còn lựa chọn nào khác. Thế nên, trước ngày cưới, cô ta hẹn tôi ra một quán nước.

Sáng đó, chúng tôi gặp nhau. Tôi ngồi đối diện. Quán vắng người nên cô ta chẳng cần giữ lời, tấn công tôi ngay "Tôi và anh không hề quen biết nhau, không thù oán nhau, tại sao anh cố tình phá vỡ tình yêu của chúng tôi?

Anh có biết, vợ chồng không có tình yêu mà sống với nhau là sống trong địa ngục không?"

Tôi trả lời "Đây là chuyện hai gia đình với nhau. Cô không bằng lòng lấy tôi thì cứ nói thẳng với ba mẹ cô hoặc nói với mẹ tôi.

Tôi không có ý kiến. Tôi không cần vợ, nhưng mẹ tôi cần có cháu nội trai để nối dõi tông đường.

Tôi sẽ vào quân đội. Chiến tranh rất ác liệt. Đời lính chiến, hành quân liên miên, cưới cô về, được bao nhiêu lần chúng ta gặp nhau? Để có con, còn khó hơn. Và có thể một ngày, một tuần, một tháng sau đó, tôi tử trận.

Cô sẽ thành quả phụ. Nhanh lắm. Tôi nói sự thật để cô đủ lý do từ chối việc cầu hôn của tôi"

Cô yên lặng lắng nghe. Tôi cũng suy nghĩ, lựa lời một lúc mới nói tiếp
"Nếu bị ép duyên, và nếu không còn con đường nào khác để làm vui lòng cha mẹ cô, cô nên lấy tôi.

Vì sau khi ra trường sĩ quan, tôi sẽ chọn binh chủng tác chiến, tôi sẽ leo lên bàn thờ nhanh lắm. Khi tôi chết rồi, gia đình cô không còn quyền cấm cô về sống với người cô yêu.

Mà dù tôi chưa tử trận, khó khăn của tôi vẫn là phải có con trai cho mẹ tôi an tâm. Tôi đề nghị thế nầy. Sau khi là vợ tôi, dĩ nhiên là tôi đi hành quân, đâu có về nhà thường xuyên được...

Cô cứ hẹn hò với người yêu, miễn sao đừng cho thiên hạ biết, khi nào có bầu, cô ra đơn vị tìm tôi rồi quay về nhà.

Mục đích để hợp thức hóa đứa bé trong bụng cô. Tôi sẽ không ghen tương gì mà mẹ tôi lại mừng vì đã làm tròn bổn phận đối với gia tộc tôi..."

Chưa nghe hết câu, cô chồm qua bàn, thẳng tay tát tôi một tát tai, nảy đom đóm mắt "Tôi cấm anh không được nhục mạ tôi theo lối nói vô học đó. Anh xem tôi là hạng người gì?.."

Rồi cô ôm mặt, gục xuống bàn khóc nức nở. Cô khóc to, như rống lên rồi lấy khăn bịt miệng mình lại để tự kềm chế.

Tôi kinh hoàng, vội qua ngồi cạnh cô, lắp bắp
"Tôi xin lỗi! Tôi xin lỗi! Cô tha thứ cho tôi" Tôi định choàng tay qua vai cô để vỗ về thì cô xô mạnh tôi ra, khiến tôi suýt ngã ngữa. Cô cứ cúi đầu thút thít mãi. Tôi chán nản, nghĩ rằng, tốt nhất về thưa với mẹ tôi rút lui vụ cưới hỏi nầy để khỏi rắc rối, có khi gây oán thù với cô ta và cả người tình của cô nữa.

Tôi đứng lên, đến quày trả tiền. Cô chủ quán hỏi tôi "Có chuyện gì vậy?" Tôi lắc đầu, quay lại bàn nước, ngồi cạnh cô để tránh tia mắt cô đang nhìn đăm đăm phía trước như người xuất hồn.

Tôi nói "Tôi đã hiểu cô, đã biết mối tình của cô. Xin cô yên tâm. Tôi sẽ báo cho mẹ tôi hủy bỏ vụ nầy. Cô được tự do".

Tôi định đứng lên thì cô ra dấu tôi ngồi xuống. Cô nói mà không nhìn tôi "Anh chẳng có lỗi gì trong chuyện nầy. Gia đình tôi nhất quyết gả tôi cho người khác. Ai cũng được, ngoại trừ người tôi yêu" Rồi cô quay nhìn tôi, mắt long lên, môi mím lại "Tôi đồng ý lấy anh. Nhưng tôi cho anh biết. Anh chiếm đoạt được trinh tiết của tôi, chiếm đoạt được thân xác tôi nhưng không thể chiếm đoạt được trái tim tôi. Đừng hi vọng tôi sẽ thương yêu anh. Tôi không thù anh, nhưng tôi không thể yêu thương ai ngoài người tôi yêu. Tôi cũng cho anh biết trước rằng, về làm vợ anh, dù đến mãn đời, tôi thề sẽ không bao giờ nói tiếng yêu thương với anh, không bao giờ hôn anh. Mong anh cũng làm như thế"

Tôi giận sôi gan, nhưng cố bình tĩnh "Tôi sẽ giữ lời. Tôi thề sẽ không nói thương yêu với cô, không hôn cô, vì tôi biết chúng ta chẳng hề yêu thương nhau.
Tôi cũng yêu cầu cô nhớ lời thề đó. Sau nầy, nếu tôi tử trận, xin cô đừng giả vờ khóc, vì tôi biết đó là ngày vui của cô, ngày cô được giải thoát để về với người cô yêu.

Không cưới cô thì mẹ tôi cũng tìm một cô khác cho tôi. Từ hôm nay cho đến tuần sau, cô có thể báo cho mẹ tôi biết quyết định của cô.

Mà dù đã là vợ tôi, cô vẫn tự do. Cô có thể gặp người yêu của cô bất cứ lúc nào, chỉ mong cô cố gắng cho mẹ tôi một đứa cháu trai. Xin cô giúp tôi"
Kể đến đấy anh Hùng hỏi tôi "Nếu vào trường hợp tôi, anh sẽ nghĩ sao? Chúng tôi da~ có ba mặt con với nhau, nhưng không bao giờ tôi nghĩ rằng cô ta còn lưu lại trong gia đình tôi cho đến ngày tôi vô tù như hôm nay"

Anh quay ra sau, lục trong xách nhỏ, lấy ra mấy tấm hình, trao cho tôi "Anh nhìn xem, mấy đứa nhỏ nầy giống ai?" Tôi nhìn và nói ngay "Giống anh chứ giống ai? Con anh phải không? Hai thằng nhỏ nầy là anh em sinh đôi?"

Anh trầm tư "Để tôi dài dòng một chút. Trước khi vào quân trường, tôi cưới vợ. Khi còn đang thụ huấn trong Thủ Đức, được tin vợ sinh, tôi về phép, vào nhà bảo sanh.

Vợ tôi sinh con gái. Tôi ôm đứa bé vào lòng. Lúc đó, tôi không thắc mắc, ai là tác giả của sinh vật bé bỏng đó, nhưng không hiểu sao, tôi thương nó quá. Tôi ngắm nghía nó, hôn nó, thì thầm với nó mà quên cả chung quanh. Lúc đặt con xuống bên cạnh vợ, cô ta nắm lấy bàn tay tôi, nhìn tôi, nước mắt ứa ra.
Cô ta khóc. Tôi hiểu ý nên nói "Xin lỗi! Nhưng tôi thương nó. Lần sau, cố giúp tôi một thằng con trai..."

Tôi ngắt lời anh "Bộ hai người xưng tôi chứ không anh em gì cả sao?" "Cô thì xưng em với tôi, còn tôi, khi chán nản hoặc chỉ có hai người, tôi xưng "tôi" và nói trống không. Khi có người thứ ba thì tôi "anh, em" như vợ chồng bình thường... Sau đó, cô sinh đôi, hai thằng con trai. Khi tôi đi tù thì hai thằng con được gần hai tuổi.

- Hai anh chị thề thốt với nhau rằng sẽ không hôn, không nói tiếng yêu thương với nhau, rồi có giữ lời không?
- Tôi có vợ mà tâm lý không giống những ông khác. Tôi chỉ làm bổn phận. Tôi đâu cần tình yêu mới làm chuyện vợ chồng được. Khi cô ta vừa sinh hai thằng con trai, tôi dự định, hễ hai đứa nhỏ cứng cáp thì tôi sẽ nói với cô rằng muốn li dị thì tôi ký tên ngay để cô được tự do, nhưng tôi chưa kịp nói thì đi tù.
Thế nên, mỗi khi tôi được gọi ra thăm nuôi, anh thường nghe tôi tự hỏi "Ai thăm nuôi mình?" vì tôi cứ đinh ninh là cô ta đã bỏ tôi để về với người tình, để khỏi nuôi mấy đứa nhỏ, khỏi nuôi mẹ tôi, khỏi thăm nuôi tôi.
- Anh có thể nói thật tình cảm của anh đối với vợ anh cho tôi nghe được không? Anh có thương vợ không?
Anh trầm ngâm.
- Chỉ sau nầy, khi tôi vào tù, cô ta không bỏ chúng tôi, lại phải vất vả, bương chải để nuôi sống bao nhiêu người trong gia đình tôi, tôi mới nghĩ rằng cô là vợ tôi.

Nếu chúng tôi có yêu nhau trước đó thì sự hi sinh của cô ta còn có chút ý nghĩa. Đằng nầy...Không ai có thể bắt cô phải cưu mang chúng tôi.
 Đó là sự bất công. Trước kia, tôi không màng đến ý nghĩ, tình cảm của vợ tôi. Chúng tôi ít nói chuyện với nhau. Đúng ra là không có dịp. Tôi hành quân liên miên, vài ba tháng về phép một lần.

Hai mươi bốn giờ phép mà gần tối mới về đến nhà, sáng sớm lại phải ra đơn vị. Vả lại, tôi thương các con tôi lắm.

Vừa bước vô nhà, chào mẹ tôi xong là tôi quấn quít với con, hôn hít đứa nầy, bồng ẵm đứa kia, đưa chúng ra đường mua quà, kẹo bánh.
Lần nào về phép tôi cũng ôm con mà cứ nghĩ rằng, đây là lần cuối mình được gần các con. Ra trận, đạn như vãi trấu, bạn bè, đồng đội tôi ngã xuống ngay bên cạnh. Trước sau gì cũng đến lượt mình. Còn vợ tôi, tôi cảm tưởng như giữa hai đứa có một bức tường vô hình ngăn cách, và cô ta, sinh con xong, bồng nó, đưa qua bức tường vô hình đó, trao cho tôi.

Chúng là con tôi. Vì ám ảnh đó mà mọi sự săn sóc, lo lắng của cô dành cho tôi, tôi tưởng như của một cô bạn gái cùng lớp giúp bạn trong một buổi đi chơi chung ngoài trời, vậy thôi.

Mỗi khi tôi về phép, thấy tôi bước vào nhà là cô vội lo nước nôi, khăn tắm, áo quần để sẵn đó rồi chạy ra chợ mua thức ăn, chạy về, chui vào bếp, nấu nướng, dọn lên.

Ăn xong, lại dọn rửa, rồi giặt giũ áo quần cho tôi, phơi phóng, sắp xếp, chuẩn bị mọi thứ trong xách để sáng sớm là tôi chỉ việc đeo lên vai, về đơn vị.
Cô xoay tròn như chong chóng. Tôi thì tắm con, đút cơm cho chúng, rồi chơi đùa, kể chuyện cho chúng nghe, ru chúng ngủ, không màng đến vợ, không nhìn đến mẹ.

Người ngoài nhìn vô, đó là một gia đình bình thường. Mẹ tôi thì vui lắm, cứ khen con dâu ngoan hiền. Bà cụ không biết dĩ vãng của cô, cũng không thấy những đợt sóng ngầm đang kiên trì, thì thầm gọi cô thoát ly.

Bây giờ, ở tù kiểu nầy thì chỉ có chết hoặc mục xương trong tù vì chẳng ai biết ngày về. Cái chết đối với thằng lính chiến như tôi thì sá gì, nhưng tôi thương các con quá, chỉ mong được về để lo cho chúng và săn sóc vợ tôi để đền đáp bao khổ nhọc mà cô ta đã phải chịu đựng.

Từ khi nghe anh Hùng kể chuyện gia đình, tôi cũng đâm ra hồi hộp mỗi khi nghe tên anh ta được gọi ra thăm nuôi. Tôi tưởng tượng mẹ anh Hùng hoặc bà cụ nhờ một người nào đó gặp anh và báo tin rằng vợ anh đã bỏ đi lấy chồng rồi.

Nhưng lần nào cũng là chị ta. Lần đầu được giới thiệu là vợ anh Hùng, tôi thấy chị ta, tuy đen và ốm, xác xơ vì sinh kế nhưng còn phảng phất những nét thanh tú và quí phái. Chị ta, thời trẻ, ắt đã làm bao trái tim bọn con trai xao xuyến.

Mỗi lần ra thăm nuôi, anh Hùng, tôi và vài người tù ngồi một bên chiếc bàn dài, đối diện (bên kia bàn) là thân nhân của tù. Đầu bàn có một công an ngồi theo dõi, lắng nghe tù và thân nhân chuyện trò.

Tù chỉ có 15 phút gặp người thân nên ai cũng cố nói thật nhiều, hỏi thật nhiều những điều cần thiết.

Tôi cũng gấp rút chuyện trò với vợ nhưng cũng để ý xem vợ chồng anh Hùng có gì khác thường không? Hình như anh Hùng không nhìn vợ mà hơi cúi xuống vẻ đắn đo, suy nghĩ.

Trái lại chị vợ ngồi nhìn chồng đăm đăm như thôi miên anh ta.

Thông thường, trong lúc gặp gỡ, người vợ để bàn tay bên hông của giỏ quà thăm nuôi, phía khuất tia nhìn của công an, người chồng biết ý sẽ để bàn tay mình lên bàn tay vợ, bóp nhẹ.

Bao nhiêu năm xa cách, chỉ cần chạm nhẹ hai bàn tay với nhau cũng đủ cho vợ chồng ngây ngất, rung động cả thể xác và tâm hồn.

Giây phút đó quí giá hơn bao nhiêu lần ôm ấp nhau mà vợ chồng đã trải qua. Vợ anh Hùng cũng để tay bên giỏ thăm nuôi. Anh Hùng chỉ đụng rất nhẹ vào tay vợ, như vô tình rồi rút tay về. Chị ta vẫn để yên bàn tay và chờ đợi. Anh Hùng lại đụng nhẹ tay vợ lần nữa, rồi lại rút về. Cả hai yên lặng. Rồi hình như anh nói nho nhỏ gì đó với vợ.

Thời gian thăm gặp qua rất nhanh. Lúc chia tay, anh Hùng xách gói quà thăm nuôi đi thẳng mà không ngoái nhìn người thân như các tù nhân khác.
Chúng tôi ở tù trên 10 năm nhưng chỉ ở chung lán trại hơn ba năm, sau đó bị phân tán đi các trại tù khác. Dù vậy, tình bạn giữa chúng tôi đã như ruột thịt.
Bảy năm sau, chúng tôi mới gặp lại nhau ở trại tù Z 30, Xuân Lộc. Sau đó,chúng tôi cùng ra tù một lần, vào năm 1986.

Chúng tôi, hai thằng tù trung niên mà trông đã hom hem. Tóc đã có sợi bạc, chân tay như những khúc xương khô. Vợ tôi và vợ anh Hùng, sau mười năm vất vả, cũng đã là hai chị nạ dòng đen thui, đầu tóc, áo quần tả tơi vì suốt ngày lê lết đầu đường xó chợ. Hai người mua đi bán lại từng đôi giày cũ, áo quần cũ, răng vàng bạc vụn, đồng hồ hư, radio hư...Nghĩa là ai bán gì cũng mua, ai mua gì cũng có.

Thời bấy giờ, tù về xã hội chỉ làm được các nghề chân tay như đạp xích lô, bán vé số, vá xe đạp...Tôi và anh Hùng, mỗi người một chiếc bàn con, mỗi cạnh hai gang tay, đặt bên lề đường, ngồi bán vé số, kiếm tiền phụ với vợ mua gạo. Lúc đó vợ tôi và vợ anh Hùng mới lấy lại chút bình tĩnh, không còn lo thất sắc mỗi ngày vì lũ con đói.

Đầu thập niên 1990, có chương trình tù cải tạo được đi Mỹ. Gia đình tôi và gia đình anh Hùng đến cùng tiểu bang Virginia nhưng khác thành phố, cách nhau hơn hai giờ lái xe.

Bước chân đến xứ người với hai bàn tay trắng, chúng tôi phải làm gấp đôi người khác, vì lao động chân tay, lương hướng chẳng bao nhiêu. Sáng sớm đã ra khỏi nhà, khuya mới về. Chúng tôi chỉ gọi điện thoại trò chuyện, hỏi han nhau mà thôi.

Tôi không còn để ý đến chuyện xưa của vợ chồng anh Hùng, cũng không bao giờ kể cho vợ tôi nghe. Đàn bà bép xép, một chuyện kỳ lạ như thế thì không bà nào để yên trong bụng được.

Hơn bảy năm ở xứ Mỹ, vài đứa con của gia đình tôi và gia đình anh Hùng đã tốt nghiệp đại học, có việc làm, phụ với cha mẹ lo cho các em nên chúng tôi đã bớt giờ làm việc, có dịp thăm viếng nhau.

Bao nhiêu năm mới gặp lại, thấy anh Hùng khỏe mạnh, hồng hào hơn trước, chị vợ cũng mập tròn, mặt mũi tươi rói, gặp lại vợ tôi như gặp cố nhân, hai người tíu tít hỏi han, chuyện trò vui vẻ. Nơi xứ người bơ vơ nên chúng tôi coi nhau như anh em một nhà.

Đột nhiên, một buổi tối, khoảng mười giờ, điện thoại reo, vợ tôi bắt máy rồi la lên.
- Sao? Chị nói sao? Anh Hùng bị gì mà đưa vô bịnh viện cấp cứu? Chị nói chuyện với ông xã em. Em run quá!

Vợ tôi đưa điện thoại cho tôi.
- A lô! Anh Hùng bị gì vậy chị?

Bên kia đầu giây, giọng vợ anh Hùng hốt hoảng.
- Không hiểu sao. Ăn tối xong ảnh ngồi xem TV. Thình lình, ảnh kêu "Đau đầu quá!" rồi gục xuống bất tỉnh. Em gọi xe cứu thương đến đưa vô bịnh viện.

Hiện em đang ở phòng cấp cứu. Ảnh chưa tỉnh. Em rối trí quá! Không biết mình phải làm gì đây?
- Chị báo cho sắp nhỏ biết chưa?
- Dạ rồi. Nhưng đứa gần nhất cũng phải 5 giờ lái xe, đứa ở xa, sáng mai mới đi máy bay về.
- Ảnh không sao đâu. Chị bình tỉnh. Đưa vô bịnh viện là yên tâm. Tụi tôi sẽ đến ngay bây giờ. Lên xe, chúng tôi sẽ nói chuyện sau. Nhớ là phải bình tỉnh.

 Hai giờ nữa chúng tôi sẽ đến bịnh viện.

Ban đêm, xa lộ 95 không đến nỗi kẹt xe. Từ Richmond hướng về thành phố Falls Church, phía bắc tiểu bang, gần hai giờ, chúng tôi đã có mặt tại bịnh viện. Bịnh viện về đêm thật yên tĩnh. Theo sự hướng dẫn của nhân viên trực, chúng tôi đi rất nhẹ dọc hành lang để tìm phòng hồi sức.

Anh Hùng nằm trên giường với đủ thứ dây nhợ, ống trợ thở nối với dàn máy sát tường. Một cái máy điện tâm đồ với lằn sóng xanh chạy đều đều, yếu ớt.

 Chị Hùng quì bên cạnh, nắm tay chồng, thì thầm.
- Anh cố gắng nghe em nói. Em chỉ nói một câu thôi. Em không nói được cho anh nghe thì em đau khổ suốt đời, ân hận suốt đời. Anh có thương em không? Thương em thì nghe em nói. Nghe anh! Tội nghiệp em mà anh...

Chúng tôi đứng bên cạnh mà chị vẫn không hay biết. Vợ tôi cúi xuống vỗ nhẹ vai chị, chị quay lại, đứng lên, ôm vợ tôi, nước mắt trào ra.
- Ảnh không nghe em nói! Ảnh không biết gì nữa. Sao em ngu quá? Không nói khi ảnh còn khỏe mạnh. Mà thình lình, ảnh bị như vầy...

Chị nói lảm nhảm như người mất trí. Vợ tôi không hiểu gì cả nhưng vẫn vỗ về, nhỏ nhẹ.
- Ảnh không sao đâu. Em biết, nhiều người bị như vậy, sẽ tỉnh lại. Chị đừng lo. Bác sĩ nói sao?
- Bác sĩ nói ảnh bị xuất huyết não, đang chuẩn bị, sẽ mổ ngay. Em sợ, người ta mổ rồi ảnh đi luôn. Em mà không nói được cho ảnh nghe, chắc em chết theo để linh hồn em được gặp ảnh, nói mấy lời...

Vợ tôi lại nhìn tôi, không hiểu chuyện gì quan trọng, khẩn cấp đến độ phải nói ra cho người sắp chết nghe. Đáng ra, chính người bịnh mới cần trăn trối trước khi từ giả cõi đời. Vợ tôi, biết rằng chuyện gia đình người ta, không nên tò mò, chỉ trấn an.

- Sáng mai, mổ xong là ảnh tỉnh dậy, sẽ nghe chị nói. Chị yên tâm. Bình tỉnh mà chuẩn bị tinh thần, cầu xin Trời Phật phù hộ ảnh tai qua nạn khỏi.
Nhưng chị ta như không nghe, cứ lảm nhảm.
- Bao yêu thương, săn sóc ảnh giành cho em, em hiểu, em đón nhận, nhưng sao em ngu quá, không nói cho ảnh biết em yêu thương ảnh...

Vợ tôi ngớ ra, tưởng chị điên thật rồi. Vợ chồng yêu thương nhau, đâu cần phải nói ra mới hiểu? Chỉ mình tôi biết điều đó. Tôi nói với chị ta.
- Xin chị bình tỉnh. Tôi sẽ cố giúp chị xem sao. Tôi với anh Hùng thân thiết còn hơn ruột thịt. Hi vọng, tôi nói ảnh sẽ nghe.

Nhìn điện tâm đồ, thấy những gợn sóng rất yếu ớt, tôi biết, có mổ cũng rất ít hi vọng, nhưng tôi tin, sự sống trong anh ta vẫn còn. Tôi ra dấu cho chị Hùng đến bên cạnh rồi cúi sát tai anh, nói chậm rãi.
- Tôi là Nguyễn văn Chánh, bạn anh đây. Chúng ta ở tù chung, khi còn ở bên Việt Nam, anh còn nhớ không? Anh cố gắng nghe tôi nói, một điều rất quan trọng, sẽ giúp anh yên tâm...

Nếu anh nghe được, anh chấp nhận, xin anh chuyển động mi mắt hoặc con ngươi của mắt anh. Vợ anh đang đứng bên anh đây. Vợ anh nói rằng, chị chỉ yêu thương một người duy nhất trong đời là anh mà thôi. Anh có nghe không, có chấp nhận không?

Mọi người im lặng, chăm chú nhìn đôi mắt đang nhắm nghiền của anh Hùng. Đột nhiên, đôi mi của anh Hùng chuyển động như muốn mở ra rồi nhắm lại.
Tuy rất nhẹ nhưng mọi người đều thấy rõ. Chị Hùng ôm chồng khóc òa lên. Tin rằng anh Hùng có nghe tiếng khóc của vợ nên một lúc sau tôi mới ra dấu cho chị yên lặng, rồi nói vào tai anh Hùng.
- Bây giờ, vợ anh, chị Hùng sẽ nói cho anh nghe. Chị yêu thương anh từ lúc nào. Anh cố gắng nghe vợ anh nói.

Tôi bước lùi cho chị Hùng quì xuống, cúi sát tai chồng và nói, từng tiếng một.
- Anh Hùng. Anh là chồng em. Em yêu thương chỉ một mình anh. Em yêu thương anh suốt đời. Em yêu thương anh từ ngày đầu, từ đêm đầu, từ giây phút đầu em trở thành vợ anh... Em lạy anh. Đừng giận em nghe anh! Xin anh thương em. Em là vợ anh. Tội nghiệp em. Nghe anh!

Nói đến đó thì nghẹn lời, chị đứng lên lùi lại, hai tay để lên ngực, như sợ chồng điều gì nhưng mắt vẫn không rời đôi mắt chồng. Mọi người nín thở chờ đợi. Rồi đôi con ngươi dưới hai mi mắt nhắm nghiền của anh Hùng chuyển động nhẹ, hướng về phía chị Hùng và dừng lại. Tôi nói với chị.
- Anh Hùng đã hiểu chị, đã chấp nhận lời yêu thương của chị.

Bỗng chị Hùng lảo đảo, níu tay vợ tôi rồi ngã quị xuống, bất tỉnh. Vợ tôi đỡ lấy chị, ngồi bệt xuống sàn, ôm chị vào lòng. Tôi bảo vợ.
-Không sao đâu. Bị xúc động mạnh. Để anh đi gọi y tá...

Thật ra, là chị ấy đã trăn trối với chồng.

Phạm Thành Châu


[Image: 171775026-2880857695517780-1380534619391382689-n.jpg]
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#23
Mất
Viết cho ngày 30/04 – ngày mà đất nước Việt Nam đã thực sự Mất!
Đặng Chí Hùng

Quá khứ đã qua, giờ là lúc nhìn lại quá khứ bằng lăng kính trung thực nhất để trả lại cho lịch sử những gì là của lịch sử. Từ ngày 30/4/1975, cái mất đã mất. Lúc này là lúc chúng ta đứng lên từ quá khứ đổ nát của dân tộc. 


Điều duy nhất an ủi chúng ta đó là chính nhờ cái mất đó mà chúng ta có cái được: Ít nhất là những người miền Bắc như chúng tôi đã được giải phóng bởi sự hi sinh của VNCH để chúng tôi không phải sống như dân Bắc Hàn ngày này. Và cũng nhờ cái mất đó mà người dân ngày nay nhìn nhận rõ cộng sản hơn. Để ai còn ảo tưởng về cộng sản nhận ra họ sai lầm...

*

Tôi băn khoăn mãi không biết đặt tựa đề của bài viết số 5 này. Rất may mắn là tôi đã tìm được nhờ âm nhạc. Cảm ơn nhạc sỹ Lam Phương đã cho tôi và đồng bào tôi nghe bài hát Mất để tôi có thể lấy nó làm tựa đề cho bài viết này. Xin mạn phép tác giả Lam Phương được sử dụng ngay tựa đề của bài hát với câu hát làm tôi xúc động cho đến giờ phút viết những dòng này “Em có biết ngày 30 mất nước, ngày chia ly ngày của tù đầy...” 

Vâng! Tôi biết rằng tác giả Lam Phương đã viết bài hát này cho những người dân Việt Nam cộng hòa (VNCH) ngày 30 là ngày mất nước, ngày chia ly, tù đày của hàng triệu gia đình. Tuy nhiên trên quan điểm của mình tôi cho rằng ngày 30 là ngày đánh dấu cho cái Mất của cả Việt Nam chứ không riêng VNCH, đó là: Mất tự do, mất dân tộc và mất cả tương lai. 

Để đi vào bài này tôi xin khẳng định lại chính Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) là những kẻ thua cuộc chứ không phải “bên thắng cuộc” như tác giả Huy Đức viết, bởi vì bắt đầu kể từ ngày có “bên thắng cuộc” thì dân tộc Việt Nam: Mất

Giải phóng cho ai? 

Thưa bạn đọc! Trong những phần của loạt bài “Những sự thật không thể chối bỏ” và “Những sự thật cần phải biết” đã đăng, tôi đã chứng minh được những luận điểm sau đây: 

Việt Nam Cộng hòa không phải là “ngụy” mà là thể chế tự do, dân chủ, biết lo cho đời sống nhân dân dẫu rằng còn nhiều khiếm khuyết cần thời gian sửa đổi. 

Chính họ là nạn nhân của chính sách “ngậm máu phun người “ của đảng cộng sản Việt Nam. Những người lính VNCH đã ngã xuống vì họ ngã cho chính nghĩa và tự do của nhân dân. Chính VNDCCH là ngụy khi đánh thuê cho Liên Xô, Trung cộng (lời ông cựu tổng bí thư Lê Duẩn). 

VNCH đã bị chính sách khủng bố của đảng cộng sản núp dưới danh nghĩa “nổi dậy” để khủng bố nhân dân, phá hoại cuộc sống yên bình của VNCH. 

Thông qua mỹ từ “giải phóng”, đảng cộng sản Việt Nam và ông Hồ đã tiến hành “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn”, cưỡng chiếm một nước có chủ quyền hợp pháp nhằm đạt mục đích quyền lực, cho thế giới cộng sản và cho kẻ chủ mưu thôn tính Việt Nam: Trung cộng. 

Như vậy thì sự thật về giải phóng đã rõ ràng, không phải là giải phóng cho nhân dân một nước có nền kinh tế, văn hóa, đời sống chính trị hơn hẳn nước khác. Giải phóng ở đây thực chất là giải phóng cho chính những người dân VNDCCH để họ thấy được bản chất láo lừa của cộng sản cũng như cho đất nước Việt Nam không phải như Bắc Hàn. Để minh chứng cho điều này tôi xin trình bày những luận điểm sau đây: 

Thứ nhất, tại văn kiện đại hội đảng lần thứ 3 năm 1993 của đảng cộng sản Việt Nam, trang 49 có viết “Nhờ có được vũ khí và cơ sở vật chất của chế độ Sài Gòn để lại mà chúng ta có thể nói là có sự vượt bậc tiến bộ về vũ khí cũng như giải quyết đời sống nhân dân bớt khó khắn sau nhiều năm chiến tranh. Cũng vì điều này mà bọn phản động lưu vong ở hải ngoại tuyên truyền chúng ta thôn tính Lào và Campuchia, chúng ví quân đội chúng ta như kẻ khổng lồ đi liên minh với 2 kẻ tý hon không nhằm mục đích thôn tính Lào và Campuchia…” 

Như vậy qua đoạn trích trên ta thấy gì? đó là đảng cộng sản đã thừa nhận với nhau rằng “nhờ” có tài nguyên, vũ khí và kinh tế VNCH thì nước Việt Nam của các ông đỉnh cao trí tuệ mới “bớt khó khăn”. Thì ra là giải phóng ngược kiểu này vậy sao? Ai giải phóng cho ai hỡi các vị lão thành cách mạng? 

Thứ hai, khi tiến hành “giải phóng miền Nam”, đảng cộng sản Việt Nam không chỉ bị chi phối bởi Liên Xô mà còn chịu nhiều tác động từ đảng cộng sản Trung Quốc. 

Chính trong cuốn sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua” của Nhà xuất bản Sự Thật công bố 14/10/1979, phụ trách bản thảo đưa in là Phạm Xuyên và Đình Lai có đoạn: “Tháng 8 năm 1965, tại cuộc họp Bộ Chính trị BCH Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, gồm cả miền Nam Việt Nam, Thailand, Miến Điện, Malaysia, Singapore... Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy”. 

Thông tin này đã được chính đảng cộng sản thừa nhận trên website của mình: http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=9915.0

Vậy sự thật ở đây là VNDCCH giải phóng cho chính họ và Trung cộng đang khát tài nguyên hay cho nhân dân? Nhân dân Việt Nam được gì từ cuộc chiến tranh đó? Không! Hoàn toàn là không được gì. 

Cũng cuốn sách này trang 53 còn có đoạn cho thấy dã tâm của cộng sản Việt Nam tiếp tay cho Trung cộng. Tại trang này có đăng nguyên văn nội dung lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam trả lời ông Đặng Tiểu Bình hồi năm 1966, như sau: “Sự nhiệt tình của một nước XHCN, với một nước XHCN khác là xuất phát từ tinh thần quốc tế vô sản. Chúng tôi không bao giờ nghĩ nhiệt tâm là có hại. Nếu các đồng chí nhiệt tâm giúp đỡ thì chúng tôi có thể đỡ hy sinh 2-3 triệu người... Miền Nam chúng tôi sẽ chống Mỹ đến cùng và chúng tôi vẫn giữ vững tinh thần quốc tế vô sản”. 

Ở trang 73 của tác phẩm này, những người cộng sản Việt Nam đã cay đắng thú nhận: “Những người cầm quyền Trung Quốc, xuất phát từ lợi ích dân tộc, họ có giúp Việt Nam khi nhân dân Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, nhưng cũng xuất phát từ lợi ích dân tộc, họ không muốn Việt Nam thắng Mỹ và trở nên mạnh, mà chỉ muốn Việt Nam yếu, lệ thuộc Trung Quốc... Họ lợi dụng xương máu của nhân dân Việt Nam để buôn bán với Mỹ... Họ muốn chia rẽ Việt Nam với Liên Xô và các nước XHCN khác”. 

Thứ ba, một tài liệu được lưu trữ ở Trung tâm Wilson - Hoa Kỳ cho thấy, trong cuộc họp với Mao Trạch Đông hồi năm 1970, ông Lê Duẩn đã cho ông Mao Trạch Đông biết, Việt Nam đang trường kỳ kháng chiến chống Mỹ là vì Trung Quốc. Ông Lê Duẩn đã nói, nguyên văn như sau: “Tại sao chúng tôi giữ lập trường bền bỉ chiến đấu cho một cuộc chiến kéo dài, đặc biệt trường kỳ kháng chiến ở miền Nam? Tại sao chúng tôi dám trường kỳ kháng chiến? Chủ yếu là vì chúng tôi phụ thuộc vào công việc của Mao Chủ tịch... Chúng tôi có thể tiếp tục chiến đấu, đó là vì Mao Chủ tịch đã nói rằng 700 triệu người Trung Quốc đang ủng hộ nhân dân Việt Nam một cách vững chắc”. 

Như vậy thì giải phóng miền Nam cho ai? Cho Việt Nam hay cho Trung cộng? Bạn đọc hẳn đã tìm ra câu trả lời. 

Thứ tư, trong cuốn sách của tác giả Hà Cẩn (Viện văn học Trung quốc), đó là cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang có đoạn ở trang 154 nói về quan hệ với Việt Nam. Đoạn đó tạm dịch như sau:

“Việt Nam sẽ chỉ yếu đi nếu họ cứ tiếp tục chiến tranh và bất ổn liên miên. Trung Hoa tin rằng Hồ Chủ tịch biết điều này chỉ có lợi cho chúng ta. Nhưng Mao chủ tịch cũng tin tưởng Hồ Chủ Tịch sẽ làm đúng nghĩa vụ của mình.” 

Ở đây tác giả Hà Cẩn khẳng định ông Hồ và ông Mao đều hiểu rõ về nhau. Nhưng ông Hồ được ông Mao tin tưởng “sẽ làm đúng nghĩa vụ”. Nghĩa vụ đó là gì? Đó chính là việc thực hiện âm mưu làm suy yếu nội lực Việt Nam. Rõ ràng ông Hồ đã được ông Mao giao cho nhiệm vụ cần phải thực hiện để làm suy yếu Việt Nam và ông Hồ do tham quyền lực (nếu thắng) và cũng để thực hiện nhiệm vụ của mình đã gây cho Việt Nam biết bao đau thương trong chiến tranh Nam Bắc. (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ phần 10”). Vậy “giải phóng” cũng là một trong nhiệm vụ mà ông Hồ và đảng cộng sản thực hiện cho quyền lợi của mình và Trung cộng mà thôi. 

Thứ năm, cuốn sách “MAO: The Unknown Story” - Sách được phát hành năm 2005 do hai nhà xuất bản Anchor Books và Random House của tác giả Jung Chang và Jon Halliday trang 470 viết: “Có một nơi gần Trung Quốc, nơi đã có người Mỹ, đó là Việt Nam. Cuối năm 1963, miền Nam Việt Nam có khoảng 15,000 cố vấn quân sự Mỹ. Kế hoạch của Mao là tạo tình huống làm cho Mỹ phải gởi thêm quân đội vào miền Nam, ngay cả có thể xâm chiếm miền Bắc giáp giới với Trung quốc.” 

Qua đây ta có thể thấy gì? đó là Mao và Trung cộng đâu phải sai Hồ chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam “giải phóng” cho nhân dân Miền Nam Việt Nam mà chỉ là cuộc chơi của Trung cộng với Mỹ và nhân dân Việt Nam là con tốt thí thông qua con rối: đảng cộng sản Việt Nam. 

Thứ 6, qua phần 2 của “Những sự thật không thể chối bỏ” và phần 2 của “Những sự thật cần phải biết” tôi đã chứng minh VNCH đâu cần ai giải phóng cho mình? Chẳng lẽ giải phóng ngược? Sự thật là qua những câu chuyện mà ai cũng thấy về sự chênh lệch văn minh sau ngày 30 tháng 4 đã cho thấy những gì tôi nói là chính xác. Dẫn chứng này chỉ xin nhắc lại câu của bà Dương Thu Hương - một người đi “giải phóng” người khác: “30 tháng 4 năm 75, nền văn minh đã thua chế độ man rợ”. Xin nói rõ từ “thua” này tôi đã giải thích rõ ở bài 1 “Những sự thật cần phải biết” đó là -  chính VNDCCH đã được “giải phóng” bởi VNCH. 

Thứ bảy, cuốn sách “365 ngày ở Việt Nam” của nhóm công tác do Liên Xô chỉ đạo trong năm 1975 tại Việt Nam đã được giải mật năm 2008 cho biết tại trang 69 “Chúng ta đã thắng Mỹ nhưng người dân miền Nam không chào đón những người anh miền Bắc của chúng ta trên chính quê hương miền Nam của họ...” Thì ra nhân dân miền Nam sau cái ngày “giải phóng” ấy đâu có chào đón người giải phóng cho họ. Chính bởi nhân dân VNCH không cần ai giải phóng cho mình cả. 

Thứ 8, cho đến này đảng cộng sản chưa chịu thừa nhận họ thất bại hoàn toàn trong công cuộc “xây dựng Xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên như lời Ts. Cù Huy Hà Vũ đã phát biểu với VOA rằng: “Như chúng ta đã thấy, chủ nghĩa cộng sản dưới màu sắc chủ nghĩa xã hội chưa bao giờ là một hiện thực ở Việt Nam bởi cho đến ngày hôm nay hệ tư tưởng ấy vẫn chỉ là “định hướng” như chính ban lãnh đạo cộng sản Việt Nam thừa nhận. Nói cách khác, tính ưu việt hay hơn hẳn của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản mà Hoa Kỳ đại diện chưa bao giờ được chứng minh ở Việt Nam nên sẽ là quàng xiên khi nói rằng bên chiến thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam là hệ tư tưởng cộng sản. Sự sụp đổ ngoạn mục của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu vào cuối những năm 80 của thế kỷ trước chỉ có thể xác nhận quan điểm này của tôi.” thì đảng cộng sản chính là những kẻ thua cuộc, những kê được VNCH giải phóng. (http://m.voatiengviet.com/a/862106.html)

Mất! 

Thực tế cho đến nay thì chúng ta đều biết đảng cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh chỉ là con rối trong tay cộng sản quốc tế và đặc biệt là tay sai cho Trung cộng giày xéo đất nước. Chính vì thế chúng ta - toàn thể Việt Nam chứ không riêng gì VNCH đã mất, mất rất nhiều thứ kể từ ngày 30/4/1975 đó. Vậy chúng ta mất gì? 

Thứ nhất, chúng ta mất biển đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) mà điển hình là các hành động vây bắt tàu cá của ngư dân Việt Nam. 

Thứ hai, chúng ta đang mất dần các vị trí chiến lược như Tây Nguyên và trong quá khứ đã mất cho Trung cộng: Ải Nam quan, Thác Bản Giốc, bãi đá Tục Lãm. 

Thứ ba, rồi chúng ta sẽ mất nước không phải bắt đầu từ hiệp ước Thành Đô mà chính xác từ năm 1953 mà ngày 30/4 là cái mốc thể hiện toàn nước Việt Nam dần về tay Trung cộng (luận điểm này tôi sẽ công bố ở một bài gần đây khi đầy đủ tài liệu). 

Thứ tư, chúng ta mất tự do: biểu tình của dân oan mất đất bị đàn áp, đàn áp người yêu nước (nhạc sỹ Việt Khang, blogger Điếu Cày... là những ví dụ điển hình) 

Thứ năm, chúng ta đang bị đảng cộng sản lừa mị bởi chiêu trò “phát triển kinh tế” bằng những đồng vốn đi vay để làm giàu túi quan tham. 

Thứ sáu, chúng ta mất niềm tin, dân khí sau nhiều năm bị cộng sản tiến hành chính sách ngu dân.

...

Còn rất, rất nhiều thứ mất mà chúng ta có thể lấy ngày 30 tháng 4 năm 1975 làm cái mốc chỉ dấu. Đúng như nhạc sỹ Lam Phương đã viết “Ngày của chia ly ngày của tù đày”. Những quân dân cán chính VNCH đã là những người mất trước hết vì họ là những nạn nhân của cái gọi là giải phóng với vạn người chết trong lao tù và làm mồi cho những con song dữ biển Đông. 

Sau đó là cũng kể từ ngày đó cả nước Việt Nam mất, mất dần mòn, mất tất cả vào tay cộng sản khát máu và Trung cộng bá quyền. 

Ba mươi là ngày chia ly 
Là ngày tang tóc hai miền Việt Nam 
Ai làm cho mẹ lầm than? 
Là loài cộng phỉ, là bầy vong nô 
Tại vì nô lệ Trung Xô 
Phơi thân người Việt, hoang tàn nước non 
Sau này muôn lớp cháu con 
Hờn căm muôn thuở, nước nào rửa đây? 
Mong rằng sông núi cỏ cây 
Hồn thiêng dân tộc phơi bày trắng đen… 
(ĐCH) 

Kết luận: 

Quá khứ đã qua, giờ là lúc nhìn lại quá khứ bằng lăng kính trung thực nhất để trả lại cho lịch sử những gì là của lịch sử. Từ ngày 30/4/1975, cái mất đã mất. Lúc này là lúc chúng ta đứng lên từ quá khứ đổ nát của dân tộc. 

Điều duy nhất an ủi chúng ta đó là chính nhờ cái mất đó mà chúng ta có cái được: Ít nhất là những người miền Bắc như chúng tôi đã được giải phóng bởi sự hi sinh của VNCH để chúng tôi không phải sống như dân Bắc Hàn ngày này. Và cũng nhờ cái mất đó mà người dân ngày nay nhìn nhận rõ cộng sản hơn. Để ai còn ảo tưởng về cộng sản nhận ra họ sai lầm. Người Mỹ đã cho ta thấy muốn thắng cộng sản phải cho cộng sản tạm thời thắng. 

Tuy vậy người mà chúng ta phải cảm ơn là những người lính VNCH, những con dân VNCH vì chính họ đã hi sinh, đã mất cho những cái được ngày hôm nay và tương lai. Không có họ thì Việt Nam cũng chỉ là Bắc Hàn không hơn không kém. Và họ xứng đáng với biểu tượng đã “phải thua” để cho toàn dân tộc Việt Nam “sẽ thắng” trong cuộc chiến chống cộng sản sau này. 

Ôi! 30/4 - Ngày của triệu người buồn, ngày mà đất nước Việt Nam Mất quá nhiều. 

25/04/2013 

Đặng Chí Hùng



Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#24
MẸ ƠI CON HỐI HẬN

Bài thơ sau đây nhặt được từ túi áo của một anh bộ đội miền Bắc bị tử trận tại chiến trường miền Nam những năm 1969.

Trong hồi ký của tử sĩ nầy, người ta còn biết anh là con của bà Trần Thị Phấn ở Hải Dương.

Bài thơ nầy đã được đăng trên báo chí VNCH thời đó.
Bài thơ không ghi tên tác giả, được một thường dân miền Nam mến thương cảnh ngộ và ghi lại.

"ĐI GIẢI PHÓNG"

Từ buổi con lên đường xa mẹ
Theo anh em sang Lào rồi dấn bước vào Trung.
Non xanh núi biếc chập chùng
Sớm nắng biển, chiều mưa rừng gian khổ.

Tuổi thanh xuân cuộc đời như hoa nở
Vì hòa bình đâu ngại bước gian nguy.
Mấy tháng trời, ngày nghỉ đêm đi
Giày vẹt gót áo sờn vai thấm lạnh.

Có những chiều Trường Sơn núi rừng cô quạnh
Mẹ hiền ơi con chợt nhớ quê mình.
Khói lam chiều, giàn mướp lá lên xanh
Con bướm nhỏ mái đình xưa, ôi nhớ quá!

Vào nơi đây tuy đất người xa lạ
Nhưng miền Nam vẫn cùng một quê hương.
Vẫn hàng dừa xanh, vẫn những con đường
Vẫn hương lúa ngọt ngào.

Tiếng tiêu gợi nhớ
Con trâu về chuồng
Ðã qua buổi ban đầu bỡ ngỡ.
Con nhìn ra nào giải phóng gì đâu?

Buổi chợ đông vui, đồng lúa xanh màu
Mái chùa cong buông hồi chuông tín mộ.
Lớp học tưng bừng những đàn trẻ nhỏ
Ðang nhịp nhàng vui hát bản đồng ca.

Và sau vườn luống cải đã vàng hoa
Ðàn bướm nhỏ rủ nhau về hút mật.
Xóm dưới làng trên niềm vui ngây ngất
Sao người ta bắt con phải đốt xóm phá làng?

Phải gài mìn gieo tang tóc thương đau
Ðã nhiều lần tay con run rẩy.
Khi gài mìn để phút sau bỗng thấy
Xác người tung và máu đổ chan hoà.

Máu của ai
Máu của bà con ta
Máu của người như con như mẹ…
Ðêm hôm ấy mắt con tràn lệ

Ác mộng về, con trằn trọc thâu canh.
Con hối hận vì đã làm chuyện xấu
Lòng con đau có ai nào thấu?
Con gục đầu chịu chết để tạ tội non sông.

Người miền Nam xin đừng hận kẻ dại khờ.
Lệnh cấp trên nào ai dám cãi?
Phải vào Nam giải phóng cái an lành
Còn non dại nên đành nghe lời hảm hại.

*Bài thơ không ghi tên tác giả.

[Image: 04-B46-AD6-484-E-4-C11-A23-F-70-CFAC380-CBC.jpg]
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#25
Dề cơm cháy!
Đoàn Xuân Thu

Vì thổ nhưỡng, khí hậu thích hợp cho việc trồng lúa mì nên Tây nó ăn bánh mì. Vì thổ nhưỡng, khí hậu thích hợp cho việc trồng lúa nước, nên ta ăn cơm. Bánh mì bán ế, Tây đem nướng già chút lửa, xắt thành lát, vô bọc bán. Mình mua về trét bơ, rắc đường cát trắng mịn lên, ăn giòn rụm hè. Cơm của ta cũng vậy! Cơm chín rồi chỉ cần già thêm chút lửa là có ngay dề cơm cháy. Mình chan mỡ nước, rắc thêm chút đường cát trắng mịn, và vài tóp mỡ. Xong đút vô miệng nhai giòn rụm hè!
Mà nói tới cơm cháy thì tui lại nhớ tới thời đi lính ở Trường Bộ Binh Thủ Ðức. Nhứt là 9 tuần đầu huấn nhục, tân khóa sinh. Cán bộ quân trường không cần biết đứa nào thân thế giàu hay nghèo gì ráo trọi, tất cả đều phải ăn cơm nhà bàn.
Trường Bộ Binh Thủ Ðức, KBC (tức Khu bưu chính) là 4100, đọc là bốn ngàn một trăm, nên mấy cha nội huynh trưởng, cũng như tui từng giẫm gót giày saut trên đồi Tăng Nhơn Phú đều biết cách đọc trệch đi là bốn người một mâm, một ca-rê (carré), 4 cục thịt kho nhỏ bằng ngón tay cái. Biết đời lính “ắc ê”, “on-đơ”, mau đói lắm nên em yêu tuần nào lên Khu Tiếp tân thăm đều cẩn thận lận theo một lon Guigoz thịt, hoặc cá chà bông hay tép rang hơi mặn (ăn ít hao và ít bị hư) cho chàng ăn để nhớ tới tình em, người yêu của lính. He he!
o O o
Hàng ngày, Trung đội trực của Tiểu đoàn cử vài sinh viên sĩ quan vào ban ẩm thực để kiểm soát, trông chừng mấy hỏa đầu quân, tay có nhám nhúa, có chôm chỉa bớt đồ hay không? Thịt thà, cá, tép thì tui không biết có bị chôm hông nhưng đồ lòng gà vịt thì chắc có. Ông nội con nít nào tối trực tuyến B, đêm gác tiền đồn Mả đá, ngang Học viện Cảnh sát Quốc gia, ba gai, lén bò ra chợ Nhỏ nhậu. Một dĩa gan, lòng, mề gà xào chua với dưa leo chấm muối tiêu chỉ hai chục bạc. Hai thằng đưa cay dĩa đồ nhậu đầy ứ ự; nhậu tới Tết còn chưa có hết!
Mấy chú SVSQ trực nhà bàn này, sáng sớm phải theo xe GMC chở hỏa đầu quân đi chợ. Chú nào cũng được cho ăn hủ tiếu, bánh bao xíu mại, uống cà phê sữa khỏi tốn tiền. Trưa, chiều, tới giờ cơm thì xơi trước thiên hạ. Quá đã! Thịt cá ê hề nên chú nào háu ăn, ăn hoài vẫn thấy đói, quyết liệt chạy chọt với thư ký đại đội giành trực nhà bàn. Nhứt là mấy đứa con bà phước, hổng có ai thăm nuôi hết ráo.


Tui giành không lại tụi nó, nên khi thằng nằm giường trên nói mai nó đi trực nhà bàn, tui biểu nó đem về cho tao vài dề cơm cháy. Nó nói cơm cháy khô, cứng ngắc, ăn gãy răng mầy xin làm gì? Mấy chú hỏa đầu quân chỉ mang cơm cháy về cho vợ nó nuôi heo. Ðể tao lựa cơm ngon giữa chảo đụn đem về cho mầy nhe! Tui nói: “Cơm cháy đã ráo nước, giữ được lâu, tao bóp vụn ra, bỏ vô lon guigoz để dành. Lúc muốn ăn, tao nấu nước sôi chế vô, chờ nó nở ra, ăn với tép rang hoặc cá chà bông của em yêu tao cho thì ngon gấp mấy lần ăn cơm sấy với đồ hộp của Mẽo!”
o O o
Bà con mình người miền Tây hay phát âm “gi” thành “d” nên cho rằng chữ “giề” và “dề” cùng nghĩa viết khác vì do cách phát âm. Tui thì nghĩ viết khác vì nghĩa nó khác nhau. Giề lục bình là một đám lục bình dày cui, xà nẹo với nhau trên mặt sông. Còn dề cơm cháy, nó mỏng tang hè, là cơm nằm dưới đáy nồi bị cháy.
“Con nhớ Má quê nhà bếp tỏa.
Khói lên trời ẩm ướt chiều hôm.
Già chút lửa, thương dề cơm cháy.
Cho giòn tan, bùi, ngọt tới quê người!”


Quê người giờ nấu cơm dễ ợt vì có nồi cơm điện do Nhựt Bổn nó làm. Xúc gạo đổ vô nồi cho nước vào ngập cỡ lóng tay, rồi ấn nút đợi một lát là cơm chín. Chớ hồi xưa nấu cơm lạng quạng thiếu củi lửa là cơm nó sình, trên sống dưới chín. Già lửa quá thì cơm bị khê, đổ cho chó ăn nó còn chê. Bữa nào ăn kho quẹt thì nấu cơm hơi nhão. Bữa nào có canh thì cơm phải hơi khô.
Hồi xưa, má của tui là con gái nhà quê, cẳng phèn không, theo chồng về phố chợ. Của hồi môn, ông ngoại cho đem theo chỉ là một cái nồi đồng. Nó là vật gia bảo đời bà sở, bà sơ, bà cố tui để lại.


“Cơm chín nồi đồng, già thêm chút lửa.
Dưới đáy nồi, dề cơm cháy vàng rơm.
Rải chút đường, má rắc thêm tóp mỡ.
Của quê nghèo, thương quá má – quê hương!”
Nồi đồng nầy má cưng dữ lắm! Ít khi má đem ra xài; trừ phi đám nhóc thèm mỡ, thèm đường, đòi ăn cơm cháy. Bằng không, má chỉ xài nồi đất, nồi gang hoặc nồi nhôm. Nồi đất là “dách lầu” nhưng dễ bể, nồi gang thì giòn, hay bị sứt quai.
Cả đời, tui không muốn đi đâu, xa má của tui hết ráo; vì tui vốn chết nhát, sợ ra đời đụng chạm không lại người ta. Ðời tui gẫm lại giống như cái nồi đất trong bài ngụ ngôn của La Fontaine:
“Nồi Gang đến chơi nhà nồi Ðất.
Ðề nghị cùng nhau dắt đi chơi.
Ðất rằng: “Yếu đuối như tôi.
Chỉ quanh xó bếp suốt ngày là khôn!
Bởi lẽ đệ xương mòn da mỏng.
Nếu chạm va tất hỏng cuộc đời!”

o O o
Theo các khảo cổ học, nhân loại đã trải qua các thời kỳ: đồ đá, đồ đồng, đồ sắt và nay là đồ… đểu.
Gọi là đồ đểu đúng quá xá luôn, vì ngay cơm cháy bán trong nước bây giờ nó cũng chơi đểu. Nó xài bếp gas nóng tới vài trăm độ C. Cho cơm mới chín lên chảo gang, dùng một cái vá, nhận lớp cơm cho đều, tráng chừng 5 phút thì ra được một dề cơm cháy. Xong thêm tôm khô, lạp xưởng, thịt ba rọi… gì gì đó lại càng trật sách vở. Cái nầy là cơm chiên khô cứng vì không xài dầu, xài mỡ. Còn cơm cháy quê hương, là cơm cháy đồng nội với khói lam chiều xưa, không phải là món ăn chánh, chỉ để ăn tráng miệng sau bữa cơm.
Bữa nào đáp ứng theo yêu cầu của đám con lóc nhóc đòi ăn cơm cháy, má tui mới đem cái nồi đồng ra. Rồi gạo lúa mùa, bếp chụm than đước. Cơm vừa chín, má cời than cho đều, già lửa thêm một chút. Xong xuôi, má cầm cái đũa bếp bằng tre cạy, lớp cơm cháy sẽ tróc ra. Má chan vài muỗng mỡ nước, rắc chút đường cát trắng mịn và vài tép mỡ. Mỗi đứa được má cho một miếng ăn, nhai giòn rụm là nhớ tới già hè.
o O o
Nhưng khi CS Bắc Việt tấn công Miền Nam làm binh lửa cháy lan nhà, quê cũ/Bồng bế nhau đi, khói lửa mịt mờ/Ði đi mãi… thương phận người ủ rũ/Dạt quê người đành nhận đó quê hương!
Bây giờ, quê người chỉ xài nồi cơm điện thì làm sao già thêm chút lửa? Nên dưới đáy nồi, dề cơm cháy… là mơ!/Bao năm sống quê người… chạng vạng/nẻo chưa về; chỉ thấy bóng hoàng hôn!
Tui thiệt tình trong bụng chỉ muốn chủ nghĩa CS nó “on-bon phi-nan”, tui sẽ lò dò dắt em yêu, vì hai đứa tui đã già háp cả rồi, bay về quê cũ, nhà cũ để tui lục ra cái nồi đồng của má tui để lại. Tui đi mua than đước Cà Mau, mua gạo Nàng Hương Chợ Ðào, Cần Ðước, Long An. Tui sẽ tự tay nấu cơm cháy giòn tan đãi cho em yêu ngán tui chơi, chớ tui không có dóc tổ, cái lưỡi dài hơn cái tay như VC đâu nhe.


Còn bây giờ thì thân tui:
Nước mắt cơm chiều, người viễn xứ.
Con mơ về nhà cũ đêm đêm.
Ba đọc báo, má ngồi may vá.
Anh em con, dề cơm cháy, bên hè.
Nói nào ngay:
Dề cơm cháy không phải dề cơm cháy.
Là bữa cơm chiều: có má, có ba.
Có anh, có em, quây quần mỗi tối.
Có thanh bình, có những ngày vui!
Nhớ hồi xưa thương thằng em, cho mầy một miếng.
Ðể sau này mày lãnh anh qua.
Ðể má mất anh em mình đều khóc!
Má mất rồi, dề cơm cháy còn đâu?!
Hu hu!


ĐXT


[Image: E68-A60-DE-59-CD-4141-84-C0-3576-BB74-B411.webp]
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#26
Cha Tôi, Chết Không Cần Quan Tài
Đào Nam Hòa

Con ghi lại bài này thay cho nén hương lòng để thành tâm tưởng nhớ đến Bố Mẹ nhân ngày giỗ Bố lần thứ 8 và giỗ Mẹ lần thứ 7 (Đào Nam Hòa.)

Tôi không biết bắt đầu câu chuyện từ lúc nào, nhưng có lẽ ấn tượng nhất và rõ nét nhất mà hầu hết người dân miền Nam Việt Nam nhớ mãi là ngày 30/4/1975.

Khi miền Nam sụp đổ cũng là lúc bất ngờ tất cả nỗi thống khổ đày đọa ập xuống. Nhanh như một cơn cuồng phong thịnh nộ phá nát tan hoang. Mất tất cả!
Ngày 10/06/1975 tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Trước khi đi cái gọi là “học tập cải tạo” 10 ngày, dù với suy nghĩ chỉ là 10 ngày như lời thông báo, cha tôi cũng không có lấy mấy ngàn dằn túi. Ông bảo tôi (lúc đó 19 tuổi) đem 2 chỉ vàng cuối cùng còn lại của gia đình- là đôi bông tai của bà nội tôi để lại- ra tiệm vàng bán. Đó là kỷ vật quý nhất nhưng đành phải bán để mua ít lương thực cho ông mang đi. Hai chỉ vàng lúc ấy bán được 33 ngàn. Ông mua khoảng 2 ngàn đồng lương thực các thứ và dằn túi 1 ngàn. Còn lại 30 ngàn ông dặn ở nhà cố gắng 13 mẹ con dè xẻn ăn uống đợi Ông về.

Mười ngày trôi qua nhanh chóng- không ai trong số cải tạo trở về. Tôi nghĩ đây là một cú lừa mà đã và sẽ được lịch sử ghi lại kỹ hơn. Giá sinh hoạt tăng từng giờ. Buổi sáng 100 đồng 1 ổ bánh mỳ thì chiều đã lên 120. Sau 3 tuần thì 12 anh em tụi tôi và mẹ tôi không còn một đồng nào trong nhà. Chị tôi lớn nhất 21 tuổi còn đang đi học, và em út mới có 2 tuổi. Mười hai con tàu há mồm tuổi đang lớn nuốt bao nhiêu cho đủ! Cơm và thức ăn mỗi bữa mẹ tôi phải chia cho từng đứa. Vài hột cơm sót nơi đáy nồi cũng không yên. Chúng tôi đổ nước vào và cạo sạch không còn một hột. Còn hơn là gạo châu củi quế.
Mẹ tôi và vài đứa em phải đi xâm canh làm ruộng rau muống, một hình thức của kinh tế mới để giãn dân,. Không lên voi nhưng phải xuống chó, mẹ tôi và em tôi ngày ngày vào ruộng hái rau muống xong gánh bộ về tới chợ cách đó 6 cây số để bán. Buổi sáng khoảng 3 giờ khi trời còn mờ mịt hơi sương và giá lạnh, mẹ và em tôi thay nhau gánh bộ cho kịp phiên chợ sáng. 70 bó rau oằn trên vai người phụ nữ nhỏ bé cao 1,45 nặng chưa tới 40Kg. 6kg rau mới đổi được 1 kg gạo. Một tuần mới cắt được một lần chờ cho rau mọc. Những ngày còn lại là cấy rau, nhổ cỏ, trồng khoai mỳ…

Sức ăn trước ngày 30/4/75 của gia đình tôi một bữa là 3 lít gạo, tức 1 tuần 42 lít, khoan nói chuyện thức ăn cá mắm gì hết. Nay 1 tuần chỉ còn 13 lít!
Bắt đầu tháng 7/1975 lần lượt đồ đạc trong nhà mọc cánh nhẹ nhàng, nhanh chóng, lả lướt, bay đi theo chân những kẻ buôn hàng. Từ cái quạt trần, tôn cống, hàng rào, tủ quần áo, đài radio, giường sắt, đồng hồ treo tường, đồng hồ đeo tay … đều giã từ để về với chủ mới. Hết sạch đồ thì mấy kẻ đi buôn bảo giở gạch bông, gIở bớt tôn ngoài mái hiên, tôn trần nhà.. bán tiếp.

Bán cho đến khi căn nhà nhỏ bỗng trở nên rộng tênh vì chả còn thứ gì ngoại trừ vài cái nồi nấu bằng củi đen thui cũng đã sứt quai gãy gọng. Buổi tối trải chiếu ngủ dưới đất là xong với cái bụng lép kẹp và cơn đói hành hạ.

Không biết bao lần tôi phải ăn tưởng tượng trong đêm khuya bằng cách hình dung mấy món ăn tầm thường ngày trước như vài con khô, miếng dừa kho, tô canh bầu.. ( Mơ mà cũng hà tiện không dám mơ thịt cá hải sản.)

Bố tôi sau 6 tháng trong trại cải tạo lần đầu được viết thư về, Ông dặn khi lên thăm nuôi, không cần mang theo gì cả vì trong trại có đủ mọi thứ. Hic!
Ông hiểu hơn ai hết, còn cái gì để mà mang cho ông!

Tôi nhớ mãi ngày lên thăm nuôi ông ở trại Thanh Hoá (Hố Nai), cả nhà chỉ có 1 cái xe đạp, còn lại mẹ và các em tôi cuốc bộ 8 cây số mang theo 1 cái giỏ đi chợ lưng lửng với ít thịt kho mắm ruốc, 1 ký đường, 2 hộp sữa và 1 bộ quần áo. Nhìn những người đi thăm nuôi, có người gánh 2 bao đầy mà lòng tôi trào dâng niềm tủi hổ.

Sau đợt đổi tiền ngày 22/9/1975, Chúng tôi như đàn chim vỡ tổ, tất cả bỏ học ngang, vài đứa em nhỏ tiếp tục theo mẹ làm ruộng rau muống, còn lại mỗi đứa một phương trời kiếm sống. Đứa lên Gia Ray vào rừng lấy củi, làm lò than, đứa theo xe lửa bán trà đá, hàng rong, đứa bán thuốc lá.

Hơn 3 năm sau Bố tôi được cho về để nhìn xác nhà tan hoang điêu tàn loang lở, nhìn bầy con xanh khướt, gầy rạc, tản mát. Một chị tôi bệnh tâm thần không người chăm sóc phải lang thang ăn xin đầu đường xó chợ, có lần xin không được, quá đói, chị giựt mấy miếng đậu hũ bỏ chạy, chị bị người ta phang đòn gánh chảy máu lỗ đầu giữa ngày bố tôi được tha về.

Bố không khóc, cũng không nói gì! Qua hàng xóm xin ít bông băng. Lòng ông như xát muối! Có lẽ ông bấy giờ mới thấm sâu mệnh đề “mất Nước là tất cả mất”. Khóc lóc than van ích lợi gì. Giọt nước mắt chỉ làm cho kẻ chiến thắng hả hê say sưa thêm mà thôi.

Rồi theo chủ trương, ông không được ở lại thành phố. Họ hàng nhà tôi đa số cũng là thành phần Ngụy quân, Ngụy quyền nên không ai giúp gì được cho nhau. Cuối năm 1978 Ông lên rừng Gia Ray ngay chân núi, cất túp lều nhỏ bé xiêu vẹo, ngày ngày ông và 2 em tôi sống nhờ rừng.

Ai ở rừng mới biết: ăn của rừng rưng rưng nước mắt! Và từ đó chuỗi ngày lầm than, buồn thảm lại tiếp tục sau hơn 3 năm trong trại cải tạo. Đói nhiều hơn no, buồn nhiều hơn vui. Cực khổ nặng nhọc quần quật suốt cả ngày chỉ đủ kiếm vài lon gạo vài con cá khô.

10 năm sau, tôi đã làm ăn khá hơn, mua được chiếc xe máy Mini scootter, lần đầu tiên lên thăm Ông, quà cho Ông chỉ là 1 lít rượu đế nấu bằng rỉ mật. Ông mừng lắm vì tôi đã tương đối ổn định công việc.

Trong bữa cơm hôm đó, Ông nói:

-Bố năm nay 63 tuổi rồi, cuộc đời không dành cho Bố con mình được sống sum họp và đầy đủ. Dù sao các con cũng cố gắng vươn lên để thoát khỏi bệnh tật, đói khát và tù đày.

Rồi Ông chỉ tay dưới chân ngọn núi Chứa Chan:

- Nhớ lời Bố dặn, nếu Bố có chết, các con không cần quan tài làm chi cho tốn kém, cứ bó chiếu vùi thây Bố dưới chân núi là Bố mát mẻ rồi.

Thú thật, lúc ấy nếu tất cả 12 anh em tôi gom lại chắc cũng không đủ tiền mua cái quan tài loại chót. Ông biết và không muốn các con gánh nặng thêm!
Năm 1999, sau bao nhiêu là khó khăn vì không có tiền làm hồ sơ xuất cảnh diện HO, cuối cùng thì 4 bố con tôi cũng tới được Mỹ. Ngày lên đường mẹ tôi và 9 em phải ở lại vì hộ khẩu lung tung không đuợc phái đoàn Mỹ chấp thuận.

Bốn bố con mà hành trang vỏn vẹn có 5 va ly nhỏ và nhẹ tênh, chưa tới 1/3 tiêu chuẩn trọng lượng.

Đến Mỹ 3 anh em tôi phải đi làm ngay sau tháng đầu tiên để kiếm tiền trả nợ lúc làm hồ sơ. Bố tôi thì ăn welfare vì Ông đã 74 tuổi. Ban đầu hội thiện nguyện giúp thuê nhà, 4 bố con phải ở chung trong 1 căn apartment 2 phòng ngủ cùng với 2 người nữa là 6 người. Quá chật, chúng tôi đành ra ở riêng trong khi Bố tôi được chính phủ Mỹ cho ở nhà Housing. Và từ đó Ông sống cô độc, một thân một mình. Nhưng cũng là lúc Ông làm được một việc lớn nhất, to nhất, ý nghiã nhất kể từ sau ngày 30/4/1975! Hàng tháng Ông trả tiền điện và tiền nhà chưa tới tổng cộng 80$. Thức ăn thì Ông đi xin các Hội từ thiện miễn phí. Có lần tôi giận Bố kinh khủng. Gia đình tôi cố tình chở Ông vào 1 quán kêu cho Ông mấy món ngon, Ông từ chối, chỉ xin cho 1 diã bánh cuốn là đủ. Ông nói: Ở Việt Nam nhà mình còn quá khổ, Bố không đành ăn ngon bên này nhưng các con đi làm vất vả cần bồi bổ, cứ ăn đi. Mỗi tháng số tiền dư còn lại gần 400$ Bố để dành và cứ 6 tháng Bố gởi về VN cho Mẹ và 9 đứa con còn ở lại.

Chị cả tôi viết thư qua có câu: “Bố ơi, nhiều lần con phải đi bán máu với số tiền 200 ngàn một lần để có tiền nuôi con. Để có 200 ngàn đồng tiền Việt, tụi cò máu nó đã ăn chặn mấy chặng rồi. Cầm 300$ Bố cho mà con cứ ngỡ trong mơ. Đời con chưa bao giờ cầm số tiền lớn như thế… Phải bán 10 lần máu chỉ mới được 150$ …” Bố đọc thư không khóc! mặc dù Bố biết chị chỉ cân nặng có… 34 Kg! Hic! Gan góc đến thế là cùng! Rồi việc phải tới! Một ngày mùa đông năm 2006, tức sau gần 8 năm ở Mỹ. Tự dưng Bố kêu và đưa tôi 8.000$ và một tờ di chúc – nét chữ vẫn còn rất đẹp dù đã có dấu hiệu nghệch ngoạc biểu hiệu của tuổi già – trong di chúc có nói rõ:

Khi bố chết đi, bố đã hỏi cô Hoa, người của hội thiện nguyện, và biết rằng tiền hỏa thiêu không quan tài chỉ mất có 800$ thôi!. Bố nói bố không cần quan tài, không cần để nhà quàn làm gì cho tốn dăm ngàn, cứ để người ta đưa thẳng bố đi thiêu, trừ tiền thiêu ra, còn bao nhiêu con cứ làm theo di chúc gởi về cho người bên Viet Nam.. Sau đó mấy ngày, Bố đột qụy! Người ta đưa Bố vào trại Dưỡng lão. Rồi Bố hấp hối.

Ba anh em tôi họp nhau và quyết định làm theo di chúc của Bố. Và chúng tôi phải ký một hợp đồng với nhà thiêu. Khi Bố tắt thở, sau 1 tiếng người ta đuổi hết anh em tôi ra, trong phòng người ta bỏ Bố vào 1 cái bao và kéo cái fermeture là xong! Quá đơn giản cho một kiếp người! Khả năng 3 anh em tôi lúc đó mới đi làm ăn lương 1 giờ 8$ (lương tối thiểu ) chỉ vừa đủ tiền nhà tiền ăn. Vẫn biết có làm đám tang bỏ Bố vào quan tài bằng vàng với hàng ngàn người tham dự cũng vậy thôi vì Bố đâu biết gì nữa mà sao tôi vẫn cảm thấy xót xa vô bờ. Cuối đời của một sĩ quan, từng chỉ huy hàng mấy trăm lính, từng chỉ huy mấy cung đường sắt, âm thầm, vắng lặng và quạnh hiu. Không ai biết, không ai đưa tiễn! Y như một chiến sĩ vô danh! Người ta bỏ Bố lên chiếc xe kéo, đẩy ngang chỗ chúng tôi đang đứng, tất cả con, dâu và cháu chỉ có 5 người, họ dừng lại và hỏi chúng tôi có muốn nói gì không. Tôi có cảm tưởng như một luồng điện lạnh chạy xé dọc sống lưng. Tôi chỉ lắp bắp nói như kẻ không hồn:

- Vĩnh biệt Bố. Từ nay Bố không còn phải hy sinh nữa Bố nhé. Công ơn của Bố cao hơn núi Thái Sơn Bố ạ!

Rồi họ lạnh lùng kéo Bố tôi đẩy lên chiếc xe dài, đi chỗ nào thiêu hay làm gì, ở đâu, chúng tôi không được biết! Họ làm theo hợp đồng.

Tôi không khóc! Không còn nước mắt để khóc!

Hai tuần sau tôi lấy tro cốt Bố. Khi cô nhân viên nhà xác đưa hộp tro cốt ở dưới có ghi tên bố tôi, chỉ đến lúc bấy giờ, nước mắt tôi tự dưng tuôn ra đầm đìa – vô thức!




Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#27
Đinh Công Chương: Người tù kiệt xuất
Song Long

Mỗi lần tâm tư tôi giao động vì những biến cố liên quan đến nước nhà, tôi lại phải ngẫm nghĩ đến một nhân vật chống Cộng khi xưa lúc tôi còn bị đám CSVN giam giữ với cái tên rất là nhân đạo: “cải tạo!” Phải nói rằng tâm tư tôi giao động: có nên chống Cộng nữa hay không, hay mình nên hòa hợp hoà giải cho xong chuyện. Tôi là ai mà cứ phải mãi chống Cộng chứ? Biết bao người đã từng bạo phổi tuyên bố này nọ, vậy mà cuối cùng cũng đã bị “Việt Cộng” chiêu hồi, làm cho chính nghĩa của chúng ta có lần đã phải điêu đứng. Gần đây nhất có những quân nhân đã từng khắc vào tay hai chữ “sát Cộng”, nhưng cũng bị đám Cộng Sản Việt Nam chiêu dụ. Họ đã mệt mõi rồi chăng? Chẳng những thế, những người đó đã về lại cái đất tự do này tuyên truyền cho cái chủ trương hoà hợp hoà “giái” ấy! Trước những sự kiện ấy, đương nhiên là lòng tôi bị chao đảo thật sự. Tôi biết tôi chưa từng mò lên được cái chức vụ hàng đầu là phó tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, cũng chưa từng làm một nhà báo nổi tiếng, một kịch sĩ trứ danh đã khóc lóc thê thảm như cha chết mẹ chết vậy trước sự tuyên truyền láo khoét của Việt Cộng!

Tôi chỉ biết tôi là thằng thằng bé thuộc loại nobody của Miền Nam Việt Nam chưa từng được diễm phúc vào học trường “Quốc Gia Nghĩa Tử” để được hun đúc ý chí chống Cộng. Tôi chỉ biết tôi là một thằng con trai có cha bị Việt Cộng cắt cổ lôi đi mất xác, có chú bị Việt Cộng trụng nước sôi thảm tử! Tôi chỉ biết tôi là một thằng bé tiểu chủng sinh đã từng lượm một lưỡi kiếm hoen rỉ tại một nghĩa địa tại Qui-Nhơn mang về mài sáng chiều trong ba tháng hè cho nó trắng toát ra với quyết tâm sẽ đi đòi mạng những kẻ đã giết cha, chú của mình! Tôi chỉ biết tôi là một quân nhân QLVNCH có nhiệm vụ bảo vệ đồng bào chống lại sự tàn ác của Cộng Nô, đã từng làm cái nhiệm vụ “sống để bụng chết mang theo!” Nghe đâu giờ đây cái khẩu hiệu ấy đã chỉ còn có một ý nghĩa thôi. Đó là đơn vị của tôi, một đơn vị lúc nào cũng tiếp tục chiến đấu, cho dù đó là thời bình hay thời chiến. Chúng tôi còn những người anh em vẫn còn bị nguy hiểm nếu kẻ thù biết được danh tánh của họ. Vậy mà có những kẻ đã cố làm cho nó lộ ra, vỗ ngực xưng tên của mình vì sợ rằng có những kẻ không biết đến mình! Họ có bao giờ nghĩ đến sinh mạng của những anh em khác đang bị đe doạ không? Tôi chỉ biết tôi là một tên tù “cải tạo” của các “trường cải tạo” của chúng với một lập trường rõ ràng trong sáng, từng được những anh em cùng chung lập trường chống Cộng thương yêu.

Tôi đã tiếp xúc với rất nhiều nhân vật, từ những nhân vật đã từng nắm nhiều chức vụ then chốt của chính quyền VNCH, những cấp sĩ quan cao cấp trong QLVNCH, đến những người lính, những Cảnh Sát Viên mà nếu có ai nhắc tên cũng chẳng ai biết đến. Nhưng phải nói một sự thật đau lòng là càng nắm những địa vị cao, những vị này càng tỏ ra yếm thế, nếu không nói là khiếp sợ không dám nói năng gì cả khi đối diện quân thù. Tôi không cố ý vơ cả đũa, vì trong số những người đó cũng có những vị rất anh hùng. Những người dám chống đối lại bọn chúng, phần lớn là những người rất tầm thường, những nghĩa quân, cảnh sát viên quèn, những viên trung sĩ hoặc những viên sĩ quan cấp úy! Giờ đây chính những người ấy và con cái của họ tiếp tục con đường chống cộng còn dang dỡ. Có người gợi ý tôi nên hỏi xem đâu rồi các cấp lãnh đạo một thời đó hoặc con cái của họ, thế hệ một rưỡi, thế hệ hai của họ. Sao họ không ra mặt đấu tranh chung với những người thuộc lớp hạ tầng như chúng ta?

Xin thưa chung chung rằng: quý vị hãy tiếp tục đấu tranh đi rồi khi nào thành công sẽ thấy họ hoặc con cái họ đứng lên cầm cân nãy mực cho chúng ta. Lo gì chứ? Chúng ta là những viên đá ba-lông, những viên đá móng, những viên gạch nằm dưới của một ngôi nhà Việt Nam. Chúng ta có nhiệm vụ phải quyết tử cho tổ quốc quyết sinh! Chúng ta là nền móng. Chúng ta không phải là thượng tầng của ngôi nhà. Nên chi chúng ta không cần phải xem thượng tầng kiến trúc là ai. Lúc ngôi nhà được hoàn thành, cái mái nhà ấy sẽ xuất hiện thôi. Họ là những người được sinh ra chỉ để cho các cương vị lãnh đạo, không phải để chiến đấu, để hy sinh như chúng ta. Vậy thì xin quý vị đừng có hỏi xem họ hiện đang ở đâu và làm gì? Họ vẫn ở đó, lẩn quẩn quanh chúng ta thôi. Không chừng họ còn đang chén cha chén chú với kẻ thù chúng ta cũng chưa biết chừng. Rồi một ngày nào đó khi cỗ bàn đã dọn ra, quý vị sẽ thấy họ ngồi đầy ra đó. Lúc đó họ sẽ tha hồ mà tuyên bố vung vít!

Xa rồi mấy chục năm kềm kẹp. Xa rồi những loài khỉ mà chúng ta được dạy phải gọi là ông là bà. Chúng ta, những người tù, những người họ “Phạm” bất đắc dĩ, đã tạo ra một loại súc vật mới, loại “ông bà”! Đám súc vật này đã cố tình hạ nhục chúng ta, gọi chúng ta là “đồng bọn” đối lại “đồng chí” của bọn chúng. Thế nhưng chúng ta đã không ngã quỵ; chúng ta đã không gục ngã, mặc dù có một số kẻ đã mất niềm tin, đã cam tâm làm ăng ten, làm tay sai nối giáo cho giặc.Tuy vậy, thỉnh thoảng chúng ta cũng có được những người anh hùng. Trong các trại tù của bọn chúng, những vị anh hùng đó đều có mặt. Họ đã làm cho đám vuốt đuôi ấy có phần hoảng sợ! Gương những người hùng ấy vẫn còn đó, vẫn không làm sao xoá mờ được. Họ là những mẫu người đã giúp tôi sống kiên cường, không mất phương hướng. Hôm nay, ngẫm nghĩ lại, tôi xin đưa cho quý vị một mẫu người hùng như thế.

Trước kia, tôi chưa từng biết Đinh Công Chương là ai. Thật ra tôi không biết anh cũng phải, vì anh là người dân Bình Khê, thuộc đất Bình Định, còn tôi hoạt động vùng Quảng Ngãi. Tuy trước đó tôi đã hoat động ở Bình Định được trên bốn năm, nhưng phạm vi hoạt động của tôi cũng chỉ lẩn quẩn bên trong Sư Đoàn Mãnh Hổ Đại Hàn. Tôi thuộc Biệt Đội 5 Quân Báo cạnh Sư Đoàn Mãnh Hổ nên hoạt động của chúng tôi vì thế bị rất nhiều hạn chế, không quen biết nhiều với các đơn vị địa phương thuộc tỉnh Bình Định. Vã lại, vì anh cũng chỉ là một nobody như tôi, một nhân viên Cảnh Sát sắc phục tầm thường không tên tuổi thuộc quận Bình Khê, nên làm sao mà tôi biết đến anh được. Tôi hân hạnh được biết đến anh nhờ tôi ở chung trại cải tạo với anh, trại Nghĩa Điền thuộc K18 Kim sơn, và nhờ một cơ duyên. Nhắc đến cơ duyên ấy tôi bỗng rùng mình. Nếu lỡ ngày ấy mình chết thật ...

Năm 1978, tôi bị bệnh kiết lỵ amibe; cứ năm phút là phải đi cầu. Chẳng có gì cả, toàn là đờm thôi. Tôi bị cho vào phòng “cách ly” chung với một số người cùng mắc chung bệnh. Đây không phải là bị “nhốt ô” hoặc khám tối, không có cùm kẹp gì cả. Đây chỉ là một căn trại đóng kín suốt ngày dành riêng cho những người mắc những chứng bệnh truyền nhiễm chờ chết nếu không có ai chữa được. Và đợt này dành cho những người bị bệnh kiết lỵ amibe. Và quả thật, sau khi vào đó một vài ngày đã có một số người đã thật sự “thoát tù”! Họ tử vì bị vi trùng amibe bào thủng ruột của họ. Tôi nghe Bác Sĩ Nguyễn Công Trứ, vị bác sĩ phụ trách, nói thế.

Bác Sĩ Trứ là một Bác Sĩ Quân Y thuộc QLVNCH đã chịu hy sinh ở lại bệnh viện Qui-Nhơn để chăm sóc các thương bệnh binh còn nằm điều trị tại đây lúc Việt Cộng chiếm thành phố khoảng đầu tháng 4 năm 1975. Ông là người có công đã chôn cất cố Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, cùng 47 anh em tử sĩ thuộc Trung Đoàn 42/ Sư Đoàn 22 Bộ Binh tại Qui-Nhơn lúc Qui-Nhơn thất thủ. Sau một thời gian ngắn bị lợi dụng khi chưa đủ bác sĩ điều trị, vị bác sĩ này đã bị cho đi “câu gô” như những anh em khác. Xin mở ngoặc khi tôi đề cập đến chữ “câu gô” ở đây. Không biết chữ này có phải là một “từ của Việt Cộng” hoặc một chữ do anh em tù chúng ta đặt ra, nhưng theo tôi hiểu thì “câu gô” mang một nghĩa nhất định: bị tù tội dưới chế độ Cộng Sãn. Ở chế độ tự do, người tù đâu có đến nỗi đói khát phải “cải thiện”, một từ khác của Việt Cộng chỉ việc kiếm thêm chút đỉnh rau rác gì đó để nhét cho đầy cái bụng xẹp lép của mình! Đó là việc dùng một cái lon guigoz, sau này là một cái xoong nhỏ có quai thép tự chế, câu chung quanh lò hoàng cầm để ăn thêm!!!

Tôi cũng như một số anh em khác trong trại đã được Bác Sĩ Trứ cứu sống nhờ một sáng kiến táo bạo của anh. Anh đã đi gõ cửa từng trại của các anh em họ “Phạm” xin một số lọ streptomycine, một trong những lọ thuốc quý mà trạm xá của anh không bao giờ có. Thay vì chích, anh đã hoà với nước cho anh em trực tiếp uống. Sáng kiến phi trường lớp này của anh rốt cuộc đã cứu sống số anh em bị bệnh còn lại, trong đó có tôi. Trong thời gian bị nhốt chúng với nhau, chúng tôi có dịp “nói khó” với nhau, kể cho nhau nghe những chuyện anh hùng “chống Cộng Sản cứu đồng bào”! Tôi đã gặp đám anh em nghĩa quân Bình Khê, những trung đội trưởng nghĩa quân. Những anh em này đã kể lại những chiến công hiển hách của họ quanh khu vực lăng Mai Xuân Thưởng. Họ đã chỉ cần có 60 quả mìn claymore thôi đã diệt hầu như toàn bộ các sĩ quan cao cấp của Sư Đoàn Nông Trường Ba Sao Vàng Bắc Việt, làm cho họ phải án binh bất động một thời gian dài để bổ sung quân số, làm cho vị tư lệnh sư đoàn 22 BB phải khiển trách thuộc hạ vì đã để lỡ mất cơ hội lập chiến công cho mình, làm cho vị tư lệnh Sư Đoàn mãnh Hổ Đại Hàn bực tức phải đuổi vị trung đoàn trưởng Thiết Kỵ của mình về nước cũng vì lý do trên.

Có lẽ một số quý vị không hiểu tại sao nghĩa quân Bình Khê lại làm được một chiến công hiển hách như thế mà không tốn một sinh mạng trong khi hai sư đoàn chủ lực thiện chiến lại bỏ mất cơ hội đáng tiếc ấy. Thật ra chuyện ấy cũng đơn giản thôi. Vùng trách nhiệm chiến thuật (TAOR) của hai sư đoàn trùng lập với nhau. Vì thế cả hai sư đoàn đều nhượng nhau ở đường ranh giới trách nhiệm ngang qua lăng Mai Xuân Thưởng. Lợi dụng cơ hội đó, Cộng Sản đã dùng con đường này làm đường giao liên phát xuất từ Núi Bà xuống vùng ven tỉnh lỵ. Hôm đó quả có một phái đoàn sĩ quan cao cấp của Sư Đoàn Nông Trường 3 Sao Vàng Bắc Việt xuống vùng ven tỉnh lỵ Qui-Nhơn để gắn huy chương cho bộ đội của chúng. Nghĩa quân Bình Khê nhờ may mắn bắt được tin ấy và thế là họ đã tạo nên chiến thắng có một không hai như “xi nê của Cộng Sản” ấy, một trận sát địch mà chỉ có tổn thất nặng cho phe địch. Đúng là hay không bằng hên!

Trong lúc điểm danh những chiến sĩ anh hùng của Bình Khê, anh em vô tình có nhắc đến Đinh công Chương, một nhân viên cảnh sát rất nhỏ nhưng lòng căm thù Cộng Sản rất lớn, hiện đang bị án 20 năm và giam giữ tại trại Một Kim Sơn, K18. K18 có nhiều phân trại, trại chính là trại Một. Các phân trại gồm có trại 2, trại nữ, và trại Nước Nhóc. Trại 2 và Trại Nữ cách trại 1 không xa, nhưng trại Nước Nhóc ở một vùng núi rất xa. Rất tiếc là tôi chưa từng được đưa đến đây nên chỉ kể sơ như thế thôi. Tôi được nghe anh em kể chuyện về anh Đinh Công Chương và ao ước muốn gặp được anh một lần để làm quen với người anh hùng sát cộng ấy! Nhưng anh lại ở mãi trại 1. Biết bao giờ tôi mới hân hạnh được gặp con người lừng danh ấy.

Nhưng sự đời có nhiều việc không ngờ. Phong trào phản động trong nước lại bùng lên. Có phải vì việc đó hay không, tôi không biết, chỉ biết một lần nữa chúng tôi lại phải dời trại. Trại 2 Kim Sơn bị hủy bỏ và toàn bộ trại bị dời sang Nghĩa Điền, một trại sâu xa trong núi. Tại đây tôi may mắn được cái điều tôi luôn luôn tìm kiếm. Một bộ phận tù nhân có trọng án cũng được chuyển đến trại Nghĩa Điền từ trại 1 Kim Sơn. Qua sự giới thiệu của bạn bè gốc Bình Khê, tôi dần dần quen biết với Đinh Công Chương.

Anh là một người bảnh trai, với nụ cười lúc nào cũng nở trên môi. Qua lời kể lại của những người đã từng quen biết anh, anh là một võ sĩ có tầm cở, tuy anh chưa bao giờ lên đài cả. Tất cả những võ sĩ tôi gặp trong tù đều cho rằng họ đều không phải là địch thủ của anh nếu phải đối địch. Anh học võ chỉ vì anh có một mối thù truyền kiếp với Việt Cộng. Anh cần phải đòi nợ những kẻ đã giết cha anh. Vì thế anh đã gia nhập vào lực lương cảnh sát Bình Khê. Mặc dù anh không phải là Nhảy Dù hoặc Thủy Quân Lục Chiến với dấu xăm “sát cộng” trên cánh tay, nhưng anh đã là một sát thủ thứ thiệt. Anh rất căm ghét đám Cộng Sản nằm vùng địa phương. Bộ đội Bắc Việt anh có thể tha, vì nghĩ rằng họ bị bắt buộc phải nhập ngũ. Nhưng cái thứ ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng Sản, các cán bộ, bộ đội, du kích địa phương thì anh không thể nào tha thứ được, vì họ là chính phạm đã làm tan nát gia đình anh. Bắt được những người này là anh bắn ngay không cần phải hỏi han gì cả. Chẳng những thế, anh còn bắn chết những tù binh do các đơn vị bạn, các đơn vị đồng minh bắt.

Theo luật pháp lúc bấy giờ, anh có thể bị truy tố ra tòa và đi tù vì tội giết tù binh. Nhưng vì thương tình anh là một chiến sĩ chống cộng, nên các cấp chỉ huy không đưa anh ra tòa, chỉ tướt súng anh thôi. Mặc dù không còn súng nữa, anh vẫn giết Việt Cộng như thường bằng tay không. Chỉ cần cho anh bắt gặp, nạn nhân sẽ bị vặn đầu trật khái khế ngay. Sau ngày 30 tháng 4, 1975, anh bỏ trốn vô Sài-Gòn. Nếu anh bị bắt ngay từ đầu, có lẽ anh đã không còn mạng để trở về. Anh đã may mắn là chỉ bị bắt khi luật pháp của CSVN đã được ổn định trở lại. Do đó anh đã lãnh án 20 năm.

Biết rằng tôi vẫn còn giữ vững lập trường quốc gia với cái tên cúng cơm là H. T15, anh hay qua lại nói chuyện với tôi trong những khi rảnh rổi. Anh thường than phiền rằng có lẽ anh sẽ phải chết rục trong tù. Để an ủi anh, tôi khuyên anh nên nhẫn nại. Tôi cũng chỉ biết nói vậy thôi, chứ bản thân tôi, tôi cũng chẳng biết tương lai của mình ra sao nữa. Có nhiều lúc, tôi cũng nghĩ đến chuyện trốn trại, nhưng tôi cho là vô ích, vì không lẻ trốn về nhà để bị bắt lại. Tôi chia sẻ với anh những gì tôi suy nghĩ trong đầu với mục đích để an ủi anh. Bây giờ cả đất nước là của họ rồi, còn đi đâu nữa?

Không ngờ những ý tưởng đó lại làm cho anh có một quyết tâm mới. Thà trốn trại còn hơn chết rục trong tù. Anh lên một kế hoạch trốn trại táo bạo. Một sáng Chủ Nhật, trong lúc nói chuyện với anh em chúng tôi, thừa lúc không ai để ý anh nói nhỏ với tôi: “Tôi đến đây để từ giả anh. Lòng tôi đã quyết. Tôi phải đi thôi!” “Anh đã tính kỹ chưa? Đã biết bao cuộc trốn trại từ Nghĩa Điền đều thất bại. Gần đây nhất có cuộc trốn chay của một số anh em người Thượng vùng Sơn Hà. Họ rành đường núi. Nhưng rồi Đinh Giàu và Đinh Văn Ôn đã bị bắn chết, còn Đinh Nía bị chết rục trong ô.” Tôi nói. Anh cười: “Tôi mà đi, tôi sẽ không đi như mấy anh đó đâu? Tôi phải có gì trong tay tôi mới đi. Mà đi là phải vượt biên chứ không về nhà! Tôi chả dại để bị bắt lại lần nữa.”

Tưởng anh chỉ nói để mà nói, không ngờ anh đi thật! Anh thuộc toán nhổ mì do tên cán bộ Nhường phụ trách. Thật ra, trong số các cán bộ quản giáo, tên Nhường dễ chịu nhất, không đến nỗi phải tới số. Nhưng biết làm sao được khi anh Chương lại không có một đường lựa chọn tốt hơn. Tên Nhường đã chọn ra khoảng 15 người từ phòng trọng án. Đa số có án 20 năm, có thể lực tốt. Lúc đầu, theo giữ toán nhổ mì còn có một tên lính quản chế đi kèm, mỗi ngày một tên khác. Sau một thời gian sinh hoạt, dần dần tên Nhường mất cảnh giác đi, không cần có lính quản chế khác nữa.

Thật ra cũng chẳng phải hắn ta tốt bụng gì đâu. Hắn ta muốn mua chuộc anh em tù nhân dưới quyền của hắn để làm việc riêng cho hắn đó thôi. Lúc đó đang có một chiến dịch tăng gia sản xuất trong hàng ngũ của bọn chúng. Mỗi cán bộ “quản giáo” hoặc “quản chế” phải trực tiếp thực hiện. Mỗi tên được cấp cho một sào đất để canh tác. Tên Nhường lợi dụng cảm tình của anh em dành cho hắn cứ mỗi Chủ Nhật vào nhận một số anh em ra để làm việc cho hắn. Mỗi lần như thế, hắn ta cho anh em được mua thêm một ít khoai mì hoặc gạo của dân chúng bên ngoài để “bồi dưỡng”. Như thế hắn vừa được việc vừa chẳng tốn công tí nào. Hắn lại không muốn trên cơ quan biết đến mưu mô của hắn. Do đó hắn tìm cách bớt đi tên lính quản chế để chúng khỏi biết được những việc làm đen tối của hắn.

Ngày thứ bảy định mệnh năm ấy, có lẻ năm 1980 hoặc 1981 tôi không còn nhớ rõ, như thường lệ, toán nhổ mì do anh Đinh Công Chương làm trưởng toán được tên Cán bộ Nhường dẫn đi nhổ mì như thường lệ. Đây là một vùng núi rất sâu về phía Tây có lẻ thuộc Quận Hoài Ân. Sau khi vượt qua một số ngọn đồi, anh em đến một đám mì thuộc hàng cố nội. Nhìn những cây mì này anh em thấy phát ngán vì chúng rất to, cây nào cây nấy to cao có thể mắc võng nằm được. Có lẻ đám mì này là một trong số những đám mì đã trồng trước năm 1975 bị bỏ hoang. Vì biết công việc hôm nay sẽ rất nặng, anh em bắt tay vào việc ngay, hy vọng sẽ hoàn thành được công việc trước khi trời tối: mỗi người phải đào cho được một gánh đầy. Anh em chia làm hai toán, một toán lo đi phát những sợi dây leo vướng mắc. Không phát những dây leo chằng chịt này sẽ không cách vào len vào được chứ đừng nói đến chuyện nhỗ mì. Toán thứ hai dùng cuốc bàn cuốc sơ quanh gốc để cho dễ nhổ. Sau đó anh em bắt đầu chia ba người một tổ xúm nhau nhổ mì.

Vì là đất núi rất cứng nên tuy đã đào sơ quanh gốc, nhưng không phải vì thế mà dễ nhổ. Anh em phải hè nhau vừa lắc vừa tìm thế để nhấc nó lên. Nếu có củ nào bị sót, thì đã có xà beng để nạy. Mì hàng chục năm nên củ nào củ nấy to bằng cái đầu nên anh em hì hục đã buổi sáng mà chưa nhổ được mấy cây cả. Anh em nhìn nhau ngao ngán. Không “đạt” thế nào tối nay cũng sẽ bị kiểm điểm nặng!

Trong lúc giải lao 15 phút, anh Đinh Công Chương đại diện anh em đến xin tên Nhường cho một số anh em vào làng mua thêm gạo để “bồi dưỡng”, vì nếu anh em ăn không no thì không thể nào làm tiếp được. Tên cán bộ cũng đã quan sát và biết việc anh em xin cũng là điều hợp lý, nên đồng ý cho hai người đại diện đi mua sắm. Khi bắt tay làm việc lại, bỗng nhiên anh Chương đưa ra một ý kiến. Anh bảo mọi người hãy chờ anh một chút để xem anh biểu diễn sức mạnh. Mọi người đều biết anh Chương mạnh, nhưng mạnh như thế nào thì không một ai biết. Anh đi giữa hai hàng cây, giang hai cánh tay ra, mỗi tay nắm lấy một thân cây và nhổ một cách nhẹ nhàng hai cây một lúc giữa tiếng reo hò cỗ võ của anh em trong toán. Họ không ngờ anh lại quá mạnh như thế. Và cứ như thế, anh cứ tiếp tục đi và nhổ. Anh em chỉ việc dùng rựa để cắt ra từng củ một và cho vào thúng.

Chẳng bao lâu gánh nào gánh nấy đều đầy cả. Anh em nghỉ mệt để ăn uống. Vì đó là công của một ngày nên sau buổi ăn trưa anh em không phải làm gì nữa cả, chỉ việc đợi đến chiều là đi về thôi. Trong thời gian rảnh rổi này, một số anh em đi loanh quanh hái lá cây rừng để “bồi dưỡng” thêm. Anh em bỗng phát hiện một chú “cheo” chạy lạc đến. Anh em thận trong dí cho nó chạy ra ngoài trống để dễ đuổi bắt. Trong lúc anh em lo rượt đuổi con cheo, anh Chương chẳng làm gì cả. Anh cứ ngồi đó vấn thuốc hút, hết điếu này đến điếu khác. Bất ngờ, con cheo chay ngang qua chỗ anh đang ngồi.

“Nè Chương, chận con cheo ấy lại, không thì nó sỗng mất!”

Anh Chương không cần phải được nhắc lại lần thứ hai. Lúc con cheo vừa tầm anh dùng ngay cái cuốc bàn quật vào đầu con cheo một phát, giết nó ngay tại chỗ. Bữa hôm đó anh em được một bữa bồi dưỡng đúng đắn. Tuy không nhiều nhưng ít ra anh em trong toán ai nấy cũng được một ít thịt tươi trong bụng.

Chẳng bao lâu đã đến buổi chiều. Tên cán bộ Nhường cho lệnh về trại. Anh Chương là người trưởng toán nên anh đi sau cùng. Anh em theo con đường mòn quen thuộc để xuống núi. Đó là một đoạn suối khô đầy đá. Anh em trong toán cố gắng xuống triền núi thật nhanh để chờ đợi. Anh Chương vừa đi vừa kể chuyện tiếu lâm cho anh em nghe. Vì thế anh đi không nhanh lắm. Do đó chẳng mấy chốc bị anh em bỏ rơi lại phía sau. Không một ai biết đó là chủ ý của anh. Anh biết tên Cán bộ Nhường cũng khoái nghe anh kể chuyện vì hắn đã nghe anh kể chuyện tiếu lâm nhiều lần. Lúc đó trên đoạn suối khô ấy chỉ còn có một người đi trước anh, và tên Cán Bộ Nhường đi sau anh thôi. Càng lúc tiếng kể chuyện của anh càng nhỏ dần. Vì để nghe cho rõ hơn, tên cán bộ đã cố đi cho thật gần để nghe tiếp câu chuyện hấp dẫn. Anh chỉ chờ có thế. Khi tên cán bộ vừa tầm. Anh ném ngay cái gánh mì xuống đất và trở cán cuốc trên vai bổ ngang một phát ra sau. Cái cuốc bàn định mệnh lúc sáng đã quật chết con cheo giờ cũng đã đập vào đầu tên cán bộ làm cái sọ não của hắn bể ra óc phọc trắng xoá!

Không một tiếng la, chỉ có một tiếng “bốp” thôi. Người đang gánh mì đi trước giật mình xoay lại xem. Anh hoảng quá khi trông thấy tên cán bộ ngã quỵ. Mặt xanh như tàu lá, anh này cũng ném nhanh gánh mì trên vai chạy ngay xuống triền núi nơi anh em đang đợi. Lúc anh vừa chạy đến chỗ anh em cũng vừa lúc chiếc nón cối vàng của tên cán bộ cũng lăn theo xuống, Cái nón cối chỉ còn cái vành còn nguyên thôi. Phần còn lại méo mó với một ít tóc, máu và óc trong đó.

Cả toán mì sững sờ. Lại sắp có một vụ trốn trại nữa. Lần này không như những vụ trốn trại trước. Lần này có án mạng, một vụ giết cán bộ cướp súng. Cả toán im lặng, một sự im lặng đáng sợ! Không một ai dám phản ứng! Họ chờ đợi người đó xuất hiện trước khi họ có sự phản ứng nào. Quả thật, anh Đinh Công Chương không phí thời gian để xuất hiện. Anh từ từ bước xuống, một tay cầm khẩu carbine M2 của tên cán bộ, tay kia vắt chiếc áo mưa vàng của công an vì hôm đó trời có mưa lất phất. Không một ai dám nhìn thẳng vào mặt anh cả. Gương mặt của anh tái ngắt; đôi mắt anh đỏ lên, cái đỏ của một sự hận thù. Những cái đó chưa hề xuất hiện trên mặt anh. Anh như đã biến thành một người khác, không còn là một anh chàng đẹp trai với nụ cười trên môi nữa. Vẻ mặt anh toát lên một khí thế của một chiến binh đang ra trận. Họ có người đã từng là quân nhân. Họ quá rành về những vẻ mặt như thế.

Bằng một giọng từ tốn nhưng rắn rỏi, anh lên tiếng:

“Sự việc đã như vậy rồi. Không thay đổi được nữa. Anh em chỉ còn có một đường binh thôi là hãy đi theo tôi. Ở lại thế nào cũng bị chúng đánh chết. Thế nào anh “Bảo”? Có đúng vậy không? Anh em cứ việc cho ý kiến!”

“Bảo” là tên của một người có án 20 năm, từng ở trong mặt trận “Phục Quốc”. Thường ngày khi nói chuyện với anh em, anh này cũng lên tiếng cứng rắn lắm về lập trường của mình. Nhưng hôm nay, đứng trước một quyết định đi hay ở, anh là một người thiếu dứt khoát nhất. Người anh run run, hai tay anh chắp lại, khom mình xuống lạy anh Chương:

“Anh Chương hãy tha cho tôi đi. Tôi còn phải sống cho vợ con tôi ở nhà. Tôi không thể theo anh được.

“Vậy mà cũng đòi làm phản động!” Anh Chương cười gằn. “Đi thì may ra còn chút hy vọng. Còn ở lại thì ... Chắc anh cũng đoán được rồi đó. Còn những anh em khác, có ai dám theo tôi không?”

Nghe vậy tất cả mọi người đều run rẫy lạy lục anh Chương như tế sao:

“Thôi mà anh Chương, tha cho chúng tôi đi. Anh nói sao cũng được, nhưng chúng tôi xin anh.”

“Thôi được,” anh Chương nhìn anh em thở dài. “Tụi mày chỉ chống cộng bằng miệng thôi. Tao hy vọng tụi mày sẽ qua khỏi cái truông này.”

“Được rồi, anh nói tiếp. “Anh em hãy đưa tất cả các thùng quẹt đây. Gạo mua lúc sáng cũng không được mang về trại. Và hãy về nhắn với bọn cán bộ trong trại rằng thằng Chương đi hướng này đây. Tụi nó nếu có đứa nào muốn chết thì hãy lên đây tìm tao!”

Anh thu lấy tất cả các hộp quẹt, dồn tất cả số gạo đã mua lúc sáng vào một bao lớn, và từ từ xoay lưng đi chậm chầm theo hướng cũ.

Chờ sau khi anh Chương đi khuất, toán mì mạnh ai nấy ù té chạy, vì sợ anh Chương sẽ đổi ý bắn theo. Nhưng không anh không làm vậy. Anh không bắn ai cả.

Quả vậy, đúng như lời anh Chương đã báo trước, ngay khi báo cáo cho vọng gác về tình hình trốn trại cướp súng của anh Chương, anh em đã bị một số bộ đội quản chế cho ăn những đòn thù. Sau những hồi kẻng báo động, toàn bộ trại viên bị nhốt vào phòng, mặc dầu có nhiều toán lạo động chưa về kịp. Anh em nhìn nhau, có kẻ xanh mặt, có người điểm nụ cười kín đáo. Chẳng cần ai bảo, anh em đều biết có vụ trốn trại, tuy chưa biết là ai.

Phòng giam của tôi nằm sát vòng rào nơi có con đường các toán lao động thường đi nhất, nên những gì đang xãy ra, chúng tôi đều thấy. Trừ mấy tên lính canh ra, toàn bộ bọn Cộng Sản còn lại đều lần lượt đi qua, tên nào tên nấy đề trang bị đầy đủ với Carbine M2, Ak 47 và M.16. Chúng chạy rầm rập như khi đụng phải quân địch mạnh. Khoảng 7 giờ tối, có một toán quay trở lại, trong đó có tiếng phụ nữ than khóc.

“Ác chi mà ác dữ vậy nè! Đã đập chết, còn lấy mấu rựa bằm nát mặt, và lột hết quần áo! Tui mà bắt được nó tôi phải bằm nó ra từng khúc, ăn gan nó mới hả giận!”

Bọn chúng đang võng tên Nhường về. “Tên này là tên thật nguy hiểm,” tiếng của một tên trong bọn vang lên. “Nó không có trốn một cách bình thường, nó còn nấn ná lại để ra đòn thù nữa. Không biết có đồng chí nào bị thương không.”

Thật ra, bọn bộ đội không dám truy kích lên núi. Sau lúc lấy được xác của tên Nhường, bọn chúng biết được lòng hận thù và quyết tâm của anh, nên không dám theo truy kích. Chúng chỉ kích theo bìa rừng hy vọng sẽ tìm gặp anh. Đêm đó bọn chúng không thành công. Sáng ra, nhìn vẻ mặt phờ phạc của đám bộ đội truy kích, anh em trong trại hiểu ngay là chúng đã thất bại. Trong phòng anh em tù đoán già đoán non về tung tích của anh Đinh Công Chương.

“Gớm thật, dám thách thức bộ đội bằng cách chỉ hướng đi của mình, trừ Đinh công Chương, chẳng có ai dám như thế cả.”

Sáng Chủ Nhật, các phòng giam được mở như thường lệ để cho tù đánh răng súc miệng tuy trễ hơn một tiếng. Hôm đó, tuy được mở cửa, anh em không ùa ra đi giành cầu như thường lệ. Anh em cứ tụm thành từng nhóm trước cửa phòng của mình, mắt đăm đăm nhìn về khu “kỷ luật” nơi toán nhổ mì đã bị nhốt từ chiều qua. Nhìn vẻ mặt hận thù của mấy tên cán bộ, bộ đội, anh em đoán được một bầu không khí sát phạt sắp diễn ra.

“Thế nào bọn chúng cũng không để yên cho toán mì đâu. Tụi nó muốn dằn mặt đám tù còn lại.”

Quả thật, đúng 8 giờ sáng, một toán cán bộ với súng ống đầy đủ lặng lẽ đi vào cổng. Chúng tôi đã quá rành kiểu này của bọn chúng.

“Ai về phòng nấy!” Tên chỉ huy lớn tiếng.

Bọn chúng nhanh nhẹn tản ra để lùa đám tù nhân hiếu kỳ vào phòng và khoá cửa lại.

“Chợ trời chăng?” Anh em hỏi nhau.

“Chợ trời” trong tù không mang ý nghĩa giống như một chợ trời bình thường. Đó là một danh từ mang một ý nghĩa nhất định. Nhất định ở đây không mang ý nghĩa “nhất định” của Cộng Sản đâu nha. “Nhất định” của CS có nghĩa là một cái gì đó, không nhất thiết phải là cái gì. Nhất định theo cách dùng của chúng ta là “duy nhất”. Đó là tổng kiểm soát! Từng phòng sẽ được mở ra cho tất cả người trong phòng mang đồ đạc của mình ra ngoại sân và bày ra giống như chợ trời để bọn cán bộ “thu mua”, một từ khác của CS mà người tù ám chỉ việc tịch thu những đồ gì chúng không muốn cho trại viên sở hửu, hoặc chúng muốn dùng làm của riêng cho bọn chúng. Vì thế anh em trại viên rất ngán cái màn chợ trời này.

Không, hôm nay không phải là “chợ trời”, mà là một biến cố khác. Sau khi đóng xong các cửa phòng giam, bọn chúng tập trung lại và vào khu kỷ luật. Anh em toán mì từ từ được gọi ra sắp thành một hàng ngang đối diện với đám cán bộ quản chế. Theo một hiệu lệnh của tên chỉ huy, đám cán bộ nhào vào đám tù nhân xông xáo như sói giữa bầy chiên, vận dùng hết những kỷ năng của chúng, bá dọc bá ngang, lên gối, kiềng ngang, kiệng dọc, đủ cả. Anh em trong phòng chỉ còn nghe được những tiếng thét kêu đau của anh em toán mì, những tiếng than vãn xin tha mạng, những tiếng cười dã man của bọn quỷ dữ đang hành hạ tội nhân. Rõ ràng là bọn chúng làm theo chỉ thị của ban giám thị, chứ chẳng phải vì hận thù cá nhân! Đã có nhiều người bị đánh té đái, phọt phân trong quần! Thật không may, trong số những nạn nhân này có hai anh em vì không chịu nổi những đòn thù đó đã chính thức “thoát trại” hai ngày sau đó!

Người ta bị đánh mà mình cảm thấy nóng mặt. Dù gì cũng là những người tù với nhau. Họ cảm thấy như chính mình bị những đòn thù ấy! Tôi chứng kiến cảnh ấy với vẻ mặt bình thản! Quý vị đừng hỏi tại sao!

Anh Đinh Công Chương đã cho chúng tôi nghỉ mấy ngày. Những ngày ấy bộ đội bận đi kích dọc theo bìa rừng. Họ không dám vào rừng vì nghĩ rằng anh Chương vẫn còn ở đó, chưa đi đâu cả. Quả vậy, trong hai ba ngày đầu, anh vẫn còn trong rừng đợi bọn chúng đến. Bằng chứng là vào tối thứ hai, trong khi bọn chúng đang kích ở triền núi, anh Chương đã quay trở lại cơ quan của chúng lấy đi gạo và một ít đồ dùng. Đúng là gan cùng mình! Có lẽ anh đã bỏ đi sau đó vì không ai thấy anh xuất hiện nữa.

Đúng như anh đã từng nói với tôi, anh đã không trở về nhà, mặc dù vùng này không xa Bình Khê mấy. Anh em Bình Khê được gia đình cho biết là bộ đội đã rình rập chung quanh nhà anh cả tháng, nhưng không thấy anh đâu cả. Tuy vậy, mọi người cũng được biết chút ít tin tức về đường đi của anh. Trên đường, anh đã giết 7 tên bộ đội và du kích đã đi theo anh và tịch thu súng ống đạn dược và lương thực của họ. Theo lời môt tên cán bộ quản chế cho biết: Cơ quan đã thuê hai viên trung úy người Thượng, những tên rất gan dạ và có thành tích để theo dấu anh. Một tuần sau, có kẻ đã gặp họ trong rừng, mặt bị bằm nát và treo lủng lẳng trên cây!

Cho đến ngày chúng tôi được cho về nhà: một số với nửa trang giấy lệnh tha; số khác như tôi chẳng hạn, vì cho rằng có “nợ máu với nhân dân” đã được cho về đia phương bằng quyết định quản chế tại địa phương. Tôi đã cố tìm hiểu xem anh có thoát được không. Nhưng anh như con cá đã vượt xa ra biển, không một tin tức.

Cầu mong rằng số phận của anh sẽ không đến nỗi nào!

Nashville, TN
Song Long

[Image: unnamed.jpg]
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#28
đọc bài tiểu sư muội đăng buồn quá , đêm nay anh quất raw 
https://app.box.com/s/sd3440odox2a4wrx10ch0xbvhlhyfper
Reply
#29
(2021-04-13, 11:25 PM)vô_danh Wrote: đọc bài tiểu sư muội đăng buồn quá , đêm nay anh quất raw 
https://app.box.com/s/sd3440odox2a4wrx10ch0xbvhlhyfper

Dạ cám ơn huynh, lần đầu tiên Kỳ được nghe huynh vừa đàn vừa hát.   Tulip4
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#30
BẢN TÌNH CA “DANG DỞ”…
Hương Thủy

Tổng biên tập mời tôi lên Văn phòng đề nghị viết một phóng sự nóng về vụ Công ty du lịch H.S tự ý cắt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu nông nghiệp của nông dân thuộc huyện Đạ Teh tỉnh Lâm Đồng. Mấy đêm nay tự dưng không ngủ được, lại muốn thoát ra sự ngột ngạt của Sài gòn những ngày cuối năm, tôi nhận lời.

Về căn chung cư – tổ ấm của hai mẹ con gần hai mươi năm nay – tôi gọi phone cho con trai báo sẽ vắng nhà khoảng ba ngày, dán lên tủ lạnh những dặn dò về thực phẩm và xách ba lô lên đường.

Xe trực chỉ hướng đông nam. Phố xá dần khuất sau lưng, quốc lộ 20 hiện ra trước mắt. Qua địa phận Long Khánh, những rừng cao su xanh ngắt hai bên đường. Mới tuần trước, dân đào hố trồng cây phát hiện bốn bộ hài cốt trong quân phục treillis và ba khẩu M16 rỉ sét. Chắc hẳn đó là những chiến binh thuộc Sư đoàn 18 của Tướng Lê Minh Đảo vào hai tuần cuối tháng Tư năm Bảy Lăm bi tráng. Chiến tranh đã đi qua hơn ba mươi năm nhưng cuộc chiến về nhân tâm xét cho cùng vẫn còn dai dẵng…

Xe dừng lại ở trung tâm huyện Đạ Huoai, tôi vẫy một chiếc xe ôm vào huyện Đạ Teh. Con đường càng lúc càng lên cao. Mùa khô đã về. Hai bên đường, hoa dã quỳ vàng trải dài ngút mắt. Những cơn gió cao nguyên thốc vào mặt mát lạnh.

Đạ Teh là một huyện mới nằm về phía tây của tỉnh Lâm Đồng. Trước 75, đây là vùng oanh kích tự do của Không quân miền Nam. Tên huyện cũng là tên của con sông lớn nhất chảy qua địa bàn. Đạ Teh theo tiếng gọi của người Mạ bản địa là Nước Nóng. Nghe nói tên này bắt nguồn từ việc nước con sông bao giờ cũng ấm hơn những con sông khác. Đó cũng từng là một mật khu có bí danh T, T2, T3; nơi giam giữ tù binh miền Nam trong chiến tranh đồng thời cũng là đơn vị hậu cần của Việt Cộng có tên Công Doanh 19/8 chuyên tăng gia lương thực chi viện cho bộ đội chính quy Bắc Việt vùng Lâm Đồng – Đồng Nai Thượng. Sau 75, đây là chốn lưu đày của những gia đình “Ngụy quân” miền Trung như Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Bình Định… núp dưới chiêu bài xây dựng “Vùng kinh tế mới”; cũng là nơi những người dân miền Bắc với hai mươi năm đi lên XHCN nghèo khổ khát đất mò vào. Dấu ấn quê hương còn đậm nét qua những tên xã như Triệu Hải, Triệu Phong, Hương Lâm, Quảng Ngãi, An Nhơn, Mỹ Đức, Quốc Oai…

Tôi ngồi bên hồ Đạ Teh. Hồ đựơc hình thành do việc xây dựng đập thủy lợi chắn ngang dòng sông. Mặt hồ xanh biếc, những con sóng lăn tăn dàn đều trên mặt nước. Vài chiếc thuyền nan đang neo nghỉ cạnh bờ. Cảnh đẹp như bức tranh thủy mặc. Người dẫn đường chỉ cho tôi một nghĩa trang nhỏ có khoảng mười mấy ngôi mộ của những người đi mở đất và đã chết khi lao động xây hồ. Đây được xem là công trình thủy lợi lớn nhất của tỉnh Lâm Đồng. Nó phục vụ tưới tiêu cho hơn ba ngàn mẫu đất của nông dân các xã. Ấy thế mà giờ đây nó dần trở thành sở hữu cho một tập đoàn tư nhân đang dự định thi công dự án khu du lịch sinh thái có sự tiếp tay của chính quyền sở tại và người dân đang kêu cứu với báo chí!

Tôi cũng đã tiếp xúc với những người nông dân chân lấm tay bùn để có một cơ ngơi được gọi là tạm ổn hôm nay. Với giọng nói chơn chất của nhiều vùng miền, họ kể cho tôi nghe những ngày khai hoang đầy máu và nước mắt. Bao nhiêu người đã gục ngã vì sương lam chướng khí. Những địa danh còn in đậm gian khổ như dốc “Ma Thiên Lãnh”, đảo Khỉ…Những tai nạn xảy ra trong lao động như cây ngã, rắn cắn, bọ cạp đốt… xảy ra thường xuyên. Nâng bát nước chè xanh họ mời, tôi nghe như có vị mặn của mồ hôi và máu.

Sau khi thu thập đầy đủ chứng cứ và tư liệu, tôi trở về thị trấn. Chiếc Cup thuê của cửa hàng trước nhà nghỉ bò ì ạch qua con dốc. Và khi đã vượt đỉnh một cách khổ sở, xe đột ngột tắt máy. Khởi động mấy lần đều bó tay, chỉ còn một cách là bỏ số O cho nó tuột dốc.

Và ơn trời, phép màu đã hiện ra khi cuối dốc xuất hiện căn nhà nhỏ trong bức tranh đồng quê vắng lặng. Nếp nhà gỗ mái tranh nép mình trong vườn cây xanh. Hàng cau thẳng trước mặt gợi nhớ khung cảnh của một làng quê miền Trung, làn khói bếp nhẹ nhàng lan tỏa. Trước nhà là cái quán nhỏ có bảng hiệu bằng nhôm cũ kỷ với dòng chữ “Sơn sửa Honda, xe đạp”.

Tôi chặm mồ hôi, đẩy xe vào. Một cậu con trai đang cầm quyển sách chăm chú học bài. Quán hàng hẹp, bên trái làm chỗ sửa xe với mấy cái lốp cũ treo trên móc. Bên kia là sạp tre đặt lèo tèo mấy thẩu kẹo bánh, bó rau, trái mướp… Cậu bé giúp tôi dựng chiếc xe lên và lễ phép“Cô chịu khó chờ một chút, ba con đang dở tay trong nhà…”. Ngồi trên chiếc ghế nhỏ, tôi thở ra nhẹ nhỏm. Thế nào cũng phải về thành phố chiều nay để kịp cho bài báo lên khuôn.
Người đàn ông bước ra, mũ lưỡi trai che khuất nửa mặt. Ông ta huơ tay xua đàn gà con đang lúc thúc theo mẹ kiếm ăn trước cửa bếp. Cậu bé kêu “Ba ơi! Có khách”. Ông vào quán, không ngước mắt lên, hỏi “Xe bị thế nào cô?”

Tôi hơi rùng mình… Giọng nói sao nghe quen, ngữ điệu đặc trưng của người Bình Định. Âm thanh như vọng lên từ một cõi xa xăm trong tiềm thức. Và khi ông ta mở thùng đạn đại liên lấy dụng cụ sửa xe, chiếc nhẫn Võ Bị trên bàn tay phải có vết sẹo dài thì ký ức tôi sống dậy, chói lòa. Tôi run rẩy, lập bập: “ Anh, anh Th.???
*
Ta quen nhau mùa thu…

Tháng chín năm 1973.

Cô bạn Như Huy, Ủy viên xã hội của lớp, thò đầu vào hét lên: “Sáng nay nghỉ học, đi ủy lạo các chiến sỹ Dù trở về từ mặt trận Cổ Thành Quảng Trị…Phòng Sinh Viên Vụ thông báo”.

Lớp Anh văn năm hai nhốn nháo. Tường Vy thở phào: “May quá. Tao chưa soạn bài, thoát khỏi Mr Malia”. Mấy ông con trai bảo: “ Chuyện này chỉ dành riêng cho các Em gái hậu phương. Chúng tôi đi cà phê đây”.

Kim Chi níu tay tôi và Tường Vy: “Trốn qua phố chơi đi. Hàng vải Bảo Thạnh về mấy mặt hàng rất đẹp. Mới lĩnh học bổng tha hồ vi vu”. Như Huy năn nỉ: “Thương tui với. Mấy bạn giúp tui. Đây là đơn vị của ông anh ruột tui là Hoàng Công Thức đó. Tội nghiệp lính mà!”. Liên tưởng đến ông anh trai thuộc Sư đoàn I đang đóng quân ở tiền đồn, tôi nhẹ nhàng: “Thôi tụi mình đi đi. Cũng là một cơ hội để gặp Anh tiền tuyến”.

Cả lớp gần hai mươi nàng kéo nhau lên bờ sông Hương trước mặt Trường Luật. Ôi chao! Lính Dù ở đâu nhiều quá. Những gương mặt vừa kinh qua cuộc chiến sinh tử tái chiếm Cổ thành nhưng vẫn mang vẻ hào hoa. Những nụ cười vui vô tư của người trở về từ cõi chết. Cũng không hiếm các khuôn mặt măng tơ của những anh lính sớm từ giã bút nghiên theo nghiệp kiếm cung… Tôi và hai cô bạn thân vén áo dài nhảy lên chiếc GMC có những bàn tay cứng cáp đang chìa ra giúp đỡ. Đoàn xe trực chỉ Lăng Tự Đức, một thắng cảnh của miền sông Hương núi Ngự.

Sau những dè dặt ban đầu, câu chuyện nở như bắp rang. Vốn kiến thức về quân sự qua phóng sự chiến trường của Kiều Mỹ Duyên, Phạm Huấn, Phan Nhật Nam … được chúng tôi phát huy và các anh lính nhiệt tình góp chuyện. Mấy ông Pháo binh Dù tròn mắt khi nghe tôi “phét lác” về bắn Prep, TOT… Một ông Đại úy nói vui:“Đề nghị Đại Tá Tường, Chỉ huy trưởng Pháo binh Dù xin Bộ Giáo Dục cho cô này đổi về Trường Pháo Binh Dục Mỹ”. Cả xe cười vui. Tài giỏi chi, chẳng qua tôi nghe lóm từ ông anh Pháo thủ của Sư đoàn Đèn cầy số I.

Lăng Tự Đức rợp mát. Tiếng thông reo vi vu. Như Huy thuyết trình về lịch sử của Khiêm Lăng đúng như Cours Lịch sử kinh thành Huế của thầy Phan Văn Dật dạy chúng tôi trong môn nhiệm ý bên Văn Khoa. Kim Chi đi dọc hàng sứ cổ thụ lượm một nón hoa tặng cho các anh lính mỗi người một bông. Họ gắn trên mũ, gài trên nắp áo trông thật dễ thương.

Tôi chú ý ông Thiếu úy ngồi một mình trên bậc thềm thủy tạ, mắt nhìn mông lung ra mặt hồ. Cuối thu, sen đã tàn, những tán lá khô vàng là đà trên mặt nước. Tường Vy đẩy nhẹ vai tôi: “Thủy Tiên ra an ủi anh chàng kia kìa. Coi cái mặt như mới bị bồ đá!”. Ừ, thì đi. Đêm qua đọc Mùa hè đỏ lửa của Phan Nhật Nam thấy thương lính quá.

… Thế là chúng tôi quen anh Th., người sĩ quan xuất thân từ trường Võ Bị, khóa 25 có tên Quyết chiến tất thắng.

Ta thương nhau mùa Đông…

Tôi sinh ra trong một gia đình có hai anh trai và tôi là gái út. Cha mất sớm, mẹ tần tảo với sạp hàng bên chợ Đông Ba nuôi mẹ chồng và các con ăn học. Như đa số các bà già Huế, mệ nội tôi rất trọng con trai. Các anh có thể rủ bạn bè về nhà ở hàng tuần, đêm đêm cùng học nhóm hoặc ngâm thơ, đàn ca hát xướng, bình luận về cô ni cô tê dưới tàng cây nhãn cổ thụ. Mệ tôi coi tất cả như con cháu, thuộc hết tên tuổi và tính nết của họ. Gia đình không giàu có nhưng mẹ tôi về chợ bao giờ cũng nhớ mua thêm chút gì cho cả nhóm ăn khuya, lâu không thấy anh nào đến chơi thì mệ tôi lại nhắc nhở. Và tôi, đứa con nít còn đưa tay quệt mũi nhảy lò cò cũng hay được các anh sai vặt “Út ơi, ra quán mua lửa (mua nợ) cho anh mấy điếu Bastos xanh, không có thì lấy Ruby nghe! Nhớ ba đồng bốn điếu…”

Nhưng những ngày tươi đẹp qua mau. Chiến tranh đã cướp mất thanh bình, tuổi trẻ và thứ tình yêu mơ mộng của các chàng trai mới lớn. Họ lần lượt lên đường nhập ngũ và ra trường dưới nhiều màu áo khác nhau. Tôi còn nhớ mũ đen Thiết giáp của anh Minh, mũ xanh Thủy quân lục chiến của anh Trọng…Tôi cũng không quên ngày anh Linh trở về trong chiếc quan tài bọc kẽm và dòng nước mắt thầm lặng của chị Mai hàng xóm…. Hai anh tôi, một người dạy học tận miền Tây xa xôi, người thứ hai đang học dở Đại học cũng bị động viên vào quân trường Thủ Đức và trở thành sĩ quan tiền sát viên của một đơn vị pháo binh đóng ở căn cứ Birmingham.

Mười sáu tuổi, tôi thừa kế “gia tài” của các anh với một chồng dày programme của các rạp chiếu bóng Hưng Đạo, Châu Tinh, Tân Tân ở Huế; những thùng sách truyện đầy ắp để rồi từ đó sau giờ học, tôi mê man với tài điều binh khiển tướng của Napoleon, Moshe Dayan; hiện sinh với Một chút mặt trời trong nước lạnh, Buồn ơi chào mi! của F.Sagan; lãng mạn với tiểu thuyết Mười đêm ngà ngọc của Mai Thảo và phiêu du trong các bộ truyện chưởng của Kim Dung; khi buồn miệng thì ngâm nga những câu thơ thời cuộc bi tráng của Quang Dũng, Nguyễn Bắc Sơn, Nguyễn Tất Nhiên …

Tôi cho anh Th. địa chỉ nhà mình và tìm thấy nơi anh hình ảnh người anh trai cùng trang lứa, của những chàng trai Việt Nam bị cướp đi tuổi trẻ và quyền được sống, được yêu. Tôi hiểu về nỗi buồn của anh khi vừa mới ra trường thì tháng sau đã nghe tin bạn TVD- người được các tân khóa sinh ưu ái đặt tên là “Hiền thần”- là người đầu tiên của khóa tử trận, lon thiếu úy còn vàng chóe trên cổ áo. Và ngày đi chơi lăng Tự Đức thì đêm trước người bạn cùng đại đội thời ở quân trường có tên TKV đã mất một chân. Trong khi đó mở radio các cô ca sỹ cứ nức nở “Anh trở về hòm gỗ cài hoa…Anh trở về trên chiếc băng ca…”nghe thật não lòng.

Quê anh ở Bồng Sơn. Từ năm 1965, miền quê ấy đã trở thành “vùng xôi đậu”. Gia đình anh tản cư vào Quy Nhơn và anh học trung học ở trường Cường Để. Bốn năm thụ huấn Võ Bị, tính ra đã gần trăm lần mặc niệm trước bữa ăn về những niên trưởng đã hy sinh nhưng khi đụng trận anh mới thấy hết được sự tàn khốc của chiến tranh.

Trước ngày ra trường- thường vào cuối năm- các anh hăm hở chọn lựa đơn vị. Ai cũng háo hức mong về các binh chủng thiện chiến. Bạn nào không may mắn rơi vào bộ binh thì bị chê là “Gà rù- Gà chết”. Anh Th. thỏa mãn ước vọng khi về binh chủng lừng danh Red Hat và được ném ngay ra chảo lửa Quảng Trị để bàng hoàng chứng kiến những cái xác cộng quân non choẹt bị xiềng vào xe tăng T54, những gương mặt ngây thơ cứ tuyệt vọng tràn lên, tràn lên trước mũi súng với chiến thuật bỉển người tàn bạo.

Từ đó, nhà tôi là cái trạm cho anh mỗi lần có dịp về Huế. Mệ nội và mẹ tôi lại coi anh như những đứa con trai trước đây của gia đình. Mệ nội nói “Có mất chi mô! Cháu mình đóng quân nơi xa xôi cũng được người khác thương yêu như rứa!”.

Tôi và Kim Chi, Tường Vy đưa anh đi chơi Đại Nội, đọc cho anh nghe những câu thơ hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan; về Cồn Hến ăn chè bắp; qua Chi Lăng ăn bún bò Mụ Rớt cay xé lưỡi để rồi phá ra cười khi anh so sánh “ ăn tô bún bò Huế còn khổ hơn đi đánh giặc các em à!”

Mùa Đông Huế với cái lạnh cắt da nhưng tình cảm anh em tôi ấm áp biết bao nhiêu!

Ta yêu nhau mùa Xuân… để rồi tàn theo mùa xuân …

Tháng hai năm 1974.

Từ trường về, tôi thấy anh nằm trên chiếc giường nhỏ, mặc bộ pyjamas cũ của anh tôi và ngủ mê mệt. Mệ nội xua tay: “Đừng có ồn. Để yên cho anh nằm. Tay hắn bị thương đó”. Tôi lặng người nhìn nét mặt hốc hác của anh, bàn tay phải được băng chặt, vệt máu còn vương trên miếng compress. Tôi ra giếng, giặt cho anh bộ đồ trận bê bết bùn đất, giũ sạch ba lô. Trong ba lô chỉ có bộ đồ lót, một ống kem Hynos đã bẹp dúm, cái bàn chải toe đầu và một cuốn Chuyện cấm đàn bà của nhà văn quân đội Đặng Trần Huân mất bìa…Lòng tôi rưng rưng. Một cảm xúc mới lạ òa vỡ!

Mệ nội nấu cho anh một tô canh tập tàng với những thứ rau hái vội sau vườn, dĩa cá bóng thệ kho khô đạm bạc nhưng anh nói đây là bữa ăn ngon nhất của anh trong đời. Tôi ngồi bên anh, thêu giúp hai bông mai đen trên cổ áo trận. Anh cầm muỗng ăn bằng tay trái, tôi hỏi có đau không, anh trả lời “Như kiến cắn thôi. Nếu nặng hơn thì anh đã nằm ở quân y viện Nguyễn Tri Phương chứ đâu mò ra thăm em được”. Và thật bất ngờ, anh nói với tôi: “Sau này em có chịu nấu cơm cho anh ăn suốt đời không?”.Tôi đỏ mặt gật đầu. Chúng tôi trao nhau những ánh mắt yêu thương. Với tình yêu, đâu cần ngôn ngữ!

Đơn vị anh về dưỡng quân ở Hương Điền, cách Huế 20 cây số, nhường mặt trận Cổ thành cho Lữ đoàn Thủy quân lục chiến. Chúng tôi có cơ hội gặp nhau nhiều hơn. Tôi hãnh diện được anh đón sau buổi học trong bộ quân phục rằn ri. Tôi biết Thánh tổ Nhảy dù là ông Thánh Micae; biết thế nào là nhảy chuồng cu ở trại Hoàng Hoa Thám; biết khi nào thì bấm dù lưng, dù bụng; biết cách gập dù sau khi tiếp đất …Tôi viết cho anh hai câu thơ: “Em nguyện làm tín đồ ngoan đạo. Theo anh không quản gian lao”.

Như những người yêu nhau khác, chúng tôi xây đắp ước mơ. Một ngày đẹp trời nào đó khi tôi nghỉ hè, khi anh có phép, chúng tôi sẽ vào Quy Nhơn ra mắt cha mẹ anh ở căn nhà trên đường Nguyễn Huệ, đường lên Ghềnh Ráng, có mộ nhà thơ Hàn Mặc Tử ngày đêm nghe tiếng sóng rì rào. Kim Chi trêu tôi: “Mi dân Huế về làm dâu người Bình Định, nói chuyện với mẹ chồng phải cần thông dịch viên đó nghe!”. Mệ nội tôi bắt đầu những bài Gia Huấn ca trong các bữa ăn cho cô cháu gái tương lai sẽ về làm dâu Xứ Nẫu.

Anh không đẹp trai nhưng rất chân thật và hào sảng. Trường Võ Bị đã tạo cho các anh tính cách ấy. Anh kể về Thủ khoa NAD văn võ song toàn, về giọng hát trứ danh của ca sỹ trung đoàn BPT, về anh bạn NH đai đen Taekwondo, về bạn PMT được vinh dự qua Mỹ vào học trường West Point …Những con người tài hoa ấy nếu phải hy sinh thì thật tiếc cho cả một thế hệ. Anh tạo cho tôi một ấn tượng đẹp về ngôi trường quân sự ở thành phố cao nguyên dù tôi chưa một lần đặt chân.

Đơn vị có lệnh rút về Quảng Nam đóng ở căn cứ Chu Lai. Đêm trước khi anh lên đường, chúng tôi đi lang thang trên những con đường nội thành. Tôi cầm chặt tay anh, bàn tay phải có vết sẹo hơi cộm lên. Anh bảo “Là người yêu lính thì phải cứng rắn, sau này anh còn phải đi hành quân xa mà lỡ nếu như không về thì…” Tôi bịt vội miệng anh :“Đừng nói, đừng nói. Em không muốn nghe. Em đợi anh mà!”. Anh mua cho tôi hai cuốn truyện Mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh và Một thời để yêu và một thời để chết của E.M.Remarque ở nhà sách Ưng Hạ.Từ đây những bức thư là chiếc cầu nối cho mối tình chúng tôi.
Tháng ba năm 1975.

Khởi đầu bằng những chuyến xe đò chở dân chúng chạy từ phía bắc vào thành phố. Tiếp theo đó là những đoàn người gồng gánh, tay xách nách mang những gì có thể. Nhà giàu Huế bắt đầu bỏ đi. Rồi con đèo Hải Vân chật cứng xe cộ di tản vào Đà Nẵng. Trên đài phát thanh, Ông Tướng tuyên bố tử thủ. Mẹ tôi đi chợ về nói “Người ta chộn rộn lắm. Mình có chạy không mệ?”. Mệ nội thở ra: “Chạy mô nữa! Nhớ năm 72 chạy vô Đà Nẵng ở tạm bợ trong mấy cái trường học khổ bắt chết. Khi về thì nhà bị ăn trộm hết đồ đạc. Để chờ tin thằng hai trên núi đã. Mạ sợ lắm rồi. Mạ tính không chạy mô hết! Huế mà mất thì cả nước mất!”.

Và lời mệ nội như một sự tiên tri! Thôi, kể làm chi nữa những chuyện đau lòng!

Anh thứ hai của tôi đi cải tạo ở trại Thanh Cầm tỉnh Thanh Hóa. Anh đầu chạy vội từ Cần Thơ ra giục giã gia đình chuyển vào miền Nam, càng xa đây càng tốt. “Mệ và mẹ không nhớ Mậu Thân răng?”. Tiếng nói của người con trai cả như mệnh lệnh trong một gia đình toàn đàn bà. Căn nhà được bán vội vàng và…tôi xa Huế, xa anh giờ đã biệt vô âm tín.

Sau này, tôi có nhờ cô bạn ở Quy Nhơn tìm đến căn nhà mà anh đã cho địa chỉ trên đường Nguyễn Huệ. Bao nhiêu hy vọng tràn trề. Nhưng căn nhà cũng đã đổi chủ. Người ra tiếp bạn tôi là một ông cán bộ người Bắc. Căn nhà thuộc diện được phân phối mà ông ta cũng không cần biết chủ cũ là ai.

Ôi, anh Th. Ôi, mối tình đầu của tôi!

Và thời gian qua…Tôi bị đẩy vào một cuộc sống gia đình buồn tẻ, bên người chồng mà hôn nhân không bắt đầu từ tình yêu. Cuộc sống tinh thần càng lúc càng bế tắc và khi Mệ nội và mẹ lần lượt qua đời thì tôi cũng quyết định chọn cho mình một sự giải thoát. Tôi làm lại cuộc đời mình với vai trò một bà mẹ đơn thân.

Thỉnh thoảng trong giấc mơ, hình ảnh anh Th. hiện về và khi tỉnh giấc bao giờ mặt tôi cũng đầm đìa nước mắt. Tôi hy vọng anh đã thoát được vào tháng tư kinh hoàng năm 75; hoặc trên một chuyến tàu vượt biên; hay những chuyến đi HO sau này dành cho những sỹ quan VNCH “cải tạo”. Trong thâm tâm, bao giờ tôi cũng cầu nguyện cho anh hạnh phúc. Hai cuốn truyện anh tặng vẫn nằm trang trọng trên kệ sách dù những trang giấy đã úa vàng. Tôi thường bắt đầu một ngày của mình với bài hát Dang Dở của Đoàn Chuẩn-Từ Linh qua giọng ca Lệ Thu trong băng cassette: Ta quen nhau mùa thu…Ta thương nhau mùa Đông…Ta yêu nhau mùa Xuân để rồi tàn theo mùa Xuân…Câu hát như một lời nguyền cho mối tình mong manh của chúng tôi!

Và giờ đây…

Vĩ thanh

Tưởng có thể ôm chầm lấy nhau sau hơn ba mươi năm cách biệt; tưởng có thể òa khóc thật to cho thỏa lòng mong nhớ…Nhưng không. Hai cánh tay anh đưa ra để rồi …buông thỏng.

Anh ngồi trước mặt tôi, khuôn mặt hằn rõ những nếp nhăn gian khổ, đôi bàn tay chai sần, mái tóc lốm đốm bạc. Tất cả cho thấy một cuộc sống không mấy suôn sẻ. Cuốn phim dĩ vãng được quay chậm qua giọng kể trầm buồn…

Anh bị đưa ra Bắc ngay trong những ngày đầu tháng tư Bảy lăm theo diện tù binh ở mặt trận Hiệp Đức. Phải hơn một năm mới được liên hệ với gia đình nhưng cha mẹ anh đã rời Quy Nhơn về lại làng quê nên gần hai năm sau anh mới có thông tin.

Chấp nhận làm bên thua cuộc có nghĩa là chấp nhận tất cả những gì bị phân biệt đối xử. Anh cũng không hiểu tại sao mình có thể tồn tại trong hơn bốn năm ăn đói mặc rét và chỉ được thăm nuôi hai lần. Ra khỏi tù anh về lại làng xưa nhưng muốn làm một anh nông dân bình thường cũng khó. Ngày nào anh cũng phải đi lên xã viết đi viết lại lời khai. Anh không được đi đâu xa và cũng chẳng thể làm được gì để giúp gia đình đang khốn khó. Anh bị sung vào lực lượng đi phá gỡ bom mìn. Những quả mìn cóc, mìn lá, mìn ba râu…luôn là nỗi ám ảnh kinh hoàng. Cứ chợp mắt là nghe tiếng nổ, là thấy ánh sáng của quầng lửa chói lòa, là nghe tiếng rên la đau đớn của người bên cạnh với một cái chân bay tuốt lên ngọn cây. Có những đêm anh thức trắng. Những lúc ấy anh nhớ về ngày xưa, nhớ về Huế, về tôi với bao nhiêu kỷ niệm nhưng để rồi cũng tự mình lắc đầu gạt phắt.

Nghe lời cha mẹ, anh lập gia đình với một cô giữ trẻ của Hợp tác xã, ít học và mộc mạc như sắn như khoai. Còn chi để mà kén chọn, yêu thương. Tất cả đã thuộc về quá khứ!

Xã phát động phong trào đi kinh tế mới ở Tây Nguyên. Muốn thoát ra khỏi sự hành hạ, khinh khi, gia đình anh là một trong những hộ đầu tiên tình nguyện lên đường. Những năm tám mươi đây là nơi rừng thiêng nước độc. Biết bao người đã ngã xuống vì sốt rét, bệnh tật. Hai vợ chồng anh cũng từng võng đứa con trai tám tuổi ra bệnh viện huyện nhưng khi qua khỏi con dốc “Mạ ơi!” thì đứa bé chỉ còn là một cái xác lạnh ngắt.

Anh đủ tiêu chuẩn đi HO nhưng khi phỏng vấn, giấy ra trại và giấy khai sinh của đứa con không khớp nhau do sự cẩu thả của tay thư ký nhà quê. Thôi thì định mệnh đã an bài, anh cam tâm làm một người nông dân nghèo, giả đui giả điếc nơi chốn thâm sơn cùng cốc.

Đất không phụ người, đến hôm nay đời sống của anh tương đối tạm ổn. Anh gởi gắm kỳ vọng của mình vào hai đứa con còn lại. Hy vọng đời chúng nó sẽ khá hơn! Anh không liên hệ với ai, kể cả bạn bè cũ cùng khóa 25. Quá khứ của anh chỉ còn lại chiếc nhẫn Võ Bị và hai chữ “Tự thắng”trong tư tưởng.

Xe đã sửa xong. Anh vào nhà rửa tay. Tôi nhét vội vào túi áo của cậu con trai cái phong bì đựng số tiền tạm ứng cho chuyến đi công tác của phòng tài vụ. Anh trở ra với một túi ổi vườn nhà và né tránh ánh mắt tôi. Chao ôi! Hơn ba mươi năm anh còn nhớ sở thích ăn ổi của cô bé Sư phạm Huế? Mắt tôi mờ đi…
Có nhiều chuyện tình Võ Bị bền vững qua nhiều giông bão và cũng có những mối tình không trọn vẹn như của chúng tôi. Nhưng muôn đời đó vẫn là mối tình đẹp không bao giờ quên. Ôi! Phải chi tôi được cầm lại bàn tay anh, dù chỉ một lần…

Hương Thủy



Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply