LTP Học Phật Pháp

3.7: Kinh 27, kinh ngắn Dấu chân voi, thì giới thiệu về sự việc Bà la môn học giả, bác học tán thán Thế Tôn như là bậc đạo sư vô tỉ đương thời. Sự tán thán chưa thật sự chân thật nếu chỉ dựa vào danh tiếng, vào sự cung kính tôn trọng của những người thời danh đối với Thế Tôn, hay dựa vào giáo huấn đơn thuần của Thế Tôn. 

Chỉ khi nhìn thấy thành tựu giải thoát hết thảy lậu hoặc, chứng đắc Tam minh của các đệ tử của Thế Tôn thì lời tán thán "Thế Tôn là bậc Chánh đẳng giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, chúng Tăng khéo hành trì" mới là chân thật giá trị.

--ooOoo--

Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya


27. Tiểu kinh Dụ dấu chân voi
(Cùlahatthipadopama sutta)

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc).

Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika:

-- Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy?

-- Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây.

-- Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không?

-- Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotama có trí tuệ sáng suốt.

-- Tôn giả Vacchayana thật sự tán thán Sa-môn Gotama với lời tán thán tối thượng.

-- Này Tôn giả, tôi là ai mà có thể tán thán Sa-môn Gotama, bậc tối thượng được tán thán trong các bậc được tán thán, bậc tối thượng giữa chư Thiên và loài Người.

-- Nhưng Tôn giả Vacchayana thấy được lý do gì ở Sa-môn Gotama mà Tôn giả có lòng tin tưởng như vậy?

-- Này Tôn giả, như một người săn voi thiện xảo vào một khu rừng có voi ở, và thấy một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang. Người đó đi đến kết luận: "Con voi này là con voi lớn". Cũng vậy, này Tôn giả, tôi đã thấy bốn dấu chân của Sa-môn Gotama và đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành trì". Thế nào là bốn?

Tôi thấy ở đây có một số Sát-đế-lị bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đả phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này nghe: "Sa-môn Gotama sẽ đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này". Họ sắp đặt câu hỏi: "'Chúng ta, sau khi đến, sẽ hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi này. Khi bị chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế này, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế kia. Khi chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế kia, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế này".

Những vị này nghe: "Sa-môn Gotama đã đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này". Những vị này đến chỗ Sa-môn Gotama ở. Sa-môn Gotama với pháp thoại, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị này. Ðược Sa-môn Gotama với Pháp thoại khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, họ không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đã định trước), huống nữa là chất vấn. Trái lại, họ trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Này Tôn giả, khi tôi thấy dấu chân thứ nhất này của Sa-môn Gotama, Tôi đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành trì".

Này Tôn giả, lại nữa, tôi thấy ở đây có một số Bà-la-môn bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đả phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này nghe... (như trên)... trái lại, họ trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Này Tôn giả, khi tôi thấy dấu chân thứ hai này của Sa-môn Gotama, tôi đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành trì".

Này Tôn giả, lại nữa, tôi thấy ở đây có một số gia chủ bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đả phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này nghe... (như trên)... trái lại, họ trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Này Tôn giả, khi tôi thấy dấu chân thứ ba này của Sa-môn Gotama, tôi đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành trì".

Này Tôn giả, lại nữa, tôi thấy ở đây có một số Sa-môn bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đả phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này nghe: "Sa-môn Gotama sẽ đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này". Họ sắp đặt câu hỏi: "Chúng ta sau khi đến sẽ hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi này. Khi bị chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế này, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế kia. Khi bị chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế kia, thì chúng ta sẽ chất vấn như thế này". Những vị này nghe: "Sa-môn Gotama đã đến ngôi làng này hay thị trấn này". Những vị này đến chỗ Sa-môn Gotama ở. Sa-môn Gotama với Pháp thoại khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị này. Ðược Sa-môn Gotama với Pháp thoại khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, họ không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đã định sẵn), huống nữa là chất vấn. Trái lại, họ xin phép Sa-môn Gotama được xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Sa-môn Gotama cho họ được xuất gia. Ðược xuất gia như vậy, một số các vị ấy sống một mình, không phóng dật, nỗ lực, tinh cần, và không bao lâu tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, ngay trong hiện tại, mục đích tối thượng của phạm hạnh mà những Thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến. Họ nói như sau: "Thật sự chúng ta gần hoại vong. Thật sự chúng ta gần hoại diệt. Xưa kia chúng ta không phải là Sa-môn lại tự xem là Sa-môn, không phải là Bà-la-môn lại tự xem là Bà-la-môn, không phải là bậc A-la-hán, lại tự xem là bậc A-la-hán. Nay chúng ta mới thật là Sa-môn. Nay chúng ta mới thật là Bà-la-môn. Nay chúng ta mới thật là A-la-hán". Khi tôi thấy dấu chân thứ tư của Sa-môn Gotama, tôi đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành trì".

Khi được nói vậy, Bà-la-môn Janussoni, từ cỗ xe toàn trắng do ngựa cái kéo, bước xuống, đắp thượng y lên một bên vai, chấp tay hướng về Thế Tôn vái lạy, và thốt ra ba lần cảm hứng ngữ sau đây: "Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Ðảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Rất có thể, chúng ta sẽ gặp Tôn giả Gotama tại một lúc nào, một chỗ nào đó. Rất có thể, sẽ có một cuộc đàm luận". Rồi Bà-la-môn Janussoni đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm xã giao với Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Janussoni đem tất cả câu chuyện của Du Sĩ Pilotika, thuật lại với Thế Tôn. Sau khi nghe vậy, Thế Tôn nói với Bà-la-môn Janussoni:

-- Này Bà-la-môn, ví dụ dấu chân voi như vậy chưa được đầy đủ một cách rộng rãi. Này Bà-la-môn, với tầm mức như thế nào ví dụ dấu chân voi được đầy đủ một cách rộng rãi? Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.

-- Thưa vâng, Tôn giả.

Bà-la-môn Janussoni vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:

-- Này Bà-la-môn, ví như một người săn voi vào một khu rừng có voi ở. Người đó thấy một dấu chân voi lớn trong rừng voi, dài bề dài và rộng bề ngang. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết luận: "Con voi này chắc chắn to lớn". Vì sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có những loại voi cái lùn thấp, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này thuộc loại voi này. 

Người đó đi theo dấu chân ấy. Trong khi đi theo, người đó thấy trong rừng voi một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, và những vật cao đều bị cọ xát. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết luận: "Con voi này chắc chắn to lớn vì sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có những loại voi cái có ngà, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này thuộc loại voi này. 

Người đó đi theo dấu chân ấy. Trong khi đi theo, người đó thấy trong rừng voi, một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, những vật cao bị cọ xát, và những vật cao bị ngà voi cắt chém. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết luận: "Con voi này chắc chắn to lớn". Vì sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có những loại voi cái có ngà lớn, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này thuộc loại voi này. Người đó đi theo dấu chân ấy. 

Trong khi đi theo, người đó thấy trong rừng voi một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, những vật cao bị cọ xát, những vật cao bị ngà voi cắt chém, và những vật cao bị gãy các cành. Và người đó thấy một con voi đực dưới gốc cây hay ở ngoài trời, đang đi, đang đứng, đang ngồi hay đang nằm, người đó đi đến kết luận: "Con voi này thật là con voi đực lớn".

Cũng vậy, này Bà-la-môn, ở đây Như Lai sanh ra ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này, cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và loài Người. Khi đã chứng ngộ, Ngài còn tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ. Ngài giảng dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, trong sạch.

Người gia trưởng, hay con vị gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nào nghe Pháp ấy, sau khi nghe Pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng, vị này suy nghĩ: "Ðời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Một thời gian sau, người ấy từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay từ bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Giữ Giới:
Khi đã xuất gia như vậy, vị ấy thành tựu học giới và nếp sống các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót tất cả chúng sanh và các loài hữu tình, từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp, từ bỏ không phạm hạnh, sống theo phạm hạnh, sống tránh xa (không phạm hạnh), từ bỏ dâm dục tục pháp.

Từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, vị ấy nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không phản lại đời, từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến nói chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, vị ấy nói những lời nhẹ nhàng, thuận tại, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, vị ấy nói những lời như vậy. Vị ấy từ bỏ nói phù phiếm, tránh xa nói lời phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi.

Vị ấy từ bỏ làm hại đến các hột giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ ăn phi thời; từ bỏ đi xem múa, hát nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ trang sức bằng vòng hoa hương liệu, dầu thoa, các thời trang, các thời sức; từ bỏ dùng giường cao và giường lớn; từ bỏ nhận các hạt sống; từ bỏ nhận thịt sống, từ bỏ nhận đàn bà, con gái; từ bỏ nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ nhận cừu và dê; từ bỏ nhận gia cầm và heo; từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ nhận ruộng nương và đất đai; từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.
Tri Túc:
Vị ấy bằng lòng (tri túc) với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y bát). Ví như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh; cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y bát). Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội tâm, không lỗi lầm.

Thu Thúc Thân Tâm:
Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân cảm xúc... ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi và các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy thành tựu Thánh hộ trì các căn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội tâm, không vẩn đục.

Chánh Niệm Tỉnh Giác:
Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, y bát đều tỉnh giác, khi ăn, uống, nhai, nuốt, đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.

Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn này, và thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái, từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận, từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá, từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.

Thoát Khỏi 5 Triền Cái:
Vị ấy từ bỏ năm triền cái làm cho tâm ô uế, làm cho trí tuệ muội lược, ly dục, ly pháp ác bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".

Đắc Thiền:
Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc, do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".

Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".

Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai, nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".
Thân Chứng Thập Nhị Nhân Duyên (Đắc Túc Mạng Minh):
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ ràng, chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".

Thấu rõ Tứ Diệu Đế (Đắc Lậu Tận Trí)
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Ðây là Khổ", biết như thật: "Ðây là Nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Ðây là Khổ diệt", biết như thật: "Ðây là Con đường đưa đến khổ diệt", biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là các lậu hoặc diệt", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt".

Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì".

Chứng Đạt Đạo Quả Niết Bàn (Thoát khỏi Dục Lậu, Hữu Lậu, Vô Minh Lậu):
Vị ấy nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không có trở lui đời sống này nữa".

Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Này Bà-la-môn, tới mức độ này, vị Thánh đệ tử đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Ðẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành trì". Này Bà-la-môn, tới mức độ này, ví dụ dấu chân con voi thật sự được đầy đủ một cách rộng rãi.

Ðược nghe nói vậy, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mệnh chung, con trọn đời quy ngưỡng!


Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt



Chân thành cám ơn anh HDC và nhóm Phật tử VH đã có thiện tâm gửi tặng ấn bản điện tử.
(Bình Anson hiệu đính, dựa theo bản Anh ngữ "The Middle Length Discourses of the Buddha", Tỳ kheo Nanamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, 1995).
Hiệu đính: 11-06-2004
Reply

3.8: Kinh 28, kinh dài Dấu chân voi, thì giới thiệu Tứ Thánh đế là pháp nhiếp tất cả thiện pháp. Qua đó, Tứ Thánh đế thực sự là giáo lý nền tảng của Phật giáo: Tứ đế là Duyên khởi, là Ngũ thủ uẩn và Duyên khởi, "Ngũ thủ uẩn" bao hàm đầy đủ ý nghĩa Tứ Thánh đế.

--ooOoo--

Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya
28. Ðại kinh Dụ dấu chân voi
(Mahāhatthipadopama sutta)


Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anāthapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở đây, Tôn giả Sāriputta (Xá-lợi-phất) gọi các Tỷ-kheo:

-- Này các Hiền giả Tỷ-kheo!

-- Thưa vâng, Hiền giả.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sāriputta. Tôn giả Sāriputta nói như sau:

-- Chư Hiền giả, ví như tất cả dấu chân của mọi loại động vật đều thâu nhiếp trong dấu chân voi, vì dấu chân này được xem là lớn nhất trong tất cả dấu chân về phương diện to lớn. Cũng vậy, chư Hiền giả, tất cả các Thiện pháp đều tập trung trong Bốn Thánh đế. Thế nào là trong Bốn Thánh đế? Trong Khổ Thánh đế, trong Khổ tập Thánh đế, trong Khổ diệt Thánh đế, trong Khổ diệt đạo Thánh đế.

Chư Hiền, thế nào là Khổ Thánh đế? Sanh là khổ, già là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, não là khổ, điều gì cầu không được là khổ, tóm lại Năm thủ uẩn là khổ.

Chư Hiền, thế nào là Năm thủ uẩn? Chính là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.

Chư Hiền, thế nào là sắc thủ uẩn? Bốn đại và sắc khởi lên từ bốn đại. Chư Hiền, thế nào là bốn đại? Chính là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới.

(Ðịa giới)
Chư Hiền, thế nào là địa giới? 
  1. Có nội địa giới, 
  2. có ngoại địa giới. 
Chư Hiền, thế nào là nội địa giới? 
Cái gì thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị chấp thủ, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội địa giới. 

Những gì thuộc nội địa giới và những gì thuộc ngoại địa giới đều thuộc về địa giới. 

Cần phải như thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Sau khi như thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với địa giới, tâm từ bỏ địa giới.

Chư Hiền, một thời xảy ra khi ngoại địa giới dao động, trong thời ấy ngoại địa giới bị biến mất. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại địa giới xưa ấy có thể nêu rõ, tánh hủy hoại có thể nêu rõ, tánh đoạn diệt có thể nêu rõ, tánh biến dịch có thể nêu rõ. Như vậy còn nói gì đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có gì để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là.

Chư Hiền, nếu có những người khác mắng nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu não Tỷ-kheo, vị ấy biết rõ như sau: "Khổ thọ khởi lên nơi tôi, thọ này thuộc tai xúc chạm, thọ này do nhân duyên, không phải không do nhân duyên. Do nhân duyên gì? Do nhân duyên xúc". Vị ấy thấy xúc là vô thường, thấy thọ là vô thường, thấy tưởng là vô thường, thấy hành là vô thường, thấy thức là vô thường. Tâm của vị này hoan hỷ, thích thú, tịnh chỉ, quyết định, tùy thuộc giới đối tượng.

Chư Hiền, nếu những người khác xử sự với Tỷ-kheo không có hoàn hảo, không có tốt đẹp, không có khả ái, hoặc dùng tay xúc chạm, hoặc dùng đá xúc chạm, hoặc dùng gậy xúc chạm, hoặc dùng gươm xúc chạm, vị ấy tuệ tri như sau: "Sự thể của thân này là như vậy, nên tay có thể xúc chạm, đá có thể xúc chạm, gậy có thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm. Thế Tôn đã dạy như sau trong ví dụ cái cưa: "Chư Tỷ-kheo, nếu có kẻ trộm cướp hạ tiện lấy cái cưa hai lưỡi cắt từng phần tay và chân. Nếu ai ở đây sanh ý phẫn nộ, người ấy không làm đúng lời Ta dạy". Vị ấy sẽ tinh cần, tinh tấn, không giải đãi. Niệm được an trú, không có loạn niệm, thân thể được khinh an, không dao động, tâm được định tĩnh nhất tâm. Nay mặc cho tay xúc chạm thân này, mặc cho đá xúc chạm thân này, mặc cho gậy xúc chạm thân này, mặc cho gươm xúc chạm thân này, lời dạy chư Phật cần phải được thực hành.

Chư Hiền, Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy có sự thôi thúc mạnh mẽ: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền, ví như một người dâu, khi thấy ông nhạc, có sự thôi thúc mạnh mẽ (để làm vui lòng ông ấy). Cũng vậy, chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy có sự thôi thúc mạnh mẽ: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, và xả tương ưng với thiện được an trú, thì Tỷ-kheo ấy được hoan hỷ. Chư Hiền, đến mức độ này, Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.

(Thủy giới)
Chư Hiền, thế nào là thủy giới? Có nội thủy giới, có ngoại thủy giới. Chư Hiền thế nào là nội thủy giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ, như mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội thủy giới. Những gì thuộc nội thủy giới và những gì thuộc ngoại thủy giới, đều thuộc về thủy giới. Cần phải như thật quán sát thủy giới với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Sau khi như thật quán sát thủy giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với thủy giới, tâm từ bỏ thủy giới.

Chư Hiền, một thời xảy ra khi ngoại thủy giới dao động, nước cuốn trôi làng, cuốn trôi thị trấn, cuốn trôi thành phố, cuốn trôi xứ, cuốn trôi quốc độ. Chư Hiền, một thời xảy ra khi nước biển đại dương hạ thấp một trăm do-tuần, hạ thấp hai trăm do-tuần, hạ thấp ba trăm do-tuần, hạ thấp bốn trăm do-tuần, hạ thấp năm trăm do-tuần, hạ thấp sáu trăm do-tuần, hạ thấp bảy trăm do-tuần. Chư Hiền, một thời xảy ra khi nước biển đại dương dâng cao đến bảy cây ta-la, dâng cao đến sáu cây ta-la, dâng cao đến năm cây ta-la, dâng cao đến bốn cây ta-la, dâng cao đến ba cây ta-la, dâng cao đến hai cây ta-la, dâng cao chỉ đến một cây ta-la. Chư Hiền, một thời xảy ra khi nước biển đại dương cao đến bảy đầu người, dâng cao đến sáu đầu người, dâng cao đến năm đầu người, dâng cao đến bốn đầu người, dâng cao đến ba đầu người, dâng cao đến hai đầu người, dâng cao chỉ đến một đầu người. Chư Hiền, một thời xảy ra khi nước biển đại dương dâng cao đến nửa thân người, dâng cao chỉ đến hông, dâng cao chỉ đến đầu gối, dâng cao chỉ đến gót chân. Chư Hiền, một thời xảy ra khi nước biển đại dương không có để thấm ướt đốt ngón chân. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại thủy giới xưa ấy có thể nêu rõ, tánh hủy hoại có thể nêu rõ, tánh đoạn diệt có thể nêu rõ, tánh biến dịch có thể nêu rõ. Như vậy còn nói gì đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có gì để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là.

Chư Hiền, nếu có những người khác mắng nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu não Tỷ-kheo, vị ấy biết rõ như sau: ...(như trên)... và xả tương ứng với thiện được an trú. Chư Hiền, cho đến mức độ này, vị Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.

(Hỏa giới)
Chư Hiền, thế nào là hỏa giới? Có nội hỏa giới, có ngoại hỏa giới. Chư Hiền, thế nào là nội hỏa giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Như cái gì khiến cho hâm nóng, khiến cho hủy hoại, khiến cho thiêu cháy; cái gì khiến cho những vật được ăn uống, nhai, nếm, có thể khéo tiêu hóa, hay tất cả những vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội hỏa giới. Những gì thuộc nội hỏa giới và những gì thuộc ngoại hỏa giới, đều thuộc về hỏa giới. Cần phải như thật quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Sau khi như thật quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với hỏa giới, tâm từ bỏ hỏa giới.

Chư Hiền, một thời xảy ra khi hỏa giới dao động. Lửa thiêu cháy làng, thiêu cháy thị trấn, thiêu cháy thành phố, thiêu cháy xứ, thiêu cháy quốc độ. Lửa cháy cho đến cuối hàng cây cối, cho đến cuối hàng đường lớn, cho đến cuối hàng chân núi, cho đến cuối hàng thủy biên, hay cho đến cuối hàng khu đất khả ái, rồi lửa bị tắt vì không nhiên liệu. Chư Hiền, một thời xảy ra khi loài người đi kiếm lửa phải dùng lông gà và dây gân. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại hỏa giới xưa ấy có thể nêu rõ; tánh hủy hoại có thể nêu rõ, tánh đoạn diệt có thể nêu rõ, tánh biến dịch có thể nêu rõ. Như vậy còn nói gì đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có gì để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là.
Chư Hiền, nếu có những người khác mắng nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu não Tỷ-kheo, vị ấy biết rõ như sau: ...(như trên)... và xả tương ứng với thiện được an trú. Chư Hiền, cho đến mức độ này, vị Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.

(Phong giới)
Chư Hiền, thế nào là phong giới? Có nội phong giới, có ngoại phong giới. Chư Hiền, thế nào là nội phong giới? Cái gì thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc động tánh, bị chấp thủ, như gió thổi lên, gió thổi xuống, gió trong ruột, gió trong bụng dưới, gió thổi ngang tay chân, hơi thở vô, hơi thở ra, và bất cứ vật gì khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội phong giới. Những gì thuộc nội phong giới và những gì thuộc ngoại phong giới đều thuộc về phong giới. Cần phải như thật quán sát phong giới với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Sau khi thấy như thật phong giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với phong giới, tâm từ bỏ phong giới.

Chư Hiền, một thời xảy ra khi ngoại phong giới dao động, gió thổi bay làng, thổi bay thị trấn, thổi bay thành phố, thổi bay xứ, thổi bay quốc độ. Chư Hiền, một thời xảy ra khi trong tháng cuối mùa hạ, loài người tìm cầu gió nhờ lá cây ta-la, nhờ cây quạt, và người ta không mong tìm được cỏ tại chỗ có rạch nước chảy. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại phong giới xưa ấy có thể nêu rõ; tánh hủy hoại có thể nêu rõ; tánh đoạn diệt có thể nêu rõ; tánh biến dịch có thể nêu rõ. Như vậy còn nói gì đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có gì để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là.

Chư Hiền, nếu có những người khác mắng nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu não Tỷ-kheo, vị ấy biết rõ như sau: "Khổ thọ khởi lên nơi tôi này thuộc tai xúc chạm; thọ này do nhân duyên, không phải không do nhân duyên. Do nhân duyên gì? Do nhân duyên xúc vậy". Vị ấy thấy xúc là vô thường; vị ấy thấy thọ là vô thường; vị ấy thấy tưởng là vô thường; vị ấy thấy hành là vô thường; vị ấy thấy thức là vô thường; tâm của vị này hoan hỷ, thích thú, tịnh chỉ, quyết định, tùy thuộc giới đối tượng.

Chư Hiền, nếu những người khác xử sự với Tỷ-kheo, không có hoàn hảo, không có tốt đẹp, không có khả ái, hoặc dùng tay xúc chạm, hoặc dùng đá xúc chạm, hoặc dùng gậy xúc chạm, hoặc dùng gươm xúc chạm, vị ấy biết như sau: "Sự thể của thân này là như vậy nên tay có thể xúc chạm, đá có thể xúc chạm, gậy có thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm". Thế Tôn đã dạy như sau trong ví dụ cái cưa: "Chư Tỷ-kheo, nếu có kẻ trộm cướp hạ tiện lấy cái cưa hai lưỡi cắt từng phần tay và chân, nếu ai ở đây sanh ý phẫn nộ thì người ấy không làm đúng lời Ta dạy". Ta sẽ tinh cần, tinh tấn, không giải đãi, niệm được an trú, không có loạn niệm, thân thể được khinh an, không dao động, tâm được định tĩnh nhất tâm. Nay mặc cho tay xúc chạm thân này, mặc cho đá xúc chạm, mặc cho gậy xúc chạm, mặc cho gươm xúc chạm thân này. Lời dạy chư Phật cần phải được thực hành".

Chư Hiền, Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy có sự thôi thúc mạnh mẽ: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền, ví như một người dâu, khi thấy ông nhạc, có sự thôi thúc mạnh mẽ (để làm vui lòng ông ấy). Cũng vậy, chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy có sự thôi thúc mạnh mẽ: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền, nếu Tỷ- Kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, và xả tương ưng với thiện được an trú. Do vậy, Tỷ-kheo ấy được hoan hỷ. Chư Hiền, cho đến mức độ này, Tỷ-kheo đã làm thật nhiều.

Chư Hiền, như một khoảng trống được bao vây bởi cây gậy, bởi dây leo, bởi cỏ, bởi bùn, được biết là một nhà ở. Cũng vậy, Chư Hiền, một khoảng trống được bao vây bởi xương, bởi dây gân, bởi thịt, bởi da, được biết là một sắc pháp.

Chư Hiền, nếu nội mắt không bị hư hại, nhưng ngoại sắc không vào trong tầm mắt, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, nếu nội mắt không bị hư hại, ngoại sắc vào trong tầm mắt, nhưng không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, chỉ khi nào nội mắt không bị hư hại, ngoại sắc vào trong tầm mắt, có sự quy tục xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp có hiện khởi.

Bất cứ sắc pháp gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong sắc thủ uẩn; bất cứ cảm thọ gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thọ thủ uẩn; bất cứ tưởng gì được hiện khởi như vậy đều được quy tụ trong tưởng thủ uẩn; bất cứ hành gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong hành thủ uẩn; bất cứ thức gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thức thủ uẩn. Vị ấy tuệ tri như sau: "Như vậy, như người ta nói, có sự quy tụ, sự tập hợp, sự hòa hợp của năm thủ uẩn này. Thế Tôn đã nói như sau: "Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lý duyên khởi". Những pháp này do duyên khởi lên chính là năm thủ uẩn. Sự tham dục, chấp trước, tham đắm, mê say trong năm thủ uẩn này tức là khổ tập; sự nhiếp phục tham dục, sự từ bỏ tham dục tức là sự khổ diệt". Cho đến mức độ này, Chư Hiền, Tỷ-kheo đã làm rất nhiều.

Chư Hiền, nếu nội tai không bị hư hại, nhưng ngoại thanh không vào trong tầm tai, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. ... Cho đến mức độ này, Chư Hiền, Tỷ-kheo đã làm rất nhiều.

Chư Hiền, nếu nội lỗ mũi không bị hư hại, nhưng ngoại hương không vào trong tầm mũi, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. ... Cho đến mức độ này, Chư Hiền, Tỷ-kheo đã làm rất nhiều.

Chư Hiền, nếu nội lưỡi không bị hư hại, nhưng ngoại vị không vào trong tầm lưỡi, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. ... Cho đến mức độ này, Chư Hiền, Tỷ-kheo đã làm rất nhiều.

Chư Hiền, nếu nội thân không bị hư hại, nhưng ngoại xúc không vào trong tầm của thân, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. ... Cho đến mức độ này, Chư Hiền, Tỷ-kheo đã làm rất nhiều.

Chư Hiền, nếu nội ý căn không bị hư hại, ngoại pháp vào trong tầm của ý căn, nhưng không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, chỉ khi nào nội ý căn không bị hư hại, ngoại pháp vào trong tầm của ý căn, có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, thì thức phần thích hợp có hiện khởi.

Bất cứ sắc gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong sắc thủ uẩn; bất cứ cảm thọ gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thọ thủ uẩn; bất cứ tưởng gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong tưởng thủ uẩn; bất cứ hành gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong hành thủ uẩn; bất cứ thức gì được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thức thủ uẩn. Vị ấy tuệ tri như sau: "Như vậy, như người ta nói, có sự quy tụ, sự tập họp, sự hòa hợp của năm thủ uẩn này. Thế Tôn đã nói như sau: "Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lý duyên khởi". Những pháp này do duyên khởi lên chính là năm thủ uẩn. Sự tham dục, chấp trước, tham đắm, mê say trong năm thủ uẩn này tức là khổ tập; sự nhiếp phục tham dục, sự từ bỏ tham dục tức là sự khổ diệt". Cho đến mức độ này, chư Hiền, Tỷ-kheo đã làm rất nhiều.

Tôn giả Sāriputta thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sāriputta dạy.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Chân thành cám ơn anh HDC và nhóm Phật tử VH đã có thiện tâm gửi tặng ấn bản điện tử.
(Bình Anson hiệu đính, dựa theo bản Anh ngữ "The Middle Length Discourses of the Buddha", Tỳ kheo Nanamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, 1995).
Hiệu đính: 09-10-2018
Reply
Kinh Kalama (Tăng Chi III.65) (AN 3.65 PTS: A i 188 Thai 3.6)

http://vuonthien.com/vi/kinh-kalama/


Tôi nghe như vầy:
Một thời, Thế Tôn du hành trong xứ Kosala, cùng với đại chúng tỳ khưu đi đến thị trấn Kesaputta của bộ tộc Kalama.
Các người Kalama ở Kesaputta được nghe: “Du sĩ Gotama là bậc xuất gia của dòng họ Thích-ca đang du hành trong xứ Kosala, vừa đến Kesaputta. Tiếng đồn tốt đẹp về Ngài Gotama được truyền đi như sau: Ngài là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế tôn. Ngài giảng Pháp cao diệu, rõ ràng, đầy đủ từ chặng đầu, chặng giữa, cho đến chặng cuối. Ngài tuyên bố đã chứng đắc đạo quả tối thượng bằng chính tuệ giác của Ngài đến toàn thể thế giới của chư thiên và nhân loại. Ngài có đời sống phạm hạnh hoàn toàn tinh khiết. Lành thay, nếu chúng ta được yết kiến một vị Ứng cúng như vậy”.
Rồi các người Kalama ở Kesaputta đến yết kiến Thế Tôn. Sau khi đến, có người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân thiện với Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người cung kính chắp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có người xưng tên họ rồi ngồi xuống một bên; có người im lặng ngồi xuống một bên.
* * *
Sau khi ngồi xuống, các người Kalama ở Kesaputta thưa với Thế Tôn:
– Bạch Ngài, có một số du sĩ, Bà-la-môn, đến Kesaputta. Họ thuyết minh và phát huy giáo lý của mình, nhưng họ bài xích, khinh miệt, chê bai và xuyên tạc giáo lý người khác. Lại có một số du sĩ, Bà-la-môn khác đến Kesaputta, họ cũng thuyết minh và phát huy giáo lý của mình, nhưng họ cũng lại bài xích, khinh miệt, chê bai và xuyên tạc giáo lý người khác. Bạch Ngài, đối với những người ấy, chúng con nghi ngờ phân vân: “Trong những du sĩ, Bà-la-môn này, ai nói đúng sự thật, ai nói không đúng sự thật?”
– Này quý vị Kalama, đương nhiên quý vị có những nghi ngờ, phân vân! Khi có điều đáng nghi ngờ, đương nhiên phân vân khởi lên.
Này quý vị Kalama, đừng tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó là truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại, đừng tin vì được ghi trong kinh điển, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì dựa theo ý kiến đã được cân nhắc, đừng tin vì vị ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì nghĩ rằng vị ấy là thầy của mình.
* * *
– “Nhưng này quý vị Kalama, khi nào quý vị tự mình biết rõ: ‘Các pháp này là bất thiện; các pháp này là đáng chê; các pháp này bị người trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau’, quý vị hãy từ bỏ chúng.”
Quý vị nghĩ thế nào? Khi tham lam, sân hận, si mê khởi lên trong tâm người nào, sẽ đem đến lợi lạc hay đau khổ?
– Đem đến đau khổ, bạch Thế Tôn.
– Này quý vị, người nào có tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm bị tham sân si chinh phục và xâm chiếm, người ấy sẽ sát sinh, lấy của không cho, tà dâm, nói dối, và khích lệ kẻ khác làm ác như vậy. Do đó, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu dài hay không?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Quý vị nghĩ thế nào, các pháp này là thiện hay bất thiện?
– Bất thiện, bạch Thế Tôn.
– Đáng chê hay không đáng chê?
– Đáng chê, bạch Thế Tôn.
– Có tội hay không có tội?
– Có tội, bạch Thế Tôn.
– Bị người trí quở trách hay không bị người trí quở trách?
– Bị người trí quở trách, bạch Thế Tôn.
– Nếu được thực hiện và chấp nhận, có đưa đến bất hạnh đau khổ không? Ở đây, chúng sẽ tác động như thế nào?
– Nếu được thực hiện và chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng sẽ đưa đến bất hạnh, đau khổ. Ở đây, chúng sẽ tác động như thế.
– Như vậy, này quý vị, hãy ghi nhớ điều Ta vừa nói:
“Này quý vị Kalama, đừng tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó là truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại, đừng tin vì được ghi trong kinh điển, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì dựa theo ý kiến đã được cân nhắc, đừng tin vì vị ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì nghĩ rằng vị ấy là thầy của mình.
Nhưng này quý vị Kalama, khi nào quý vị tự mình biết rõ: ‘Các pháp này là bất thiện; các pháp này là đáng chê; các pháp này bị người trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau’, quý vị hãy từ bỏ chúng”.
* * *
– “Này quý vị Kalama, đừng tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó là truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại, đừng tin vì được ghi trong kinh điển, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì dựa theo ý kiến đã được cân nhắc, đừng tin vì vị ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì nghĩ rằng vị ấy là thầy của mình.
Nhưng này quý vị Kalama, khi nào quý vị tự mình biết rõ: ‘Các pháp này là thiện; các pháp này là đáng khen; các pháp này được người trí ca ngợi; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến lợi lạc hạnh phúc’, quý vị hãy đạt đến và an trú”.
Quý vị nghĩ thế nào? Khi tham lam, sân hận, si mê không hiện hữu trong tâm người nào, sẽ đem đến lợi lạc hay đau khổ?
– Đem đến lợi lạc, bạch Thế Tôn.
– Này quý vị, người nào không có tâm tham, không có tâm sân, không có tâm si, không bị tham sân si chinh phục và xâm chiếm, người ấy sẽ không sát sinh, không lấy của không cho, không tà dâm, không nói dối, và không khích lệ kẻ khác làm ác như vậy. Do đó, có làm cho người ấy lợi lạc hạnh phúc lâu dài hay không?
– Thưa có, bạch Thế Tôn.
– Quý vị nghĩ thế nào, các pháp này là thiện hay bất thiện?
– Thiện, bạch Thế Tôn.
– Đáng chê hay không đáng chê?
– Không đáng chê, bạch Thế Tôn.
– Có tội hay không có tội?
– Không có tội, bạch Thế Tôn.
– Bị người trí quở trách hay không bị người trí quở trách?
– Không bị người trí quở trách, bạch Thế Tôn.
– Nếu được thực hiện và chấp nhận, có đưa đến lợi lạc hạnh phúc không? Ở đây, chúng sẽ tác động như thế nào?
– Nếu được thực hiện và chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng sẽ đưa đến lợi lạc hạnh phúc. Ở đây, chúng sẽ tác động như thế.
– “Này quý vị Kalama, đừng tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó là truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại, đừng tin vì được ghi trong kinh điển, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì dựa theo ý kiến đã được cân nhắc, đừng tin vì vị ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì nghĩ rằng vị ấy là thầy của mình.
Nhưng này quý vị Kalama, khi nào quý vị tự mình biết rõ: ‘Các pháp này là thiện; các pháp này là đáng khen; các pháp này được người trí ca ngợi; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến lợi lạc hạnh phúc’, quý vị hãy đạt đến và an trú”.
* * *
– Này quý vị Kalama, vị Thánh đệ tử ly tham, ly sân, ly si như vậy, vị ấy sống tỉnh giác, chánh niệm, an trú và tỏa rộng tâm Từ bao trùm phương thứ nhất, phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư. Cũng như vậy, tỏa khắp mọi nơi, bên trên, phía dưới, ngang dọc, đến tất cả mọi loài chúng sinh trên thế giới, vị ấy an trú với tâm Từ cao quý, rộng lớn, không giới hạn, không oán thù.
Vị Thánh đệ tử ly tham, ly sân, ly si như vậy, vị ấy sống tỉnh giác, chánh niệm, an trú và tỏa rộng tâm Bi bao trùm phương thứ nhất, phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư. Cũng như vậy, tỏa khắp mọi nơi, bên trên, phía dưới, ngang dọc, đến tất cả mọi loài chúng sinh trên thế giới, vị ấy an trú với tâm Bi cao quý, rộng lớn, không giới hạn, không oán thù.
Vị Thánh đệ tử ly tham, ly sân, ly si như vậy, vị ấy sống tỉnh giác, chánh niệm, an trú và tỏa rộng tâm Hỷ bao trùm phương thứ nhất, phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư. Cũng như vậy, tỏa khắp mọi nơi, bên trên, phía dưới, ngang dọc, đến tất cả mọi loài chúng sinh trên thế giới, vị ấy an trú với tâm Hỷ cao quý, rộng lớn, không giới hạn, không oán thù.
Vị Thánh đệ tử ly tham, ly sân, ly si như vậy, vị ấy sống tỉnh giác, chánh niệm, an trú và tỏa rộng tâm Xả bao trùm phương thứ nhất, phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ tư. Cũng như vậy, tỏa khắp mọi nơi, bên trên, phía dưới, ngang dọc, đến tất cả mọi loài chúng sinh trên thế giới, vị ấy an trú với tâm Xả cao quý, rộng lớn, không giới hạn, không oán thù.
* * *
Vị Thánh đệ tử ấy, này quý vị Kalama, với tâm không oán thù, không ác hại, với tâm thanh tịnh không uế nhiễm như vậy, ngay bây giờ và tại đây, vị ấy đạt được bốn sự an ổn:
  1. i) “Nếu có đời sau, nếu có kết quả dị thục do các nghiệp thiện ác, sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ sinh vào cõi thiện lành”; đây là an ổn thứ nhất vị ấy có được.

  2. ii) “Nếu không có đời sau, nếu không có kết quả dị thục do các nghiệp thiện ác, tại đây và ngay bây giờ, ta vẫn sống tự tại, an lạc, với tâm không oán thù, không ác hại”; đây là an ổn thứ hai vị ấy có được.
iii) “Nếu có quả xấu trổ ra cho người làm nghiệp ác, nhưng ta không tác ý làm điều ác hại cho bất cứ ai; do vậy, làm sao quả xấu đó có thể tác động đến ta?”; đây là an ổn thứ ba vị ấy có được.
  1. iv) “Nếu quả xấu không trổ ra cho người làm nghiệp ác, cũng không tác động gì đến ta, vì tâm ta thanh tịnh và thân ta không làm điều ác”; đây là an ổn thứ tư vị ấy có được.
Vị Thánh đệ tử ấy, này quý vị Kalama, với tâm không oán thù, không ác hại, với tâm thanh tịnh không uế nhiễm như vậy, ngay bây giờ và tại đây, vị ấy đạt được bốn sự an ổn này.
– Sự việc là như vậy, bạch Thế Tôn! Sự việc là như vậy, bạch Thiện Thệ! Vị Thánh đệ tử ấy, bạch Thế Tôn, với tâm không oán thù, không ác hại, với tâm thanh tịnh không uế nhiễm như vậy, ngay bây giờ và tại đây, vị ấy đạt được bốn sự an ổn này.
Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Ngài đã thuyết giảng Chánh Pháp rõ ràng bằng nhiều phương cách, như người dựng đứng những gì bị xô ngã xuống, hay phô bày những gì bị che phủ, hay chỉ đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào trong tối để những ai có mắt có thể thấy tường tận. Nay, chúng con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Kính xin Ngài nhận chúng con làm đệ tử cư sĩ; từ bây giờ cho đến mạng chung, chúng con xin trọn đời quy ngưỡng.

(Trích dịch)

-ooOoo-

Tham khảo:
1) “Kinh Kalama”, bản dịch Việt ngữ của Hòa thượng Thích Thiện Châu.
2) “Kinh Kalama (Tăng chi bộ)”, bản dịch Việt ngữ của Hòa thượng Thích Minh Châu.
3) “The Instruction to the Kalamas”, bản dịch Anh ngữ của Bhikkhu Soma.
4) “To the Kalamas”, bản dịch Anh ngữ của Bhikkhu Bodhi.


--ooOoo--

Tương Ưng Bộ, SN LVI.31

Kinh Lá Rừng Simsapa (SN 56.31 PTS: S v 437  CDB ii 185)

HT Minh Châu dịch



 

Quote:Giới thiệu: Ðây là bài kinh rất phổ thông cho các Phật tử. Ðức Phật dạy tuy rằng Ngài biết rất nhiều nhưng Ngài chỉ giảng dạy những gì cần thiết để giác ngộ.

Một thời, Thế Tôn trú ở Kosambi, tại rừng Simsapà. Rồi Thế Tôn lấy tay nhặt lên một ít lá Simsapà, rồi bảo các Tỷ-kheo :

-- "Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, cái gì là nhiều hơn, một số ít lá Simsapà mà Ta nắm lấy trong tay, hay lá trong rừng Simsapà?"

-- "Thật là quá ít, bạch Thế Tôn, một ít lá Simsapà mà Thế Tôn nắm lấy trong tay, và thật là quá nhiều lá trong rừng Simsapà."

-- "Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thật là quá nhiều, những gì Ta đã thắng tri mà không nói cho các Ông! Thật là quá ít những gì mà Ta đã nói ra! Nhưng tại sao, này các Tỷ-kheo, Ta lại không nói ra những điều ấy? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, những điều ấy không liên hệ đến mục đích, không phải là căn bản cho Phạm hạnh, không đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do vậy, Ta không nói lên những điều ấy.

"Và này các Tỷ-kheo, điều gì mà Ta nói ? 'Ðây là Khổ', này các Tỷ-kheo, là điều Ta nói. 'Ðây là Khổ tập', là điều Ta nói. 'Ðây là Khổ diệt', là điều Ta nói. 'Ðây là Con Ðường đưa đến Khổ diệt', là điều Ta nói.

"Nhưng tại sao, này các Tỷ-kheo, Ta lại nói ra những điều ấy? Vì rằng, này các Tỷ-kheo, những điều ấy liên hệ đến mục đích, là căn bản cho Phạm hạnh, đưa đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Do vậy, Ta nói lên những điều ấy.

"Do vậy, này các Tỷ-kheo, một cố gắng cần phải làm để rõ biết : 'Ðây là Khổ', một cố gắng cần phải làm để rõ biết : 'Ðây là Khổ tập', một cố gắng cần phải làm để rõ biết : 'Ðây là Khổ diệt', một cố gắng cần phải làm để rõ biết : 'Ðây là Con Ðường đưa đến Khổ diệt'".


HT Minh Châu dịch Việt

Chân thành cám ơn nhóm chủ trương trang nhà LotusNethttp://www.lotuspro.net , đã có thiện tâm gửi tặng toàn bộ Tương Ưng Kinh dạng điện tử (Bình Anson, 01-1999).
Reply
Sư Toại Khanh Trả Lời Câu Hỏi bài giảng Kalama & Simsapa (1-2)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BB%8Fi

Lớp Kinh Tạng trích diễm thứ hai hàng tuần 03/01/2022
Trả lời câu hỏi bài giảng Kalama & Simsapa

Câu hỏi bài kinh Kalama

Ghi chú:
Bát đoán Phật Ngôn:
  1. Pháp dẫn đến ly tham
  2. Pháp dẫn đến không bị trói buộc
  3. Pháp dẫn đến không có tích tập
  4. Pháp dẫn đến ít ham muốn
  5. Pháp dẫn đến tri túc
  6. Pháp dẫn đến viễn ly
  7. Pháp dẫn đến tinh cần
  8. Pháp dẫn đến dễ nuôi.
http://www.chanhminhtk.org/phapam/cacchu...index.html

--ooOoo--

Hôm nay chúng ta quay lại giải quyết mấy câu hỏi bài tập. Rất thú vị khi thấy bà con có những ý tưởng rất thú vị, có quan tâm đến bài vở.

Chúng ta giải quyết tất cả là 6 câu bài tập.

1. Nếu sống theo tinh thần bài kinh Kālāma vừa học, người Phật tử còn có thể dựa vào đâu để nhận định một lời rao giảng "đây là lời Phật"?

Theo bài kinh Kalama đức Phật chỉ đưa cho mình 2 tiêu chí, 2 nền tảng để nhận xét một vấn đề trước khi mình phủ bác hay chấp nhận nó:

Thứ nhứt, cái đó có phải điều thiện hay không? 
Thứ hai, đó có phải điều bất thiện hay không?

Đó là hai nền tảng, hai cơ sở để mình dựa vào đó mình bỏ hay là theo một vấn đề, chấp nhận hay phủ bác một vấn đề. Nhưng mà cái đó, đương nhiên lời Phật là đầy đủ rồi, không sót gì đâu. Nhưng mà gọn quá. Bởi vì, nếu chỉ dựa trên chữ “thiện”, “bất thiện” có nhiều người khó bề xoay xở trong đời sống thực tế, trong cuộc tu.

Ở đây chúng có bài kinh Bát Đoán Phật pháp của bà Gotami, di mẫu của đức Phật, dì ruột của thái tử Tất Đạt. Khi bà xuất gia, chứng La Hán, thì bà trở thành bậc Ni tổ, người đầu tiên sáng lập hệ thống tỳ-kheo-ni.

Lần đó, bà đến gặp Phật: "Bạch Thế Tôn, rồi đây sẽ có rất nhiều người thậm xưng hay mạo mạo nhận đây là lời Phật, người hậu tấn về sau biết dựa vào đâu xác minh đâu là lời dạy Thế Tôn, đâu không phải là lời Phật?"

Đức Phật trả lời cho bà Gotami. Chúng ta biết rằng, chỉ dựa vào bài kinh Kalama và bài kinh Bát Đoán Phật pháp, chúng ta hoàn toàn có thể hiểu rằng: 

Nếu câu hỏi đó, được hỏi lại ở hoàn cảnh khác với đối tượng khác thì chắc chắn rằng đức Thế Tôn sẽ có cách trả lời khác, nhưng nội dung vẫn là bài kinh Kalama. 

Có nghĩa là: 

Cái gì thiện thì theo, cái gì bất thiện thì bỏ. 

  1. Nhưng thiện ở đây là cái gì? 
  2. Bất thiện ở đây là cái gì? 
Thì, tùy chỗ mà Ngài nói rộng, nói sâu khác nhau. Nhớ nha. Tùy chỗ mà Ngài giải thích cái thiện và cái bất thiện rộng, sâu khác nhau, tùy căn cơ chúng sinh.

Thí dụ, 
  1. Ngài nói chuyện đó mà cho người xuất gia nó khác người cư sĩ, 
  2. Ngài trả lời câu đó cho bậc đại trí khác cho người nhiều đức tin, 
  3. Ngài trả lời câu đó cho bậc thích trì giới khác người thích thiền định. 
  4. Ngài trả lời câu đó cho vị nặng về pháp học sẽ khác vị nặng về pháp hành. 
Đại khái như vậy.

Cho nên, ở đây, trước mắt chúng ta có bài kinh Bát Đoán Phật pháp, có thể làm chuẩn mực chung để hiểu bài kinh Kalama một cách rộng rãi và dễ nuốt hơn. Chứ còn tiêu chuẩn thiện & bất thiện thì gọn quá .

Ở trong bài kinh Bát Đoán Phật pháp, khi được bà Gotami hỏi như vậy, Đức Thế Tôn, trả lời rộng rãi hơn. Ngài dạy:

1/ Pháp môn hành trì nào mà người thực hành lâu ngày thích sống một mình, không muốn gần gũi đám đông. Cái đó đúng là lời Phật.

2/ Pháp môn nào càng hành trì người ta càng tinh tấn trong chuyện tu thiện, lánh ác. Phải nói rõ như vậy. 

Chứ tinh tấn ở đây không phải là bày ra đủ thứ chuyện để làm mà không liên quan gì đến giáo lý, đến chuyện tu hành thì cái đó không phải tinh tấn theo nghĩa ở đây. 

Nghĩa ở đây, có nghĩa là tinh tấn trong chuyện tránh ác hành thiện, trong trau dồi Tam học, hành trì 37 Bồ Đề phần (thất giác chi, Bát chánh đạo, ngũ căn, ngũ lực, tứ chánh cần, tứ như ý túc, tứ niệm xứ). Tinh tấn đó mới được kể ở đây. Ngài dạy, pháp môn nào càng đi theo càng tinh tấn, mà tinh tấn kiểu đó thì đó là lời Phật.

  1. Pháp môn nào mà càng theo càng xa rời lời Phật, càng xa rời lý tưởng tu hành giải thoát. Nói đến tu hành giải thoát người nó bải hoải, nó chán nản, nó ê ẩm, ngán ngẩm thì sai. 
  2. Con đường nào mình càng theo càng trở nên tinh tấn, có hứng thú trong chuyện tu tập hơn đó là con đường đúng.
Như vậy, chuyện đầu tiên, càng đi theo mà càng thích sống một mình hơn, không thích đàn đúm, tụ tập. Thay vì “tu tập” thêm dấu nặng thành “tụ tập”. Nhớ nha. Mùa covid là mua tu tập không phải mùa tụ tập. Nhiều khi thêm dấu chấm là nó tan hoang cuộc đời hết. Ở đây là chỗ tu tập không phải chỗ tụ tập. Cho nên, đó là 2 tiêu chuẩn.

Tiêu chuẩn tiếp theo.

3/ Càng tu càng trở nên dễ nuôi. Dễ nuôi không phải dễ duôi nha. 

  1. Dễ nuôi có nghĩa là, hoàn cảnh nào, điều kiện vật chất ra sao cũng sống được. 
  2. Dễ nuôi không gói gọn trong chuyện ăn mặc đâu, mà nó còn ghê hơn nữa: Ăn, mặc, ở, điều kiện sinh hoạt, thì sao cũng được, coi nó là chuyện phụ, chuyện nhỏ thôi. 
  3. Miễn sao có đủ sức khỏe, 
  4. miễn sao đời sống tinh thần mình không bị đời sống vật chất ảnh hưởng nghiêm trọng. 
Thí dụ, nắng nóng quá, chỗ đó lạnh quá, chỗ đó ồn quá, hôi hám quá, chỗ đó ô nhiễm quá, khói bụi nhiều quá,… thì cái đó mình phải tránh. Chứ còn ăn, mặc, ở sao cũng được. Phải nói vậy.

Chứ còn, nên nhớ. Cái đơn giản ở đây là phải đơn giản trong cái an toàn & an lạc. 2 chữ “An” nha: An toàn & An lạc. Chứ không phải đơn giản là thách thức với mọi nguy cơ có thể phương hại đến sức khỏe và đến đời sống tâm lý thì cái đó là liều mạng chứ không phải dễ nuôi. Cái đó là liều mạng, cái đó là ngu xuẩn. Mà ở đây là đơn giản, đạm bạc nhưng trong điều kiện an lạc & an toàn. Nhớ cái đó. Nhớ 2 chữ An này nha. Xăm lên người. Đó là dễ nuôi.

Càng tu nhu cầu vật chất càng trở nên đơn giản hơn, đạm bạc, nâu sòng nhưng trong tiêu chí an lạc & an toàn.

4/ Pháp môn nào càng tu tập mình càng hướng đến xuất ly chứ không quay lại sanh tử. Có nghĩa là, càng tu càng muốn buông thôi.

Trong lớp intensive hôm qua chúng tôi có giảng chương số 5 của bộ Patisambhidamagga (Phân Tích Đạo, Đạo Vô Ngại Giảicó nói cái đó. Tức là: Cứu cánh tu học của người Phật tử là hiểu thấu Bốn Đế. Bốn đế là cái gì?

Đế đầu tiên là sự thật về bản chất đau khổ của thế giới. Thế giới này gồm có đắng, ngọt, nhạt thì đắng hay ngọt, hay nhạt đều là khổ trực hay gián tiếp hết. Bởi vì: Cái gì mà nó vô thường, cái gì mình không thể giữ hoài được, cái gì phải do duyên mà có, có rồi phải mất đi, tất cả cái đó đều được gọi là khổ. Vì, khổ có 2 trường hợp: Khổ bản chất & Khổ cảm giác.

  1. Khổ cảm giác là những cái khó chịu của thân, tâm. 
  2. Khổ bản chất là cái gì bất toàn, bất trắc, thì cái đó được gọi là khổ vì nó là cái nền cho khổ cảm giác.
Đã hiểu như vậy thì dầu một đời sống sung sướng hay đau khổ đọa đày thì nó đều là khổ gián hay trực tiếp hết. 

Và, tùy thuộc vào tầm nhìn của mình sâu rộng, cạn hẹp mà mình thấy được cái khổ bao nhiêu thì mình mới bỏ được cái thích bấy nhiêu

Thí dụ, 
  1. mình thấy được tất cả là khổ thì mình mới bỏ được tất cả cái thích. 
  2. Còn nếu mình chỉ thấy một mớ cái là khổ, còn một mớ cái còn ngọt ngào, ngon lành thì có nghĩa là mình vẫn còn giữ lại một số cái tham. 
Có nghĩa là Khổ đế thấy không hết thì Tập trừ không hết. Nhớ nha.

(4 hạng người trên đời này: người sợ quả xấu, người sợ nhân xấu, người sợ quả lành, người sợ nhân lành .)

(Tôi e là tôi giảng không đủ thời gian luôn. Nhưng cái nào tôi lướt qua được tôi lướt.)

1/ Có những người trên đời này họ chỉ sợ quả xấu, sợ đói, sợ nghèo, sợ bệnh, sợ tai tiếng, sợ mất mát, sợ đổ vỡ, sợ ly tán. Mấy người đó là sợ quả xấu thôi.

2/ Có những người khá hơn, sợ nhân xấu. Họ thấy chuyện tham lam, sân si, lừa đảo, lật lọng, bủn xỉn, ganh tỵ, họ thấy cái đó mới ghê. 

Cái khổ họ chịu được nhưng họ không chịu được chuyện bản thân mình bất thiện. Như vậy, hạng thứ hai cao hơn hạng thứ nhất. Hạng thứ nhất chỉ sợ quả khổ thôi. Hạng thứ hai nó sợ cả nhân khổ nữa, nhân xấu, nhân bất thiện.

3/ Hạng thứ ba mới ghê. Hạng thứ ba là sợ luôn quả lành nữa. Có nghĩa là sao? Hôm qua tôi kể chuyện ông kiến trúc sư Võ Trọng Nghĩa. Ổng giàu ổng giỏi như vậy mà giờ đè ra bắt ổng phải sống trong lâu đài hằng trăm triệu đô-la rồi ăn nhậu, rồi phụ nữ, rồi hưởng thụ khoái lạc, sung sướng, kẻ hầu người hạ. Không thích. Bây giờ ổng chỉ muốn tu thiền Tứ Niệm Xứ thôi. Có những người họ sợ.

Tôi biết, trong số những người tôi quen, tôi biết có những người họ sợ cả quả lành nữa. Sợ là sợ vậy đó. Họ không tận hưởng cái họ có mà họ thấy mấy cái đó toàn là phiền không à. Trong khi kẻ ít phước và ít trí thì họ mê quả lành. Nhưng với bậc thượng trí họ thấy quả lành họ ngán lắm. Họ thấy chuyện bơ sữa nhung lụa họ ngán lắm. Họ chỉ muốn có chỗ nào đơn giản để họ ngồi yên thôi.

Đó cũng là lý do chúng tôi làm Kalama đó. Vì có rất nhiều người họ thèm cái đó lắm. Họ thèm có chỗ đừng có bận tâm đến chuyện nấu nướng, hay là nhà cửa, giấy tờ, thuế má, vợ chồng, con cái,… dẹp, dẹp, dẹp. Họ chỉ muốn có chỗ, đến giờ nghe cái « beng » nhào lên quất một bụng rồi về nghỉ ngơi, kinh hành, tới giờ nghe cái « beng » nhào lên ngồi tập thể. Họ chỉ mê cái đó thôi. Đó là những người sợ quả lành.

4/ Hạng thứ tư là sếp sòng. Tức là, họ sợ luôn nhân lành nữa.

Trong room có nhiều người nghe rất là sốc. Quả lành mình ngán thì đúng rồi, nhưng nhân lành là sao? Họ thấy rằng:

Sợ = Họ thấy rõ: Việc ác, nhân ác dẫn tới quả khổ. Đúng. Việc lành, nhân lành dẫn tới cõi lành. Đúng. Nhưng họ cũng thấy luôn rằng dầu về cõi lành cõi ác cuối cùng vẫn là sự quẩn quanh

Cho nên, cứu cánh cao nhất của họ không phải là về cõi lành mà là chấm dứt luôn cả buồn, vui, thiện ác

  1. Cái thiện tạo ra cái vui và 
  2. cái ác tạo ra cái buồn. 
Cả 4 cái thiện, ác, buồn, vui cái nào cũng thấy ghê hết. 

Tuy nhiên, họ sợ cái thiện ở đây 
  1. không phải là họ không làm thiện, 
  2. nhưng mà họ làm thiện trong tâm trạng của một người uống thuốc, của một người đang đi vật lý trị liệu, của một người đang chấp nhận liệu đồ, liệu pháp chứ không phải làm phúc, làm lành để cầu quả nhân thiên, hữu lậu.
Nhớ nha.

Khổ đế mà thấy rốt ráo như vậy thì họ mới không còn cái thích trong Dục, Sắc & Vô Sắc. Họ thấy dầu sanh về các cõi Nhân – Thiên để hưởng thụ sắc, thinh, khí, vị, xúc hay là về các cõi Phạm thiên, ăn rồi nhắm mắt lim dim, hưởng thụ thiền lạc, thơm ngát mát lạnh thì họ thấy cái nào cũng quẩn quanh. 

Trong một căn nhà cháy thì đứa leo lên nóc, hay đứa chun xuống sàn nó giống nhau thôi. Đứa leo lên nóc thì nó lâu hơn chút, với ít ngộp. Đứa chun xuống sàn thì nó chết ngộp. Còn đứa kia lát sau lửa cháy lên thì nó cũng chết thôi, nó lâu hơn chút, trước khi chết cũng được nhìn trăng sao hoa lá tý. Nhưng đứa nào cũng chết. 

  1. Cái thông minh nhất của một người trong ngôi nhà cháy là bỏ ra ngoài, chứ không có tiếp tục leo chỗ này, chun chỗ kia. 
  2. Khổ đế thấy rốt ráo như vậy đó thì mới buông được tất cả Tập đế.
Có nhiều người, khi Khổ thấy một mớ thì Tập mình trừ được một mớ. 

  1. Khổ mình thấy được ở mức tương đối thì Tập mình chỉ trừ được ở mức tương đối. 
  2. Nếu mình chỉ trừ ở mức tương đối thì không thể nào chứng được Diệt đế. Diệt đế là sự thoát khổ tuyệt đối.
  3. Hễ chứng La Hán, hết phiền não mà còn sống thì là Diệt đế Hữu dư. 
  4. Còn chứng La Hán tắt thở luôn là Diệt đế Vô dư. 
Mà ở đây, 
  1. nếu cái khổ mình chưa thấy hết có nghĩa là cái tập mình chưa trừ hết. 
  2. Tập chưa trừ hết thì Diệt đế mình không thể chứng một cách đầy đủ.
Đạo đế là gì? Đạo đế là hành trình thấy khổ diệt tập

  1. Nếu Đạo đế tu chưa tới mức thì nó dẫn đến chuyện thấy Khổ chưa bao nhiêu và 
  2. từ đó nó dẫn đến chuyện trừ Tập chưa bao nhiêu. 
Con đường Đạo đế chính là con đường thấy Khổ trừ Tập để chứng Diệt.

Cho nên, cứu cánh trong Bát đoán Phật pháp, điều kiện để xác định, minh định đó có phải lời Phật hay không thì trong đó có một điều: Càng tu càng thấy hướng đến giải thoát là vậy đó.

Các vị thấy tôi đánh một vòng để quay trở lại.

Tức là, mình tu để buông thì đúng, còn tu còn chỗ nắm, còn chỗ dựa là sai. Và đa phần chúng ta, khi chúng ta học giáo lý không vững, không cứng thì chúng ta không có đủ niềm tin nơi Phật. Và thế là, chúng ta phải dựa vào một người khác.

Chúng ta muốn tin Phật mà chúng ta biết không nhiều cho nên bây giờ chúng ta đành phải tin một người nào đó để thông qua họ, mình tin Phật. Thí dụ như, tôi không biết nhiều về Phật pháp nhưng ông A, ông B, thì tôi tin 2 ông này hiểu nhiều. Cho nên cái gì mấy ổng xúi tôi làm, thì tôi làm theo, vì tui nghĩ mấy ổng là những người hơn tui. Lúc bấy giờ tui không tin Phật mà tui tin ông A, ông B. Nhớ nha.

Điều kiện cần và đủ để xác minh, minh định lời Phật hay không, phải dựa trên nền tảng bản thân chứ không thông quan nhân vật trung gian. Hễ chúng ta còn tin Phật qua trung gian nào đó thì chuyện tu hành của mình là mình tu dùm người khác, tu theo con đường người khác. Mà rất có thể, là con chuột bạch của người khác. Hên gặp minh sư thiện hữu thì ok, gặp tà sư ác hữu là chỉ có chết.

Cho nên, tiêu chuẩn để xác định đó là lời Phật hay không thì ngoài tiêu chuẩn thiện ác ngắn gọn đó ra, còn có những tiêu chuẩn như mà mình có thể y cứ vào ngay trong đời sống hay cuộc tu thường nhật, mỗi giờ, mỗi ngày gian.

2/ Thế nào là tinh thần Kalama trong lý thuyết & thực hành?

Câu này cũng lặp lại ý câu 1. Cái này dài, cái này nói 3 năm mới hết, mà chúng tôi chỉ nói trong 3 phút thôi thì hên xui.

Về mặt lý thuyết, chúng ta bắt buộc có điểm tựa là Kinh điển. Đương nhiên, trong room thế nào cũng có người nhảy dựng lên, như đỉa phải vôi khi nghe chúng tôi nói dựa vào kinh điển, các vị nói Kinh nào? Trong khi ngày nay nói chữ “Kinh Phật” là một tỷ trường phái.

Có một tỷ trường phái. 

Bao nhiêu tăng ni trên mạng giảng tùm lum hết. Đâu có cha nào nói mình sai. Đúng không? Khi mình nói mình đúng thì đứa không giống mình là nó sai, nó tà hết. Đó là nói về người.

Còn nói về kinh sách. Kinh sách là do con người làm ra đúng không? Mà hễ con người nó mâu thuẫn, chống trái với nhau thì kinh sách, cái gọi là kinh Phật đầy ra đó. Kinh này chửi kinh kia. Cho nên, bây giờ vấn đề ở đây là hên xui.

Các vị cứ dựa vào cái biết của bản thân, dựa vào những tiêu chí chúng tôi đã đề nghị ở câu số 1. 

Cái này, nãy tôi có nhấn mạnh mấy lần, chữ hên xui, là: Kiến thức bách khoa các vị có đủ làm nền cho chuyện xác định hay không

Thí dụ, Kinh điển nhắm đến sự buông bỏ; Kinh điển không mang nội dung bài xích ai hết; Kinh điển không hô hào tuyên truyền ta là số 1 tức là khen mình chê người;

Một kinh điển có nội dung:

1/ Dẫn đến giải thoát, buông bỏ.
2/ không có nội dung khen mình chê người.
3/ Có nội dung khai phóng, cởi mở, không ràng buộc, giam hãm, nhốt tù độc giả, tín đồ rằng theo đây là đúng, theo cái ngoài ra là con sai là con sẽ bị đọa đời đời trong hỏa ngục, thí dụ như vậy, là bậy. Dầu đó là “kinh Phật”.

Các vị đọc kỹ lại coi, Kinh Phật tất cả là Khai thị & Khai phóng.

  1. Khai thị = Banh con mắt ra đừng cho nó đui nữa.
  2. Khai phóng = Không nhốt tù nó nữa.
2 chữ Khai: Khai thị & Khai phóng.

Nếu một bài kinh, bộ kinh, cuốn kinh dầu mang tiếng được dịch từ Đại Tạng hay tác phẩm biên soạn viết lách của đời sau thì nó phải đòi hỏi những điều kiện đó. 

  1. Ít nhất nó phải có nội dung khai thị & khai phóng
  2. Thứ hai, nó không có nội dung bài xích ai hết. không có nội dung khen mình chê người. 
  3. Điều đặc biệt là nó không có nội dung đóng khung, nhốt tù, giam hãm ai hết.
Tất cả chỉ là những đề nghị để cùng nhau nắm tay dấn bước trên con đường chân lý. Nhớ cái đó. Cùng nhau nắm tay thì được, chứ còn chưa gì hết mà rao giảng bằng cái còng số 8 trên tay, đi xiềng người ta, đi nhốt tù người ta, bắt người ta làm chim lồng cá chậu là sai.

Bất cứ học thuyết nào về chính trị, văn hóa, tôn giáo, triết học, khoa học,… gì đi nữa, mà chưa gì hết mà nó mang hơi hướng, dáng dấp của tinh thần giam hãm, nhốt tù, buộc tội đối phương, những kẻ không giống mình cho rằng đây là chân lý, ngoài ra là sai bét. Thì đó là vấn đề. Mình phải dựa vào đó.

Còn những tiêu chí chuyên môn hơn. Chẳng hạn, kiến thức về văn bản học, thuyên thích luận thì cái đó là kiến thức chuyên môn. Cái đó mình có thể nhìn vào một văn bản, đặc biệt là đọc kinh Phật và kinh gốc, kinh Phạn, như bữa hổm chúng tôi có đăng tải một bản dịch của một người không biết tên, trên facebook. Họ có nói, ông Kim Dung. Ông tác giả võ hiệp ổng nói rằng Kinh Phật mà ổng đọc trong Hán tạng nó không cho ổng cái tâm thái, và nhận thức, không khí tâm lý giống như ổng đọc kinh Phật qua các bản dịch tiếng Anh của Âu Mỹ.

Ở đây chúng tôi tuyệt đối chỉ nhắc lại lời của ông, chúng tôi không có ý dè bỉu, bài xích. Xin các vị nhớ cho cái đó. Chỉ nhắc lại gợi ý của ổng thôi.

Có nghĩa rằng là, khi muốn tiếp cận một nền tảng tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng thì chúng ta nên lưu ý các khía cạnh khả tín của nó thông qua văn bản chúng ta tiếp cận nó qua ngôn ngữ gì, qua tác giả, dịch giả, soạn giả nào. Chứ không phải thấy phía trước bìa sách quất một chữ “Phật”: Phật giáo, sa môn, Tỷ-kheo, Thích Nữ gì đó, là mình nghĩ đó là kinh Phật mình cắm đầu mình theo là kẹt lắm.

Bởi vì mình thấy, vật dụng thường ngày còn có hàng giả nói gì công trình tư tưởng tâm linh, nó cũng có hàng giả. Ai cấm? Ngụy thư, apocryphon.

Cho nên, ở đây. Phải dựa vào kinh điển.

Như vậy đó là lý thuyết.

Thứ hai là trong Hành trì. Chúng ta vẫn quay lại câu số 1.

Có nghĩa là, con đường nào, đạo lộ nào ngay lúc hành trì, đi theo nó chúng ta ngày một có khuynh hướng buông bỏ nhiều hơn, cảm thông nhiều hơn. Đặc biệt, con đường nào càng hành trì đầu chúng ta càng được khai phóng, cởi mở hơn. Đối với người, chúng ta dễ dàng yêu thương, bao dung, cảm thông hơn. Đối với các vấn đề về tư tưởng, giáo lý chúng ta ngày một hiểu rộng, sâu hơn, tiếp tục cảm thông, bao dung hơn. Là đúng.


Còn đằng này, thí dụ, tôi không nói ai, tôi chỉ nói chung chung. Thí dụ mình thích nghiêm trì giới luật, mình nhìn quanh thấy mấy người không như mình, mình coi thường. Mình thích bố thí, mình thấy người họ không là đại gia, thí chủ mình coi thường. Mình thích học giáo lý, mình thấy mấy người không học mình coi thường, đó là sai.

Thế giới này là trăm hoa đua nở, mình không thể đứng từ vị thế hoa lài mà chê hoa hồng, không thể ở vị thế hoa hồng chê hoa phong lan, mình cũng không thể từ phong lan chê bông 10 giờ, bông cúc, bông tầm bậy tầm bạ,… không. Tất cả là hoa hết.

Trong hành trì, 
  1. càng hành trì càng buông bỏ, càng cảm thông, càng bao dung thì cái đó là đúng. 
  2. Lý tưởng cao nhất là buông bỏ. 
  3. Thấy cái gì cũng là khổ. 
  4. Thấy thích cái gì cũng là thích trong khổ. 
  5. Nhìn quanh thì thế giới này chỉ có người đáng thương & người dễ thương. 
  6. Người bất thiện là người đáng thương và người thiện là người dễ thương 
  7. không có ai dễ ghét hết. 
  8. Càng tu càng bao dung là chỗ đó. 
  9. Thế giới chỉ có đáng thương & dễ thương thôi. 
Thí dụ như vậy.

Thấy rằng : 
  1. Đời sống tỉnh thức hay hơn đời sống u mê, quên mình. 
  2. Như vậy thì mình phải xác định lại giá trị mình có được trong lúc hành trì. 
  3. Càng tu tập, càng có được chánh niệm, tỉnh thức . 
  4. Càng tu tập càng có được trí tuệ để hiểu thấu, cảm thông, 
  5. càng tu càng có nhiều từ tâm để bao dung, 
  6. càng tu càng có nhiều nhẫn nại để chịu đựng, 
  7. càng tu càng có nhiều hành xả để thanh thản, 
  8. càng tu càng có nhiều định tâm để tập trung tinh thần. 
  9. Càng tu càng có nhiều niềm tin để mình không bị trôi dạt trong nhật thức, Chánh tín á. Tin đây là Chánh tín, tin mà có trí tuệ đi cùng. 
  10. Càng tu càng có được tín, tấn, niệm, định, tuệ là tu đúng.
Chứ còn càng tu mà mình nhìn lại. Có nhiều lúc nó như thế này:

Mình giảng cho nhiều, rồi đôi lúc mình quay lại với mình, mình không tin điều mình rao giảng, tuyên truyền. Mình hành cho đã, có một ngày mình đâm ra hoang mang, không biết mình có tu đúng hay không, không biết mình đang đi trên con đường dẫn về đâu, là không được.

Bậc thánh tôi nói không biết bao nhiêu lần. 

Bậc thánh khác phàm phu chỗ này. 
  1. Ngài hiểu rất rõ điều mình tin, cho nên tin chết bỏ điều mình hiểu. 
  2. Phàm phu không hiểu lắm điều mình tin nên không tin lắm điều mình hiểu . 
Thế là từ kiến thức đến hành trì là một khoảng cách rất xa, và từ hành trì đi đến cứu cánh rất là xa. Trong khi nhận thức và hành trì phải là một cặp, tương ứng, tương xứng, tương ưng với nhau. Phải hiểu rõ điều mình tin từ đó mình mới tin chắc điều mình hiểu.

Đó là tinh thần Kalama trong hành trì.

3. Trước hai vị thầy mình đều thấy là khả kính và đáng tin nhưng hai vị đó có quan điểm nhận thức khác nhau thì người đệ tử phải làm sao?

Cái này hơi nhiều.

Trước hết, ở đây tôi nói lần nữa, chỗ này, có 1 phần tôi nói trên quan điểm chủ quan của tôi, có một phần tôi dựa vào kinh điển, tùy hỷ bà con thích thì nghe không thích thì dẹp qua một bên.

Trước hai vị thầy mình thấy khả kính, đáng tin, đáng kính hết nhưng mà hai vị đó lại có quan điểm khác nhau thì phải làm sao?

Chuyện đầu tiên, theo tui, vẫn dựa trên kinh điển. Là, lời dạy nào ứng với lời Phật. Chắc chắn không thể nào cả hai mâu thuẫn nhau mà đều giống lời Phật, chuyện đó không có, trừ phi mình hiểu sai lời Phật. Bởi vì Chân lý chỉ có 1 không thể nào có 2. 

Bà đó hoặc là má mình hay là không phải chứ không có vụ chàng hảng, không có vụ ở giữa. Một là bả là má mình, bả sinh ra mình, hai là không phải, chỉ vậy thôi. Chứ không có vụ phi tưởng phi phi tưởng, phi má phi phi má, tức là nói má cũng không đúng mà nói không phải má cũng không đúng. Một bà là má tui. Hai bà không phải là má tui. Chân lý là vậy đó.

Chân lý chỉ có 1 nhưng cái tương tự chân lý có vô số, tới N. Nhớ. Chân lý chỉ có 1 thôi, nhưng cái tương tự chân lý có rất là nhiều.

Cho nên, chuyện đầu tiên, mình phải xác định hai vị này vị nào gần lời Phật nhất.

Thứ hai, mình phải xác định hai vị đó đều khả kính, đều đáng tin đúng không? Nhưng đó là chuyện của họ. Mình nè, cái nền tảng nào ở mình làm điểm tựa cho nhận xét đó? Mình hiểu được bao nhiêu mà mình thấy ông nội đó đáng tin?

Mình hiểu được bao nhiêu về con người đó và bao nhiêu về Phật pháp? 

Hai cái “bao nhiêu”: 
  1. Hiểu ông đó bao nhiêu và 
  2. hiểu giáo lý được bao nhiêu 
mà thấy ông đó khả kính, đáng tin? 

Như vậy, nó dẫn tới cái thứ ba, xem lại mình kính ông đó điểm nào, ông đó đáng tin điểm nào?

Thí dụ: 

  1. Y áo trang nghiêm, sinh hoạt chừng mực, nói năng cẩn trọng, ngôn ngữ từ hòa, xuất sắc, nhưng mới hình thức thôi. Nhìn ánh mắt của ổng, đúng, người này tin được, người này chân thật, người này là chân tu, ba bốn thứ chân trong đó: Chân thật, chân tu, chân thành gì đó. Nhưng mà ổng mới hoàn chỉnh ở đạo đức làm người thôi. 
  2. Đi xa hơn nữa, về đạo học, về học thuật, về cái gọi là minh triết, thì những cái đó đủ chưa? Y áo trang nghiêm, nói năng chừng mực, sinh hoạt cẩn thận, cẩn trọng, nghiêm túc, cái đó nó không đụng gì tới học thuật, nó không đụng gì tới vấn đề đạo học, nó không đụng gì tới vấn đề tâm linh, giáo lý. Phải coi kỹ mình kính ông cái gì.
Vì có nhiều khi mình thấy con người đó đáng kính, đáng tin nhưng trên nền tảng nào? Vòng vòng thấy chỉ là dựa vào hình thức thôi.

Trong kinh đức Phật dạy rất rõ: Có nhiều trường hợp người ta tìm đến một vị thầy mà họ gọi là chân sư hay đạo sư:

1/ Dựa vào tiếng tăm của vị đó (ghosa-pamāṇa). Mình không biết gì hết, mà nghe đồn, đọc báo, xem tivi, tiếp xúc quần chúng ngoài đời, nghe nhiều người nhắc ông đó quá đi. Người mà tiếng tăm lừng lẫy vậy dứt khoát là đúng rồi, không lẽ quần chúng ngu hết à? Không lẽ thiên hạ bá tánh ngu hết hay sao? Cho nên, trường hợp 1 là theo ai đó, thờ phụng ai đó, thần tượng ai đó chỉ vì tiếng tăm người đó là ghosa-pamāṇa.

2/ Vị đó có hảo tướng đoan nghiêm, mặt mũi, tay chân, vầng trán cao, mắt sáng, răng cỏ ngon lành, mũi cao, da trắng, bàn tay bàn chân như minh tinh màn bạc. Giống như tôi từng nói, tôi nhìn cô Tinna Tình, ước gì mà cổ đi xuất gia qua Nam tông, cô thuộc kinh Nam tông nhiều vậy, dám tôi theo cổ lắm. Thấy nguy chưa? Cái đó là Rūpa-pamāṇa.

Sẵn tôi nói luôn. Quý vị thắc mắc tại sao một tu sĩ biết cô đó? Là bởi vì tôi đi tìm mấy câu chú Mật tông mà lại gặp cổ trong YouTube á. Tôi tìm mấy câu chú, tôi tìm mấy bản tiếng Phạn, lòi ra cổ.

Trường hợp thứ hai là Rūpa-pamāṇa, có nghĩa là mình đánh giá một người qua ngoại hình, ngoại diện của người đó.

Cái thứ nhứt là tiếng tăm người đó. Cái thứ hai là ngoại hình người đó, vẻ ngoài của người đó.

3/ Hình thức tu trì của người đó (Lupa-pamāna)

Cái thứ ba khác cái thứ hai. Cái hai là thấy người đó đẹp. Cái thứ ba là hình thức tu trì của người đó. Người đó có thể xấu hoắc, lưng gù, mắt lé, môi hô, răng vẩu tùm lum hết, nhưng có một điều: y áo tả tơi, bình bát sứt mẻ, am tranh vách lá, uống nước suối, ăn rau rừng, dép chiếc còn chiếc mất, chiếc cột kẽm, thấy chịu quá, chịu quá, thì trường hợp đó là Lupa-pamāṇa, thấy hình thức tu trì của người ta.

4/ Thông qua tiêu chuẩn của giáo pháp, chánh pháp (Dhamma-pamāṇa): Nghe chữ Dhamma là các vị biết rồi đó. Pamāṇa là measure, ước lượng, tiêu chuẩn đánh giá. Mình đánh giá, mình nhận một người thông qua tiêu chuẩn của giáo pháp, của chánh pháp. 

Tiêu chuẩn của chánh pháp gồm có 2:

a/ Ổng nói đúng mà không ra gì thì ổng có cái mình nghe không có cái mình nhìn = Nói đúng không có khả năng tu.

b/ Ổng làm đúng mà ổng không có cái gì nói cho mình nghe thì có cái cho mình nhìn mà không có cái cho mình lắng tai = Tu đúng không có khả năng nói.

Cả hai trường hợp đó, miễn là đúng pháp thôi. Pháp là gì? Pháp là cái mình biết, mình dựa vào trong kinh điển đó, dựa vào văn tư tu của mình, mình biết. 

  1. Nếu ổng tu đúng mà không nói thì ít ra mình có cái mình nhìn, mình bắt chước. 
  2. Nếu ổng nói đúng mà ổng không làm được ít ra cũng có cái để mình nghe.
Cái bậy nhất là cắm đầu theo một người cho rằng họ tu đúng trong khi họ không có cái để nói mà còn nói sai nữa. Làm thì đúng đó, nhưng nói trớt quớt, mà vì kính cái hành của người ta, mà quên cái học, cái lý thuyết của người ta. Là không được.

Mình vì quá kính người ta, mà bắt chước cái hỏng, cái hư trong hành của người ta, cũng không được. Rất là quan trọng.

Cho nên, đây chính là, trong trường hợp gặp hai ông thầy như vậy thì 
  1. chuyện đầu tiên, mình phải xét coi: Lời dạy nào, đường lối hành trì nào, gương mẫu nào gần Phật nhất như mình biết? 
  2. Thứ hai, mình phải tự xem coi mình kính ông đó ở cái gì? 
Ông đó ổng rất giỏi toán, mà mình mê toán quá mình lại nhờ ổng dạy làm thơ là thấy bà nội. Ông đó thổi sáo rất hay mà tới nhờ ổng dạy võ là thấy bà nội. Ông đó giỏi võ mà đến nhờ ổng dạy mình vẽ tranh là bậy. Mình phải coi coi, mình trọng ổng chỗ nào. Chứ mình đừng có lấy cái này choàng qua cái kia là hình như lộn địa chỉ.

Đừng có tới tiệm phở mua bánh canh. Đừng bao giờ lại chỗ bán cháo đòi mua chè đậu xanh là cái đó không được. Nhớ nha. Cái đó nó lộn chỗ. Chè đậu xanh nó ngon bằng trời nhưng nó không phải là cháo. Cháo nó ngon bằng trời nó cũng không phải là chè đậu xanh. Mà thường người ta hay lộn lắm. Đó chính là bi kịch nhân gian đó.

Thương người đó chỉ vì hàm răng, nụ cười, má lúm đồng tiền, đi rước nguyên con người trời ơi của nó về, khổ một đời. Cái này có. Tôi biết. Cưới lộn. Đánh lộn mà có cưới lộn nữa. Vì nốt ruồi của nó có 1gr thịt thôi mà cõng mấy chục ký thịt về, trời ơi, nó lòi ra một con đàn bà không ra gì hết. Chỉ vì cái dẻo miệng của nó mà cưới nguyên một thằng đàn ông không ra gì hết, nó vừa sở khanh, sở điện lực, sở thủy cục gì tùm lum, không được, cái đó là lộn. Nha.

Cái nào ra cái đó.

Xong một bài.

=== === ===

(còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Trả Lời Câu Hỏi bài giảng Kalama & Simsapa (2-2)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BB%8Fi


Bữa nay tôi quên vụ giải bài tập, giờ cuối mấy vị trong ban điều hành nhắc chớ không thôi bữa nay tôi giảng bài mới.

Bài mới, bài Kinh người phương ngoại (Bahiya Sutta), xuất sắc. Đúng là bài nào cũng xuất sắc hết. Mà cái bài đó chúng tôi có dụng tâm dụng ý khi để nó ở vị trí thứ ba, mà có điều âu lo là bài đó hơi nhức đầu, thứ bà con thích tu phước không thích tu huệ, thích quẩn quanh ba cõi sáu đường nghe bài đó nản lắm. Chỉ có như hồi nãy tôi nói. Có hiểu Khổ đế tới nơi mới trừ được Tập đế tới nơi. Nhờ vậy mới chứng được Diệt đế tới nơi. Hành trình hiểu Khổ trừ Tập chính là hành trình Đạo đế. Tùy mình thôi.

Mình còn thấy yêu đời mình còn yêu đường sanh tử. Nếu yêu đường sanh tử thì bài kinh đó không phải là bài kinh mình cần nghe. Báo trước bà con biết. Chứ đừng có yêu màu tím, thích cải lương mà vào trong đó nghe giảng là dứt khoát không được.

=== === ===

Câu hỏi bài kinh Siṁsapā

1. Nói theo tinh thần bài kinh Siṃsapā thì có phải người Phật tử cần từ bỏ tất cả kiến thức nằm ngoài kinh điển?

Nó như thế này.

Đạo Phật mình là đạo cảm thông & bao dung. Đạo cảm thông chẳng thể nghĩ bàn. Mình không thể hiểu kinh kiểu này bởi vì:

“Y kinh giải nghĩa Tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết.” = Ôm khư khư từng chữ one by one thì coi chừng nói oan chư Phật, chư Phật đâu có nói thế đâu. Nhưng rời kinh một chữ là nói lời của ma. Cho nên, “Y kinh giải nghĩa Tam thế Phật oan, ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết.” Mình y nghĩa chứ mình không thể y kinh. Y pháp, bất y nhân.

Mình phải hiểu Phật một cách thông thoáng. Mình thấy : Trong Phật pháp có tới Bát bộ (Càn thác bà, Long thần, Hộ pháp …), dẹp, mình nói tứ chúng là tăng, ni và nam, nữ cư sĩ nói gọn có 2 : cư sĩ & xuất gia.

Đường lối hành trì intensive very strictly dành cho người xuất gia nó khác. Còn Phật pháp dành cho người cư sĩ thì nó có vẻ cơi nới, thông thoáng, mềm, nhẹ hơn. Mình thấy, hễ mình còn là cư sĩ thì phải nuôi cha mẹ, nuôi vợ, nuôi chồng, nuôi con nuôi cái,… thì có nghĩa là mình chỉ sống cho đạo mấy chục phần trăm. Các vị hỏi mấy chục là mấy chục thì tùy. Có người thì 20, 30, 40, 50, 60, 70,… tùy. Đại khái có mấy chục phần trăm đạo và mấy chục phần trăm đời đó.

Mình là một kiến trúc sư Phật tử, thì làm sao mình bỏ được kiến thức về ngành kiến trúc? Chuyện đó không được. Mình là bác sĩ, mình là dược sĩ mình không thể bỏ không trau dồi, không ôn tập mấy kiến thức về y về dược được. Không được. Dứt khoát không được, vì mình còn nhiều chuyện phải làm.

Cái bậy nhất là một ông bác sĩ, một dược sĩ mà không trau dồi thêm. Thứ nhứt, mình không chạy kịp, không theo kịp với những bước tiến lớn trước mắt, mỗi ngày y dược trên thế giới nó có thay đổi. Ngành y, ngành dược nó có những bước tiến, mà mình là bác sĩ, mình phải đọc, đọc liên tục.

Thậm chí, bên Mỹ chúng tôi biết nó còn có lớp training cho các bác sĩ mỗi năm để họ tiếp cận kiến thức mới. Cho dầu mình là người Phật tử mình cũng phải có mặt trong lớp training đó, mỗi năm.

Cho nên, đó là nói về đời.

Về đạo. Đúng là theo trong kinh 
  1. Xuất gia tuổi trẻ 2/3 thời gian học, 1/3 hành ; 
  2. Xuất gia tuổi trung niên nửa học nửa hành ; 
  3. Xuất gia tuổi già thì không phải 2/3 mà 3/4 : 3 hành 1 học. 
  4. Còn giây phút cận tử cuối đời là 100% cho pháp hành, cho thực tập, thực tập chánh niệm, thực tập thiền định.
Nói như vậy thì không hề có chỗ trống cho khoảng thời gian tu hành để trau dồi những kiến thức ngoại điển, thế học, thế trí biện thông của ngoài đời. Nhưng mà, nếu chỉ mất chút ít thời gian mà biết thêm những cái mà nó bổ trợ.

Chúng tôi không xài chữ “hỗ” mà chúng tôi xài chữ “bổ”, bổ trợ cho kiến thức Phật học, để có thể củng cố thêm kiến thức của mình trong Phật học thì cũng nên.

Thí dụ, hồi nãy tôi có nhắc một môn học Hermeneutics tức là thuyên thích học hay văn bản học, tức là mình tìm hiểu xem ngữ nghĩa của từng chữ, rồi văn phong của một văn bản. Mình thấy tiếng Việt, tiếng Anh vào thế kỷ thứ 18, 19 nó khác với bây giờ như thế nào. Người ta chỉ cho mình thấy. Tiếng Anh thời trung cổ, Middle English thời Anglo-saxons nó khác thời Shakespeare, nó khác Charles Dickens, tiếng Anh thời Isacc Newton nó khác thời Stephen Hawking nó khác. Cho nên, không thể nào có thể nhầm lẫn được. Có nghĩa là một tác phẩm được viết vào thế kỷ 20 mà người ta nói rằng đó là tác phẩm của ông Leonardo da Vinci, không được. Ông kia cách mình cả 500 năm, mà ổng bên Ý. Mà ngôn ngữ, văn phong của ổng, bên Âu Mỹ người ta kỹ lắm. Người ta muốn viết bình về một nhân vật nào đó người ta phải tìm hiểu về học vấn, bối cảnh, gia đình, sinh trưởng của một người, chớ không phải đơn giản là những dữ kiện mang tính lý lịch trích ngang của một người là đủ. Không.

Muốn tiếp hiểu về ông…, Friedrich Nietzsche, Goethe (Đức), về ông Pythagoras của Hy Lạp hay về ông Tagore của Ấn Độ là người ta phải tìm hiểu bản quán, gia đình, xuất thân, chỗ sinh trưởng, trình độ học vấn, kể cả đời sống tình cảm rồi những thăng trầm trong đời sống của người đó, rồi những tác phẩm lớn bé của người đó. Người ta phải nghiên cứu kỹ để người ta xác minh, minh định được bài viết đó tinh thần đó có đúng của ổng hay không. Thậm chí, họ cho mình biết, cái đó có lẽ 80%, 90% là được ông đó được nói ra, viết ra vào khoảng lứa tuổi nào, sau hoặc sự kiện nào trong cuộc đời ổng. Người ta phải kỹ lưỡng đến mức như vậy.

Tiếng Việt trong thời kỳ Nguyễn Trãi, nó khác với thời Nguyễn Du. Tôi mới nói cách đây không lâu. Tiếng Việt của Nguyễn Du nó khác thời tiền Tự lực văn đoàn, tiếng Việt thời Tự lực văn đoàn nó khác tiếng Việt thời Sáng tạo, tiếng Việt thời Sáng tạo nó khác tiếng Việt Sài gòn sau 75. Mà tiếng Việt Sài gòn sau 75 nó khác thời ngôn ngữ mạng bùng vỡ. Bây giờ nó có loại ngôn ngữ mạng kỳ lắm. Và, ngôn ngữ mạng hôm nay, làn gió đó đã thổi sang ngôn ngữ văn bản, có nghĩa là những người viết lách nghiêm túc. Họ nói năng trên các diễn đàn online. Những người nghiêm túc nhất họ vẫn ít nhiều bị lây nhiễm ngôn ngữ mạng . Dễ sợ như vậy.

Cho nên, về mặt văn bản học người ta cung cấp cho mình những cơ sở, nền tảng, để mà mình xác minh xem cuốn kinh đó, cuốn sách đó, công trình, tác phẩm đó nó có đúng với thời điểm sáng tác mà người ta gán cho nó hay không.

Không phải cái gì mình cứ bắt đầu “Như thị ngã văn” “Như vậy tôi nghe,…” mình thấy là kinh Phật là không. Phải xem lại. Phải xem lại nội dung có đúng không? Nó có nhất quán, nó có trùng khớp, nó có tương ứng với mấy kinh khác hay không?

Đặc biệt của kinh điển Pali là 3 tạng không chống trái, mâu thuẫn lẫn nhau mặc dù nội dung có vẻ như khác. Tạng Luật đâu giống tạng Kinh, tạng Kinh khác A Tỳ Đàm. Nhưng một người có đi vào 3 tạng sẽ thấy: Nội dung tạng Luật không mâu thuẫn A Tỳ Đàm, nội dung A Tỳ Đàm bổ trợ cho tạng Kinh. Tạng Kinh là một cách nói khác của tạng A Tỳ Đàm, chứ không có mâu thuẫn, chống trái nhau.

Còn cái gì ngộ ngộ, nó thành ra nốt ruồi, mụn cóc, nó trở thành cái thừa thãi liền, nó không có chỗ dung hợp, kết nối một cách hợp lý. Nhớ nha.

Hồi nãy giờ tôi chỉ nói một thứ thôi. Có nghĩa là. Đúng là nghiên cứu kinh điển, nhưng có những kiến thức mình thấy nó có cần thiết cho chuyện nghiên cứu tìm hiểu Phật pháp thì cũng nên dành tí ti thời gian, nhưng mà tới đó thôi.

Thay vì giải trí bằng những cái không lành mạnh thì thôi, mình đọc những cái bổ trợ ít nhiều cho chuyện tu học, hành trì, nhận thức của mình. Cái đó cũng nên, nhưng nhớ : ƯU TIÊN CHO CÁI GÌ ?

Uống rượu không tốt, đàn đúm không tốt. Nhưng mình là một người đời, thì ngoài giờ chăm sóc cha mẹ, vợ con, nhà cửa, vườn tược, lâu lâu mình xẹt ra anh em chòm xóm có chút giao lưu nhẹ nhẹ không sao. Nhưng nhớ. Ưu tiên của mình.

Một người đàn ông trụ cột trong gia đình là cái gì ? Phải nhớ.

Khi anh nhớ được vậy rồi, anh có thể lãng đãng ngoài xóm làng, bè bạn tí tí không sao hết. Chỉ sợ có cái thôi. Anh đàn đúm ngoài phố nhiều quá, xóm làng nhiều quá mà anh quên mất bà mẹ già ở nhà, quên mất bà xã quần xăn ống cao ống thấp, đám con nheo nhóc mũi dãi thò lò ở nhà chờ anh về, chờ cơm tối, bên ngọn đèn hiu hắt, trong căn nhà lá nhà dột cột xiêu. Cái đó tệ thiệt. Anh là đàn ông, anh phải biết cái gì là ưu tiên. Người học Phật y chang vậy.

Anh có thể lãng đãng tí ti, nhưng nhớ, cái lãng đãng đó là lãng đãng có lợi và ưu tiên cho cái gì là số 1.

Cho nên, câu số 1, phải nói: Có lan man, có lãng đãng thì cũng lãng đãng cho cái gì có lợi, cho cái ưu tiên của mình. Đặc biệt, phải biết ưu tiên của mình là gì.

2/ Ta rút ra được bài học gì từ nội dung kinh Siṃsapā?

Cũng vẫn là câu số 1. Nhưng nó tô đậm thôi.

Tôi biết, trong 100 triệu người Việt Nam trong nước và non 5 triệu người Việt Nam hải ngoại, nếu đọc bài kinh Simsapa rồi đọc câu hỏi thì sẽ có thể có hàng ngàn câu trả lời khác nhau. Cho nên, ở đây, tôi nhấn mạnh, tôi trả lời một phần vào kinh điển, một phần vào ý kiến chủ quan của tôi thôi. Chứ đừng có cả đám bu lại chổng mông chửi thì oan lắm.

Ta rút ra được bài học gì từ nội dung kinh Siṃsapā? Ở đây tôi lại muốn bắt đầu như thế này.

Đời sống là 
  1. cho, và 
  2. nhận. 
Giá trị của một người không chỉ nằm chỗ anh nhận gì không mà nó còn có cái: Anh cho ra được cái gì. Ahứ không phải nhận không. Nhận không là mới một phần con người anh thôi. Anh đã nhận cái gì và những cái đó nó làm nên con người anh, nó làm nên giá trị nhân thân của anh. Đó là một phần.

Nhưng phần còn lại là: Anh có khả năng trao ra cái gì?

Và, nếu đời sống là cho và nhận thì: 

  1. Khi nhận cẩn thận tí, để cái mình có toàn cái đàng hoàng. 
  2. Khi anh có cái đàng hoàng anh mới có khả năng trao ra cái đàng hoàng. 
Đúng chưa?

Còn đằng này, nếu anh không có khả năng nhận cái đàng hoàng thì cái anh có không hẳn là đàng hoàng. Mà nếu anh không có cái đàng hoàng thì anh lấy cái khỉ gì mà anh trao ra? Xong chưa? Anh nhận bừa bãi thì anh trao ra bừa bãi. Anh nhận cả vàng lẫn rác thì cái anh trao ra có cả rác lẫn vàng.

Cho nên, anh phải cẩn thận, chỉ nhận vàng thôi. 18K trở lên chứ 14 pha đồng hơi bị nhiều. Nhận vàng thôi. Rác không lấy. Do đó thứ anh trao ra toàn 18K -24K không à. Lâu lâu chen hột lấp lánh, 8 ly, 10 ly, 1Cara, 2 cara, thì anh kêu tui tới tui nhận liền.

Kinh Simsapa nói cái gì? Kinh Simsapa nói rằng: Trong đời sống có muôn ngàn thứ để chúng ta trao ra và nhận.

Đức Thế Tôn Ngài có nhiều lắm. Riêng cái biết của Ngài thôi, không cần nói đạo hạnh của Ngài. Không cần nói. Rớ tới cái đó ghê lắm. Nói tới cái biết của Ngài thôi. Nó là cả một khu rừng. Mà giáo lý giải thoát Ngài trao ra cho chúng sinh có tí thôi, một nắm tay. Tại sao vậy? Vì Ngài là tổ sư trong cho và nhận. Ngài không cần nhận từ ai rồi đó, Ngài chỉ toàn cho thôi. Ngài tổ sư trong chuyện cho & nhận, hiểu rõ lắm.

Ngài chỉ trao ra cái gì ngon lành. Tại sao Ngài làm được chuyện đó? Bởi vì cái biết Ngài có hết, Ngài chỉ lựa cái tinh túy. Tinh túy là cái gì? Là cốt lõi nhắm đến cứu cánh lý tưởng chấm dứt đau khổ cho chúng sinh.

Các con biết chi cho nhiều, bây giờ thằng Tèo nó đứng ở điểm A, thằng Tí điểm B, thằng Ất, thằng Giáp, Trương Tam, Lý Tứ mỗi thằng đứng một góc trong khu rừng đó, Ngài tùy góc độ mỗi đứa mà Ngài chỉ cho con đường. Chỉ cho một con đường để mà đi. Thằng Tèo nó hợp con đường nào thì nó đi con đường đó. Thăng Tèo phải băng qua con thác, thằng Tí phải băng qua con suối, thằng Trương Tam, Lý Tứ, thằng Ất, thằng Giáp mỗi đứa phải có con đường riêng. Và, Ngài thấy được, đứa nào hợp con đường nào Ngài chỉ con đường đó.

Tổng cộng có 84000 con đường. Mình nghe thấy nhiều thiệt. Nhưng toàn bộ giáo lý Ngài để lại chỉ là con đường ra rừng. Các con chỉ cần biết con đường ra rừng từ điểm xuất phát của mình, các con không nhất thiết phải biết cả khu rừng như là Ta.

Trừ phi có ai đó, đang có mặt trong khu rừng này, cũng muốn biết hết mọi thứ như ta để trước tự cứu mình, sau cứu đứa khác, mà người như vậy cực hiếm. Hiếm lắm.

Có thầy dạy cho tu còn tu không nổi, nói gì tự mình tìm ra con đường giải thoát. Cho nên, vụ này miễn bàn. Và đây cũng là lý do mà chúng ta thấy trong kinh điển Nguyên thủy cơ hồ không có nhắc gì đến Phật đạo, lý tưởng Bồ Tát. Là vì sao?

Phật thấy rõ quá. Đứa thấy đời này khổ để hướng đến giải thoát đã cực hiếm rồi. Trong đám hiếm đó, đa phần phải dựa minh sư thiện hữu để mà đi . Đa phần 99,9% phải tìm người dựa mà đi. Vì có đứa mắt yếu, đứa chân yếu, đứa thì tay yếu, đứa bị dị tật, suy dinh dưỡng tùm lum hết. Cho nên nó phải dựa người này nhờ người này khiêng, người kia dắt tay, người nọ đẩy xe lăn, tùm lum hết. Người tự mình tìm ra con đường đi rồi giúp người khác cực hiếm.

Và, tôi nói cái này có nhiều vị trong room nhảy dựng lên nhưng mà tôi vẫn nói.

Toàn bộ con đường thành Phật nó nằm gọn trong 37 Bồ Đề phần. Nó không nằm bên ngoài. Nói theo A Tỳ Đàm, đời sống tâm lý chúng sanh có 2 trường hợp: Tâm lành (13 tâm sở trung tính + 25 tâm sở tích cực) & tâm xấu ( 13 tâm sở trung tính + 14 tâm sở tiêu cực). Chỉ vậy thôi.

Trong công thức 13 +14 nói gọn là nó tạo ra bất thiện, mà nói rộng là tất cả tội ác bậy bạ, lầm lỗi gì trên đời này đều từ cái này ra hết. Từ ngũ nghịch đại tội, … 13 + 14 hết.

Còn cái tâm lành. Có công thức đơn giản là (13 tâm sở trung tính + 25 tâm sở tích cực). Nghe nó đơn giản như vậy nhưng 38 cái này nó là nền hết. Tức là, nó là nền tảng cho 10 Ba La Mật, mà cũng là nền tảng cho 37 Bồ đề phần. Nội dung 37 Bồ đề phần cũng chính là (13 + 25), nội dung 10 Ba La Mật hay Lục độ của Bắc truyền thì cũng là (13+25). Chỉ bao nhiêu đó thôi. 

Đức Phật Ngài thấy: Người biết đời khổ dốc lòng giải thoát là hiếm, trong số hiếm đa phần dựa dẫm minh sư thiện hữu, có thầy có bạn, cho nên, Ngài biết rất rõ Ngài thấy không cần kêu gọi Bồ Tát đạo. Người nào tự họ có bản lãnh thì họ cũng chỉ nghe chừng đó thôi, cũng chỉ nghe 37 Bồ đề phần và phát Bồ đề tâm, nguyện trở thành một người giống y chang bậc Đạo sư đang ngồi trước mặt mình. Người nào nhát hơn tí thì thành những nhân vật lớn thôi. Thí dụ ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên trở thành đệ nhất trí tuệ, đệ nhất thần thông, ngài Anan ngài Ca Diếp, đệ nhất đa văn, đệ nhất đầu đà gì đó,…. Còn vị nào nhát dữ dội nữa muốn đi cho lẹ, đi cho gấp thì khỏi biệt hạnh gì hết, không cần đệ nhất đệ nhị gì, dẹp, dẹp, dẹp… Chỉ muốn xong phiền não là đi luôn, một đi không về. Đấy. Nhớ cái đó. Cho nên, Ngài không cần.

Cũng giống như, trên thế giới không có trường đại học nào dạy người ta lấy giải Nobel hết. Không có trường nào dạy người ta làm tỷ phú như Steve Jobs hay Bill Gates, hay ông Warren Buffett. Không có. Không có trường nào hết. Có điều căn cơ của anh mà ngon lành thì anh cũng xuất thân từ Columbia, Yale, Duke, Washington, Wright, Oxford, Sorbone, Cambridge,… y như người ta. Nhưng mà từ trường đó ra, bao nhiêu đứa nó làm luật sư, làm bác sĩ . 

Mà bác sĩ là sao? Bác sĩ là phòng mạch nho nhỏ ở làng quê nào đó, hoặc bác sĩ trong một bệnh viện nào đó, hoặc nó về làm giáo sư bác sĩ đi dạy cho mấy bác sĩ khác. Thí dụ vậy. Hoặc nó ra làm dược sĩ bán pharmacy nho nhỏ ở làng quê của nó. Xong. Nhưng có những người, nó ra xong nó trở thành những nhà bác học, những học giả, những nhà nghiên cứu cống hiến những công trình nghiên cứu phải nói là nghiêng trời. Có những đóng góp có tác động ảnh hưởng lên toàn cầu, lên khắp cả nhân loại. Đó là căn cơ.

Môi trường có một đó thôi . Tùy vào khả năng của anh mà anh nhận được bao nhiêu, anh xúc tiến được bao nhiêu và cuối cùng, đích đến của anh là cái gì. Chứ không có đặc biệt khỉ gì hết.

Cũng trong ngôi làng đó mà có đứa lớn lên thành ăn cướp, có đứa lớn lên thành ông giáo làng, có đứa lớn lên thành một bà nội trợ, có đứa lớn lên thành ông giáo trên tỉnh, có đứa nó tót lên trung ương nó làm đồng chí ủy viên trung ương đảng. Thấy chưa?

Cho nên, cũng cái nền đó thôi quý vị. Cho nên, trong khu rừng đó, đức Thế Tôn Ngài thấy, ai giống như Ngài miễn bàn. Nó nhìn thấy hạnh của Ngài là nó làm y chang. Có lúc nó sẽ thành người giống y chang Ngài. Còn đa phần, Ngài thấy ai cần thầy bạn, cần đến nắm tay nắm chân gì đó thì Ngài thò tay Ngài chỉ. Ngài chỉ chỉ thôi. Chứ chư Phật chỉ chỉ chứ không cõng, ẵm, bồng, đẩy xe lăn cho ai hết. Chuyện đó không có. Không có nha. Không có ẵm, bồng, đẩy xe lăn là không có. Chỉ có chỉ thôi.

Bởi vì sao? Là, anh phải có khả năng đi, chứ con đường vật lý thì còn có thể có sự hỗ trợ chứ con đường tâm linh thì chịu thua. Vì Tàu có nói một câu: “Chém đầu 1000 dũng tướng ngoài trận dễ hơn thay đổi cái đầu một thằng ngu”.

Mình nghe thấy ghê thiệt. Một bên là cả ngàn viên dũng tướng kiểu như Trương Phi, Quan Vũ, Triệu Tử Long, Hoàng Trung, Ngụy Diên,…1000 ông như vậy. 1000 ông trong đó có cả Napoleon, Hannibal, Alexander the Great, tùm lum hết. Mà tại sao một bên chỉ có 1 thằng ngu mà nó cân cả 1000 viên dũng tướng?

Hồi đó, tôi đọc tôi sốc lắm. Tôi già tôi thấm. Đúng. 1000 viên dũng tướng thú dữ thiệt. Dũng tướng Đông Tây kim cổ gom hết lại thì thấy ghê thiệt . Nhưng nói gì thì nói, chém đầu 1000 tên khó thiệt mà ít ra có cách. Một, là mình mua chuộc bằng tiền bạc; ly gián nội bộ; áp dụng mỹ nhân kế,… Nó nhiều lắm. Nhạc Phi mà còn bị Tần Cối quất một phát xuống sình mà, dễ ẹc à. Dễ lắm. Có cách. Ly gián nội bộ, mua chuộc tiền bạc, áp dụng mỹ nhân kế,… còn không nữa, bí quá, xách trái bom nguyên tử liệng cái đùng, chết hết. Thí dụ vậy. Mặc dù nghe nó hơi quá, nhưng ít ra nó cũng là một cách. Lấy bom liệng là chết hết.

Nhưng mà sửa suy nghĩ của một thằng ngu là vô phương. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng cái ngu đó đời đời bất diệt. Cái gì trong pháp hành cũng có thể vô thường nhưng cái ngu của thằng ngu là chỉ có trời cứu thôi. Khó lắm.

Cho nên, chư Phật chỉ có thể chỉ đường cho người nào họ điều kiện để họ đi, họ có một tâm thái, tâm thế tương ứng với lời dạy, lý tưởng Ngài đề nghị, gợi ý, khơi mở, khai thị. Chứ còn bản thân nó không đã không chịu đi rồi thì 3 đời 10 phương chư Phật bó tay.
Phật trí vô biên, Phật lực vô cùng, Phật tâm vô lượng, nhưng không độ được thằng vô duyên. Nhớ nha.

Phật trí vô biên, Phật lực vô cùng, Phật tâm vô lượng không độ được thằng vô duyên. Dầu tất cả chư Phật 3 đời 10 phương đều bó tay. Chư Phật khả kính đến dường ấy mà còn bó tay. Cho nên, chém đầu ngàn viên dũng tướng không có bằng thay đổi cái ngu của thằng ngu. Thay đổi suy nghĩ của một thằng ngu là chỉ có chết thôi.

Bây giờ, cả thế giới 7 tỷ người có quỳ lạy nó nó cũng không sửa được. Bây giờ, có bỏ vô trong chảo chiên nó cũng không được. Bỏ vô cối quết chả nó cũng không đổi được. Thà chết. Chết trong cái đầu của thằng ngu. Giờ quỳ lạy nó, hôn chân liếm gót nó thì nó vẫn tiếp tục làm ông vua ngu. Chứ không thể nào nó khác đi được hết.

Nhớ nha. Cho nên, bài học kinh Siṁsapā nó cho mình bài học như vậy đó.

3. Người tu học là người nhặt lá, nhưng biết lá nào để nhặt, khi nắm lá trong tay đức Phật không hề ít?

Cái này y chang mấy câu trước vậy thôi, không khác gì hết. Nắm lá trên tay. Tôi gợi ý thôi. Đôi lúc tôi thích cách nói của Thiền Tông. Gọn gọn thôi. Hễ nó đủ duyên thì nó hiểu. Không đủ duyên thì kêu nó đi chết đi, uống thuốc chuyển kiếp chứ đứa nào cũng bồng ẵm, hun hít, rồi cho nó bú sữa bình mệt lắm. Nó bị tiểu đường mà bú sữa bình là chết, nó dư cholesterol cho nó uống sữa cũng chết. Cho nên, tùy duyên, cho nó gợi ý thôi.

Nắm lá mà Ngài để lại không ít. Kinh nói 1 nắm nhưng quý vị nhìn tủ Đại Tạng các vị thấy. Vãi cả quần chứ không phải không. Quá nhiều. Tôi đã nói 1000 lần.

Tiếp cận kinh điển là không thể bỏ qua khía cạnh ngôn ngữ.

Tôi xin nhắc lại lần nữa. Ai tôi cũng thương, cũng quý. Nếu người đó tu học, thương lắm, quý lắm. Nhưng phải nói thiệt, phải nói câu nó hơi phân biệt, kỳ thị chút.

Lớn tuổi mà đến Phật pháp là tôi dội rồi. Xanh lè, ho hen tới học là tôi dội rồi vì họ không có thời gian đi sâu đi xa được. Trẻ đẹp mở miệng ra mà thấy cái nó nhắm tới không phải là cốt lõi Phật pháp mà nó nhắm tới ba cái râu ria là tôi cũng dội rồi. Đại khái trẻ mà ngu là mình dội, trẻ mà cạn là mình dội. Người sâu sắc, già bệnh cũng dội, ngán lắm.

Vì nắm lá trong tay đức Phật hơi nhiều, mà trong khi mình trẻ, mình khỏe mà ngu quá coi như thua. Thông minh sâu sắc mà già quá, bệnh quá cũng khó. Bởi vì, hỏi tui, tui phải nói thiệt.

Ai tôi cũng thương, ai tôi cũng quý mà muốn đi sâu đi xa trong Phật pháp thì : 
  1. Cứu cánh là chứng đạo, 
  2. dưới là hành đạo, 
  3. dưới hành là học đạo. 
Mà đã nói học đạo thì anh bắt buộc phải đọc được kinh Phật bằng Pali còn không nữa anh phải học được từ nguồn nào gần Pali nhất, và anh phải tiếp cận kinh điển chánh tạng từ nguồn nào gần chú giải nhất.

Chứ kinh tạng thông qua não trạng người thời nay, một anh mê thơ ca văn chương mà giảng kinh tạng theo ý ảnh, không dựa vào trong Sớ giải là chết. Một anh mê Toán, Lý, Hóa giảng kinh Phật là chết. Anh mê chính trị, kinh tế, xã hội,… mà ảnh giảng về kinh Phật theo ý ảnh là chết. Coi như, học xong là mình đi theo ảnh luôn. Nó kẹt như vậy.

Trong khi, đạo Phật là đạo giải thoát, mình chỉ đi theo hướng dẫn nào nó chuyên chở nội dung giải thoát, buông bỏ, chứ còn đi theo mấy cha văn nghệ, mấy cha khoa học, mấy cha triết học, mấy cha tín ngưỡng khói hương, cũng không được. Không được. Mấy cái đó không xài được.

Cho nên, ở đây, chuyện đầu tiên anh phải có ngôn ngữ. 
  1. Một là anh đọc được, 
  2. hai là anh tiếp cận nguồn nào gần nhất.
Đừng hiểu lầm tôi nói cái này có ý tuyên truyền dụ khị. Các vị cũng có cái đầu mà. Các vị cũng ăn cơm uống nước sạch chứ đâu phải ăn đồ tào lao đâu mà hiểu sai, đúng không ?
Thứ hai. Tôi nói cái này rất cực đoan, rất chủ quan nhưng không thể không nói. Tôi xin chịu trách nhiệm câu nói này. Các vị nào trong facebook, tôi thấy nhiều vị lắm, chơi thân chư tăng Miến Điện rất nhiều vị Sayadaw, tôi xin nói câu này.

Muốn học kinh Phật, muốn tu Tứ Niệm Xứ, muốn tìm hiểu Kinh Tạng. Luật tạng tôi không nhắc vì Luật tạng của bên tăng ni, mình miễn. Mình là thứ tóc tai tùm lum, quần có ống, áo có tay thì mình không cần. Không cần đụng tới tạng luật, cái đó của tăng ni .

Mình là cư sĩ. Mình chỉ còn lại 2 tạng : Tạng kinh & A Tỳ đàm. 
  1. Không có tạng kinh thì mù mịt không biết đâu mà tu. Tôi phải nói thẳng luôn. Không có tạng kinh là không biết gì mà tu. 
  2. Nhưng mà không có tạng A Tỳ Đàm thì mình không mở được kho tàng tạng Kinh. 
Hiểu Tạng Kinh mà hiểu theo kiểu dùng kiến thức ngôn ngữ của mình, người Việt dùng kiến thức Hán Việt, còn người Anh, Mỹ dùng kiến thức tiếng Anh, tiếng Mỹ của mình, tiếng Đức, tiếng Nhật của mình để đọc kinh Phật là chết. Không được. 

Kinh Phật có chú giải, sớ giải đàng hoàng.

Như hồi nãy tôi nói.

Chỉ là mấy ông triết gia, mấy nhà tư tưởng như Krishnamurti hay là Kierkegaard của Đan Mạch, hay là ông Schophenhauer của Đức , chỉ vậy thôi mà người ta phải tìm hiểu nào là bối cảnh sinh trưởng, trình độ văn hóa, đời sống tình cảm, đời sống gia đình, những dữ kiện, sự kiện trong cuộc đời ổng,… tùm lum. Mà mới có thể hiểu được chính xác tư tưởng của người ta. Nói gì là kinh Phật quý vị.

Tôi nói nhẹ thôi. Bình thơ Bùi Giáng không phải dễ.

Một là phải có một phần não trạng giống Bùi Giáng. Thứ hai, đã từng gặp Bùi Giáng. Thứ ba, đọc thật là kỹ Bùi Giáng và đặc biệt, là cuộc đời, hành trạng của ông Bùi Giáng.

Chứ còn anh lấy kiến thức tiếng Việt của anh, của thằng cấp 3 tú tài toàn, tú tài bán mà anh chưa biết gì đời tư, chưa tiếp xúc Bùi Giáng, chưa đọc kỹ Bùi Giáng mà anh đọc vài ba bài thơ của Bùi Giáng mà anh bình Bùi Giáng thì anh đi chết đi. Nha. Đừng có nói ổng khủng rồi dễ hiểu. Ổng uyên bác cực kỳ. « Bát ngát một biển văn chương, trùng trùng một trời chữ nghĩa » nói theo nhà văn Mai Thảo nhận xét về Bùi Giáng như vậy đó. Không có dễ đâu.

Theo tôi, Bùi Giáng là một trong khoảng 10 bộ óc uyên bác, thông tuệ bậc nhất của Việt Nam, trong nhận xét của tôi. Ổng đó. Ổng là một trong khoảng một chục bộ óc thông tuệ uyên bác bậc nhất, hàng đầu Việt Nam về tất cả các lãnh vực, Bùi Giáng, trong đó có cả thầy Tuệ Sỹ, trong đó có Hòa thượng Minh Châu.

Có nhiều người hiểu lầm hòa thượng Minh Châu. Có nhiều người hiểu lầm hòa thượng là chuyên gia dịch kinh Phật, chỉ vậy thôi. Sai. Sai bét. Kinh dị lắm. Hòa thượng Minh Châu sở học, sở tri của hòa thượng kinh dị lắm, chứ không phải lơ mơ cứ coi hòa thượng là chuyên gia dịch Kinh tạng, hiểu vậy nghèo lắm. Hiểu vậy là xúc phạm, là báng bổ, là chà đạp.

Thì, Kinh Phật phải tiếp xúc với kinh Phật qua ngôn ngữ Pali, phải biết A Tỳ Đàm thì mới nói đến lý thuyết của kinh Phật. 2 cái này phải có khả năng đọc hiểu tiếng Pali và khả năng có được căn bản A Tỳ Đàm thì tôi e là không có nhiều thời gian.

Cho nên, để giải thích câu hỏi này thì tôi đành phải nói một cách rất là chủ quan. Tôi nhấn mạnh nha. Chủ quan. Đa phần bà con không chịu nhưng mà tôi thấy phải nói.

Giờ nói qua một cách hơi khách quan chút nè.

Nói khách quan : Nắm lá nhiều quá, mình học cái gì ? Thôi thì tự xét thể trạng, não trạng của mình. Yếu người đừng đi gió, ra nắng. Mình coi cái gì là thiết thân, là gần gũi, là nhu cầu của mình thì mình đặc biệt ưu tiên cái đó. Đó là cách nói khách quan nhất.

Nhưng tại sao tôi để nó hàng thứ hai ? Vì thứ nhứt, nó chung chung. Thứ hai, nó không mang tính định hướng. Không được. Nó phải có tính định hướng.

Dầu học đời học đạo, nói cái gì, viết cái gì, kể cả một bức tranh, một bức tượng điêu khắc thì cũng phải có tính định hướng thì nó mới có giá trị. Chứ còn anh hứng hứng, anh làm tượng ông già, cô gái, con heo, con bò gì đó mà không có ý tưởng gửi gắm, không có thông điệp là không được. Đã nói thông điệp là phải có định hướng.

Cho nên, có nhiều cách trả lời câu hỏi này.

Nhưng tôi chọn cách trả lời chủ quan trước, khách quan sau. 

Khách quan là: Coi cái gì, mình xét thấy cái gì gần gũi, cần thiết cho mình mình chỉ chú ý cái đó thôi.

Thí dụ, mình thấy tuổi mình chỉ tu Tứ Niệm xứ thôi, sống chánh niệm. Thôi thì mình đọc thiệt là kỹ tất cả bài kinh nào mình thấy có tựa đề kinh tứ niệm xứ. Thí dụ, Tứ niệm xứ của Trường Bộ, kinh, Tứ niệm xứ của Trung Bộ. Rồi kiếm cho bằng được những sách chú thích, chú giải, phiếm giải về mấy bài kinh đó đọc cho kỹ. Rồi xong có đi tìm hiểu, kiếm thêm tăng, ni, Phật tử, người nào mình tin là họ có thể giúp mình, trao đổi, học hỏi thêm với họ, đào sâu bài kinh Tứ Niệm Xứ. Nhớ nha.

Hoặc là, mình bối rối, mình phân vân, mình hoang mang về cái gọi là Lý Duyên khởi, 12 duyên sinh, mình hoang mang nghe nói đó là câu trả lời về nguồn gốc vũ trụ mà. Thì thôi, giờ mình dành thời giờ đào sâu, mở rộng kinh điển, chẳng hạn bài kinh Đại duyên (Trường Bộ), xong rồi mình đọc Chú giải bằng tiếng Anh, tiếng Nhật gì không biết, rồi kiếm thầy bà tăng ni, cư sĩ mình học thêm.

Mình xoáy vào từng đề tài một. Đề tài nào mình thấy mình thiết tha nhất, hoặc là cần thiết nha.

Hai chữ : Thiết tha, hứng thú hoặc cần thiết nhất. Mình đánh từng trận một như vậy. Đánh du kích từng trận từng trận một. Chứ còn nó bao la quá.

Thì câu trả lời thứ hai này nó hơi khách quan đó. Nhưng nó chung chung lắm. Tôi tạm cho đó là 2 câu trả lời có thể tham khảo được. Tôi không nói tin được nha. Không có. Tham khảo được.

Ok. Hết giờ rồi, chúc bà con một ngày vui. Tuần sau chúng ta học bài kinh mới.

Mục lục các bài giảng

(Hết)
Reply
Kinh Kalama post # 918 ở trên .

--ooOoo--

Sư Toại Khanh Giảng Kinh Kalama (1-2)





https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...h%20Kalama

Nhật tụng Kalama - 20/12/2021 - Kinh Kalama

Chào bà con.

Kinh tạng, thì có 25 cuốn, trung bình cuốn 500 trang. Tìm hiểu tới nơi tới chốn thì mình thấy rằng có quan hệ chặt chẽ không thể tách rời giữa A Tỳ Đàm & Kinh Tạng ở chỗ: 

1/ Không có A Tỳ Đàm không hiểu được kinh tạng. 
2/ Học gì thì học nhắm tới 3 điều sau đây:

2a/ Học để tìm mối quan hệ giữa 3 tạng với nhau. Nếu học đến một lúc mà mình không tìm thấy quan hệ giữa ba Tạng. Học tạng này bài xích tạng kia là sai. Lời Phật chỉ có một dòng, một luồng thôi. Cho nên, thứ nhứt là tìm thấy mối quan hệ giữa 3 tạng.

2b/ Học để tìm thấy sự liên kết giữa lý thuyết và thực hành, giữa nhận thức và hành trì. Nếu học mà tới lúc mình muốn buông lúc nào thì buông, mình không thấy tương quan giữa cái học, cái hành là học sai.

2c/ Mình học, mình hành và mình thấy có ý nghĩa ứng dụng là học đúng. Còn nếu mình học mà mình không thấy nó giúp mình được gì hết, không giúp mình hóa giải được vấn đề gì trong tâm tư, trong cuộc sống là mình học sai.

Như vậy, có 3 điều: 
(1) Học giáo lý để tìm được mối tương quan giữa 3 tạng 
(2) Học để tìm mối tương quan giữa học và hành 
(3) Học để được an lạc. Học đạo mà được an lạc là học đúng. Còn học sao mà giống học toán, lý, hóa nhét cho đầy đầu mình thôi không có cải hóa được bản thân, không tìm được sự chuyển hóa bản thân là học sai.

Chuyện nữa, chúng ta học giáo lý trong lớp này, tuyệt đối chúng ta không coi nặng hình thức học vị, bằng cấp, chứng chỉ, gì hết. Nhưng có điều chúng tôi thiết tha mong mỏi, mai sau học xong 5 cuốn này thì 25 cuốn khoảng 12.000 trang chúng ta gom lại 5 cuốn Kalama. Mỗi cuốn 500 trang. Mỗi cuộn thật ra có 250 trang thôi vì 250 kia là Pali. Mang tiếng 5 trang, thật ra mỗi cuốn có 250. Như vậy, 5 cuốn có 750 trang thôi, có nghĩa là 12000 trang, gom lại chưa được 1000 trang, để bà con có được khái niệm căn bản về Phật học nói chung và kinh tạng nói riêng.

Tôi cũng mong mai này bà con nhìn thấy bộ Nhật tụng Kalama đó bà con biết rằng đó là chứng chỉ của mình đó, giáo lý mình có nền đó. Chứ còn mất mấy chục năm đi chùa lạy Phật, cúng dường tới lúc bạc tóc mù tịt giáo Pháp rất đáng tiếc.

Thân người khó được
Bởi vì, nếu chúng ta không tin Phật thì thôi. Nếu tin Phật chúng ta phải tin rằng: Thân người khó được. Lý do: Một ngày chúng ta sống với tâm hồn con người không bao nhiêu hết, mà chúng ta sống với tâm hồn sa đọa thì nhiều. Cho nên dựa vào đó chúng ta thấy trong kinh nói chính xác. Thân người khó được.

Chánh pháp khó gặp
Chánh pháp khó gặp. Nếu thân người khó được = người lành khó gặp. Vì tại sao thân người khó được? Vì cái Thiện khó làm => người thiện khó kiếm => Chuyện gặp đức Phật, giáo pháp đức Phật hay người hoằng dương giáo pháp càng hiếm. Bởi vì cái này dẫn tới cái kia. Cái thiện càng hiếm thì người thiện càng hiếm, mà đức Phật là thiện của thiện, đức Phật là người thiện trong đám người thiện, mà người thiện đã khó kiếm rồi.

Cho nên, mình ý thức rằng thân người khó được, chánh pháp khó gặp, nếu mình mang thân người được gặp Phật pháp mà mù tịt giáo pháp thì quá uổng.

Công đức cần đi kèm với trí tuệ
Một chuyện nữa, tôi nghĩ mình dứt khoát phải nói ra ở đây. Đó là, theo A Tỳ Đàm, công đức được thực hiện có trí tuệ đi kèm công đức mới lớn.

Trí tuệ có nhiều cách, quý vị thấy mà, trí tuệ người này khác người kia. Trí tuệ có nhiều loại: Văn, tư, tu.

Trí văn = trí tuệ có từ nghe, đọc, học từ người khác.
Trí tư = thấm thía, suy diễn, suy luận trên nền tảng kiến thức.
Trí tu = hiểu biết dựa trên nền tảng thực chứng của thiền định, thiền tuệ.

Tại sao trí tu phải dựa vào trí văn và trí tư ? 
1/ Bởi vì nói về thiền chỉ, thiền định:
  1. muốn đắc sơ thiền là phải trừ 5 triền cái. Trừ 5 triền cái trí mới sáng được, mới đắc được Sơ thiền. 
  2. Người đắc Sơ Thiền mới có điều kiện đắc Nhị, Tam, Tứ, Ngũ thiền 
  3. Người đắc nhị, tam, tứ thiền mới có khả năng thấy những điều người không có thiền không thấy được. 
2/ Thiền tuệ: Xưa giờ mình không biết cấu tạo, vận hành thân tâm này.  Khi học Phật pháp, đặc biệt A Tỳ đàm, ứng dụng vào pháp môn Tứ Niệm xứ mình thấy rõ: 
  1. bản chất, cấu trúc, vận hành của thân, tâm này nó ra sao. 
  2. Ta thế nào, người khác như vậy. 
  3. Và chúng sanh được cấu tạo, vận hành như thế nào thì ...
  4. ... mình hiểu luôn vũ trụ được cấu tạo, vận hành như thế nào.
Cho nên bắt buộc chúng ta phải có 3 loại trí, văn, tư, tu. Tùy thuộc văn, tư, tu của mình nhiều hay ít, sâu cạn rộng hẹp thế nào mà công đức mình khác nhau. Thí dụ, cũng cùng bỏ tiền xây chùa, in kinh, đúc tượng, nhưng người có kiến thức Phật pháp họ làm với nhận thức khác. Người kia thuần túy niềm tin.

Nó đặc biệt thế này: 
  1. Nếu đến với đạo thuần túy niềm tin, mai này cũng chỉ vì niềm tin trục trặc, bị thử thách là mình buông đạo ngay.
  2. Nếu đến với đạo  bằng nhận thức, hiểu biết thì mai này trời có sập xuống mình vẫn cứ thờ Phật, thờ Pháp.,
Nếu mình đến với đạo thuần túy là niềm tin thông qua một cá nhân, tập thể nào đó thì một lúc nào đó khi cá nhân, tập thể không được như mình nghĩ, qua mắt quan sát hay qua thị phi tai tiếng thì lập tức toàn bộ niềm tin Tam Bảo bị sập đổ ngay. Bởi vì, niềm tin Tam Bảo mình ngay buổi đầu được thiết lập trên nền tảng niềm tin thuần túy, thiếu trí. Nhớ cái đó. Cái đó rất quan trọng. Cho nên, đây là lý do vì đâu chúng ta phải học giáo lý.

Thứ hai nữa, chỉ có học giáo lý chúng ta mới có cái nhìn khác đi về thế giới này. Bởi vì thế giới này ra sao, tùy thuộc cái nhìn của mình.

Thí dụ, cũng cuộc đời này, cũng trái đất, hành tinh này,cũng cây cỏ, đất đá, kênh rạch, sông ngòi, con người, chim muông, … nhưng anh mù bẩm sinh cảm nhận thế giới khác, anh bị điếc bẩm sinh cảm nhận thế giới khác, anh bị tâm thần bẩm sinh cảm nhận thế giới khác. Chưa hết. Người bị bao tử, sỏi thận cảm nhận thế giới khác. Người thường xuyên bị nhức đầu, chóng mặt, cao máu,… họ nhìn thế giới khác. Dù họ cũng mắt tai mũi lưỡi như mình, nhưng suốt ngày nhăn nhăn, nó khổ như táo bón. Khi mình có 1 vấn đề về tâm sinh lý, thân thì bệnh, tâm có mối âu lo nội kết nào đó, thì cái nhìn chúng ta về thế giới đương nhiên nó không giống người khác. Lúc bấy giờ mình nhìn qua lăng kính của bản thân.

Cho nên, chúng tôi quay lại. Phật pháp cũng vậy.

Chúng ta biết Phật pháp thì cái nhìn chúng ta về bản thân, về những người chung quanh, về thế giới, vũ trụ, đương nhiên có khác. Vì Phật pháp cung cấp cho ta một cái nhìn.

Kiến thức nào cũng vậy. Một người có kiến thức hóa chất, vật lý, đại số, hình học, lượng giác, .. thấy vậy nhưng thêm một kiến thức thì cái nhìn của mình về thế giới khác người ta. Khác chắc chắn. Nội khoản logic, logic trong đầu thằng giỏi toán lý hóa. Với logic đó nó nhìn thế giới khác. Mặc dù trước trước mắt học xong nó về làm chuồng gà cho vợ nhưng ít ra nó có toán lý hóa đầu nó suy nghĩ khác. Đó là đời.

Còn Đạo: 
  1. Khi mình có kiến thức Phật pháp thì cách nhìn, cảm nhận của mình về bản thân, về cuộc đời đương nhiên khác đi. Đạo Phật cung cấp cho mình một cái nhìn. Cái nhìn trước mắt là mình thông thoáng, cảm thông, có khả năng chia sẻ tốt hơn. 
  2. Cái thứ hai nữa, cái nhìn cung cấp cho mình một khả năng thông thoáng, không giam hãm trong các định kiến. Học Phật cho đúng là không giam hãm trong định kiến. Lát nữa chúng ta bàn sâu chỗ này. 
  3. Cái thứ ba, khi học Phật là mình đang vượt thoát khỏi cảnh giới, trình độ hiện tại của bản thân. Cái đó là điều rất đặc biệt. Mình vượt thoát khỏi trình độ hiện tại. Vì cái nguy nhất của thế giới phàm phu là gì? Là đụng đâu dính đó. Sinh ra, lớn lên trong môi trường, trong hoàn cảnh nào thường người ta bị giam hãm, dính mắc, bị vướng kẹt trong đó, người ta không nghĩ đó là nhà tù của mình. Bi kịch của nhân loại, bi kịch củachúng sinh phàm phu là chỗ đó. Sinh trưởng trong môi trường nào thì thường bị giam nhốt trong môi trường đó.
Kể cả những người có bằng cấp học vị, giàu có, tiếng tăm, quyền lực, uy tín, … họ tưởng thế giới họ ngon lành hơn thế giới người nghèo, người dốt. Họ quên, chẳng qua nhà tù họ rộng hơn, lớn hơn một tí và, sợi dây xích xiềng họ bằng vàng, chỉ vậy thôi. Các vị tưởng tượng đi, phòng giam 10m2 với 100m2 nó khác nhau chỗ nào? Khác nhau chỗ rộng hơn tí, nhưng vẫn là giam. Sợi dây xích dầu bằng sắt rỉ sét hay sợi dây xích đúc bằng vàng khối. Nó khác về chất liệu nhưng giống về tác dụng: Giam hãm đời người.

Cho nên, nguy hại nhất của Phàm phu là hài lòng với nhà giam chính mình. Mình bị giam nhốt trong sự hài lòng, mình bị giam nhốt trong sự bất mãn. Ghê như vậy đó. Các vị nghe giam nhốt trong sự hài lòng các vị nghe hơi kỳ kỳ rồi, mà mình bị giam nhốt trong cái bất mãn, trong cái thích, cái ghét. Có nghĩa, khi mình ghét cái gì dầu người hay vật = lúc đó, mình tự giam nhốt trong thế giới định kiến, thành kiến. Khi mình thích cái gì mình cũng tự giam nhốt mình trong thế giới của định kiến. Cho nên đây là lý do vì đâu chúng ta học giáo lý. Học để tự tháo cởi, tự giải thoát, tự khai phóng bản thân mình. Đây là lý do mà chúng ta phải tìm đến Phật pháp.

Đừng bao giờ nghĩ học Phật pháp vì nghe nói học vì Phật pháp là lời Phật. Phật là vĩ đại, Phật là linh thiêng, vậy học lời Phật có phước. Vậy là chết rồi. Đức Phật không muốn mình học Ngài như học bùa. Không phải. Ngài chia sẻ cho mình những tia sáng, những góc nhìn. Ngài chia sẻ cho mình những chiều cao, chiều sâu, chiều rộng để mình nhìn thế giới tốt hơn. Mình khổ là vì mình hiểu lầm. Mình khổ là vì mình tự giam nhốt mình trong môi trường sinh trưởng. Mình học Phật pháp thì Phật pháp cung cấp cho mình cái nhìn vượt thoát định kiến. Cái đó là cái rất quan trọng.

Trong buổi học đầu tiên của lớp kinh tạng, trong nội bộ vui miệng thì mình gọi Nhật tụng Kalama, gọi vậy thì có vẻ đóng khung. Phải gọi là Kinh tạng trích diễm (diễm = hay, đẹp).
Bài kinh nào cũng đẹp hết cũng hay hết, chúng tôi cố ý sưu lục, select bài kinh chúng tôi cho rằng, thông qua đó Phật tử có được cái nhìn nền tảng, mang tính thứ lớp. Chứ tự một mình bươn chải, bôn ba trong kinh tạng đuối lắm. Vô gặp mấy bài khó. Khó là sao? Tại số người gặp Phật căn có khác nhau. Nhiều người họ đến họ đặt ra những câu hỏi hóc búa theo trình độ của họ, và đương nhiên đức Phật trả lời câu hỏi đó một cách tương ứng, những bài kinh đó với nhiều người chịu không nổi.

Tôi ví dụ, bà con mở Trung Bộ đọc dùm Kinh Đại Phương Quảng (MN43). Bài kinh đó quan trọng lắm, nhưng tôi e 99% đại chúng đọc bài đó chảy máu mắt, đọc không hiểu. Chúng ta sẽ từng bước làm quen những bài kinh đó, sau thời gian tìm hiểu mấy bài kinh nền trước.

Đến hôm nay chúng ta có bản thảo quyển Kalama 4. Kalama 3 đang hoàn tất công đoạn cuối để gửi nhà in. Như vậy, chúng ta là chúng tôi bên đâu đang sửa soạn hoàn tất quyển 3 và quyển 4 có một phần bản thảo rồi.

Đầu tiên chúng ta học Kalama 1. Tôi nói các vị đừng run, chúng ta học kinh tạng bằng Commentary, sớ giải của kinh, không phải học kinh tạng thông qua tư kiến người giải thích. Ổng thích sao ổng giải thích vậy thì kẹt lắm. Nếu kinh tạng dễ hiểu vậy nó đâu phải di sản của Tuệ giác vĩ đại như đức Phật. Nếu kinh Phật mà ai cũng có thể tùy thích giải thích, giảng giải thì đạo Phật không còn nữa.

Ai đó nói rằng “ôm chặt từng trang kinh là chấp thủ” thì tôi cũng đành chịu. Nhưng phải nói rằng, nếu đọc kinh tạng mà không thông qua chú giải, mạnh ai muốn nói gì thì nói thì đạo Phật mất từ lâu rồi. Cái gì cũng phải có cái gốc.

Muốn nấu nồi canh chua phải có công thức căn bản. Còn chuyện dặm vá thêm, ai nấu chay ai nấu mặn, ai nấu ngọt ai nấu chua, nấu mặn thì tùy. Nhưng căn bản, công thức nấu canh chua phải có cái nền.

Ở đây, bài kinh đầu tiên, chúng ta học là bài kinh Kalama.

Bài kinh này còn có tựa nữa, bà con có thể tim trong google: Kesamutti = không có tóc, người không có tóc. Cái đó địa danh người ta mình không mắc gì bàn cái đó. Bài kinh này bà con thấy có 2 tựa : Kalama sutta và Kesamutti sutta.

Nội dung bài kinh này được nhiều người Âu Mỹ xem là cánh cửa dẫn vào đạo Phật. Bởi vì, tuyệt đại đa số người Âu Mỹ lớn lên trong bối cảnh văn hóa Cơ Đốc. Ai lớn lên trong bối cảnh văn hóa Cơ đốc giáo đều biết câu này của Thánh kinh: “Phúc thay cho kẻ nào chưa thấy đã tin”.

Trong khi Phật giáo mình có câu ngược lại “Chớ vội tin những gì được truyền khẩu, truyền tụng, được đồn đại, kể cả những điều được xem là dòng thông tin chính thống được ghi chép trong kinh điển khả kính thiêng liêng. Cũng đừng vội tin vì điều đó được truyền dạy bởi một người mình gọi là sư phụ. Đừng vội tin vì điều đó hợp với nền tảng kiến thức xưa giờ của mình, nó hợp với kiểu suy tư của mình. Đừng vội tin vì điều đó được rao giảng bởi một người mình nhìn qua đã thấy thích. Trong đây có cái đó mới đặc biệt. Coi chừng cái đó. Coi chừng những điều mình tin chỉ vì nó được phát biểu bởi những con người nhìn qua đã thấy thích.

Bữa nay tôi tiết lộ các vị một chuyện, chuyện này rất bậy nhưng đang giảng không thể không nói. Các vị có quyền không tin. Tôi không theo dõi showbiz Việt Nam, nhưng có một người ngẫu nhiên tôi biết, có cảm tình, chết cha, tôi không biết đạo là tôi chết rồi. Đó là Tinna Tình. Cô này nói theo ngôn ngữ thế gian, cổ đẹp lắm. Mà không biết bây giờ cổ làm nghề ngỗng gì tôi không biết, mà vì nhân duyên sao đó mà hôm nay cô thành môn đồ Phật giáo Mật Tông. Cái tôi thích cổ không phải vì cổ đẹp không. Thấy đẹp là cũng mến rồi đó. Nó nguy chỗ là trong Pali, chú giải có xài chữ “Yuttarūpo” = ngoại hình, ngoại diện nhìn thấy sáng sủa là thấy được rồi đó.

Dĩ nhiên, cổ là giọng nói xuất sắc rồi. Tôi quý cổ là cổ là người Việt Nam, duy nhất, đầu tiên, có thể không phải cuối cùng, đối với tôi cổ là người duy nhất, đầu tiên. Duy nhất đương nhiên là đầu tiên rồi. Là, cổ có khả năng học thuộc lòng vô số thần chú bằng tiếng Phạn.

Tôi dốt thôi, nhưng trong cái biết của tôi, cổ phát âm rất chuẩn, phát âm tiếng Sanskrit rất chuẩn. Thuộc làu làu. Hôm nay, ngồi ôn lại, tôi có quen biết kha khá tăng ni Phật tử của Phật giáo Bắc truyền, mà chưa gặp người nào mà tôi nghĩ thuộc làu làu kinh chú Mật giáo bằng tiếng Sanskrit nhiều như cổ và phát âm chuẩn như cổ. Kể cả có những vị giảng sư, khi thuyết giảng có trích dẫn 1-2 chữ mà nghe nó trục trặc rồi. Thí dụ như Prajnaparamitta, Bát Nhã Ba La Mật, Bát Nhã Tâm Kinh, thấy phát âm là thấy không sướng rồi. Riêng cổ, thì cô này đọc chú Sanskrit thấy mê lắm.

Đang giảng Kalama mà tôi phải nhắc đến cổ là vì sao? Là vì, mình ở hải ngoại có thầy Pháp Hòa. Tôi nói các vị tưởng tượng tôi đồng tính. Chứ tui khoái thầy Pháp Hòa lắm. Mặt thầy đẹp mà lành lắm. Thầy không phải đẹp như tài tử nhưng ánh mặt, nụ cười, giọng nói của thầy cái cách diễn đạt của thầy mình tin được. Một người nói chuyện chừng mực, cẩn trọng, có trách nhiệm lắm, đặc biệt là gương mặt thầy Pháp Hòa là tui chịu đó. Giờ thêm cô Tinna Tình. Tôi mới nghĩ trong bụng: Chết rồi, nếu mình không biết gì hết mà mình gặp 2 vị sư thái và sư tổ này là mình mê chết luôn. Có nghĩa là 2 vị này giờ có ho ra tui cũng ghi âm về tui nghe. Tui mê 2 vị đó lắm. Tôi mê thầy Pháp Hòa, tôi mê cô Tinna Tình.

Bây giờ trở lại bài kinh.

Một lần, Thế Tôn đi đến một địa phương, dân chúng họ nhìn thấy Ngài là họ chịu rồi. Họ nhìn thấy mấy chục hảo tướng lộng lẫy, lung linh, lấp lánh là họ chịu. Họ thấy tăng đoàn trang nghiêm, đoan nghiêm pháp tướng, lục căn thanh tịnh. Họ chịu quá. Họ ra tiếp đón Thế Tôn và Tăng đoàn, họ thưa với Ngài:

- Trời ơi. Chúng con ở đây có cơ hội gặp gỡ rất nhiều các vị tôn sư của các đạo giáo mà khổ nỗi vị nào cũng nói mình là số 1 hết. Tụi con thiệt chúng thiệt hoang mang ghê lắm. Hôm nay chúng con gặp Thế Tôn, chúng con muốn hỏi, chúng con phải làm sao khi có quá nhiều chọn lựa như vậy? Chúng con rất hoang mang, xin Thế Tôn giúp chúng con .

Đức Phật Ngài trả lời:
- Các ngươi hoang mang là đúng, phân vân lưỡng lự là đúng. Ai trong hoàn cảnh đó cũng phải vậy thôi. Tuy nhiên, đây là những điều các ngươi cần tâm niệm.

Giờ mình vô trong Chánh kinh nha.

(1) Chớ vội tin những điều gì đó vì đó là lời truyền khẩu.
Nếu các vị để ý, ở đây chúng tôi cố ý để 4 chữ truyền : truyền khẩu, truyền thuyết, truyền tụng, truyền thừa. Có nghĩa là sao? Từ điểm A dời qua điểm B là truyền.

Ghi chú
cổ: 

Thí dụ trong tiếng Hán, nó có chữ “cổ” = trên là chữ ‘thập’, dưới là chữ ‘khẩu’. Chuyện gì được khoảng 10 cái miệng nhắc tới nhắc lui là thành ra chuyện xưa. Dễ nhớ lắm. Trên là chữ ‘thập’, dưới là chữ ‘khẩu’ mình dốt dốt mình tưởng tượng là hình vuông là được. Chuyện gì được truyền qua truyền lại khoảng 10 cái miệng thành ra chữ ‘cổ’.

1/ Thế giới này là sự trao truyền và tiếp nhận. Tôi có thể khẳng định. Toàn bộ nền văn minh nhân loại là hành trình trao truyền và tiếp nhận thôi. Tức là, kẻ trước nói cho kẻ sau cứ thế làm nên văn minh, dầu đó là triết học, văn hóa, tôn giáo, chính trị hay bất cứ lãnh vực nào trên thế giới. Dầu đạo học, khoa học hay nghệ thuật, tất cả đều là hành trình của trao và nhận.

Vấn đề là: Kẻ trao không phải kẻ nào cũng giống nhau, trình độ người nhận không phải lúc nào cũng giống nhau. Đây chính là đỉnh điểm của tất cả vấn đề. Kẻ trao, có người trao châu ngọc quý kim bảo thạch, có người trao thuốc độc không. Kẻ nhận cũng vậy, có khi người ta trao quý kim bảo thạch mà cách đón nhận, mình không biết, mình diễn dịch theo hướng của mình, lấy chậu vàng đựng phân dạng đó cũng có.

Cho nên, chuyện đầu tiên, đức Phật xác nhận: Thế giới này là thế giới của trao – nhận. Mình là người nhận mình phải cẩn thận.

Cẩn thận là sao? Anussavana đây có nghĩa là gì ? Là nghe nói qua nói lại. Ở nhà có chuyện buồn, nghe ai nói lên miếu bà Chúa Sứ cầu linh lắm, nghe nói có cái chùa nào cầu linh lắm, nghe nói có ông thầy bói thầy bùa, phong thủy linh lắm. Nghe nói qua nói lại, rồi chạy theo. Gọi là Anussavana.

2/ Còn cái thứ hai, Paramparāya.

Anussavana có nghĩa là cái tạm thời, nói qua nói lại tạm thời thôi. Nhưng paramparāya cái lâu ngày đi vào trong dân gian, như thành ngữ, tục ngữ, ca dao, thì cái đó nó cũng có sức hút lớn lắm. Tự nó có sức thuyết phục được mặc định.

Có nghĩa là cái gì được truyền khẩu nhiều đời nó cũng trở thành một thứ tôn giáo, một thứ kinh điển dân gian, chứ không phải không. Nhớ cái đó.

Sẵn bữa nay tôi phang ra, tôi nói một vài chuyện mà có thể làm sốc bà con tôi cũng phải nói.

Thí dụ: Nhiều câu mình học được từ trong chùa hay ngoài xã hội. Nghe cho kỹ nè. Lúc đầu, nó chỉ là câu tiện miệng người ta nói thôi. Người ta tiện miệng người ta nói. Lâu ngày được nhắc đi nhắc lại thành suôn miệng, nói là phải có câu có ca có kệ. Từ chuyện tiện miệng chuyển qua suôn miệng. Cuối cùng nó thành câu cửa miệng là chết rồi.

Thí dụ đây là những câu tôi xin bà con cẩn trọng. Những câu mà từ tiện miệng qua suông miệng, sướng miệng và cửa miệng.

A/ ĐỜI CHA ĂN MẶN ĐỜI CON KHÁT NƯỚC

Câu này nguyên thủy chỉ có nghĩa nhân quả thôi. Nó nhắc lại định lý Nhân Quả. Thế giới này là hành trình thừa tiếp. Tức là, mỗi người đến và đi để lại di sản gì đó thì đời sau theo đó mà tiếp nhận truyền thừa. Những gì mỗi người dựa vào đó sống được thì cũng được truyền lại từ thế hệ trước. Và dầu muốn dầu không, khi chúng ta tắt thở, chúng ta cũng để lại cái gì đó, hoặc tốt hoặc xấu cho đời sau. Đó. Câu “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước” phải hiểu mới vậy thì nó chuẩn quá. Đằng này, bị người ta hiểu lệch. Mà, khổ thay cái lệch đó được kế thừa bền bỉ, bền vững.

Đó là người ta hiểu: thí dụ, cha mẹ thất đức con ăn cho hết. Từ đó đẻ câu thứ 2.

B/ GÁI NHỜ ĐỨC CHA, TRAI NHỜ ĐỨC MẸ

Mấy câu này là câu cửa miệng. Thấy con nhỏ hồng nhan bạc phận, lận đận truân chuyên nói “Rồi. Chắc thằng cha già nó thất đức”.

Nhưng mà nó suôn miệng từ tiện miệng của ai đó, họ nói thành suôn miệng của người sau, cuối cùng trở thành câu cửa miệng. Cái đó là bậy vô cùng. Làm sao có chuyện “Đời cha ăn mặn đời con khát nước” được? Ai làm nấy chịu chứ. Phải hiểu như kiểu hồi nãy tôi nói. Nó nhấn mạnh tính nhân quả thì được. Câu đó hiểu theo nghĩa bóng thì ok. Nhưng hiểu theo nghĩa đen là sai.

Bậy hơn là câu “Gái nhờ đức cha, trai nhờ đức mẹ”, có nghĩa là bố mẹ sống sao để lại đức cho con. Tôi tuyệt đối không đồng ý. Bởi vì, mình thấy rõ ràng: Bà Maya & vua Tịnh Phạn sao bì được với Đức Thế Tôn. Phụ vương và mẫu hậu ngài Anan làm sao bì được với ngài Anan. Rõ ràng, mỗi người có nghiệp riêng. Và, thân phụ, phụ vương Đề Bà Đạt Đa sanh ra mấy người con, mình thấy bà Ya-du hoàn toàn đâu có giống ông Đề Bà Đạt Đa, mà ông Đề Bà Đạt Đa đâu giống bà Ya-du. Mỗi người một đường mà.

Cho nên mình cứ khăng khăng “đời cha ăn mặn, đời con khát nước” hay là “gái nhờ đức cha, trai nhờ đức mẹ” cái đó mệt lắm.

Nói cái đó, mình phải hiểu sao cho an toàn, chứ còn hiểu lơ mơ nghe kỳ lắm.

Rồi chưa, nó còn mấy câu mình nghe thấy đã lắm, nhưng, phải xét lại.

C/ NHẤT NHÂN HÀNH ĐẠO CỬU HUYỀN THĂNG

Nhất nhân hành đạo, cửu huyền thăng” = Trong dòng họ 1 người tu hành ngon lành là cửu huyền siêu hết. Các vị nghĩ coi chịu nổi không?

Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, ai ăn nấy no chứ làm sao có chuyện “Nhất nhân hành đạo, cửu huyền thăng”, mà cứ truyền câu đó, tưởng là hay.

Chưa đâu, còn trong chùa. Những buổi lễ, treo băng-rôn to đùng, bà con cứ theo đó xì xụp tin tưởng, truyền đời mấy câu đó, coi mấy câu đó giống như lời Phật, vì treo trong chùa, không lẽ lời Chúa?

Thí dụ.

D/ PHỤC VỤ CHÚNG SANH LÀ CÚNG DƯỜNG CHƯ PHẬT

Không biết bà con có biết câu đó không? Vô chùa hay thấy câu đó.

Lẽ ra trong kinh có câu hay dễ sợ mà tại sao quên. Phật giáo mới quá 2565 năm mà câu của Phật bị người ta quên mất rồi, người ta lại nói câu đó: “Phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Trong khi trước khi Phật tịch Ngài nói: “Thực hành lời dạy của ta là cúng dường ta”.

Đấy. Mà bây giờ qua câu “Phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Thế là bùng phát phong trào, có lẽ là tệ nạn, đối với tôi vừa là phong trào vừa là tệ nạn: Tăng ni đi làm từ thiện. Chết chỗ đó. Từ chỗ “phục vụ chúng sinh là cúng dường chư Phật” nó dẫn qua Tăng ni tôi khó chịu, tôi nhìn mấy bà sư cô bồng mấy đứa con nít tôi khó chịu lắm. Chung quanh lủ khủ mấy chục đứa, bồng cho bú bình, nựng nịu, có nhiều bà trước camera còn hun hít tùm lum. Nhìn nó ngán quá. Cái đó sai rồi. Đi quá xa rồi.

Mà cứ trên danh nghĩa là từ thiện. Quá xa. Tôi có thấy tăng nữa. Có những vị tăng bồng ẵm, cơ sở từ thiện á. Quá xa. Họ nói “phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật”.

Chưa. Còn nữa.

Vu Lan quất cho băng rôn to đùng thế này:

E/ “HẠNH HIẾU LÀ HẠNH PHẬT”

Câu đó quá hay. Nó hay một cách nguy hiểm. Là vì sao? Trong toàn bộ kinh điển, đúng đức Phật có nói đến chữ hiếu, nhưng chữ Hiếu ở vị trí rất hạn chế, rất khiêm tốn. Cái Ngài nhấn mạnh là tánh tri ơn.

Ngài dạy : « Này các tỳ-kheo có 3 hạng người sau đây rất khó kiếm
1/ Đức Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác là hạng người khó kiếm. 
2/ Hạng thứ 2: Tuyên thuyết Chánh pháp một cách đúng đắn đem lại lợi ích cho chúng sinh, đem lại lợi ích cho người nghe. Thuyết đúng pháp, thuyết bằng từ tâm, hạng này rất khó kiếm ; 
3/ Hạng thứ 3 Người có lòng tri ân. »

Ngày tôi còn bé, tôi đọc tôi không hiểu. Tôi chỉ hiểu có 1 cái là : 1/ Đức Phật là của hiếm, khó kiếm. Đúng. Tôi tin. 

Nhưng người thuyết pháp, tôi nhìn quanh tôi thấy tăng ni Phật tử ai cũng thuyết pháp được hết. Nhưng, không. 

Thuyết đúng pháp và động cơ thuyết giảng đó. 
  1. Nội dung phải đúng, 
  2. mà động cơ phải lành. 
Nội dung là phải đúng, phải sâu ; mà động cơ phải lành = thuần túy là vì từ tâm, bất vụ lợi, bất cầu danh. Hạng này khó kiếm.

Hạng 3 tôi còn hoang mang dữ dội nữa, tại sao người có lòng tri ân khó kiếm, giờ già tôi mới thấy. Chúng ta dầu có được ăn học, có được giáo dục, chúng ta có được xã hội công nhiên, mặc nhiên nhìn nhận là trí thức, là người lành gì đi nữa nhưng, "bản chất vong ân" mỗi người cực lớn. Tôi đã nói 1000 lần rồi. Bản chất vong ân của chúng ta cực lớn. 

Cho nên, chữ « hiếu » nằm trong chữ « tri ân ». Lòng hiếu đạo đối với cha mẹ chỉ là một mảnh lòng tri ân thôi. Tri ân = ai đó đem cho mình về vật chất chỉ là viên thuốc, vá cơm,.. về tinh thần là một pháp thoại hay là một câu nói chuyển hóa được tâm tư, cảm xúc, tâm trạng, đời sống của mình cho nó tốt hơn. Đó. Vậy đó. Chia sẻ cho mình, lúc vui, buồn chia sẻ theo tinh thần hướng thượng, tích cực, chứ không phải cùng nhau ôm nhau chia đôi giọt nước mắt, cùng bi lụy thì sai.

Cho nên, có 3 hạng thì hạng thứ 3 là tri ân là khó tìm. Mình thấy cha mẹ thương con lo con không hạn chế ngày tháng, công sức, tốn kém. Cha mẹ không có hạn chế ba vụ tốn kém bao nhiêu, thời gian bao nhiêu, công sức bao nhiêu, cha mẹ không có maàng, nhưng con cái mà nuôi dưỡng cha mẹ không được như vậy. Cha mẹ lơ mơ là con nó bỏ, nó giận. Nó có nhiều cách nó giận lắm, nó vì vợ nó, vì chồng nó, vì con nó, vì gia tài, nó bỏ cha mẹ là chuyện thường. Một mẹ nuôi 10 con chớ còn 10 con chưa nuôi được 1 mẹ.

Cho nên, đúng, hạnh hiếu là hạnh đức Phật Ngài tán thán, nhưng khi mình nâng nó lên thành công thức « Hạnh hiếu là hạnh Phật ». Rất nhiều người hiểu lầm tưởng đạo Phật chỉ có một chữ Hiếu là sai. Chữ hiếu chỉ là mảnh vụn, một mảnh nhỏ của lòng tri ân thôi.

Mà tôi nhắc lại. Đối với phàm phu mình, bản chất vong ân cực lớn. Tôi đã nói rất nhiều lần. Mỗi ngày tôi cho các vị 10.000 đô-la, tôi hầu hạ các vị như ông cố nội tôi, suốt 10 năm như vậy. Mỗi ngày cho 10.000 xài chơi, tối ngâm nước nóng, bỏ thuốc bắc ngâm chân, xoa bóp, nấu sâm, nấu yến, nấu lộc nhung cho uống, cơm bưng, cháo đút, nước rót đầy đủ, đút tận họng. Nhưng sau 10 năm tới năm 11 tôi không lo quý vị nữa, tôi chuyển qua lo người khác, thì các vị nghĩ coi, lúc đó 10 năm vừa qua trở thành sương khói.

Các vị lúc đó chỉ lo ghét tôi thôi. Người nào hiền thì buồn, tiếc. Nhưng đa phần lúc đó chuyển qua giận. Mình tốt với nó 10 năm mà chỉ cần mình không tốt với nó nữa là nó chuyển qua nó quên sạch. Đó là bản chất của phàm phu.

Cho nên, đối với đạo Phật nãy giờ các vị thấy mấy câu tôi trích dẫn là mình toàn chạy theo truyền khẩu, truyền thuyết là vậy đó. Cứ đè hiểu sai không.

Đúng ra hạnh hiếu là một phần nhỏ của tri ân. Tri ân mới quan trọng. Và, Tri ân chỉ là một phần của Phật pháp thôi.

Còn mình rút một mảnh nhỏ của tri ân, nâng nó thành đạo lý của Phật pháp thì kẹt lắm.

Chưa còn nữa.

F/ DẪU XÂY 9 BẬC PHÙ ĐỒ, KHÔNG BẰNG LÀM PHÚC CỨU CHO 1 NGƯỜI

Nhiều người mê câu này lắm, bởi vì họ lấy lý do khỏi đi chùa. Nhưng câu này phải hiểu cách cẩn thận. Hiểu sao ta ?

Bỏ tiền bạc tỷ cất 5-7 cái chùa chỉ để cầu danh thôi, vì tình riêng với ai đó, hoặc chỉ để cầu danh, không bằng lặng lẽ âm thầm cứu mạng một người. Bởi vì đa phần người ta làm phước muốn chường mặt ra cho mọi người biết mặt không à. Cho nên, làm công đức rần rộ không bằng âm thầm lặng lẽ,là chỗ đó.

Không thể nào chúng ta biết Phật pháp mà chúng ta đem phước này so phước kia. Cái đó trật lất. Thí dụ bây giờ mình đi quét chùa, mình hỏi đi quét chùa với thắp hương cái phước nào nhiều hơn ? Cái đó là bậy. Vì quét chùa là chuyện khác, thắp hương lạy Phật là chuyện khác. Cứu mạng người là công đức khác mà xây chùa, đúc tượng, in kinh là công đức khác.

Chứ mình không thể nào nói rằng « Dẫu xây 9 bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người ». Nếu nói vậy dẹp cha mấy cái chùa đi, ăn rồi đi từ thiện mấy chỗ già cả neo đơn, trẻ con mồ côi được rồi. Các vị nghĩ kỹ lại coi. Cho nên, cẩn thận ! Cẩn thận mấy cái đi vào dân gian là phải cẩn thận. 

Nó nhiều lắm quý vị. Nó nhiều nhiều nhiều nhiều. Tôi chỉ trích dẫn một vài điểm, bà con cẩn thận đừng để những câu nói lúc đầu chỉ là tiện miệng, sau đó suôn miệng, cuối cùng thành câu cửa miệng là chết rồi. Câu cửa miệng bung là bật bung là bật y chang, có nhiêu đó, không có kế thừa, không có phê phán là kẹt lắm.

Cái đó là paramparāya.

(2) Cái tiếp theo, itikirāya. Chớ tin vì đó là điều truyền tụng.

Là sao?

Thí dụ, có biết bao nhiêu người hôm nay, cứ tin chúng ta là con rồng cháu tiên, tin Sơn Tinh, Thủy Tinh, Âu Cơ trăm trứng. Một số trẻ con thì được. Có những đứa trẻ con tin cái đó thì được. Nhưng người lớn tuổi, tôi nói lại. Tôi không bôi bác lịch sử Việt Nam nha. Đừng đem tôi ra ném đá thì oan lắm. Tôi chỉ ví dụ, tôi chỉ trưng dẫn thôi.

Có nghĩa là có nhiều điều đi vào truyền thuyết, truyền tụng một cách chính thức rồi, tương truyền. Itikirāya = Nhiều thế hệ nhắc tới nhắc lui.

Mình cẩn thận. Bởi vì, một thông tin, information nào đó nó có lý do để nó xuất hiện ở đời, và nó cũng có lý do để tiếp tục lưu truyền, tồn tại ở đời. Không phải ngẫu nhiên nó xuất hiện, cũng không phải ngẫu nhiên nó tồn tại.

Trách nhiệm người có lý trí là tìm hiểu : Tại sao truyền thuyết nó còn tồn tại đến bây giờ?

Có nhiều truyền thuyết là nó thuần túy gắn liền lòng ái quốc, nó được truyền tụng là bởi vì dính líu quan điểm chính trị và được một thế lực nào đó cố ý tìm cách bảo lưu duy trì nó để phục vụ ý đồ chính trị, dụng ý văn hóa nào đó. Hoặc có nhiều khi vì nó thơ mộng. Vì cảm tính của dân gian mà nó được giữ lại.

Chẳng hạn hôm nay, ai đi sang Trung Quốc sẽ thấy. Chùa Hàn San ở Hàng Châu nó nhỏ xíu bằng lỗ mũi thôi. Nhưng nhờ nó gắn liền với bài thơ của Trương Kế, bài “Phong kiều dạ bạc” thế là chùa đó trở nên nổi tiếng. Chúng tôi có đặt chân tới đó thì nó hơi có tí tí thơ mộng, bởi vì nó nằm cạnh bờ sông. Đúng. Nhưng nó nhỏ, về quy mô, kích thước, kiểu dáng kiến trúc thì không đủ để nâng lên hàng danh lam như nhiều người hiểu lầm.

Hoàng Hạc Lâu của Vũ Hán, quê hương của covid-19, thì nó do bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu. Sau đó nhờ 2 câu thơ của Lý Bạch:

“Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu”

Tức là, trước đây thì Thôi Hiệu đến đó làm một bài thơ Hoàng Hạc Lâu quá nổi tiếng. Về sau, tương truyền Lý Bạch có đến đó, thấy cảnh đẹp, muốn làm thơ, nhưng mà ổng cứ ngồi uống rượu khà khà mà ổng không làm, vì theo truyền thuyết, đương nhiên cái này truyền thuyết nữa. Người ta nói rằng, ổng quá nổi tiếng mà bây giờ ổng làm bài thơ không hay bằng Thôi Hiệu thì nó cũng bẽ mặt quá, mà thêm mệt mỏi, thôi đành phán 2 câu thôi:

“Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu”

(Trước mắt có cảnh đẹp mà nói không được bởi vì trên đầu đã có thơ của Thôi Hiệu rồi)
Chính vì những truyền thuyết này nó làm Hoàng Hạc Lâu ở Vũ Hán và chùa Hàn San được nổi tiếng. Chỉ vậy thôi. Lâu ngày nó trở thành ra một cái truyền thuyết.

Hoặc Việt Nam mình thấy vua Trần Nhân Tông, rồi có Trúc Lâm Yên Tử, có bức tượng đá được truyền là Yên Kỳ sinh, một đạo nhân thời xưa. Hoặc một tảng đá dựng ở Bình Định, hoặc tảng đá được dựng ở Đồng Đăng, ở địa đầu đất nước mình, Lạng Sơn, họ gọi là hòn vọng phu, bao nhiêu thế hệ cứ đến huyện Phù Cát Bình Định đi xe ngoài quốc lộ ngó thấy tảng đá thon thon dựng tin là hòn vọng phu. Đương nhiên, nhiều người lắm, 99% biết là truyền thuyết, nhưng nó in sâu vào đầu óc mọi người thì người ta muốn giữ nó lại. Bởi vì sao? Vì nó thơ mộng.

Giờ tôi nhắc lại lần nữa.

Có những thứ thông tin, do một điều kiện nào đó đơn giản nào đó nó xuất hiện, cũng vì lý do nào đó lưu truyền ở đời. Hồi nãy tôi nói, nhiều khi thế lực nào đó họ cố ý rao giảng, tuyên truyền để nó trở thành công thức, nguyên tắc ở đời.

Nhiều khi chỉ vì nó thơ mộng, gần gũi với tâm tình dân gian mà nó được người ta giữ lại ở đời như một công thức, đạo lý. Trách nhiệm người có trí là phải cẩn thận mấy cái đó. ok. Nhắc nhở như điển cố điển tích vui thì được, như cái nền để diễn dịch vấn đề nào đó thì ok. Nhưng lấy nó làm nền tảng nghiêm túc thì phải cẩn thận. Rất là quan trọng .

(còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Kalama (2-2)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...h%20Kalama

(3) Chớ có vội tin những gì qua lý luận, suy diễn.

Mình thấy bên Pháp. Có câu chuyện tôi kể hoài. Vào thế kỷ 16, 17 gì đó. Có nhà sinh vật học, ổng đem con cào cào, bỏ trong lọ, ổng gõ nó nhảy tưng tưng, ổng để trong cái lọ, ổng búng cái lọ, con cào cào nhảy, ổng ghi ‘thính giác con cào cào nằm ở đôi chân’ ; xong ổng đem con cào cào bẻ 2 chân sau, nó không nhảy nữa, ổng ghi thêm : ‘Vì thính giác nằm ở 2 chân, nên khi bẻ 2 chân thì không con cào cào không còn nghe được nữa”.

Chuyện này có hay không mình không cần biết. Nhưng nó có cái lý. Rõ ràng. Khi còn 2 chân sau, mình gõ thì nó còn búng tưng tưng, khi mình bẻ 2 cái chân thì nó không còn búng. Vậy rõ ràng, thính giác nó nằm 2 cái chân chớ nằm ở đâu?

Hãy cẩn thận, nhiều khi mình suy diễn mình thấy nó hay. Nhưng chưa chắc đâu. Chưa chắc đâu. Chớ vội tin những lý luận, suy diễn.

(4) Chớ vội tin vì những diễn giải tương tợ, có nghĩa là nghe nó giống giống với cái mình thấy hợp lý.

(5) Chớ vội tin những đánh giá hời hợt, những dữ kiện.

Các vị nhớ bà Eleanor Roosevelt , vợ ông tổng thống Roosevelt của Mỹ đó, bả có câu tôi rất thích: “Những đầu óc vĩ đại người ta chú ý vấn đề. Còn đầu óc bậc trung chú ý con người. Đầu óc tầm thường chú ý dữ kiện .”

Câu này rất là sâu.

Dữ kiện là chú ý vỏ ngoài thôi. Chú ý dữ kiện. Thấy lễ dâng y rần rần, đi theo thấy người ta làm sao làm vậy. Thấy người ta có phong trào tụng kinh cầu vãng sanh, ăn chay, cũng rần rần ; thấy người ta có áo tràng, lần chuỗi cũng đi theo. Họ đi theo sự kiện. Chỗ nào thấy rần rần, ông giảng sư nào đông người bu theo, ca sĩ nào đông người bu theo là họ chạy theo cái đó. Họ chạy theo sự kiện thôi.

Hạng bậc trung, chạy theo con người: Coi người này là ai, ca sĩ, diễn viên đó như thế nào. Ông giảng sư, ông pháp sư, ông thiền sư đó ra sao.

Bậc thượng thừa không quan tâm dữ kiện, không quan tâm con người mà quan tâm vấn đề : Ông pháp sư, thiền sư đó đúng giỏi thiệt, ổng nổi tiếng thiệt, nhưng bài giảng hôm qua là tuyệt, nhưng hôm nay thì quá tệ. Mình phải có cái gan đó.

Hạng đầu tiên là tập trung dữ kiện, ở đâu thấy rần rần là nó theo.

Hạng thứ hai khá hơn chút, nó không bị cuốn hút bởi dữ kiện nhưng nó bị cuốn hút bởi con người. Có nghĩa là ai nổi tiếng thì giờ người đó ho, hay đánh rắm vẫn là ghi âm về nghe lại cho có phước. Đấy. 

Nhưng hạng thứ 3 khác. Hạng thứ 3 không. Dữ kiện không quan trọng. Event không quan trọng, cá nhân con người đó cũng không quan trọng, mà từng buổi giảng, từng đề tài, từng câu nói, từng phân tích, từng cái mổ xẻ, có thể hôm qua mình mê ổng, nhưng hôm nay ổng nói không được. Hoặc đầu buổi giảng ổng nói 3 câu nghe được, 1 câu nghe không được, phải có cái gan thấy như vậy. Phải có cái gan đó.

Đằng này chúng ta bị « takkahetu, nayahetu, ākāraparivitakkena » có nghĩa là cứ dựa vào những cái mình thấy coi bộ được, thấy được, cứ mơ hồ như vậy, thấy giống giống cái mình đã biết là không được.

Cái này mới đặc biệt nè.

(6) Diṭṭhinijjhānakkhantiyā. Kiến thức nền Mình tin vì chỉ vì nó giống kiến thức nền của mình.

Mà các vị thấy mà. Kiến thức nền của mỗi người nó không giống nhau.

Kiến thức nền mỗi người của người tốt nghiệp đại học, nó không giống anh tú tài, tốt nghiệp cấp 3. Đấy. Mà, anh tốt nghiệp đại học, tốt nghiệp ngành nào ? Computer hay quản trị kinh doanh hay bang giao quốc tế, hay công an, hay tốt nghiệp bên đại học công an, ảnh học bên luật, hay vật lý. Mỗi cái tốt nghiệp là kiến thức nền mỗi người. Chưa kể. Chưa kể. Bối cảnh gia đình. Gia đình nó quan trọng lắm. Bố, mẹ, anh chị em, cô dì chú bác, thím cậu mợ dượng,… của mình, ở gần họ là họ đã đóng góp một phần không hề nhỏ vào cái gọi là kiến thức nền của mình. Họ có tác động không hề nhỏ lên nhận thức của mình.

Giờ cộng với : trường lớp, sách vở, báo chí, và môi trường làm việc hiện tại. Giờ mình đang làm môi trường công ty hãng xưởng, xí nghiệp nào. Mình thường xuyên gặp gỡ ai. Phải cẩn thận cái đó.

Tất cả cái đó nó thành ra một phần, của cái gọi là kiến thức nền. Thế là, trên nền ấy, mình đi vào đời mình gặp ai, nói gì, đọc trang sách nào mà thấy thuận ứng, nó ăn khớp với với kiến thức nền mình bèn cho nó là chân lý, cái nào hơi khang khác, mình bèn phán là sai.

Mình quên rằng nền của mình vốn dĩ đã có vấn đề. Nhớ cái đó. Vốn dĩ nó đã có vấn đề. Mà mình không màng cái đó. Cái đó là Diṭṭhinijjhānakkhantiyā. Cẩn thận cái đó.

(7) Chớ vội tin vì nghe như hợp lý

Trong Chú giải giải thích thế này.

Là bởi vì có một cá nhân nào đó mình thấy có cảm tình, mình có hảo cảm rồi thì người đó, phán cái gì mình nghe qua mình thấy có lý hết. Mình nghe qua mình thấy có lý, có lý vì nó dựa trên hình thức ngoại diên, ngoại diện. Có nghĩa là vẻ bề ngoài. Cách ăn nói đó, mặt mũi đó, bối cảnh không gian đó, toàn là vẻ ngoài không, nó cho mình cảm giác cái này nghe được.

Thí dụ các vị tưởng tượng có những điều các vị nghe ở sân chùa Việt Nam Quốc Tự, Ấn Quang, Xá Lợi Vĩnh Nghiêm, Già Lam, Dược Sư,... mình nghe nó hơi khó khó chấp nhận. Nhưng bây giờ cũng vấn đề đó mà tôi bê, đem ra không khí của chùa Trúc Lâm Yên Tử, Chùa Bái Đính, Chùa Ba Chúc, chùa Ba Vàng, ở Tràng An Bái Đính, giữa cảnh trời nước bao la của Ninh Bình thì ở đó mình lại thấy được, dễ chấp nhận.

Tôi có biết cô Phật tử, mang tiếng Phật tử nhưng cổ gặp Phật thì chỉ thắp nhang chứ không biết giáo lý, không biết cái gì hết. Thậm chí, cổ coi Phật giáo như điểm họp mặt đồng hương, coi cái chùa là điểm họp mặt đồng hương hơn, nhiều hơn là điểm tựa tâm linh. Có lần lớn tuổi rồi, cổ buồn, bạn bè rủ du lịch Ấn Độ chơi, Bhutan chơi. Cổ đi về, Florida cổ gặp tôi, tại nhà cổ ở đó. Cổ nói: Khi đứng giữa núi rừng Bhutan cổ mới thấy, Đức Phật có thiệt, luân hồi có thiệt, nhân quả báo ứng có thiệt, kinh Phật tin được, chỉ vì bối cảnh núi rừng Bhutan thôi.

Tôi nghe tôi giật mình á.

Có người họ phải đi đến thánh tích Ấn Độ, chỗ Phật thành đạo, Niết Bàn, đản sanh thì họ mới có xúc động và quyết định theo Phật. Có người họ phải nhờ đến bối cảnh, thí dụ : Con người, vị giảng sư đó mặt mũi ra sao, giọng nói ra sao, diễn xuất ra sao, cộng hết mấy cái đó lại, bối cảnh đạo tràng,.. cộng hết mấy cái đó lại họ bèn tin, thấy cái đó tin được. Nhớ cái đó, cái đó cẩn thận.

(8) Chớ vội tin vì người nói ra điều đó là người xưa giờ mình xem là sư phụ.

Cái này kẹt lắm. Nha. Cái này kẹt lắm. Bởi vì, tình trạng đáng buồn của Phật giáo đồ, có nghĩa là tín đồ tăng ni Phật tử hôm nay là chúng ta đang rơi vào một bi kịch, đó là: Chúng ta coi Tổ hơn Phật, coi lệ hơn luật.

Coi tổ hơn Phật là sao? Mình cứ theo sư phụ xong mở miệng ra là « sư phụ nói thế này, sư phụ nói thế kia. » Chứ còn kinh điển mình không trích dẫn, mà mình trích dẫn tổ.

Thí dụ, cho phép, tôi nói cái này dễ hiểu lầm nha. Tôi chỉ ví dụ thôi.

Có rất nhiều người thích trích dẫn hòa thượng Nhất Hạnh - Làng Mai, 
có rất nhiều người thích trích dẫn hòa thượng Trí Quảng, 
có người thích trích dẫn hòa thượng Nhật Từ, 
có người thích trích dẫn hòa thượng Thiện Siêu, 
có người thích trích dẫn hòa thượng Nhật Từ, 

hòa thượng Nam Trung Bắc gì đó, coi như mỗi vùng miền, mỗi địa phương họ có mỗi vị sư phụ. 

Bên Thiền tông cũng vậy, các vị đọc các sách ngữ lục của Phật giáo Bắc truyền các vị thấy, toàn là thiền sư không à. 

Phật chỉ là bóng mờ sa mạc thôi. Họ chỉ thích trích dẫn sư phụ thôi.

Người đời nay thích Tổ hơn Phật, thích lệ hơn thích luật.

Coi lệ nặng hơn luật là sao ? (Lệ là lề thói ở địa phương.)

Có nghĩa là Luật là cái được Đức Phật ban hành, quy định, chế định thì họ thờ ơ, mà họ theo cái lệ. Tức là, sư phụ hồi xưa nói vậy, chùa này là vậy, địa phương này nó vậy, họ theo cái đó.

Điều này nổi bật mấy xứ quốc giáo.

Các vị về Thái, Miến Điện (Tích Lan tôi chưa có tới), nhưng Thái, Miến Điện, lệ nó quan trọng lắm. Lệ là lề thói ở địa phương. Dĩ nhiên ở 2 chỗ đó, tạng Luật vẫn được tôn trọng nghe, không phải coi thường, nhưng cái lệ quan trọng lắm. Bởi vậy người ta mới nói « Pháp vua thua lệ làng », nhưng bây giờ còn giờ có « pháp vua thua lệ nàng » có nghĩa là nàng khóc rồi cái gì cũng bỏ hết. Cái đó còn thảm nữa.

Cho nên, chớ vội tin điều gì đó chỉ vì điều đó được phát biểu bởi người mình vẫn xem là sư phụ, hãy cẩn trọng cái đó.

Sau cùng, Ngài đúc kết lại « Chớ vội tin » chứ Ngài không kêu bác. Ngài nói « chớ vội tin » Hãy cẩn trọng khi tiếp thu. Hãy cẩn trọng. Hãy cẩn trọng.

Đừng vội tin vì điều đó nghe qua hợp lý, điều đó trên mặt lý luận thấy logic, điều đó thuận ứng kiến thức nền của mình, điều đó được thiên hạ, quần chúng, dân gian lưu truyền, truyền khẩu, truyền tụng, lâu đời. Còn gì nữa ? Điều này mới đặc biệt.

(9) Chớ vội tin điều gì đó vì điều gì đó được truyền thừa trong thánh điển thiêng liêng.

Vì sách là do con người viết mà. Sách là do con người viết.

Tôi nhớ đã đọc trong internet. Câu trả lời của một vị thượng tọa, cho một câu hỏi, thắc mắc, rằng thì là :

- Hôm nay trên internet có nhiều ý kiến cho rằng kinh điển Bắc Tông, họ kể tên các bộ kinh không phải lời Phật, có phải vậy không ?

Vị thượng tọa này trả lời thế này :

- Sao không phải lời Phật ? Bộ kinh nào Hoa Nghiêm, Lăng Già, Pháp Hoa, Duy Ma cũng nhắc đến Phật, Pháp Tăng, Kinh nào cũng nhắc tới Bát chánh đạo, Duyên khởi, vô ngã, vô thường,… thì làm sao mà không phải lời Phật ?

Câu trả lời đó theo tôi không có thuyết phục. Là bởi vì...

Tôi nhắc lần nữa. Đại kỵ, chúng ta không nên bài xích ai. Nhưng tôi chỉ lấy câu trả lời đó làm một trích dẫn thôi. Có nghĩa là, không phải ở đâu mình thấy thấp thoáng Bát Chánh Đạo, Tứ Diệu Đế là mình phán cái đó là lời Phật là kẹt. Bởi vì Bát chánh đạo có 1001 cách giải thích. Chớ không phải thấy 3 chữ « Bát – Chánh – Đạo » mình nghĩ lời Phật thì cẩn thận. Bởi vì Chánh Kiến mỗi chỗ giải thích mỗi khác. Chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,… được giải thích ra sao, ở mỗi chỗ mỗi khác.

Chứ không phải mình thấy chữ « thuốc bắc » mình tưởng chỗ nào cũng giống nhau. Không chắc. Chỉ riêng vị thuốc bắc là đã thấy khác rồi. Mà bị bệnh hả, theo tôi uống thuốc Bắc tốt hơn, mình quên là : Ai là người bổ thuốc ? Vị trong đó là gì ? Nội người biết chút thuốc Bắc mình thấy, hà thủ ô có hà thủ ô nam, hà thủ ô bắc, hà thủ ô mọc vùng nào đã khác rồi, đỗ trọng, xuyên khung, thục địa, trần bì, táo tàu, nhân sâm, hoài sơn, câu kỷ,… mỗi vùng nó mỗi khác hết. Nó mọc ở đâu, liều lượng. Chưa kể, cách bảo quản mỗi nơi mỗi khác.

Cho nên mình đâu quy chữ thuốc bắc là được. Hoặc là mình thấy đâu có « đỗ trọng, xuyên khung » là giống nhau. Tôi không đồng ý cái đó. Phải cẩn thận.

Cho nên, mình nói, quyển nào nhắc « Bát chánh đạo » « Tứ Diệu Đế »,… đều là kinh Phật thì tôi nghĩ mình phải cẩn trọng cái đó. Mình thấy Thanh Hải vô thượng sư cũng nhắc tới Bát Chánh Đạo. Rồi bây giờ có ông Rumi Trần, rất nhiều người Việt Nam mê. Trong room ai biết ông Rumi Trần không ? Hình như dân Úc mê ông đó lắm. Ông tự nhận là Phật á. Ổng nói ổng là người tu chân thật, không được nói dối. Mà ổng là Phật sao ổng từ chối được. Ổng nhận là Phật luôn. Bởi vì ổng là Phật mà.

Dân Việt Nam mê ổng đó lắm. Dân Úc, ông Kiên, Nhân, Yến, Ngọc, Nhân,… chắc đệ tử ruột. Thấy cái air là biết. Còn Việt Nam thì thôi, cái đám trong room tôi nghĩ chắc đệ tử bà Thanh Hải một tỷ trỏng, nhiều lắm.

Có nghĩa thấy ở đâu có Bát chánh đạo, Tứ diệu đế bèn phán là lời Phật. Mình quên một chuyện Khổ Tập Diệt Đạo ở đó người ta giải thích ra làm sao. Nhớ cái đó. 

Và tôi nhắc lại. Kinh sách là do con người chép ra mà.

Giả định như có bộ Kinh nào mà mình nghe nói đích thân do ngài Xá Lợi Phất, ngài Anan chắp bút, có nghĩa là cầm viết mà chép thì mình cũng phải cẩn trọng vì:
 
1/ Có đúng ngài chép hay không ? Bản thân chuyện nói ngài Xá Lợi Phất viết là có đúng ngài viết hay không ? 
2/ Bản gốc ngài viết hôm nay có còn không để mình so sánh và trên hành trình đi từ Ấn Độ, hai ngàn mấy trăm năm trước đi tới đây và bây giờ có bị tam sao thất bổn hay không ? Cẩn thận cái đó. Hãy cẩn thận cái đó.

Đương nhiên, có dịp nào đó chúng ta nói về lịch sử kinh điển.

Và, theo tinh thần Phật pháp nói riêng, tinh thần khoa học nói chung. Sử tính của kinh điển Phật giáo phải được nhắc tới một cách trung thực

  1. Không thể vì mình là Bắc truyền mình tìm cách bài xích Nam truyền, thồi phồng Bắc truyền, 
  2. cũng không thể mình là Nam truyền mình thổi phồng Nam truyền rồi bài xích Bắc truyền. 
Không. Mà sử tính của kinh điển phải được thông qua ít nhất 2 nền tảng :

1/ Chú ý xem nội dung có ăn khớp, nhất quán với phần giáo lý còn lại hay không. Thứ nhất, xét nội dung.
2/ Trên nền tảng khoa học. Chẳng hạn như : Khoa học bây giờ có ngành ngành thuyên thích học hay văn bản học (Hermeneutics), người ta cho mình một vài gợi ý rất quan trọng, thí dụ, ngôn ngữ, cấu trúc, ngôn phong của mặt ngôn ngữ trong mỗi bộ sách mỗi thời có cách nói khác. Ngữ nghĩa mỗi thời khác.

Tiếng Việt thời Nguyễn Trãi, Hàn Thuyên khác thời Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương,… ngay thời Paulus Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký,… nó khác tiếng Việt thời Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh. Rồi Tự lực văn đoàn, Sáng tạo,… Nhớ cái đó. Hôm nay đọc tiếng Việt của ông Nguyễn Chánh Sắc, Hồ Biểu Chánh, nó khác, cũng viết bình dân. Tiếng Việt của Bình Nguyên Lộc, Phi Vân, Sơn Nam, sau này bây giờ có Nguyễn Ngọc Tư, mỗi thời, dầu tiếng việt bình dân nhưng nó cái mùi. hoặc tiếng Việt xưa xửa xửa có cái quyển Thầy Lazaro Phiền, tôi nói cái này bà con ghi âm để đi tìm. Hoặc tiếng việt trong « Phép giảng 8 ngày » của Alexandre de Rhodes. Càng xưa nó càng kỳ nữa.

Mỗi thời, nó có một ngôn phong, ngữ khí riêng. Các vị thử tưởng tượng đi.

Tôi xin nói thiệt, tôi không có ý bài xích, tôi chỉ trích dẫn thôi, tôi đem ra một vài trích dẫn cho bà con tự xét.

Đức Thế Tôn không phải là người chắp bút, không phải là tác giả cầm viết biên soạn. Chắc chắn trong room đồng ý tôi chuyện đó. Đức Phật không phải là người làm chuyện đó, không phải là người cầm bút, ghi chép hết bộ kinh này qua bộ kinh khác mà Đức Thế Tôn, Ngài chỉ khẩu thuyết thôi. Có nghĩa là, gặp ai là người hữu duyên, họ hỏi Ngài cái gì Ngài trả lời cái đó, họ không hỏi thì tùy duyên Ngài thuyết cho họ nghe một pháp thoại nào đó, một thời lượng hợp lý. Theo mình bây giờ mà mình có thể dựa vào trong kinh nữa. Một thời lượng hợp lý của một bài giảng khoảng chừng vài chục phút.

Hồi 8h sáng Ngài gặp 1 người. 9h, 12h, chiều, 3h, 4h,… Ngài gặp một người khác. Mỗi người như vậy mình tính dựa theo kinh mình hiểu, thời lượng tối đa khoảng vài chục phút. Các vị dò lại coi. Có thể có người Ngài chỉ nói 2 phút thôi. Nhưng đại khái, phát thoại nhiều lắm là tính bằng phút thôi.

Và, không hề có sự biên soạn, từ chương, phẩm,… đằng này có quá nhiều bộ kinh đời sau có chương, có phẩm, mà lại bắt đầu bằng câu “như thị ngã văn”. Thì mình ngẫm coi nó hơi kỳ kỳ.

Đức Phật Ngài chỉ để lại những pháp thoại ngắn ngắn thì được. chứ còn nguyên bộ kinh dài xọc mà bắt đầu bằng “như thị ngã văn” thì kẹt lắm. Mà xem kỹ, trong đó toàn kể chuyện không. “Lúc bấy giờ vị đại Bồ Tát tên gì tên gì, trên mình gắn đầy châu báu, vàng ngọc, xuất hiện cùng vô số vị Bồ Tá Ma Ha Tát, Long thần, Hộ pháp, Cưu Bàn Trà, Kim Xí Điểu, tràn ngập Linh Thứu Sơn, đến đảnh lễ Phật,…” Mình ngồi mình ngẫm lại. Cái đó hoàn toàn là của đời sau.

Nguyên bộ kinh mình nói lời Phật thuyết mà phần Ngài nói bao nhiêu? Và, làm sao Ngài khẩu thuyết mà có chương có mục như cuốn sách được, vậy mà vẫn tin sái cổ mới ghê.
Cho nên, hãy cẩn thận cái đó.

Bên Nam truyền, tôi cũng nói luôn, có 1 quyển: Dasa bodhisatta vatthu = mình tạm dịch là “Bồ Tát Dị truyện”, có nghĩa là chuyện kể 10 vị Phật tương lai, sắp thành. Quyển đó cũng được bắt đầu bằng “Evaṁ me sutaṁ”. Đó là trường hợp, tôi thấy hơi sốc. Là bởi vì, rõ ràng quyển đó ra đời sau kỳ kết tập 1. Có nghĩa là, chỉ có kỳ kết tập 1 mới có “Evaṁ me sutaṁ”, có nghĩa là do chính ngài Anan ngài nghe và ngài tường thuật lại trong kỳ kết tập lần 1 “Như vậy tôi nghe” hoặc là “Tôi đã được nghe như vậy nè” .

Sau kỳ kết tập 1 thì không thể nào có người nào đủ thẩm quyền nhắc lại câu đó trước quyển sách của mình hết. Ấy vậy mà, hôm nay chúng ta lật ra chúng ta thấy tùm lum ở đâu cũng “như thị ngã văn”. Ở đâu cũng “Evaṁ me suttaṁ”, ở đâu cũng là “Evaṁ maya suttaṁ” đầy ra hết. Cẩn thận cái đó.

Sau khi Ngài dạy hãy cẩn thận khi tiếp nhận thông tin. Ngài mới đúc kết thế này:

- Không vội tin thì mình phải làm sao? Mình phải xét coi điều mình được nghe, lời dạy đó là tốt hay xấu; Mình thấy lời dạy đó có phải nó dạy mình làm điều bất thiện hay không? Điều bất thiện là gì?

Vì ở đây, cái đám này là đám mù tịt không có biết cái gì hết, cho nên Ngài chỉ đưa ra 2 cơ sở đơn giản nhất. 

Điều bất thiện là cái gì? Điều bất thiện là điều các bậc hiền trí ở đời người ta không đồng tình. Có thể điểm này chỗ này người này đồng ý nhưng chỗ kia chưa đồng ý. Cái đó chưa được. Mà điều xấu là gì? Điều xấu là điều tất cả mọi người mọi thời đại đều nhìn nhận nó là bậy, thí dụ chuyện ăn cắp. Mọi người, mọi thời đại, mọi địa phương mọi nơi chốn đều nhìn nhận chuyện trộm cắp là chuyện không nên làm, mọi người, mọi thời đại, mọi địa phương đều nhìn nhận chuyện nói dóc gạt người ta là không tốt, phải bỏ. Chuyện nghiện ngập sa đà, đổ đốn là chuyện mọi người mọi thời đại, mọi địa phương đều chê.

Vậy, Năm giới được xem là điều lành vì năm giới được mọi người, mọi thời đại, mọi địa phương, đều xem năm giới làd chuẩn mực đạo đức căn bản của một con người.

Mọi người, mọi địa phương, mọi thời đại đều nhìn nhận rằng: Chuyện gì đem lại lợi ích cho mình cho người, đem lại nụ cười cho mình. Mà cho mình phải có cho người nữa nha. Không di hại cho mình cho người thì cái đó được xem là điều thiện.

Thí dụ như, bạn bè tụ tập ăn nhậu, hát karaoke, vui vẻ, đánh bài, khiêu vũ,… quá vui. Mình bỏ tiền ra mình vui, mình đãi người ta cũng vui, vậy đó là điều thiện hả? Chưa chắc. Là vì sao? 
  1. Là bởi vi mình thấy vui mà xóm làng có vui không? 
  2. Những bậc hiền trí ở đời họ thấy đám đông tụ hợp làm mấy cái chuyện đó, họ có khen hay không? 
  3. Chưa hết, còn nữa. Di họa, hậu hoạn của mấy việc đó lớn vô cùng. Ăn nhậu, ca hát, bài bạc, trước mắt rất vui, đúng, nhưng họa để lại khôn lường. 
Mà việc thiện là việc gì?

Việc thiện tối thiểu là 2 tiêu chuẩn:

1 / Tất cả hiền trí trong đời dầu nơi nào lúc nào người ta cũng đồng ý là điều lành, thì mới là lành. Chứ còn một địa phương nào đó là chưa được. Phải là hiền trí ở đời. Không giới hạn không gian thời gian, không giới hạn tầng lớp xã hội. Mọi người đều nhìn nhận chuyện đó. Là chuyện đầu tiên. Chuyện bậc hiền trí ở đời tán thán là điều lành. Mà bậc hiền trí ở đời họ chê là cái đó không được.
2/ Điều lành là điều đem lại niềm vui, an lạc cho mình, cho người, và không di hại. Còn đàn ca hát xướng, nhảy nhót, ăn nhậu, bài bạc, chích hút,… nó có vui thiệt nhưng nó có di họa không? Vô cùng lớn và không hề nhỏ. 

Vậy điều này không gọi là điều lành. Vì điều lành là 
(1) Tất cả hiền trí ở đời đều tán thán 
(2) Nó chỉ đem lại niềm vui trước sau như một không để lại nước mắt thì cái đó mới gọi điều lành.

Cái gì mình thấy trước mắt, tôi vui, anh vui,bạn bè vui, mà họa nó để lại ngoài kiểm soát thì cái đó không được. Cái đó không kể.

Cho nên, ở đây Ngài nói, Ác hay thiện: 
1/ phải nhìn nhận xét bậc hiền trí ở đời 
2/ hậu quả nó để lại vui hay buồn.

Ngài nói rõ, Ngài hỏi họ: Các ngươi thử nghĩ xem, tham, sân, si mấy cái bất thiện đó khi dây vào có đem lại an lạc cho mình hay không? Nếu mình thấy nó đem lại an lạc thì chuyện đầu tiên là mình sai rồi, vì mình thấy 3 cái đó là nguồn cơn máu lệ của nhân gian. Nhớ cái đó.

Ngài không kêu tin Ngài. Không có nha.. Ngài chỉ nhắc, đừng vội tin điều gì đó… Ngài kể ra một số trường hợp. Cuối cùng Ngà đúc kết, chỉ nên tin / bác sau khi xét kỹ điều đó là thiện hay bất thiện. Chữ xét có 2 trường hợp.

Tôi muốn nói chỗ này chút.
Điều ác nó có 2 trường hợp.
 
(1) Đam mê bản thân nó là ác. 
(2) Dính mắc trong cái thiện một cách nông nổi, bồng bột cũng là điều ác.

Tôi ví dụ, thuở nào mình không có 5 giới, thuở nào mình không có chánh kiến, chánh tín, thuở nào mình không biết bố thí, kham nhẫn, từ tâm, mình chỉ sống chạy theo cái mình thích, chỉ chạy theo cái gì mình làm vui thôi. Giờ biết đạo mình bỏ mấy cái đó. Mình không đánh giá đời sống thông qua cái gì thích, vui, mà xem cái gì lành, cái gì thiện thì làm, cái gì bất thiện thì tránh. Đó là bước 1.

Bước 2, khi mình giữ giới, bố thí, mình tu thiền, mình học giáo lý, … mình tưởng tốt. Chưa chắc. Học giáo lý cầu trí tuệ tiếp tục tu nữa là tốt. Học giáo lý xong trở nên kiêu ngạo, chảnh chẹo, coi thường người không học là sai. Bố thí là tốt, nhưng tự xét coi có phải mình bố thí vì cầu danh cầu lợi, bố thí để nổi tiếng, bố thí để cầu quả nhân thiên hay cầu được giải thoát? Coi kỹ cái đó lại.

Nếu học đạo, ngồi thiền, giữ giới, bố thí, phục vụ, cúng dường mà thấy rằng động cơ chưa có sạch. Thì mình một lần nữa, phải làm cuộc tổng thanh lọc, tổng vệ sinh.

Cho nên, ở đây, bài kinh này sâu lắm.

Thứ nhứt, xét coi thiện hay bất thiện?
Thứ hai, ngay cả khi sống thiện cũng phải tiếp tục xét cái thiện mình có vấn đề hay không? Người tu đúng là luôn nhìn lại dưới chân mình. Đúng là mình phải có định hướng, phải có khả năng nhìn xa, phải biết mục đích mình đến là gì nhưng đừng quên khả năng nhìn xuống bàn chân mình coi mình đang đứng ở đâu? Mình đứng trên cõi đất bất thiện thì là không nên. Nhưng đang sống thiện mà thiện kiểu gì? 

Phải nhớ kỹ, đây có 2: 
(1) Coi mình có bất thiện hay không? 
(2) Phải xét coi mình thiện kiểu gì?

Vì chính trong kinh có nói. Kinh ví dụ con rắn, Trung Bộ kinh, bản cũ là Kinh xà dụ, nói thế này: Kiểu giáo lý có nhiều kiểu học: 
(1) Học của người giữ kho, có nghĩa là thích chất thiệt là nhiều vô càng nhiều càng tốt; 
(2) Học của người bắt rắn: học để cầu danh cầu lợi, học để thỏa mãn tri thức, học để đi lý luận khoe mẽ là kiểu học của người bắt rắn; 
(3) Kiểu học người cầu giải thoát. Nhớ cái đó. Tất cả kiến thức giáo lý, tất hạnh lành mình tu tập chỉ có một tác dụng: Đẩy mình về phía trước, rời xa con người cũ, cảnh giới cũ, để đi về phương trời giải thoát. Thì đó là đúng.

Tất cả cái gì, dầu công đức, kiến thức thiền định trí tuệ gì đó mà nó chỉ có khả năng giam nhốt mình trở lại phương trời tù hãm cũ thì cái đó là sai.

Nãy tôi nhắc rồi. Có một chuyện mà tôi cho là vô cùng quan trọng.

Hãy luôn luôn xem coi mình bị giam nhốt trong cái gì? Trong cái mình thích hay mình ghét? Trong thế gian hay trong đạo? Đừng nghĩ đạo là giải thoát. Chưa chắc đâu.

Học đạo, hành đạo với ý thức buông bỏ là giải thoát.

Học đạo, hành đạo, bố thí, phục vụ, cung kính,… với ý niệm ngã, ngã sở, cầu công đức, thấy mình là số 1 thì thua.

Tất cả mọi công đức chỉ là việc uống thuốc để lành bệnh. Mai này nếu chứng thánh thì hết bệnh. Chỉ vậy thôi. Trong suốt quá trình chữa trị đó, mình hoàn toàn không có gì để khen mình chê người, để tự kiêu, tự mãn, tự tôn, tự đắc, tự đại, hết. Bởi vì sao? Vì tất cả những gì mình học được, mình làm được nó chỉ là những viên thuốc chữa bệnh thôi.

Không ai đi khoe mình đang uống thuốc tiểu đường, không ai đi khoe mình đang uống thuốc ung thư hết. Uống mà nó hết là mừng thấy bà rồi. Chứ không ai chữa lành bệnh mà đi ra ngoài đường cái mặt cà hất, kiêu ngạo vênh vang là không có.

Nhớ cái đó.

Nhưng như vậy ở đây mình phải có 2 khả năng quan sát.

(1) Phải thường xuyên xét coi điều đó, lời rao giảng đó: Hợp lý không? Thiện hay bất thiện?
(2) Tự xét xem: Vì đâu mình chấp nhận nó? Vì đâu mình phủ bác nó. Hãy cẩn thận . Coi chừng mình tin nhận, phủ bác thuần túy dựa trên cảm tính là kẹt lắm. Mình tin điều đó vì: Điều đó được đám đông chấp nhận, mình tin điều đó chỉ vì điều đó được truyền thừa lâu đời, mình tin điều đó vì điều đó được ghi chép trong cái gọi là kinh điển. Mình tin điều đó chỉ vì người nói điều đó mặt mũi coi được. Mình tin điều đó chỉ vì người nói ra là người mình vẫn gọi là sư phụ. Cẩn thận cái đó. Phải vô cùng cẩn thận.

Nhớ. Ngay trong tấm thân sinh học này, ăn uống không cẩn thận nó đổ bệnh và có thể chết le lưỡi, nói gì đời sống tinh thần.

  1. Đời sống vật chất, mình ăn uống mình biết cẩn thận . 
  2. Tại sao thức ăn tinh thần mình lại ẩu đến vậy? các vị tưởng tượng đi.
Ăn uống không màng bệnh cao máu, tiểu đường, cholesterol, tim mạch, tiêu hóa, bài tiết… thích là quất thì bệnh cho chết. Thế là mình muốn khỏe thì mình phải ăn uống cẩn thận.
Thì cái đầu mình cũng vậy. Mình muốn an lạc, mình muốn có nhận thức đúng đắn, để rồi có hành trì đúng đắn, thì chuyện đầu tiên: Hãy cẩn trọng với những gì mình nhập vào.

“Họa tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập” là chỗ đó đó. Nhớ nha.

Ok, tôi mệt rồi. Hẹn các vị lại kỳ sau.

Tôi mong, một cuốn còn có 250 trang thôi, mình bỏ 250 trang Pali, mình chỉ còn lại 250 và nếu chỉ 750 trang thì tôi tin trước tuổi 55 tôi giảng xong. Chúng ta hoàn toàn có niềm tin, một ngày nào chúng ta gặp nhau ở Kalama ở sự cảm thông, hiểu biết, chia sẻ, thật là trọn vẹn. Chứ tôi không muốn bà con đến đó ù ù cạc cạc, không biết giáo lý gì hết là không được. Tới đó phải vững.

Tôi thèm thuồng, khao khát được thấy số đông bà con Việt Nam trên đồi, và các vị nói “Tôi đã nghe xong 5 quyển kalama và tôi bước về Kalama như về nhà của tôi”. Cái đó là niềm mơ ước lớn nhất của chúng tôi.

Chúc các vị một ngày vui./.

(Hết)
Reply
Kinh Simsapa post # 918 ở trên .

--ooOoo--

Sư Toại Khanh Giảng Kinh Simsapa (1-2)

https://www.youtube.com/watch?v=WRODVSF26ZQ


Kinh Simsapa

Quote:Kalama tri ân bạn vuihtv ghi chép.
28/12/2021 - 01:29 - vuihtv - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Nhật tụng Kalama – Bài giảng ngày 27/12/2021

Kinh Simsapa

Bữa nay mình bắt đầu vô kinh số 2 bộ Kalama.

Để nói cho bà con bớt run, là 1 năm có 52 tuần thì mình kể 50 tuần, mình đâu có làm sao xuyên suốt, chắc chắn là có những buổi mình bỏ, mình bị bận rộn, gián đoạn gì đó, cho nên 1 năm có 40 tuần, tức là 40 bài. Mà 40 bài nhưng mà có những bài kinh rất dài, có những bài kinh rất ngắn. Cho nên, mang tiếng là 1 bộ 5 cuốn, tôi nghĩ là, tại trong đó có những bài kinh trùng nữa. Trùng là sao? Có nghĩa là, lời kinh thì có khác, nhưng nội dung thì mình đã giảng rồi giờ chỉ nhắc sơ lại thôi. Cho nên, tôi nghĩ 5 cuốn chỉ mất 2 năm thôi. Và bà con sau đó bà con có một certificate căn bản về giáo lý.

--ooOoo--

Sáng nay chúng ta tiếp tục học bài số 2 của bộ kinh này: Kinh Simsapa. Đây là một trong bài tôi cho là Phật tử phải biết.

Bài kinh Simsapa này nói đến 3 nội dung:

1/ Xác định: Phật trí vô biên, Phật lực vô cùng, Phật tâm vô lượng.

Chuyện đầu tiên là chư Phật có 3 cái vô đó: Phật trí vô biên, Phật lực vô cùng, Phật tâm vô lượng.

Nhưng chúng ta biết rằng: Chúng sinh trong đời căn tánh khác nhau. Có những người đời đời kiếp kiếp không có ước muốn giải thoát (nói theo Bắc tông: Nhất xiển đề): Đụng đâu dính đó, do nghiệp thiện thì được sung sướng, do nghiệp ác thì bị đau khổ, và trong cái khổ và cái sướng họ chỉ biết gục đầu cắm mặt trong đó chứ không nghĩ chuyện giải thoát. Hạng đó tệ.

Hạng thứ hai, tùy duyên. Gần ai giống người đó. Ở gần người thích sanh tử thì mình thích sanh tử, ở gần người thích giải thoát thì mình thích giải thoát.

Hạng thứ ba, bậc đại trí. Chẳng những tự mình có khả năng thấu hiểu bản chất đời sống dù ở mức tương đối phàm phu thôi nhưng ít ra tự mình biết chán sợ, tự mình biết vun bồi công đức để tìm gặp chư Phật, học hỏi gieo trồng công đức, sau cùng tự mình thành bậc đại giác để tế độ chúng sinh.

Còn hạng thứ 2 là dạng ăn theo. Có nghĩa là, gần ai thì bắt chước người đó thôi. Hạng thứ nhứt là tệ nhứt: Có gặp bao nhiêu đời Phật ra đời cũng trớt quớt. Nhớ cái đó.

Trong 3 hạng đó, hạng thứ 3: Tự mình tìm đường đi, tự mình cáo thành đại nghiệp. Do thời gian tu quá lâu đi, hạnh nguyện quá lớn.

Lớn là sao? 

Nhắm đến Phật quả, khi thành Phật có 3 cái cũng: 

  1. Cái gì cũng biết: Phật trí 
  2. Ai cũng thương: Nội dung Kinh Điển (ý nghĩa Phật Pháp)
  3. Đức lành nào cũng có: trách nhiệm và bổn phận của người tu học 
Phải có 3 cái này mới được gọi là một vị Phật tổ. Trong đó:

“Cái gì cũng biết” bắt buộc phải có. Vì đi tu quá lâu cho nên chiều dày kinh nghiệm nhiều. Biết cái gì cái đó giữ lại đó. Cuối cùng khi thành Phật + Phật trí của Chánh Đẳng Giác Ngài trở thành người cái gì cũng biết.

Còn mình, đúng mình không lăn lóc.

Ngài luân hồi tới đâu, mình cũng luâ hồi tới đó. Sở dĩ mình không rút được kinh nghiệm vì mình có nhiêu mất nhiêu, mình không có khả năng lưu trữ. Có nhiều kiếp mình cũng nghe đạo, nghe pháp mà mình nghe xong lướt lướt bỏ qua nhưng Ngài thì nghe rồi Ngài hành trì, ghi nhớ cái đó. Lâu ngày cái đó trở thành Ba La Mật. Nhớ cái đó.

Chớ còn nếu nói khoản luân hồi thì Bồ Tát Di Lặc, Bồ Tát Thích Ca luân hồi y chang mình. Mình tới đâu các Ngài tới đó đó. các Ngài tới đâu mình tới đó.

Tôi nói về Phật trí. Khi thành Phật “Cái gì cũng biết” Tại sao phải có cái đó? Bởi vì: Vô lượng vũ trụ nó là một khu rừng lớn, trong đó có đủ loại chúng sinh. Có những đứa không hề có ý muốn ra khỏi rừng thì thôi đừng đụng tới nó. Nãy tui nói 3 hạng đó.

Hạng 1, không muốn ra khỏi rừng, để đó. Nhưng có hạng 2, thỉnh thoảng nó thấy trong rừng là khổ, nó muốn đi ra mà tự nó đi không được. Mà mỗi người có xuất phát điểm khác nhau, cho nên chư Phật phải là người hiểu hết khu rừng đó, để có thể hướng dẫn cho từng cá nhân một. Có người họ phải đi ngang chân thác, có người họ phải lội suối, có người họ phải đi qua một khu vực của một bộ tộc ăn thịt người, có người họ phải đi ngang một khu vực khó đi, gồ ghề, khúc khủy, lồi lõm, hiểm trở. Còn có người, điểm xuất phát của họ, từ điểm xuất phát ra rừng nó rất là gần mà nó rất là dễ đi, thơ mộng nữa. Nói chung lại, điểm xuất phát của những người muốn ra khỏi rừng, nó tùm lum hết trơn, mỗi người một chỗ. Cho nên, muốn hướng dẫn họ ra khỏi rừng là cái gì mình cũng phải biết.

Thí dụ, Ngài nhìn người này Ngài biết người này cần phải được hướng dẫn về kinh nghiệm tìm nước nè. Ngài nhìn người kia Ngài biết người này phải hướng dẫn họ cách tìm hướng đi. Có người, phải hướng dẫn họ cách tìm thực phẩm. Có người phải hướng dẫn họ cách đốt lửa giữa rừng. Có người phải đặc biệt hướng dẫn họ cách ngủ sao an toàn, để tránh thú dữ.

Ngài nhìn Ngài biết, mỗi người như vậy, tất cả, mục đích sau cùng là ra khỏi rừng. Nhưng Ngài nhìn mỗi người Ngài biết người này đặc biệt phải nói kinh nghiệm ngủ võng, ngủ trên cây, ngủ để tránh thú rừng, quãng đường người này đi phải có kinh nghiệm đó. Còn người kia, phải có kinh nghiệm kiếm thức ăn, hái trái, câu cá, săn bắn gì đó. Còn người nọ phải có kinh nghiệm tìm hướng, dạy họ leo lên cây, dùng kiến thức, kinh nghiệm của tụi hướng đạo sinh làm sao mà tìm hướng, đoán hướng gió, đoán hướng Đông- Tây-Nam-Bắc,… thì trình độ, căn cơ, thể trạng, tâm trạng của mỗi người khác nhau. Cho nên, mình muốn dạy họ ra khỏi rừng là mình phải dòm coi hoàn cảnh mỗi người ra làm sao. Và như vậy thì Ngài là một vị Thầy của vô lượng vũ trụ mà, Ngài phải biết hết để Ngài có thể tùy hoàn cảnh mà hướng dẫn cho mỗi cá nhân.

Nhưng đó là phần của Ngài. Còn mình thì không. Mình thì không phải là Phật. Mình chỉ cầu quả giải thoát Thinh văn thôi, thì mình không cần biết nhiều mình chỉ cần biết đúng con đường mình phải đi ra thôi. Nãy giờ tôi rao một vòng, bây giờ mới trở vô chánh kinh nè.

Có lần đó, đức Phật ngồi giữa khu rừng đầy lá, Ngài nhặt lên một ít lá trên tay Ngài nói các vị tỳ-kheo “Điều ta biết, nhiều như khu rừng này, điều ta giảng dạy cho chúng sinh, cho các ngươi, cho tứ chúng chỉ là nắm lá thôi”

Các vị thấy khiếp không? Các vị nhìn tủ đại tạng khủng khiếp như vậy, ,CHỈ LÀ MỘT NẮM LÁ thôi. Thấy cái đó mới thấy ghê. Tam Tạng, tôi phải nói rõ nha, các vị học 8 kiếp chưa hết. Mặc dù, bên Miến Điện có mười mấy vị thuộc lòng Tam Tạng, các vị nói “Ô, có người thuộc lòng”. No. No.

Cái đó thuộc lòng nguyên văn thôi. Còn tìm hiểu ý nghĩa sâu xa trong đó, thì tất cả Thinh văn, gồm cả ngài Xá Lợi Phất thì cũng chỉ là một phần thôi. Tức là, trình độ ngài Xá Lợi Phất ngài hiểu được một phần, ngài Mục Kiền Liên ngài hiểu một phần, ngài Ca Diếp ngài hiểu một phần,… Một phần là sao? Tức là, kinh nào ngài cũng biết, nhưng mức độ sâu rộng thì chỉ giới hạn trong trình độ Thinh văn thôi. Phải nói như vậy.

Thì các vị hỏi tôi, Kinh nào nói vậy? Dạ, đó là Sumaṇgala (sampasadaniya?) – vilāsini, Chú giải Trường bộ kinh, đặc biệt chú giải bài kinh Tự hoan hỷ) trong đó nói như vậy đó. Tức là, Phật pháp thâm sâu như vậy. Phật pháp như đại dương, tùy phương tiện, điều kiện, trình độ, kiến thức mỗi người mà chúng ta hiểu bao nhiêu về biển.

Thí dụ, chúng ta có một hàng không mẫu hạm, chúng ta có một lực lượng bác sỹ, giáo sư, các nhà khoa học trên đó, thì chúng ta ra biển, cộng với những chiếc tàu ngầm mini, bao nhiêu phương tiện thăm dò đáy biển, chúng ta sẽ hiểu đáy biển khác. Còn những cá nhân tìm hiểu mang tính tư nhân tài chánh hạn chế, nhân sự hạn chế thì họ hiểu về biển rất hạn chế. Sau cùng mấy người đi mò ngọc trai, mấy người đi đánh cá, giăng lưới ngoài biển, hiểu biết của họ về biển càng hạn chế nữa. Và sau cùng, mấy người đi tắm biển. Mấy người đi tắm biển chia ra nhiều phe: Có người biết lội, giỏi, có người lội khá khá, có người lủm chủm bơi chó bơi mèo thôi. Mấy người đó là đối với biển họ mù tịt không biết gì hết. Đấy. Nhớ cái đó.

Cho nên, Tam Tạng, y chang như đại dương, tùy trình độ mỗi người mà sức hiểu chúng ta tới đâu. Cái quan trọng nhất là: Không nhất thiết phải tinh thông Tam Tạng mới có thể hành đạo giải thoát.

Một là chỉ đi một đường thôi, thí dụ Tứ niệm xứ, mình có thể chỉ tập trung hơi thở, hoặc quán niệm các oai nghi, tu thể trược, tu tử thi,… thí dụ vậy. Quán tâm, quán thọ, quán thân, quán pháp một đường một thôi. Và nếu có kiến thức giáo lý cộng với sự hướng dẫn, tiếp sức, hỗ trợ gia trì của thầy bạn thì mình đi một đường là xong. Nếu không chứng đắc gì hết thì chỉ là gieo duyên. Nhớ.

Cho nên, Ngài dạy: Điều Ngài biết như cái rừng mà điều Ngài dạy chỉ là nắm lá thôi. Trong cái nắm lá đó, mỗi người chỉ được một góc lá, chưa được một chiếc lá đâu. Cả đời theo đuổi cái đó.

Bài kinh nói 3 nội dung:

1/ Nói đến Phật trí.
2/ Nói đến Ý nghĩa của Phật pháp: Toàn bộ Phật pháp không có cái nào thừa, như một số người hiểu lầm là: Tạng A Tỳ Đàm không cần thiết, tạng Kinh là không cần thiết, tạng Luật là không cần thiết, thí dụ như vậy. Không. Bởi vì, chỉ có một nắm lá thôi mà bây giờ tự động mình lấy ra 1 phần 3 nắm lá mình liệng thì bậy quá.

Cho nên bài kinh, chuyện đầu tiên là nói về Phật trí. Thứ hai là nói đến Nội dung kinh điển: Đều là pháp giải thoát hết.

Cái thứ ba, là nói đến trách nhiệm, bổn phận, nhiệm vụ của người tu học phải làm gì? Đó chính là: Học & Hành / Pháp học & Pháp hành. Bắt buộc. Bởi vì, Ngài để lại cho mình có một nắm, mà mình lại lơ là cái nắm đó thì mình tu cái gì???

Thí dụ, mình vô chùa mình chỉ biết, như hồi nãy tôi nói, chỉ có 1 pháp môn thôi nhưng đừng nghe nói 1 pháp môn là tưởng khỏi học. Sai. Phải học như có thể, nhiều nhất như có thể, bởi vì Ngài để có nắm lá à. Tại sao phải học nhiều? Là vì ngày xưa Phật còn, Thánh tăng còn, Ngài nhìn căn tánh, căn cơ mình người ta nhìn người ta nói thẳng một chuyện là đủ cho mình tu rồi. Nhưng ngày nay thì không. Ngày nay thầy bà, bao nhiêu đi nữa, nhưng làm gì tìm được người chỉ thẳng vào căn cơ của mình để hướng dẫn cho mình đi đúng đường. Cho nên, mình bắt buộc, thời nay phải tu tập kiểu lần mò, tham khảo.

Để làm chuyện đó. Chúng ta phải học giáo lý. PHẢI HỌC GIÁO LÝ. Thì chuyện lần mò tham khảo mới có tác dụng, mới có hiệu quả.

Còn đằng này, vì kính tin, tin cậy vị thầy nào đó rồi giao phó hết cho vị thầy đó. Thầy phán sao làm vậy. Có nhiều khi, mấy chục năm làm Phật tử, thầy chỉ dạy cho pháp bố thí thôi. Tới hồi cận tử, hấp hối mới thấy hết hồn. Đồng ý, mấy chục năm bố thí cúng dường cũng là công đức lớn, nhưng tâm tư của người sắp ra đi, nó phức tạp lắm. Không thể nào chỉ có một thứ mà đủ đâu quý vị. Không phải nhớ hồi đó mình cất cái chùa, hồi đó mình tổ chức 30 lần Kathina, 70 lần trai tăng, 50 lần nuôi trẻ mồ côi, 60 lần thăm người già cơ nhỡ, …Không có đủ.

Nội mà pháp an tâm, quán niệm cái gì để có thể an tâm, buông bỏ, ra đi không sợ hãi, không tiếc nuối, cái đó mới cần.

Chứ còn cái kia, nhớ được thì cũng là cái tốt, nhưng căn bản mình phải có khả năng đó.
Phải học đạo mới hành, nếu học đạo không hành thì nhiều lắm chỉ là gieo duyên thôi. Chỉ là gieo duyên thôi.

Thì như tôi nói. Bài kinh này có 3 nội dung :

Một là, nói đến Phật trí vô lượng.

Thứ hai, nói đến ý nghĩa của toàn bộ giáo pháp, cái gì cũng là con đường giải thoát hết. Như chính đức Phật đã dạy trong Tăng chi bộ kinh phần 8 pháp, Ngài dạy : « Giống như đại dương chỉ có một vị mặn, toàn bộ lời dạy của ta chỉ có một vị: Giải thoát »

Tất cả các bài kinh, đọc kỹ lại coi.

Dầu Ngài kể câu chuyện quá khứ, nhưng Ngài vẫn đúc kết lại. Thí dụ, các vị coi Kinh bổn sinh. Ngài luôn luôn Ngài kể chuyện xưa xong Ngài đúc kết bằng một pháp thoại về Tứ Đế. Tất cả những người, những vật, những cảnh trí, những sự kiện diễn ra trong tiền kiếp đó đều là khổ hết. Tất cả cái khổ đều đi ra từ cái Muốn. Muốn hết khổ thì phải dẹp cái Muốn. Hành trình dẹp Muốn là Bát Chánh Đạo. Luôn luôn là như vậy. Giảng xong Ngài đúc kết như vậy. Phần thứ hai, Ngài mới nhận diện bổn sinh là trong kiếp đó ta là ai, Anan là ai, Xá Lợi Phất là ai, Ya-du là ai, … Đó là chuyện cuối cùng. Mà căn bản là Ngài kể chuyện xong Ngài đúc kết bằng giáo lý Bốn Đế. Luôn luôn. Coi kỹ trong Kinh bổn sinh.

Căn bản của Phật pháp, tinh thần cứu cánh, nội dung rốt ráo, mục đích tận cùng của Phật pháp chính là giải thoát. Đó là hương vị duy nhất của Phật pháp.

Như bà Gotami bà đã đến hỏi Phật : « Khi Thế Tôn không còn nữa, ai cũng có thể mạo nhận, thậm xưng lời mình là lời Phật, vậy chúng con phải làm sao ? » Bà hỏi cho đại chúng thôi, chứ bà là vị La Hán. Thêm nữa, bà tịch trước Phật mà. Nhưng bà hỏi cho hậu lai, hậu tấn mình đó.

Phật mới dạy : « Con đường nào càng hành trì càng an lạc, càng có nhiều trí tuệ, càng có khả năng tinh tấn, càng chán sợ đám đông, càng thích độc cư viễn ly, càng trở thành người dễ nuôi là Chánh Pháp, là lời ta dạy. Còn con đường nào, pháp môn hành trì nào nó không có được, không đáp ứng được những tiêu chí đó thì không phải là lời ta dạy.

Chúng ta nhớ. Chúng ta quay lại. Đó là Nội dung giáo pháp.

Ngay từ lúc hành trì đến chứng đắc luôn luôn đều nhắm đến khía cạnh, tinh thần, lý tưởng: GIẢI THOÁT. Chứ còn lung tung đi theo thầy bà tùm lum.

Chẳng hạn, tôi biết một Phật tử, gặp tôi họ nói « Kiếp này chắc con theo hạnh tu phước chứ không tu huệ nổi » Tôi hỏi « Tu phước là sao ? » Họ nói : « Chắc bố thí, phục vụ, quét chùa, đổ rác, chùi cầu, rửa chén, in kinh, đúc tượng,… vậy thôi chứ không tu được cái khác » Tôi hỏi « Sao nghĩ gì kỳ vậy ? » - « Dạ, có người họ nói, tại con mê đời lắm con không bỏ hết theo đạo được, có người họ nói tại trí con kém, con nhớ dở, hiểu chậm »

Tôi nói : Không! Tại quý vị chưa chịu thấy được thân này là khổ, quý vị còn yêu đời là 1. Tự nhiên trên trời rớt xuống nguyên cục tự ti mặc cảm cho rằng mình không đủ sức. Chứ thật ra, người hiểu chuyện căn bản nhất, đó là : MỌI THỨ LÀ KHỔ. Thì phải tận lực chứ tại sao chưa gì hết mình mang cái đầu « tiểu thừa » đó ! Tại sao mình nghĩ mình không làm được ? Mà cứ vô đó « con tu phước chứ không dám tu huệ » mà cái đó rõ ràng mình thấy : Một phần khuynh hướng tâm lý nhiều kiếp, mà có thói quen như vậy. Cũng có người do tiếp xúc thầy bạn, bị hốt vài thang, nó hư cái đầu luôn.

Còn có người do bẩm tính tự ti mặc cảm, nghĩ rằng tu huệ chắc ghê gớm. 

Thật ra tu huệ là gì ? 

Học giáo lý (trí văn, trí tư) + Tu Tứ niệm xứ (trí tu) chứ có gì đâu. Chuyên tâm 3 cái đó là tu huệ.

Còn tu phúc là mình chỉ lòng vòng ba cái : Bố thí, phục vụ, trì giới, niệm Phật cầu phước, cái đó gọi là tu phước. Nói chung, Tu phước = Tu mà không hướng chấm dứt sanh tử mình gọi chung là tu phước. Tu để kiếm phước thôi.

Còn tu huệ là Tu để lìa bỏ, buông bỏ, để giải thoát. Thì cái đó gọi là tu huệ.

Tiền ai cũng cần, nhưng tiền dùng để làm cái gì ?

Có người làm quần quật để có tiền định cư nước ngoài, có người làm quần quật để định cư trong nước, làm đại gia. Ở đây cũng vậy. Làm thiệt là nhiều phước báu hướng đến quả vị giải thoát là định cư nước ngoài. Còn làm phước tùm lum mà để tiếp tục sanh tử thì gọi là tiếp tục làm đại gia trong nước thôi.

Nếu mình có tầm nhìn xa thì mình thấy làm đại gia trong nước không khá. Bởi vì sao ? Nếu mình yêu quê hương lắm thì mình cứ đưa hết thân nhân ra ngoài, rồi có quốc tịch, có tiền bạc chạy về nước, kiếm miếng đất nào ở cũng được. Ở 6 tháng trong nước, 6 tháng ngoài nước. Theo tui.

Chứ còn nếu mình không có quốc tịch bên ngoài, có chuyện gì nó khó lắm. Chẳng hạn như vụ covid vừa rồi đó.

Họ chích cho mình cái gì mình đâu có biết. Họ chích nước mắm thì mình cũng phải chịu thôi. Rồi lúc đầu thì muốn chích mà không có thuốc, tới bây giờ, có đủ thuốc để chích thì mình cũng e ngại, không biết chích cái gì. Thí dụ vậy.

Tôi không có ý nói về chính trị, nói về xã hội, gì ở đây hết. Tôi chỉ nói răng : Khi mình thấy chuyện định cư nước ngoài là cần thiết thì bằng mọi giá mình bỏ mình đi. Ở đây cũng vậy. Khi mình thấy sanh tử, còn định cư trong vòng sanh tử là không khá. Phải định cư nước ngoài có nghĩa là phải giải thoát mới khá. Chứ còn quẩn quanh trong cõi sanh tử, dầu mình có làm đại gia trong đó thì cũng bấp bênh lắm.

Cho nên, ở đây Ngài dạy : « Điều ta biết như cả khu rừng, điều ta nói ra chỉ như nắm lá thôi », là sao ?

Câu nói đó sâu lắm. Nó tới 1001 cách hiểu. Nghe kỹ, nghe chậm lại nha.

« Điều ta biết nhiều như khu rừng, điều ta nói ra chỉ như nắm lá. Tại sao? Vì ta chỉ nói cái gì dẫn đến giải thoát cho chúng sinh thôi. Đó là về phía ngài. Còn mình, thì sao ? Ngài nói vậy nhưng mình phải hiểu mình. Tất cả những gì chúng ta biết, chúng ta nên ưu tiên cho kiến thức giải thoát.

Phần Ngài Ngài nói vậy, nhưng mình bắt buộc phải hiểu ngầm như vậy đó. Ngài biết nhiều như vậy nhưng Ngài nói : Ngài chỉ giảng cái gì đưa đến giải thoát. Thì ở đây cũng vậy.

Phần mình mình phải hiểu là mình có học hành bao nhiêu đi nữa, nhưng mình cũng phải ưu tiên, dầu là bác sĩ, kỹ sư, luật sư, cũng phải ưu tiên cho kiến thức giải thoát. Bởi vì cuối đời, mình phải quay về với kiến thức Đạo học, kiến thức Phật pháp thôi quý vị.

Tôi đã từng gặp những ông bác sĩ, kỹ sư, 80-90 tuổi. Như cách đây mới 5 tháng, có một ông kỹ sư người Việt Nam, 96 tuổi, ổng là thuộc về thế hệ kỹ sư đợt đầu, đợt nhì của Việt Nam tốt nghiệp tại Pháp. Gia đình của cụ là một trong số những người Việt Nam đầu tiên sở hữu xe hơi, trong số những người Việt Nam đầu tiên có bằng cấp nước ngoài. Nhưng mà rồi sao ? Cụ đi bên Tây về, cụ có bằng cấp, cụ làm hãng xưởng tùm lum, hãng xưởng của Pháp, của Mỹ tại Sài gòn, rồi cụ có một người vợ làm hiệu trưởng. Bà vợ của cụ cũng rất là hiện đại nha. Hiệu trưởng, lúc đó là một cô, cô hiệu trưởng, tại Sài gòn, lái xe mỗi ngày lái xe hơi từ nhà tới trường. Ông chồng kỹ sư thuộc về thế hệ đầu của Việt Nam. Rồi thì sao ?

Lây lất cuối cùng cụ mới mất đây, cũng 98 rồi. Cuối cùng rồi thì 2 ông bà là những Phật tử, chỗ quay về cũng chính là mấy trang kinh thôi. Chứ còn bao nhiêu cái kia phải buông hết. Cuối cùng phải buông hết.

Phải nói thêm. Sở dĩ tôi đặc biệt nhắc đến ông cụ, bà cụ này bởi vì gia đình ông cụ bà cụ có một sứ mệnh lịch sử rất đặc biệt đối với Phật giáo Nam tông Việt Nam, đó là : 2/3 Kinh sách tiếng Việt của Nam tông Việt Nam, trước 1975 đều được gia đình cụ là người in. Đó là nhà in Sen Vàng. Ai mà đọc kinh Nam tông, kinh của ngài Hộ Tông, ngài Bửu Chơn, ngài Thongkham, không biết ngài nào mà các vị liếc liếc thấy Sen Vàng là của gia đình đó. Của ông bố, ông bố là chủ nhà in đó. Mà cụ bây giờ 98. Ông bố cụ nếu còn sống già dữ nữa. Ông bố là ông chủ nhà in Sen Vàng. Rồi thì sao?

Tất cả đi vào dĩ vãng hết. Rồi sao? Cái còn lại, chính là cái già, cái bệnh và cái chết.

Cho nên, hôm nay chúng ta có thể biết computer, chúng ta biết lái xe, có bạc triệu, có quốc tịch ở nước ngoài, chúng ta có thể nói được 8 thứ ngoại ngữ, chúng ta sống trong thế giới văn minh nhiều khi chúng ta thấy Phật giáo làm như cổ lỗ sĩ, xưa xưa sao. Nhưng mà khoan, từ từ. Ngồi ngẫm nghĩ lại đi.

Khi nào trong người có dấu hiệu bệnh bệnh, có dấu hiệu của tuổi già, của tóc bạc, của tiểu đường, của tim mạch, của tăng xông,… thì lúc đó mình mới nghiệm ra, hình như Phật nói đúng. Nói thiệt.

Chứ mình văn minh cỡ bao nhiêu?

Theo trong kinh, nền văn minh hiện tại, nhân loại không phải là đầu tiên, không phải duy nhất. No. No.

Cái quý hiếm nhất trên thế gian này đó chính là sự ra đời của một đức Phật mà còn lặp đi lặp lại mà, hết Phật này tới Phật khác. Thì nói gì là nền văn minh vật chất. Nền văn minh vật chất này được lặp đi lặp lại rất nhiều lần.

Trong room này có rất nhiều thành phần trong đây. Tôi biết, tôi nói cái này họ sẽ nhảy dựng lên, nhưng mà kệ quý vị, tôi vẫn nói.

Theo chú giải Trường Bộ thì nói rằng: Tùy thuộc vào căn cơ của chúng sinh, mà chúng ta quần tụ, tập kết ở một nơi chốn nào đó, thí dụ : Sanh ra trong 1 gia đình, rồi gì nữa? rồi thì một dòng họ. Rồi cái gì nữa? Rồi, một làng xã, một huyện, tỉnh, một vùng miền, một đất nước, một châu lục, một bán cầu, … Hễ còn điểm tương đồng là chúng ta còn gặp nhau trên hành tinh này. Rồi cái gì nữa?

Khi không biết Phật pháp chúng ta chỉ biết tới đó thôi.

Nhưng theo trong kinh: Chính vì có điểm tương đồng mà chúng ta mới gặp nhau trong một gia đình, một dòng họ, một làng xã, ấp, huyện, tỉnh, khu vực, đất nước, vùng miền, Nam bán cầu, Bắc bán cầu, rồi cả hành tinh.

Mình chỉ biết có 1 trái đất mình tưởng mình cô đơn trong vũ trụ. Chứ theo mô tả trong kinh, nền văn minh này không phải duy nhất. Vì sao vậy? Bởi vì. Tôi biết bắt đầu làm sao?

Các vị biết ổ ếch không ? Hoặc ai không biết thì tôi nói qua cái khác là hột é. Các vị đi ra mua dùm tôi 1 ly hột é, rồi các vị đổ xuống đất. Trong đống hột é đó có rất nhiều hột é đúng không? Thì, mô tả trong kinh: Trái đất mình chỉ là 1 hột é thôi, trong hột é đó có 1 mặt trăng, 1 mặt trời. Mình tưởng nó lớn lắm.

Theo khoa học bây giờ, chỗ rộng nhất vũ trụ là 300 triệu năm ánh sáng. Có nghĩa là nếu chúng ta đi bằng tốc độ ánh sáng là 300.000 km/s thì phải mất 300 triệu năm mới đi hết chỗ rộng nhất của vũ trụ.

Mà vũ trụ như vậy chỉ là 1 hột é thôi, trong đó có 1 mặt trăng, 1 mặt trời, 1 thiên vương tinh, kim tinh, hỏa tinh, mộc tinh,… tất cả chỉ nằm trong 1 hạt é thôi.

Mà: 1000 hột é = 1 tiểu thiên thế giới ; 1000 tiểu thiên = 1 trung thiên thế giới; 1000 trung thiên = 1 đại thiên thế giới. 10.000 đại thiên thế giới như vậy là khu vực hoằng pháp của 1 đức Phật. Và, nó có vô số 10.000 ngàn như vậy. Không phải tính bằng tỷ đâu mà vô số.

Và, thế giới mà nó giống như mình, cũng có con người, động vật, cũng có nền văn minh, xe cộ, computer,…. Nó có vô số.

Mà lúc thì ở đây có lúc thì ở kia có, chưa hẳn là nó có cùng lúc.

Và, chu kỳ của chúng sinh thì: Có lúc chúng sinh văn minh về tâm linh, có lúc văn minh về vật chất. Nói về phiền não, có lúc chúng sinh sống nhiều với tham, có lúc chúng sinh sống nhiều với sân, có lúc sống nhiều với si, với tà kiến. Đấy. Có nghĩa là ngay trên 1 hột é thì nó tiến bộ. Chẳng hạn thời đức Phật, thời đó chúng sinh phải nói là văn minh về tâm linh, thời đó đắc thiền đắc đạo rất dễ rất nhiều. Chẳng hạn, thời đó mình thấy, bên Tàu, bên Ấn, Hy Lạp có đức Phật, có Khổng Tử, Lão Tử, Socrates, Platon,… đại khái thời đó, nó chênh lệch nhau vài trăm năm nhưng trong thời đó. Gọi là đỉnh cao văn minh tâm linh. Còn bây giờ là đỉnh cao văn minh vật chất.

Còn nói về phiền não, thì tùy thời. Có lúc nặng thứ phiền não nào. Có lúc sống nhiều với thiện pháp: Đức tin nhiều, trí tuệ nhiều, thiền định nhiều. Rồi bên ác pháp cũng vậy, cũng tùy thời mà nó mạnh về cái gì.

Ngoài hột é này ra, vô số hột é khác y chang như vậy, có lúc nó mạnh thế này, có lúc nó yếu cái kia. Nhớ như vậy.

Cho nên, mình tưởng nền văn minh của mình là duy nhất, mình là cô đơn trong vũ trụ. SAI!

Đó là cách nghĩ của người không biết Phật pháp, mà đã vậy còn rất cạn nghĩ về đời, về khoa học, rất cạn nghĩ.

Bởi vì, khi mình nói mình cô đơn trong vũ trụ = mình tự đóng khung vũ trụ này là 1m2, 2m2 mình mới nói là mình là duy nhất. Nhớ cái đó.

Cho nên: Chúng ta có học bao nhiêu đi nữa, cái biết chúng ta chỉ là 1 hạt cát trên bờ biển, trong sa mạc thôi. Cho nên, cái quan trọng là cái biết nào khiến chúng ta ngay bây giờ chúng ta được an lạc, những người chung quanh được an lạc. Nếu có kiếp sau, mình tiếp tục được an lạc. Nếu có con đường giải thoát, thì mình cũng sẽ được giải thoát.

Và, con đường nào? Con đường nào ngoạn mục như vậy? Con đường nào ta? Thì mình có 2 lối sống: Một lối sống làm cho mình vui. Một lối sống làm cho mình khổ. Thì mình thấy lối sống làm cho mình vui tốt hơn đúng không? Lối sống thứ hai. Lối sống làm sao mà mình có thể đem lại niềm vui cho người khác, đem lại nỗi khổ cho người khác. Mình thấy lối sống nào hay? – Đem lại niềm vui cho người khác. Vậy, cái thứ ba, nếu có kiếp sau thì mình muốn tiếp tục sung sướng hay đau khổ? Hình như sung sướng hay hơn. Rồi, như vậy mình chọn cái sung sướng. Tức là: Sướng mình, sướng người, sướng đời này và sướng đời sau. Rồi, cái thứ 4: Nếu quả thật có một cứu cánh cao nhất để hướng tới thì đó là giải thoát hay tiếp tục trầm luân thì tùy mình. Nếu mình thấy giải thoát tốt hơn thì mình chọn con đường giải thoát.

Bây giờ mình gom lại.

Con đường nào làm cho mình vui hơn? Con đường nào giúp người khác vui hơn? Con đường nào bảo đảm kiếp sau hơn (giả dụ coál kiếp sau)? Bây giờ tôi đang nói chuyện với đám vô thần mà, cho nên tôi nói lúc nào cũng trừ hao hết. Giả dụ có kiếp sau. Giả dụ có một con đường giải thoát. Giả dụ có cứu cánh cao nhất đáng để mình hướng tới, thì để có được hành trình sống như vậy, tự chúng ta chọn đi, sống ác hay sống thiện?

Muốn mình vui hơn hay khổ hơn ? Thì chắc chắn mình chọn cái vui. Muốn vui thì mình nên sống ác hay sống thiện? Hình như sống thiện chắc ăn hơn. Muốn người khác an lạc thì mình nên sống ác hay sống thiện? Hình như sống thiện đúng hơn. Rồi, sống thiện. Nếu có kiếp sau, chốn về ngon lành dành cho người ác hay người thiện ? Hình như người thiện chứ. Nếu có cứu cánh để tìm về, hướng đến thì nó dành cho đứa nào ? Hình như cho đứa sống thiện.

Như vậy thì mình tổng kết lại.

À, THÌ RA SỐNG THIỆN LÀ CHẮC ĂN NHẤT.

Trước mắt là mình ok, mấy người chung quanh mình ok. Nếu có kiếp sau thì kiếp sau cũng ok, và, nếu có một cứu cánh ngon lành thì sống thiện cũng ok. Nhớ nha. Nhớ cái đó.

Chứ ở đây đừng có tin Phật vì bà ngoại đi chùa, nên má đi chùa, má đi chùa nên tôi đi chùa, tôi đi chùa bắt con tui đi chùa. Mà con tui đi chùa thế nào cháu tui cũng đi chùa. Thì nếu Phật tử Việt Nam toàn đi chùa kiểu chuột chù cắn đuôi thì không khá. Ở đây biết chuột chù cắn đuôi không ta ? Nó không thấy đường, nó phải cắn đuôi con kia. Kêu là đi chùa kiểu chuột chù cắn đuôi.

Mà mình phải có chủ kiến, phải có lập trường tự có tự phát, chứ mình cứ đi theo người ta « người ta nói sao nghe vậy, người ta nói bậy nghe theo » là kẹt lắm.

Như bữa hổm các vị nhớ, bài kinh kỳ rồi, bài kinh Kālāma. Thì trong kinh nói : Chúng ta có nhiều kiểu tìm đến người khác lắm. Có khi chúng ta tin một câu nói chỉ vì nó được một đám đông rần rần ủng hộ. Chúng ta tin điều gì đó chỉ vì nó được trao truyền bởi một người khả kính. Chúng ta tin điều gì đó vì nó được xem là công thức, khuôn mẫu, trong kinh điển chính thống. Kẹt lắm. Bởi vì, một điều tầm bậy dầu một triệu người chấp nhận thì nó vẫn bậy. Một điều đúng dầu không ai nhìn nhận nó cũng vẫn là đúng. Phải tin chuyện đó.

Bởi vì, hôm nay chúng ta biết. Với phương tiện truyền thông hiện đại bây giờ. Bất cứ thế lực nào, có tiền có quyền thì nó có thể tác động đến suy nghĩ của hàng triệu, hàng trăm triệu người. Cho nên, phải cẩn thận cái đó.

Thí dụ, bây giờ người ta nắm về phương tiện truyền thông, người ta nắm hết, thì mỗi ngày người ta bắt mình đọc những thứ người ta muốn, người ta bắt mình phải nghe, phải nhìn, phải tư duy trên những thứ người ta muốn. Mà mình không biết ! Mình không biết mình là con cá cảnh. Xin lỗi. Mình không biết mình chỉ là một thứ gia súc của người ta chăn dắt. Thế là cắm đầu mà tin. Từ nhỏ đã được nhồi sọ, rao giảng, tuyên truyền mấy cái đó rồi từ từ lớn lên mình thành con cá kiểng hồi nào mình không hay. Và mình không đủ tỉnh táo, không đủ bình tĩnh để vượt thoát chuồng cũi, lồng chậu đó.

Mình cứ tưởng có bằng đại học là mình là trí thức. Mà mình quên mình là con cá cảnh có bằng cấp. Bởi vì sao ? bởi vì mình tư duy, mình suy nghĩ trong khuôn khổ người khác ban cho. Khổ như vậy đó.

Bài kinh Kālāma là bài kinh, nội dung mình cẩn trọng cái đó.

Giờ qua tới bài kinh Siṁsapā.

Nội dung vẫn tiếp tục tiếp nối, nếu mình muốn nghĩ như vậy, vẫn đúng. Nó vẫn là nội dung tiếp nối.

Có nghĩa là : ái biết nào đi nữa phải dựa trên tiêu chí : (1) An lạc cho mình (2) An lạc cho đời (3) An lạc đời này (4) An lạc kiếp sau và (5) Con đường đó có thể dẫn tới cứu cánh cao nhất nếu quả thật trên đời có cứu cánh đáng để mình hướng tới, thì vẫn phải sống làm sao tới được cứu cánh đó. Chọn lựa là chọn lựa như vậy.

Bài kinh này nó sâu lắm. Bài kinh này đọc lướt qua thì thấy không có gì hết, hơi huề vốn vậy đó.

(Còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Simsapa (2-2)

https://www.youtube.com/watch?v=WRODVSF26ZQ

« Tôi rất yêu những ngày nhiều nắng, nhưng nếu trời không nắng cũng không sao » Cái dạng này là dạng huề vốn.

Mà không phải. Bài kinh này không phải bài kinh huề vốn, bài kinh này sâu lắm. Có nghĩa là. Ngài dạy mình phải cẩn trọng.

Trí tuệ như Ngài , Ngài biết cả khu rừng mà khi Ngài dạy Ngài lọc ra có chừng đó thôi, chỉ một nắm tay thôi. Thì mình cũng vậy, từ kiến thức, thời gian, công sức, bao nhiêu thứ mình đang sở hữu chỉ nên ưu tiên cho cái gì phải dựa trên tiêu chí : Đem lại lợi ích cho mình, cho người, đời này, kiếp sau, và nó hỗ trợ lý tưởng giải thoát nếu cái đó là có.

Và, cái đặc biệt nhất, có người thắc mắc : Tại sao tui sống tui có nhà cửa vợ chồng con cái, vui rồi. Mắc chứng gì tôi phải đi đến với đạo ? Tại sao mà tôi phải cầu giải thoát, giải thoát cái gì ? Trong khi đời sống này nó quá perfect, quá hoàn hảo mà giải thoát cái gì nữa ?

Tôi chỉ gợi ý chuyện nhỏ thôi.

Anh thấy cuộc đời nó ra sao mà anh thấy nó hoàn hảo ? Và, cẩn trọng, trong kinh Phật nói thế này.

Tùy thuộc túc duyên, trình độ của mình mà mình thấy thế giới ra sao. Chính trình độ, nó dẫn tới thái độ. Và, nếu có người hỏi tôi tại sao học Phật pháp ? Tại sao họ phải học Phật pháp ?

Thì tôi sẽ gợi ý một điều, và tôi mong mấy bà con đang nghe, thích hay không thì mặc xác nhưng hãy ghi nhận câu trả lời này.

Nếu có ai hỏi tôi : Tại sao phải học Phật pháp ?

Tôi sẽ trả lời : The world is what you see = Thế giới này chỉ là cái gì anh nhìn thấy thôi.

Câu này không biết có hiểu không?

Người mù bẩm sinh thì thế giới này đối với họ chỉ là cái gì ngửi được, nghe được, rờ được, nếm được, ngoài ra ba cái hình ảnh màu sắc, hình dáng,… dẹp dẹp. Đui bẩm sinh mà. Còn đối với người điếc bẩm sinh thì thế giới này là đủ thứ trừ âm thanh. Nó không hề biết thế giới này có cái gọi là âm thanh, tiếng động. Nó không biết. Xong chưa?

Như vậy thì: Thế giới này là gì ? Tùy thuộc khả năng cảm nhận của chúng ta. Và, tại sao chúng ta phải học Phật pháp? Vì, Phật pháp cung cấp cho chúng ta MỘT CÁCH NHÌN KHÁC VỀ THẾ GIỚI. Một cách nhìn mà NẾU KHÔNG CÓ PHẬT PHÁP TA KHÔNG TÀI NÀO NGHĨ RA.

Thử đi. Nếu mình là một con người, con người đúng nghĩa.

Ngoài đói ăn, khát uống, giao phối và tự vệ thì mình phải có nhu cầu thứ tư là Tư duy. Chứ còn đa phần, chỉ có 4 thứ nhu cầu: Đói ăn, khát uống, giao phối và phản vệ (phản ứng & tự vệ). Đa phần là chỉ có bao nhiêu đó.

Lụm bằng cấp chỉ là cần câu cơm thôi, lấy cái đó đi kiếm cơm. Lấy cái bằng cấp treo lên cứ tưởng mình là trí thức, trong khi đầu mình chỉ quẩn quanh 4 thứ : Ăn, ngủ, giao phối, phản vệ. Bốn cái phản ứng này hoàn toàn có thể tìm thấy ở một con thú.

Mình tưởng mình là con người, mình quần là áo lụa, nhà cửa, xe cộ, vợ chồng, con cái trí thức, bằng cấp, học vị, học hàm từa lưa hết, mình tưởng mình ngon mà thật ra mình chỉ sống trong 4 thứ: Đói ăn, khát uống, giao phối, phản vệ. Mà bốn thứ này nó y chang con thú. Con sóc, con chuột, con rắn, con mèo, nó đi kiếm ăn theo cách của nó, còn mình sang hơn. Mình đi kiếm ăn bằng bằng cấp, bằng phòng mạch của bác sĩ, văn phòng của luật sư, bằng văn phòng của người môi giới nhà đất,… mình tường mình sang thật ra đó là kiếm ăn. No more. Không có gì thêm nữa. Chỉ vậy thôi.

Cho nên, ngoài 4 nhu cầu căn bản của một động vật, đó là: Đói ăn, khát uống, giao phối truyền giống và phản vệ, nó còn có suy tư. Suy tư gì? Suy tư về bản chất của đời sống, Mình là cái gì trong vũ trụ này? Ở đâu mình tới? Mình sẽ về đâu? Ngay bây giờ mình phải làm gì ? Lẽ nào ý nghĩa của đời sống chỉ là có chừng đó thôi? Chỉ là : Ăn, uống, giao phối truyền giống và phản vệ hay sao?

Mà đa phần, phần đó họ không có màng. Họ nói mệt lắm.

Cách đây không lâu, có cha đến học đây, cha nghe tôi giảng xong cha hỏi câu tui hết hồn: Đạo gì mà nói vòng vòng thấy đời khổ quá, không có gì ngoài ra.

Đúng. Thế giới này chỉ có Khổ thôi.

Nhưng Khổ có 2 nghĩa : Khổ bản chất & khổ cảm giác.

Khổ cảm giác : những gì thân tâm khó chịu, đau đớn, sợ hãi, bức bối, phiền phức, là khổ cảm giác.

Khổ cảm giác : Cái gì bất toàn, bất trắc thì cái đó gọi là khổ bản chất. Thí dụ, giờ mình thấy một thằng đang chích choác, nhậu nhẹt, nhảy đầm, trai gái, nghiện ngập, bài bạc,… mình thấy nó sướng thiệt, nhưng mình hiểu rằng: Hiện giờ nó không có khổ cảm giác nhưng nó đang sống trong khổ bản chất. Vì sao? Vì KHỔ BẢN CHẤT LÀ CÁI NỀN CHO KHỔ CẢM GIÁC. Nó là cái nền của bất trắc, bất toàn. Vì sống kiểu đó là một là đổ bệnh, hai là nợ nần, ba là tai tiếng, bốn là mất uy tín, năm là sự nghiệp tan hoang. Càng nói càng banh chành. Cho nên, đó là khổ bản chất.

Cho nên, đói nghèo, bệnh tật, đó là khổ cảm giác. Nhưng SỰ CÓ MẶT TRONG CUỘC ĐỜI NÀY LÀ KHỔ BẢN CHẤT. Nó là cái nền cho bao nhiêu cái khổ khác.

Chỉ vì mình mang cục thịt mấy chục ký này bao nhiêu cái hệ lụy được sản sinh, được khởi sinh từ đó. Từ chuyện mình có cục này, nó mới có chuyện thị phi, khen chê, chửi rủa, tự ái, bị tổn thương, bị xúc phạm, vì có cái cục thịt này nè, mà nó mới có chuyện hờn giận, căm tức, ngủ không được, bị suy nhược thần kinh, bị bao tử, bị tim mạch, bị hô hấp, bị tiêu hóa, bị bài tiết,… tùm lum hết. Bao nhiêu chuyện, bao nhiêu vấn đề từ cái cục nợ mấy chục ký này.

Chính vì có cục này nó mới có tai nạn, xe cộ, nó mới có té, mới có thương tích, nó mới có máu me. Rồi có cục này nó mới có tuổi già, mới có các chứng nan y, chính cục này nó mới có cái chết, nó mới có những giây phút cận tử ngáp ngáp mà không chịu chết, vì cục này mới có nằm mấy năm trời tiêu tiểu tại chỗ hôi rình, khai ngấy. Vợ chồng con cái ngó lơ.

Tôi nói cái đó hoài. Bởi vì, khó nói lắm các vị. Bây giờ các vị nằm xuống một cái. Sáng ngủ dậy, nó không chịu chết, mà nó chơi nửa bên mà không nghe lời là các vị nhìn nó nản lắm. Vợ mình, chồng mình, con mình, cái mình, cháu chắt, chút chít, chót chét mình còn có tiền thì nó còn dòm dòm chứ không có tiền thì thông cảm đi, nằm đó cho chết. Mà tui nói thiệt người đó là tui nè.

Tui tới tui thăm mà tui thấy ông Kiên, ông Nhân nè, mà ông Kiên tui biết trong nhà băng ổng có vài triệu thì tôi ráng tôi xin xin, biết đâu thẳng chả nhí nhí cho mình chút. Còn thằng cha Kiên, trời đất ơi, sống bằng tiền trợ cấp xã hội, vợ thằng chả, cô Lệ giờ đi theo ai mất tiêu, đứa con biệt xứ nghe nói có đứa đi Mỹ, có đứa đi về Việt nam, còn ông Kiên giờ nằm hôi rình, khai ngấy, ngáp ngáp, tui tới nước miếng chảy vậy nè. Nhờ tui lấy dùm ly nước. Ngứa quá không biết làm sao, nói sư gãi dùm. Chắc tui thăm chả được chừng lần thôi là coi như ngàn năm mây trắng bay về Vũ Hán theo Thôi Hiệu, lên Hoàng Hạc Lâu chứ không bao giờ mà chim hạc quay trở lại nữa. Nó ngán dữ lắm. Mà thuở nào chàng còn sung sức, vô mở lớp làm MC, làm admin tùm lum tà la đủ thứ giờ nằm liệt một chỗ, vợ bỏ, con đi, …. Dễ sợ như vậy. Kinh khủng lắm.

Giờ này chưa. Giờ còn ngon lắm. Thấy đời còn màu hồng. Đã lắm.

Cho nên. Mình mới quay trở lại bài kinh Siṁsapā.

SỐNG LÀ PHẢI NHẮM ĐẾN CÁI GÌ LÀ CỐT LÕI MỚI CÓ Ý NGHĨA. MẶC DÙ ĐỜI SỐNG LÀ VÔ NGHĨA NHƯNG THẤY ĐƯỢC CÁI VÔ NGHĨA ĐÓ THÌ CHÍNH ĐÓ LÀ VIỆC LÀM Ý NGHĨA NHẤT CỦA CUỘC ĐỜI NÀY.

Không biết câu nói này các vị có hiểu không?

Thấy được đời sống này vô nghĩa. Thì cái thấy đó là cái ý nghĩa nhất cuộc đời của mình.

Nếu các vị hỏi tôi: Sư ơi, người Phật tử sống phải có ý nghĩa, phải có lợi ích phải không sư? – Đúng.

Theo sư, sống như thế nào là đời sống có ý nghĩa? Tôi nói: Sống có ý nghĩa nhất là : CHIÊM NGHIỆM THƯỜNG TRỰC ĐỂ THẤY RẰNG: MỌI THỨ LÀ VÔ NGHĨA. THẤY NÓ LÀ VÔ NGHĨA ĐÓ CHÍNH LÀ CÁI Ý NGHĨA NHẤT TRONG CUỘC ĐỜI NÀY.

Tại sao? Nói như vậy không có nghĩa là tôi kêu các vị chán đời, nhảy lầu, sờ dây điện,… không phải.

Tiếp tục làm cha, làm mẹ, làm chồng, làm vợ, tiếp tục sống, đi tu được thì tu, còn không tiếp tục sống ở ngoài, không có gì hết, nhưng với tâm niệm thường trực : MỌI THỨ DO DUYÊN MÀ CÓ RỒI CŨNG DO DUYÊN MÀ MẤT ĐI. Với nhận thức thường trực như vậy trước thị phi, trước những cái mất và được, trước vinh nhục, phù trầm, danh hư, tiêu trưởng,… thoải mái. An lạc. An lạc ngay bây giờ, và nếu đủ duyên, chứng thánh ngay bây giờ. Và, Pháp môn Tứ Niệm xứ là gì? Pháp môn Tứ Niệm Xứ là hành trình ta sống thường trực với sự tỉnh thức của chánh niệm, với sự nhận thức của trí tuệ: Chuyện đầu tiên, BIẾT RÕ MỌI THỨ ĐANG ĐIỄN RA và BIÉT RÕ THỨ ĐANG DIỄN RA ĐÓ LÀ CÁI GÌ? Biết rõ How & What. Biết cái gì? Biết thân tâm này đang ra sao và cái đang diễn ra đó nó là cái gì ? Chỉ liên tục sống như vậy.

Vẫn tiếp tục lái xe, vẫn tiếp tục đi làm, vẫn tiếp tục là chồng, là cha, là vợ, là con, vẫn bình thường, tiếp tục. Nhưng luôn luôn trong nhận thức Biết rõ: Mình làm cái gì mình biết rõ. Đi đứng, ăn uống, nhai nuốt, nói cười, buồn vui, thiện ác. Biết. Biết cái đó nó đang diễn ra. Biết. Biết: Mọi thứ do duyên mà có rồi cũng mất đi. Thường trực sống như vậy. Sẽ có ngày các vị ngộ ra chữ: Tại sao nó vô nghĩa?

Nó chỉ hoạt động để sống và sống để hoạt động. Hoạt động nó chẳng dẫn về đâu hết. Nó chẳng về đâu hết. Tại vì tự mình ngồi mình tự dựng ra mục đích cao siêu: Tui là một người chồng thì tui phải có khả năng lo cho vợ, tui là một người cha phải có khả năng lo cho con. Tôi phải là người vợ thì phải lo cho chồng, tôi là một người mẹ thì phải lo cho con, tôi là một người con thì phải lo cho bố mẹ ông bà,… Mình nghĩ đó là trách nhiệm, cộng với những nụ cười, niềm vui nho nhỏ thỉnh thoảng xen vào. Rồi cộng với cái TÔI: Tôi được vui, Tôi hoàn tất trách nhiệm,… những cái đó là Của Tôi, Chồng Tôi ok, Vợ Tôi ok, Con tôi ok, Nhà Tôi ok,… Thỉnh thoảng thôi, nó xen một vài niềm vui thì lấy mặt mũi của cái tôi giả tưởng đó cộng với một vài niềm vui lai rai, cộng lại thành ra mục đích sống.

Chứ thật ra nó tẻ nhạt vô cùng. Cứ thử đi. Làm hết trách nhiệm người chồng cuối cùng sao ? Một nó không chết thì nó lẫn. 90 không lẫn thì 100, cũng lẫn, lúc đó dòm ngơ ngơ ngáo ngáo, làm vợ tiếp tục, làm mẹ đi, tiếp tục sống sung sướng hay đau khổ đi, 90 năm lẫn, không thì 100 lẫn, 110, 120,… nó lẫn, còn không nó chết trước khi nó lẫn.

Coi như chung cục đời sống là sự tẻ nhạt. Bao nhiêu cái mình dệt mộng vì mình còn sinh lực, mình còn tuổi trẻ, mình còn sức sống. Mình thấy nó hay, nó đẹp. Chứ nói cho rốt ráo, đời sống chỉ là vô nghĩa, tẻ nhạt, động cơ thúc đẩy là do mình tưởng, mình nghĩ ra thôi.

Và, Tu tứ niệm xứ là sao ? TU TỨ NIỆM XỨ LÀ CƠ HỘI ĐỂ MÌNH QUAN SÁT MÌNH NHƯ MÌNH QUAN SÁT NGƯỜI KHÁC.

Có nhiều chuyện lạ lắm.

Các vị nhìn người khác rõ hơn chuyện mình. Chuyện người thì sáng, chuyện mình thì quáng (đui) là vậy.

Các vị quan sát đời sống người khác các vị thấy nó nản lắm. Đi làm để sống, sống để đi làm, đi làm để sống, sống để đi làm, … tới phiên mình thì mình thấy ok, vui quá. Lâu lâu cuối tuần có bạn bè tới, đi câu cá, ăn nhậu, camping rồi karaoke, đánh bài tùm lum hết, mình thấy vui. Con đi học, có bằng cấp, tốt nghiệp ra trường, có công việc làm. Vợ vui chồng vui, mình thấy nhà vui. Đó là chuyện của mình. Chứ còn chuyện người khác mình thấy nó kỳ lắm. Mình thấy nó tẻ nhạt.

Lớn lên, gái thì lấy chồng, trai thì lấy vợ, rồi cũng biền biệt mỗi đứa đi một phương, rồi trong nhà chỉ có 2 vợ chồng. Mà đó là một bi kịch bắt buộc. Nó là bi kịch tất yếu, đương nhiên, cố nhiên, mặc nhiên, hiển nhiên và cứ ráng gượng. Có nhiều người họ gượng cho đến tuổi già luôn. Vô minh ù lì tới già. Ráng tới có tuổi già, có cháu ngoại cháu cố, thấy tụi nó về quần tụ, vui vẻ, hoành tráng mình tưởng là vui chứ ngồi ngẫm lại đi. Nó ồn chịu không nổi.

Tôi kể hoài câu chuyện.

Anh chàng đó làm biếng lắm, ăn rồi cứ lên võng ngậm cây tăm, coi báo, rồi bố mẹ mới mắng nói : Giờ mày không làm lụng làm gì có vợ con ? phải có làm lụng, có vợ con, mới có gia đình, chớ giờ mày cứ đà này về già tăm xỉa răng cũng không có người đưa nữa.

Ảnh nghe ảnh hoảng hồn, ảnh ráng đi làm. Ảnh có vợ, đẻ ra bầy con, rồi từ từ ảnh có cháu ngoại, cháu cố. Rồi từ từ, ảnh 90 tuổi, ảnh vô nằm trong phòng ảnh nghe con nít nó hét ở ngoài, con cháu 4 thế hệ nó ở ngoài nó hét, rồi nó karaoke, nó nhậu nhẹt, nó gây lộn, dưới bếp bằm bằm xắt xắt, nhà hai mươi mấy mạng, bốn thế hệ. Ổng 90 tuổi, nằm trong phòng, ổng mới nhớ lại lời xưa : « Trời ơi, chỉ vì cái tăm xỉa răng má nói ngày xưa mà bây giờ cuộc đời của con nó tan nát như thế này »

Đến một lúc nào đó, mình thèm : Đi đứng tay chân không đau, tối ngủ không đái dầm, ban ngày lúc nào muốn nghe tiếng động thì nghe, muốn iem thì nó êm. Chỉ thèm có nhiêu đó thôi.

Bởi tôi nhớ, có 2 thằng bạn sinh viên. Lâu ngày không gặp nhau. Lúc ra trường hết gặp rồi. Bữa đó gặp lại nhau. Thằng có vợ thằng không có vợ. Thằng Tèo, hỏi thằng Tí : Ủa, giờ mày vẫn còn một mình hả ? - Ờ, còn một mình.

+ Mày nghĩ sao ? Tao mày bằng tuổi nhau mà tao 2 đứa, mày giờ còn một mình.

- Tao thấy mấy ông cụ, tao ngán quá. Tao thấy mấy ông cụ tuổi già con cháu lùm đùm, tao ngán. Tao thấy mày có vợ tao ngán. Đàn bà shopping, nói nhiều, bà tám, buôn dưa lê,.. tao sợ lắm. Tao muốn kiếm con vợ đẹp, khi nào mình muốn nó cười nó cười, muốn nó nín cười là nó nín, muốn nó nói là nó nói, muốn nó im là nó im. Mà thứ đàn bà đó kiếm sao ra?

Thằng kia suy nghĩ nói: Được, có. Mày mua cái ti vi là có thôi.

Sẽ có một ngày trong đời, mình thèm lắm quý vị. Mình thèm được yên. Thèm không thấy ai hết.

Tôi ở một mình, tôi đâu có vợ con. Tôi trên núi nè. Mà trời ơi, chắc có mấy mạng nó vô room này nó nghe, nó giận tôi lắm, mà tôi cũng nói luôn. Họ lên, họ thăm mình cũng cảm kích lắm. Họ nấu cho bữa ăn. Tôi giả định đi, vui 3 mà bực, phiền lên tới 7 lận. Dễ sợ. Thấy vui vậy đó, mà được có 3 à. Muốn họ về, mà các vị biết.

Tôi ở dưới triền núi, nó có con dốc lên, có mấy bậc thang. Mà các vị biết không? Tôi thề trước vong linh của mẹ tui. Tui chưa bao giờ tui nhìn ra con dốc đó mà trông đợi khách tới bằng niềm vui như là tui nhìn con dốc đó khi khách về.

Cũng con dốc đó. Có bữa tôi nghĩ tôi giật mình. Tức là, con dốc đó chuyên môn là tôi nhìn khi khách đi không à. Tôi sợ họ quay trở lại, họ bỏ quên đồ, mà cứ quên hoài. Hồi thì quên cái áo, hồi thì quên cái dây sạc phone, hồi quên cái nón, cứ quên cái này cái kia vậy đó. Mà tôi nói, họ đi tôi mừng muốn chết. Thiệt. Không có người khách nào đi tôi không mừng.

Bởi, tôi nhớ Tây có câu thế này: Thương gì thì thương mà ở 3 ngày nó sình.

Cái đó đúng.

Thương gì thương nhưng ở với nhau 3 ngày là nó sình. Nó nản lắm. Thí dụ, tôi qua bên Úc, về Brisbane, thằng cha Nhân mừng lắm, nhưng tôi nói trước, 3 bữa nó sình à.

Cứ đi ra, đi vô, xài chung cầu là nó gớm chết. Tôi gớm lắm. Xài chung toa let nó gớm. Mình đâu phải gia thế, sang trọng, thượng lưu, quý tộc,… No. No. Nhưng nó ngộ. Ở một mình nó quen rồi. Xài chung toa let, xài chung sink la-va-bô nó sợ lắm. Rồi ly tách, muỗng nĩa,… nó không thoải mái. Chưa kể giờ có vụ xơ gan, covid,… tùm lum chưa kể vụ bịnh đó, chỉ kể khoản xài chung là mình thấy ớn rồi.

Họ đi vô, rồi họ mới đi ra, mình đi vô mình cũng ngán, mùi người nó cũng phảng phất ở trỏng. Mình cũng vậy, trong đó mình mới đi ra chắc họ đi vô họ cũng gớm. Người mà. Mình không biết nó vô làm gì nhưng đại khái nó vô xong nó đi ra, xong mình vô sau là mình thừa kế di sản bầu không khí đó.

Cho nên, nó nản dữ lắm.

Có thấy cái đó mới thấy: Sẽ có một ngày thế giới này nó toàn là đồ nãy giờ tôi nói không. Nó toàn là cái đó không à. Do mình sống trong ảo giác, sống thơ ngây chết dại khờ nên mình không nghĩ được rằng Phật nói đúng.

Phật nói: “Làm gì thì làm, buông hết đi con. Ta biết cả khu rừng mà điều ta dạy cho con chỉ là dạy con đường ra rừng thôi.”

Mà mình cũng vậy. Mình có sở hữu bao nhiêu. Có thích, có ghét bao nhiêu, có trưởng thành bao nhiêu, có thích có ghét bao nhiêu, có học hành bao nhiêu, mình có có được bao nhiêu thứ thì chung cuộc vẫn là cái buông.

Bởi vì, thế giới có 2 niềm vui : Niềm vui có và niềm vui không. Đau khổ cũng vậy. Có bao nhiêu thứ đau khổ nó chỉ gom lại có 2 : Đau khổ vì có gì đó, và đau khổ vì không có cái gì đó. Hạnh phúc cũng có 2 thứ: Hạnh phúc vì có cái gì đó và hạnh phúc vì không có cái gì đó.

Khi không biết Phật pháp, mình chỉ biết: Hạnh phúc vì có cái gì đó, có cái này, có cái kia.

Học Phật pháp rồi mình biết có hạnh phúc thứ 2 : Hạnh phúc vì không có gì đó.

Tất cả những gì mình có đều, tôi thề độc, là nó đều có hệ lụy gắn liền : Đó là tình yêu, là tài sản, là danh dự, là mặt mũi, là sĩ diện, là quyền lực, là sức khỏe, là nhan sắc, …. Tất thảy những thứ đó, hễ có là nó có hệ lụy. Nó như đồng tiền nó có 2 mặt. Cái gì cũng 2 mặt. Cái ngán nhất là: MÌNH PHẢI TRẢ GIÁ CHO MẶT CÒN LẠI. Cái đó là cái ngán ngẩm nhất.

Tôi không hề có ý làm cho bà con bữa nay nghe bài giảng về chán đời buông xuôi. Không phải!

Cứ tiếp tục sống lạc quan, tích cực, năng động, nhưng luôn trong một nhận thức thường trực rằng: Ta đang cõng cục nợ đi giữa đời. Có điều, Ta cõng như thế nào để mình được an lạc, người khác an lạc, đời này an lạc, đời sau an lạc, và nếu có cứu cánh giải thoát thì với kiểu sống này mình có thể dự phần.

Còn mình sống thế nào đó mà bản thân không được an lạc, người chung quanh không được an lạc, và giả dụ như có kiếp sau, tiếp tục không an lạc, và, nếu như có một cứu cánh cao nhất để nghĩ về, để hướng tới thì mình cũng không đủ tiêu chuẩn, không đủ điều kiện để vươn tới, để với tới thì tệ quá.

Cho nên, chung cục lại thì Phật dạy: SỐNG LÀ CHỌN LỰA. Đời sống là chọn lựa. Ta có cả một rừng mà ta bỏ hết, ta chỉ dạy cho các con có một nắm tay thì các con cũng phải ghi nhớ như vậy. Trong nắm tay ta để lại đó, coi cái gì hợp với mình nhất, theo đuổi nó. Đó là trong nắm tay của Ngài để lại đó nha.

Còn những gì mình có, có thể giả định nó như là cả một khu rừng đi : Nhan sắc, sức khỏe, tình yêu, tiếng tăm, quyền lực, quan hệ xã hội,… giả định nó là khu rừng, thì mình cũng chỉ nên ưu tiên những gì thực sự cần thiết. Nên phân biệt cái thích & cái cần.

Tôi nói hoài cái này. Phân biệt cái mình thích & cái mình cần. Đa phần cái mình thích nhiều hơn cái mình cần, và, từ đó, cái làm mình khổ cũng đa phần là cái mình thích, chứ không phải cái mình cần.

Tu hành là phân biệt cái mình thích với cái mình cần. Đó là đã đi được hết 2/3 con đường rồi.

Ok. Mừng quá. Nghỉ rồi. Chúc các vị một ngày vui. Đừng ham nghe nhiều. Nghe đủ, nghe cần. Cần và Đủ thôi. Chứ còn nhiều nó thừa. Chúc các vị một ngày vui và hẹn lại tuần sau./.


Mục lục các bài giảng

(Hết)
Reply
Tiểu Bộ - Khuddhaka Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Kinh Phật Tự Thuyết (Cảm Hứng Ngữ)
Udàna
Chương 1-3

--ooOoo--

Chương Một
Phẩm Bồ Ðề


Kinh Bahiya (X) (Ud 6)
Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Bàhiya Daruciriya trú ở Suppàraka, trên bờ biển, được cung kính, tôn trọng đảnh lễ, cúng dường và nhận được y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Rồi Bàhiya Dàcuciriya khởi lên tư tưởng như sau: "Với ai là bậc A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán, ta là một trong những vị ấy ". Rồi một Thiên nhân, trước là bà con huyết thống với Bàhiya Dàruciriya, vì lòng từ mẫn, vì muốn lợi ích, với tâm của mình biết tâm tư của Bàhiya Dàruciriya, đi đến Bàhiya Dàruciriya và nói như sau:

- Này Bàhiya. Ông không phải là A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán. Ông không có đạo lộ ấy, với đạo lộ này Ông có thể trở thành A-la-hán hay đang đi trên con đường đưa đến A-la-hán.

- Nhưng ai là những vị, trong thế giới này, với thế giới chư Thiên là những vị A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán?

- Này Bàhiya, có thành phố tên là Sàvatthi trên những quốc lộ phương Bắc. Tại đấy có Thế Tôn hiện đang trú, bậc A-la-hán. Chánh Ðẳng Giác. Vị ấy là bậc A-la-hán và thuyết pháp đưa đến quả A-la-hán.

Rồi Bàhiya Dàruciriya, được Thiên nhân ấy thúc dục, đi ra khỏi Sappàraka, trong suốt đường trường, chỉ nghỉ một đêm, đi đến chỗ Thế Tôn đang trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn Anàthapindika. Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo đang đi kinh hành giữa trời. Bàhiya Dàruciritya đi đến các Tỳ-kheo ấy, sau khi đến nói như sau:

- Thưa các Tôn giả, nay Thế Tôn, bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác ở đâu? Chúng tôi muốn được yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.

- Này Bàhiya, Thế Tôn đã đi vào giữa các nhà để khất thực.

Rồi Bàhiya Dàraciriva mau chóng ra khỏi Jetavana, đi vào Sàvatthi, và thấy Thế Tôn đang đi khất thực, khả ái, khởi lên tịnh tin, các căn an tịnh, tâm ý an tịnh, đạt được an chỉ, chế ngự tối thượng, giống như một con voi được điều phục, phòng hộ với các căn an tịnh. Thấy vậy, Bàhiya Dàruciriya liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, cúi đầu xuống chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con, Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.

Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Bàhiya Dàruciriya:

- Không phải thời, này Bàhiya, Ta đang khất thực.

Lần thứ hai Bàhiya Dàruciriya Bạch Thế Tôn:

- Thật khó biết, bạch Thế Tôn, là chướng ngại cho mạng sống của Thế Tôn, hay chướng ngại cho mạng sống của con. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con. Thiện Thệ hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu dài.

Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Màhiya Dàruciriya:
- Không phải thời, này Bàhiya, Ta đang khất thực.

Lần thứ ba, Bàhiya Dàruciriya bạch Thế Tôn:
- Thật khó biết... hạnh phúc lâu dài.

- Vậy này Bàhiya, Ông cần phải học tập như sau: "Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là các thức tri ". Như vậy, này Bàhiya, Ông cần phải học tập. Vì rằng, này Bàhiya, nếu với Ông, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri. Do vậy, này Bàhiva, ông không là chỗ ấy. Vì rằng, này Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.

Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này của Thế Tôn, tâm của Bàhiya Dàruciriya được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ. Thế Tôn sau khi thuyết cho Bàhiya Dàruciriya lời giáo giới tóm tắt này, liền ra đi. Thế Tôn ra đi không bao lâu, một con bò con húc chết Bàhiya Dàruciriya. Thế Tôn sau khi khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi ra khỏi thành với nhiều Tỷ-kheo, thấy Bàhiya Dàruciriya bị chết, thấy vậy liền nói với các Tỳ-kheo:

- Này các Tỳ-kheo, hãy lấy thân xác Bàhiya Dàruciriya, đặt lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, rồi xây tháp lên trên. Này các Tỷ-kheo, một vị đồng Phạm hạnh với các Thầy đã qua đời!

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, sau khi đặt xác thân của Bàhiya Dàruciriya lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, xây dựng cái tháp cho vị ấy, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn, thân xác của Bàhiya Dàruciriya đã được hỏa thiêu, tháp đã được xây dựng xong cho vị ấy. Sanh thứ cho vị ấy là gì? Ðời sau vị ấy là gì?

- Này các Tỷ-kheo, Hiền trí là Bàhiya Dàruciriya đã hành trì tùy pháp, đúng pháp và không có phiền nhiễu Ta với những tranh luận về pháp. Này các Tỷ-kheo, Bàhiya Dàruciriya đã nhập Niết Bàn.
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này:
Quote:10. Chỗ nào nước và đất,
Lửa, gió không chấp trước,
Tại đây sao không chói,
Mặt trời không chiếu sáng,
Tại đây trăng không chiếu,
Tại đây u ám không,
Khi ẩn sĩ Phạm chí,
Tự mình với trí tuệ,
Thể nhập vào Chánh pháp,
Vị ấy được giải thoát
Khỏi sắc và vô sắc,
Khỏi an lạc, đau khổ.
Lời cảm hứng này được Thế Tôn thuyết giảng và tôi được nghe như vậy. 

Sư Toại Khanh Giảng Kinh Bahiya (1-2)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...h%20Bahiya

Lớp Kinh tạng trích diễm, thứ hai, 10/01/2022

Kinh Bahiya

Quote:Kalama tri ân bạn vungoc2804 & ho thi vui ghi chép.

11/01/2022 - 04:36 - vuihtv - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Hôm nay chúng ta học bài kinh Bahiya. Đây cũng slà một trong những bài kinh nổi tiếng hàng đầu của Phật giáo. Nổi tiếng là sao?

Nổi tiếng = được giới Tây phương, Âu Mỹ người ta đặc biệt chú ý và tất cả các học giả Tây Phương khi nhắc đến Phật giáo nhắc đến kinh Kalama, Simsapa, Bahiya,….

Vì sao vậy? Bởi vì tuy ngắn nhưng những bài kinh có nội dung mang tính định hướng, cốt lõi trong tinh thần giáo nghĩa Phật pháp.

Đương nhiên, bài kinh này theo trong kinh thì được đức Phật thuyết giảng cho một đối tượng rất đặc biệt, ngài Bahiya, một vị mà Ngài tuyên dương “đệ nhất tốc chứng”. Có nghĩa là trong các đệ tử đức Phật vị này có khả năng chứng đạo nhanh nhất. Nhanh là sao? Trong thời gian biết được Phật pháp, từ lúc không biết đến lúc biết tính bằng phút, từ lúc biết đến lúc chứng tính bằng phút, thậm chí tính bằng giây, chứ không có tính bằng giờ. 3 phút, 5 phút, 5 giây, 3 giây, … nhanh như vậy đó. Chứng đạo với tất cả những thành tựu mà vị Thinh văn có thể thành tựu, trong thời gian tính bằng phút, 3 phút, 5 phút.

Trước khi đi vào bài kinh, chúng ta đi vào phần Duyên sự trước.

Mỗi vị Phật Chánh Đẳng Chánh Giác có vô lượng đệ tử chứng thánh, với sự hướng dẫn của Ngài, trong đó có vài chục vị được xem là có biệt hạnh. Trong kinh nói giống vị vua dưới quyền cai trị của ổng có vô số dân chúng, thiên hạ, bá tánh nhưng triều đình ổng có các vị đại thần chuyên trách các bộ phận, ban ngành khác nhau như là: Thượng thư bộ lễ, Thượng thư bộ lại, Thượng thư lo chuyện kinh tế, tài chánh, quân sự, ngoại giao,…. Ở đây cũng vậy. Các đức Thế Tôn 3 đời đều có những vị đại đệ tử có biệt hạnh, ví dụ: Đệ nhất đầu đà, đệ nhất đa văn, đệ nhất tinh tấn, đệ nhất thiên nhãn, đệ nhất túc mạng minh, đệ nhất phấn tảo,… thì đức Thế Tôn cũng vậy.

Ngài cũng là một vị Chánh Đẳng Giác và trong số các vị đại đệ tử có biệt hạnh đó, một vị “đệ nhất tốc chứng” có nghĩa là một vị biết đạo, chứng đạo ngắn, nhanh, có thể tính bằng phút, tính bằng giây, không trải qua giai đoạn nghe pháp, nghiền ngẫm, suy tư, cạo đầu đắp y, mang bát, chuyên tu khổ hạnh rừng sâu núi thẳm,… không, không, vị này không cần cái đó. Chỉ cần tích tắc thôi, từ lúc không biết đạo cho đến lúc biết chỉ tính bằng phút thôi.

Duyên sự nó như thế này.

Nói hơi xa chút, cách đây 100.000 đại kiếp có một đức Phật xuất hiện trong trái đất. Trái đất hủy và cứ như vậy rồi thành, trụ, hoại, không, đến 100.000 lần thì đến trái đất của mình.

Trong trái đất đó có một đức Phật hồng danh là Padumuttara, Ngài cũng có một vị đại đệ tử có thắng hạnh là đệ nhất tốc chứng, có anh thiện nam vào chùa, ảnh thấy đức Phật tuyên dương vị tỳ kheo đó là đệ tốc chứng, ảnh thích quá, ảnh lễ Phật, cúng dường, theo đạo, và ảnh nguyện về sau ảnh cũng trở thành một vị La Hán có biệt hạnh đó, có thắng hạnh đó và đã được đức Phật Ngài thọ ký cho.

100.000 đại kiếp trôi qua như là một giấc mộng. Đến đời Phật Ca Diếp, tức là trước đức Phật Thích Ca Mâu Ni mình, đức Phật Ca Diếp ra đời hoằng pháp độ sinh, Niết Bàn, và giáo pháp của Ngài cũng tồn tại một thời gian, sau đó mất. Mất đây có nghĩa là không được người ta biết tới nữa. Trong lúc giáo pháp đang suy tàn, có nhóm 7 vị tỳ-kheo thấy chạnh lòng trước cảnh Phật pháp không được biết đến, không được học tập, hành trì nữa. Các vị nghĩ, bây giờ, cơ hội được gặp giáo pháp, được xuất gia hiếm lắm, mà bây giờ mình gặp Đạo trong hoàn cảnh này bây giờ mình cứ chạy theo đám đông, chạy theo đại chúng thì nó chỉ là Phật giáo theo hình thức, Phật giáo không có nội dung, buồn lắm. Thôi, anh em mình cùng chí hướng, rủ nhau vô chỗ hoang sơn dã lãnh nào đó tập trung tu tập rốt ráo, được ăn cả, ngã về không.

7 vị tìm ra mỏm đá cheo leo, làm thang trèo ra đó, anh em lên được đó rồi thì xô đổ cái thang đó đi. Có nghĩa là, lên được mà không xuống được, sống chết gì trên mỏm đá này thôi. 7 vị tỷ kheo như vậy, ngày đầu tiên, vị lớn nhất chứng La Hán Lục thông, mới đi bát về nuôi 6 vị kia, nhưng 6 vị kia từ chối. “Đã lên đây một là đắc đạo hai là chết, làm sao có vụ ăn được, ăn thì đâu chịu chết. Một là đắc đạo, hai là chết, tại đây, nên các vị từ chối, nhịn 1 bữa. Do duyên nó khiến vị A La Hán tuổi thọ tới đó đủ rồi. Cho nên, sau khi anh em từ chối, Ngài từ giã, bay ra khỏi mỏm đá, tìm chỗ thích hợp viên tịch.

Còn lại 6 anh em, đến ngày tiếp theo, 1 vị nữa chứng Tam Quả cũng có thần thông đi bát đem về. Nói “các vị ráng ăn đi, chứ còn kiểu này là chết đó”. Các vị nói “không. Tâm nguyện chúng tôi đến bây giờ vẫn không thối chuyển, hoặc chết, hoặc đắc đạo, chứ không có ăn, không có sống lưng chừng.” Thế là vị Tam Quả biết rõ quyết tâm của các vị này, cũng không ép, và vị này cũng ra đi. Vì mỏm đá có chút xíu mà chen chúc nhau, ở thì không giúp được gì mấy ổng, chỉ góp phần chen lấn thôi, ok. Rút lui. Còn 5 vị. 5 vị ở lại, ráng lắm không đắc gì hết, cuối cùng, vừa khát, vừa đói, vừa lạnh, kiệt sức chết.

Đương nhiên, chúng ta biết rồi. Nói theo cách nghĩ của Phật tử Việt Nam “Chắc tu hành kiểu đó về trời hết”. Nhưng chưa chắc, cái đó không chắc. Bởi vì, chuyện chúng ta nỗ lực ghê gớm là trước mắt, nhưng tiền nghiệp quá khứ nó tới một núi. Làm sao tu hành 1 kiếp sống có thể xô đổ 1 núi tiền nghiệp được. Nên trong kinh chỉ nói là sau đó 5 vị đi theo nghiệp của mình. Vị về cõi này vị về cõi kia.

Đến đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Chúng ta nhớ. 7 vị tỳ kheo đó, 1 vị chứng La Hán Niết Bàn rồi, miễn kể. Vị thứ hai sanh về cõi Ngũ tịnh cư, tức là cõi dành cho các vị A Na Hàm, vị đó một hôm chợt nhớ kiếp xưa, xét, không biết mấy người bạn cũ, anh em sống chết ở mỏm đá đó bây giờ ra sao. Ngài xét thấy, mỗi vị bây giờ có định phận hết. Có vị còn phàm, đang đi tìm đạo, có vị đã chứng La Hán rồi,…. Riêng có một vị đang rất cần sự giúp đỡ của mình, đó là ai? Giờ mình chấm chỗ đó. Mình qua chỗ khác.

Trong 5 vị tỳ kheo kiếp xưa, bây giờ, có một vị sanh ra tại một xứ tên là xứ Bahiya, một địa phương xa xôi, vì nó xa quá nên dân trung tâm kêu xứ bahiya, xứ phương ngoại, nó gần như biên địa /pantapadesa/ vậy đó, xa quá, dân trung thổ nó kêu là bahiya. Ngài sanh ở đó và cũng được đặt tên Bahiya. Rồi ngài mới cùng anh em tổ chức chuyến đi buôn trên biển, chẳng may thuyền bị bể, ngài tấp vô một bờ biển tên là Supparaka. Bờ biển này cách Savatthi chỗ đức Phật 2000 do tuần. Mình tính ẩu đi, thì do tuần, có chỗ nói 11km, có chỗ tính 9 km, thôi giờ mình lấy 9 cho chắc ăn. Các vị lấy 9 *2000 nó bao nhiêu? (~ 18.000km) Tôi muốn tính mà tôi muốn nổi da gà. Coi bộ “hơi bị nhiều”. Ngài tấp vô trong đó áo quần banh chành tả tơi hết, ngài mới lấy đỡ ba thứ vỏ cây, xơ dừa quấn tạm. Mà dân xứ đó là xứ biên địa mà, nó mê tín ghê lắm.

Giống như miền quê của ngài Ajahn Chah, thời này nè, nó cũng đâu đến nỗi xa lắm, vậy đó mà lúc ngài Ajahn Chah đi dạy đạo cho Âu Mỹ, cho dân Băng-cốc, cho dân I-sảm tùm lum nổi tiếng khắp Thái Lan. Mà ngài về tới quê của ngài, ông ơi, về tới nơi, ngài thấy nó mê tín cực kỳ, dạy không nổi mà. Ngài Ajahn Chah, ngài đi dạy cả thế giới đó, mà về bản quán, quê xưa là bó tay.

Thì dân đây vùng sâu, vùng xa nó mê tín lắm. Nó thấy ông nội này ăn mặc quái đản quả, ông này chắc thánh nhân phương nào tới đây. Thế là nó xì xụp bái lạy, coi như cung đốn, cúng dường, ổng thấy được quá. Mình do tai nạn tấp vô đây mà coi bộ ăn mặc quái gở này được à, thế là, ổng không ăn mặc bình thường như người ta, ổng tiếp tục lấy xơ dừa vỏ mướp che thôi. Do đó ổng có ngoại hiệu “Daruciriya Bahiya = Bahiya người mặc áo bằng vỏ cây.

Cũng giống Đông Tà, tên thật là Hoàng Cố, nhưng mà ổng rất là giỏi nho, y, lý, số, phong thủy, y thuật, cho nên mới kêu Hoàng Dược Sư. Đây cũng vậy đó.

Ổng yên tâm, êm quá rồi, giờ cuộc đời của mình chung thân suốt kiếp sống ở đây làm thánh nhân trá hình là tuyệt vời. Lúc đó, ông Phạm thiên ở trên, mới ra coi bạn cũ 5 mạng bây giờ ở đâu hết rồi. Ổng ra ổng thấy ông này đang “múa gậy vườn hoang”, đang một cõi đi về ớ Supparaka. Ổng thấy không được, đà này không xong, hồi xưa tu hành quá cỡ thợ mộc mà bây giờ sa vào đường tà kiểu này là tiêu, coi như đốn củi ba năm đốt một giờ. Ổng mới xuất hiện.

Cho nên, trong chánh kinh chỉ nói “có một vị trời, devata, dịch sát Pali là, một vị trời cùng huyết thống. Nhưng trong Chú giải nói, không, không có huyết thống gì hết, không có quan hệ máu mủ gì ở đây hết mà “chí thiết, chí thân” Devata không phải dục thiên, Dạ Ma, Đâu Suất,… đâu mà là một vị Phạm thiên cõi Tịnh cư. Vị đó xuất hiện mới nói rằng : “Ông không phải là Thánh, đừng hiểu lầm, tự nhận mình là thánh. Bậy. Thật ra, trên đời có thánh thiệt và người đó biết cách dạy người ta làm La Hán nữa. Tôi khuyên ông tới tìm vị đó đi. Vị đó ở kinh thành Savatthi. Cứ đi hỏi dọc đường người ta chỉ cho”. Giống như ở Mỹ mà hỏi Washington ở đâu thì kiểu gì cũng có người chỉ thôi. Ở Úc mà hỏi Sydney, Brisbane thì dầu xa xa người ta cũng chỉ cho mình đi phi trường nào, đại khái như vậy.

Ổng vừa đi vừa hỏi. Các vị tưởng tượng, 2000 do tuần có nghĩa là 9km * 2000 xa lắm, mà ổng đi trong 1 đêm thôi. Có bản dịch nói là ổng đi trong một đêm, nhưng trong bản Pali saparati có nghĩa là suốt đêm, có chỗ dịch là một đêm, có chỗ nói là đi suốt đêm. Hai cái khác nhau. Trong chú giải chọn là đi suốt đêm. Có nghĩa là ổng vừa đi vừa nghỉ vừa đi vừa nghỉ.

Trong Chú giải nói thêm với Phật lực của Thế Tôn, cũng với sự hỗ trợ của chư thiên đặc biệt vị Phạm thiên kia, giúp cho ổng đi nhanh hơn, và ổng không mệt, mặc dù ổng vừa đi vừa nghỉ, có nghĩa là đêm, ngày không cần biết, miễn sao ổng đi quảng đường xa như vậy và về đến Savatthi. Ông rã rời. Đi không nghỉ. Vì sao vậy?

Vì sao đi không nghỉ? 
  1. Thứ nhứt, trong kinh nói, do phước riêng của ổng, ổng đã tu 100.000 đại kiếp rồi, kiếp này ổng phải chứng La Hán không thể chết được. 
  2. Và do cái linh tính, linh giác của ổng, ổng linh cảm sống không lâu được, ổng có cảm giác ổng không sống lâu cho nên bằng mọi giá, ổng phải đốt thời gian để ổng đi.
Phần còn lại bà con biết rồi. Ổng vào chùa Kỳ viên, hỏi chư tăng, chư tăng nói Phật đi bát, ổng mới tiếp tục hỏi mọi người, tìm tìm coi Ngài đang đi bát ở đâu, và ổng gặp Ngài đang đi bát dọc đường. Buổi sáng hôm đó là Ngài đã biết rồi. Mờ sáng, đức Thế Tôn, buổi rạng sáng là Ngài đã biết bữa nay Ngài sẽ gặp một đại đệ tử đã hướng nghĩ về Ngài suốt 100.000 đại kiếp. 100.000 đại kiếp trước vị đó đã được thọ ký là sẽ là vị đại đệ tử của đức Phật Gotama, Ngài biết hôm nay ta sẽ gặp vị đại đệ tử, và vị đại đệ tử đó chỉ có thể hạnh ngộ với ta, rồi vĩnh viễn chia tay Ta trong vòng vài phút. Ngài biết. Cho nên, khi Ngài gặp ổng.

Trong kinh nói, cái này vừa chú giải, vừa chánh tạng nha, Chánh tạng thì không nói rõ như chú giải. Lúc Thế Tôn thấy ông vừa đi quãng đường quá xa, ông đang quá mệt, mệt lắm. Thân đang mệt, tâm đang quá bồng bột. Ổng gặp Ngài ổng mừng lắm. Trong kinh nói lúc đó đức Phật cố ý cho thấy hảo tướng uy nghi của Ngài, hào quang của Ngài, hảo tướng của Ngài. Thân thì rất là mệt mà tâm thì quá bồng bột. Ổng nhìn Ngài phải nói là ổng chết điếng á, ổng mừng, ổng vui, chết điếng. Khi ổng nói “Bạch Thế Tôn, xin Ngài giảng đạo cho con nghe, nhờ vậy con sẽ được nhiều lợi lạc”. Ngài xét thấy ông này ngay bây giờ, ổng chưa sẵn sàng, phải một tí nữa, tích tắc nữa thì mọi thứ mới lắng xuống, thì ổng mới nghe được. Cho nên, Ngài từ chối, để cho tâm ổng chùng xuống chút. Ngài nói “Ta đang đi bát, không phải thời thuyết pháp”.

Ở đây phải nói thêm. Mình dịch là dịch “Thế Tôn” chứ trong đó có chỗ kêu Bhagava, có chỗ kêu “Bhante” mình đừng ngạc nhiên. Mình bây giờ mình phải Phật tử mình mới biết chữ Thế Tôn. Thời xưa, Bhante / Bhagava chỉ chung cho người có đức hạnh, mình dùng để xưng hô. Nhớ nha. Bhagava là một chữ của ngôn ngữ thời đó, chứ nó không mang nghĩa chuyên môn như bây giờ, mình giờ phải là Phật tử thứ gộc mình mới biết dùng mấy chữ đó “Thế Tôn, Thiện Thệ,…” chứ thời xưa thì không, thời xưa chữ đó bình thường. Dĩ nhiên, biết đạo rồi thì mình biết nghĩa nó sâu hơn vậy thôi. Chứ cách xưng hô đó người ngoài họ biết. Như trong Kinh chỉ có một vài trường hợp, có nhiều vị Phạm thiên gặp Ngài không gọi Bhagava, không gọi Ngài là Thế Tôn, không gọi Ngài là Bhante mà gọi Ngài là “Mādisa”.

Chữ mādisa hay lắm. Mādisa gốc nghĩa xưa = giống như tôi = hiền hữu. Nghĩa đen nó là gì? Người tôi thương như bản thân tôi, bạn vàng, bạn vàng ơi, để tôi hỏi ngài cái này. Nó gần giống chữ bạn vàng Việt Nam vậy. Tôi lạc đề để các vị biết thêm tí ti nữa. Thêm tí kiến thức không chết ông, chết bà gì đâu.

Ổng nói: “Bây giờ, con không biết chắc Thế Tôn còn sống được bao lâu và con sống được bao lâu, đây là cái dịp mà con nghĩ là duy nhất, biết đâu, biết đâu là duy nhất, biết đâu là cuối cùng để con được nghe pháp Thế Tôn. Con không biết là Thế Tôn đi trước con hay là con đi trước Thế Tôn, xin Thế Tôn dạy cho con”. Đó là nguyên văn Pali.

“Con không biết là Thế Tôn đi trước con hay là con đi trước Thế Tôn”.

Đức Phật từ chối 2 lần, tới lần thứ ba, Ngài nói “Thôi được, ta sẽ nói vắn tắt thôi”.

Đây. Đây mới là nội dung ghê gớm, cốt lõi ghê gớm của kinh nè.

Giờ bà con mở ra nha. Tôi hi vọng bà con có dịp học hết một bộ 5 cuốn Kalama này. Mà đừng có sợ, thứ nhất là mang tiếng 5 cuốn mà có 2 cuốn rưỡi thôi. Bởi vì một nửa là tiếng Pali. Mà 2 cuốn rưỡi, thì coi như đâu có bao nhiêu quý vị, không bao nhiêu hết. Chưa kể, kiến thức Phật pháp đi theo đó nó sẽ được hàm dưỡng, nuôi dưỡng, nó sẽ tiến triển theo hướng mà Toán kêu là lũy tiến, có nghĩa là theo hướng toán nhân, nhân đôi, nhân ba. Có nghĩa là, mình biết được chuyện này thì chuyện sau mình biết nhanh hơn, dễ hơn. Cho nên, khi mình được nghe giảng một số bài kinh rồi, thì những bài kinh còn lại chỉ cần nhắc sơ là được rồi. Cho nên, 5 cuốn mà chỉ còn 2 cuốn rưỡi. Mà 2 cuốn rưỡi trong đó phần lớn là trùng. Trùng có nghĩa là, bài a, bài b giảng rồi thì bài c, bài f nghe dễ hơn. Đấy. Như vậy, mang tiếng 2 cuốn rưỡi nhưng học rất là mau. Mau lắm.

Bây giờ thì chúng ta đã có 2 cuốn rồi, và chúng tôi đang hoàn tất cuốn 3. Nói hứa hẹn thì giống như quảng cáo thì kỳ nhưng phải nói, cuốn 3 cuốn 4 nội dung còn khiếp nữa. Gồm những bài kinh nội dung càng ngắn dần, chúng tôi cố ý lựa những bài ngắn để cho bà con đừng có ngán, nhưng mà bao gồm tất cả những vấn đề một người Phật tử sơ cơ nói riêng và người tầm đạo nói chung bỏ túi chừng đó thì tôi nghĩ rằng, nếu cộng các bài giảng ngày thứ hai, thì tôi nghĩ rằng bà con không uổng phí kiếp người mà cũng không phải hối tiếc tại sao theo đạo mấy chục năm mà cái đầu giống trái dừa chỉ để đội nón thôi.

Rồi. Lúc bấy giờ đức Phật, Ngài dạy như thế này:

“Trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe, trong cái suy nghĩ chỉ là suy nghĩ thôi…”

Bây giờ mình diễn dịch ra nè.

Trong cái thấy chỉ là thấy, không có ai thấy hết. Nhớ nha.

Các vị biết cái hộp quẹt. Mình cứ kêu hộp quẹt, hộp quẹt của tôi, tôi mới mua hộp quẹt, nhưng các vị biết. Nói như Tô Đông Pha. Hồi đó tôi cứ tưởng Tô Đông Pha nói, tới hồi tôi mở kinh ra tôi thấy trong kinh mình có bài kệ y chang Tô Đông Pha, tôi e rằng ông Tô Đông Pha, mình giả định, ổng coi trong kinh Hán tạng, đời nhà Tống đã có Hán tạng rồi. Ổng thấy có bài kinh ổng thích quá, ổng mới dịch lại, ổng không biết tiếng Phạn, ổng chỉ sửa lại lời dịch thôi, thành thơ của ổng. Hai là ổng cao hứng ổng làm bài thơ mà diễn lại nội dung đó. Và bài kinh đó đã được chúng tôi đưa vào trong quyển Kalama 3.

Nó như thế này. Tôi nói hộp quẹt trước. Mình nói hộp quẹt, thật ra, lửa từ hộp quẹt, lửa vốn dĩ không nằm sẵn trong hộp quẹt, mà lửa chỉ có mặt khi nào có sự kết hợp hợp lý giữa bánh xe, viên đá lửa, một tí ga hoặc là một tí xăng. Thì ga/ xăng, đá lửa, bánh xư, chưa kể, cấu trúc hợp lý của hộp quẹt nữa. Có cấu trúc nữa, chứ còn hộp quẹt mà bánh xe gắn ngu quá thì nó cũng không có ra lửa được. Nó phải là một cấu trúc hợp lý. Tổng cộng lại, cấu trúc hợp lý giữa bánh xe, kết hợp trên một cấu trúc hợp lý của những món sau đây : lửa, hoặc là xăng, bánh xe, rồi nó mới ra tia lửa. Tia lửa tồn tại bao lâu là do mình. Và khi hết duyên thì tia lửa mất. Mình lấy hộp quẹt đút vào túi quần một cách an toàn, và có thể ngủ với hộp quẹt trong túi quần, túi áo. Lúc đó không có lửa, không có bị phỏng đâu mà sợ. Mà khi nào cần thì mình cho mấy thứ đó kết hợp với nhau một cách hợp lý thì mình bèn có lửa, chứ lửa vốn dĩ không có sẵn trong đó.

Bài kinh nãy tôi nói đó. Trong kinh nói.

Tiếng đàn không nằm trong cần đàn, trục đàn, dây đàn, thùng đàn, phím đàn. Nó cũng không nằm trên ngón tay người chơi đàn. Mà khi nào mấy cái này gặp nhau, với sự kết hợp hợp lý của mấy thứ này nó mới bèn ra tiếng đàn. Cũng vậy, cái mình gọi ông A, bà B là sự kết hợp tối thiểu của 3 thứ: Căn + Cảnh + Thức.

Sự hiện hữu của mỗi con người suy cho cùng chỉ là sự hiện hữu của 6 căn, 6 trần thôi. Tức là, mình nói ông A, bà B, hoa hậu, ăn cướp, du đãng, thầy chùa, linh mục, thủ tướng,… tùm lum hết. Nói cho nó sang chứ thật ra chỉ là sự kết hợp của 6 căn, 6 trần.

Có nghĩa là, đó là nói gọn. 6 căn là: (1) Mắt và cái mà mắt thấy, gồm hình ảnh, màu sắc. (2) Tai tức là gồm có lỗ tai và âm thanh, tiếng động. (3) Mũi gồm lỗ mũi, thần kinh khứu giác và các mùi. (4) Lưỡi là thần kinh vị giác và các vị. (5) Rồi thân, gồm xúc giác và những gì mình có thể sờ chạm, và (6) Ý, có nghĩa là ý thức, tư duy, tinh thần, tâm linh của mình, cộng với những đề tài suy tư của nó. Thì chỉ có 6 cái này, 6 căn, 6 trần làm nên ông A, bà B, con chó, con mèo, con vịt. Cho nên, sự hiện hữu của một con người chỉ là sự hiện hữu của 6 thứ này. Đó là cách nói cho người sơ cơ.

Còn nói chuyên môn hơn nữa, mỗi phút giây như vậy, chúng ta chỉ tồn tại với 1 trong 6 căn thôi. Trong A Tỳ Đàm nói, thí dụ, con mắt nó đang làm việc thì toàn bộ các giác quan còn lại lúc đó không có làm việc được. Mà vì nó quá nhanh, tụi nó tiếp nối nhau. Khi tâm nhãn thức có mặt, thì nhĩ/tỷ/thiệt/thân/ ý dẹp. Ngay lúc đó chỉ có tâm nhãn thức thôi. Và, với sắc pháp nền tảng, tại mình đang sanh ở cõi ngũ uẩn mình có thân và tâm, có hồn và xác, thì lúc đó, về tâm, chỉ có 1 tâm nhãn thức trên nền tảng sinh học để con mắt nó làm việc. Nó chỉ chụp hình thôi. Con mắt nó chụp hình chứ nó chưa biết cái đó là cái gì. Nó chụp xong nó mới đưa vô trong ý thức, ý thức “ồ, cái này là cái tô, cái chén; ồ, cái này là đàn ông đàn bà, da trắng, da đen. Thì ở trong nó làm việc. Nhưng con mắt chụp hình.

Cho nên, bài kinh này rất là sâu. Sâu ở chỗ nào?

1/ Xác định rằng: Mọi thứ ở đời tất cả không có gì là 1 mà chỉ là sự kết hợp, tổng hợp, sự gặp gỡ giữa các điều kiện. Đó là vô ngã. Ở đây không có một cái cá thể, một cái tôi nào hết. Mà đó là sự kết hợp các điều kiện nó mới làm nên cái là hiện tượng có mặt. Sự có mặt của mình chỉ là hiện tượng thôi, nó tạo nên sự hiện hữu cái gọi là con người, mắt, tai, mũi, lưỡi, cứ theo cách đó mà hiểu. Có nghĩa là.

Phải ghi cái này. Sự hiện hữu của mình chỉ là 
  1. sự hiện hữu của 6 căn.
  2. Đối tượng của 6 căn là 6 trần
  3. Đời sống của mình chỉ là hoạt động của 6 căn (thức)
Ngoài nó ra không có gì gọi là tôi hay của tôi.

Nhớ cái đó.

Nó hơi trừu tượng, thì ok, tui giảng hên xui. Bà con nghe được thì nghe, không nghe thì đi chết đi chứ tui đâu có giúp được.

Mình luân hồi là sao?

Do mình không biết chuyện đó. Mình không biết 6 căn 6 trần do duyên mà có cho nên mình mới đam mê trong tấm thân này. Dầu mình làm con chó đi nữa thì mình vẫn tham sống sợ chết, vẫn muốn ăn cái này, vẫn muốn ngửi cái kia, vẫn muốn nằm chỗ nọ. Làm con chó, con heo, con dòi, mình vẫn như vậy.

Khi mình giải thoát là mình biết được, cấu tạo của đời sống này chỉ là như vậy thôi. Không có gì để thích và không có gì để ghét. Tất cả chỉ là giả lập, giả tưởng thôi.

Do tiền nghiệp,khuynh hướng tâm lý, và môi trường sống mà mình thích cái này ghét cái kia. Có được cái mình thích mình gọi đó là hạnh phúc. Còn gặp cái mình ghét mình gọi đó là đau khổ. Chỉ vậy thôi.

Tu tứ niệm xứ là sống bằng chánh niệm để thấy 2 cái : What & How.

Biết mình đang đi đứng nằm ngồi, đang ăn uống, tắm, rửa, đánh răng, lau mặt,… = biết mình đang hoạt động thế nào/ how.

What = Biết cái gì đang tồn tại trong lúc đó. Biết rằng đây là khổ thọ, đây là lạc thọ, hỷ thọ, xả thọ. Biết đây là tâm tham, đây là tâm sân, đây là tâm si, biết đây là tâm thiện, biết cái này là chánh niệm, trí tuệ, biết cái này là thiền định, … đó là biết cái What. Biết cái gì.

Biết how và biết what thôi. Nếu đủ duyên thì không còn thích, không còn ghét. Có thích mới có ghét. Khi ta thích cái gì đó thì ta có cái ghét cái ngược lại.

Thích êm ấm thì ghét cái gì không êm ấm, nhớ cái đó. Hễ có thích thì có ghét. Khi mình ghét cái gì đó thì mình kín đáo thích cái ngược lại cái mình ghét. Luôn luôn là như vậy. Và có thích ghét thì mới tìm hướng giải quyết. Giải quyết sao ta? Đi tìm cái mình thích, trốn cái mình ghét. Cả hành trình làm người hay làm thú của mình từ lúc sinh ra hay chết đi nó chỉ là hành trình trốn khổ tìm vui, chạy theo cái thích và trốn chạy cái ghét. Chỉ vậy thôi. Và nó có 2 cách trốn chạy: Hoặc là làm ác hoặc là làm thiện. Đa phần là làm ác.

Mà toàn bộ hành trình đời sống mình nó chỉ là chuỗi thời gian, trốn khổ tìm vui. Chạy theo cái thích và trốn tránh cái ghét, chỉ vậy đó.

Khi mình biết mọi thứ là giả hợp, giả lập, do giả tưởng mà có thì tự mình buông.

Ngày trước mình còn phân biệt cái này là sướng khổ sạch dơ đẹp xấu. Rồi sẽ có ngày mình thấy mấy cái này do mình nghĩ ra. Tức là, trong một điều kiện đặc biệt nào đó mình sẽ thích ăn món đó mà không thích ăn món khác. Trong hóa thân nào đó mình thích ăn thịt sống máu tươi, trong hóa thân nào đó mình thích ăn xác động vật chết, hôi thúi. Trong một hóa thân nào đó, mình thích ăn côn trùng, sâu bọ, mình thích ăn rau trái củ quả. Nhưng trong hóa thân nào đó mình thích ăn đồ chiên xào nấu nướng. Trong hóa thân nào đó mình chống chọi cái lạnh cái nóng bằng da, lông. Nhưng trong hóa thân nào đó mình chống chọi cái nóng cái lạnh bằng áo quần, y phục, dù nón,…

Tùy kiếp, tùy hóa thân. Như con bò con trâu nó chỉ chống chọi cái nóng cái lạnh bằng da và lông nó thôi, nhưng khi làm con người thì mình chống chọi cái nóng cái lạnh bằng áo quần, y phục, nhà cửa, xe cộ, mái che, vách ngăn,… . Nghĩa là, điều kiện hạnh phúc con bò không giống điều kiện hạnh phúc của con người. Và điều kiện hạnh phúc một người Nhật không giống điều kiện hạnh phúc một người Việt. Người Việt giàu khác người Việt nghèo. Người Việt khỏe mạnh không giống người Việt bệnh hoạn. Có người suốt ngày xức dầu, quấn khăn, trùm mền, trốn trong chỗ khuất nắng thì họ thấy đó là sướng. Nhưng có người phải vạch ngực, ở trần, mặc áo ba lỗ, xà lỏn, quần cụt đi nghênh ngang ngoài nắng, ngoài gió, họ mới thấy họ hạnh phúc. Nó có trường hợp đó.

Có người cả đời chỉ muốn ngâm nước, lội trong nước. Có người thấy nước là nổi da gà, rùng mình, lạnh xương sống. Thấy chưa? Có nghĩa là, tùy môi trường, điều kiện sinh học và nhiều nhiều và nhiều thứ mà chúng ta thích cái gì, ghét cái gì không giống nhau. Và từ đó, hễ có được cái mình thích thì gọi là hạnh phúc. Gặp cái mình ghét mình bèn gọi nó là đau khổ. Và, để giải quyết cái ý muốn trốn khổ tìm vui ấy, chuyện gì ta cũng làm. Có kẻ làm ác, có kẻ làm lành. Mà cứ vậy, làm nên dòng chảy sanh tử luân hồi bất tận, miên viễn thiên thu. Một ngày nào đó, gặp Phật pháp, gặp minh sư thiện hữu thì mình mới biết chững lại, biết sống niệm & tuệ để nhận ra bản chất đời sống, ồ thì nó là như vậy đó.

Thì Ngài mới nói như vậy nè.

Khi ngươi biết 6 căn chỉ là 6 căn, ở đây không có cá thể, không có cái tôi, không có bất cứ cái gì là của tôi hết, thì nhờ vậy. Cái này nó hơi đặc biệt chỗ này. Chỗ này chúng tôi dịch, ai mà cứ dựa vào bản Pali thì thấy kỳ lắm, tại sao chúng tôi lời dịch Việt dài hơn bản Pali. Vì sao như vậy? Bởi vì chúng tôi dựa vào trong chú giải.

Trong bản Pali rất gọn : “Khi ngươi hiểu được như vậy, thì ngươi sẽ không bị bởi cái ấy”. Bị cái gì? Không nói. Đó là một cách nói gọn. “Khi ngươi không bị bởi cái ấy, ngươi sẽ không bị trong ấy”. Bị cái gì trong ấy không nói. “Khi ngươi không bị trong ấy.” Bị cái gì trong ấy, không nói. Đó là một cách nói gọn. Ngôn ngữ nào cũng vậy, cũng có cách nói gọn.

Chẳng hạn như hôm qua, có cách nói vậy mà trời đất ơi, bác sĩ, dược sĩ, nha bằng cấp đầy một túi, mà nó gọi phone nó cự tôi mà coi như nó muốn chửi cha tôi luôn, nó không có hiểu.
Tôi nói thế này “ Cầm lên để hạnh phúc. Đặt xuống để hết khổ”. Họ không hiểu. Họ nói, tu là mình phải hổng được cầm lên, cầm lên là đau khổ, nói vậy lỡ người ta cầm lên. Ủa, câu sau sao không đọc? Nó hiểu vậy đó.

Giống như trong danh ngôn có câu này: 

“Đừng đi trước tôi, tôi không muốn xem anh là thầy. Đừng đi sau lưng tôi, tôi không muốn làm thầy anh. Hãy đi ngang tôi, chúng ta là bạn.”

Câu này mà hiểu theo nghĩa đen, nghĩa tiểu học elementary là thấy bà nội luôn, sao hiểu.
Đừng đi trước tôi, tôi không làm học trò anh đâu. Đừng đi sau tôi, tôi không thích làm thầy anh. Hãy đi ngang tôi chúng ta là bạn. Câu này nghĩa nó rất là hay, sâu ghê lắm. Nghĩa là, anh đừng áp đặt, giáo điều, anh đừng lên mặt dạy đời tôi, tôi không nghe anh đâu, mà anh cũng đừng thờ phụng tôi, tôi không có muốn đâu. Nhưng mà chúng ta hài hòa, cởi mở, đồng cảm thì chúng ta sẽ có nhau. Hiểu vậy thì nó gọn, nó mềm biết bao nhiêu.

Cứ hiểu kiểu “Đừng đi trước tôi tôi không muốn làm học trò của anh. Đừng đi sau tôi tôi không muốn làm thầy của anh. Hãy đi ngang tôi thì chúng ta sẽ là bạn” Danh ngôn mà hiểu theo kiểu kia là thấy bà nội rồi. Đi chết đi.

Ở đây giải thích thế này.

Khi hiểu : Chỉ có 6 căn làm việc, chỉ 6 căn hiện hữu, ở đây không có cá thể nào hiện hữu, không có cá thể nào làm việc hết. Khi hiểu được như vậy cộng với duyên lành Ba La Mật. Thí dụ như, tôi nói thế này. Bà con ăn uống cẩn thận, thuốc men cẩn thận, thường xuyên tập thể dục, đầu óc lạc quan, sống chỗ thông thoáng, có gió có nắng thì sẽ khỏe mạnh. Nhưng mà phải có ngoặc đơn, là cơ địa bà con ra sao? Chứ còn bà mang trong mình căn bệnh di truyền từ nhiều đời, bà con hiện đang bị chứng nan y trong người, đang bị omicron trong người, mà bây giờ ăn uống cẩn thận, thể thao, phơi nắng,… nó đâu có tác dụng.

Khi người ta nói vậy là mình phải hiểu trong trường hợp nào. Chứ mình không có bắt người ta mở ngoặc đơn được. Nha. Ở đây cũng vậy, khi hiểu như vậy sẽ không bị trói buộc bởi tham ái & tà kiến, không chìm sâu trong ngã chấp đây là tôi, đây là của tôi, đây là bản ngã của tôi.

Bây giờ câu này mới ghê nè. Đó là dịch theo Chú giải, phần còn lại thì chúng tôi quay trở lại với Chánh tạng.

“Nhờ vậy, ngươi không tiếp tục hiện hữu ở nơi đâu và lúc nào nữa”. Đây là chúng tôi dịch gọn, chứ còn trong chú giải để thế này. “Nhờ vậy, ngươi sẽ không tiếp tục hiện hữu tại đây, ở đằng kia, giữa hai nơi. Đây chính là điểm kết thúc của tất cả đau khổ”

Idha = ở đây; Huraṁ = đằng kia; ubhayamantarena = ở giữa hai nơi.

Bản dịch chúng tôi làm gọn lại.

“Ngươi không tiếp tục hiện hữu ở nơi đâu và lúc nào nữa.” có nghĩa là sao? Có nghĩa là không bị vướng kẹt. idha = ở đây, huraṁ = ở đằng kia.

Ở đây là cái gì ? Ở đây có 3 định nghĩa. Hura, đây cũng có 3 nghĩa, và chữ ubhayamantarena cũng có 3 nghĩa. Nghĩa là 3 trường hợp đó.

a/ Trường hợp 1 : Ở đây = cõi dục, đằng kia = cõi vô sắc, ở giữa 2 nơi này = cõi sắc. Trong chú giải đề nghị như vậy.
b/ Trường hợp 2 : Ở đây = 6 nội xứ/ 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi,…) ; ở đằng kia = 6 trần (sắc, thinh, khí, vị, xúc, …) ;

Chỗ này bắt buộc chúng tôi phải ngưng lại. Phải ngưng ở đây. Toàn bộ thế giới này gồm có tinh tú, trăng sao, nhật nguyệt,… Rồi tới hành tinh này. Mà trăng sao gồm có luôn cả : Sao Hỏa, sao Kim, Thiên vương tinh, Mộc tinh, Venus, Saturn, Mars,… tùm lum. 9 ngôi sao trong Thái dương hệ, rồi cả hành tinh này gồm có đất đá, cây cỏ chim muông, súc vật, con người, bò bay máy cựa,… tất cả phi cầm tẩu thú, tất cả chỉ nằm gọn trong 6 căn và 6 trần. Là sao ?

Có nghĩa là ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi,… ra thì chỉ còn 6 trần. Tôi hỏi các vị, mặt trời có phải nằm trong 6 trần không ? Phải. Nó là đối tượng của mắt và đối tượng của ý. Mặt trời, mặt trăng đó. Mình không có rò được, mình không nếm nó được, mình không ngửi nó được, nhưng mình thấy nó được và mình suy nghĩ về nó được. Vậy nó nằm trong 6 trần.

Rồi, biển cả đại dương, kể cả những người đã chết, những vùng đất xa xôi mình chưa từng tới, thì nó vẫn là nằm trong 6 trần, nó thuộc về trần thứ 6, có nghĩa là đối tượng của ý thức, mình vẫn nghĩ về nó được.

Có nghĩa là, toàn bộ những gì mình thấy được, nghe được nó đều là trần hết. Thậm chí mình nghĩ về nó, nó cũng là trần. Trần cảnh, đối tượng.

Nhiều lần đi dạy tôi phải hỏi bà con. Thí dụ, bây giờ ngón tay của tôi nó là trần nào trong 6 trần ? Thì ai cũng nói đây là sắc trần hết, đối tượng của con mắt. Đúng không ? Tôi có thể ngửi ngón tay tôi được không ? Lúc bấy giờ nó là khí trần, đúng không ? Tôi có thể rờ nó được không ? Lúc bấy giờ nó là xúc trần. Đúng không ? và tôi có thể nhắm mắt lại tôi nghĩ về nó được không ? Được chứ. Như vậy chỉ ngón tay không là mình thấy nó tùm lum trần rồi.

Hoặc là bây giờ, chén cơm của mình, thức ăn trong chén cơm của mình, nó là mấy trần ? Nhiều trần lắm chứ. Mình nhìn nó thì nó là cảnh sắc, mình khua nó nghe lạo xạo nó là cảnh thinh. Mình nghe cái mùi nó nó là cảnh khí, mình ăn nó là cảnh vị, nó chạm vô môi, lưỡi là cảnh xúc. Mình nghĩ về nó, nó là cảnh pháp. Đúng chưa ? Chỉ là chén cơm mà đó là 6 trần rồi.

Chỉ vậy thôi. Nghĩa là mỗi lúc, mỗi khoảnh khắc, tích tắc mình sống với một trần nào đó thôi. Nhưng mà tại vì tụi nó tiếp nối nhau quá nhanh đi. Cái này phải học A Tỳ Đàm mới biết. Nó tiếp xúc nhau quá nhanh, mắt, tai, mũi, lưỡi,…

Thí dụ, tôi đang ngồi thiền, tôi đang theo dõi ra vô, ra vô, rồi rồi tâm tham, tâm sân, khó chịu nha, dễ chịu nha, đang ghi nhận tự nhiên « bùm » thì ý thức tôi nó đang làm việc, nhưng lúc đó âm thanh nó lớn quá nó cắt đứt ý thức làm việc, tôi đang theo dõi hơi thở, giờ theo dõi đó bị cắt khúc, đứt khúc. Nó nhường chỗ cho cái biết của lỗ tai. Lỗ tai nó nghe cái « bùm ». Lỗ tai nó vừa nghe cái « bùm » xong, quay trở lại ý thức. Ý thức là sao ta ? Là hết hồn hoặc là giận. Hết hồn là không biết cái gì. Còn giận « mình đang thiền mà tại sao họ ồn vậy ta ? Mình đang tu mà ? Bữa nay mình đang ăn chay mà tại sao nó chọc mình vậy ta ? Thí dụ vậy.

(còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng Kinh Bahiya (2-2)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...h%20Bahiya

11/01/2022 - 04:36 - vuihtv - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]


Thì rõ ràng như vậy, đang thiền hơi thở là ý thức đúng không ? Mà chưa đâu, nói chi li nữa. Lúc đó là có xúc giác làm việc, tại mình đang theo dõi mà, xúc giác làm việc, ý thức làm việc, hết 2 cái rồi. Mà giờ mình nghe cái « bùm » là lỗ tai nó làm việc. Mà lỗ tai chỉ ghi nhận âm thanh, nó chưa làm cho mình sợ. Lỗ tai nó chỉ ghi nhận âm thanh giống con mắt chỉ chụp hình thôi. Nhưng cái làm cho mình bực là tụi nó ở trong nó phân tích. Cái trung tâm NASA ở trong nó phân tích « cái này là tiếng động do sơ ý bất cẩn, hoặc do ác ý của người nào đây nè » trỏng giải thích vậy mình mới nổi sùng lên. Thì bắt đầu, khi nổi sùng mình mới đứng dậy. Đứng là xúc giác làm việc. Banh con mắt ra coi chuyện gì xảy ra. Như vậy, tổng thời gian nó chỉ mất có 1 phút thôi, mà mình thấy các căn nó làm việc.

Nghe cái « bùm », mà nếu lúc đó có cái mùi, bể lò ga hay cháy nhà là lúc đó lỗ mũi làm việc. Ghê như vậy đó.

Tức là, mắt, tai, mũi làm việc. Lúc đó chỉ có lưỡi không làm thôi. Chưa kể, hết hồn mà bập môi chảy máu là mình biết cả vị mặn nữa. Là 6 căn. Nhưng riêng ở đây, mình chỉ kể mấy cái rõ ràng thôi. Thấy chưa ?

Cho nên, khi hiểu rõ được, sự hiện hữu của mình chỉ là sự hiện hữu của 6 căn. Đời sống của mình, chỉ là hoạt động của 6 căn trước 6 trần. Hiểu được như vậy thì bỏ được tham ái & tà kiến.

Tham ái là không có thích nữa, mà không có thích thì không có bất mãn. Còn Tà kiến là sao ? Không có tiếp tục chấp rằng, đây là tôi, đây là của tôi, đây là bản ngã của tôi. Xong chưa ?

Và, người như vậy thì không bị kẹt vào ở đây, đằng kia, và ở giữa.

Ở đây = không bị kẹt vào cõi Dục, cõi Sắc & vô sắc. Đó là định nghĩa 1.

Định nghĩa 2 : Không kẹt ở đây = không kẹt trong 6 căn. Không kẹt ở đằng kia = 6 trần ; Không kẹt ở giữa = là Danh pháp gồm tâm & tâm sở của mình.

Định nghĩa 3 : Ở đây = không bị kẹt ở Nhân ; đằng kia = là Quả ; ở giữa = tục đế/ chế định, vì tục đế/ chế định nằm ngoài nhân quả. Nhớ nha. Bởi nó đâu có thật đâu mà nhân – quả.
Mà chỗ này tôi ghét tôi không giải thích, bởi vì. Chắc cũng phải ráng từ bi chút xíu.

Chế định là cái gì ? Tôi dạy lớp intensive tôi quen rồi, tôi sợ giải thích lắm. Nó rất là tiểu học. Mất thời gian quá. Nhưng mà phải nói. Chế định là cái gì ?

Chúng ta có 2 cách nhìn về thế giới : (1) Nhìn về bản chất & (2) Nhìn qua hiện tượng.

Nhìn về bản chất là sao ? Tức là nhìn vào nội dung bản thể rốt ráo của nó. Thân này gồm 4 đại : Đất, nước, lửa, gió thôi. Đó là bản chất. Núi non, kinh rạch, nhà cửa, xe cộ, chim muông, súc vật,… nếu nói về vật chất chỉ là bốn đại đất, nước, lửa, gió thôi. Đó là nhìn thế giới qua khía cạnh bản thể.

Nói về Tâm.

Tâm, xét trên hiện tượng là nỗi nhớ quê, niềm hiếu đạo, lòng kính Phật, lòng ái quốc,… Đó là tâm thức nhìn qua góc độ hiện tượng.

Nhìn qua góc độ bản thể : Tâm chỉ gồm có sự biết, có người dịch là Tánh biết, biết cảnh thôi. Mà nó cộng với các tâm sở (các thành tố tâm lý) tiêu cực = tâm bất thiện ; Cái biết đó + các thành tố tích cực, gồm có chánh niệm, trí tuệ, thiền định,… = tâm thiện.

Ở đây, chỉ có cái biết + các thành tố tiêu/ tích cực thôi. Đó là tâm thức, ý thức nhìn từ góc độ bản thể.

Thế giới này cũng vậy.

Thế giới này nhìn từ góc độ bản thể, thì gọi là nhìn về khía cạnh chân đế hay là Đệ Tứ Tất Đàn (4 cái tất đàn) . Chịu khó vô google tìm nha, tìm Bốn Tất đàn thì cái này thuộc về đệ tứ tất đàn.

Còn nhìn qua khía cạnh tục đế là, là sao ta ? Đệ nhị tất đàn = Thay vì đất nước lửa gió mình nhìn qua lớp vỏ bên ngoài, cái đó là hoa hồng, hoa cúc, hoa lan, hoa lài, hoa bưởi, đó là đàn bà đàn ông, đẹp xấu, cao thấp, dài ngắn, trắng đen, đó là người Mỹ, người Nhật, người Do Thái, người Lào, người Việt Nam, người Miến Điện,… = Nhìn qua khía cạnh hiện tượng/ Tục đế/ Chế định.

Tại sao Tục đế, chế định không vô thường ? Bởi vì, vô thường là vô thường trong đất, nước, lửa, gió chứ còn hình thức mình cứ nói vô thường, thật ra nó vô thường trong đất nước lửa gió thôi. Chứ còn « cái xe » nó vốn không có thật, nó hư các món phụ tùng chứ vốn dĩ trên đời không có chiếc xe. Nhớ nha. Khi tháo rời từng món làm gì có chiếc xe. Mình kêu là « xe tui nó hư, xe tui chạy tốt, xe tui bị nằm đường, xe tui đắt tiền,… » là lúc bấy giờ trong đầu mình đang hình thành ý niệm về cái gọi là một chiếc xe, chứ vốn dĩ, trong trời đất này không hề có một chiếc xe nào hết. Nó chỉ là sự cộng ghép, kết hợp một cách hợp lý giữa các món phụ tùng, linh kiện, thiết bị, chi tiết rời rạc nó làm nên cái gọi là chiếc xe.

Cho nên, thật ra đó là vấn đề giữa các bộ phận chứ còn chiếc xe nó không có thật.

Người được gọi hoa hậu, người mẫu, diễn viên, thầy chùa, linh mục, giáo hoàng, thủ tướng, ăn cướp, du đãng,… gì đi nữa thì nó chỉ là vỏ ngoài, tên gọi thôi. Chứ bản chất rốt ráo là chỉ là Bốn đại, chỉ là tâm, tâm sở, tức là tánh biết cộng với thành tố tâm lý tiêu/ tích cực. Chỉ vậy thôi.

Chứ vụ « giáo hoàng, thủ tướng, ăn cướp, du đãng,… » là không có. Không hề có. Nhưng Vô thường nó vô thường trên bản chất, chứ cái kia nó không có.

Sẵn tôi nói luôn. Thí dụ, mình nghe nói tổ chức nào đó bị tan rã rồi. Nó có tổ chức, ví dụ nhóm Phật tử từ thiện Kalama bây giờ nghe nói rã rồi. Tại trong đầu mình nghe, « nhóm Kalama nó rã ». Thật ra làm gì có nhóm nào gọi là nhóm kalama, trong trời đất không có cái đó. Chỉ là do một đám người nắm tay nhau làm việc tự nó gọi là nhóm kalama, asoka … gì đó. Nghe nói nhóm đó rã rồi, thật ra làm gì có nhóm mà rã, cái đám đó nó không làm việc với nhau nữa thì đúng, chứ còn cái nhóm đó do mình nghĩ ra, mình nghĩ ra có cái gọi là « nhóm ». Chứ thật ra không có nhóm, nó là một đám rời rạc, từng đứa nam, đứa nữ, đứa già, đứa trẻ, đứa đẹp, đứa xấu, đứa giàu, đứa nghèo,… rồi nó ghép nhau lại thành cái gọi là nhóm, nghe nói nhóm đó rã rồi mình tiếc. « Trời ơi, bữa hổm nghe nói có nhóm Asoka, nhóm Kalama, nhóm… giờ tự nhiên nó rã rồi ».

Mà thật ra, không có cái nào gọi là nhóm. Không có cái nào là một hết. mà nó là nhiều cá nhân, nhiều cá thể, làm nên cái gọi là nhóm. Giờ đám cá thể nó không thèm làm việc nhau nữa, đứa thì bất mãn, đứa thì đi theo nhóm khác, đứa thì chán nản, buông chuyện nửa chừng không có làm việc nữa…. Nhớ nha.

Cho nên, cái chế định nó được kể riêng. Nhân – Quả & Chế định. Hoặc dịch sát Pali là : Năng duyên, sở duyên.

Chỗ này tôi e ngại ghê lắm. Bởi vì bà con không học A Tỳ Đàm, đặc biệt là không học bộ Paṭṭhāna. Tôi ngồi tôi è cổ ra tôi giảng cái năng, cái sở mệt lắm. Thôi bây giờ tôi chỉ nói nôm na thôi. Đó là Nhân & Quả thôi.

Rồi bữa nào bà con có duyên, chắc gặp nhau, chắc chuyện đó không có đâu. Việt Nam, chắc tu phước nhiều hơn tu huệ, rồi thêm nữa, điều kiện không có, Covid, biết kiếp nào nó hết. Gặp nhau bên Miến Điện thì bà con tu thiền chứ đâu có học.

Sẵn nói luôn, người kềm bà con tu thiền, hướng dẫn bà con là chư tăng, thiền sư Miến Điện chứ không mắc mớ gì tới tui, chứ đừng có đi đồn tầm bậy tầm bạ như một số người hiểu lầm. Tôi không có dính dáng gì. Tôi chỉ đại diện quý vị, và cùng với một số người nữa. 

Tôi chỉ đại diện, đề xướng, và toàn bộ vận hành của nó, sổ sách, tiền bạc là do một nhóm, khi việc xong thì sẽ do chính các hành giả quyết định cái cơ cấu, vận hành, tuổi thọ, chất lượng của Kalama. Chứ chúng tôi thì không. Chúng tôi là người đang nói nè. Tôi đã có chỗ về rồi.

Có nghĩa là, nhiều lắm thì trong mấy khóa đầu, về góp mặt coi bà con ăn ở ra sao, sinh hoạt, khi mọi thứ đã đi vào quỹ đạo thì các vị biết, tôi già rồi, tôi cũng phải có cái chỗ y tế nó tốt. Tôi về Châu Âu, hoặc về Mỹ. Nếu tôi về Miến Điện thì tôi về Inle, chỗ đó mỗi ngày, thí dụ mình muốn tu thiền hay dịch sách dịch kinh gì đó thì không lo chuyện nấu nướng, giặt giũ, không cần. Mỗi ngày có người họ tới họ làm, có chỗ, mình chỉ bỏ ra một ít thôi, nó rẻ lắm, một ít thôi, họ làm hết cho mình. Không lẽ làm xong đem bà con đi đến đó thì bà con chịu không nổi, chỗ đó không đủ chỗ chứa, về Kalama chứ bản thân thôi thì tôi đã tính.

Ok. Bây giờ chỉ giảng sơ sơ cho bà con thấy cái đó.

Ở đây nó là cái gì, ở đằng kia là cái gì, ở giữa là cái gì. Nhớ nha.

Khi Ngài giảng xong như vậy, ngay lập tức, nghe cho kỹ, ngay lập tức ngài Bahiya chứng La Hán và 4 trí vô ngại. Bốn trí vô ngại là sao ? Nhìn đâu cũng thấy pháp (pháp vô ngại giải), ai nói chuyện gì nghe cũng hiểu (nghĩa vô ngại giải). Chỉ riêng về nghĩa vô ngại giải và pháp vô ngại giải mà nói chuyên môn là phải nói 8 tháng mới hết. Cho nên ở đây tôi nói sơ sơ thôi. Chứ còn, cái nghĩa vô ngại giải, pháp vô ngại giải nói 8 tháng mới hết. Nó rộng như vậy đó.

Biết nhân biết quả, biết pháp biết nghĩa = nhìn nhân biết quả, nhìn quả biết nhân. Là sao ? Nhìn cái này biết nó sẽ dẫn về cái gì, nhìn cái này biết nó được tạo ra, tác động bởi cái gì. Tức là nhìn nhân biết quả, nhìn quả biết nhân thì cái đó được gọi là nghĩa vô ngại giải, pháp vô ngại giải là chỗ đó.

(1) (2) Nghĩa vô ngại giải là nhìn quả biết nhân. Còn Pháp vô ngại giải là nhìn nhân biết quả. Mà đồng thời, nghĩa vô ngại giải cũng có nghĩa là ai nói gì mình nghe cũng hiểu. Và Pháp vô ngại giải là nhìn đâu cũng thấy pháp. Nói rộng nó tới 8 tháng lận.

(3) Từ vô ngại giải = Có khả năng diễn đạt điều mình hiểu. Từ ngữ của mình chuẩn, có nghĩa là lựa từ tốt nhất để diễn đạt chánh pháp. Khả năng này không có ở phàm phu. Đây chính là lý do vì đâu mình coi kinh mình thấy có nhiều bài kinh giống nhau y chang từng dấu phẩy. là vì sao ? Vì đức Thế Tôn, khi Ngài thuyết giảng Ngài lựa cách, ngôn từ, dụng ngữ, chữ dùng, Ngài xài rất là chuẩn, chuẩn đến mức đệ tử Ngài không thể lựa chữ nào hay hơn được. Đến mức như vậy đó, gọi là Từ vô ngại giải.

(4) Ứng đối vô ngại, có nhiều chỗ dịch là biện, sai, ứng đối là sao ? là chạm vô bật ra, không phải trải qua ngồi vuốt râu nhăn mày, nhíu mặt, cắn móng, vân vê tà áo,… No. No. Các ngài không có cái đó. Các ngài chạm vô là bật ra chạm vô là bật ra. Ứng đối, ứng khẩu, tôi muốn dịch chữ ứng khẩu vô ngại.

Bốn cái. Lập tức ngài Bahiya chứng La Hán đính kèm 4 cái này, không phải vị A La Hán nào cũng được bốn cái này đâu nha. Tu núi mòn sông cạn đó, mới được cái này.
Lúc đó ngài quỳ xuống xin Thế Tôn cho ngài xuất gia.

Đức Phật, trong bản Pali, cái này là cắt khúc rồi nè, không có nói phần sau, bởi vì bài kinh nó dài lắm, chúng tôi cắt tới đây thôi, nó có phần sau nữa.

Nên nhớ, chúng tôi chỉ cắt mà chúng tôi không có sửa nha. Sửa khác, cắt khác nha. Tức là có nghĩa là các vị nấu tất cả, nguyên cái bánh xèo chúng tôi thấy dọn ra nhiều quá thì chúng tôi, có lấy bớt, thí dụ, rau 100 cọng giá thì chúng tôi lấy bớt 40 cọng giá, chứ chúng tôi không có can thiệp sâu vào cọng giá, không có đem giá ngâm chua là không có, giá phải giá tươi, giá dòn, chúng tôi bớt lại, thấy 100 cọng thì chúng tôi bớt còn 60 cọng thôi chứ không có can thiệp. Không có chuyện can thiệp sâu vào món bánh xèo của Chánh tạng nha. Cái đó nhớ.

Đoạn sau nó không còn nội dung bài kinh nữa mà nó chỉ toàn là duyên sự râu ria thôi, thì phần duyên sự chúng tôi kết hợp với Chú giải như thế này.

Khi đó, ông mới quỳ xuống ông xin xuất gia. Phật có hỏi thế này.

Ngươi có đủ y bát ở đây không ? – Dạ, không.

Đức Phật Ngài dạy « Đi tìm y bát đi. Đi tìm về rồi tính ».

Nhưng trong kinh nói, đức Thế Tôn, vì lòng đại bi ngài nói như vậy, nhưng Ngài biết vị này chỉ còn 3 phút nữa là chết rồi. Nhưng Ngài không nói. Ngài chỉ nói « nếu vậy thì đi tìm đi ».

Trong kinh nói thế này, vị này đã tu 100.000 đại kiếp. Thời gian tu hành Ba La Mật, túc duyên giải thoát tương đương với ngài Anan, ngài Ca Diếp, nhưng vị này mắc vào 3 tiền nghiệp, trong đó có 2 tiền nghiệp liên hệ y áo, 1 tiền nghiệp liên hệ chết bất đắc kỳ tử.

Chết bất đắc kỳ tử là sao ? Kiếp xưa, đời quá khứ, có một nhóm công tử nhà giàu, vào ngày lễ hội, đi chơi với nhau. Nhìn thằng nào thằng nấy râu ria, ngán quá, nghĩ bây giờ có chút bóng hồng thì mới vui còn đám mình con trai không nản lắm, mới đi mướn một cô kỹ nữ đẹp, giàu có tiếng để vui chơi trong lễ hội. Chính vì cổ giàu, cổ nổi tiếng cho nên trên người cổ nữ trang đắt giá lắm. Mấy cậu công tử đâu phải nhà nghèo, nhưng gặp hột xoàn, cục nào cục nấy bự bằng trứng cút tự nhiên nó khởi lòng tham. Thấy chỗ vắng vắng, mấy ông dòm nhau. Thường người ta tham ít ít người ta chỉ quỵt thôi. Thuê xong không trả tiền, đó là quỵt. Còn này, cái tham này nhiều hơn, chẳng những muốn quỵt mà còn lấy luôn, trấn lột luôn của người ta. Bốn cậu hè nhau bóp cổ cô này để chia nhau số nữ trang trên người của cổ. Trước khi cổ chết, cổ thề, cổ trù rủa câu thế này : Nếu còn có luân hồi, còn kiếp sau, thì ta gặp bọn mi ở đâu, xử ở đó. Ta chết tức tưởi quá mà, chết không nhắm mắt. Ác quá.

Thuê mướn người ta, người ta cũng đi kiếm sống, mà thuê mướn người ta, nhiều lắm là quỵt người ta, mà bây giờ còn đi giết người ta. Nếu mà có luân hồi kiếp sau thì gặp tụi bây ở đâu ta xử đó. Đúng như vậy, đời đời kiếp kiếp, hễ có điều kiện cô này cô cứ chăm bẵm mấy anh này cổ giết.

Giống như mình coi kỹ, như là Võ Tắc Thiên, hay Từ Hy, khi họ có quyền họ chém nhiều người lạ lắm, không có thù oán gì tự nhiên gặp mặt thấy ghét chém à. Ngộ lắm.

Nó giống như Phật tử Việt Nam. Tôi đâu có chọc gì người ta đâu, mà có những người thù như thù giết cha vậy, chửi tui không còn non nước nào hết. Nó lạ lắm. Thù. Mà ngược lại quý vị cũng vậy, có nhiều người, người ta đâu biết mặt mình, tự nhiên cũng ghét nữa. Tôi không ghét lắm, tôi chỉ nghĩ thôi « Sao ai chết, sao em chưa chết » Tôi có một vài người vậy thôi chứ tôi không có trù.

Nó xui chỗ, hồi mấy cậu công tử giết cô này thì mấy cậu này là phàm, phàm trớt, là phàm nguyên con. Mà cô này cũng phàm luôn, đương nhiên. Tới lúc cổ đi trả thù, qua nhiều kiếp, cũng là phàm hại phàm, phàm giết phàm, nhưng xui cho cổ kiếp chót mấy vị này, khi cô gặp lại mấy vị lúc đó họ lại là mấy bậc thánh. Cổ vẫn tiếp tục thù xưa cổ ra tay. Cổ ra tay bằng cách nào ? Cổ ra tay bằng cách, kiếp chót, cổ làm con Dạ Xoa/ con quỷ cái, con chằn tinh, nó dùng thần thông, khiến cho bò húc chết. Thay vì hiện ra bóp cổ, hút máu,… nó tác động.

Ấn Độ bò nhiều lắm, ở đâu cũng có bò. Các vị về Ấn Độ, nằm ngủ, các vị tắt đèn tối thui, chưa mở đèn, quơ tay là đụng con bò rồi, Đường phố ta nói bò dày đặc như quân Nguyên. Quân Nguyên không nghĩa lý gì hết so với bò Ấn Độ.

Cho nên, cứ có điều kiện. Như thời đức Phật, Pukkusa là một vị vua, có bạn thân là vua Udena. Vua Udena biết đạo, thấy đạo hay quá mới gởi thư cho bạn của mình, giới thiệu về Phật pháp, bạn vừa nghe tới Phật pháp, ông vua Pukkusa bỏ ngôi, đi tìm Phật. Đi tìm Phật xong nghe Pháp, cũng xin Phật cho xuất gia, Phật kêu đi kiếm y bát đi bước ra ngoài bò nó húc. Con bò đó thật ra là con bò bình thường, nhưng do con dạ xoa kia nó khiến cho húc chết.

Ngài Bahiya y chang như vậy. Nó kiếm từng người nó xử, nó kiếm từng người, từng người, không bỏ sót ai hết. Nó sợ mất phần, nó công bằng. Nó xử từng người, từng người, nó gặp Bahiya, bữa nay đúng ngày trả nợ. Thì vị này mới vừa bước ra tìm y bát thì nó húc chết.

Do hồi xưa giết người ta giờ phải bị người ta giết lại. Nhưng mà nhớ. Nó có trường hợp, mình giết thằng Tèo, thằng Tèo nó oan trái, kiếp sau nó giết lại mình. Nhưng cũng có trường hợp, mình giết thằng Tèo, kiếp sau mình không có duyên gặp lại thằng Tèo trong kiếp đó, mà nhằm ngay lúc đó nghiệp đó nó trổ thì thằng Tí, con Lan, con Cúc, con Hương, con Yến,… nó giết mình, chứ không nhất thiết mình giết đứa nào đứa đó giết lại mình. Cái đó sai nha.

Bởi vì nếu nói vậy, tôi giết A La Hán, A La Hán Niết Bàn mất tiêu vậy coi như huề hả ? Không có đâu. Tôi giết A La Hán, mà A La Hán không còn nữa, thì ông Nhân, ông Kiên giết tui. Chứ đừng có nghĩ, tui lụi vị đó lòi ruột chết ngắc, Niết Bàn rồi vậy là xong, Ngài đâu có đi kiếm tui. Sai. Sai. Ngài không kiếm tui nhưng kẻ khác đi kiếm tui. Tại sao nó kiếm tui. Do cái nghiệp của tui. Mà gặp phiền não của tên đó, thì phiền não nó gặp ác quả của tui nó kết hợp nhau. Tức là một đứa có diêm, một đứa có thuốc nổ, 2 đứa gặp nhau, thế là bùm. Hốt xác. Đại khái như vậy.

Đó là nói về cái nhân mà tại sao ngài chết bất đắc kỳ tử.

Còn cái nhân vì đâu tu tả tơi như vậy mà tới kiếp chót không có y bát là sao ? Vì 2 nhân sau đây. Nghe cái này cũng đáng suy gẫm lắm.

Vào đời Phật Ca Diếp, hồi nãy tôi nói, ngài nằm trong nhóm tuẫn đạo, vì đạo mà anh em dắt díu nhau lên núi cao, bắc thang, xô thang, tu một đắc hai chết đó. Kiếp đó ngài tu hành giới hạnh tinh nghiêm, thiền định miên mật, nhưng ngài có quan điểm hơi cực đoan như thế này. Ngài nói : Mình tu là cầu giải thoát chứ không cầu vật chất, vạn pháp tùy duyên. Nói chung ngài nói hay lắm. Vạn pháp tùy duyên, mình tu là cầu Phật pháp chứ không cầu vật chất. Cho nên, từ đó suy ra, ai có nấy xài. Cái này trong bản Chú giải nói.

Ai có nấy xài. Mình không có lý do gì chia sẻ tài vật lợi lộc của mình có cho bạn tu hết, vì ổng có nghiệp của ổng, mỗi chúng sanh sanh ra trong đời có nghiệp riêng, schính nghiệp của ổng nó sex bảo bọc ổng, nó take care ổng. Những gì mình có là mình giữ lại xài, vì đó là phước của ổng. Phước ai nấy hưởng. Mọi thứ là do duyên, vì nếu ổng có phước để có được món này thì tự nhiên cái phước nó lo. Còn khi ổng không có món này nghĩa là phước của ổng không có như mình. Ổng ráng ổng chịu. Ngài nghĩ như vậy. Chính vì vậy cho nên suốt cuộc đời tu hành của ngài, ngài chớ hề biết chia sẻ cho anh em sợi chỉ cây kim, nói gì là y áo. Thiếu phước đó.

Cho nên, mình tu là cầu giải thoát chứ không phải cầu tài vật, nhưng mà phước bố thí nó quan trọng lắm.

Nhứt là trong kinh nói, khi chư Phật nhìn một người xin xuất gia, Ngài xét liền, xét nhanh lắm. Như mình mình nghĩ xét chắc 1 tiếng, không có, xét rất là nhanh. Xét coi người này có phước bố thí y áo tiền kiếp hay không, nếu mà có chỉ việc đưa tay ra thôi. Ngài nói là « Hãy đến đây này tỳ-kheo/ tỳ-kheo-ni » gì đó. Ngài chỉ đưa bàn tay Ngài nói như vậy, thì vị đó lập tức có đủ y bát, trang nghiêm, chỉn chu, tinh tươm như một người đã tu lâu vậy. Còn một người thiếu phước bố thí cúng dường y áo, đời sau sanh ra, cần đi tu, một là đi kiếm, mệt, Một là đi kiếm một cách dễ dàng, hai là đi kiếm khó lắm. Mà nói chung là phải đi kiếm. Nghiệp đó là nghiệp nhẹ. Nói nó là nghiệp thì không đúng mà do quan điểm đó, ngài không có tạo phước bố thí y áo, cho nên bây giờ ngài không có phước y áo.

Nhưng còn nghiệp khác nặng hơn.

Trong khoảng thời gian từ Phật Ca Diếp tới thời Phật Thích Ca nó lâu lắm. Sau thời Phật Ca Diếp mất, thì các vị nhớ không ? Ngài đi lên núi, ngài xô cái thang đó, sau đó ngài chết ngài đi cõi nào trong kinh không có nói. Nhưng ngài luân hồi lặn hụp lên xuống siêu đọa nhiều kiếp. Trong đó có 1 kiếp, ngài làm ăn trộm trong khu rừng, trong khu rừng đó có Phật Độc Giác. Ngài Phật Độc Giác đã đơn giản rồi, người đâu có tài sản gì đâu mà xui sao, bữa đó có tên ăn trộm, chính là ngài Bāhiya nhìn thấy y bát của vị Độc Giác thấy thích. Có tấm vải về quấn ngủ cũng ấm, bình bát lấy về làm ca múc nước cũng được. Nghĩ vậy đó. Thích. Các vị biết ghê lắm.

Do phiền não của mình. Tập khí, tánh xấu khi có nhiều trong luân hồi. Nó có điều kiện nó lòi ra những cái ác, ác ngầm lạ lắm.

Như hồi xưa tôi ở trong chùa, tôi ở Việt Nam, cái vị sư đó chết rồi, còn sống tôi không có kể. Mà chết rồi. Vị đó nghịch lạ lắm. Các vị biết con bò cạp không? Con bò cạp là con cái đuôi nó vểnh lên. Vị đó là ông sư, mà nghịch lắm.

Trong chùa có một vị sư già, ngủ ngáy lớn, ăn uống thì nhìn không được đẹp. Thì thôi, ngáy lớn, mà ăn không được đẹp thì chuyện đó đâu mắc mớ gì mình, mà vị sư nhỏ rất ghét cái đó. Nó lạ lắm. Khinh bỉ, coi thường mà lại ghét cái đó nữa. Vị đó tìm đủ cách phá, trong những cách phá mà tôi nhớ, bắt con bò cạp thả vô mùng vị sư đó. Mà vị đó có lẽ do tánh đó mà chết sớm. Vị đó bằng tuổi tôi. Ác lắm. Vị đó thích bồng chó con thảy lên, thảy như mình thảy banh chơi, có lúc chụp dính, có lúc chụp hụt. Con chó nó kêu “cẳng” vậy đó, tội nghiệp lắm. Vị đó là ông sư mà thích chơi nhiều cái lạ lắm. Thí dụ như, thích bắt kiến vàng với kiến đen cho nó cắn nhau. Thích nhiều cái lạ lắm. Mà ông sư, có học giáo lý. Thích lạ lắm. Bị la thì thôi. Bị la thì ngưng, lâu lâu nó lòi ra, lâu lâu nó kiếm chuyện nó phá vậy.

Ngài Bāhiya cũng vậy.

Ngài thấy ngài thích quá, ngài muốn lấy y bát bằng cách nào ta ? Ngài có cung tên, trong Pali kêu là … nai nịt cung tên vào rừng, trộm được thì trộm, cướp được thì cướp. Thấy vị Độc Giác ngài mới ra tay, bắn vi Độc Giác để cướp y. Trong kinh chỉ nói vậy thôi, chứ không có nói vị Độc Giác có chét hay không. Cũng không có nói rốt cuộc ngài có lấy được hay không. Chỉ nói ngài cố ý bắn vị Độc Giác để chiếm y bát.

Do cái nghiệp đó là ngai đọa mỏi mòn. Tới lúc kiếp chót gặp Phật là không có được y bát. Nghiệp này nặng lắm.

Những gì tôi kể nãy giờ là trong chú giải bài kinh này. Tôi muốn nhân bài kinh, đọc Chú giải kể hết cho bà con những điều cần lưu ý.

Mệt rồi. Chúc các vị một ngày vui, một tuần vui. Tuần sau chúng ta học tiếp kinh Kaccayana. Kinh sau khiếp lắm. Kinh sau là kinh tôi mê vô cùng. Tôi mê đến mức mà tôi nghĩ nếu bây giờ mà cho chọn 10 bài kinh để khắc ghi lại trên đá, trên gỗ thì có mấy bài mình vừa học đó : Kinh Kalama, kinh Siṁsapā, Kinh Kaccānagotta, kinh Bāhiya, …

Chúng ta được biết rằng bây giờ có rất nhiều người tín tâm trên toàn thế giới, tôi không nói rõ ở đâu. Người ta mê chuyện xây bảo tháp, thờ Tam Tạng, có chỗ bây giờ người ta đang đầu tư cả trăm triệu, cái đó hay lắm. Nhưng mà theo tôi, thay vì xài đá cẩm thạch.

Mình đi từng bước ha. Thay vì làm đá cẩm thạch, khắc, thế hệ kế thừa sau họ sơ ý bị bể đi, hư, mà nặng nề.

Nếu quý vị hỏi tôi muốn khắc không ? Tôi không muốn khắc. Mà tôi muốn tổ chức mấy lớp học, để giáo lý được lan truyền trong mấy cái đầu của con người, khắc cách đó hay hơn. Đó là cách khắc mà tôi cho là best one, cách tốt nhất. Tức là làm sao tuyên truyền, rao giảng giáo pháp để cho ngày càng có nhiều Phật tử giỏi giáo lý nó hay hơn thờ phụng.

Nhưng nếu phải khắc, thì tôi chủ trương không nên khắc hết. Bởi vì, có nhiều khi khắc cho đủ thì được, nhưng nó mang tính hình thức. Mà tôi sẽ chọn khắc những bài kinh khả dĩ lót lòng cho bà con sơ cơ, tôi chọn bài kinh đó, chứ tôi không khắc hết. Đó là hai chuyện.

Chuyện thứ nhứt, khắc trong đầu người ta hay hơn khắc ở ngoài. Cái thứ hai, nếu phải khắc ở ngoài thì mình phải chọn lọc. Cái thứ ba, chất liệu để khắc.

Tôi nói cái này hơi bậy nhưng mà lỡ nói luôn. Titanium, Việt Nam kêu là Titan, nếu tui phải khắc thì thứ nhất, tôi không khắc hết Tam Tạng. Tôi hỏi chứ nguyên tạng A Tỳ Đàm khắc ma nó coi chứ người sao coi. Tôi nghe nói khắc A Tỳ Đàm là tôi muốn khóc, da gà tôi nói nổi cuồn cuộn. Nãy giờ tôi giảng nhiều chỗ nó đụng A Tỳ Đàm mà tôi còn phải đau lòng nói, chết cha mình giảng mình nghe hả trời. Mới có me mé thôi đó. Mới có 1gr trong 1 núi thôi đó. Lấy 1 gram giảng mà còn ngán, giảng ai nghe. Nói gì là khắc nguyên A Tỳ Đàm để ma nó coi à. Thứ nhứt là phải lựa.

Thứ hai, đừng có khắc trên đá cẩm thạch nó nặng lắm, mà có bề gì nó nứt bể phiền lắm. Tôi khắc trên những tấm Titanium, tấm titan, nó dày khoảng chừng tối đa 1 phân.

Bữa tôi có đọc bài báo người ta nói 100.000 năm nữa thì dấu vết văn minh trên thế giới còn lại cái gì ? Thì họ nói rằng, 100. 000 năm nữa, tất cả máy móc, xe hơi ti vi, phone, … banh chành không còn gì hết, nhưng cái này thì còn. Họ nói cái gì mà bằng kim loại, như platinium, vàng, titanium thì còn, thì dưới đó chút có thể là stainless steel/ inox, nhưng ngon nhất là titanium. Tôi nghĩ là những tấm titan dày khoảng 1 phân hoặc hơn cũng tốt, mình làm khoảng chừng 45 tấm thôi, kích thước thì tính lại. Vấn đề coi mình khắc bao nhiêu kinh. Nhưng nói vậy thôi, khắc ai coi ? Khắc để thờ thì tôi lạy. Mình thờ mấy quyển kinh, in giấy đã lỡ in là thờ cũng đã mỏi mòn rồi.

Nhưng giả định bà con có nghiền quá thì tôi góp ý vậy đó.

Tức là làm một tháp, mình khắc mấy tấm đó mình ốp, ốp bên ngoài, ốp theo mấy cạnh, thí dụ cạnh bát giác, ốp, sau đó tháp có đổ thì tấm này vẫn còn, người ta đem gắng qua chỗ khác. Titanium thì kim loại tốt nhưng nó không đủ để làm cho ăn trộm nó tham. Vì mấy tấm titanium mua thì mắc chứ bán không bao nhiêu tiền hết, nó rẻ sình. Mua thì mắc, nhứt là tính luôn tiền khắc thì mắc. Nhưng đem chôm, đem bán không bao nhiêu tiền. Inox cũng vậy. Đồng thì teng, inox thì bền hơn nhưng vẫn không bằng Titanium.

Ok. Chúc các vị một ngày vui và hẹn nhau thứ hai tuần sau./.

Mục lục các bài giảng


(hết)
Reply
Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya


4. Kinh Sợ hãi khiếp đảm
(Bhayabherava sutta)

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Bà-la-môn Janussoni đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Janussoni bạch Thế Tôn:

-- Tôn giả Gotama, có những Thiện nam tử, vì lòng tin Tôn giả Gotama, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ðối với những vị này, Tôn giả Gotama là vị lãnh đạo. Ðối với những vị này, Tôn giả Gotama giúp ích rất nhiều. Ðối với những vị này, Tôn giả Gotama là vị khích lệ sách tấn. Các vị này chấp nhận tuân theo quan điểm của Tôn giả Gotama.

-- Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, có những Thiện nam tử, vì lòng tin nơi Ta, đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta là vị lãnh đạo của họ. Ta đã giúp ích rất nhiều cho họ. Ta là vị khích lệ sách tấn cho họ. Và các vị này chấp nhận tuân theo quan điểm của Ta.

-- Tôn giả Gotama, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Con nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định.

-- Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật sự là vậy. Này Bà-la-môn, thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định.

Này Bà-la-môn, xưa kia khi Ta chưa chứng ngộ chánh đẳng giác, khi còn là Bồ-tát, Ta nghĩ như sau: "Thật khó kham nhẫn những trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu! Thật khó khăn, đời sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư! Ta nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỷ-kheo chưa chứng Thiền định!"

Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào, thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, thân nghiệp không thanh tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Thân nghiệp Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh, với thân nghiệp thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát thân nghiệp hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn, hay Bà-la-môn nào, có khẩu nghiệp không thanh tịnh... (như trên)... có ý nghiệp không thanh tịnh... (như trên)... có mạng sống không thanh tịnh sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước mạng sống không thanh tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có mạng sống không thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Mạng sống Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh, với mạng sống thanh tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát mạng sống hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào tham dục, có ái dục cường liệt, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước tham dục, có ái dục cường liệt, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có tham dục, ái dục cường liệt, sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta không có tham dục, Ta là một trong những bậc Thánh, không có tham dục, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có tham dục như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào có tâm sân hận ác ý, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, có tâm sân hận ác ý, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có tâm sân hận, ác ý, sống tại các trú xứ xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta có từ tâm. Ta là một trong những bậc Thánh có từ tâm, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta có từ tâm như vậy, Ta cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị hôn trầm thụy miên chi phối, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước bị hôn trầm thụy miên chi phối, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không bị hôn trầm thụy miên chi phối, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có hôn trầm thụy miên. Ta là một trong những bậc Thánh không có hôn trầm thụy miên, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có hôn trầm thụy miên như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào dao động, tâm không an tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước bị dao động, tâm không an tịnh, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có dao động, tâm không phải không an tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có dao động, tâm được an tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh không có dao động, tâm được an tịnh, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta được an tịnh như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào nghi hoặc, do dự, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước nghi hoặc, do dự, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có nghi hoặc, do dự, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta diệt trừ được do dự. Ta là một trong những bậc Thánh diệt trừ được nghi hoặc, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta diệt trừ được nghi hoặc như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào khen mình, chê người sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước khen mình, chê người, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có khen mình, chê người, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có khen mình, không có chê người, Ta là một trong những bậc Thánh không có khen mình, không có chê người, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát tâm Ta không có khen mình, không có chê người như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào run rẩy, sợ hãi sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước run rẩy, sợ hãi, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có run rẩy, sợ hãi, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta không có lông tóc dựng ngược, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta không có lông tóc dựng ngược, Ta là một trong những bậc Thánh, không có lông tóc dựng ngược như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có ham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh vọng, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta là người ít dục. Ta là một trong những bậc Thánh ít dục, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta là người ít dục như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào biếng nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước biếng nhác, kém tinh tấn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có biếng nhác, kém tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta siêng năng, tinh tấn. Ta là một trong những bậc Thánh siêng năng, tinh tấn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta siêng năng, tinh tấn như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào thất niệm, không tỉnh giác, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước thất niệm, không tỉnh giác, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có thất niệm, không phải không tỉnh giác, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta an trú niệm. Ta là một trong những bậc Thánh an trú niệm, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta an trú niệm như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào không định tĩnh, tâm bị tán loạn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước không định tĩnh, tâm bị tán loạn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta được định tĩnh, tâm không bị tán loạn sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta thành tựu định tâm. Ta là một trong những bậc Thánh thành tựu định tâm, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta thành tựu định tâm như vậy, từ cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Những Sa-môn hay Bà-la-môn nào liệt tuệ, đần độn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Do nguyên nhân nhiễm trước liệt tuệ, đần độn, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn ấy chắc chắn làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta không có liệt tuệ, đần độn, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Ta thành tựu trí tuệ. Ta là một trong những bậc Thánh thành tựu trí tuệ, sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, Ta tự quán sát Ta thành tựu trí tuệ như vậy, tự cảm thấy lòng tự tin được xác chứng hơn, khi sống trong rừng núi.

Này Bà-la-môn, tùy thuộc vấn đề này, Ta suy nghĩ như sau: "Trong những đêm được biết đến, được xác định, đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nửa tháng, trong những đêm như vậy, Ta hãy đến ở tại các trú xứ hãi hùng, lông tóc dựng ngược, như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng núi, tự miếu tại các cây cối, để Ta có thể thấy sự sợ hãi khiếp đảm ấy". Này Bà-la-môn, sau một thời gian, trong những đêm được biết đến, được xác định, đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám mỗi nữa tháng, trong những đêm như vậy, Ta đến ở tại các trú xứ hãi hùng, lông tóc dựng ngược như vậy, như tự miếu tại các thảo viên, tự miếu tại các rừng núi, tự miếu tại các cây cối. Này Bà-la-môn, trong khi ta ở tại các chỗ ấy, một con thú có thể đến, hay một con công làm rơi một cành cây, hay gió làm rung động các lá rơi; Ta khởi lên ý nghĩ: "Nay sự sợ hãi khiếp đảm ấy đã đến!". Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: "Sao Ta ở đây, chỉ để mong đợi sự sợ hãi khiếp đảm chớ không gì khác? Trong bất cứ hành vi cử chỉ nào của Ta mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, trong hành vi cử chỉ ấy, Ta hãy trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy".

Này Bà-la-môn trong khi Ta đi kinh hành qua lại mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không đứng, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đi kinh hành qua lại. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang đứng mà sự sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không kinh hành qua lại, Ta không ngồi, Ta không nằm, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang đứng. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang ngồi mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không nằm, Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang ngồi. Này Bà-la-môn, trong khi Ta đang nằm mà sợ hãi khiếp đảm ấy đến, thì này Bà-la-môn, Ta không ngồi, Ta không đứng, Ta không kinh hành qua lại, nhưng Ta trừ diệt sợ hãi khiếp đảm ấy trong khi Ta đang nằm.

Này Bà-la-môn, có một số Sa-môn, Bà-la-môn nghĩ rằng ngày giống như đêm, nghĩ rằng đêm giống như ngày. Như vậy, Ta nói rằng những Sa-môn, Bà-la-môn ấy sống trong si ám. Này Bà-la-môn, Ta nghĩ rằng đêm là đêm, nghĩ rằng ngày là ngày. Này Bà-la-môn, ai nói một cách chơn chánh sẽ nói như sau: "Vị hữu tình nào không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người. Vị ấy khi nói một cách chân chánh về Ta sẽ nói như sau: "Là vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài, vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người".

Này Bà-la-môn, Ta tinh cần, tinh tấn, không lười biếng. Ta an trú chánh niệm, không có loạn, thân được khinh an, không có dao động, tâm được định tĩnh, chuyên nhất.

Này Bà-la-môn, Ta ly dục, ly các ác pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ.

Diệt tầm, diệt tứ, Ta chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm.

Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng và an trú Thiền thứ ba.

Xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, Ta chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng trí. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ này. Tại chỗ này, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, các món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ này, Ta được sanh ra ở đây". Như vậy Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.

Này Bà-la-môn, trong đêm canh đầu Ta chứng được minh thứ nhất, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến sanh tử trí về chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, ác hạnh về lời nói, ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào thành tựu những thiện hạnh về thân, thành tựu những thiện hạnh về lời nói, thành tựu những thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, Ta thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta tuệ tri rằng, chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.

Này Bà-la-môn, trong đêm canh giữa, Ta chứng được minh thứ hai, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Ta thắng tri như thật: "Ðây là khổ", thắng tri như thật: "Ðây là nguyên nhân của khổ", thắng tri như thật: "Ðây là khổ diệt", thắng tri như thật: "Ðây là con đường đưa đến khổ diệt", thắng tri như thật: "Ðây là những lậu hoặc", thắng tri như thật: "Ðây là nguyên nhân các lậu hoặc", thắng tri như thật: "Ðây là các lậu hoặc diệt", thắng tri như thật: "Ðây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt".

Nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên trí hiểu biết: Ta đã giải thoát. Ta đã thắng tri: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".

Này Bà-la-môn trong đêm canh ba, Ta chứng được minh thứ ba, vô minh diệt, minh sanh; bóng tối diệt, ánh sáng sanh, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.

Này Bà-la-môn, Ông có thể có tư tưởng như sau: "Nay Sa-môn Gotama chưa diệt trừ tham, chưa diệt trừ sân, chưa diệt trừ si, nên sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu". Này Bà-la-môn, chớ có hiểu như vậy. Do Ta quán sát hai mục đích mà Ta sống tại các trú xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu. Tự thấy sự hiện tại lạc trú và vì lòng thương tưởng chúng sanh trong tương lai.

-- Chúng sanh trong tương lai được Tôn giả Gotama thương tưởng, vì Tôn giả là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!... Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích. Con quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử; từ này trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

==================================

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Chân thành cám ơn anh HDC và nhóm Phật tử VH đã có thiện tâm gửi tặng ấn bản điện tử.
(Bình Anson hiệu đính, dựa theo bản Anh ngữ "The Middle Length Discourses of the Buddha", Tỳ kheo Nanamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, 1995).
Hiệu đính: 10-06-2004
Reply
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Sợ Hãi (version 1, ghi chép ngày 25/01/2022 )

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...20H%C3%A3i

Kinh Sợ Hãi 

Quote:Kalama tri ân bạn vuihtv ghi chép.

25/01/2022 - 12:47 - vuihtv - [[/url]Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]


Hôm nay chúng ta học bài kinh tiếp theo là Kinh Sợ hãi. Cả bài kinh này là một định nghĩa rộng cho chữ “Úy” trong Tàm – Úy.


Tàm, Uý
Tàm là biết thẹn làm chuyện bậy, nghĩ bậy, đang sống trong tội lỗi thân, khẩu ý. Biết thẹn như vậy là Tàm. Úy là Sợ.


Nguyên bài kinh mình học sáng nay nói về chữ Sợ đó. Nội dung bài kinh này tôi nghĩ rằng bà con hiểu, cho nên tôi không nói nhiều bài kinh này, nói đại khái thôi nhưng tôi muốn mượn bài kinh nói chuyện khác. Đó là: Một số thuật ngữ Phật học mà rất nhiều người Phật tử Việt Nam nghe thường, thậm chí nói thường nhưng hiểu hơi thiếu sót, trong cái hiểu có điểm thiếu sót. Sẵn tôi nói luôn, thí dụ nói Tàm, Úy.


Tàm ở đây là Thẹn.


Thẹn có 2 trường hợp : 1- Lấy mình làm động cơ, động lực để thẹn. 2- Lấy người làm động cơ, động lực mà thẹn.


1- Lấy mình là sao? Có nghĩa là, mình nghĩ: Người như mình thế này mà tại sao làm như như vậy, tại sao có suy nghĩ như vậy. Đó gọi là thẹn mà lấy mình làm động cơ, động lực.


2- Thẹn lấy người khác làm động cơ động lực? Là mình nghĩ đến cha mẹ, thầy tổ, đoàn thể, hội chúng mình đang có mặt. Thí dụ mình nghĩ, dầu muốn dầu không, dầu biết hay không biết mình vẫn có mặt trong dòng truyền thừa, tiếp nối của đức Phật. Cái đó là chuyện mình không chối cãi được. Mình đang có mặt trong dòng chảy truyền thừa của đức Phật, đó là chuyện mình không chối cãi được. Tức là, từ sau lúc thành đạo dưới gốc Bồ Đề ra đi, thì đức Phật có vô số đệ tử, những người quy y, những người tín ngưỡng, những người tin cậy ở Ngài, tu học theo Ngài. Thì tùy trình độ, có người trở thành nhân vật như ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, ngài Anan, ngài Ca Diếp,… hoặc là những vị La Hán vô danh, những vị Tam Quả, Nhị Quả, Sơ Quả vô danh, hay có tiếng, rồi từ từ đến những vị Tăng, ni, cư sĩ nam nữ các thế hệ, cứ vậy.

Rồi Phật giáo từ vùng Trung tâm Ấn Độ, lan rộng ra các vùng xa xôi, biên địa, lan ra ngoại quốc, gồm có: Tích Lan, Thái, Miến, Lào, Campuchia, Việt Nam, Trung Hoa,… Trong dòng chảy truyền thừa đó có trao truyền, tiếp nối. Chúng ta hôm nay cũng có mặt trong dòng chảy truyền thừa đó.


Thì mình thấy rằng: Dầu biết hay không biết chúng ta cũng là một người con, tuy là con xa, con lạc dòng cũng là con Phật. Nghĩ như vậy đó. Nghĩ đến Tăng đoàn, tứ chúng mình đang có mặt thì không thể thoải mái khi mình có hành động như vậy, mình có suy nghĩ như vậy, mình có ngôn từ như vậy. Đó là trường hợp: Lấy người làm động cơ, động lực để biết thẹn với tội lỗi, thẹn với điều bất thiện.


Chữ Tàm có 2 nghĩa: Lấy mình làm điểm tựa & Lấy người khác làm điểm tựa là vậy đó.

Giờ qua tới nội dung bài kinh là Úy. Sợ.


Úy = Sợ có 4 Trường hợp.


Trường hợp thứ nhất, mình không làm chuyện đó vì mình không muốn rồi đây tối nay, ngày mai, tuần sau, tháng sau, năm sau và nhiều năm sau đó trong đời, mỗi lần nhớ lại chuyện này mình sẽ ray rứt, sẽ cắn rứt, sẽ không yên, không an lòng. Sợ sự cắn rứt của bản thân cho ên mình không làm. Trường hợp đó có. Có nhiều người không biết đạo cũng có tâm trạng này. Họ ngại rồi đây lấy số tiền này hoặc làm chuyện này rồi cả đời không yên.


Cái sợ đầu tiên là Sợ bản thân cắn rứt.


Cái sợ thứ hai, Sợ tiếng đời. Mình nghĩ khi mình làm cái này thiên hạ dị nghị, dư luận thị phi mình không yên đâu.


Trong kinh nói rõ, chúng sanh trong đời có 3 hướng hành động: Hướng 1- Lấy mình làm trọng Hướng 2- Lấy đời làm trọng 3 - Lấy pháp làm trọng.


1- Lấy mình làm trọng có nghĩa là mình căn cứ cảm xúc của bản thân, mình làm sao mình thích, mình làm sao mình vui, mình làm sao mình sướng thì thôi. Còn ngoài ra không quan trọng. Trường hợp đó là lấy mình làm trọng.


2- Lấy đời làm trọng là, chuyện đó mình thích hay không không quan trọng, chuyện đó đúng sai, thiện ác không quan trọng, cái quan trọng nhất là thị phi, dư luận. Luôn luôn sống dựa trên dư luận. Chuyện này tôi nói rất nhiều lần. Có nhiều người họ lấy dư luận làm nền tảng cho cuộc sống, tức là, thiện ác tốt xấu, buồn vui sướng khổ không quan trọng, quan trọng nhất là tiếng đời, sống sao cho có tiếng, để tiếng đời lại thôi. Trường hợp này gọi là lấy đời làm trọng, luôn luôn lấy nhận xét, khen chê của người khác để hành động.


3- Lấy Pháp làm trọng có nghĩa là, cái gì hợp đạo, phải phép với lời Phật thì làm, còn cái gì ngoài ra thì dầu tiếng đời, cảm xúc bản thân không quan trọng. Chỉ lấy chân lý, lấy sự thật, lấy lời Phật làm chuẩn mực, định mức để theo đó mà hành động và sống. Trường hợp này là lấy Pháp làm trọng.


Thì nói về Úy có 4 trường hợp:


1/ Sợ ray rứt, sợ bản thân mình, hạng này lọt vào trường hợp Lấy mình làm trọng.


2/ E sợ dị nghị, thị phi, dư luận của đời, hạng này được gọi là Lấy đời làm trọng. Sợ tiếng đời thị phi dư luận.


3/ Cũng lấy đời làm trọng & cũng lấy mình làm trọng. Hạng thứ ba là tổng hợp 2 hạng trước, đó là e sợ pháp luật. Bởi vì khi mình dây dưa chuyện “đáo tụng đình” mệt lắm, “vác chiếu ra tòa” mệt lắm, xấu hổ, chưa kể hình phạt, tù tội, lao lý,… mệt mỏi lắm, mặt mũi mình để đâu, ra tù cũng không yên đâu, với cuộc đời, với xã hội, với người quen.


Cho nên 

  1. Trường hợp 1 là sợ sự ray rứt bản thân, sợ cảm xúc thân tâm của bản thân. 
  2. Trường hợp 2 là sợ tiếng đời, thị phi dư luận. 
  3. Trường hợp 3 là sợ Pháp luật là tổng hợp 2 cái đầu.
4/ Sợ sa đọa. Có nghĩa là, mình không chắc là chết rồi là hết hay còn. Mình không chắc có thiên đường, địa ngục. Mình không chắc là có nghiệp quả báo ứng hay không, mình không chắc. Nhưng lỡ có thì sao?

Có một chuyện mà một người dầu không phải Phật tử cũng ít nhiều thấy được, hiểu được. Đó là. Tôi nó là “dầu” nha, dầu không phải là Phật tử thì ít nhiều cũng hiểu được cái này là, nếu quả thật có kiếp sau, nếu còn có một chốn về cho người tắt thở thì chắc chắn kẻ nào thuở bình sinh từng sống thiện chốn về tốt hơn người sống ác, nói ác, nghĩ ác, và làm ác. Chắc chắn như vậy. Tôi nhắc lại, dẫu cho đó, even. Dẫu cho mình không tin nhưng ít ra mình biết suy nghĩ: Nếu có kiếp sau, thì chốn về của người sống ác sẽ ra sao? Chốn về người sống thiện sẽ ra sao? Nghĩ đến đó tự nhiên biết chùn tay, biết e ngại, e sợ.

Nói gì một người có trọn niềm tin nơi Phật pháp. Tin rằng: Chết rồi không phải là hết.


Chúng ta chưa chứng La Hán là chúng ta tiếp tục đi nữa. Chốn về đó dứt khoát, đương nhiên là phải thuận ứng với con người mình bây giờ, thuở bình sinh của kiếp này mình sống ra sao ?

Hễ nói tới Tàm, Úy là phải nhớ 2 định nghĩa đó.


Tàm = thẹn dựa trên 2 cơ sở : Mình & người (cá nhân hay tập thể).


Úy = 4 cái sợ đó : (1) Sợ cảm xúc bản thân sau này; (2) Sợ dư luận, thị phi từ thiên hạ, từ xã hội, từ cuộc đời; (3) Sợ trừng trị pháp luật; (4) Sợ báo ứng đời sau, đặc biệt chuyện sa đọa.


Khi mình bắt đầu nói, làm chuyện gì đó thì phải. Chẳng hạn, trong kinh. Tại mình không đọc kinh mình không sợ. Cứ toàn nghe thầy bà tăng ni nói mình không theo. Coi trong Chánh kinh mới thấy run.


Trong kinh nói thời đức Phật có vị La Hán trước khi chứng đạo bị cùi, coi như nó rớt từng phần từng phần trong người, cuối cũng cũng đắc thôi. Nhưng do nghiệp ngày xưa, khẩu nghiệp thôi. Có kiếp đó, đi đường gặp vị Độc Giác, y áo cũ rích, xơ xác, đi chân không, có lòng khinh thường, mà còn hơn khinh thường, khinh miệt, mới buông một câu “Thằng cùi đầu trọc này, đi láng cháng chật đường, cản đường người ta, xui, hãm tài”. Chỉ câu đó không mà đọa địa ngục không biết bao lâu, tới hồi lên rồi bệnh cùi suốt vậy đó. Chưa hết, cũng vị đó ở kiếp khác gặp thiện nam, người cư sĩ không phải người xuất gia, một người đức hạnh, có giới, ổng gặp người ta thấy ghét ổng cũng buông câu y chang vậy đó. “Thằng hủi này, ra đường gặp thằng hủi này làm ăn không khá”. Chỉ câu đó không, chưa đủ, ổng còn làm thêm động tác nữa, kế bên có hũ đựng bột tắm, tiếng Pali kêu là nahānacuṇṇa, bột mà ngày xưa mình xài xà bông, người xưa họ xài bột tắm, người Ấn Độ giờ cũng còn xài, xà bông tắm mà bằng bột. Ổng nói « thằng hủi này » xong ổng lấy hất lên người người ta, thì trời ơi, ổng đẻ ra, kiếp sau sanh ra hủi suốt như vậy. Chỉ vì khẩu nghiệp thôi.


Hoặc là thời Phật Ca Diếp, có vị tỳ-kheo giấc trưa, buổi trưa đi đâu về mình mẩy bụi bằm, mồ hôi không, muốn có chỗ ngả lưng, thấy ghế dài mà chư trưởng lão, chùa thì có trưởng lão, tôn túc, chỗ đặc biệt của mấy vị tôn túc đó, vị đó thấy chỗ sạch sẽ, nằm êm, mới ngả lưng, lúc ngả lưng suy nghĩ “lưng mình dơ hầy, mà chỗ này sạch” Lúc đó có nghĩ “kệ nó, nằm cho sướng”. Mà vị đó cũng biết, khi lưng mình dơ vậy, mình nện lên đó, lát sau người sau họ đâu dám nằm, mồ hôi, bùn bụi tùm lum, mà lúc đó nghĩ “kệ”.


Bởi tôi nói, bây giờ, thời này, người dễ duôi là người Kinh thì ít “kệ” thì nhiều là như vậy đó. Có nghĩa là “kệ” thì nhiều hơn. Kệ không. Cái gì cũng kệ hết. Vị đó khi chết rồi, sanh ra làm Dạ Xoa, đầy mình toàn mấy cọng lông như cây kim vậy đó. Các vị tưởng tượng trên người mà kim ghim tua tủa tua tủa khó chịu lắm, cây kim may áo á. Do nghiệp ngày xưa bất chấp cảm giác của người sau, có nghĩa là mình nằm vậy rồi người sau họ ngồi sao, không màng, kệ. Nghiệp nho nhỏ vậy thôi.


Du sĩ Subhada, người cuối cùng gặp Phật
Hoặc là đời Phật Ca Diếp, có vị đệ tử hàng đầu Thinh văn, đệ nhất trí tuệ giống như ngài Xá Lợi Phất của Đức Phật Gotama vậy đó. Vị này có người cha. Người cha có tật là “bụt nhà không thiêng”, nể ai thì nể chứ không nể con mình, buông mấy câu giống như: “Nghe nói đệ nhất trí tuệ mà thấy đâu có gì đâu ta”. Đại khái buông câu bất kính vậy đó. Chỉ câu đó, tu 100.000 đại kiếp đâu có ít, tới lúc gặp Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, nghiệp cản không cho gặp Phật. Một là nghe tin về Phật quá trễ. Hai là muốn gặp Phật thì cứ trục trặc trục trặc, chướng duyên trùng trùng, cuối cùng gặp được Phật là đêm cuối trước khi Ngài tịch. Rạng sáng ngày mai Ngài tịch thì đầu hôm mới mò tới nực nội mỏi mệt, mà nghe nói Phật sắp tịch sợ lắm, mà tới bây giờ mới gặp, gặp được là đêm cuối, ngài Anan không cho vô mới ghê chứ. Ngài Anan nói “Thế Tôn mệt lắm, Thế Tôn cần nghỉ ngơi”. Lúc đó đức Phật Ngài nghe được Ngài nói “Anan hãy cho du sĩ đó vào gặp ta”. Đó chính là du sĩ Subhada, là người cuối cùng, chỉ có thể được giác ngộ với sự hướng dẫn của đức Phật. Vì sao?


Vì Thinh văn có 2 hạng : 

1- Sāvakaneyya: Thinh văn có thể được Thinh văn độ cho chứng thánh. 
2- Buddhaveneyya: Hạng Thinh văn phải được đức Phật khai thị cho mới chịu đắc. Mà hễ trễ rồi không được gặp Phật thì có muôn triệu Thinh văn khác cũng không giúp được. Mà vị này lọt vào trường hợp thứ hai mới ghê. Phải gặp đúng đức Phật.

Chỉ vì một câu nói thôi. Biết thì sợ. 

Mà mình bây giờ mình thích mình cứ phang cho sướng cái mồm mình thôi. 
Với phần nữa, không có tin. 
  1. Trí văn thiếu, 
  2. trí tư thì nghèo,
  3. mà từ đó nó dẫn đến niềm tin tật nguyền, thiếu thốn, 
rồi từ đó không ngán sợ thằng Tây nào hết, cứ thế mà phang. Ok. Tùy hỷ, thích thì làm.

Nói đến Tàm, Úy là phải nhớ mấy cái đó.


Đặc điểm của người dễ ngươi có 3:

1- Coi thường điều ác nhỏ không tránh.
2- Coi thường điều thiện nhỏ không tranh thủ làm.
3- Không biết trân quý thời gian.


Người tinh tấn tu học có 3 điểm ngược lại :

1- Không coi thường điều ác nhỏ rồi không tránh. Không, ác nhỏ cũng là ác. Miếng phân chút xíu cũng là phân, đốm lửa nhỏ xíu cũng là lửa.
2- Không coi thường điều thiện nhỏ mà không tranh thủ, hễ có cơ hội là làm.

Bởi vì, trên đời 
(1) việc đáng làm nhất là việc thiện trước mắt. 
(2) Đối tượng xứng đáng để làm nhất là đối tượng trước mắt. 
(3) Thời điểm tốt nhất để hành thiện chính là thời điểm trước mắt. Nhớ cái đó. Tới chết cũng phải nhớ cái đó.

Mình nói về Tàm, Úy. Sẵn tôi nói luôn một số thuật ngữ khác.


Ganh Tị, Bủn Xỉn
Bài kinh này tôi giảng xong rồi. Giờ sẵn nói một số thuật ngữ khác mong quý vị nhớ. Tại vì tôi e là tôi không có dịp nhắc cái này nữa, bởi vì giờ mình không giảng tùy thích nữa mà mình giảng theo kinh thì không biết bao giờ mình mới gặp lại mấy đề tài này. 


Phật tử là
  1. phải biết chữ Tàm, Úy là gì.
  2. Thứ hai là phải biết Ganh tị, bủn xỉn là gì.

Có lần, vua trời Đế Thích hỏi Phật: Vì đâu cả thế giới tương tranh, đầu đá hoài không bao giờ dứt? Từ cõi trời xuống tới cõi người, xuống tới thế giới của động vật, bàng sanh, súc sanh, phi cầm tẩu thú, cứ gặp mặt là tương tranh, gặp mặt là đấu đá, vì sao vậy ? Đức Phật Ngài dạy rằng : Chỉ vì 2 phiền não: Bủn xỉn & ganh tị.


Hồi nhỏ, hồi trẻ tôi khó chịu lắm. Tại sao chỗ này Ngài không nói những phiền não ghê gớm như Vô minh, tham ái, tà kiến,… Tại sao ở đây Ngài lại nói 2 cái này ? Là bởi vì, 2 cái này nó không tách rời mấy phiền não kia.


Một người mà chứng Sơ Quả thì không còn ganh tị & bỏn xẻn nữa. Nhớ nha. Thường người ta nói là Tu Đà Hườn = Không chỉ bỏ thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ. Nhưng thật ra đó là nói một cách khác. Mình nhớ rằng, Tu Đà Hườn còn bỏ được rất là nhiều tội lỗi khác chứ không phải chỉ có 3 cái đó. Người không còn thân kiến thì người đó không cách gì mà bủn xỉn, bủn xỉn về vật chất, bủn xỉn về tinh thần.


Bủn xỉn về tinh thần = Không muốn chia sẻ tiếng tăm, quyền lực, không muốn chia sẻ kiến thức của mình cho người khác. Đó là bủn xỉn về tinh thần.


Bủn xỉn về vật chất = Tiếc của, không chia sẻ chỗ ở cho người khác.


Vị Tu Đà Hườn không còn bủn xỉn cũng không còn ganh tị. Vì vị này đã hiểu rốt ráo cái gọi là « Nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh » = cái gì cũng là khói sương.


Để biết rõ rằng « phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng » = cái gì đã có tướng sanh thì có tướng diệt, đều là hư vọng hết.


Vị đó biết rất rõ. Vị đó biết rõ rằng : Mỗi người có nghiệp riêng, ai sướng ai khổ là do tiền nghiệp riêng của mình. Vị đó không vì lý do gì mà đi ganh ghét người khác. Ghen hay ganh là không có. Không ganh tị, & ghen tuông. Vị Tu Đà Hườn không còn nữa. Nhớ nha.

Cho nên, 2 cái này quan trọng. 2 cái này nghe thường thường nhưng nó là tiêu biểu cho phàm phu. Hai cái này nhiều người không hiểu. Gởi đến quý vị một định nghĩa dễ nhớ.

  1. Ganh tị = Không muốn NGƯỜI KHÁC ĐƯỢC cái gì.
  2. Bủn xỉn = Không muốn MÌNH MẤT cái gì.

Một cái được, một cái mất. Một cái mình, một cái người. Dễ nhớ lắm. Hai cái này quan trọng lắm.


Bủn xỉn = Không muốn mình móc túi, trao ra về tinh thần hay vật chất.


Ganh tị = Không muốn người khác được cái gì giống như mình, hay là hơn mình, không muốn ai bằng hay hơn mình.


Các vị tưởng tượng, trong một ngôi nhà, trong một đoàn thể, trong một tổ chức, trong một làng xã, khu vực, đất nước, xã hội,… mà người người đều sống với nhau bằng tâm hồn như vậy thì làm sao mà sống ? Sống không chia sẻ, sống không có bao dung, khó lắm quý vị, khó lắm.


Cho nên, đặc điểm phàm phu, mình cứ nói là tham, sân, si, vô minh, tà kiến, hoài nghi,… dẹp, dẹp, dẹp. Mấy cái đó nhức đầu lắm. Nói mấy cái đơn giản nhất là : Anh phải hiểu đạo mức nào đó mà bủn xỉn & ganh tị của anh giảm đến mức thấp đến mức tận cùng như có thể đó là tu.


Tiếp theo là có những định nghĩa miệng mình nói chem chép chem chép, kêu định nghĩa định nghĩa không được. Nãy giờ mình đã định nghĩa Tàm, Úy rồi, định nghĩa ganh tị, bủn xỉn rồi. 


Từ Bi Hỷ Xả
Giờ mình định nghĩa về Tứ vô lượng tâm : Từ - Bi – Hỷ - Xả. Rất nhiều người miệng nói ào ào mà không biết Từ Bi Hỷ Xả là gì. Nói Từ Bi là thương thương, thương khỉ gì, hả ? Thương cái gì ? Từ Bi Hỷ Xả phải định nghĩa lại. Bốn cái này nó phải gắn liền khái niệm Nhân – Quả. Bắt buộc như vậy. Nghĩa là ngay trong Từ Bi Hỷ Xả đã có Nhân- Quả trỏng. Vậy mới đúng là Tâm vô lượng của một người Phật tử, gắn liền trí tuệ Nhân Quả trong đó.

a/ Từ là gì ? Từ = Mong muốn người khác sống với Nhân lành & Quả lành.
Sống với Quả lành = mong người khác được khỏe mạnh, sống trong hài hòa yêu thương không thù hận, mong người khác được vui sướng đừng đau khổ, sống thanh thản đừng âu lo về thân, tâm. Không khổ, không đau. Đó là muốn người khác sống trong Quả lành.
Muốn người khác sống trong Nhân lành = Mong ai cũng biết tu học có kham nhẫn, có thiền định, có từ bi, có trí tuệ, có chánh niệm,… Mong người khác được nhân lành đó là từ tâm trên nhân lành.
Tổng quát lại, Từ tâm là mong người khác sống với nhân lành, quả lành.

b/ Bi = Không cam tâm, đành lòng, biết bất nhẫn, biết trắc ẩn trước nhân xấu, quả xấu của người khác.
Quả xấu= Thấy ai bị đói nghèo, bệnh tật, tai tiếng, tù tội, đau lòng, khổ thân, … đều chịu không nổi phải ra tay. Đó gọi là lòng bi mân trước quả xấu của người khác.
Lòng bi mẫn trước Nhân xấu của người khác = thấy ai ác ôn, gieo bất thiện (nói bất thiện, nghĩ bất thiện, làm bất thiện thì lòng không cam tâm, không đành lòng, trắc ẩn, bất nhẫn, nghĩ “ Chết cha rồi, nó kiểu này là mai mốt nó ăn cho hết. Nó sống kiểu này là mai mốt nó ăn cho hết”.
Như vậy, Bi là xót xa, bất nhẫn khi thấy người ta sống trong nhân xấu quả xấu. Nhớ nha.

c/ Hỷ = Vui theo nhân lành & quả lành của người khác.

Phải nhớ tới Nhân quả. Luôn luôn. Tới chết cũng phải nhớ. Vô Lượng Tâm là phải gắn liền với tri tuệ Nhân Quả thì mới xài được, nó mới đủ. Hỷ là vui theo nhân lành quả lành.

Nghe cho kỹ.


Từ = Mong cho người ta có được nhân lành, quả lành. Qủa lành chưa có thì hãy có, nhân lành chưa gieo thì hãy gieo. Đó là Từ.

Hỷ = Vui với nhân lành & quả lành người ta đang có, đã có.
Vui theo nhân lành = Thấy người ta tu học, thấy người ta giữ giới, thiền định, chánh niệm, phục vụ,… mình vui.


Vui theo quả lành = Thấy người ta được nhan sắc, sức khỏe, tiền bạc, tiếng tăm, quyền lực, vui vẻ, gia đạo bình yên, tình duyên như ý,… thì mình vui theo. Cái đó là vui với quả lành người khác.


Phàm phu chúng ta, có người đụng đâu ganh tị đó thì làm sao có lòng tùy hỷ? Hỷ đây là Tùy hỷ. Hỷ đây không phải là vui đâu nha. Tùy hỷ = vui theo. Có người ganh ghét với nhân lành của người khác, có người ganh ghét với quả lành người khác, có người ganh ghét với cả 2. Ganh với nhân lành của người ta = Nhiều khi thấy người ta giàu, sướng,… mình thấy bực, tại mình đâu có thua người ta đâu.


Như thấy nó làm thí chủ dâng y, in kinh sách để tên, thấy nó lúc này bày đặt đi tu thiền, gặp cao tăng, gặp pháp sư Tam Tạng, lúc này bày đặt quen ông này ông kia mình bực. Gọi là mình ghen tị với nhân lành của người ta.


Có người họ không ghen tị nhân lành, họ ghen tị quả lành. Thấy người ta học giỏi, người ta hành thiền, người ta giữ giới mình bực. Mình bực vì thấy nó đẹp hơn, nó giàu hơn, nó sướng hơn, nó đi xe xịn hơn, nó xài đồng hồ tốt hơn, nó xài túi xách tốt hơn, phấn son mặt mũi nhìn ngon lành hơn,… = mình ganh tị quả lành của người ta.


Cái thứ ba, vẫn là Nhân Quả nữa.


Có nghĩa là, khi thấy nó khổ quá mà mình không can thiệp không cứu được, giúp được. Mà khi thấy nó ác quá nó bậy quá mà mình không sửa, không chỉnh, không độ được thì phải chấp nhận nghĩ đến nhân quả. Nghĩ rằng “Mỗi chúng sinh có nghiệp riêng. Nó gieo cái gì nó gặt cái đó”. Hôm nay khi nó đang gặt mà nó không khéo thì nó tiếp tục gieo cái khác. Đời sống chỉ là gieo và gặt thôi. Nếu mình giúp nó chỉnh được gieo thì mai mốt nó đỡ khổ. Nếu mình chia sẻ bớt cái đắng cay trong cái nó gặt thì mình chia sẻ. Nhưng khổ, có cái không phải muốn là được. Chư Phật còn làm không được mà.


Chư Phật Phật trí vô biên, Phật lực vô cùng, Phật tâm vô lượng không độ được người vô duyên thì nói gì là mình.


Mình là vô phúc, vô hạnh, vô đức, vô năng. Mình tùm lum một rổ vô. Trong khi chư Phật, Phật trí vô biên, Phật lực vô cùng, Phật tâm vô lượng không độ được người vô duyên. Mình thiếu đủ thứ lấy gì độ? Cho nên, lúc đó phải nghĩ đến Nhân Quả thôi. Nó ác quá, nhưng mà thua, vì khuynh hướng tâm lý, môi trường sống và tiền nghiệp của nó đẩy nó vô thế này là phải chịu. Đó là xả tâm trước cái Nhân.


Xả tâm trước quả = Ngày xưa người ta đã gieo giờ phải gặt.


Ngay cả chư Phật, Chánh Đẳng Chánh Giác, Vô Thượng Sĩ Tứ Sanh Từ Phụ Thiên Nhân Chi Đạo Sư mà còn không tránh được hết những tiền nghiệp quá khứ của mình.


Trong quyển Kalama 2 chúng tôi có sưu lục 3 bài kinh: một bài là Phật tướng – Vì đâu Phật có các hảo tướng, bài kinh thứ hai là Phật hạnh – bằng con đường nào trở thành Phật, bài thứ ba là Phật nạn – vì đâu mà Thế Tôn gặp những trắc trở trong đường hoằng pháp thuở bình sinh trụ thế hoằng đạo. Ở đâu ra vậy? Không phải trên trời rớt xuống.


Rồi còn có nhiều người thờ Phật kiểu thần tượng hóa. Họ nói rằng: Những nạn Phật gặp không phải là do Nghiệp quá khứ mà “thị hiện”. Cái đó thì quá. Mình thờ Phật riết rồi mình thờ banh chành hết. Mình thờ Ngài giống như mình thờ ông thần ông thánh nào đó chớ không phải.


Ngài là bậc Đại giác, đúng, cái gì Ngài cũng biết, ai Ngài cũng thương, đức lành nào Ngài cũng có. Nhưng phải dừng lại ở đó. NGÀI LÀ TOÀN GIÁC (CÁI GÌ CŨNG BIẾT) KHÔNG PHẢI TOÀN NĂNG. Phải nhớ cái đó. Chính vì không phải toàn năng nên ai Ngài cũng thương, nhưng không phải chuyện gì Ngài cũng làm được, vì: Nếu chư Phật có thể làm được thì không cần Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, bởi vì mấy vị Phật khác đã đủ biến tất cả chúng sanh thành Phật ráo. Nhưng mà Không. Không là không.


Mỗi vị Phật ra đời, trước khi ra đời phải tu tập một thời gian rất là lâu. Trước khi sơ phát Bồ Đề tâm trở thành vị Chánh Đẳng Giác thì các Ngài cũng chỉ là hạt cát, tức là một chúng sanh vô danh trong sa mạc cuộc đời. Và hạt cát ấy dần dần phát triển trở thành một viên ngọc, ngọc lớn như là hòn núi. Viên ngọc ấy có tên là : Vô thượng Bồ Đề Chánh Đẳng Chánh Giác A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cái tên dài vậy đó. Viên ngọc ấy cũng chỉ độ được nắm cát thôi, số chúng sanh Ngài độ được so với đám còn lại nó chỉ là nắm cát trong sa mạc thôi. Mỗi vị ra đời làm được nắm đó thôi.


Số nằm trong nắm đó phải chấp nhận nắm lá Ngài trao truyền. Cái Ngài biết như sa mạc, như đại dương, như bầu trời nhưng cái Ngài nói ra chỉ là nắm lá. Lấy nắm lá này độ nắm cát kia. Trong sa mạc mênh mông chỉ có nắm cát chịu chấp nhận nắm lá này thôi. Khổ vậy đó.


Hôm nay, chúng ta không có được may mắn nằm trong nắm cát đó, chúng ta nằm kế bên nắm cát đó thôi, ké ké được chút đỉnh. Mà nói về nắm lá kia thì: Mình biết được bao nhiêu? Biết ba mớ mà chửi bới um sùm bát ngát. Tu là đạt đến Bát nhã mà mình là bát nháo không phải Bát nhã. Nhớ cái đó. Mình là bát nháo hết.


Cho nên, phải nhớ. Nhắc tới Từ Bi Hỷ Xả là phải nhớ vậy đó. Định nghĩa Từ là sao, Bi là sao, Hỷ là sao, Xả là sao. Đó là căn bản.


Sẵn mình làm luôn một số từ nữa, thí dụ : Sướng khổ, thiện ác, cũng phải nhớ luôn chứ.

Bữa nay, bài giảng bữa nay có tựa đề: Từ điển thuật ngữ Phật học. Tại vì tôi thấy bài kinh này nội dung hơi mềm, cho nên tôi mượn cớ tôi đẩy luôn mấy vụ khác luôn, mà chắc chắn là có lợi cho bà con. Giờ mình thêm bốn chữ nữa mình nghỉ nha. Bữa nay tôi có duyên sự xuống núi. Nói đùa chứ tôi có việc phải đi. Cái đám room này nghe « duyên sự xuống núi » nó thêu dệt mệt nữa, nghĩ tầm bậy tầm bạ. Ai chứ mình khả năng tà tư duy cực lớn.


Thiện, ác, buồn, vui
Tiếp theo là 4 chữ : Thiện, ác, buồn, vui. Ai cái miệng cũng có thể nói mấy chữ này hết. Phật tử nha. Cổ đeo tượng Phật, có pháp danh, áo lam, có chuỗi hạt, có giới điệp, có chùa miểu, tổ đình, bổn sư,… nhưng kêu định nghĩa định nghĩa không được. Thiện ác buồn vui là cái gì ?

Định nghĩa một cách rất là nôm na, gần gũi nhưng rất căn bản cho một người sơ cơ. Chỉ nghe định nghĩa thôi đã có thể hình dung ít nhiều nội dung, cốt lõi tu học.


Thiện là gì ? Thiện = 6 căn của mình biết 6 trần bằng tâm lành. Nói theo A Tỳ Đàm, 6 căn biết 6 trần với 25 tâm sở tích cực, trong đó gồm : Từ bi, trí tuệ, kham nhẫn, thiền định, chánh niệm,… Nói chung 6 căn biết 6 trần bằng tâm lành hay 25 tâm sở tích cực đó gọi là Thiện. Vậy định nghĩa lại nha. Thiện là 6 căn biết 6 trần bằng tâm lành.


Ác = 6 căn biết 6 trần bằng tâm xấu. Nói theo A Tỳ Đàm,6 căn biết 6 trần bằng 14 tâm sở (mental factors – những thành tố tâm lý) tiêu cực.


Trong một tô canh, cái căn bản tô canh là nước. Nhưng bao nhiêu cấu tố, thành tố, phụ gia, phụ liệu nằm trong đó thí dụ canh đó là canh rau, canh trái hay canh củ. Canh rau gồm có rau muống, rau lang, rau đay, thiên lý, bình bát, tập tàng,… gì đó là canh rau. Canh trái là bầu, bí, mướp, khổ qua,… Canh củ như là canh khoai này khoai nọ là canh củ. Canh trái thí dụ như canh trái vả, canh sake,…


Tổng cộng lại, mình định nghĩa, Thiện là 6 căn biết 6 trần bằng tâm lành. Có nghĩa là, khi thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng có lúc mình thấy bằng tâm lành, có lúc mình thấy bằng tâm xấu. Xấu là gì ta ?


Xấu = thích cái này ghét cái kia, chống đối, theo đuổi, đam mê, đắm đuối, bất mãn, bực bội, sợ hãi, ganh ghét.


Thiện là 6 căn biết 6 trần bằng tâm lành. Ác là 6 căn biết 6 trần bằng tâm xấu.


Định nghĩa như vậy là đã thấy đường tu rồi đó. Còn buồn, vui là gì ? Buồn vui sướng khổ.

Buồn & Khổ là 1 cặp. Sướng & vui là 1 cặp. Buồn vui, sướng khổ là 2 cặp. Thiện ác mình hiểu rồi. Chính thiện ác dẫn đến buồn vui, sướng khổ. Mình buồn vui sướng khổ mình phải định nghĩa nữa chứ không phải hết đâu. Phải định nghĩa nữa. Sướng khổ buồn vui là gì?
Buồn, khổ = 6 căn biết 6 trần bất toại. Tức là, những gì thấy, nghe… mà nó không như mình muốn, cái gì làm mình sợ, mình ghét, mình bực mình,... thì 6 trần đó được gọi là 6 trần bất toại. Khi 6 căn biết 6 trần bất toại mình phải hiểu đó là buồn, khổ.


Sướng & vui = 6 căn biết 6 trần như ý. Có nghĩa là mình thấy, nghe, ngửi,… những thứ mình thích, làm cho mình toại nguyện.


6 trần bất toại từ đâu nó ra? Nó từ cái ác ra. Từ cái 6 căn biết 6 trần bằng tâm xấu nó mới dẫn đến 6 căn biết 6 trần bất toại. Từ 6 căn biết 6 trần bằng tâm lành nó mới dẫn đến hệ quả 6 căn biết 6 trần như ý, chỉ vậy thôi. Hãy nhớ định nghĩa đó. Nhớ nha. Chứ không mai mốt quên.


Gởi đến các vị một số thuật ngữ, rảnh rảnh tôi nhớ có bài giảng tôi quất tới gần 20 định nghĩa mà rất là dễ nhớ cho bà con. Chứ còn định nghĩa bu lu ba la mệt lắm.


Bốn Đế
Thí dụ, định nghĩa Bốn Đế. Tôi vẫn nói hoài. Nhiều người nói tại sao mà cứ nhắc hoài? Tôi nói, không nhắc sao được. Họ học mình rồi, họ nghe giảng rồi hỏi lại cứ ấm a ấm ớ. Nó lạ như vậy. Chẳng hạn, định nghĩa Bốn đế. Mình phải lựa định nghĩa nào dễ nhớ nhứt.


1/Đế đầu tiên là, Sự thật về Khổ = Hiểu rằng Mọi thứ ở đời đều là khổ, dầu sướng những gì mà cuộc đời, thế gian gọi là sướng khổ buồn vui thiện ác phàm thánh, trên dưới cao thấp trong ngoài gần xa, xưa nay kim cổ,… Tất cả mọi thứ ở đời đều là khổ hết. Trong đống khổ đó nó có một mảnh vụn có tên là tâm Tham.


2/ Tham vừa là Khổ vừa là Nhân sanh khổ. Các vị phải nhớ cái đó. Giống như mầm mía là mình kêu chung từ trên ngọn xuống gốc mình kêu là cây mía. Nhưng cây mía, mầm mía nó nằm ở mắt mía, nó là một phần cây mía. Chứ không lẽ nó nằm ở đâu ? Nó nằm trên tóc tui à ? Nó nằm trên cây mía, nó là mắt mía đúng không ? Nhưng bản thân nó là một phần cây mía nhưng cũng là nguồn cơn, căn cội cho những cây mía khác. Tâm tham nhiều người nói Tham là Tập Đế. Nói vậy là nghèo lắm. Bản thân Tham nó cũng nằm trong Khổ, nhưng nó lại là điều kiện để tạo ra Khổ khác.


Cho nên, nó mới đi đến định nghĩa thế này : Mọi thứ ở đời dầu tinh thần vật chất, phàm thánh buồn vui, sướng khổ,… thảy đều là Khổ hết. Thứ hai, chính vì mọi thứ đều là khổ cho nên mình Thích cái gì cũng là thích trong khổ. Đây là sự thật thứ hai.


Khi anh thích trong khổ, dầu đó là thuộc vật chất hay tinh thần, ngũ dục, sắc thinh khí vị xúc hay là về thiền định, Sắc, Vô Sắc thì tất thảy đều là Thích trong khổ.


Hễ thích trong khổ = Đầu tư cái khổ khác. Đây là sự thật thứ hai, gọi là Tập đế.


Trong kinh Kalama 2 chúng ta sẽ có 1 bài kinh, đức Phật dạy thế này : Mắt là khổ, cảnh sắc đối tượng của con mắt cũng là khổ. Vì sao ? Là vì, Khổ có 2 = Khổ bản chất & khổ cảm giác.


Con mắt mình nó không thuộc khổ cảm giác, nó chỉ là thấy thôi, bản thân nó nếu nói về vật chất nó chỉ là thần kinh thị giác, tròng mắt, võng mạc thôi nó đi với cục thịt tròn vo như trái chanh vậy thôi, nhưng nó gọi là khổ vì là nguồn, từ con mắt dẫn đến bao nhiêu đau khổ, nên dầu bản thân nó không phải khổ cảm giác nhưng nó là khổ bản chất.


Mọi thứ đều là Khổ hết. Không khổ cảm giác thì cũng khổ bản chất là vậy đó. Khi mình thích cái gì cũng là thích trong khổ.


Bài kinh tôi vừa nói là sao ? Ngài dạy « mắt là khổ, cảnh sắc đối tượng của nó cũng là khổ. Mắt, tai, mũi, lưỡi,… đều là khổ. Ai thích trong mấy cái này.


Có nhiều người họ nói « Ủa, tại sao có chuyện thích trong mắt, thích trong tai,… là sao ? » Tôi nói : Đó là cách nói trong kinh. Còn cách nói của mình bây giờ là ai thích thân xác mấy chục ký này chính là thích trong mắt, tai, mũi, lưỡi,… Tại vì, nếu bỏ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý ra thì mình đâu còn gì là thằng Tí, thằng Tèo, con Lan, con Cúc, con Hường, con Yến,…nữa. Đâu có. Không có. Nếu lấy 6 cái đó ra : Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, lấy ra. Bỏ 6 cái này ra thì đâu còn mình nữa. Cho nên, khi đam mê bản thân chính là đam mê 6 căn. Mà có tên nào nó đam mê thân xác nó mà nó không đam mê 6 trần bên ngoài không ? Không. Chưa bao giờ có. Tối ngày nó ăn, nó xăm xoi chuyện mắt tai mũi lưỡi nó. Cho nên, Ngài nói « Ai thích mắt, tai, mũi, lưỡi, thân... Ai thích sắc thinh khí vị xúc.. cũng có nghĩa là thích trong cái khổ. Vì 12 cái ông đó là bản thân tụi nó đã là khổ bản chất. Mà thích trong 12 cái đó có nghĩa là thích trong khổ, mà thích trong khổ có nghĩa là tiếp tục đầu tư khổ mới. Nhớ nha.


Lý do căn bản là : Hiện hữu của mình, sự tồn tại của mình chỉ gói gọn, đơn giản là sự tồn tại của 6 căn. Và, cái này phải thuộc lòng nè :


6 căn chỉ được gọi là 6 căn khi nhận biết 6 trần. 6 trần gọi là 6 trần khi là đối tượng của 6 căn.


Thí dụ như, bây giờ trước mặt tôi là ngọn núi mà tôi không thèm nhìn nó, tôi chỉ nhắm mắt tôi nghĩ về nó, lúc bấy giờ nó là trần thứ 6, pháp trần. Khi tôi mở mắt ra tôi nhìn nó thì nó là sắc trần. Khi tôi không nhìn nó mà cũng không nghĩ về nó thì nó không là trần nào đối với tôi. Mà nó là trần của người khác, của tên nào đang nhìn nó, đang nghĩ về nó, chứ đối với tôi nó không có. Nhớ nha.


Cho nên, 6 trần chỉ được gọi là 6 trần khi nó là đối tượng của 6 căn. Và 6 căn chỉ được gọi là 6 căn khi nó nhận biết 6 trần. Chỉ vậy thôi. Định nghĩa về Khổ là như vậy.


Khổ = Mọi hiện hữu, mọi sự có mặt của bất cứ thứ gì, thiện ác thánh phàm,…


Tập đế = Bất cứ niềm đam mê nào cũng là đam mê trong Khổ.


3/ Diệt Đế = Sự vắng mặt của Khổ Đế & Tập Đế. Chứng La Hán xong mà vẫn còn sống thì chỉ vắng mặt Tập Đế nhưng Khổ đế vẫn còn cưu mang. La Hán tắt thở rồi thì dứt luôn Khổ đế, tức là dứt luôn tấm thân này luôn, vì thân này cũng là một phần của Khổ đế mà.


4/ Đạo Đế = Sống & hành động trong 3 nhận thức về 3 đế vừa kể. Tức là, sống và hành động hít thở, đi đứng, nằm ngồi, ăn uống, nhai nuốt, tiểu tiện, tắm rửa … luôn luôn nhớ rằng : (1) Mọi thứ là khổ. (2) Thích cái gì cũng là thích trong Khổ (3) Muốn hết khổ thì đừng thích trong khổ nữa. Luôn luôn sống trong nhận thức như vậy được gọi là Đạo đế.


Thế nào trong room cũng có người nhảy vọt lên tới nóc, kinh nào kinh nào kinh nào nói như vậy ? Trong kinh nói Đạo đế là Bát Chánh Đạo.


- Dạ thưa bố : Sống trong Bát Chánh đạo = Sống trong Tứ Niệm Xứ.


Mặc dù, tính theo chi pháp, Tứ Niệm xứ chỉ là Chánh niệm trong Bát Chánh Đạo, nhưng thật ra sống tứ niệm xứ tức là sống với Bát Chánh Đạo mà sống tứ niệm xứ có nghĩa là sống với nhận thức rằng : (1) Mọi thứ là khổ. (2) Thích cái gì cũng là thích trong khổ. (3) Muốn hết khổ thì đừng thích trong khổ nữa.


Người học, hiểu, hành Tứ niệm xứ thì hiểu định nghĩa này đúng hay sai.


Buổi đầu, đi biết là đi, ngồi biết là ngồi, buồn biết là buồn, vui biết là vui, thở ra biết thở ra, thở vào biết thở vào, đó là buổi đầu. Nhưng khi cơ duyên chín muồi thì trong lúc ghi nhận đó, người đó sẽ thấy rằng : Đây là sanh, đây là diệt. Cái gì sanh diệt thì cái đó vô thường, cái gì vô thường thì cái đó là khổ. Nhớ cái đó.


Đừng ai tin ai hết, nghe rồi coi hợp lý không, rồi về lục lạo kinh sách, tham khảo hiền giảx trí giả xem coi có phải vậy không. Chứ đừng có vì nhìn bản mặt thằng đang thuyết giảng mình thấy mình không thích mình nói nó nói trật, đa phần con người Việt Nam là như rứa. Ok. Cái đó xài không được. Ok.


Tự nhiên, mới vừa mắng câu, tự nhiên bực không muốn giảng nữa. Ok. Chúc các vị một ngày vui. Và hẹn lại tuần sau./.


(hết)
Reply
Sư Toại Khanh Giảng Kinh Sợ Hãi (version 2 - ngày 5/9/2022)





(Bài dài 1:00:31)

Thiếu 5 cái này là sẽ nằm trong sợ hãi :

assaddho - không có lòng tin
dussilo - giữ ác giới
appassuto - dốt pháp
kusito - biếng nhác
dupanno - ác tuệ

Tội ác hiện diện khi truyền bá những gì mình không hiểu hoặc không tin, vì đó là hành động mê hoặc / nhồi sọ quần chúng .

Thích hoặc ghét là do tiền nghiệp, khuynh hướng tâm lý và môi trường sống (bối cảnh sinh sống) .

Tuy rằng cho dù không tin Chúa hay tin Phật, ta vẫn có thể sống trong đạo đức, nhưng đạo đức này rất máy móc và dễ bị thử thách qua một đe doạ hay một cám dỗ nào đó.  Khi đó, cái thiện của ta sẽ bị nghiêng đổ .  Đó là vì ai cũng có nhược điểm cho mình thích hay ghét một cái gì đó .


I/ Niềm tin

Niềm tin ở đây không phải là tin có Phật, mà là Chánh Tín:

1/ Tại sao tin Phật: Phật là người như thế nào, đã dạy cái gì, và vì đâu tin Phật ?
2/ Tin Chúa cũng như (1) ở trên .
3/ Cho dù là tiến sĩ hay bác sĩ, kiến thức chúng ta rất giới hạn về nhiều mặt, đặc biết trên phương diện tâm linh / tinh thần, chúng ta rất dễ bị bơ vơ . Dĩ nhiên khi tốt nghiệp đại học, ta có khả năng tham khảo tốt hơn là với người chưa xong đại học .
4/ KIến thức rất hạn chế .  Cần thao thức với những câu hỏi: Tôi là ai ? Ở đâu tôi tới ? Tôi là cái gì trong cuộc đời này ? Tôi sẽ đi về đâu ?  Trong cuộc sống trước mắt, tôi sẽ làm cái gì ? Những câu hỏi này cần lời giải đáp từ những nhà tư tưởng, các triết gia, đặc biết là tôn giáo .
5/ Tôn giáo đa phần được định nghĩa một cách bệnh hoạn, tật nguyền .  Tôn giáo là cúng bái, nhắm mắt tin tưởng, cắm đầu thờ phụng một thần tượng nào đó .

Tôi định nghĩa tôn giáo là tìm đến lắng nghe một thần tượng nào đó, dù bản thân người đó không tự nhận là giáo chủ . Thần tượng là đối tượng mà mình tạm thời tìm tới .  Ví dụ: Ông Osho, Krishnamurti, HT Nhất Hạnh, Thanh Hải VTS . Khi tin tưởng các vị đó, đối với tôi, đó là tôn giáo . 

Khi nghe và chấp nhận người nào đó, mình có niềm tin, có lý trí .  "Tại sao tôi nghe bà Thanh Hải / HT Nhất Hạnh / HT Thanh Từ ?" và cuối cùng: "Tôi nghe lời Phật, tôi châp nhận Phật . Tại sao ?"  Đó là vì tôi hiểu cái gì đó và tôi tin theo (11:56). 

Tuỳ theo mức độ sâu cạn rộng hẹp mà mức độ chấp nhận của mình với người đó được bao nhiêu . Sự chấp nhận đó được gọi là niềm tin . Phật tử đừng nên nghĩ rằng mình có pháp danh, có sư phụ rõ ràng, có tên Pali, có địa chỉ của ngôi chùa nào đó mình thường xuyên lui tới cúng dường có nghĩa mình là Phật tử . 

Đức Phật dạy niềm tin phải đặt trên cơ sở trí tuệ .

Niềm tin phải đi đôi với sống thiện, tin vào lẽ Nhân Quả ở đời .  Tin rằng mọi sự ở đời đều có nguyên do, nguyên cớ .  Không có gì tự nhiên mà có, cũng không phải là sản phẩm do một đấng chí tôn nào đó tạo ra . Tất cả do các duyên tác hợp mà có (15:00).

Trong Kinh nói: Nếu có một đấng chí tôn nào đó sáng tạo ra muôn loài, vũ trụ và chúng sinh thì ta nói vị đó rất tàn nhẫn vì đã tạo ra một thế giới nước mắt nhiều hơn nụ cười, vui ít buồn nhiều, sướng ít khổ nhiều . 

Vì thế, có những niềm tin sau đây:

1/ Niềm tin vào Duyên (Vô Ngã): lý Nhân Quả: Mọi thứ sướng khổ ở đời do duyên mà có (không phải là ngẫu nhiên), cũng không phải do ai tạo ra, mà do các duyên thích hợp (16:19) . 

2/ Niềm tin vào Báo Ứng: hạnh phúc phải do duyên lành. Đau khổ chắc chắn phải do duyên ác.  Không thể nào cái ác tạo niềm vui, và cái thiện tạo ra cái khổ được .

3/ Niềm tin vào Vô Thường: không có gì vĩnh viễn .  Không có gì đứng yên mà tồn tại .  Tất cả phải thay đổi, vận hành, xê dịch, di chuyển liên tục, phải thay hình đổi dạng, biến chất, biến thể, và cuối cùng biến mất .

4/ Tin rằng thực sự có những người thực sự hiểu rốt ráo 3 điều vừa kể ở trên .  Họ đuợc gọi là Thánh, là Phật .  

Tin vào 4 điều này có nghĩa là tin Tam Bảo :

1/ Phật là vị đã giác ngộ vào 3 điều đầu tiên .
2/ Pháp là lời dạy của vị Phật .
3/ Tăng là những người thực hành Pháp .

Có thể gọi là niềm tin vào lẽ phải ở đời, sự thật ở đời nếu các bạn không muốn dùng hai chữ "Tam Bảo" .
Ba niềm tin đầu tiên là ngọn hải đăng giúp các vị đang đi trong vùng biển tối thấy đường mà đi.  Tại sao chúng quan trọng như vậy ?

1/ Tại sao niềm tin "Mọi thứ trên đời do Duyên mà có" quan trọng ?

Vì mình sẽ thấy mình chẳng là gì hết, chúng ta chỉ là kết quả của những mối quan hệ.  We're nothing but relationship . 

Ví dụ:  

Tấm thân này bao gồm nhiều thứ, nhiều thành tố tạo nên (hình hài thể xác, buồn vui sướng khổ, thiện ác), khi chết đi, tất cả biến mất . Hội đủ duyên thì mình sống, thiếu tí duyên thì mình nằm liệt giường, thiếu một mớ duyên nữa là tắt thở; tắt rồi thì sao ?  Mất sạch .

Thiện ác buồn vui chớp tắt, lúc thế này lúc thế khác .

2/ Tại sao niềm tin vào "thiện ác" cần thiết ?

Cần chứ . Nhiều người tưởng lầm đâm cha chém chú lừa đảo có tiền sống là OK, nhưng không phải vậy .  Khi sống bất thiền có bạc tỉ trong tay, đêm nghe chó sủa, nghe còi hụ của cảnh sát là hết hồn .  Khi làm bậy, không pháp luật cũng kẻ thù, rồi lương tâm cắn rứt, chưa kể chuyện sa đoạ, báo ứng kiếp sau . Như vậy, cứ nhớ là sống thiện sẽ OK, sống ác là bất ổn, bất an, bất toàn, bất đắc, bất thường .

3/ Niềm tin thứ ba tin vào Vô Thường .  

Niềm tin này rất quan trọng . Những ai đã bước vào tuổi 50 mà còn tiếp tục đầu tư sự nghiệp cho riêng mình (không phải là sống đời, cho chúng sinh rất đáng được khen ngợi) cho danh lợi, tình cảm, tiền bạc, sự nghiệp là có vấn đề . Người Tàu có câu: "Sáu mươi không trồng cây . Bảy mươi không may áo ." 

Liệu mà buông bớt những gì mình thích . Nếu biết mình không có khả năng đó, nên hạn chế sở hữu những thứ khó buông .

4/ Niềm tin thứ tư là có người đã hiểu ba điều trên rồi .  Hiểu ba điều đó rồi nên họ không còn thương - thích - ghét - sợ gì nữa .  Những người đó là các vị Thánh, vị Phật .

Nói là "tin", nhưng đó là "sự chấp nhận, sự đồng thuận đồng tình" với trí tuệ . Khi có niềm tin ngon lành, ta có thể sống an lạc thanh thản . Nếu có một kiếp sau, người sống đúng với ba nhận thức đó sẽ không tệ .

Người có 4 niềm tin tôi vưa nói, sống rất nhẹ nhàng; nếu có chết sẽ rất thanh thản .

Phật Pháp là những viên thuốc chữa bệnh mình phải uống, kiêng ăn, phải vận động thể dục, sống chỗ có gió, thoáng khí, tránh ô nhiễm thì mình mới khoẻ . Phật Pháp không phải là những viên thuốc tiên mình dọng vô, không thèm ăn kiêng, không thèm vận động, không phơi nắng,  thì sai . Phật Pháp là viên thuốc và cần rất nhiều điều kiện khác nữa . 

II/ Giới:
 
Với người hạ că (thiểu trí, ngu): Giới có 5 giới, 8 giới, 10 giới, Sa di giới, Tỳ kheo giới . Không phạm vào những điều bị cấm là OK .  Hiểu như vậy không sai, nhưng đúng chỉ là một ít thôi . Vì không phạm giới chưa chắc là giữ giới .  

Khi có cơ hội phạm mà anh không phạm, không muốn phạm, không dám phạm mới đúng là giữ giới .

Trái lại, anh cạo đầu, ở chùa có máy lạnh, cơm bưng nước rót, Phật tử vô quỳ lạy cúng dường, dùng phone để chat, gọi người này người kia .  Thời Phật không có phone:  Đức Phật không cấm chat, email; làm gì có mà cấm ?

Giữ giới có nghĩa là luôn luôn trong tình trạng cảnh giác với thân nghiệp, khẩu nghiệp bất thiện, những sinh hoạt lớn bé trong tham sân si .  Đó là nghĩa rộng, nghĩa sâu của Giới . 

Hỏi: Nếu mình nói tôi không phạm 5 giới nghĩa là tôi giữ giới? 

Đáp: Chưa chắc .

Khi gặp thử thách, gặp cám dỗ mà anh không phạm, mới là giữ giới .

Nghĩa sâu của giữ giới là luôn luôn trong tình trạng cảnh giác với thân nghiệp, khẩu nghiệp bất thiện (những sinh hoạt lớn bé tác động bởi tham, sân, si).  Khi gặp thử thách, gặp cám dỗ mà không phạm, đó mới là giữ giới .

Giữ giới có nghĩa là 
  1. cố ý kiêng tránh không vi phạm điều bậy và 
  2. phải kèm với trí tuệ
Vi phạm giới có 3 điều hại:
  1. hại mình trước mắt.
  2. hại người trước mắt, như khi mình sát sanh, trộm cắp .
  3. phát triển tội lỗi, phiền não cho mình trong đời sau, kiếp khác .
Như vậy, kiêng tránh giới luật nói riêng và điều xấu nói chung là giữ giới . Người không kiêng tránh tội lỗi cũng khó sống yên tâm vì không biết sợ tội . Giới có nghĩa là kiêng tránh .
Reply
http://vietbestforum.com/showthread.php?tid=23888&pid=444810#pid444810

Post # 10, trang 1 của thread trên nằm trong quote nên LTP mang nó ra ngoài   [Image: shy.png]:  Phần chữ xanh là câu trả lời của anh abc, chữ đen là ý kiến của anh Tuỳ Duyên .

-----------------------------------------

bạn TD, vì bạn đề cập đến Phật pháp nên có vài góp ý với bạn 

Tuy duyen Wrote: Có 3 loại người im lặng

1. Im lặng, chờ thời gian để trả thù, nhịn cái nhục để chờ ngày bộc phát
2. Im lặng cho qua chuyện, đúng sai không bận lòng
3. Im lặng để phát triển lòng từ bi --- vì từ bi nên họ im lặng chứ ko phải muốn im lặng không phát triển lòng từ bi . Nói về có mấy cách trả lời cho một câu hỏi , một vấn đề thì kinh điển có và là một đề tài thuờng được các Sư thuyết giảng . Có lẽ vì điều 6 dưới kia mà bạn xem thường kinh điển , ko thèm học hỏi và chỉ thích học hỏi những cái gọi là ngoài luồng nên mới ra nông nỗi

nhưng không phải lúc nào cũng im lặng, lúc cần nói thì nói, nói đúng chánh pháp, nói như kiểu nói mà XX đã post lên bên kia đó.
những câu kinh bạn XX post là dùng để răn mình , chứ không phải dùng làm cái cớ , rằng thì là mà ... lúc này tui cần nói , tui nói đúng chánh pháp ....vân vân

Không phải cứ tu hay tu giỏi là không có kẻ thù, Phật Thích Ca cũng có kẻ thù* và Ngài Mục Kiền Liên cũng bị kẻ thù xô đá đè chết dù mang danh là thần thông đệ nhất. Làm cách mạng, thay đổi một hệ thống, một tư tưởng dù là chính trị hay tôn giáo cũng sẽ có nhiều kẻ thù.
Đức Phật không có kẻ thù , chỉ có người ghen ghét Ngài thôi chứ không có thù ghét . Lấy Ngài Đạt Lai Lạt Ma làm thí dụ thì rõ ...Đức Thế Tôn còn ngàn vạn lần hơn . Ngài MKL bị người ghen ghét đánh chết (có thể tạm gọi là loạn đả) còn xô đá là Dề Bà Đạt Đa xô đá làm chảy máu chân Phật . Một lần nữa vì điều 6 dưới kia mà bạn xem thường kinh điển

* nhóm người thuộc Bà La Môn giáo hay chính trong tăng đoàn của Phật do Đề Bà Đạt Đa làm thủ lãnh lấy đi gần phân nữa các tăng chống lại Đức Phật Thích Ca.

nói về Sư Viên Minh thì nói ngắn gọn như vầy: (SVM nói không sai , nhưng Sư chỉ dạy thuần về nguyên lý , mà không chỉ ra phưng cách thực hành ... do đó bạn bị cái tui tạm gọi là "tẩu hoả nhập ma" )

1. Tu là một quá trình thay đổi nhận thức và hành vi từ sai xấu qua đúng tốt. Quá trình tức là phải có thời gian để thay đổi từ từ.
Nếu bạn có nhận thức đúng thì tui nghĩ không có những xung đột từ VF tới VB

2. Trong sinh hoạt hàng ngày phải: thận trọng chú tâm quan sát để đến mức cao hơn là sáng suốt định tĩnh trong lành.
bạn có thực hành thận trọng chú tâm quan sát chưa ? 

3. Mình là chính mình chứ không bắt chước ai khác, ngay cả không làm con rối cho các thiền sư.
câu này là con dao hai lười , các thiền sư , các Sư, các vị đạo đức là tấm gương để bạn học hỏi, không nên học tất cả mà phải chọn loc ... nhưng không có nghĩa là vịn vào đó mà khăng khăng .. tui la tui , tui nói đúng chánh pháp , tui chỉ muốn khai sáng cho các bạn ... vân vân

4. Sống ngạy trong giây phút hiện tại, không đóng khung chết cứng hiện tại, như cái đồng hồ chạy đúng giờ, lúc nào cũng tíc tắc, ngưng là đồng hồ chết, còn nhanh quá hay chậm quá cũng chiếc đồng hồ vô dụng.
vẫn câu hỏi vừa rồi, bạn có thực tập không ?  những vấn đề , thread , post bạn post xuất phát từ cái ngã quá bự , khi đó bạn có sống trong hiện được không ?

5. Tham cũng được, sân cũng không sao, quan trọng là phải thấy ra, thấy ra càng sớm thì tu càng khá.
câu này mới đọc thì thấy có lý , chỉ cần thấy ra nó là sân là tham là xong , tham cũng được , sân cũng không sao ... vậy thấy ra để làm gì ?  Khi có học và có hành , bạn sẽ nói rằng ... .thấy mình đang tham , đang sân mới là quan trọng còn bạn đã sân và đã tham là chuyện đã qua ....khi bạn thấy là lúc bạn ko tham , ko sân .. nhưng thấy ra là một chuyện còn rèn luyện cho mình bớt tham , bớt sân cho đến khi nào không còn khi nào tham sân nữa mới đúng lời Phật dạy ... chứ nói tham cũng được , sân cũng được là sao ?

6. Không lệ thuộc vào kinh điển và các nghi lễ rườm rà của tôn giáo.
câu này chỉ đúng một nữa , có những nghi lễ cho dù rườm rà nhưng nếu dụng tâm đúng sẽ là những dịp rất to6t' để hoàn thiện mình .... còn kinh điển thì nói ko lệ thuộc thì chung chung quá ... khi bạn hiểu được kinh điển một cách thâm sâu thì bạn không còn phát biểu linh tinh như vậy nữa

tạm thời Td chia sẻ với Xí Xọn nhiêu đây thôi ha, nghe sư giảng đi rồi thấy ra cái gì  [Image: grinning-face-with-smiling-eyes4.png]

-----------------------------

vài lời chia xẻ cùng bạn  , không phải là chánh pháp hay cái gì lớn lao ... chỉ muốn bạn "thấy ra" chút gì thôi


với tâm từ

tui

------------------------

[Image: thanks-sign-smiley-emoticon.png]
Reply