LTP Học Phật Pháp
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng về Quan Hệ Giữa Duyên Hệ và Duyên Sinh (4-4)

1:07:02

Chỉ lệ thuộc vào các điều kiện là đã khổ rồi.

Có một chiếc xe cà tàng khi tôi giảng xong, đưa tôi về khách sạn tôi thích hơn là chiếc limousine chờ tôi ở dưới. Tôi giảng xong, ổng chở tôi đi, ổng nhậu.

Lệ thuộc các điều kiện tôi ngán lắm. Thấy chiếc pickup cái gì cũng kêu, cái kèn cũng kêu, miễn là nó đưa tôi về nhà thôi. Còn đàng này, một chiếc limousine, lệ thuộc người tài xế, tùm lum.

1:07:37

Khi tôi đi dạy học, tôi đến nhà Phật tử, tôi biết cảnh lệ thuộc rồi. Cái bàn ăn họ dọn ra gần như là mâm vàng chén ngọc sang trọng. Họ sạch quá. Gia đình nghèo nghèo một chút, dơ dơ một chút, nó tự do. Còn cái kia, mình sơ ý. Họ mời mình ra uống trà chiều, họ trải khăn. Mình sơ ý, để đồ mình ra thấy mất tiêu rồi, có cái khăn mới nằm đó. Tôi khó chịu liền. Nó quá mức đi. Việt Nam gọi là "quá cỡ thợ mộc". Tôi sợ quá. Tôi nhà quê mà, phủi phủi chân, ngồi dưới đất. Tôi rất sợ lệ thuộc các điều kiện.

1:08:34

Biết đó là một cái khổ. Dĩ nhiên, ở cái chỗ có quá ít điều kiện là một cái khổ, nhưng ở một chỗ có quá nhiều điều kiện cũng là một cái khổ. Vì vậy, nên tôi nói rất là kỹ, rất rõ tại sao chữ Khổ trong đạo Phật mình, đa phần Phật tử mình hiểu sai.

Vì khổ là những gì làm mình khó chịu. Cho nên họ rất là khó chịu khi mà họ nghe nói: Đời là bể khổ. Đời có vị ngọt, có vị đắng. Tại sao lại nói đời là bể khổ? Vì họ hiểu sai, hiểu quá cạn chữ Khổ. Biển khổ có hai: một là khổ cảm giác, hai là khổ tình trạng.

  1. Khổ cảm giác dễ hiểu.  Khổ cảm giác là pain, là suffering.
  2. Khổ tình trạng là sao? Ay yà, một kiểng hai quê khổ thiệc. Có biết cái khổ này không? Một kiểng hai quê là sao ta? Một tay mà phải chia đôi đó. Hiểu không? Hoặc là trời ơi hai con nhỏ bạn nó mời đi party cùng một lúc; làm sao ta? Bỏ đứa này theo đứa kia. Khổ thiệc.  Cái khổ đó là khổ tình trạng.
Được mời đi ăn tiệc có gì mà khổ? Nhưng bản thân của sự khó xử đó là khổ.

Như vậy, khổ có hai nghĩa đó là khổ cảm giác hay là khổ tình trạng. Phải hiểu như vậy đó mới thấy đời là biển khổ. Còn nếu hiểu khổ là cái gì đó làm cho thân tâm khó chịu, là pain là suffering là hiểu còn nghèo. Khổ có ba:

  1. Pain, suffering
  2. Impermanent, unstable
  3. Technical: depending on, là lệ thuộc vào các điều kiện
Người nói Phật Pháp cũng có ba hạng: Thượng, trung, hạ căn

  1. Bậc hạ căn: họ đến với đạo bị khổ thân khổ tâm, họ chịu không nổi. Họ chỉ đến với đạo về cái khổ thô.
  2. Bậc trung căn: đến với đạo với cái khổ tế hơn một chút. Họ thấy cái hoa héo, thấy sự tan rã của gia đình của mình hay của người khác là họ đi tu.
  3. Bậc thượng căn: thấy sự vô nghĩa của đời sống của họ, thấy sự lệ thuộc các điều kiện, họ đi tu.
Trong Kinh nói có bốn loại ngựa:

  1. Thấy dáng roi là nó chạy.
  2. Quất một cây mới chạy.
  3. Quất hơi nhiều mới chạy.
  4. Đập chết cũng không chạy.
Bốn loại người tu:

  1. Ở đây, có người chỉ nghe một câu thôi gió thổi mây bay là họ đi tu rồi, như con ngựa thấy dáng roi.
  2. Hạng thứ hai là quất một cây nó mới chạy. Nghĩa là nó thấy gì đó, nó shocked. Nó thấy chuyện của người ta mà nó shocked.
  3. Hạng thứ ba bị quật hai ba cái rồi nó mới kéo. Nghĩa là nó thấy chuyện xảy ra trong nhà của nó, hoặc trên bản thân nó, nó mới chịu đi tu.
  4. Còn hạng thứ tư cháy nhà, nghe cải lương, không thuyết pháp, không tụng kinh.
Cho nên bốn loại ngựa. Hạng thứ nhất thấy dáng roi là chạy. Thứ hai là một roi rồi mới chạy. Thứ ba là đánh đau mới chạy. Thứ tư đập chết không chạy.

Con người cũng vậy. Có hạng chỉ cần nghe Phật Pháp, nghe trộm nghe lén nghe lóm bèn đi tu.  Hạng thứ hai là thấy cái gì đó, là đi tu. Hạng thứ ba xảy ra trên người nó, trên người thân của nó, nó mới đi tu. Mình tự xét mình là loại nào.

Nghe thiện pháp, chưa kết hôn được thì nên đính hôn; còn ác pháp, chưa ly dị được thì nên ly thân. Nhờ nghĩ vậy, mình không mặc cảm.

Chưa kết hôn được thì nên đính hôn nghĩa là làm sao? Có nghĩa là chưa xuất gia được, nhưng mà mình đã sắp xếp mọi thứ để có dịp là nhấn nút.

Còn đối với ác pháp, chưa ly dị được thì nên ly thân nghĩa là chưa dứt hẳn, nhưng cũng nên sắp xếp để ngủ riêng.

Có bà đó bị chồng làm gì đó, bả tức. Bà nói tui mà còn dựa ông đạn nó ăn tui. Bữa đó, bả nhớ ông, bà ngồi bà dựa ông. Ông nói em làm như ...??

1:14:10

Mình tự hỏi mình mình là loại ngựa nào vì chính kiểu tu hành của ta hôm nay sẽ quyết định kiểu tu chứng của ta mai này. Có những người nghe được một câu là xong. Có người phải cạo đầu đắp y vài bữa mới đắc. Có người phải cạo đầu đắp y rồi lên rừng sâu núi thẳm, lam sơn chướng khí, ma thiêng nước độc, tu hành làm bần tăng khổ sãi, coi như banh xác luôn, muỗi mòng cắn má nhìn không ra, đói không có ăn, bệnh không có thuốc, lạnh không có gì đắp, mấy chục năm mới chịu đắc. Sớm muộn cũng đắc nhưng mà thời xưa anh tu kiểu gì, bây giờ nó ra nông nỗi đó? (Ngày gặp Phật cũng A La Hán mà anh nhìn cũng thấy (lắc đầu chép miệng) hết muốn đắc giống ống luôn.)

1:15:24

Có nhiều vị sướng lắm, đang làm hoàng tử, đang làm công tử thấy người ta đi chùa bắt chước đi theo, mình mẩy vòng vàng không, nghe Phật nói có một câu thôi. Phật vừa nói xong, quỳ xuống dưới chân Phật xin cho con xuất gia. Phật đưa tay như thế này: "Tới đây, này Tỳ Kheo, hãy tới với Như Lai". Lập tức râu tóc tự rụng, y áo đầy đủ trên người. Đó là tại vì kiếp trước từng làm người bố thí cúng dường y đó, từng học đạo, từng học thiền, từng đầu đà, từng cúng dường Kathina, nên bây giờ khi gặp Phật, Phật đưa tay hãy tới đây Tỳ kheo là có hết. Còn có cha, trời đất ơi, vô rồi tu rồi nhà nghèo, không có y, rồi lượm vải dơ, rồi giặt, rồi nhuộm, rồi may, rồi kiếm thêm tấm nữa, rồi mưa gió lạnh lẽo, có thể bị chuột cắn lủng, kiếm đồ rồi chắp vá, thấy thương lắm. Có cha cái chày cái .. còn dư một bộ, giàu, có phước có lộc. Có cha coi như đi tu cả đời không biết lo là gì. Có cha quởn cái bịnh, bịnh hoài. Ở chùa tôi biết có vị sư chung với mình, ăn chung mâm, mà nó cứ mập tới, làm như thở cũng mập. Còn có cha quanh năm, ta nói, nội dầu gió xức... Ở trong chùa, chiều đến, là choàng đầu, sổ mũi, cảm, mang vớ, nằm trùm co ro, trời tắt nắng, là mấy bà Phật tử vô. Ngộ lắm, đúng cái giờ đó là vậy.  Mình tưởng thằng chả nhõng nhẽo giả bộ, nhưng không. Làm đúng như là bệnh thiệc. Đúng cái giờ bà xẹc lại là ảnh áo mão cân đai, sắm tuồng y như vậy, xức dầu sau gáy thái dương mỏ ác, trùm khăn, nằm thiêm thiếp thiêm thiếp, là bình thường. Còn không đúng với cái lễ bộ đó là coi như nó bệnh. Ngộ lắm.

Cho nên, trong chùa từ nhỏ tới lớn, tôi thấy cái nghiệp ngộ.  Có vị vô trong đó học là ngủ gục mà ngáy. Đào giếng, vét mương, sơn sửa, xóc nóc, tỉnh bơ leo lên như sóc, lẹ lẹ lẹ. Lạ thiệc. Chỉ cần vô lớp học là ngủ gục, ngáy chảy nước. Giật mình ngồi thẳng, một hồi là cũng gật. Máu chảy về tim. Cái nghiệp hôn trầm. Yeah.

1:18:27

Phật tử ngộ lắm. Vô chùa là lao thẳng xuống dưới bếp, vô nhà cầu, kiếm gì dơ nặng hôi rồi họ làm. Còn chùa quê thì thích ra ngoài vườn róc lá dừa. Có người vô chùa là nhảy lên kiếm sách đọc. Có người nhảy lên chánh điện kiếm chỗ ngồi thiền. Có người ... sáng tới chiều luôn. Nó ngộ lắm. Có tên đó nó vái, nó khấn cái gì mình không biết. Nó đi chùa nó xin xăm.

1:21:49

Tùy cái kiểu tu của anh hôm nay. Với cái đức tin tào lao quá đi, mai này anh gặp Phật anh học chậm lắm vì anh nặng về đức tin mà. Anh tu kiểu gì, sẽ hao hao kiểu đó.

Có người vô chùa họ thích nghiên cứu Kinh sách, có người thích ngồi thiền, có người thích phục vụ. Ngộ lắm. Có người vô chùa là thò tay vô túi cúng dường, tôi không thích nghe pháp, không thích tụng kinh, không thích phục vụ, không thích khấn gì hết, chỉ vô chùa lấy tiền ra cúng dường. Có người thích làm từ thiện mà không thích tôn giáo. Họ nghe Chúa chùa thì họ không thích, nhưng mà cùi đui sứt mẻ thì họ lại khoái. 

Chính vì những kiểu đó, mai này kia mình gặp Phật ra đời, mình có cái kiểu tu hành không giống ai. Nó lạ lắm.  Tôi làm ác, rồi tôi làm thiện, tôi qua tôi làm ác.

Chính vì mỗi người có những kiểu ác khác nhau, cho nên khi chịu khổ, có những nỗi khổ khác nhau. Có nhiều người thích làm cái kiểu đâm sau lưng chiến sĩ. Có người thích nói thẳng vào mặt người ta, có người thích đâm thọc. Tùy cái ác mà mai này cái quả nó trổ ý chang vậy.

Sẵn đây tôi nói luôn. Trước khi nhập Niết Bàn, Đức Phật có nói một câu cuối cùng: "Mọi thứ ở đời đều vô thường. Hãy tinh tấn, chớ dễ ngươi." Chữ dễ ngươi, tiếng Pali là ..

1:23:46

Chữ "dễ ngươi" có nghĩa là làm sao? Dễ ngươi gồm có 3 nghĩa:

  1. Một nghĩa là coi thường điều ác nhỏ rồi không tránh.
  2. Coi thường điều lành nhỏ rồi không làm.
  3. Không sợ sanh tử. Có nghĩa là sanh vào nơi nào đó thiệc là cao thiệc là sướng là xong. Không được. Dầu cõi nào đi nữa, còn tái sanh là còn khổ.
Như vậy, có 3 cái dễ ngươi.

Một là coi thường điều ác nhỏ rồi không chịu tránh. Ví dụ như đập muỗi, giết kiến, giết gián.

Thứ hai là coi thường điều lành nhỏ rồi không chịu làm, như đang đi lơn tơn, gặp một miếng lá làm ơn vứt vào thùng rác. Đằng này: Ố ăn nhằm cái gì?. Đó là coi thường điều thiện nhỏ rồi không làm. Hoặc nhiều khi người ta là bạn học đạo, người ta không hiểu hỏi mình, mình đang làm biếng cũng ráng. Cái nào biết thì nói. Cái nào không biết thì mách người ta hỏi ai đó.


1:25:00

Mình phải tin kinh tin sách. Ba ngàn bốn trăm lẻ bốn cuốn, xá gì ba cái điều nhỏ nhỏ đó.  Sai.

Trong Kinh nói chớ coi thường điều ác nhỏ vì từng giọt nước nhỏ làm tràn bình. Chớ khinh điều thiện nhỏ rồi không làm vì từng giọt nước làm tràn bình.

Hôm nay, đi lại những động thạch nhũ mới thấy. Có những thạch nhũ mà nó mấy mét luôn. Hình ảnh của nó là hàng triệu năm. Nước trên trần có chứa can xi (calcium). Giọt nước nó nhỏ xuống nó đọng lại một chút nhiều triệu năm. Ở bên đảo Madagascar có hang động đẹp lắm. Có cái hang giống như trống, như chuông. Tất cả là do nước nhiễu xuống. Trước khi nó rớt, nó đọng lại chút can xi. Qua nhiềđườngu triệu năm, nó ra như vậy. Phật quả cũng vậy. Một a tăng kỳ là 10 lũy thừa 140 đại kiếp. Phật Thích Ca Mâu Ni đi con  nhanh nhứt là 20 a tăng kỳ. Lâu  Nghĩa là cách đây một triệu năm, Ngài vẫn tiếp tục tu hành tới lúc Ngài thành Phật, tức là cái gì Ngài cũng có, cái gì Ngài cũng biết, ai Ngài cũng thương. Cái gì Ngài  có, có nghĩa là Đệ Nhứt Trí Tuệ, Đệ Nhứt Đa Văn, đối với Ngài giống y. Ai Ngài cũng thương, và đặc biệt là cái gì Ngài cũng biết.

Phật lực vô biên, Phật trí vô cùng, Phật tâm vô lượng, nhưng không thể độ người vô duyên. Nhớ cái đó.

Trong Kinh Đức Phật dạy rằng giống như một người lọt xuống sình. Nếu họ lọt xuống sình tới mắt cá thì cứu họ rất dễ. Lọt xuống sình tới đầu gối, cứu được. Tới lưng quần, tới rún, tới ngực, tới cổ cũng cứu được. Lọt xuống sình tới trán cũng còn cứu được. Thậm chí lọt xuống tới tóc, cũng nắm mình lên, cứu được.  Nhưng nếu mình lọt không ló cái gì hết thì người ta biết ở đâu mà cứu?

1:28:00

Cũng vậy, Ngài nói có những người mà cái ác của họ nhiều quá, nhưng còn có thiện để Như Lai nắm. Có những người cái ác nhiều đến mức không có chỗ để Như Lai nắm được.

Tại vì chúng sanh có nhiều hạng:
  1. Có hạng ác nhiều hơn thiện,
  2. Có hạng thiện nhiều hơn ác,
  3. Có hạng thiện ác bằng nhau
Đó là kể gọn. Còn kể chi tiết thì ác nhiều hơn thiện là bao nhiêu phần trăm, ví dụ 9:1, 8:2, 7:3, 6:4, 5:5; thiện nhiều hơn ác cũng vậy, 9:1, 8:2, 7:3,  6:4, 5:5, có hiểu tôi nói không? Cái 6:4 cũng là chênh lệch nhưng không bao nhiêu, cái 9:1 khó cứu.

Trong Kinh nói, cái khổ nghiệp cận tử, cái người mà ác nhiều quá thì người hộ niệm phải là thiện nhiều hơn ác mới hộ niệm nổi. Nó phải tương đương vậy đó. Loại thiện ác 5:5 thì ông 5:5 ông tới ông chữa được. Cái 6:4 cũng có thể chữa, nhưng mà cái ác:thiện là 9:1 thì cha tới tụng phải là 9:1 hoặc là không có ác luôn.

1:29:40

Có những người coi như lúc họ cận tử, cái lòng của họ kín bưng không có chỗ nhét. Các vị biết mấy người xì ke khi vô nước biển không biết đường đầu mà vô. Cũng như vậy mấy người sống bằng thiện giống như mấy người hút xì ke vậy đó, cái gân thiện pháp, cái tĩnh mạch, cái vein thiện pháp nó mất cha nó rồi.  Tụng Kinh mấy ông sư cầm ống chích không biết lụi chỗ nào. Tôi dạy học tôi gặp loại đó nhiều lắm. Nhìn họ là biết không vô nước biển được bởi vì gân mẩt tiêu hết trơn rồi. Quý vị tôi thấy trong này xì ke cũng nhiều. (Cười)

------------

Khách sạn dù 5 sao chỉ là nơi ở tạm, không thoải mái bằng ở nhà.  Chỗ ở của bậc A Na Hàm cũng chỉ tạm, không bằng Niết Bàn.
------------
Người không biết gì thì thích tùm lum, biết rồi thì oải lắm.

(Hết)
Reply
Ác đồng nghĩa với Bất Thiện trong Phật giáo.


Thiện là những gì tốt đẹp.
Bất thiện, Ác là những gì không tốt đẹp.

---------

Còn một cặp chữ nữa là Chánh và Tà.

Chánh đồng nghĩa với giải thoát.
Tà đồng nghĩa với dính mắc vào vòng luân hồi.

Ví dụ: 

Chánh kiến và Tà kiến
Chánh đạo vs Tà đạo

Thực ra, Thiện và Chánh tương đương, đồng nghĩa.

Bất thiện (Ác) và Tà tương đương, đồng nghĩa.

------------

Phật giáo dạy có 2 điều:
  1. giải thoát khỏi luân hồi (thoát Khổ),
  2. trôi lăn trong luân hồi (Khổ).  
Tà, bất thiện, ác, dính mắc nằm trong luân hồi.
Chánh, thiện, buông xả là những phương tiện ra khỏi luân hồi.

-----------

Đi sâu hơn.

Phật giáo dạy Chân Đế vs Tục Đế.

Chân Đế là sự thật tuyệt đối.
Tục Đế là sự thật tương đối.

Chánh, Thiện, buông xả nằm trong Chân Đế.
Tà, Bất Thiện (Ác), dính mắc nằm trong Tục Đế.

Vượt qua được cả hai (Chân Để và Tục Đế) được gọi là Giải Thoát.

---------

Vì thế, Phật giáo dạy rõ ràng trắng đen không lẫn lộn.

Sở dĩ những lời dạy trong các tôn giáo khác như Lão giáo dạy trong đen có trắng, trong chánh có tà là vì Lão giáo dạy cách sống trong Tục Đế.

Phật giáo dạy khi làm việc thiện, chúng ta phải cảnh giác tâm lúc đó có dính mắc không.  Nếu có dính mắc, không giúp gì trên con đường giải thoát.
Reply
Vì Ác có 2 nghĩa:

  1. Hoàn toàn xấu, tệ.
  2. Đẹp, tốt trong luân hồi.

Nên tâm chúng ta có 3 loại:
  1. Hoàn toàn buông lung, không cần biết hành động của mình có hại hay không có hại đến bản thân và tha nhân.
  2. Hướng về thiện để được hưởng phước báu trong cõi trời và người.
  3. Hướng về thiện để giải thoát khỏi cõi trời và người.
Vì thế, khi nói "Nhân chi sơ, tính bổn ác" trong PHẬT GIÁO có nghĩa là tâm con người từ lúc mới sinh ra nằm trong hai loại đầu.

Muốn giải thoát, Phật tử vẫn phải hành thiện, nhưng với tâm không dính mắc.

Dĩ nhiên, KHỔNG GIÁO không dạy về định nghĩa thứ ba, nên Khổng Tử dạy "Nhân chi sơ, tính bổn thiện".

Đối với Phật giáo, tâm nằm trong hai loại đầu thuộc về ÁC.
Reply
Sư Toại Khanh Giảng về Khái Niệm Về Vô Thường - Vô Ngã - Hành Giả Tứ Niệm Xứ (1-4) 

http://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/Sydney%202019/003.%20Kh%C3%A1i%20Ni%E1%BB%87m%20V%E1%BB%81%20V%C3%B4%20Th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20V%C3%B4%20Ng%C3%A3%20H%C3%A0nh%20Gi%E1%BA%A3%20T%E1%BB%A9%20Ni%E1%BB%87m%20X%E1%BB%A9 

[01/07/2019 - 01:11 - caoxuankien ] Stay in mindfulness even if your mind is full 

Trong từng phút chứ đừng nói từng giờ, cách suy nghĩ và cách sống của chúng ta đều mang đậm cái dấu ấn của con người của mình từ tiền kiếp - có nghĩa là từ tiền kiếp tôi đã có thói quen như thế nào đó nên bây giờ khi tôi làm chuyện tầm bậy gì đó (ăn chơi, nhậu nhẹt sân si bạo on lực ...) thì cái bất thiện đó nó cũng phảng phất cái con người cũ của tôi trong các tiền kiếp.

[04/07/2019 - 12:15 - phongheo.qn8001] 

Khi tôi tu hành cũng vậy,tôi đi nghe pháp, tôi học đạo, tôi ngồi thiền, tôi bố thí tôi cúng dường tôi phục vụ cái gì đó thì trong việc làm ấy đều phảng phất con người cũ của tôi.

Cho nên tại sao mình phải sống chánh niệm bà con nhớ không? Tại sao phải sống chánh niệm ("Mindfulness even if your mind is full") bà con hiểu không, cái đầu you đầy nhốc rồi you cũng phải sống chánh niệm.là bởi vì 3 lý do: 
  1. là mình không biết mình sẽ chết lúc nào, mình ra đi trong sự tỉnh táo còn tốt hơn là ra đi trong sự hoảng loạn. Ra đi có sự chuẩn bị. 
  2. khi mình sống chánh niệm mình sẽ không bỏ lỡ cơ hội chứng đạo, có hiểu không. Cơ hội chứng đạo rất quan trọng.
  3. Có một điều tui nhắc hoài mà sợ bà con không biết hoặc quên đó là đối với một người đầy đủ ba la mật, biết ba la mật là cái gì không. Tui giảng mà tui cũng run lắm. Ba la mật nghĩa là bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có khả năng thực hiện các hạnh lành, ai cũng có khả năng bố thí chút gì đó, ai cũng có khả năng khả năng dắt người khác qua đường, ai trong chúng ta cũng có khả năng làm cái hạnh lành nào đó. Và bất cứ ai trong chúng ta cũng thuận tay trái hoặc tay mặt. 
 
[04/07/2019 - 01:15 - phongheo.qn8001]
 
Thì cũng vậy, ai trong chúng ta cũng có khả năng làm cho mình và người khổ đau và hạnh phúc, quý vị có tin điều đó không. Vấn đề là chúng ta thuận tay nào, có người rất giỏi trong vấn đề làm cho người khác khổ, và rất dỡ trong vấn đề làm cho người khác an lạc. Tôi cũng đã từng gặp hạng người đó rồi, tức là tới lúc họ chịu tu rồi như Trư Bác Giới mà chịu tu.... Có người khả năng làm bậy rất lớn nhưng khi họ hồi đầu thì khả năng tu tập của họ rất bén, phải làm sao đem lại đóng góp cho người khác. Ngược lại có những người cái khả năng làm thiện của họ lớn hơn khả năng làm ác, có nghĩa là cả đời họ cái chuyện mà họ nói dối, họ nói một câu làm người khác đau lòng nó khó dữ lắm. Tui may mắn gặp được vài người có khả năng như thế. Một phần là bản chất hiền lương, một phần là được lớn lên trong một môi trường sống bối cảnh gia đình rất là đạo đức. 

Có một cô năm nay hơn 60t. Tôi nói vơi cô: Cô ơi, cô đầu thai lộn rồi. Người như cô đáng lý phải chết từ lâu rồi vì dễ bị người ta gạt. Nhìn mặt cô tôi cũng quý lắm nhưng cũng rất muốn gạt vì nhìn ngây thơ quá. Cô rất thật thà, nói gì tin nấy. Tôi cho rằng con người của cô một là đại gian, hai là đại hạnh. Đại gian nghĩa là cô có khả năng giả nai quá tốt khiến ai cũng tin. Cho nên ai trong chúng ta cũng có khả năng làm ác, làm thiện. Ai trong chúng ta cũng có khả năng đem lại nước mắt và nụ cười cho người khác. Vấn đề là khả năng nào vượt trội hơn. 

Ba La Mật là gì? là khả năng làm thiện; nhưng trong làm thiện có hai:
  1. Làm thiện với ý cầu giải thoát gọi là Ba La Mật 
  2. Làm thiện mà cầu quả nhân thiên, mong cho kiếp sau được đẹp, được giàu, tài giỏi, quyền lực... gọi là thiện hữu lậu, thiện sanh tử. 
Thiện hữu lậu nghĩa là thiện mà vẫn còn dính líu đến con đường sanh tử. Phần nhiều Phật tử chưa phải là Phật tử thật vì đến với đạo mà không cầu giải thoát: 

  1. Thứ nhất: có khi chỉ vì đi theo truyền thống gia đình; bà ngoại đi chùa, má đi chùa, thế là tôi đi chùa. 
  2. Thứ hai: gia đình có chuyện buồn, hữu sự vái tứ phương. Đang có tâm sự trùng trùng, không biết nói với ai; đem vô chùa gởi. Kiếm thầy chùa để tâm sự, khóc lóc. 
  3. Thứ ba: Người quen rủ đi chùa. 
Đi chùa vì tò mò. Lúc đầu chở bạn đi chùa rồi ngồi chờ bạn về. Ngồi lâu quá muỗi đốt; thế là vô chùa nghe pháp. Nghĩa là biết Phật nhờ mấy con muỗi. 

Có câu này rất là Phật pháp về mấy con muỗi: "Vì mày tao phải đập tao, vì tao tao mới đập mày, vì mày tao đập cả tao lẫn mày." 

Cuộc sống này là thương trường, là nơi ta phải trả giá nên gọi là chợ đời. Mọi thứ phải được mua bán. Cho nên có khi muốn có một nụ cười phải trả 1 cái giá rất là đắt. Vi du như khi bạn nhức răng, đang bị nợ nần, đang bị truy nã, gia đạo đang có vấn đề.... Chúng ta có cười được không? Không. Nghĩa là chúng ta phải có một cuộc sống, sức khỏe, tài chánh ổn định đến mức nào đó, chúng ta mới có thể cười được, đúng không? Có một thời gian, quý vị biết không, tôi không thể cười nổi. Đó là khi tôi khởi sự kêu gọi xây dựng thiền viện. Cười không nổi. Nửa đêm đang ngủ thấy có người báo: đủ tiền rồi. Giật mình thức dậy, mới mười mấy ngàn (USD).Hoặc đang ngủ nằm mơ thấy anh thủ quỹ gọi phone nói: ông thí chủ hôm trước hứa cúng 20,000 USD, nay hồi rồi. Giật mình thức giấc. Đủ cách , đủ kiểu... đến nỗi đến ngày cuối cùng, tôi không còn tin ai nữa hết. Tóm lại, muốn có 1 nụ cười, không phải dễ.

 [25/12/2019 - 05:58 - dieulienhoa67] 

Vì chúng ta phải có một nền tảng như thế nào đó: sức khỏe, tâm lý, tài chánh, quan hệ xã hội... thì mới có thể cười được. Sáng giờ ở đây quý vị cảm giác dễ chịu hay khó chịu; cái nào nhiều hơn? Ý tôi muốn hỏi trong đời sống hàng ngày, cảm giác dễ chịu/khó chịu... cái nào nhiều hơn? (Nhiều người nói dễ chịu/khó chịu). Đó là vì ta thất niệm nên mới thấy có khi vui vui...... Còn nếu ta sống chánh niệm... sẽ thấy tình trạng căng thẳng, thân đau chỗ này, khó chịu chỗ kia. Cho nên phải sống chánh niệm lại. 

Bản chất thế giới là vô thường - khổ - vô ngã Nhưng tại sao ta không thấy những điều đó, là vì 3 chướng ngại tinh thần 

1. Là concept of ... ngăn ta thấy cái vô thường 
2. Là posture/gesture 
3. Là concept of ... (???) 

Vô thường: không có gì trên thế giới này từ tinh thần đến vật chất lại tồn tại quá 1 sát na.Tất cả đều là tiếp nối. Khoa học cũng đồng ý như sau: các phân tử, các tế bào liên tục tiếp nối sanh diệt trong từng phút. Quý vị có tin rằng trong mỗi một phút đồng hồ có tới hàng triệu cái chemical reaction diễn trong cơ thể mình 0? 

Ở hành tinh này, có đến 70% là nước. Trong cơ thể chúng ta cũng có tỷ lệ nước cao như vậy.Mỗi phút có hàng triệu chemical reactions diễn ra trong cơ thể của mình. và đẹp/xấu cách mấy mà chỉ cần quên thở 15' thì nó lạnh ngắt, cứng đờ và 3 ngày sau thì sình lên rồi chảy nước.Rồi đến ngày thứ 7, đẹp cách mấy, xấu cách mấy thì ngó giống nhau y chang. Quý vị có thấy xác chết lâu ngày không bị phát hiện, nhìn ớn. Vừa rồi ở thiền viện Pa Auk có 1 vị tự sát treo cổ; lúc phát hiện nhìn kỳ dữ lắm. Tay chân sưng phù, đen xám, nhìn rất ghê. Cho nên đẹp/xấu cách mấy, khoảng chừng 1 tuần lễ sau khi chết, mà để yên, đừng đụng tới , thì giống nhau dữ lắm.Chưa kể khi xác chết trở thành xương trắng. và chính vì chúng ta không có cơ hội quan sát những điều đó; đặc biệt chúng ta có kiến thức khoa học hơi nghèo, chúng ta 0 biết rằng cơ thể của mình thay đổi liên tục. 

Đức Phật ngài dạy điều này trong Tăng Chi: - Này các Tỳ Kheo, nếu mà phải chấp thủ, tin tưởng vào sự bền bỉ, bền vững của thân này. Tuy đó là vô lý, vô minh, nhưng Ta thấy nó còn có lý hơn là tin cậy vào sự bền vững của tinh thần. Bởi vì Ta không thấy trên đời này có gì thay đổi, sanh diệt mau lẹ hơn là cái tâm. 

(P.18:53) [25/12/2019 - 06:38 - dieulienhoa67] 

Chỉ trong vòng có mấy phút từ thlqua ác, từ vui qua buồn. Rất nhanh. Và vì tâm vốn dĩ vô thường nên tốc độ sinh diệt của tâm còn lẹ hơn cái thân. Thân của chúng ta , có nhiều người gặp lại sau 3, 5 tháng thấy cũng vậy. Tôi xa xứ hai năm, khi về gặp lại, có nhiều người nhìn không ra; nhưng cũng có nhiều người tôi chỉ thấy họ gầy hơn, mập lên 1 tí, hay đen/trắng/già hơn 1 tí nhưng nhìn chung hình dáng năm trước vẫn còn đó, dù là có những thay đổi kinh khủng bên trong. Cho nên, đầu tiên chính do chúng ta bị khái niệm về sự liên tục, do mọi thứ diễn ra quá nhanh và tiếp nối với nhau không bị xen kẽ, gián đoạn, cho nên chúng ta tưởng rằng có một cái gì đó diễn ra liên tục, vững bền. 

Nên tôi nói rằng: người chưa biết đạo tưởng rằng mình là 1 cái line, mà thật ra mình là spots, và cuối cùng mình là dots. Mình là được cộng lại bởi rất nhiều dots. Chính vì thất niệm, 0 để ý, mà chúng ta tưởng rằng 
  1. Thằng Tèo hồi sáng với Thằng Tèo chiều nay là một. Bởi vì mình thấy có sự liên tục. Đó là điều đầu tiên. Là khái niệm về sự liên tục khiến ta lầm tưởng.
  2. Thứ 2 là các tư thế sinh hoạt trên đời vốn dĩ không có hạnh phúc mà chỉ có giải pháp cho đau khổ. Điều này chắc đã có nghe nhiều. Có nghĩa là khi tôi đói quá, có gì đó ăn, ta cảm thấy hạnh phúc, ngon. Tôi ngồi lâu quá bây giờ cho tôi nằm thì tôi thấy hạnh phúc. Tôi nhớ nhung quá cho tôi gặp mặt ... Nói chung là tất cả những thứ hạnh phúc của tôi đều là resolution for my suffer, chứ 0 phải hạnh phúc. Đói - ăn, khát - uống, mệt - nghỉ ... đều là giải pháp hết. 
21:07 [26/12/2019 - 02:34 - dieulienhoa67] 

Về nhu cầu tinh thần, nhu cầu tình cảm cũng như thế. Tôi ước mong trông đợi điều gì và điều mong ước ấy được thỏa mãn, giải quyết, thế là tôi gọi đó là hạnh phúc. Người có chánh niệm , sống chậm lại và có tỉnh thức thì mới giật mình thấy rằng: "Ồ thì ra cái mà tôi gọi là hạnh phúc, nó là một trò lừa".

Có hai chữ mà tôi cho rất là quan trọng: là chữ 'Có' và chữ 'Của'.  Ví dụ như : cái đó là của tôi. 'Của' là dựa vào gì? Dựa vào pháp luật, dựa vào quan điểm xã hội, đúng không? Khi tôi bỏ tiền ra mua thì vật ấy là 'của tôi'. Chữ của ấy là một chữ rất là mỉa mai. Bởi vì về mặt pháp lý và xã hội, mình có quyền sở hữu, sử dụng vật ấy. Nhưng mỉa mai là ở chỗ cái quyền ấy chỉ có trên một số điều kiện nào đó. Khi điều kiện ấy trục trặc thì cái 'của' ấy không còn nữa. Ví dụ như tôi không còn thở nữa, thì cái của ấy không còn ý nghĩa. Hoặc là tôi bị bệnh, bị hôn mê, nằm liệt giường, hoặc tôi bỏ đi đâu đó, tôi quên nó .... Từ 'Của' rất là mơ hồ. Có rất nhiều loại đồ vô thừa nhận mà khi chủ tìm được, chạm tay vào nó, nhận lại nó, thì của ấy quay trở lại, còn không thì ... chử của rất là mong manh. Chưa kể, điều này mới là đau đớn: mình nói mình làm chủ cái này, cái kia, mà thật ra có phải làm chủ không? Tôi mua cái nhà, nếu cái nhà bị gì thì tôi đau, nhưng nếu tôi bị gì, cái nhà đâu có đau. Tôi mua cái xe, sợ xe trầy, nhưng nếu có bị banh xác thì cái xe cũng có màng tới đâu? Tôi mua cái xe về để hầu như hầu bà cố nội của tui còn cái xe thì chưa bao giờ hầu tôi đến 1 ngày. Tôi lên xe, đổ xăng, đề máy thì nó chạy, chở tôi đi. Nếu tôi có hề gì thì cái xe chớ có hề buồn.Mà tôi chỉ toàn là buồn và lo cho chiếc xe thôi. Cho nên cái khái niệm làm chủ là do mình hiểu lầm. Cho nên đức Phật dạy: hạnh phúc nhất trên đời này chính là không làm chủ cái gì hết vì làm chủ là lo. 

23:33 [26/12/2019 - 04:10 - dieulienhoa67] 

Buổi chiều đó Đức Phật ngồi bên bờ sông, có ông chăn bò đi ngang, ông thấy Ngài ngồi trong nắng chiều vàng vọt, lẻ loi, cô độc, quạnh hiu. Ông mới nói: người ta có trâu bò, gia súc, vợ con, có khói bếp buổi chiều, có cơm tối với vợ con, như vậy mới vui. Còn Ngài không vợ con, không gia súc, nhà cửa, không có bữa cơm chiều, khói bếp... lấy gì vui? Phật trả lời: Ngươi an lạc vì ngươi có tài sản, vợ con, có cơm chiều, có khói bếp. Ta an lạc vì Ta không có vợ con, tài sản, cơm chiều, khói bếp. Trong kinh nói ông lão chăn trâu này là người đã tu nhiều kiếp, nên khi nghe như vậy, ông bèn liệng cây gậy chăn bò và quỳ xuống: con xin từ nay cho đến ngày tắt thở, là đệ tử của Thế Tôn. 

25:03 [27/12/2019 - 02:21 - dieulienhoa67] 

Ông ngẫm thấy có lý, vì ông hiểu rằng để có hạnh phúc, ông đã phải trả rất nhiều cái giá đắt để có được niềm vui đó.

Nói thật là : lấy nhau vui 3 tháng, buồn 3 năm, khổ 1 đời Cái cười cái vui trong hôn nhân không có nhiều còn những lúc mình gồng gánh nhau nó nhiều lắm. Nếu ở một cự ly nhất định thì hôn nhân cũng hay hay, về cũng thương thương nhớ nhớ. Nhưng có điều sống chung thực tế rồi thì tan nát dữ lắm. Bởi vì mình phải làm bao nhiêu chuyện để giữ được nhau. Giữ được nhau rồi thì sẽ nhiều đêm tự hỏi giữ được nhau để làm cái gì? Hồi mới quen nhau thì tự hỏi câu thứ nhất: làm sao để có được nhau. Có được nhau rồi thì lại hỏi câu thứ 2: làm sao để giữ được nhau. Còn câu thứ ba là: giữ nhau để làm gì? và cuối cùng câu thứ 4: làm sao để tống khứ được nhau. Trên đời này có nhiều dấu hỏi.

Người Tàu gọi trăng khuyết là sơ nguyệt. Người biết đạo mỗi lần nhìn vầng trăng khuyết ấy lại nhớ rằng đó là 1 dấu hỏi; tượng trưng cho những dấu hỏi: * Tôi có mặt trên đời này để làm gì? * Tôi từ đâu tới? * Tôi là ai? * Tôi sẽ đi về đâu? và * Bây giờ tôi nên sống như thế nào? Nên làm gì? Rất là quan trọng. Lẽ ra đời sống của chúng ta là một hành trình dày đặc những câu hỏi. Nhưng vì chúng ta Đạo nghiệp mong manh, phước duyên lại mỏng nên chúng ta cứ vật lộn, quẩn quanh, quần quật với cơm gạo áo tiền.

Rồi chúng ta quên đi rằng: thật ra, ý nghĩa của đời sống là: * Đời sống vô nghĩa * Nếu nó ý nghĩa nào đó thì có chỉ có khi chúng ta quan tâm đến những câu hỏi. Không có gì vô duyên cho bằng chúng ta sinh ta, khi nhỏ sống với ba mẹ, lớn lên có chồng có vợ, đi làm quần quật, cày như trâu tậu cái nhà bạc triệu rồi mỗi tháng trả bill. Môt tuần chỉ thấy cái nhà 2 lần vào cuối tuần. Có nhiều người thậm chí cuối tuần cũng không thấy cái nhà vì bận ngủ, đi party, đám cưới, sinh nhật, thôi nôi, đầy tháng, tân gia với bạn bè, nhậu nhẹt về mờ trời không thấy cái nhà. Sáng thứ 2 đi làm tiếp... Mấy chục năm trôi qua để trả bill. Rồi đến 1 buổi nào đó, để cái bill lại cái nhà cho con. Trong đó ghi rõ: pay-off (đã trả xong). Còn nhiều người chưa trả xong thì con tiếp tục trả nợ. Bởi vậy ở Mỹ là vô thường lắm. Có khi để cái nhà lại mà con sợ muốn chết, vì có khi cái nhà đó trả chưa hết. Còn nhiều ông thì trả cho hết. Trả hết rồi thì cái vô duyên lại ở bố mẹ.

Cả đời đi làm để được cái nhà pay-off cho con rồi hai ông bà dắt nhau vô trại dưỡng lão ở. Ở được mấy bữa, có người đi trước, người kia ở lại. Nhiều khi vô được mấy bữa Alzheimer là quên sạch. Cả đời quần quật làm cho cái gì, bây giờ không nhớ. Cứ thế hệ này sang thế hệ khác.

Bản chất của đời sống là vô nghĩa. Và nhiệm vụ của chúng ta là xác định được cái sự vô nghĩa đó của đời sống. Tu Tứ Niệm Xứ là để xác định sự vô nghĩa của đời sống. Thế giới này là Vô Ngã, Vô Thường, nhưng vì ba bức màn che khiến ta không thấy:

1. Chúng ta cứ bị sự liên tục của tiếp nối che khuất khiến cho ta không tin, không ngờ, không tưởng, không biết được rằng mọi thứ là Vô Thường, luôn luôn trôi chảy như 1 dòng nước. Các vị còn nhớ câu chuyện Khắc Chu Cầu Kiếm không?

29:35 [28/12/2019 - 02:45 - dieulienhoa67]

Một cậu công tử đi trên chiếc thuyền qua sông. Đến giữa sông làm rớt thanh gươm. Kêu đầy tớ nhảy xuống mò. Người đầy tớ nói: sông sâu, nước chảy xiết; nhảy xuống là chết. Không sao, để con đánh dấu trên thuyền chỗ thanh gươm rớt. vào bờ mò cho chắc ăn. Ông chủ mới nói: sao mày ngu vậy? Nó rớt ở đâu? Mày mò ở đâu?

Mình đọc câu chuyện đó, có người nói đó là câu chuyện cười. Có người cười không nổi; nói: trên đời làm gì có người ngu dữ vậy? Nhưng họ quên rằng: có ai trong chúng ta mà không ngu như tên đầy tớ ấy? Tại sao? Thanh gươm rớt ở đây. Nước thì chảy xiết. Thanh gươm rơi xuống đáy nước theo chiều xiên. Vì đó là một vật dài. Gươm rớt ở đâu mà nhảy xuống đó tìm thì đã nan giải. Huống chi là rớt ở giữa sông mà vô bờ tìm làm sao ra? Nghĩa là rớt một nơi, tìm một nẻo. Mình chửi tên đầy tớ là ngu nhưng mình cũng y chang như vậy. Khi mình thương là thương A mà cưới là cưới B, có biết không? Người mình quen, thấy dễ thương là một người khác. Cái người mà mình cõng về, cưới về là một người khác.

Cho nên người ta nói: Khi lấy nhau, đàn bà mong người chồng thay đổi, đừng như trước; gặp ai cũng nhe răng ra cười. Còn đàn ông thì khi lấy nhau mong người vợ như trước; đừng thay đổi. 

31:09 [28/12/2019 - 04:20 - dieulienhoa67]

Nghĩa là người đàn bà khi lấy chồng mong rằng chồng mình đừng ham chơi, lêu lổng như trước, đừng gặp cô nào cũng nhe răng ra cười. Họ mong rằng đàn ông sẽ thay đổi tốt hơn trước khi lấy mình. Nhưng riêng đàn ông thì khi cưới vợ về, họ mong rằng nàng cứ tiếp tục thùy mị đoan trang như hồi mới quen. Khi lấy về nàng mới lòi mấy cái nanh mà nàng đã giấu rất kỹ. Tại sao tôi biết rành về phụ nữ như vậy?

[29/12/2019 - 12:49 - ] 31:59

Vì hấu hết những người hỗ trợ, nuôi cơm tui toàn là mấy bà. 40 năm 40 NĂM ... oh... Yes... Người nuôi tui là Phật tử, người dưng; mà trong đó đa phần là phụ nữ. Cái thuở vô danh, đói nhăn răng, mình biết họ qua một bối cảnh khác. Bây giờ có làm việc, có dự án, có plan, có project... mình biết họ qua một bối cảnh khác... Kinh dị lắm. Họ có cái lạ là thà để mình đói nhăn răng, mà hễ có tên nào mà thò tay vô giúp là nó muốn giết cái tên đó. Mà khi tên đó rút lui rồi thì nó để mình đói tiếp. Đừng tưởng họ thương mình mà vì bản chất của họ là như vậy. Tôi nói mà tôi đang rất là nản. Tôi mà thuyết 1 tuần là tôi bị diarrhea 5 ngày; toàn là diarrhea ban đêm. Lý do: Mỗi khi tôi giảng như vầy là: 1 ly nước mía, 1 ly rau má, nước ngọt... đem vô. Mà nếu tôi uống cái ly gần nhất , không uống những ly còn lại là họ 0 có vui. Cho nên là uống cho hết rau má, nước mía, nước ngọt ...

Có người còn ở VN cho uống sữa ông thọ mà đập đá bỏ vô. Mà cái thứ này là thầy của Diarrhea... coi như là thuốc imodium mà gặp thì cũng ngả nón từ xa. Có lần đó tôi ngán quá mới nói thiệt: Cô ơi, sữa ông thọ nó kỹ nước đá. Bỏ vô và nó đi đã lắm. Thì bà đó nói: quên... quên nặn chanh. Năn vô như vậy là thành Yogurt. Khi mình nói như vậy thì thay vì nàng dẹp; nàng 0 dẹp, mà nàng vẫn chơi tái bản có sửa đổi nội dung. Nàng chỉ đổi bìa thôi. Nàng làm sữa rồi nặn chanh vô. 

Mà phải biết là nước chanh thì chỉ có tôi tự pha uống. Người khác pha tôi ngán dữ lắm. 

Vì sao? 

Vì mấy người để móng. Mỗi lần họ năn chanh là mỗi lần họ rửa móng. Ớn muốn chết. 

Mà như sáng nay tôi nói. Transparency là gì? Là sự minh bạch. Cái thứ mà không sơn, nó dơ hay đóng đất mình thấy. Còn cái thứ mà nó lấy sơn bôi lên rồi thì bà cố tôi không biết cái gì trong đó. Trước khi nặn chanh, tay nó dơ. Khi nó nặn xong tôi uống, tay nó sạch. Vậy thì cái dơ nó đi đâu???

Quay lại bài giảng... 

2.Cái hứ hai, khi cơ thể ta cảm thấy khó chịu, ta bèn thay đổi tư thế từ đứng sang nằm sang đi sang ngồi... đói thì ăn, khát thì uống. Nói chung, các tư thế sinh hoạt nó liên tục được thay đổi. Thế là ta không ngờ rằng ta luôn sống trong khổ. Bây giờ muốn biết khổ cỡ nào dễ lắm. Ngồi xếp bằng kiểu Kiết già cho tôi. Ngồi thẳng lưng, nhúc nhích bắn bỏ.

(Còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng về Khái Niệm Về Vô Thường - Vô Ngã - Hành Giả Tứ Niệm Xứ (2-4) 

http://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/Sydney%202019/003.%20Kh%C3%A1i%20Ni%E1%BB%87m%20V%E1%BB%81%20V%C3%B4%20Th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20V%C3%B4%20Ng%C3%A3%20H%C3%A0nh%20Gi%E1%BA%A3%20T%E1%BB%A9%20Ni%E1%BB%87m%20X%E1%BB%

35:34 [29/12/2019 - 04:20 - dieulienhoa67] 

Thì quý vị ngồi như vậy trong vòng 5' thôi, quý vị sẽ thấy cái thân nó khổ cỡ nào. Phải chánh niệm ngồi yên thế này. hít vào thở ra. Hít vào biết hít vào, thở ra biết thở ra. Lắng nghe mọi cảm giác trên thân từ hai đầu gối, hai vai, thắt lưng ... trong vòng 5'. Trước khi qua đây tôi có ý này: có một cô kia ngồi thiền rất giỏi. Cô ngồi hai tiếng giống như không vậy. Tôi định là hướng dẫn bà con về lý thuyết xong rồi thực hành. Mình giảng 1 tiếng rồi ngồi nửa tiếng. Ngồi chung, lấy năng lực của đại chúng thì dễ hơn ngồi thiền một mình. Nhưng tôi thấy tình hình mà cho ngồi, tắt bớt đèn, máy lạnh chạy mát mẻ... chắc là tất cả ngủ ngáy banh chùa. Nhưng nói thiệt, tôi đây không đánh giá hành giả qua thời gian ngồi.

Mà quan trọng là tôi muốn biết quý vị trong sinh hoạt thường nhật có chánh niệm hay không; và được bao nhiêu %. Điều đó mới quý. Chứ còn nếu quý vị khoe với tôi rằng ngồi được 4 tiếng liên tục; điều đó thì quý. Nhưng nếu buông 4 tiếng đó ra thì mình lăng xăng nói cười, buồn vu, cảm xúc, sống không chánh niệm, thì tôi chê. Trong khi những người mới ngồi 30' đã đau, ngồi lâu không được, nhưng nếu người ấy từ sáng thức dậy cho đến tối trở lại giường ngủ mà luôn luôn chánh niệm, điều đó tôi quý hơn.

37:32 [30/12/2019 - 06:32 - dieulienhoa67]

Tuy nhiên, tôi 0 phải là người cực đoan, extremist. nếu hỏi rằng ngồi thiền quan trọng không? Tôi trả lời là: quan trọng; vì đành rằng chánh niệm trong sinh hoạt lớn nhỏ là quan trọng nhất. Nhưng hành giả trừ trường hợp có vấn đề về sức khỏe trầm trọng, bị severe problem, còn không thì hành giả nên có khả năng ngồi; vì lúc ngồi ... Dáng ngồi là dáng kim tự tháp, vững chãi. Và khi thân được ổn thì tâm dễ ổn. và có 1 chuyện: trong tất cả các loại hình thì hình tròn được xem là hoàn hảo, có thể biểu tượng cho thế giới. Tại sao?

Có 1 mối quan hệ rất lớn giữa số 0 và hình tròn. Thế giới này là 1 vòng tròn - circle. tâm sanh đến diệt, nhân quả, quả nhân, siêu đọa, đọa siêu... là 1 vòng lẩn quẩn. Cái chu trình, hành trình của thế giới này là 1 vòng tròn lẩn quẩn, là 1 vòng tròn khép kín 0 có mối nối. Giải thoát là đâp bể vòng tròn đó hoặc là nhảy ra khỏi vòng tròn đó; còn 0 thì cứ trong đó hoài. Hình tròn với 1 ý nghĩa nào đó nó đẹp.

Thứ 2: vòng tròn là hình dáng của con số 0. Thế giới này căn bản là Không. Ở đây cũng vậy, trong các dáng ngồi thì xếp bằng là dáng ngồi ổn định nhất. tại sao? Nằm cũng ổn định nhưng đó là một tư thế thụ động, passive. Trong khi ngồi là 1 tư thế rất là active, chủ động. Đồng thời, với tư thế đó, mình tìm được sự tỉnh thức và vững vàng. Còn nằm thì vững vàng nhưng 0 bảo đảm là tỉnh thức. Nằm là 1 tư thế rất dễ rơi vào thụ động. nên chính Đức Phật cũng khuyên mình nên dành thời giờ để ngồi thiền.

Quay lại vấn đề: thế giới này vốn dĩ không có hạnh phúc mà chỉ có giải pháp cho đau khổ.

41:17 [31/12/2019 - 12:25 - dieulienhoa67]

Chính vì chúng ta sống thất niệm nên chúng ta không ngờ rằng chúng ta đang chìm ngập trong biển khổ. Chỉ cần chúng ta sống chánh niệm, ngồi yên 1 tí thôi, chúng ta sẽ thấy rằng cái đầu của mình 0 có yên. Có rất nhiều chuyện cho chúng ta suy nghĩ và hầu như không có cái đề tài nào cho chúng ta suy nghĩ cho nó an tâm. Gần như là không có. Có 1 tỉ chuyện để mình nghĩ tới và phiền não. Mọi người suy nghĩ kỹ lại đi. Cho nên chúng ta có nhiều lý do và điều kiện: reason & condition để chúng ta đau khổ hơn là an lạc.

Cuối cùng là khái niệm về massiveness. Trên đời này tất cả chỉ là composition, là đồ ráp. Trong giáo lý nhà Phật, không có mấy chữ sau đây: massive, one, solid.

Trong giáo lý nhà Phật, không có cái gì là một hết. Một là khái niệm trừu tượng abstract, là điên đảo vọng tưởng. Trên đời này không có cái gì là một hết; vì tất cả đều là đồ ráp. Đây là câu thần chú phải nhớ: "Không hề có chiếc xe nào trong đống đồ part, và 0 hề có món đồ part nào trong 1 chiếc xe". Có nghĩa là khi tháo ra từng món thì 0 còn chiếc xe. Và những món đồ part sau khi được ráp lại rồi thì thành chiếc xe, 0 còn là những món đồ part riêng rẽ. Cho nên được gọi là ông A, bà B ... đó là một sự tổng hợp của những thứ rời rạc. Về tâm lý là thiện, ác, buồn, vui... về sinh lý thì đó là đất, nước, lửa, gió, hoặc là tóc lông móng răng da... mật đàm mủ máu... nguyên cái nồi cháo lòng trong đây. Đem những thứ đó tổng hợp lại thì thành Nguyễn Thị A, Trần Văn B... Nếu các vị có dịp đi vào trong các phòng sinh viên thực tập y khoa hoặc phòng pháp y sẽ thấy ngày xưa con người ấy cho dù là đẹp cỡ nào... bây giờ chết rồi thì người ta phanh phui không còn sót góc nào, để coi cái gì bên trong. Mà thân này nếu quên tắm 3 bữa là chịu không nổi. Nhờ mỗi lần ăn xong chúng ta súc miệng, ngậm kẹo, uống trà, tráng miệng thì OK. Chứ bây giờ, tưởng tượng có 1 cái bịch nilon, mình nhai thức ăn rồi nhổ vô. Uống nước rồi nhổ vô. Làm cho một túi. Gồm có đồ mặn/ngọt, tráng miệng, nước, làm cho 1 bịch túm lại để trong mùng thì ngủ 0 nổi. Nó gớm chết. Nhưng nguyên cái đống đó mình nuốt vô trong rồi súc miệng thì mình lại ngủ được.

Tại sao tôi lại phân tích cho nó khó nghe như vậy? Vì Phật pháp là nói thiệt, phải tập nói thiệt và nghe thiệt. Xưa nay trong vô số kiếp, mình không có dịp để biết rõ về con người của mình như vậy. Có những điều, khi biết rõ, chúng ta sẽ trở thành 1 con người khác.

46:54 [31/12/2019 - 07:51 - dieulienhoa67]

  1. Một là mình biết rõ về cái chết của mình. Mình biết rõ là chết ở đâu? chết kiểu gì? Chừng nào chết? When? Where? How? Why? Chỉ cần nói cái chết là đủ run rồi.
  2. Thứ hai: là mình biết rõ chết rồi đi về đâu.
  3. Thứ ba: là biết rõ thiên hạ nghĩ gì về mình. Trong đó gồm có vợ chồng, con cái, bạn bè, thầy tổ, bạn đạo, kể cả những người hâm mộ mình. Có trời biết họ nghĩ cái gì. Đời nó đểu lắm.
Cho nên may mắn là chúng ta sống dại khờ, chết thơ ngây. Chứ nếu tỉnh quá sống cũng không nổi. Như có anh đó uống rượu. Nhà có tí của. Cho nên gia đình mai mối lấy được cô vợ. Lấy vợ rồi anh nhậu tiếp. Cô vợ mới khóc và nói: con gái tìm bến trong để ghé; chứ bến đục ghé làm gì? Lấy anh tưởng anh sửa đổi, ai ngờ anh vẫn nhậu tiếp. Anh chồng mới nói 1 câu: anh nói thiệt , em đừng buồn. Anh không xỉn, làm sao anh chịu lấy em?

48:28 [01/01/2020 - 02:40 - dieulienhoa67]

Cái câu đó nó sâu lắm. Như có 1 anh chàng đó; mỗi lần buồn vợ là ra ngoài quán bar kêu bia uống. Uống 1 cốc bự rồi thì anh vạch túi áo ra. Rồi anh lại kêu 1 cốc nữa uống rồi vạch túi áo ra. Anh bồi ngạc nhiên quá mới hỏi tại sao như vậy? Anh ta trả lời: Tao chán vợ tao lắm, cứ uống 1 cốc tao vạch túi áo ra coi cái hình nàng. Bao giờ thấy đẹp thì tao về.

Hiểu 0? Nghĩa là trong 1 điều kiện tâm sinh lý nào đó thì mình sẽ thay đổi cách nhìn của mình. Mình sống ở đời cứ tưởng là mình hạnh phúc. Nhưng nếu cái đầu của mình tỉnh 1 chút. Mình sẽ nhìn thấy thế giới khác đi. Những chuyện làm mình vui, buồn, thích , ghét... chỉ cần cái đầu của mình tỉnh hơn 1 chút hay mê hơn 1 chút thôi, sẽ có cái nhìn khác đi. Chỉ vì mình cứ tiếp tục cái lối cũ đường xưa mình đi hoài mà 0 có ngờ là mọi sự nó thê thảm như vậy. Thí dụ như 0 có ai tin được rằng: ngày ăn 1 buổi, sống 1 chỗ, nhìn quanh 0 có ai, đi đứng trong chánh niệm lại an lạc đến thế. Trong khi 1 người phải vật lộn ở đời; ở trong ngôi nhà bạc triệu, có vợ đẹp, con ngoan, xài đồ hiệu, xe cộ đắt tiền, đồng hồ, dây chuyền, nhẫn, mắt kính, đồ hiệu không, từ trên đầu xuống toàn là brand name không ... thì nó mới đã... Nhưng mà họ quên... có 1 ngày đầu họ trọc lóc, mặc cái fashion 2000 năm này, ở 1 chỗ nhìn quanh 0 có người, ăn uống thì hên xui... món ngon vật lạ... mà vật lạ nhiều hơn món ngon. Mà lại an lạc vô cùng. An lạc là vì sao?

Có lần đó, có người hỏi Đức Phật: Bạch Thế Tôn, con ngạc nhiên vì sao đệ tử Thế Tôn không sở hữu một điều gì hết. Chỉ có bình bát và y mà sao mặt người nào cũng sáng rỡ, là sao? Thì Ngài nói thế này: Đệ tử của ta 0 có tài sản, gia đình, các Tỳ kheo của ta an lạc là vì 0 bận tâm về chuyện đã qua, chuyện chưa tới. Đệ tử của ta sống hết mình với từng phút hiện tại, nên đệ tử của ta mặt mày sáng rỡ.

51:08 [02/01/2020 - 02:06 - dieulienhoa67]

Còn mình 1 phần niềm vui là đốt cho chuyện cũ; một phần đốt cho chuyện chưa tới; chỉ còn lại 1 ít để sống bây giờ thôi. Mà niềm vui vốn dĩ không nhiều, chia ba thì quý vị nghĩ nó còn lại bao nhiêu? Cho nên có những cảnh giới mà chúng ta muốn đặt chân tới thì cần phải có 1 phương tiện thích hợp. Như ở đây có ai đi Grand Canyon ở Arizona - Mỹ chưa? Chúng ta có 2 cách để đi đến đó: một là đi xe hơi lên , men theo bờ vực, cách 2 là đi trực thăng. Khi đi trực thăng thì sẽ ghé những chỗ mà không cách nào xe hơi tới được, 0 đi đường bộ được.

Ở đây cũng vậy, có những cảnh giới mà chúng ta không thể nào đặt chân đến nếu vẫn giữ  nguyên nếp sống cũ, suy nghĩ cũ. Cần phải có một não trạng khác, một tâm tình khác, một cách nghĩ khác, một lối sống khác, 1 chuẩn bị khác, 1 phương tiện khác, 1 điều kiện khác chúng ta mới có thể đặt chân đến cảnh giới đó được. Quan trọng vô cùng.

Tôi nói điều này mà nếu quý vị có huệ căn thì sẽ run bắn lên tới nóc luôn. Tại đây và bây giờ, ngay trong pháp hội này, ngay trong chánh điện này, chúng ta hoàn toàn có thể đặt chân vào cõi trời hay địa ngục. Đang ngồi đây với tâm trạng ghen tuông, hờn giận, sợ hãi, tức tối, tiếc của... đó chính là địa ngục. Đó là nói về nghĩa bóng. Còn nghĩa đen, quý vị chắc 0 tin. Địa ngục có hai dạng, một là nằm ở đâu đó; như trong kinh nói là có thể nằm trong lòng đất. Nhưng địa ngục cũng 0 nhất thiết có 1 nơi chgốn cố định. Chỉ cần mình có ác nghiệp, mình tắt thở 1 cái, thì bất cứ nơi nào mình có mặt sẽ có đầy đủ lửa cháy phừng phừng, dầu sôi, cũng có người móc mắt mổ bụng, chà giấy nhám... Đó được gọi là mobile jail - nhà tù di động. Cho nên ngay tại đây và bây giờ, tùy vào kiểu sống của mình, theo kinh nói. Phật dạy: Này các Tỳ Kheo, nơi chốn nào mà các người ngồi với trí tuệ về bản chất sanh diệt của đời sống, ta gọi đó là Thánh Xứ, là chỗ nằm, ngồi của Thánh Nhân. Nơi chốn nào mà người ngồi với tham sân si, ái mạn kiến nghi, ganh tỵ, bủn xỉn, nhỏ mọn, tiểu tâm, Ta gọi đó là chỗ đọa xứ.

54:18 [05/01/2020 - 02:07 - dieulienhoa67]

Cho nên tại đây và bây giờ, mỗi người có thể đặt chân vào cảnh giới rất là riêng tư, mà chúng ta không biết. Trong Kinh kể có những kỳ đại hội Thiên Chúng. Thiên chúng 10 phương về hầu Phật; ngồi trước mặt Thế Tôn để nghe pháp. Nếu quay phim chụp hình thì giống nhau nhưng chúng ta đâu có biết rằng trong số ấy có vô số tầng lớp khác nhau, với những hành trang thiện pháp và ác nghiệp khác nhau, hành trang tâm lý, duyên tu Ba La Mật, hoặc là ác nghiệp tiền khiên khác nhau nhiều lắm. Nhưng khi Phật thuyết pháp thì mọi người trở về làm con một nhà.

Cho nên đêm cuối cùng trước khi thành Đạo, Ngài năm mơ thấy 5 điềm Đại Mộng; sau này thành Phật Ngài mới giải thích.

1. Ngài nằm mơ thấy Ngài đi thiền hành walking meditation trên 1 ngọn núi đầy phân người mà chân Ngài không dính bẩn.
2. Ngài mơ thấy Ngài gối đầu trên 1 ngọn núi cao, 2 tay, 2 chân thòng xuống 4 biển.
3. Ngài thấy giữa rốn của Ngài có 1 cọng cỏ mọc xuyên thẳng qua mấy tầng mây, lên thẳng trời xanh, ngút mắt nhìn không thấy.
4. Ngài thấy có 4 loài chim xanh vàng đỏ trắng từ bốn phương bay về , rớt xuống chân Ngài đều thành màu trắng hết.
5. Ngài thấy có 1 đám sâu (giòi) màu trắng, từ dưới đất bò lên tới đầu gối của Ngài thì bò trở xuống. 

Ngài thấy 5 điều như vậy, lúc đó Ngài chưa biết đó là gì. Nhưng với trí tuệ của Ngài, Ngài hiểu mơ hồ rằng: mình là người đầu óc tỉnh táo, tỉnh thức, không mộng mị quàng xiên. Đây là điềm báo chắc chắn mình sẽ thành Đạo.

57:07 [25/02/2020 - 06:33 - dieulienhoa67]

Còn ý nghĩa của từng điều thì... vẫn mơ hồ. Chung chung 5 điều này báo cho biết là cuộc đời mình sắp bước qua 1 ngã rẽ cực kỳ quan trọng.Ngài chỉ biết vậy; và đúng như vậy. 

Ngài thành Đạo xong rồi; sau này trong 1 lần thuyết pháp cho các đệ tử , Ngài mới giải thích 5 điều như sau:

1. Đầu gối trên núi và 2 tay , 2 chân thòng xuống biển tượng trưng cho sau này Ngài trở thành bậc Đại Giác. Cả vũ trụ trong tay của Ngài. Địa bàn hoằng Pháp của Đức Phật không gói gọn ở 1 nơi. Chuyện Ngài ở trong rừng hay trong phố 0 quan trọng; là bởi vì Ngài muốn là Ngài có thể có mặt ở mọi nơi. 

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn nói rằng rất nhiều lần; Ngài đi hoằng pháp ở những nơi mà 0 có Ngài A Nan. 

Thứ nhất là vì không cần thiết. kế đến là có những nơi Ngài xuất hiện dưới hình thức là 1 vị Phật; nhưng có những nơi Ngài xuất hiện dưới dạng một nhân vật nào đó thích hợp với hội chúng đó. 

Cái quan trọng là Ngài mượn hình hài đó để nói cho họ nghe điều họ cần nghe. Và có trường hợp, Ngài chỉ cho họ nghe tiếng mà không cho họ thấy hình. Cho nên tôi có điểm nghi ngờ là trên thế giới hiện nay, có tồn tại những bộ Kinh, những bộ sách ; vd như Nam Hoa Kinh của Lão Tử, Đạo Đức Kinh của Trang Tử hoặc là .... của Ba Tư; trong đó có phảng phất nhiều câu rất là Phật Giáo. Tôi ngờ là ngày xưa, Đức Phật từng xuất hiện trong pháp hội nào đó, hội chúng nào đó; Ngài mượn hình thức nào đó gửi gắm cho họ rồi Ngài đi; bời vì họ 0 đủ duyên để trở thành Phật tử/Tỷ kheo 100% . Họ chỉ đủ duyên để nghe điều đó để thay đổi cái đầu của họ thôi. Nên nhớ, để gặp 1 vị Phật không phải dễ. Cái phước của họ chỉ đủ tới đó thôi. 

Trong Kinh nói: Ngay thời Đức Phật còn tại thế, có rất nhiều vị Tỷ kheo, nhiều vị Cư sĩ chỉ biết đến Ngài qua tiếng đồn rồi họ đi xuất gia và cho tới ngày họ chết, họ chưa gặp Phật bao giờ.

(59:37) [26/02/2020 - 08:02 - dieulienhoa67]

Tức là ví dụ họ có 1 người Sư phụ bên Mỹ, đi qua Sydney nói đạo cho nghe rồi cuối cùng họ đi tu. Lúc đó, Đức Phật đang ở New York. Hoặc là ví dụ Phật ở Brisnane hoặc ở Pearl, đi bộ rất là xa, vì là thời xưa. Họ học đạo rồi nhận thấy rằng: thấy Phật trong tâm tưởng, thấy Phật qua tinh thần hay hơn là thấy Phật bằng hình thức. Thế là họ không cần biết.

Tôi có biết một vị Sư bạn người Miến Điện. Sư có một cái tánh rất là lạ. Sư không thích đi du lịch, không có tò mò gì. Mà cái tính ấy được đẩy lên mức extreme. Sư có việc về Paris; hàng ngày đi ngang tháp Eiffel, mà Sư chỉ đi ngang chứ chưa hề dừng lại xem tháp ấy làm bằng sắt hay bằng nhựa.

Chưa hết; cái này mới ghê: Sư là 1 nhà Sư thờ Phật, tụng kinh mỗi đêm. Vậy mà khi Sư về Ấn Độ, cái chỗ mà Chuyển Pháp Luân, đi qua đi lại mỗi ngày, mà Sư thấy người ta rần rần vậy mà Sư nói: đông quá, làm biếng ghé; đi luôn. Mà là đi ngang mỗi ngày. Cho tới bây giờ, Sư đã trở về London rồi, Sư vẫn chưa biết trong chỗ đó ra làm sao nữa.

Tôi ngày xưa ở Việt Nam, chỗ tôi học nó xa hơn cái sở thú; và đồng thời sát bên Dinh Độc Lập. Tới ngày tôi xa xứ, tôi 30t, mà tôi cũng không biết Dinh Độc Lập bằng lá, bằng tre hay bê tông; tôi không biết. Tôi chỉ thấy bên ngoài. Còn cái sở thú đó, tôi học được 2 năm. Tôi nhớ có vô đó 1, 2 lần là vì tôi hẹn với huynh đệ, Phật tử hẹn gặp trong đó. Chứ tôi không có nhu cầu đi vào.

(1:01:25) [27/02/2020 - 07:32 - dieulienhoa67]

Tôi nhắc lại một lần nữa; đó là nhiều khi nhân duyên nó tới đó; không hơn nữa.

Bây giờ quay lại: Thế giới này luôn luôn là Vô Thường - Khổ - Vô Ngã.

Vô Thường nghĩa là mọi thứ luôn luôn ở trong tình trạng trở thành một cái khác. Tiếng Mỹ gọi là Becoming. Đây là 1 từ để gọi cho chúng sinh đó quý vị. Trong Buddhist English gọi chúng sinh là becoming, là cái đang trở thành. Mà chữ đó từ đâu ra, từ tiếng Phạn là ... nghĩa là cái đang trở thành. Nếu nói một cách rốt ráo; chúng ta chỉ là những unit, những đơn vị được cộng ghép bởi nhiều thành tố, nhiều ingredients. Chúng ta là composition và chúng ta luôn luôn trong tình trạng trở thành một cái khác. Chính vì không hiểu như vậy cho nên chúng ta bắt đầu mới nắm níu. Nếu ai hỏi chúng ta: anh có biết có thể chết bất cứ lúc nào hay không? Thì mình nói là mình biết; nhưng mà có khi cũng len lén nghĩ: Cũng còn lâu lắm. Đúng không?

Đó là lý do tại sao mình thích xài đồ bền. Thích đồng hồ phải là Rolex. Gỗ thì phải xài gỗ trắc; Miến điện thì xài gỗ tếch. Nói chung xứ nào người ta cũng thích xài đồ bền nhưng mà người ta quên mất là mình với món đồ; chưa chắc đứa nào bền hơn đứa nào. Nhưng mà vì chúng ta cứ tin tưởng, trông đợi vào một cái tương lai xa xôi cho nên chúng ta quên đi rằng đời sống vốn dĩ là rất mong manh. Chúng ta tin tưởng vào sự kết nối của thứ này qua thứ khác.

Thứ hai là tư thế sinh hoạt không cho chúng ta thấy được rằng chúng ta mang tấm thân này nó khổ triền miên.

(1:03:41) [01/03/2020 - 05:43 - dieulienhoa67]

Thứ ba đó là khái niệm về cái massive.

Cái đó quan trọng lắm. Mình 0 biết rằng mọi thứ là đồ ráp. Khi mà hành giả tu tập Tứ Niệm Xứ, hành giả thấy rằng mình chỉ là một nắm cát. Cho nên tôi nói trong tự điển nhà Phật 0 có số 1 là vậy đó. Vì trên đời 0 có gì là 1 hết. tát cả đều là đồ ráp. Thí dụ như mình nói Ông A, Bà B, cũng là đồ ráp; ráp bởi nhiều thứ Tâm Sinh Lý. Bây giờ tới cái ca, cái ly, cây viết, cái micro tôi đang cầm, tất cả cũng là đồ ráp; có nghĩa là mình phải chẻ nhỏ nó ra rất là nhiều.

Cho nên chính vì mình tin cậy vào một cái massiveness cho nên mình mới có thể vững tin mà sống. Mình mới tin là trên đời này có thằng Tèo, thằng Tí... Thật ra thằng Tèo, thằng Tí, vốn dĩ 0 có, mà chỉ là đồ ráp thôi. Cái vật đó mình gọi là chiếc xe là bởi vì có nhiều món đồ parts cộng lại, ghép lại, mình mới gọi đó là chiếc xe. Hôm nay ở đây có nhiều người lần đầu tiên học Đạo, lần đầu tiên đến gặp Tăng, Ni để nghe Pháp, thì quý vị rất là sốc với những suy nghĩ kỳ quái này. Nhưng mà tôi báo cho quý vị biết, sẽ có 1 ngày, khi mà quý vị gặp chuyện buồn, mới nhớ lại là ngày xưa, năm xưa, chốn này, có nghe 1 người nói rằng mỗi người chỉ là 1 nắm cát. Khi ta sống bằng tâm tình 1 nắm cát thì ta an lạc hơn.

Xưa giờ mình nghĩ mình là 1 bức tường vững chắc, bất cứ cái gì mà tấn công là mình hứng chịu mọi thứ. Gió thổi cũng có thể làm cho mình lung lay. Nhưng khi mình sống với 1 tâm trạng khác; ví dụ quý vị thấy 1 tấm lưới, gió không làm gì được tấm lưới hết. Khi mình biết mình là phù du, là của tạm là đồ ráp, mà phải là thấy thiệt, chứ 0 phải là đọc trên miệng mà trong bụng nghĩ khác là không được. Khi mình sống trong 1 tâm trạng mình là đồ ráp. Nếu quý vị thiệt lòng, chân tình mà sống như vậy, với nhận thức như vậy, quý vị bớt khổ nhiều lắm.

(1:05:59) [02/03/2020 - 06:03 - dieulienhoa67] 

Tôi nhắc lại lần nữa; hạnh phúc vốn dĩ không có thật, mà hạnh phúc chỉ là sự vắng mặt của đau khổ thôi.

Xưa nay mình bị nhiều cái khổ lắm: thương phải xa, ghét phải gần, muốn không được, đều là khổ. Mà tại sao những chuyện đó làm cho mình khổ? Là vì mình mong đợi mà mong đợi không được. Mình khổ! Thích quá mới đi kiếm tìm; mà kiếm tìm là 1 hành trình đau khổ. Kiếm tìm 0 được là đau khổ. Được rồi phải mất công bảo quản là đau khổ. Mà bảo quản 0 được cũng lại là khổ. Khổ triền miên. Mà hôm nay tôi giảng , tôi thấy nhiều gương mặt đơ đơ là tôi biết nghe không nổi. Nghe pháp gì mà ổng giảng buồn quá vậy trời! Thật ra thế giới này không buồn, không đắng, không ngọt, mà cái quan trọng nhất là Phật muốn ở họ là nhìn ra sự thật để mình đừng nắm nữa. Tôi nhớ có 1 câu tiếng Mỹ này hay: học trò hỏi Sư Phụ: - Mình tu hành thì có được xài email được 0? SP trả lời: - It's OK until you have an attachment. Câu đó nghĩa là gì? Attachment có 2 nghĩa: attachment có nghĩa là file đính kèm. Nghĩa thứ 2 là sự dính mắc. Email thì OK mà attachment thì 0 OK.

Tôi thích cái câu: Ai sống trong daydream thì dễ bị nightmare. Có nhiều câu phải là tiếng Mỹ thì nó mới đã. Cũng như là vợ Cả, vợ 2, cả 2 đều là vợ cả. Tiếng Việt nghe hay hơn tiếng Mỹ. Quay lại vấn đề: Tại sao mình khổ? là vì mình có attachment. Khi bắt đầu thấy ghét cái gì đó, là quý vị bắt đầu có attachment. Ở đây chắc nhiều người không tin. Mình thích nó thì là attachment đúng rồi. Nhưng mà mình bắt đầu có ý ghét, mình cũng có attachment. Có nghĩa là mình đã treo hình ảnh người đó ở trong đầu thì đó là attachment. 

Cho nên trong Kinh Tăng Chi, Phật dạy 1 câu sâu vô cùng: Đừng tìm chi cái ghét, đừng tìm chi cái thương. Thương phải xa là khổ, ghét phải gần là khổ. Bắt đầu mình chớm có ác cảm với người/vật nào đó là mình bậy rồi đó. Phải biết đó là điên đảo mộng tưởng. Bởi vì bắt đầu ghét/thương là bắt đầu gánh khổ. Bắt đầu thích 1 người/vật là đã bắt đầu khổ. Và trong sự tỉnh táo nhất, chúng ta phải nói với nhau thế này: Chúng ta 0 có lý do gì để phải thương 1 người. Chúng ta có lý do để từ bi với 1 người thì có. Nhưng mà thương theo cái kiểu mà lo ở ngoài đời, thì 0 nên. Vì do tập khí nhiều đời, nam thì thích nữ, nữ thì thích nam. Hoặc là do xu hướng tâm lý nhiều đời mình thích đoan trang thùy mị, tóc dài, mắt buồn, yêu màu tím, nghe Trường Vũ,... Chứ thiệt ra chúng ta 0 có lý do gì mà chúng ta rước 1 tên về để gọi đó là em/anh rồi ở với nó rồi đêm đêm nhìn cái mặt mốc của nhau. Chúng ta 0 có lý do.

(1:10:47) [03/03/2020 - 06:04 - dieulienhoa67]

Tôi nói cái câu này nó bạc vô cùng, bạc lắm, mà phải nói thiệt: Mình lo cho cái cục này chưa xong, hơi đâu là lo cho cái cục đó. Đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai: Nếu mình thích cái đẹp, thì 7 tỷ người trên hành tinh này biết bao nhiêu người đẹp hơn cô này; tại sao lại chọn cô ấy? Câu thứ hai nghe rất là bậy , nhưng mà mình tu thì mình phải dùng bao nhiêu suy nghĩ để mình thoát ra thôi. Có biết bao nhiêu người hơn, mà tại sao mình lại chết vì cái bà này? Đó là thứ 1, Còn thứ 2, lo cho cái cục này chưa xong, đêm nay rồi không biết sáng mai dậy nó còn hoạt động nữa hay không? mà lại đi vác thêm cái của nợ đó về. Cái thứ 3 này mới lạnh xương sống: hôm nay thấy nó vậy, ngày mai chắc nó còn như vậy hay không? Tôi từng tụng kinh cho mấy người nằm liệt, tôi sợ lắm.

Ngày nào nó ngon lành, nó phổng phao, nó cơ bắp, sắc vóc. Tới lúc mà nằm lâu quá, nó tái kỳ lắm. Mà nằm lâu quá nó có cái mùi ngộ. Tôi nói pháp; cho tôi nói thiệt nghen: như mấy người lớn tuổi có cái mùi rất là đặc trưng... Lúc thương thì nói: you có làm sao thì tôi cũng là người đẩy xe lăn cho you đi đến cùng trời cuối đất. You ở đâu, xe ở đâu thì tôi ở đó. Nhưng có 1 ngày, xe 1 nơi, you 1 ngả, tôi thì .... Mình giao vô nhà già (dưỡng lão) để viện họ chăm. Nó ngán lắm quý vị. Mình gượng, mình gồng, ngày xưa vì tình, bây giờ vì nghĩa với nhau chứ còn nói thiệt... ớn lắm. Trong khi bao nhiêu réo gọi, hấp dẫn bên ngoài mà mình phải ngồi đây trong phòng để chăm sóc 1 người tàn phế. Tôi biết nói như vầy nhiều người hiểu lầm, tưởng là tôi xúi mấy ông mấy bà bạc lòng với người hôn phối.... Không phải!!! Mà tôi muốn nói bản chất đời sống nó là như vậy đó. Chứ còn tôi không có kêu gọi quý vị về xử cái người đang nằm một đống ngáp ngáp đó. Tôi không chịu trách nhiệm. OK! Nó bạc dữ lắm. Cho nên khi mà mình xé nhỏ thế giới này ra, phanh phui nó ra đó, nó ngán dữ lắm. Nói đến đây tôi nhớ 1 câu chuyện tào lao. Đệ tử hỏi: - Sư phụ, vậy chứ người xuất gia có yêu không Sư phụ? Đáp: Có! Đệ tử nòi: Vậy có khác gì đâu? Đáp: có khác. Người tu ngoài đời yêu sợ đổ vỡ, người tu sợ đổ bể, sợ người ta biết.

OK, cho tới bữa nay vẫn chỉ là introduction thôi. Chúng ta chưa có vô bài.

(1:14:17) [04/03/2020 - 06:01 - dieulienhoa67]

Bây giờ tôi nói cho quý vị nghe tại sao và thế nào là Tứ Niệm Xứ. Tại sao phải tu Tứ Niệm Xứ? Tu Tứ Niệm Xứ là sao? Là khi anh sống chậm lại, anh mới thấy được 3 cái này. Chậm ở đây không phải là về tốc độ, mà có nghĩa là trong mỗi khoảnh khắc ta làm 1 việc với tốc độ bình thường. Nhiều người hiểu lầm, tưởng chậm là tưởng tu thiền rồi thì tốc độ làm việc chậm lại; Không phải! Vẫn là với tốc độ đó nhưng mà làm việc nào làm 1 việc thôiVà làm trong sự tỉnh thức, ghi nhận biết rõ: tôi đang làm. Có lẽ là lần đầu tiên quý vị nghe 1 định nghĩa như vậy về cái gọi là chậm trong thiền. Nhiều người 0 được nghe định nghĩa như vậy, họ tưởng là đã tu Tứ Niệm Xứ là mọi việc phải slow down hết, Không Có! Chúng ta vẫn làm việc bình thường nhưng trong mỗi khoảnh khắc ta chỉ làm 1 việc với mindfulness. Còn trước đây là vừa ăn vừa a lô, hoặc miệng nhai mà đầu nghĩ chuyện khác. Có nghĩa là 1 khoảnh khắc làm tới 2 việc. Còn chậm ở đây là 1 giây làm 1 việc. Chậm nghĩa là như vậy. Lúc đang ăn thì để hết tâm trí cho chuyện ăn. Múc - biết, đưa lên miệng - biết, nhai... nghe kể thì rất là chậm nhưng thật ra là vẫn sinh hoạt bình thường mà biết rõ như vậy. Biết rõ mình đang làm gì. Còn về vấn đề ăn ngon, tôi không cấm hành giả ăn ngon miệng, vì theo khoa học, mình ăn mà không ngon miệng, không có tiết ra dịch vị thì làm sao tiêu hóa? Và ăn như vậy là unhealthy. Tuy nhiên, cái gì trong đời sống mình cũng chỉ là thói quen. Tại sao mình phải ăn trong chánh niệm? Bởi vì có 1 bài học rất là sâu : hạnh phúc vốn dĩ không có mà chỉ là giải pháp của đau khổ.

1:17:03

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng về Khái Niệm Về Vô Thường - Vô Ngã - Hành Giả Tứ Niệm Xứ (3-4) 

http://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/Sydney%202019/003.%20Kh%C3%A1i%20Ni%E1%BB%87m%20V%E1%BB%81%20V%C3%B4%20Th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20V%C3%B4%20Ng%C3%A3%20H%C3%A0nh%20Gi%E1%BA%A3%20T%E1%BB%A9%20Ni%E1%BB%87m%20X%E1%BB%


 1:17:03

[05/03/2020 - 07:08 - dieulienhoa67]

Ở đời có hai thứ hạnh phúc. 

  1. Thứ nhất là càng tỉnh táo càng hạnh phúc. Và 
  2. Thứ hai, là phải có cái u mê mới hạnh phúc. 
Cái hạnh phúc khi tỉnh táo là gì? Luôn luôn chánh niệm tỉnh giác, biết rõ cái gì đang xảy đến trong thân, mình hoàn toàn sống trong sự kiểm soát. Nó an lạc lắm. Đó là thứ hạnh phúc đến từ sự tỉnh táo. 

Nhưng cũng có những thứ hạnh phúc đến từ sự u mê , là sao? Nam - nữ, ăn uống, đi du lịch, nói chung là những thứ hạnh phúc liên hệ đến hưởng thụ 5 dục thì đều cần có 1 tí u mê trong đó. Chứ nếu tỉnh quá thì 0 hay. Ví dụ như đi du lịch,  phải có cái gì đó , ví dụ: như đi biển maldive có đêm trăng, ngắm nhìn những cái nhà mái lá, 2 đứa tóc dài thơm thơm mùi Channel, rồi có mấy dải lụa mỏng mỏng, rồi có mùi trầm, mùi quế, nghe tiếng đàn xa xa, rồi rượu nhẹ, hoa hồng, nước ấm... đại khái như vậy. Nó phải có cái khờ khờ nó mới đã...  

Cho nên trong Kinh mới nói thế này: Lúc thời Đức Phật Ca Diếp mãn giáo pháp. Mãn ở đây là người biết giáo lý không còn nhiều nữa. Giáo pháp mất bằng cách nào? Bằng cách những bài kinh, những giáo lý khó hiểu ... số người hiểu được ít dần ít dần... đến lúc mở tủ kinh ra, người ta kiếm toàn là chuyện cổ tích để đọc không hà. 

Thì thời giáo pháp Đức Phật Ca Diếp sắp mất, có 1 ông vua đọc kinh sách mà không hiểu chữ Vô Minh nghĩa là cái gì. Vua mới hỏi ông lão thần uyên bác bậc nhất trong cung. Ông lão thần xin cho thời hạn để về tìm câu trả lời. Ông lão thần về bỏ ăn. Người con gái thấy người cha 0 vui bèn hỏi: Cha có gì lo lắng, mấy ngày nay cứ thở dài hoài. Ông lão thần bèn nói lý do. Cô con gái nói: Trời ơi, bố nói sớm sớm là khỏe quá rồi. Đêm nay con sẽ cho bố biết vô minh là gì.

(1:19:35)

[07/03/2020 - 06:40 - dieulienhoa67]

Đêm hôm đó, ông mới đi qua phòng con gái. Vì đây là 1 vị quan lớn, dinh thự của ông lớn lăm. Phòng con gái nằm bên hồ, đàng sau là rừng tre, bên kia là dãy núi. trăng treo... đẹp lắm.  Thì ông mới đến mở cửa, ông thấy cửa chỉ khép hờ, ông đẩy cửa bước vô. Ông nghe mùi trầm thơm thoang thoảng nhẹ trong gió. Ông nghe tiếng đàn dìu dặt. Con gái của ông chơi đàn rất giỏi. Trong dinh thự ấy có rất nhiều người hầu xinh đẹp. Khi bước vào, ông chỉ thấy 1 bờ vai tròn trắng muốt, xõa tóc, ngồi chơi đàn. Mà khi vừa bước vô thì có 1 cô hầu đưa cho ông 1 ly rượu nhỏ. Ông mượn hơi rượu mới đi vô. Ông đi vô càng sâu; cứ qua 1 cánh cửa là có 1 cô hầu đưa ông 1 ly rượu nhỏ. Khi uống đến ly thứ 3 rồi thì  ông mới thấy người con gái với bờ vai trắng ngồi chơi đàn. Trong đầu ông hy vọng đó là 1 trong những cô hầu, hiểu không? Ông bước tới và  đặt tay lên vai người con gái. 

Người con gái của ông mới quay lại và nói:

- Thưa cha, đó là vô minh đó cha. Cha biết đây là phòng của con mà. 

Ông quan đáp:

- Không, trong cái váng vất của cơn say, với hương thơm, điệu nhạc và cái romantic của bầu không khí . Cha hy vọng đó không phải là con. Cha nghĩ cha với con ... làm sao mà được.

Cô con gái đáp:

- Không! Cha đồng ý cha không biết. Cha xem có đứa hầu nào nó dám ngồi đây không? Phòng của con mà! Có nghĩa là trong lan man, cha mong rằng 0 phải là con, đúng 0? Mà nếu là con thì cũng không sao, đúng không? Miễn là con 'say yes'. Thưa cha , đó là vô minh.

Vô minh có nghĩa là nó không có khả năng phân biệt được phải - quấy , thiện - ác, nên - không nên. 

Cho nên tôi nói: hạnh phúc có 2 thứ; một cái đến từ sự tỉnh táo, an lạc. An lạc là vì mình được sống trong sự kiểm soát. Và có 1 cái hạnh phúc đến từ sự u mê. 

1:22:08 

[08/03/2020 - 05:57 - dieulienhoa67]

Cho nên hôm nay trong cái đám Việt kiều thich đi về VN cũng có 2 phe: 1 phe họ về trong sự tỉnh táo. Họ về vì 1 lý do rõ ràng, vì việc nhà như chăm sóc cha mẹ già, mua 1 miếng đất, việc xong rồi họ đi. 

Có 1 lần Chúa mới thấy đám quân bên Satan tràn sang đất của Chúa, Chúa mới nói: đất quỷ với đất của Chúa chia hai, mà giờ tụi nó qua đá banh, ta nhức đầu lắm. Làm hàng rào mỗi đứa 1 nửa cho chắc. Như hàng rào Mexico vậy đó.


Thì quỷ Satan nói: Con nít nó biết cái gì. Nó muốn đá banh thì nó đá; còn rào thì 0 có tiền. Không có duyệt ngân sách cho mấy vụ tào lao này. 

Chúa nói: 0 được! Gặp nhau ở tòa! Quỷ satan cười: hề hề, luật sư nó xuống địa ngục hết rồi. Mấy đứa đá banh là luật sư không đó. 

Tôi muốn nói là: tu Tứ Niệm Xứ là sống tách bạch, phơi bày trọn vẹn những góc khuất, những góc tối mà xưa giờ mình 0 biết hoặc 0 dám dòm thẳng vào. Mình không dám nhìn thẳng vào cái gọi là hạnh phúc hay đau khổ. Thế là mình tiếp tục đau khổ triền miên. Vì mình 0 tìm được 1 câu trả lời, 1 câu định nghĩa: hạnh phúc là gì? Đau khổ là gì? Thích là gì? Ghét là gì? 4 định nghĩa này mình không định nghĩa được. Ở đây tôi đã định nghĩa rồi, đúng không? 

Tại sao mình thich/ghét 1 cái thứ gì đó? Là vì 3 lý do:

1. Tiền nghiệp, nghiệp của quá khứ. 
2. Khuynh hướng tâm lý. 
3. Môi trường sống hiện tại. 

Chính 3 cái này mới là cho mình thích Prada, Channel hay là .... Chứ 1 bà nhà quê đâu có biết đó là cái gì. Bà chỉ thích dầu Song Thập, dầu gió Kim hay dầu xanh Singapore là maximum... OK? 

Cho nên mình thích cái gì đó là do tiền nghiệp đẩy mình vào cảnh giới nào. Chính ba điều trên mới khiến cho ta thích hay ghét 1 cái gì. 

OK... quay lại vấn đề... cứ nói tào lao là thích mà dạy Pháp thì thấy buồn ngủ...  là vì sao? Vì khuynh hướng tâm lý, vì tiền nghiệp và vì môi trường sống. Như vậy chúng ta đã định nghĩa thế nào là thích. 

1:30:43

Tiền nghiệp là như vầy: do kiếp trước mình đã làm 1 nghiệp lành/ác nào đó gọi là tiền nghiệp

Khuynh hướng tâm lý là do 3 cái này của kiếp trước khiến cho mình nặng về cái gì. Kiếp nào mình sinh ra cũng có 3 cái này hết.

Ví dụ: do tiền nghiệp chúng ta mới là người VN, thay vì là người Nhật, người Do Thái. Nhưng do khuynh hướng tâm lý , khi lọt vô trong đó rồi thì 3 người đàn bà, phụ nữ ở 3 miền có tính cách khác nhau. 1 người thì nón quai thao, áo tứ thân, 1 người áo dài Huế, nón bài thơ, 1 người thì áo bà ba, quần đen xắn ống thấp ống cao - Nam Bộ. 

1:32:23  

[09/03/2020 - 06:27 - dieulienhoa67]

1 bên thì cải lương, 1 bên thì mái nhì mái đẩy, 1 bên thì quan họ Bắc Ninh... Tùy cái nghiệp nó đẩy mình vô xứ nào. Rồi vào trong xứ đó, khuynh hướng tâm lý lại ra tay: do nghiệp, 3 người mình gặp gặp nhau trong nước VN hình chữ S này. Nhưng do khuynh hướng tâm lý;  Trẫm  khoái ăn hơn khoái mặc; tui là vô địch nấu ăn. Còn cô này ăn rồi thì chỉ lo chưng diện thôi; quần là áo lụa. Còn bà này khoái nữ trang, bóp đầm, mắt kiếng, dây nịt, đồng hồ. Do nghiệp đẩy chúng ta gặp nhau vào nước VN, làm phụ nữ VN, đàn ông VN, nhưng trong số đàn ông ấy, có kẻ thích đua xe; có người tối ngày ăn nhậu, có người thích đánh bài, xòe như công vậy.

Rồi bây giờ tới môi trường sống. Mình là người VN, mình thích ăn diện, nhưng môi trường sống lại khác. Tôi sống ở VN, quý vị lại sống ở Âu Mỹ; cho nên dù sở thích giống nhau nhưng mà do môi trường sống khiến cho lâu ngày cái sở thích của tôi cũng thay đổi. Ví dụ: như ở VN, tối mấy bà nội trợ hay xáp vô tám. Ở Mỹ thì chuyện đó hơi khó. Ở Mỹ đi làm quần quật về là mệt, tám 0 nổi. (LTP: Sư Toại Khanh nói vậy là vì Sư chưa vào các diễn đàn như VietBest .  :dance:  )

Vậy tôi muốn nói: trước hết là định nghĩa thích/ghét do 3 cái đó khiến cho chúng ta thích ghét không giống nhau. 

Thứ hai: hạnh phúc là gì? Là anh có được cái anh thích. Đau khổ là anh phải chấp nhận cái anh ghét.  

Hạnh phúc là 6 căn biết 6 trần như ý. Đau khổ là 6 căn biết 6 trần bất toại.

Thiện là 6 căn biết 6 trần bằng tâm lành. Ác là 6 căn biết 6 trần bằng tâm xấu.

Toàn bộ thế giới này chỉ là 6 căn với 6 trần thôi.

 1:40:00  

[15/03/2020 - 06:23 - dieulienhoa67]

Vậy thì trong mỗi ngày, trong từng giờ, chúng ta sống trong nhân quả, đúng không?

Khi bị khổ, hành giả tự biết đây là quả của nghiệp ác đời trước. 

Khi được vui, hành giả biết rằng đây là quả lành của thiện nghiệp đời trước. 

Đây là những công thức phải học thuộc lòng. Dù chỉ là 14 buổi nhưng sẽ là nền tảng cho việc học cao hơn sau này. 

Khi thấy tâm bất thiện, hành giả biết đây là nhân cho nỗi khổ đời sau. 

Khi thấy tâm thiện thì biết đây là nhân cho quả lành đời sau.

Vậy thì từng phút trôi qua, tôi biết là tôi đang sống trong nhân - quả, thiện - ác, buồn - vui. Điều này nên được lặp đi lặp lại hàng đêm để học thuộc và thực hành, sẽ rất hữu ích. Đây là bảng công thức phải học thuộc lòng. Sẽ có 1 ngày mà những điều này nhập tâm và chúng ta sẽ nói ra được lưu loát.  

Kiến thức là gì? Là cái anh đã biết qua nhưng quên sạch. Đến khi hữu sự, nó bèn trồi ra cho ta sử dụng. Đây là căn bản giáo lý ; đồng thời cũng là căn bản cho hành giả tu Tứ Niệm Xứ, khi tu hành giả 0 bị mơ hồ. Khi đang đi, biết mình đi. Khi bực mình, biết đây là nhân cho quả khổ, 

Hễ mà thấy đau khổ thì biết đây là quả

Thấy sân si, biết đây là nhân.


01:46:06

(còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng về Khái Niệm Về Vô Thường - Vô Ngã - Hành Giả Tứ Niệm Xứ (4-4) 

http://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/Sydney%202019/003.%20Kh%C3%A1i%20Ni%E1%BB%87m%20V%E1%BB%81%20V%C3%B4%20Th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20V%C3%B4%20Ng%C3%A3%20H%C3%A0nh%20Gi%E1%BA%A3%20T%E1%BB%A9%20Ni%E1%BB%87m%20X%E1%BB%


 01:46:06

[16/03/2020 - 05:53 - dieulienhoa67]

Các công thức chúng ta cần phải học thuộc lòng mỗi ngày; có tất cả khoảng 20 trang giấy. 

- Kẻ không hành đạo chỉ thích hưởng quả lành (sắc, tài, danh lợi, quyền lực), người chưa biết đạo chỉ quan tâm việc trốn khổ tìm vui. Người 0 biết Đạo đón nhận quả xấu bằng tâm sân, quả tốt bằng tâm tham. Nghĩa là họ làm phước bố thí... khi quả lành trổ, họ đón nhận toàn bằng tâm bất thiện. Nghĩa là nhận quả cũ bằng nhân xấu mới. 

- Người biết đạo sơ cơ quan tâm nhiều đến nhân lành, tạo công đức với ý thức đầu tư, mong được các thứ quả báo. Chỉ quan tâm việc lánh ác hành thiện.

- Người hành đạo thì thấy cả nhân lẫn quả lành đều quẩn quanh trong luân hồi; nói gì là nhân xấu quả xấu. Họ chỉ quan sát tánh sanh diệt của thân - tâm, thiện - ác. Người hành đạo dù nhận quả nào cũng bằng Chánh niệm; tức nhân thiện.  

Khi học đạo thêm nữa thì chúng ta sẽ thấy việc sanh thiên về các cõi trời cũng 0 phải là chuyện đáng mơ ước. 

- Hành giả Tứ Niệm Xứ buổi đầu, vì chưa biết gì nên chỉ cần tập trung; làm gì biết nấy. Sẽ có 1 ngày khi chánh niệm đủ mạnh; thì ngay trên nền tảng Chánh niệm ấy, bắt đầu ta mới nhận ra: Ồ mọi thứ là đồ ráp. Mọi thứ do duyên mà có; có rồi lại mất

Còn hành giả buổi đầu; do đọc sách thiền, do nghe ng ta hướng dẫn, bèn hiểu lầm là chết. Chưa biết gì hết mà cứ quán chiếu đây là sắc ngồi chứ 0 phải là tôi ngồi. Nói như vậy là đang trả bài. Mới ban đầu thì chỉ cần Chánh Niệm trong các tiểu oai nghi; nghĩa là các tư thế sinh hoạt. Cầm lên biết, để xuống biết, rót, uống, nuốt, để xuống; biết. Đừng suy nghĩ gì hết; cứ làm như vậy. Thì sẽ có 1 ngày; tôi 0 biết là chừng nào; có thể là 1,2 ngày, 1, 2 năm.

(1:55:27)

[17/03/2020 - 06:02 - dieulienhoa67]

Nghĩa là người không hành đạo thì dù hoàn cảnh nào cũng sống bất thiện; nhận quả xấu bằng tâm sân, nhận quả tốt bằng tâm tham. Người 0 hành đạo phải tìm dịp để cầu công đức. 

Người hành đạo thì hoàn cảnh nào cũng là điều kiện tạo công đức; kể cả các sinh hoạt thường ngày như tắm rửa, ăn uống, tiểu tiện, rửa mặt.... đều là công đức vì luôn luôn làm với chánh niệm. Mà chánh niệm tức là công đức. Vì chánh niệm là gốc của tất cả các thiện. Ghi nhớ được điều này thì tự mình tu được. 

Khi còn trong bụng mẹ, chúng ta sống nhờ mẹ thông qua cái dây nhau; cuống rún. Khi ra khỏi bụng mẹ rồi, thì cắt cuống rún và bú sữa mẹ. Lúc bấy giờ sự lệ thuộc của mình với mẹ bắt đầu giảm dần. Rồi 1 ngày mình 0 còn bú nữa mà ăn thức ăn baby food. Rồi 1 ngày mình bỏ baby food, mình tự ăn đồ cứng. Càng lớn lên thì khả năng độc lập của mình càng lớn. Chuyện tu hành cũng như thế. Buổi đầu mình phải lệ thuộc Tăng, Ni, Thầy, Bạn bằng cách cuống rún. dần dần khi học được Phật pháp căn bản,  1 ngày mình báo tin cho bạn đạo biết : bữa nay "tao cắt cuống rún rồi".  Bữa nay tao là 1 người wireless Buddhist, nghĩa là tu không cần a lô, 0 cần gặp Thầy, 0 cần tới chùa, mà ở chùa nhà vẫn tu tập được, gọi là wireless Buddhism. 

2:01:46
[18/03/2020 - 07:04 - dieulienhoa67]

Rồi; câu này mới quan trọng: 

Thánh khác phàm ở chỗ:
  • thánh biết rõ điều mình tin nên tin chết bỏ điều mình hiểu, còn
  • phàm phu 0 hiểu lắm điều mình tin nên 0 tin lắm điều mình hiểu. 
Con chim khác con người ở chỗ : khi đâu lên nhánh cây, con chim tin vào đôi cánh, con người tin vào nhánh cây. Đây là pháp tu. Mà cái nào safe hơn? Đôi cánh. Nghĩa là mình tin vào mình chắc ăn hơn. Trong khi PT ngày nay tu kiểu con chim hoặc 0 có hoặc rất ít. Nghĩa là mình cứ trông đợi ông Thầy, trông đợi cái gì đó bên ngoài. Mà cái này rất là quan trọng. Đối với con chim, có những nhánh cây đã mục, đã giòn, con chim vẫn đậu được, khi nó vỗ cánh bay đi thì cành cây gãy nhưng con chim vẫn vô sự. Còn mình thì sao? Trăm sự đổ hết cho nhánh cây. Nó OK mình sống; nó không OK, mình đứt bóng.

Tu hành là phải đặt vấn đề cội rễ ở ngay bản thân mình chứ 0 đổ cho người khác được. VD chúng ta trông đợi là chết thế nào SP cũng tới hộ niệm. Vậy lỡ SP chết trước thì ai hộ niệm cho? Chưa kể phần SP, 0 biết ai hộ cho SP kìa. Cái bậy nhất là trông đợi vào người khác. 

Tôi nói 0 biết bao nhiêu lần: khi ta sống bằng 1 tâm hồn nhẹ nhàng thanh tịnh thì ta như nước ở thể khí (air) luôn luôn tìm dịp để bốc hơi. Nước ở thể lỏng luôn tìm chỗ thấp để về. Ngay trong lúc còn sống, chúng ta biến tâm mình thành thể air (khí) hay liquid (thể lỏng) là do bản thân chúng ta.

Khi tắt thở mà là thể air thì tự động bốc hơi, nếu là liquid thì tìm chỗ thấp chui xuống.

Vấn đề rất là khoa học; khỏi có thầy bà nào tụng. Ngay người tụng cũng 0 chắc vị đó là liquid hay air. Nếu liquid mà tụng cho liquid thì kéo nhau xuống còn sâu nữa.

Cho nên quan trọng là lúc bình sinh sống cho nhẹ nhàng. Nhẹ nhàng là như thế nào? là no attachment - 0 dính mắc. Attchment là sự đính kèm, dính mắc, nặng nề... có quá nhiều cái để bất mãn, thương thích, ... lúc đó sẽ trở nên nặng nề. Có những loài chim bay được nhưng cũng có những loài lông vũ suốt đời lạch bạch. Do tỷ trọng cơ thể khác nhau. Có loài mỡ thịt nhiều hơn lông; vd như con vịt. Có những loài vịt bay được và có những loài vịt 0 bay được. Và vit dù bay được, cũng 0 thể bay như chim, vì sao? Vì mỡ và thịt của nó nhiều hơn lông. Còn chim cánh cụt thì cả đời 0 bay được. Trong khi có loài chim nặng chỉ khoảng 200gr; có thể bay liền 1 lúc cả ngàn cây số không dừng lại, 0 nghỉ (non-stop, no transit). Một lần ăn nó tiêu thụ lượng thực phẩm tương đương với cơ thể của nó. 

Có những người như loài chim cả đời 0 biết bay vì attachment của họ nhiều quá, có quá nhiều cái để họ thích và đồng thời đương nhiên sẽ có rất nhiều cái để ghét. Thích ấm thì sợ lạnh, thích mát thì sợ nực. Và những người có quá nhiều dính mắc thì sẽ rất nặng nề, khi tắt thở dễ đọa, khó siêu thoát. 

Người nào sống quên mình, nghĩ đến người khác thì tâm hồn bớt nặng . Trong Kinh có 1 câu:

Ta chỉ nên nghĩ về mình để Chánh Niệm và buông bỏ.  Và chỉ nên nghĩ về người khác để yêu thương và tha thứ.  Nếu làm ngược lại thì thua.

Đối với mình phải nghiêm khắc, đối với người phải rộng lượng dễ dàng. Ai sống được như vậy thì tâm hồn sẽ nhẹ nhàng. 

Ta có thương/từ bi 1 tỉ người thì lòng ta 0 vì vậy mà nặng hơn. Nhưng ta chỉ cần nghĩ về mình 1 tí thôi thì sẽ làm cho lòng ta nặng hơn, vì khi ta thương 1 tỉ người với lòng bi ta thương bằng trái tim mở nên nhẹ nhàng, còn khi ta thương bản thân, ta thương bằng 1 trái tim khép nên nặng nề.

Đa phần chúng ta coi trọng người tình hơn tình.

Một anh đệ tử học võ xong, khi xuống núi, SP tiễn. SP nắm tay lại và nói: 

Mình là con nhà võ, mình chinh phục thiên hạ bằng nắm tay. Đúng 0 con?

Học trò đáp: Dạ đúng SP.

SP: Nhưng con nhớ như thế này: cái nằm trong nắm tay luôn luôn ít hơn cái trong vòng tay. Và cái trong vòng tay nhỏ hơn cái trong tầm mắt. Cái mà SP muốn là con dùng tầm mắt, cái view.

Tóm lại, khi ta sống bằng tâm thái như thế nào, thì tâm hồn của chúng ta sẽ trở nên nặng/nhẹ tương ứng.

Ta có đem 1 tỉ ng vào tim, thì đó là trái tim mở nên vẫn nhẹ, 0 có trọng lượng.  Và số người ta thương càng nhiều, từ bi càng nhiều thì tâm hồn ta càng nhẹ đi. 

Có 1 câu chuyện. Ngày kia, Quan Âm Bồ Tát nhìn xuống thế gian thấy 1 đám người bị nấu trong cái chảo dầu sôi sục. Bồ tát mới thòng 1 sợi dây nhện xuống cho ai bám được thì bám. Thế là người ta xúm lại bám vào sợi tơ nhện ấy. 1 lát sau, Bồ tát mới bảo đã đủ rồi , thì Ngài kéo lên. Người cuối cùng bám được vào sợi tơ nhện ấy, có người bám vào chân anh ta để cùng được kéo lên thì anh ta đạp người ấy xuống. Vừa đạp xong thì anh ta rớt xuống luôn. Từ trên trời giọng Bồ tát vẳng xuống: lẽ ra sợi tơ nhện này kéo lên được cả 2 nếu con cho người ấy nắm chân của con. Vì ta là Quan Âm.  Nhưng lòng ích kỷ của con đã làm cho con trở nên nặng hơn nên sợi tơ nhện chịu con 0 nổi .

Đây là câu chuyện ngụ ngôn nhưng ý nghĩa rất sâu. Hàm ý trọng lượng tâm hồn ta sẽ nặng nề hơn khi ta nghĩ về mình.

Theo Kinh Phật thì bằng 1 trái tim mở, 1 bàn tay mở, ta có cả thế giới. Bằng 1 trái tim khép, 1 bàn tay đóng, ta chỉ có chút xíu. 

Quay lại câu chuyện SP dạy võ tiễn học trò xuống núi, 10 năm sau  anh ta mở được 5 võ đường, nhờ cái view chứ 0 phải nhờ nắm đấm. 

Khi chúng ta nắm giữ cái gì đó với attachment thì chúng ta đã nhốt tù vật ấy. VD hoa nở ngoài vườn cứ để tự nhiên thì sẽ đẹp lâu bền hơn . Còn nếu cắt đem về chưng trong bình thì sẽ vô duyên hơn và mau héo hơn. Vì Cụ Nguyễn Hiến Lê có nói thế này:  Tất thảy mọi công trình nghệ thuật có bàn tay con người thì chỉ là trò hề so với thiên nhiên. VD như bonsai hay giả sơn, dù khéo cách mấy cũng 0 đẹp bằng thiên nhiên.

(Nếu được xin quý vị khán thính giả nghe Sư giảng hạn chế ho hay ồn ào vì tiếng ồn gây nhiễu sẽ khiến cho người nghe lại hoặc ghi lại gặp khó khăn. Xin cảm ơn ạ).

--oOo--

Bốn Đế, Duyên Khởi, Tứ Niệm Xứ

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...X%E1%BB%A9

Khi tu TNX, ta làm chủ được nhân quả. Do nhân thiện ác của đời trước, ta có thân này; thân này là quả của nhân thiện ác của các đời trước. Nếu không tu, ta lấy thân này làm nhân cho đời sau. Còn nếu tu, ta không cho cái quả này đi thêm nữa. Đó là làm chủ nhân quả.

Từ tnx là làm chậm lại: Chỉ làm một việc trong một lúc thôi. 

Tất cả bi kịch trong cuộc đời xảy ra vì ta thiếu kiểm soát. Khi sống chánh niệm một thời gian, ta sẽ nhận ra ta là đồ ráp. Thứ ba, là nó cho ta hạnh phúc không ngờ.

Càng tỉnh táo, càng sống trong kiểm soát. 

Nếu không tu, sẽ không biết:
Ghi nhớ cái chết cận kề giúp ta sống tốt hơn.

Không biết đạo thì cho rằng hạnh phúc là sống tự do, muốn làm gì thì làm, muốn nhậu là cứ việc nhậu, muốn đánh bài là đánh bài, muốn chém lộn là chém lộn.

"Hạnh phúc thật sự là an lạc trong khi bị kềm kẹp, và tự do có nghĩa là thoải mái trong mọi ràng buộc ."

Đức Phật dạy: "Không, không phải. Con đang bị tham sân xiềng con. Con tưởng là con tự do. Tự do có nghĩa là không bị phiền não xúi bậy."  Bậc thánh không bị một cái gì xúi, bậc thánh không làm việc đó vì không cần .  Đó mo*'i thật sự tự do .

Tại sao chúng ta sống chánh niệm, sống chậm ?  Bởi vì có sống chậm, mới không bị sai khiến, không bị tác động, không bị lôi kéo, không bị thúc đẩy bởi những tạp dục . Người không hành đạo không tin chuyện đó .

Trên đời này có  hai hạng người:
  1. Chết rồi chưa chôn: khi còn sống không có khả năng kiểm soát, ăn không biết đang ăn . Đó là xác chết biết đi .
  2. Chôn rồi chưa chết: đã ra đi rồi, nhưng những đóng góp của họ còn lại . Môt nghĩa nữa là trong từng giây phút, chúng ta sanh già đau chết, nhưng luôn luôn sống trong chánh niệm .
Vì hơi thở liên tục, nên khi sống liên tục trong hơi thở có nghĩa là luôn sống trong tỉnh thức .  Cái hay khi sống trong tỉnh thức liên tục, chúng ta:
  1. Luôn luôn sống trong kiểm soát .  Nhờ vậy, chúng ta có điều kiện để sống trong bản chất của mình .
  2. Sống trong sự tự chủ .  Tâm có chánh niệm là tâm có niệm xứ .  Tâm không chánh niệm là tâm tứ xứ .

Khi google, tìm "sati mindfulness" sẽ thấy mindfulness là một pháp tu .  Nếu chỉ tìm "mindfulness" sẽ không thấy đó là một pháp tu .
Một ngày nào đó, khi ta hiểu được mình có nghĩa là ta hiểu được người khác .  Trên đời này, tất cả là đồ ráp .

1:45:10
Phật giáo không phải là một tôn giáo .  Phật giáo là đạo sống, là lẽ sống .

Con đường ra khỏi rừng là con đường vào rừng .  Vấn đề là mình quay mặt về đâu .  Ngài cho mình tự do , Ngài là một người thầy .  Phật tử tự do ngay khi còn là người phàm .


(Hết)
Reply
Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt




Chương VI - Sáu Pháp



VI. Ðại Phẩm

(I) (55) Sona




Roll down từ từ sẽ thấy ...


-----------------

(VI) (70) Thần Thông

1. - Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy không có Thiền định, tịch tĩnh, không đạt được khinh an thù diệu, không chứng đắc nội tĩnh nhứt tâm, sẽ chứng được nhiều loại thần thông. Một thân hiện ra nhiều thân... nhiều thân hiện ra một thân... có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên, sự kiện này không xảy ra. Với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân sẽ nghe hai loại tiếng chư Thiên và loài Người, xa và gần, sự kiện này không xảy ra. Sau khi đi sâu vào tâm của các chúng sanh, của loài Người với tâm của mình, vị ấy sẽ rõ biết được: "Tâm có tham, biết là tâm có tham... tâm không giải thoát, biết là tâm không giải thoát", sự kiện này không xảy ra. Sẽ nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời. Sẽ nhớ đến các đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết, sự kiện này không xảy ra. Với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, sẽ thấy được các chúng sanh... vị ấy sẽ rõ biết các chúng sanh tùy theo hạnh nghiệp của họ, sự kiện này không xảy ra. Do đoạn diệt các lậu hoặc... sau khi chứng ngộ, chứng đạt và an trú, sự kiện này không xảy ra.

2. Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy có Thiền định tịch tĩnh, đạt được sự khinh an thù diệu, chứng đắc nội tĩnh nhứt tâm, sẽ chứng được nhiều loại thần thông. Một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân... có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên, sự kiện này có thể xảy ra. 
Với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, sẽ nghe hai loại tiếng chư Thiên và loài Người, xa và gần, sự kiện này có xảy ra. 

Sau khi đi sâu vào tâm của các chúng sanh, của loài Người với tâm của mình, vị ấy sẽ rõ biết: "Tâm có tham, biết được là tâm có tham... tâm không giải thoát, biết được là tâm không giải thoát", sự kiện này có xảy ra. 

Vị ấy sẽ nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời... sẽ nhớ đến đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết, sự kiện này có xảy ra. 

Với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, sẽ thấy được các chúng sanh... vị ấy sẽ rõ biết các chúng sanh tùy theo hạnh nghiệp của họ", sự kiện này có xảy ra. Do đoạn diệt các lậu hoặc... sau khi chứng ngộ, chứng đạt và an trú, sự kiện này có xảy ra.

(VII) (71) Chứng Nhân

1- Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có thể đạt được địa vị chứng nhân, quả chứng này hay quả chứng khác, dầu thuộc loại xứ nào. Thế nào là sáu?

2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không như thật rõ biết: "Những pháp này dự phần vào thối đọa", không như thật rõ biết: "Những pháp này dự phần vào an trú", không như thật rõ biết: "Những pháp này dự phần vào thắng tiến hay thù thắng", không như thật rõ biết: "Những pháp này dự phần vào thể nhập", làm việc không chu toàn và làm việc không có lợi ích.

Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, không có thể đạt được địa vị một chứng nhân, quả chứng này hay quả chứng khác, dầu thuộc loại xứ nào.

3. Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể đạt được địa vị chứng nhân, quả chứng này hay quả chứng khác, dầu thuộc loại xứ nào. Thế nào là sáu?

4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật rõ biết
  1. "Những pháp này dự phần vào thối đọa", như thật rõ biết:
  2. "Những pháp này dự phần vào an trú", như thật rõ biết: 
  3. "Những pháp này dự phần vào thắng tiến hay thù thắng", như thật rõ biết: 
  4. "Những pháp này dự phần vào thể nhập", 
  5. làm việc chu toàn và 
  6. làm việc có lợi ích.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có thể đạt được địa vị một chứng nhân, quả chứng này hay quả chứng khác, dầu thuộc loại xứ nào.

(VIII) (72) Sức Mạnh

1. - Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có thể đạt được sức mạnh trong Thiền định. Thế nào là sáu?

2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không thiện xảo đạt được thiền định, không thiện xảo an trú được Thiền định, không thiện xảo xuất khỏi thiền định, làm việc không chu toàn, làm việc không kiên trì và làm việc không có lợi ích.

Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có thể đạt được sức mạnh trong Thiền định.

3. Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo có thể đạt được sức mạnh trong Thiền định. Thế nào là sáu?

4. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thiện xảo 
  1. đạt được Thiền định, thiện xảo 
  2. an trú được Thiền định, thiện xảo 
  3. xuất khỏi Thiền định, làm việc có
  4. chu toàn, làm việc có 
  5. kiên trì, làm việc có 
  6. lợi ích.
Thành tựu sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có thể đạt được sức mạnh trong Thiền định.

(XI) (73) Thiền (1)

1. - Không đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, không có thể đạt được an trú sơ Thiền. Thế nào là sáu?

2. Dục tham, sân, hôn trầm, thụy miên, trạo hối, nghi, không như thật khéo thấy với chánh trí tuệ các nguy hại trong các dục. Không đoạn tận sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, không có thể đạt được và an trú sơ thiền.

3. Ðoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, có thể đạt được và an trú sơ Thiền. Thế nào là sáu?

4. 
  1. Dục tham,
  2. sân, 
  3. hôn trầm thụy miên, 
  4. trạo hối, 
  5. nghi, 
  6. không như thật khéo thấy với chánh trí tuệ các nguy hại trong các dục. 
Ðoạn tận sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể đạt được và an trú sơ Thiền.
Reply
https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung29.htm



Trung Bộ Kinh

Majjhima Nikaya

29. Ðại kinh Thí dụ Lõi cây
Mahasaropama-sutta


Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở tại Rajagaha (Vương Xá), núi Gijjhakuta (Linh Thứu), khi Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa) từ bỏ (Chúng Tăng) ra đi không bao lâu. Ở đây, nhân việc Devadatta, Thế Tôn cho gọi các Tỷ-kheo và dạy như sau:

-- Ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện nam tử do lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể, toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt được". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy hoan hỷ, mãn nguyện. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy khen mình, chê người: "Ta được lợi dưỡng như vậy, được danh vọng như vậy. Còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít có uy quyền". Vị ấy, vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.

Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu". Cũng vậy, ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy khen mình, chê người: "Ta được lợi dưỡng như vậy, được danh vọng như vậy, Còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít có uy quyền". Vị ấy vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đã nắm lấy cành lá của phạm hạnh, vì do vậy, vị ấy đã dừng lại (ở đây).

Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do thành tựu, giới đức này, vị ấy khen mình chê người: "Ta là người trì giới, theo thiện pháp. Các Tỷ-kheo khác phá giới, theo ác pháp". Do thành tựu giới đức này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.

Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình... (như trên)... Do thành tựu giới đức này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là vị đã nắm lấy vỏ ngoài của phạm hạnh. Và do vậy, vị ấy đã dừng lại (ở đây).

Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, có Thiện nam tử vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong vòng sanh, già, chết, sầu, bi, khổ ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt được". Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ, nhưng không tự mãn. Do thành tựu giới đức này, vị ấy không khen mình, chê người. Do thành tựu giới đức này, vị ấy không trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu thiền định. Do thành tựu thiền định này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do thành tựu thiền định này, vị ấy khen mình chê người: "Ta có thiền định nhất tâm. Các Tỷ-kheo khác không có thiền định, tâm bị phân tán". Do thành tựu thiền định này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.

Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, lấy chúng mang đi, tưởng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy, bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, mang đi, tưởng đó là lõi cây. Và người này không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình... (như trên)... Do thành tựu thiền định này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Vì sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo, như vậy vị ấy được gọi là Tỷ-kheo đã nắm giữ vỏ trong của phạm hạnh. Và do vậy, vị ấy đã dừng lại (ở đây).

Lại nữa, ở đây, có Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong vòng sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức, vị ấy hoan hỷ, nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu Thiền định. Vị ấy do thành tựu Thiền định này nên hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu Thiền định này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu Thiền định này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu tri kiến, vị ấy vì tri kiến này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy do tri kiến này, khen mình, chê người. "Ta sống, thấy và biết. Các Tỷ-kheo khác sống, không thấy và không biết". Vị ấy, do tri kiến này, trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật vị ấy bị đau khổ.

Chư Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người bỏ qua lõi cây, chặt giác cây mang đi, tưởng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, chặt giác cây và mang đi, tưởng đó là lõi cây. Và người ấy không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình... Vị này, vì tri kiến này nên mê say, tham đắm, phóng dật. Vì sống phóng dật, vị này bị đau khổ. Chư Tỷ-kheo, như vậy vị này gọi là đã nắm giữ giác cây của phạm hạnh. Và do vậy, vị ấy đã dừng lại (ở đây)".

Lại nữa, ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong vòng sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu Thiền định, vị ấy do thành tựu Thiền định này, hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định này khen mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu Thiền định này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu tri kiến. Do thành tựu tri kiến này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu phi thời gian giải thoát. Này các Tỷ-kheo, sự tình này không thể xảy ra, Tỷ-kheo ấy có thể từ bỏ phi thời gian giải thoát ấy.

Này các Tỷ-kheo, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và biết đó là lõi cây. Một người có mắt thấy như vậy, có thể nói: "Người này biết lõi cây, biết giác cây, biết vỏ trong, biết vỏ ngoài, biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và tự biết đó là lõi cây. Và người ấy đạt được mục đích mà lõi cây có thể thực hiện". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây một Thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong khổ đau, bị chi phối bởi khổ đau. Rất có thể, toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này khen mình, chê người. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật. Vị ấy thành tựu giới đức. Vị ấy do thành tựu giới đức này hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy, không do thành tựu giới đức này khen mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu giới đức này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu Thiền định. Vị ấy do thành tựu thiền định nên hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định này khen mình, chê người. Vị ấy không do thành tựu thiền định này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu tri kiến. Vị ấy vì thành tựu tri kiến này nên hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này khen mình, chê người. Vị ấy không vì thành tựu tri kiến này trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống không phóng dật, vị ấy thành tựu được phi thời gian giải thoát. Này chư Tỷ-kheo, sự tình này không thể xảy ra, Tỷ-kheo ấy có thể từ bỏ phi thời gian giải thoát ấy.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, phạm hạnh này không phải vì lợi ích, lợi dưỡng, danh vọng, không phải vì lợi ích thành tựu giới đức, không phải vì lợi ích thành tựu thiền định, không phải vì lợi ích tri kiến. Và này các Tỷ-kheo, tâm giải thoát bất động chính là mục đích của phạm hạnh này, là lõi cây, là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt


==============================================================

ttps://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung30.htm


Trung Bộ Kinh

Majjhima Nikaya

30. Tiểu kinh Dụ lõi cây
(Cùlasàropama sutta)


Như vầy tôi nghe:

Một thời Thế Tôn trú tại Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc).

Rồi Bà-la-môn Pingalakoccha đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời hỏi thăm, chúc tụng xã giao, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Pingalakoccha bạch Thế Tôn:

-- Tôn giả Gotama, có những Sa-môn, Bà-la-môn này là vị Hội chủ, vị Giáo trưởng, vị Sư trưởng Giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khi Tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, như Purana Kassapa, Makkhali Gosala, Ajita Kesakambali, Pakudha Kaccayana, Sanjaya Belatthiputta, Nigantha Nataputta, tất cả những vị này tự xưng là nhứt thiết trí hay tất cả không phải là nhứt thiết trí, hay một số là nhứt thiết trí và một số không phải nhứt thiết trí?

-- Thôi vừa rồi, này Bà-la-môn, hãy dừng lại ở đây: "Tất cả những vị này tự xưng là nhứt thiết trí hay tất cả không phải là nhứt thiết trí? Hay một số là nhứt thiết trí và một số không phải nhứt thiết trí?" Này Bà-la-môn, Ta sẽ thuyết pháp cho Ông, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.

-- Thưa vâng, Tôn giả.

Bà-la-môn Pingalakoccha vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:

-- Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi và tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu".

Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt mục đích mà lõi cây có thể thành tựu".

Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu".

Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, chặt giác cây mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy bèn nói: "Thật sự người này không biết lõi cây, không biết giác cây, không biết vỏ trong, không biết vỏ ngoài, không biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người này bỏ qua lõi cây, chặt giác cây mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu".

Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và biết rằng đó là lõi cây. Một người có mắt thấy vậy, có thể nói: "Người này biết lõi cây, biết giác cây, biết vỏ trong, biết vỏ ngoài, biết cành lá. Người này muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, mang đi và biết rằng đó là lõi cây. Và người này đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu".

Cũng vậy, này Bà-la-môn, ở đây, có người do lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ, Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, vị ấy khen mình, chê người: "Ta được lợi dưỡng như vậy, được danh vọng như vậy, còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến, ít có uy quyền". Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và không cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, bỏ qua vỏ ngoài, chặt cành lá, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người ấy sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng người này giống như ví dụ ấy.

Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bi chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Vì thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Vì thành tựu giới đức này, vị ấy khen mình, chê người: "Ta trì giới, theo thiện pháp. Các Tỷ-kheo khác phá giới, theo ác pháp". Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và không cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn giới đức. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, bỏ qua vỏ trong, chặt lấy vỏ ngoài, lấy chúng mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng người này giống như ví dụ ấy.

Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy, không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Vì thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không vì thành tựu giới đức này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn giới đức. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu Thiền định. Do thành tựu Thiền định này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn. Do thành tựu Thiền định này, vị ấy khen mình, chê người: "Ta có Thiền định, nhứt tâm. Các Tỷ-kheo khác không có Thiền định, tâm bị phân tán". Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và không cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu Thiền định. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, bỏ qua giác cây, chặt vỏ trong, lấy vỏ trong mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng người này giống như ví dụ ấy.

Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Rồi vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy, không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy, không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu giới đức này, khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước và tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu giới đức. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu Thiền định. Vì thành tựu Thiền định này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định này khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu Thiền định. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu tri kiến. Vị ấy, do tri kiến này, hoan hỷ tự mãn. Vị ấy, do tri kiến này, khen mình, chê người: "Ta sống, thấy và biết. Các Tỷ-kheo khác sống không thấy và không biết". Và vị ấy không phát khởi lòng ao ước và không cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Vị ấy trở thành biếng nhác và thụ động. Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy bỏ qua lõi cây, chặt giác cây mang đi, tưởng rằng đó là lõi cây. Và người này sẽ không đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng người này giống ví dụ ấy.

Nhưng ở đây, này Bà-la-môn, có người vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: "Ta bị chìm đắm trong sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt". Do vị ấy xuất gia như vậy, được lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, hoan hỷ, tự mãn. Vị ấy không vì lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng này, khen mình chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn những lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu giới đức. Do thành tựu giới đức này, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu giới đức này, khen mình, chê người. Và vị ấy phát khởi lòng ao ước và cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu giới đức. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu Thiền định. Do thành tựu Thiền định, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định, khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước và tinh tấn, chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu Thiền định. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu tri kiến. Vị ấy do tri kiến này hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do tri kiến này, khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước, cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động.

Và này Bà-la-môn, những pháp gì cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến?

Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc, do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.

Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.

Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.

Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.

Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt lên mọi sắc tưởng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.

Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là vô biên", chứng và trú Thức vô biên xứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.

Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.

Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.

Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo vượt lên mọi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng (định), sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ. Này Bà-la-môn, pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến. Này Bà-la-môn, các pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.

Này Bà-la-môn, ví như một người muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây. Trong khi đi tìm lõi cây, trước một cây lớn, đứng thẳng, có lõi cây, người ấy chặt lõi cây, lấy và mang đi và tự biết đó là lõi cây. Và người ấy đạt được mục đích mà lõi cây có thể thành tựu. Này Bà-la-môn, Ta nói rằng người này giống như ví dụ ấy.

Như vậy, này Bà-la-môn, phạm hạnh này không phải vì lợi ích, lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng, không phải vì lợi ích thành tựu giới đức, không phải vì lợi ích thành tựu Thiền định, không phải vì lợi ích tri kiến. Và này Bà-la-môn, tâm giải thoát bất động chính là mục đích của phạm hạnh này, là lõi cây của phạm hạnh, là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh.

Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Pingalakoccha bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh Pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày. Và nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Reply
Bug 
Sư Toại Khanh Giảng về Thần Thông và các Kinh khác (1-4)


https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...Th%C3%B4ng

Quote:Kalama xin tri ân bạn elteetee ghi chép
24/07/2019 - 06:16 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

KTC.6.70 Thần Thông

Hôm nay chúng ta sẽ học bài kinh số 70. Bài kinh có nội dung là thế này: Không có thiền định thì không có lục thông. Nội dung bài kinh 70 là chỉ có 1 câu đó thôi. Ở đây sẽ có hai nhóm người:
  1. Một là tò mò không biết lục thông là cái gì.
  2. Và nhóm hai là thắc mắc là mình tu là để giải thoát phiền não, giải thoát sanh tử mà sao lại có cái tuệ thần thông làm chi
bởi vì trong lục thông chỉ có thông thứ 6 thôi (lậu tận thông) là thật sự cần thiết cho cái lộ trình giác ngộ, cứu cánh, trí tưởng giác ngộ, chứ còn mắc mớ cái gì mà phải nhắc tới 5 cái thông trước?

Ghi chú: Lục thông (Wikipedia)

Lục thông: Nghĩa là Sáu phép thần thông của chư Phật, và các vị A-la-hán.

  1. Thần túc thông: biến hiện tuỳ theo ý muốn, thân có thể bay lên trời, đi trên biển, đi vào trong núi, đi trên mặt nước, một thân biến nhiều thân, nhiều thân biến thành một thân, tay có thể chạm vào Mặt Trời, mặt trăng, các ngôi sao, ... tất cả mọi động tác đều tuỳ theo ý muốn, không hề chướng ngại.

  2. Thiên nhãn thông: Thấy sự lưu chuyển của Chúng Sinh trong các cõi giới luân hồi.

  3. Thiên nhĩ thông: Nghe và hiểu hết mọi âm thanh trong thế gian, nghe và hiểu hết mọi ngôn ngữ của chúng sinh trong các cõi giới luân hồi.

  4. Tha tâm thông: biết hết tất cả mọi ý nghĩ trong tâm của chúng sinh trong lục đạo.

  5. Túc mệnh thông: Đối Đức Phật và các Vị Alahan - ngài biết được vô lượng kiếp trước của chính bản thân mình vị ấy nhớ rõ sinh ra ở đâu, cha mẹ là ai, tên gì, làm gì.

  6. Lậu tận thông: Vị ấy thấy rõ Tứ Diệu Đế là chân lý của Pháp Giới Vũ Trụ này cuối cùng vị ấy đạt được giác ngộ giải thoát viên mãn.
30/09/2019 - 01:18 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Xin thưa nó như thế này. Tôi ví dụ ở ngoài đời thôi mình có con, cái mình mong là con mình nó có cái bằng bác sĩ, nó có cái bằng đại học. Nhưng mà khi nó có cái bằng đại học thì tự nhiên nó kéo theo đó rất là nhiều chuyện. Thí dụ như khi nó có cái bằng đại học, thì ngoài cái kiến thức chuyên môn của nó học trong mấy năm đại học ra, ngoài cái kiến thức đó ra, nó còn có cái khả năng kiếm tiền tốt hơn cái người mà không có cái bằng đại học. Mình phải nhìn nhận với nhau cái chuyện đó. Mục đích của mình là muốn con nó tốt nghiệp 4 năm đại học, 6 năm đại học hoặc là có cái bằng bác sĩ mười mấy năm, nhưng mà bây giờ trước mắt là ngoài kiến thức chuyên môn ra, thì nó có được vô số những thứ khác, thí dụ như nó có khả năng kiếm tiền, rồi cái gì nữa? Cái khả năng hội nhập xã hội tốt hơn là nó không học đại học, bởi vì nếu nó không có bằng đại học, bạn bè của nó cũng rất là hạn chế. Nó có những loại bạn mà nó chơi hỏng có được, nhưng mà khi nó có 4 năm đại học rồi đó, thì ngoài cái chuyện mà nó có kiến thức chuyên môn, ngoài cái chuyện mà nó có khả năng kiếm tiền, thì nó có khả năng hội nhập xã hội tốt hơn, ngõ ngách nào, bậc thang nào nó cũng leo lên được và một cái nữa mình không thường nhắc tới nhưng đó là sự thật, đó là cái khả năng kiếm bạn của nó tốt hơn. Nếu mà nó không có bằng đại học thì số bạn của nó rất là hạn chế, nó chỉ chơi được ở một tầng lớp nhất định nào đó. Nhưng mà khi nó có 4 năm đại học thì nó chơi với người không biết chữ cũng được, mà nó chơi với người đại học cũng được, nó chơi với bác sĩ, kỹ sư bình thường, nha.

Ở đây cũng vậy, cứu cánh của chuyện tu hành là chấm dứt phiền não, chấm dứt sanh tử, nhưng ở đây rất nhiều trường hợp chúng ta được Thế Tôn Ngài nhắc tới là lục thông. Lục thông là gì ta?

* 1. Thiên nhãn thôngLục thông cái đầu tiên là thiên nhãn thông, có hai loại thiên nhãn.
  1. Thiên nhãn một là cái khả năng mắt thần, thấy được những cái nhỏ nhất và xa nhất mà mắt thường không thấy được.
  2. Thứ hai là cái khả năng thấy biết nhân duyên nào đã tạo nên các cảnh giới, các thân phận của chúng sinh.
* 2. Thiên nhĩ thôngRồi cái thiên nhĩ thông là cái khả năng nghe được những âm thanh mà cái thính giác bình thường nghe không nỗi.

Tôi nói rất là nhiều lần, thí dụ như âm thanh đó quá xa hoặc là âm thanh đó được phát ra với một cái tầng số quá thấp, gọi là hạ âm, quá thấp, thì chúng ta cũng đồng ý với nhau là trong thế giới động vật tính luôn con người thì ở nhiều cái loài động vật nó không có thính giác, hoặc có những loài nó có rất là yếu, và có những loài cái thính giác nó rất là nhạy, nhạy lắm. Thì ở thần thông nó còn ghê hơn cái đó nữa, thần thông là nghe được ở những khoảng cách xa mà mình muốn, chứ khoảng cách đó không bị giới hạn bởi cái thước đo vật lý bình thường như là ngàn cây số, ba ngàn cây số, một ngàn năm ánh sáng, hai ngàn năm ánh sáng, chuyện đó hỏng quan trọng. Mà vấn đề đó là họ muốn nghe, thí dụ như họ ngồi ở đây mà họ muốn nghe âm thanh của chư thiên cõi đao lợi nói cái gì, họ nghe được. Đó là thiên nhĩ thông.

* 3. Tha tam thôngRồi cái thứ ba là tha tam thông có nghĩa là vị này có thể đọc hiểu được tâm của người khác. Và tùy chỗ mà lục thông này được kể khác nhau, có chỗ trong đó có kể ý hóa thông nữa, là Manomayā iddhi có nghĩa là vị này có thể một mình mình mà biến ra nhiều người giống như mình và nhiều người mình có thể biến thành một, một biến thành nhiều. Vị này có khả năng đọc hiểu được tâm người, biết cái người trước mặt mình họ đang nghĩ cái gì, tâm đó là tâm thiện, tâm ác, mình biết.

* 4. Túc mạng thôngTiếp theo là túc mạng thông là vị đó có khả năng nhớ được nhiều đời quá khứ mà tôi nói là cái quả sanh tử đó. Tức là vị này nhớ được đời xưa kiếp trước của mình và của người khác. Các vị sẽ hỏi người khác là người nào? Người khác là cái người nào mình muốn tìm hiểu, thì mình chỉ liếc mình nhìn người đó là mình biết cách đây 50 kiếp, 80 kiếp, 1 ngàn kiếp người đó ở đâu, làm gì, hình dáng, sinh hoạt, tuổi thọ, sở thích ra sao, mình biết. Mình nhìn lại, mình nhìn quán chiếu người đó giống như mình nghĩ lại cái chuyện hôm qua, nghĩ về cái chuyện của một người mà mình đã quen biết từ lâu ngày. Thí dụ như bây giờ tôi liếc tôi nhìn ông cậu Tám của tôi, thì tôi vừa nhìn cậu Tám là tôi biết liền, tôi biết ông cậu Tám này là con của bà ngoại tôi, cậu Tám hồi nhỏ là bị cái gì. Rồi cậu Tám lớn lên đi lính, cậu Tám bị thương rồi cậu Tám xuất ngũ, cậu Tám về lấy vợ, cậu Tám buôn bán cái gì đó. Rồi sau đó cậu Tám đi đâu, làm gì, rồi có bao nhiêu người con, thành bại, vinh nhục ra sao tôi đều nhớ hết.

Thì ở đây cũng vậy, túc mạng thông nó giống vậy đó, nghĩa là mình nhìn mình, mình muốn biết cách đây 5 kiếp, 10 kiếp ra sao cũng được, giống như mình nhớ lại một chuyện cũ của bản thân hoặc là mình quán chiếu đến người khác cũng dễ dàng như hồi nãy tôi nói tôi nhìn cậu Tám của tôi vậy đó.

* 5. Sanh tử minhNhưng mà cái đó hỏng có ghê, qua tới cái thiên nhãn hai mới ghê, còn có cái tên gọi là sanh tử minh Cutūpapātañāṇa. Có nghĩa là cái túc mạng thông thì chỉ nhớ cái quả luân hồi thôi, nhớ người ta sanh ra ở đâu, hình dáng, tuổi thọ, sở thích, sinh hoạt thế nào. Còn cái sanh tử thông hoặc là thiên nhãn thông loại hai đó, tức là có thể biết trước là vì đâu mà 300 kiếp trước ông này ổng làm vua, vì đâu mà 292 kiếp về trước ông này ổng làm ăn mày, ổng làm con chó, con mèo, con heo, con giun, con gián, con dế, con ruồi. Đó! Biết cái nghiệp nào.

* 6. Lậu tận thôngVà tất cả những cái đó đó nó không phải là cứu cánh giải thoát, cứu cánh tu hành, bởi vì cái thứ 6 mới là cứu cánh tu hành. Đó chính là cái khả năng chán sợ sanh tử một cách rốt ráo, thấy ra mọi thứ chỉ là do duyên mà có rồi cũng do duyên mà mất, mọi thứ luôn trong cái tình trạng vô ngã, vô thường.

Vô thường là không có cái gì đứng yên còn hoài không mất. Còn vô ngã là biết rõ rằng không có một cái cá thể, không có cái gì độc lập mà có thể tồn tại, biết tất cả chỉ là đồ ráp, vô ngã là vậy. Tôi nhắc đi nhắc lại vô ngã đây không phải là nothing mà là nobody. Có nghĩa là, vô ngã không phải là không có gì, mà là không có ai. Ở đây cái gọi là ông A, bà B nó chỉ là một cái khối tổng hợp của nhiều thứ nhân duyên mà mình có thể gom gọn lại đó là: thiện, ác, buồn, vui. Chỉ bao nhiêu đó thôi.

Thì với cái khả năng mà thấu suốt tinh tường, rốt ráo như vậy, vị này chán sợ sanh tử ở cái mức tuyệt đối. Và ở cấp thấp nhất là vị này chứng được là Tu đà hườn, lên nữa là Tư đà hàm, rồi A na hàm, rồi A la hán.

Cái  là chỉ cho cái quả vị La hán. Ở cái tầng này thì một vị La hán, một vị Thánh Tứ quả hoàn toàn không còn tham, sân, si, ái, mạn, kiến, nghi. Ở các cái tầng thánh thấp, tuy không còn khả năng đọa lạc nhưng mà vẫn còn thích thú trong thiền và có thể sanh về các cảnh giới phạm thiên, nhưng mà riêng ở cái tầng La hán thì không. Ở tầng này không còn cái gì để các Ngài thích dù về vật chất hay là tinh thần, cho nên vị này khi dứt hơi, mệnh chung rồi thì không còn tái sinh nữa. Thì cái trình độ mà lìa bỏ phiền não một cách rốt ráo tuyệt đối như vậy được gọi là lậu tận minh hay lậu tận thông.

Thì toàn bộ các khả năng mà chúng tôi vừa nói, trong bài kinh này nè chứ không phải chúng tôi, trong kinh vừa nhắc đó, thì tất cả khả năng ấy chỉ có ở một người có thiền định thôi, nhớ.

Cái này phải ghi:
  1. 5 cái khả năng đầu của lục thông có thể có ở phàm phu đắc thiền, 
  2. nhưng khả năng thứ 6 chỉ có ở Thánh nhân, kể cả Thánh nhân không đắc thiền.
Lục thông thì gom hết, người có đủ lục thông thì bắt buộc phải có thiền định, nhưng mà cái thông thứ 6 thì không nhất thiết, thông thứ 6 này là có thể có ở bậc Thánh không có thiền định.

Không có thiền định đây là sao ta? Có nghĩa là
  1. vị này chưa từng đắc sơ, nhị, tam, tứ thiền,
  2. nhưng trong cái giây phút mà chứng Thánh, vị nào cũng phải có cái khả năng tập trung tư tưởng tương đương với tầng sơ thiền.
Mấy cái này là mấy cái phải ghi, mấy cái mà tôi chịu khó mà tôi gõ là mấy cái đó bà con phải chép lại, nhớ nha. Chớ tôi hỏng có quỡn mà chép mấy cái mà không cần thiết, mà cái nào tôi ngừng lại để tôi gõ thì bà con làm ơn ghi cái note.

Và sẵn chúng tôi cũng nói luôn, học kinh tạng trong room này là có người nắm tay mình bước vào thế giới kinh tạng, mình học cho biết chứ mình hỏng có phải để trở thành học giả có bằng cấp. Tuy nhiên nếu có cái lòng mà học nghiêm túc, ở mỗi bài kinh này nên note, ghi chú để mà làm của riêng, chưa kể mình còn sưu khảo, tầm nguyên, truy ngọn, truy gốc, tìm hiểu thêm trên internet nữa. Nhớ làm sao mà mình trải qua được một năm, hai năm, ba năm, tám năm, mười năm mà học kinh tạng với từng cái note ghi chú của từng bài đó, thì tôi nghĩ rằng trong năm năm, bảy năm, mười năm các vị sẽ khác đi nhiều lắm. Những cái này không có ghi nó uổng, nha, coi như có người đọc sách dùm mình mà, nhớ cái này.

Nhớ trong lục thông thì chỉ có 5 thông đầu tiên là bắt buộc phải có đắc chứng thiền định. Riêng cái thông thứ 6 thì trong trường hợp mình chỉ tu tuệ quán không có đắc thiền thì mình vẫn đắc được thông thứ 6. Còn trong trường hợp mà Đức Phật Ngài gom chung lục thông lại với nhau thành một thì lúc đó bắt buộc là chúng ta phải có tu tập thiền định. Rồi bây giờ tôi mới quay lại.

Tại sao cái cứu cánh cao nhất của đạo nghiệp tu hành là cái thông thứ 6 là lậu tận thông hay là lậu tận minh? Mà tại sao phải nhắc chi 5 cái thông đầu tiên? Nãy tôi có nói rồi, đó là phụ thu, là thứ phẩm của cái người tu tập viên mãn Tam học (Giới học, Định học, Tuệ học). Có nghĩa là dầu muốn dầu không thì đương nhiên, tự nhiên, mặc nhiên, cố nhiên, dĩ nhiên là họ có được 5 cái khả năng đó. Đó là cái chuyện thứ nhất.

Cái chuyện thứ hai, khi nhắc tới ngũ thông tức là 5 khả năng đó, chúng ta có được một bài học rất là lớn mà không có ai nói, chúng ta không có để ý, là gì?

13:16
30/09/2019 - 05:59 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Cái này tôi nói thiệt là chậm nha, chỗ này tôi nói thiệt là chậm, cái này phải để ý: Khi mà Đức Phật nhắc đến thần thông thì mình đừng có nghĩ là Ngài kêu gọi mình trau dồi phù phép, biến hiện cho nó thỏa sức rong chơi, cho nó thỏa sức tò mò xưa giờ mình muốn mà không được. Không phải. Mà khi Ngài nói đến lục thông thì cái thông thứ 6 là Ngài nói đến cứu cánh giải thoát, đúng. Nhưng mà khi Ngài nói đến 5 thông đầu tiên là Ngài mở ra vấn đề như thế này: Khi tâm tư ta còn chìm sâu trong 5 dục nói riêng và trong phiền não nói chung thì cái khả năng quan sát thế giới của ta luôn có vấn đề, luôn có những hạn chế nhất định. Đó! Bây giờ các vị thấy cái bài học nó sâu là sâu chỗ đó.

Khi Ngài nói đến các khả năng thần thông hỏng phải Ngài kêu gọi, Ngài khuyến khích mình trau dồi phù phép, hỏng phải, nhưng mà Ngài muốn cho mình thấy rằng "Khi mà con đạt đến một cái trình độ tâm linh mà lìa bỏ được 5 dục thì cái cách mà con nhìn thấy thế giới này nó khác đi nhiều lắm, kể cả trường hợp khi đó con chưa kịp là một vị Thánh". Chưa kịp là một vị Thánh thì cái khả năng mà con lai vãng lui tới thế giới này, cái khả năng mà con quan sát, con thấy, con nghe cái thế giới này nó cũng khác đi, nó không giống như ngày xưa.

Ngày xưa khi mà con còn hưởng dục, ngày xưa khi mà con còn thích, còn ghét, còn đam mê, còn bất mãn thì mọi thứ nghe, nghĩ của con, nhìn thấy của con nó còn bị giới hạn ở trong cái nhà ngục của 5 cái thứ mắt, tai, mũi, lưỡi, thịt, da, xương tầm thường của người bình thường. Nhưng mà hôm nay, khi con có thiền định, con có được cái khả năng thần thông thì con mới thấy thế giới này có nhiều cách nhìn lắm. Đó! Cái sâu sắc ở chỗ đó đó!

Cái thế giới này có nhiều cách để chúng ta nhìn thấy nó. Chúng ta có nhiều cách để đến với thế giới này, xưa giờ mình chỉ có khả năng lấy con mắt thịt mình nhìn, nhưng bây giờ mình có cái ống dòm, mình có viễn vọng kính, bây giờ mình có kính hiển vi, mình có binoculars, mình có microscope, mình có telescope, mình có ba, bốn thứ. Đó! Thì cái thế giới này các vị phải đồng ý với tôi, là cái thế giới này trong cái suy nghĩ của một người có học về hóa chất, có học về vật lý và có các phương tiện công nghệ hiện đại, thì cái thế giới ở trong mắt của cái người có đủ những điều kiện đó, vừa có kiến thức mà vừa có công cụ phương tiện hiện đại, thì thế giới của họ nó khác với thế giới của người bình thường.

Còn cái thế giới của cái người đã vừa dốt mà lại vừa không có các phương tiện nghe nhìn thì thế giới của họ nó chật lắm. Nói vậy trong room có hiểu cái này không? Có nghĩa là cái thế giới của một người đã vừa dốt mà lại vừa không có các phương tiện, công cụ thì coi như là nó chật dữ lắm. Thí dụ nha, bây giờ quí vị đi chơi mà quí vị không có cái ống dòm là quí vị thấy thua rồi. Có những cái chỗ mà mình không thể đặt chân đến mà mình có thể đứng nhìn từ xa, mà nếu lúc đó mình có được cái ống dòm thì tình hình nó khác. Mà trong cái ống dòm nó có tới ngàn lẽ một loại, loại đắt tiền và loại rẻ tiền. Cái loại đắt tiền nó cho phép mình nhìn xa, nhìn rõ. Còn cái loại rẻ tiền thì nó chỉ cho mình nhìn gần, nhìn mờ, không rõ.

Cho nên mình thấy rõ ràng rằng cũng trong một cuộc đi chơi dã ngoại mà ai có nhiều phương tiện đi đứng, nhiều phương tiện nghe nhìn thì vẫn tốt hơn là cái người mà trụi lủi chỉ có hai bàn chân và chỉ có cặp mắt thịt, nha. Đó! May là trong một cuộc chơi của phàm phu, cuộc chơi chỉ có vài giờ đồng hồ thôi mà mình thấy rằng ai có nhiều phương tiện vẫn tốt hơn, cuộc chơi nó vẫn trọn vẹn hơn, nó đầy đủ, nó viên mãn hơn.

Thì ở đây cũng vậy, cái cứu cánh tu hành của chúng ta là lậu tận thông, là lậu tận minh, là chấm dứt phiền não, là kết thúc tái sanh. Tuy nhiên khi một người mà có tu tập thiền định thì tình hình nó lại khác, bên cạnh cái khả năng chấm dứt phiền não, vị ấy có được một cái khả năng nghe nhìn và lui tới, làm việc, hoạt động trong thế giới này nó tốt hơn gấp tỷ lần một người không có thần thông. Đó! Nhớ chỗ đó!

Chẳng hạn như mình thấy trong kinh nói, cái này kinh chánh tạng chứ không phải chú giải, chánh tạng nói "Cái lợi ích của một người nghe nhiều giáo pháp là mai này đi về trời dễ dàng được nhắc nhở tu hành hơn là cái người mà ít nghe pháp hoặc là không nghe pháp". Chỉ có bố thí mà không nghe pháp mai này cũng có thể về trời, chỉ có giữ giới không thì cũng có thể về trời, nhưng mà về trên đó mình vẫn tiếp tục sống với cái đầu bơ bơ của mình. Mà một người đã từng nghe nhiều giáo pháp, thông thuộc nhiều giáo lý thì mai này ở cảnh giới nào đi nữa thì mình cũng dễ dàng được cái sự nhắc nhở từ những thầy bạn, nha.

Trong kinh có ghi rõ, cái này mình học rồi, bài kinh này mình học rồi mà tôi không biết trong room ở đây có ai có nhớ không? Trong đó ghi rõ thế này: "Khi mang cái thân chư thiên, thì chúng ta sẽ nhớ lại mình đã học cái gì và đặc biệt là chúng ta sẽ biết rõ những cái chỗ nào mà mình đã học sai". Cái thân chư thiên nó đặc biệt như vậy đó! Nhớ lại hồi đó mình ở cõi người mình đã học thuộc lòng cái Trường bộ kinh và trong suốt nhiều năm cái chỗ đó mình đọc sai, chỗ đó thật ra không phải như vậy. Khi mà mình tiếp tục mang thân người thì mình cắm đầu mình đọc hoài cái chỗ sai mà mình không biết. Nhưng mà khi mình về trời thì với khả năng thần thông của vị chư thiên, một vị trời thì chúng ta sẽ biết được "Ồ! Cái chỗ đó chỗ sai". Chưa kể là chúng ta có vô số thầy bạn chung quanh mình, nhắc nhở mình, giải thích cho mình nghe nữa, nha.

Nói như vậy có nghĩa là sống trong cái cuộc sanh tử trầm luân này, chúng ta càng có nhiều phương tiện để sống, càng có nhiều phương tiện, điều kiện để làm việc thì nó vẫn tốt hơn là mọi thứ trong cái tầm hạn chế, nha. Đó! Bài kinh này nó sâu là sâu chỗ đó! Chứ còn cái chuyện thần thông, thần thiết gì đó chẳng là cái gì trong mắt của các bậc hiền thánh hết, nhưng mà khi các Ngài nhắc tới cái đó là các Ngài đã kín đáo, lặng lẽ nhắc tới những cái bài học khác mà là tôi vừa nói đó:

  1. Thứ nhất thần thông là cái khả năng đương nhiên của một cái người đã tu tới nơi tới chốn các cái tầng thiền định, dầu muốn dầu không tự nhiên nó trào, nó vẫn trồi ra.
  2. Cái chuyện thứ hai là khi Ngài nhắc đến thần thông là Ngài cho mình biết một chuyện vô cùng quan trọng, đó là: Cái thế giới này nó ra sao trong mắt của con nó còn tùy thuộc vào cái nền tảng tâm thức của con, nó tùy thuộc vào cái nhân cách, tùy thuộc vào cái trình độ, tùy thuộc vào cái nền tảng tâm tư, tinh thần, phước báu tiền duyên của con.
Đó! Nếu mà nói vậy có nghĩa là ngay bây giờ con phải tận dụng thời gian, tận dụng cơ hội để thực hiện các hạnh lành như có thể, định được thì định, niệm được thì niệm, tuệ được thì tuệ, dầu là văn, tư, tu có cơ hội không bỏ, có cơ hội bố thí thì nên bố thí, có cơ hội hành thiền thì nên hành thiền, có cơ hội phục vụ thì nên phục vụ, vì sao? Vì tất cả những vốn liếng ấy nó sẽ là cái nền tảng tâm thức cho con sau này, con tu thiền cũng dễ đắc thiền, con gặp Phật con nghe pháp cũng dễ giác ngộ.

20:55
30/09/2019 - 08:16 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Và một cái người dễ đắc thiền, dễ giác ngộ thì trước là lợi mình, sau là lợi người. Những vị La hán mà lợi căn thì giúp được cho bản thân mình tu đỡ cực mà đồng thời cái vị La hán lợi căn cũng giúp được cho nhiều người khác lắm. Thí dụ như mình thấy như Ngài Anan, Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên đó là những vị La hán lợi căn, có nghĩa là đủ duyên chứng Thánh và đồng thời cũng là những người có tư chất minh triết hơn người bình thường.


Có vô số những vị La hán chỉ vừa đủ trí tuệ giác ngộ do sự hỗ trợ của Ba la mật, hiểu được 4 đế rồi thì thôi về núi ở một mình chứ còn yêu cầu, năn nỉ các vị này thuyết pháp thì đối với các Ngài không có tiện, các Ngài không có được thoải mái trong ngôn từ, trong cái cách diễn đạt các Ngài không có được thoải mái. Có, có trường hợp đó. Đó là những vị chứng Thánh mà độn căn. Còn những vị lợi căn, lợi là bén, những vị lợi căn thì giúp được cho nhiều người lắm.

Cho nên tùy thuộc vào cái hành trang, tùy thuộc vào cái chuẩn bị, cái trang bị của chúng ta mà chúng ta sống trong đời này nó dễ hay là nó khó, cho bản thân mình là dễ hay khó và đồng thời tùy thuộc vào cái vốn liếng, cái hành trang, cái trang bị của mình mà chúng ta giúp được người khác nhiều hay ít. Đó! Nói như vậy có nghĩa là cái chữ "Huân tu các hạnh lành" luôn luôn là cái điều cần thiết, trước là lợi mình sau là lợi người, nha, lợi mình và lợi người. Mình trí tuệ nhiều nè, mình phước bố thí nhiều nè, phước giữ giới, phước từ tâm, phước chánh niệm, phước thiền định nhiều thì đời sau sanh ra trước là bản thân mình tu tập trơn tru, mau chóng, dễ dàng và bên cạnh đó mình cũng giúp được nhiều người khác.

Thí dụ như Miến Điện, các vị mà chân tu, các vị mà giỏi giắn, tinh thông kinh điển thì nhiều lắm chớ đâu phải là ít, đếm làm sao cho xuể, nhưng mà các vị mà hội đủ các điều kiện để mà tự tu học và hỗ trợ người khác tu học thì mình thấy cũng đếm được chứ không có nhiều lắm. Thí dụ như trên đất Miến Điện, mấy trăm ngàn vị sư thì có được bao nhiêu vị là Sitagu, Sayadaw, có bao nhiêu vị được như Pa Auk Sayadaw, có bao nhiêu vị được như Shwe Oo Min Sayadaw, Tejaniya Sayadaw, được bao nhiêu vị như Jotika Sayadaw chẳng hạn. Ngài Jotika tuy không có thiền viện, học viện, đúng, nhưng mà Ngài có khả năng sinh ngữ, Ngài có khả năng Tây học. Khi mà Ngài tiếp cận với dân Âu Mỹ hay là dân trí thức Miến Điện thì Ngài có đủ đồ nghề để Ngài làm việc với họ, thấy chưa?

Cho nên cái khả năng tự tu thì luôn luôn là cần thiết nhưng phải thêm cái khả năng lợi tha nữa, chứ còn nếu mà chỉ có khả năng tự tu thì quá tốt nhưng mà còn một điều nó cũng chưa được viên mãn, vì sao? Vì tôi nói không biết bao nhiêu lần, cái giá trị của mỗi con người nó nằm ở hai phần: 
  1. phần một là cái giá trị tự có ở bản thân mình là ai trong cuộc đời này.
  2. Và cái giá trị thứ hai của một con người đó là khả năng vi hiến, anh có thể đóng góp được bao nhiêu thứ cho cuộc đời. Đó là giá trị thứ hai của một con người.
Anh là một viên ngọc, đúng, đó là tự thân anh phải có giá trị rồi đó, bản thân anh đã có đủ lý do để anh tồn tại trên đời này, đúng, vì bản thân anh là một viên ngọc. Nhưng nếu viên ngọc ấy mà nó nằm chìm sâu trong đáy núi, trong bờ cát, trong lòng sông, trong đáy biển thì cũng hơi tiếc, nha.

Bài kinh này nó sâu là sâu vậy đó!

24:29

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng về Thần Thông và các Kinh khác (2-4)


https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...Th%C3%B4ng


24:29

30/09/2019 - 11:59 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]



KTC.6.71 Chứng Nhân

Sáu Pháp ngăn cản vị Tỳ kheo đạt được địa vị chứng nhân: thối đọa, an trú, thắng tiến hay thù thắng, thể nhập, chu toàn, có lợi ích.

  1. Không biết mình đang đi thụt lùi (thối đọa).
  2. Không biết mình đang dậm chân tại chỗ (an trú).
  3. Không biết cách nào để vươn lên cao, tiến về phía trước (thắng tiến hay thù thắng).
  4. Không biết cách nào để biến mọi đạo nghiệp đi vào cái lộ trình giải thoát (thể nhập).
  5. Làm việc không chu toàn (chu toàn).
  6. Làm việc không lợi ích (có lợi ích).
Rồi tiếp theo là bài kinh Chứng nhân, bài kinh này nó gồm có 6 phần, ở đây cái vị tỳ kheo không có cách chi, không có tài nào thành tựu các đạo nghiệp nếu mà không có 6 khả năng này.

1/ Không biết mình đang đi thụt lùi (thối đọa).
Một là biết rõ những gì ta đang sống cùng, đang hoạt động. Khả năng một là phải biết rõ những gì ta đang sống cùng, ta đang hoạt động, những cái đó nó có đẩy cho ta bị lui sụt hay không.

Cho nên phải ghi: Một, biết rõ cái gì có thể đi xuống, thụt lùi. Hai, biết rõ cái gì có thể dậm chân tại chỗ. Ba, biết rõ cái gì hay cách nào để giúp mình vươn lên cao hay tiến xa về phía trước. Bốn, biết rõ làm cách nào để mọi đạo nghiệp có thể trở thành đạo giải thoát, cái phần thể nhập đó, cái phần này hơi khó à. Bởi vì bửa hổm cách đây mới có hai, ba ngày tôi có giảng cái chỗ này.

Đức Thế Tôn Ngài dạy rằng có một sự khác biệt rất là lớn giữa cái người biết được Phật Pháp và người không biết Phật Pháp. Cái người không biết Phật Pháp một là họ sống ở trong cái bất thiện, còn hai nữa là khi mà họ biết làm thiện thì họ bị chìm sâu ở trong cái thiện, họ không có ngoi ra khỏi cái thiện đó được. Trong room này thế nào cũng có người họ thắc mắc "Ủa thiện là số một rồi tại sao phải ngoi ra?" Dạ thưa, nó như thế này, chúng sanh nó 3 hạng:

Hạng 1, không biết thiện ác là gì hết, chỉ biết chạy theo cái thích và biết trốn cái ghét thôi.

Hạng 2 là biết làm lành lánh dữ nhưng họ lại thỏa mãn, họ lại tâm đắc với cái đạo hạnh của mình, họ lại tâm đắc thỏa mãn với cái quả báu nhân thiên.

Chỉ có cái hạng thứ 3 là họ chán cái ác đã đành rồi, nhưng mà đối với cái thiện họ cũng biết rằng đây là cái nhân sanh tử.

Bởi vì cái thiện nó có 2 loại, một cái thiện chỉ nhắm tới cái quả báu nhân thiên, rồi cái thiện thứ hai là nhắm tới cái quả vị giác ngộ.

Thì cái hạng thứ 3 này là họ nhắm tới cái tinh thần đó đó. Họ chỉ làm thiện, lánh ác để nhắm đến một cứu cánh không còn thiện ác nữa. Cái đó nó mới khó!

Thì đa phần chúng sanh trong đời này nó chỉ có 2 hạng thôi: Một là chìm sâu trong tội lỗi ác nghiệp, sống thuần túy bản năng như loài súc vật, như loài động vật hạ cấp. Loại thứ hai, khá hơn một chút là biết làm lành, lánh dữ nhưng cũng chỉ quẩn quanh trong các cảnh giới nhân thiên.

Cái ở đây mình đang học cái điều thứ tư này nè, biết cái gì dự phần thể nhập (?) là vậy đó, tức là biết làm sao mà dầu mình có tu bố thí, trì giới, có phục vụ, có nghe pháp, có tu chỉ, có tu quán gì đi nữa thì phải biến tất cả đạo nghiệp đó trở thành chất xúc tác để dẫn đến giác ngộ. Chứ còn không, đắc sơ thiền kẹt cứng trong sơ thiền, đắc nhị thiền kẹt cứng trong nhị thiền, có thần thông kẹt cứng trong thần thông, là chết.

Đọc kỹ bài Kinh Ví dụ lõi cây của Trung bộ, trong đó Ngài dạy có những người đi tìm lõi cây nhưng mà gặp bông hoa, cành lá đẹp quá quên mất cái mục đích đi tìm lõi cây. Cũng vậy, có những người đến với đạo giải thoát, buổi đầu cũng có tâm lý, cũng có lý tưởng ngon lành nhưng về lâu về dài được chút danh, được chút lợi, quên sạch lý tưởng ban đầu. Hoặc có người cũng theo đuổi lý tưởng giải thoát nhưng mà có được chút đỉnh kiến thức Phật Pháp, có một miếng thiền định, một miếng thần thông, một chút giới hạnh, rồi cho đó là tất cả, còn ngoài ra là rác, quên mất lý tưởng giải thoát ban đầu, nhớ nha.

* Cho nên ở đây vị tỳ kheo phải biết rõ trong đời sống của mình khi mình tu giới, tu định, tu tuệ thì phải biết rõ cái nào là cái con đường dẫn đến thụt lùi, thối đọa, cái nào mà có sự can thiệp của cái tà tư duy, cái nào mà có sự can thiệp của 5 triền cái, cái nào mà có sự can thiệp của 10 kiết sử, nói chung là phiền não cho nó dễ nhớ. Đó! Thì cái đạo nghiệp nào mà còn dính líu, còn dây dưa, còn mắc míu với phiền não thì cái đạo nghiệp đó sớm muộn cũng chỉ quẩn quanh trong cái chuyện thụt lùi mà thôi, nhớ cái đó.

2/ Không biết mình đang dậm chân tại chỗ (an trú).
* Thứ hai là vị đó phải biết rõ cái nào, ở trong đây chữ dịch nghe rất là sang nhưng tối nghĩa "pháp này dự phần an trú" ở đây ṭhitibhāgiyā có nghĩa là mình biết cái kiểu sống nào, kiểu hành động nào mà nó khiến cho mình bị thụt lùi tức là thối đọa, biết kiểu sống nào, biết kiểu hành động nào mà nó khiến cho mình dậm chân tại chỗ, "thiti" ở đây có nghĩa là đứng yên, dậm chân tại chỗ.

3/ Không biết cách nào để vươn lên cao, tiến về phía trước (thắng tiến hay thù thắng).
* Cái thứ ba là biết rõ cái nào, cách nào mà nó giúp mình tiến xa, vượt xa. Mà muốn tiến xa, vượt xa thì làm sao ta? Phải quay trở lại: Biết rõ cái gì, cách nào mà làm cho mình bị thụt lùi? Có nghĩa là với sự can thiệp của phiền não, cái nào có sự can thiệp của thích, của ghét, của cái sự đầu tư sanh tử, của ý tưởng thích ghét, thì cái đó chỉ khiến cho mình bị thụt lùi. Đúng. Nhưng mà cái thứ hai đó là khi có lòng tâm đắc, đắm đuối, đê mê, vùi đầu, gục mặt ở trong cái quả chứng mình có, trong cái thành tựu đạo nghiệp mình có, thì như vậy vô tình là mình bị lọt vô cái thứ hai này nè, tức là dậm chân tại chỗ không đi xa được, nhớ nha. Trường hợp này bị nhiều lắm à, trong mấy người tu bị cái này nặng lắm à. Cái loại một thì quá tệ mình hỏng có nói, nghĩa là cả đời chỉ biết cắm đầu ở trong cái bất thiện. Nhưng mà cái loại hai là tâm đắc, thỏa mãn, vừa ý với cái mình đang có thì đứng yên không có đi xa.

Như vậy phải cần tới cái thứ ba là biết rõ cách nào để có thể vượt lên trên cao, tiến xa về phía trước. Đó là sao? Là biết chán cái thấp, biết chê cái cũ, biết hướng tới cái cao, biết nghĩ tới cái xa. Khi mà không chán được cái cũ, không thấy được cái gì là thấp, thì mình cả đời cứ đứng yên. Nhưng mà khi mình biết cái cũ, biết cái xưa giờ nó còn có cái hơn nữa, khi biết có cái hơn nữa thì mình mới đi xa được, khi biết có cái hơn nữa thì mình mới chán cái thấp để mà vươn lên cái cao. Còn nếu như không có được cái khả năng nhận thức, cứ dìm mình, gục mặt ở trong cái quả chứng hiện tại thì dầu bất cứ cái thiện pháp, công đức, đạo nghiệp nào đi nữa mà chỉ biết đó là tất cả, đó là cao nhất thì thua, nha.

32:03



04/10/2019 - 08:03 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Có 3 cái đặc điểm của vị Bồ tát các vị còn nhớ không?

Một là luôn hướng tới cái tốt hơn.

Thứ hai là khả năng buông bỏ của Bồ tát rất là tốt.

Cái thứ ba là Bồ tát biết vượt khỏi cái giới hạn cũ, cái này mới khó.

Giới hạn cũ là gì? Là hồi đó tầng đó, bây giờ phải ra khỏi cái tầng đó. Thứ hai, Bồ tát không có bao giờ tự xây cái nhà ngục để giam hăm mình ở trong một cái thành tựu nào hết. Và cái cuối cùng đă không có tự giam hăm mình trong cái thế giới của tình cảm, có nghĩa là sao? Mình hồi đó tới giờ mình chỉ biết có bản thân mình thôi, mấy chục ký lô này thôi, rồi xa hơn chút là mình chỉ biết có vợ mình, chồng mình, cha mình, mẹ mình, con mình, anh em, quyến thuộc bà con, bạn bè, láng giềng, đồng hương của mình, dân tộc của mình chớ mình hỏng có biết nghĩ xa. Nhưng Bồ tát thì không, Bồ tát hội đủ 3 cái đặc điểm, một là luôn hướng tới cái tốt hơn. Hai, khả năng buông bỏ rất tốt. Ba là không có tự giam hăm mình trong bất cứ cái nhà ngục nào.

Có nghĩa là Bồ tát có khả năng thương yêu muôn loài chúng sanh, trái tim Bồ tát vượt khỏi cái biên giới của phàm tình. Mình đó giờ mình chỉ biết có thương người của mình, người phe ta, người nội bộ, người trong nhà, người nội thuộc. Bồ tát thì không, Bồ tát hỏng có nội ngoại gì hết, Bồ tát gom chúng hết muôn loài vũ trụ, nhất thiết chúng sanh trong hằng hà sa thế giới, đối với Bồ tát tất cả là một nhà chứ không có vụ trong, ngoài, nội, ngoại gì hết. Bồ tát không có tự giam cầm mình trong bất cứ cái nhà ngục nào. Chính vì hành trì các hạnh lành bằng cái tinh thần ấy, không có giới hạn, không có biên tế, không bờ mé khi chứng quả rồi thì cái hạnh lành của Chánh đẳng giác là vô lượng vô biên. Đấy! Trí tuệ của Chánh đẳng giác là không có giới hạn.

Hạnh lành của Chánh đẳng giác là không có hạn chế. Bằng vị Chánh đẳng giác thì chỉ có Chư Phật Chánh đẳng giác với nhau chứ không hề có một vị Phật nào hơn vị Phật nào, chuyện đó không có. Nhớ nha, Chánh đẳng giác với nhau chỉ có bằng chớ không có hơn nhau bởi vì có vị hơn là có vị kém. Tại sao Chánh đẳng giác không có hơn kém nhau? Là bởi vì các Ngài đã đạt tới cái mức vô lượng vô biên, không biên tế, không bờ mé, không ngăn ngại, không giới hạn, không ranh giới, không giới tuyến thì lấy cái gì mà hơn mà kém nha, nhớ cái đó. Khi chúng ta có hơn có kém là bởi vì chúng ta còn bị giới hạn, còn bị giam nhốt trong những cái rào, trong những giới tuyến, biên giới, trong những giới hạn, những lằn ranh, lằn mức. Riêng cái vị mà đạt tới cảnh giới vô lượng vô biên, không bờ mé thì vị đó không còn sự hơn kém nhau vì giống hệt nhau mà, nha.

4/ Không biết cách nào để biến mọi đạo nghiệp đi vào cái lộ trình giải thoát (thể nhập).
Cho nên ở đây vị tỳ kheo mà thiếu 6 cái khả năng này nè là không có thể nào thành tựu bất cứ quả chứng nào. 
  1. Thứ nhất, là không biết rằng mình đang thụt lùi. 
  2. Thứ hai là không biết rằng mình đang dậm chân tại chỗ .
  3. Thứ ba là không biết bằng cách nào để vươn được lên trên cao, đi xa về phía trước. 
  4. Thứ tư là vị tỳ kheo không biết làm sao để mà biến tất cả đạo nghiệp trở thành ra là đạo nghiệp giải thoát. Dự phần thể nhập là như vậy, tức là thấy được tánh sanh diệt. 
Ở trong kinh ghi rõ là thấy được tánh sanh diệt tức là cái gì mình có nhiều lắm cũng chỉ là phương tiện, nha. Nghe kỹ nè, 
  1. tất cả những cái tốt, cái lành, cái thiện, hay ho nhất mà mình có đều là phương tiện giải thoát. Rồi cái thứ hai, 
  2. tất cả những gì mình có đều là khổ hết, đó là cái rốt ráo nhất, tất cả những cái mình có đều là khổ hết. Rồi 
  3. trong số những cái khổ ấy, trong cái nguyên đống khổ, nguyên núi khổ đó đó, cái nào nó là thiện thì nó cũng chỉ là phương tiện thôi. Trong room có hiểu cái này không ta?
Vị tỳ kheo phải hiểu rõ, cái người cầu giải thoát phải hiểu rõ hai chuyện. Thứ nhất là tất cả những gì mình có đều là khổ và trong cái đống khổ ấy cái nào là thiện thì cái đó cũng chỉ là phương tiện nhất thời mà thôi. 

Thí dụ như thấy rằng có mặt trong bệnh viện là khổ, nhưng cũng hiểu thêm rằng thuốc men và kim chích là thứ mình phải chấp nhận. Đó! Thì ở đây người tu phải luôn luôn nhớ tất cả những gì mình có đều là khổ nhưng trong đống khổ ấy, cái gì là thiện thì nó phải được xem là phương tiện. Và ở đây tôi nói cái này có nhiều vị chắc là chửi nữa hoặc là nhảy nhổm rớt khỏi ghế nè, vì mọi thứ đều là khổ nên tâm tham và bát chánh đạo cũng nằm trong biển khổ ấy nhưng khi trích xuất để nói chuyện thì Phật lấy riêng ra anh tham ái để gọi nó là nhân sanh khổ và bát chánh đạo là con đường thoát khổ.

Nhiều người chịu không nổi cái này, các vị cứ tưởng khổ đế là riêng không có mắc gì tập đế hết bởi vì tập đế là nguyên nhân sanh khổ, còn bát chánh đạo là con đường thoát khổ. Nhưng mà các vị không hề biết rằng toàn bộ mọi hiện hữu ở đời là khổ dầu đó là sanh già đau chết là khổ, đúng, mắt tai mũi lưỡi là khổ, đúng, nhưng mà cái tâm tham, tâm sân của mình trong lục trần cũng là khổ và chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tư duy, tất cả đều nằm hết trong khổ. Nhưng mà sở dĩ mà Ngài trích xuất, Ngài lấy riêng ra để Ngài nói là vì Ngài dựa trên cái công dụng. Thí dụ như trong nguyên cái đống khổ đó, giống như bây giờ Ngài lấy tay Ngài chỉ vô nguyên một đống xoài, Ngài nói "Đây là đống xoài nè", nhưng mà khi cần thiết thì Ngài mới nói rằng "Trong đống xoài ấy, cái hột xoài là cái mà các con có thể lấy các con trồng ra những trái xoài khác". Trong room có hiểu không ta?

Á lô, cái room này tôi giảng tôi e rằng không hiểu. Bữa này mắc cái chứng gì mà thiên hạ cứ đè tôi ra mà viết tin nhắn mà chửi không còn cái non nước nào. Nếu mà nhiều năm về trước chắc tôi đau lắm, nhưng bây giờ tôi lại nghĩ khác là bởi vì mấy hôm này tôi bị nghe đau nhiều ở trong người lắm, tôi nghĩ tôi thọ hỏng có lâu, tự nhiên nó có lòng sợ chết. Từ khi mà thị phì nó đổ ập vô thì tôi mới nhận ra một chuyện: Khi mà mình bận tâm về cái chuyện này thì mình bớt cái chuyện kia. Thì khi mà mình nghĩ nhiều về cái chết, cái bệnh của mình thì tự nhiên mình giảm thị phi, mình giảm cái khổ thị phi đó là một cái hay. Cái hay thứ hai nữa khi mình tập trung về cái thị phi mình giảm cái sợ chết.

39:22

Thì bây giờ tôi nói bà còn nghe cái này nè, trong room nhiều người giận tôi lắm, tại sao mà tôi nói nặng lời? Tôi không có lý đó gì mà tôi gây thù với quí vị hết nhưng mà tôi nói các vị hỏng có hiểu. Các vị có hiểu không?

Một là không biết rồi cứ mình cứ lấy cái đầu mình ra mình tưởng tượng, còn hai là học giáo lý ba mớ không có chịu nổi sự thật động trời này: Thứ nhất, chính vì mọi thứ ở đời là khổ nên cả cái tâm thăm nó cũng là khổ, bát chánh đạo cũng là khổ nhưng mà sở dĩ Phật lấy tâm tham ra Phật nói "Đây là tập đế", "Bát chánh đạo là đạo đế" là Ngài nói tới công dụng. Hồi nãy tôi nói rồi: Tôi nói có mặt trong bệnh viện là khổ, nhưng mà trong đó mình thấy nè, thuốc men, kim chích, nước biển nè, mấy cái ống truyền serum nè nó cũng nằm trong đống khổ đó, nguyên một đống trong bệnh viện là hiểu rồi.

Nhưng mà khi cần thiết mình phải nói riêng, mình nói hễ mà liệu pháp, liệu trình là mình phải lấy riêng thuốc men, kim chích, ống truyền serum mình lấy riêng ra, mình chất một đống riêng. Còn khi không cần thiết mình gom chung nguyên một núi mình nhét chung vô một đống bệnh viện, mình nói bệnh viện là khổ, bác sĩ, y tá, nha sĩ, luật sư đó là những cái người mà mình không có nên gặp trong cuộc đời này bởi vì sao? Vì:

Hữu sự mới đáo tụng đình,

Vô sự bất đăng tam bảo điện.

Bà còn có nghe câu này không ta?

40:46

04/10/2019 - 10:46 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Bà con có nghe câu này không ta? Hữu sự mới đáo tụng đình có nghĩa là có chuyện mới tới tòa án, có chuyện mới gõ cửa luật sư, có chuyện mới tới bác sĩ, mới tới nha sĩ. Vô sự bất đăng tam bảo điện có nghĩa hỏng có chuyện thì mắc cái chứng gì đi chùa làm cái gì, ta đang nói chuyện người ngoài đời đó, chớ còn mình đến chùa không phải nằm trong cái nhóm gọi là "hữu sự". Nói theo quan điểm ngoài đời, thành ngữ nói "Vô sự bất đăng tam bảo điện": hỏng có chuyện thì mắc cái chứng gì đi chùa làm cái gì, mà vô mà lạy lụt xì xụp làm chi, nha.

Cho nên ở đây đó, bà con phải nhớ cái sự thật phủ phàng như sau: Mọi thứ ở đời là khổ, nhưng mà khi nói về cái function, nói về về cái chức năng của từng cái vấn đề, từng pháp thì Đức Thế Tôn Ngài mới lấy riêng cái tâm tham Ngài nói "Mọi thứ ở đời là khổ, nhưng trong cái đống khổ ấy, riêng cái tâm tham nó vừa là khổ mà nó vừa là nguyên nhân sanh khổ". Đó! Rồi trong nguyên cái đống khổ ấy nó có cả bát chánh đạo trong đó, nó có cả chánh kiến, chánh tư duy, vì sao? Là vì những cái này nó cũng nằm ở trong các tâm sở mà. Khổ quá. Cái gì nó còn nằm trong danh, trong sắc thì nó còn bị vô thường, vô ngã. Mà cái gì vô ngã, vô thường thì cái đó cũng là khổ đương nhiên.

Nhưng mà khi nói đến cái function, cái chức năng thì Ngài nói "Nè, tuy nguyên đống này là khổ nhưng mà con muốn thoát khổ con phải moi ra bằng được 8 cái này nè con đi theo nó là con thoát khổ". Nhớ nha. Cũng giống như con đường ra rừng chính là con đường vào rừng. Và con đường vào rừng cũng chính là con đường ra rừng.

Con té ở đâu thì con phải đứng lên ở đó, chứ con không thể nào con té Bến Tre mà con về tới Cai Lậy con đứng lên là làm sao? Nha, con té ở đâu thì con phải đứng lên ở đó. Và chưa hết, con ăn đồ độc, con uống phải thuốc độc, con ăn cái gì thì con phải mửa ra cái đó, chứ làm sao con bị trúng độc chè trôi nước mà con ói ra bánh canh là sao? Hả, là sao ta? Không có, chuyện đó không có nha. Có người đầu độc con, họ bỏ thuốc độc vô bánh xèo thì con phải ói cho ra cái bánh xèo đó, chớ còn con ói ra bánh canh là con phải ói tiếp, ói nữa, con ói chừng nào nó ra được cái đống bánh xèo con mới yên. Hiểu không ta?

Thì ở đây cũng vậy. Ở đây là mình, mọi thứ là khổ, mình đam mê trong khổ, thì chính niềm đam mê ấy nó cũng là khổ luôn. Nhưng mà sở dĩ nó được gọi là con đường thoát khổ là vì sao? Vì nó có bản chất đối lập với cái dòng sanh tử mà xưa nay mình không có nhận ra điều đó. Chính vì ta không nhận ra cho nên ta chết ngay trong cái đống thuốc. Trong room có nghe câu đó không ta? Các vị có nghe cái câu mà "Người Việt chết trên đống thuốc" không? Có nghĩa là người Nhật họ qua bên mình, họ thấy mình nhìn đâu cũng thấy thuốc hết, mà mình uống toàn là thuốc tây không. Trong khi đó thuốc nam mình đó, là người Tàu họ có một câu rất là hay "Phục dược bất như thực dược": Uống thuốc khi bệnh không bằng ăn thuốc lúc mạnh. Nha, dịch nó dài như vậy đó. Trong khi đó bình thường lúc ăn uống mà đàng hoàng, thông minh, khoa học một tí đó là mình đâu có bệnh.

Mấy ngày nay, các vị biết là tôi thuốc nam mà tôi ở trên đất Âu Mỹ, tôi ở đây bên đất Thụy Sĩ thuốc tây một núi đây nè nhưng mà tôi sợ lắm, uống nhiều hại gan, uống nhiều hại thận lắm nha. Mà trong khi đó thuốc nam là tôi uống Dadelion Bồ công anh uống từ lá cho tới rể. Còn cây nha đam tôi không có, là tôi đi kiếm lá lớn, lá bé về là tôi uống sống hết, mỗi lần bên Mỹ về tôi cũng đem theo tôi uống, còn không bên đây tôi coi mấy... tôi lượm về tôi uống. Tôi nói điều đó không phải tôi đang lạc đề mà tôi đang muốn nói là làm sao mình thấy được rằng ngay ở trong thức ăn thường nhật của mình, trong cái nguyên nhân mà gây bệnh, nếu mình khéo nó cũng là thuốc chửa bệnh trong đó. "Bệnh tùng khẩu nhập", mình nói mình bệnh là do những thứ mình ăn vào nhưng thật ra trong cái đám mình ăn, nếu mình biết lựa lại coi trong đó có những thứ chữa bệnh.

Nên mọi thứ ở đời là khổ nhưng mà ở trong đống khổ ấy có cái là nguyên nhân sanh khổ, có cái là con đường thoát khổ. Mà chính vì chúng ta không biết được cái này, cho nên chúng ta:

  1. Thứ nhất là không biết mình đang đi thụt lùi.
  2. Không biết mình đang dậm chân tại chỗ.
  3. Mình không biết cách nào để vươn lên cao, tiến về phía trước.
  4. Cái thứ tư là không biết cách nào để biến mọi đạo nghiệp đi vào cái lộ trình giải thoát.
  5. Cái thứ năm là làm việc không chu toàn.
  6. Và cái thứ sáu là làm việc không lợi ích.
5/ Làm việc không chu toàn (chu toàn).
Làm việc không chu toàn là sao? Tôi năn nỉ các vị một chuyện, nghe giảng kinh tạng là phải có chú giải, phải tập cho nó quen, chứ còn mà để cho người ta nắm đầu người ta kéo, người ta lôi, người ta ban cho cái gì hưởng cái đó thì nó dễ bị khờ người lắm, nha.

Đây, không chu toàn ở đây có nghĩa là trong đây ghi rõ là na sukatakārī, na ādarakārī có nghĩa là thiếu trước hụt sau, cái cần sửa thì không sửa, cái cần thêm thì không thêm, cái cần bớt thì không bớt, cái đó gọi là không có chu toàn. Na sukatakārī, na ādarakārī, là không nghiêm túc, có nghĩa là không có đúng mức là vậy đó. Cái cần thêm thì không thêm, cái cần bớt thì không biết bớt, cái cần sửa thì không biết sửa, thì trong đây Ngài Minh Châu dịch là không chu toàn.

6/ Làm việc không lợi ích (có lợi ích).
Làm việc không lợi ích là sao? Ở trong chú giải mới nói thế này, đó là na sappāyakārī có nghĩa là vầy, trong đây có giải thích là na upakārabhūta có nghĩa là mình muốn làm việc gì thì cũng cần đến, cũng phải quan tâm đến những điều kiện hỗ trợ cho cái việc mình đang làm. Trong room có nghe kịp cái này không? Tôi nhắc lại, mình muốn làm việc gì thì mình phải biết quan tâm đến những điều kiện hỗ trợ cho công việc ấy. Bởi vì nếu không, mình muốn làm việc đó mà mình không biết những điều kiện hỗ trợ đôi khi mình lại đi chấp nhận những điều kiện đối lập, thì công việc đó muôn đời không có xong, nha. Thí dụ như mình uống thuốc tiểu đường thì mình cũng phải biết là kiêng ăn ngọt. Đó! Là chỗ đó, phải biết là kiêng ăn ngọt.

Cho nên cái thứ năm là gì? Là làm việc chu toàn đây có nghĩa là phải biết cái gì cần thêm, cái gì cần bớt, cái gì cần chỉnh sửa.

Cái thứ sáu có nghĩa là biết cái gì cần thiết và không cần thiết.

Tôi nói không biết là bao nhiêu lần, cái sự khác biệt rất là lớn của một cái người có tu và không tu ở chỗ người không có tu chỉ biết cái gì mình thích mà thôi. Mình quan tâm tới cái thích, thiện ác không quan trọng, chỉ là trẩm thích thì được. Nhưng mà người có tu hành lại khác, người có tu hành không quan tâm đến cái cảm xúc thích ghét mà chỉ quan tâm đến cái việc "Chuyện ấy có cần thiết không?"

Đó! Một trong những cách thu gọn Phật Pháp, 8 muôn 4 ngàn pháp môn, trong nhiều cách thu gọn, trong đó có một cách là tu bằng cái câu mà tôi vừa phát biểu, đó là "Chuyện ấy có cần thiết không?". Bất cứ một suy nghĩ nào, ừ quên trong room thế nào cũng có người nổi điên hỏi "Cái này ở đâu? Cái này ở đâu vậy?" Dạ thưa kinh Dvedhāvitakka Sutta nghe vậy mới sang chứ, Kinh Song tầm trong Trung bộ, tức là hai đường lối suy tư, hai ngã rẻ tâm tư. Khi mà Ngài thành Phật rồi Ngài kể lại: Ngày xưa khi ta còn trong khổ hạnh lâm thì ta suy tư thế này "Toàn bộ đời sống của mình nó chỉ có về tinh thần nhiều hơn là về vật chất, như vậy cái mà ta quan tâm chính là cái tâm", đúng chưa? Vật chất sao cũng được nhưng quan trọng là cái tâm. Rồi làm gọn vấn đề, có hai cách giải quyết vấn đề, một là mình rọi sáng những góc khuất và hai là mình chia nhỏ vấn đề ra để giải quyết, không biết trong room còn nhớ cái đó không ta? Trong room còn nhớ hai cái này không?

Hai cách để giải quyết vấn đề, một là rọi sáng những góc khuất và hai là mình chia nhỏ vấn đề ra.

Thì ở đây Ngài cũng vậy, chuyện đầu tiên Ngài nói rằng "Toàn bộ đạo nghiệp chỉ là giải quyết vấn đề tinh thần". Giải quyết bằng cách nào? Thì Ngài mới chia nhỏ ra, nhỏ làm sao ta? Ngài nói rằng bây giờ đó, ai cũng phải có cái ngã rẻ tâm tư hết đó, một là những cái suy tư nào có lợi cho cái đạo nghiệp giải thoát và cái suy tư nào mà có hại cho đạo nghiệp giải thoát. Thì Ngài thấy có lợi là sao ta? Là chánh tư duy có lợi cho đạo nghiệp giải thoát. Chánh tư duy là sao? Là không có bất mãn các trần, không đam mê trong các trần, đó gọi là chánh tư duy, gọi là ly dục tư duy. Vô sân tư duy và bất hại tư duy có nghĩa là không có ý chống phá bất cứ người hay vật nào ở đời, đó gọi là vô hại tư duy. Thì cái suy nghĩ hễ cái nào thuộc về chánh tư duy thì cái đó mới giúp cho đạo nghiệp. Còn cái nào mà nó đi ngược lại chánh tư duy thì nó là tà tư duy, có nghĩa là còn đam mê, còn bất mãn, còn ý chống đối người và vật trên đời thì đó là tà tư duy. Tự Ngài sẽ biết suy tư cái đó.


50:25

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng về Thần Thông 
và các Kinh khác (3-4)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...Th%C3%B4ng

50:25

Cho nên là toàn bộ đạo nghiệp của người tu hành gom gọn lại có một câu thôi, đó là một dấu hỏi. Toàn bộ đạo nghiệp của một người tu hành cầu giải thoát chỉ gom vào trong một dấu hỏi thôi, đó là "Cái đó có cần thiết không?". Cái suy nghĩ ấy, bây giờ mình đang suy nghĩ, mấy ngày nay mình cứ suy nghĩ hoài, cuối cùng mình phải tự hỏi mình "Những cái mà mình đang bận tâm, đang nặng lòng, đang cực lòng ấy nó có đáng để mình bận tâm không?", "Nó có cần thiết không?". Những cái mình ghét, những cái mình thích cũng vậy, những cái mình bận tâm để ghét hay bận tâm để thích thì cũng phải được kết thúc bằng một dấu hỏi "Cái thích ấy có cần thiết không?", "Cái ghét ấy có cần thiết không?", "Cái câu nói mà mình muốn nói đó có cần thiết không?", nếu không cần thiết đừng nói. Suy nghĩ không cần thiết thì hãy bỏ qua. Và "Cái hành động với việc làm ấy có cần thiết cho mình, cho người, cho đời này, cho đời sau, cho đạo nghiệp giải thoát hay không?". Nếu thấy là "Không!" thì phải có can đảm chấm than xuống dòng!

Như vậy đời tu của chúng ta chỉ có hai dấu thôi, một là dấu hỏi ?, hai là dấu chấm than ! Trong room có nghe kịp không ta?

Toàn bộ đời tu của chúng ta chỉ có hai dấu thôi, một là dấu hỏi ? Hỏi cái gì? "Cái này có cần thiết không?". Rồi.

Dấu chấm than ! là gì? "Cần!", còn "Không!".

Toàn bộ đời tu của các vị sau khi buổi giảng này đóng lại, bà con chỉ mang hai cái dấu đó vào phòng, vào lòng, nha. Vào phòng và vào lòng để mà tu với nó, chiêm nghiệm nó, thấm thía nó, tiêu hóa nó, gậm nhấm nó, biến nó thành máu tủy thịt xương của mình.

Đời tu chỉ là hai cái dấu thôi, một là dấu hỏi "Chuyện ấy có cần thiết không?". Và dấu chấm than để xuống dòng có nghĩa là không có dây dưa nữa, đó là dấu chấm than thứ nhất "Cần!": Tiếp tục. Còn "Không cần!": Dẹp. Đó là bhethabhutaka(?) có nghĩa là tu hành với một cái ngã rẻ tâm tư, gọi là ngã ba lòng là chỗ đó.

Người tu bây giờ, thí dụ các vị hỏi tôi chứ cái logo của đạo Phật là gì? Thì tôi nói là lá bồ đề, là y bát, là bát chánh đạo. Bây giờ mình thêm cái logo nữa, là gì ta? Các vị ra mua cái logo của xe Mercedes đem về treo, ai hỏi tại sao mà treo cái logo của Mercedes làm cái gì? Bởi vì tôi vừa nghe giảng trong bài kinh Song tầm. Có nghĩa là người tu nào cũng phải từng ngày, từng phút đang đứng trước cái ngã ba lòng. Ngã ba lòng là gì? Ngã ba lòng tức là lúc nào cũng đứng trước hai cái lối, hai cái dấu hỏi "Cần thiết không?" Đó! Lúc nào trong lòng mình cũng có cái dấu hỏi, tu là tu bằng hai cái dấu hỏi "Có cần thiết không??", về mình tự mình giải quyết vấn đề bằng dấu chấm than !

Như vậy, chính vì cuộc tu là đối diện với ngã ba lòng ấy nên cái logo của mình nên là cái logo của xe Mercedes. Ở đây các vị có ai còn nhớ cái logo của xe Mercedes không ta? Ai hỏi các vị tại sao treo ở đây? Các vị nói "Không!", đây không phải là Mercedes, Mẹc-xơ-đéc, mà nó là ngã ba lòng. Tu hành là đối diện với ngã ba lòng. Rồi, xong chưa?

53:40

04/10/2019 - 11:58 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Như vậy thì vị tỳ kheo nào mà nắm được, có được 6 cái khả năng này nè thì mới có thể thành tựu các quả chứng, thành tựu cái đạo nghiệp của đời tu mình:

1. Là biết rõ mình đang thụt lùi hay không? Bằng cách nào mà mình đang thụt lùi? Tại sao mình bị thụt lùi?

2. Biết rõ rằng có phải là mình đang dậm chân tại chỗ hay không? Nói thật ra thêm nhục chứ đa phần mình là hai cái đầu mình đã không có rồi, không hề biết rằng: Ta đang thụt lùi! Tại sao ta bị thụt lùi? Đó là cái thứ nhất. Cái thứ hai, không hề biết rằng: Ta đang dậm chân tại chỗ! Và tại sao ta lại dậm chân tại chỗ? Thì coi như là mình ở đây nguyên cái room của mình toàn là cái thứ đó thôi!

Chỉ trong 6 cái này mà 2 cái đầu là mình đã dính nguyên con luôn, lọt nguyên con trong hố luôn. Cái thứ nhất là không biết mình đang thụt lùi và tại sao mình bị như vậy? Thứ hai, không biết rằng ta đang dậm chân tại chỗ và tại sao như vậy? Chứ còn đừng có nói thêm mấy cái sau thêm nhục.

3. Là không biết rõ bằng cách nào ta có thể vươn lên cao và tiến về phía trước.

4. Là làm sao mà biến toàn bộ đạo nghiệp của chúng ta trở về với lộ trình giác ngộ giải thoát? Bằng cách nhận diện mọi thứ chỉ là sanh với diệt. Cái này là cái cao nhất. Dầu là giữ giới, dầu bố thí, dầu hành thiền, dầu đắc định thì tất thảy chỉ là sanh với diệt. Phải luôn luôn thấy rằng mọi thứ ở đời đều là khổ kể cả lòng đam mê trong cái khổ cũng là khổ, kể cả bát chánh đạo con đường thoát khổ cũng nằm trong cái bể khổ ấy. Phải thấy như vậy đó, thì mới biến tất thảy mọi nỗ lực của mình trở thành nguồn năng lượng giác ngộ, đưa tất cả trở về với lộ trình giác ngộ. Các vị có nghe kịp không?

5. Rồi cái thứ năm là cái khả năng làm việc chu toàn có nghĩa là biết rõ cái gì cần thêm, cái gì cần bớt, cái gì cần chỉnh sửa.

6. Và cái cuối cùng có nghĩa là biết rõ cái điều kiện nào hỗ trợ cho cái đạo nghiệp mà mình đang thực hiện. Tránh làm cái gì mà nó mang cái nội dung phương hại cho cái công việc mà mình đang thực hiện. Biết rõ cái gì có thể gây phương hại cho cái đạo nghiệp của mình, nó gây phương hại cho cái công phu của mình. Các vị nghe kịp không?

Các vị trong room còn nghe không? Sappāya là thuận lợi, thuận tiện nhưng mà trong chú giải định nghĩa, trong sớ giải nói sappāya ở đây là upakara, tức là helpful, nhớ nha. Cái mà Cô Giọt mưa mới post lên cái đó là chánh tạng. Cái chú giải là cái mà tôi mới vừa bỏ vô đó, trong chú giải nói sappāya ở đây nè là bởi vì sớ giải, cái sappāya nghĩa thường dùng là comfortable, là nhẹ nhàng, là thuận lợi, đúng không? Nhưng ở đây nó có nghĩa là helpful, trúng. Sappāya đây có nghĩa là upakārabhūtadhammakārī, trúng rồi, cám ơn nhiều lắm.

Trong room mình cần là cần cái người thế này. Bữa hổm khi mà thị phi nó đổ ập đến, Cô Giọt mưa dầu cổ tốt bụng bằng trời nhưng tôi nghe cái mùi từ xa cổ ngại, cổ buông cái room này cổ hỏng có làm, rồi biết kiếm ai mà thế. Và tôi hôm nay trong cái phút giây này, một lần nữa thiết tha kêu gọi bà con trong room ai là người có thể làm được cái việc mà Cô Giọt mưa đang làm thì xin một là hỗ trợ cổ, hai cổ đâu cần hỗ trợ nhưng mà trong trường hợp cổ có bỏ room mà đi thì cũng còn có người giúp, nha. Chứ còn bây giờ tôi vừa giảng mà bắt tôi vừa post ba cái này lên là tôi chết. Trong room các vị có nghe tôi nói gì không? Ai mà thấy mình làm được cái việc của Cô Giọt mưa thì nên sẵn lòng chờ dùm có thể giúp tôi, một là cổ già cổ chết, cổ bị bệnh, bị đau hai nữa cổ bỏ cuộc. Đó! Cái đó mới quan trọng. Mà cái đó tôi nghĩ chỉ cần có lòng thôi, nó hơi cực đó, nhưng mà về lâu về dài thì được. Còn nếu như không thì cứ hỏi bả coi bả làm sao, bả chỉ cho nha, bả chỉ sao cứ mỗi lần ổng nói mình moi ra, ổng nói cái mình moi ra. Ta nói nó giúp cho nhiều người lắm chứ không phải mình không, bả là Giọt mưa cuối mùa thì bây giờ mình làm Giọt mưa đầu mùa đi, nha.

Rồi, như vậy là mình học xong bài kinh 71.

58:15

05/10/2019 - 11:06 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

KTC.6.72 Sức Mạnh ( = "đạt được sức mạnh trong thiền định")

  1. đạt được Thiền định,  
  2. thiện xảo an trú, 
  3. thiện xảo xuất khỏi,  
  4. làm việc có chu toàn
  5. làm việc có kiên trì,  
  6. làm việc có lợi ích.
Tiếp theo là mình học bài kinh 72. Ở đây, vị tỳ kheo có được 6 cái khả năng này nè thì mới có thể gọi là tự tại, trong đây bản Tiếng Việt gọi là "đạt được sức mạnh trong thiền định", còn ở đây tôi dịch cho nó mềm, nó ít, cho nó gọn hơn là có được 6 cái này nè thì vị ấy mới có thể được "tự tại trong thiền định". Tự tại là sao? Bởi vì trong chú giải cho mình biết có hai loại thiền định: một là samaya jhāna là thường trụ thiền và asamaya jhāna là tạm trú thiền, chữ này rất là kỳ nhưng tôi sẽ giải thích tại sao là tạm trú.

Thường trụ thiền ở đây là trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh muốn vô là vô, muốn ra là ra, muốn vô thiền vô một cái rẹt, muốn ra là ra cái rẹt. Đó gọi là thường trụ, coi như là mình có quốc tịch luôn, có passport luôn, có nghĩa là muốn vô là vô, muốn ra là ra. Còn cái trường hợp thứ hai là asamaya jhāna. Ở đây bà con có nghe rõ không? Ở đây có một người nói là nghe không rõ, làm ơn coi lại cái máy mình đang dùng nó có đủ tốt hay không, coi lại cái đường truyền của mình có vấn đề hay không và cái thứ ba đó là coi lại cái lỗ tai của mình. Bởi vì có cái bà đó bả đi bác sĩ bả nói thế này, bả nói "Thời gian gần đây tại sao mà bả bị cái bệnh gì mà bả đánh rấm quá trời luôn có điều được cái là nó không có mùi hôi". Bác sĩ mới nói "Như vậy là chết rồi, như vậy thì bà ngoài cái chuyện coi cái đường ruột ra là phải coi cái vấn đề lỗ mũi của bà nữa, bởi vì nãy giờ tôi muốn chết luôn mà bà lại không nghe mùi". Các vị nghe kịp không?

Thì nhiều khi ở đây vấn đề nó không có phải là tôi nói nhỏ mà là tại vì cái máy của các vị có vấn đề hoặc là đường truyền yếu, nha, hoặc là lỗ tai.

Rồi, thì ở đây có hai trường hợp thiền giả, một là samaya jhāna hoặc là samaya vihari là thường trú thiền giả. Và asamaya vihari là tạm trú thiền giả, vị này chỉ có xài cái visa entrée thôi, có nghĩa là mỗi lần vô phải đi xin thôi mệt lắm, nhiều khi nó cho, nhiều khi nó không có cho. Ừ quên nữa, giảng xong chiều nay tôi phải vô điền cái đơn để mà xin cái visa vô Miến Điện nè, khổ quá đi, mỗi lần đi vô xin mệt quá mệt, chứ nếu bây giờ mình có được cái visa 5 năm của Việt Nam là mình hỏng có cần, có được cái visa của Việt Nam 5 năm, Miến Điện nằm trong khối Asia mình khỏi có cần đi xin lẻ tẻ, còn đằng này mình không có cái đó cho nên mỗi lần muốn về Miến Điện phải đi xin mệt quá. Mà tôi không có nói lạc đề đâu, tôi đang muốn nói cái gì các vị thấy không? Tôi đang muốn nói một chuyện là chỉ vì mình không có đủ giấy tờ, mỗi lần vô nó mệt quá. Có nhiều lần tôi đi từ Thái Lan, tôi phải xếp hàng ở cái chỗ chờ ở đại sứ quán, xếp hàng mệt muốn chết luôn vậy đó.

Thì ở đây cũng vậy, một vị đắc thiền có hai trường hợp, thứ nhất gọi là samaya vihari là thường trụ thiền giả, có nghĩa là sao ta? Có nghĩa là muốn vô là vô, muốn ra là ra bởi vì người ta có passport, người ta có visa dài hạn. Còn cái loại thứ hai là asamaya vihari có nghĩa là ra vô rất là khó.

Cho nên đây là lý do vì đâu mà có cái vụ đệ nhất thần thông là vậy đó. Cái vị đệ nhất thần thông là vị đó có thể trong tích tắc sử dụng rất nhiều cái đề mục và biến hiện vô số loại thần thông khác nhau. Có những loại thần thông phải được thực hiện bằng đề mục đất, nước, lửa, gió, hư không, áng sáng, xanh, vàng, đỏ trắng. Mà nếu vị nào giỏi, vị đó có thể trong tích tắc muốn, muốn, muốn, chỉ muốn là được, chỉ muốn là được. Nhớ nha. Còn vị nào mà dỏm quá là phải nhập từng thứ, chun ra chun vô, chun ra chun vô nó mệt dữ lắm, nha. Người ta nhập, người ta chỉ muốn là được. Còn mình phải chun, vạch rào chun qua bên màu xanh rồi vạch rào chun ngược lại màu vàng, leo rào qua màu đỏ rồi mới leo rào trở lại màu trắng, nó lâu lắm. Còn người ta chỉ ngồi yên người ta muốn, muốn, muốn, muốn, là xong, nha.

Đây cũng vậy, trong kinh nói cái vị mà samaya vihari là trời nóng lạnh, bản thân bệnh hoạn, thời tiết, nhức răng, lòi ruột, lòi phèo vẫn có thể muốn mà nhập định tỉnh bơ, nhiều vị bệnh đó, máu me tè le vậy đó nhưng mà muốn nhập là nhập.

Cho nên có lần Đức Phật Ngài đến thăm Ngài A xà chí bị bệnh, Ngài hỏi "A xà chí có thấy bớt được chút nào không?" thì Ngài A xà chí nói "Dạ nếu mà hôm nay con còn giữ được cái tầng thiền samatha nào đó thì con không có bị đau như thế này". Mặc dù Ngài là vị Thánh rồi đó nhưng mà Ngài vẫn nói như vậy, "nếu mà hôm nay con còn giữ được" tại trước đây Ngài có đắc rồi, trong chú giải nói Ngài có đắc rồi nhưng Ngài không có giữ lại, hỏng có duy trì cái tầng thiền mà Ngài đã đắc. Cho nên hiện giờ Ngài là người không có thiền, cho nên ngay giây phút này nếu mà Ngài còn giữ được cái tầng thiền sơ, nhị tam, tứ là Ngài nhập vô đó một phát là coi như, bệnh thì vẫn bệnh thôi chứ không phải nhập thiền là hết bệnh, hỏng phải. Nhưng mà lúc bấy giờ là đã phiêu diêu cõi ngoài, phiêu bồng thoát sái, xác mình nằm ở đó nhưng tâm mình hoàn toàn an trụ trong cảnh thiền mình không biết đau là gì hết. Đó! Cái trường hợp đó được gọi là thường trụ thiền giả.

Còn cái hạng thứ hai là tạm trú thiền giả có nghĩa là asamaya vihari có nghĩa là phải kiếm chỗ ngồi đàng hoàng, trong điều kiện thời tiết, khí hậu ngon lành, thực phẩm, rồi thầy bạn, rồi liêu cốc; nói chung là y áo phải thoải mái, rộng rãi, mát mẻ, rồi ngồi từ từ nó mới vô, vô từ từ, hoặc là vô được thoải mái đó nhưng phải chậm. Còn cái vị này muốn là được, muốn là được, đó gọi là tự tại trong thiền. Ở đây Ngài Minh Châu dịch là "được sức mạnh trong thiền". Nghe kịp chưa?

1:05:05

06/10/2019 - 12:25 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Rồi bây giờ có 6 cái.

* Ở đây là không thiện xảo đạt được thiền định có nghĩa là sao? Có nghĩa là vị đó đắc thiền do hên xui chứ không phải là người lợi căn. Người lợi căn khi họ ngồi ở trong, khi họ đối diện với một đề mục, đề mục hơi thở hay đề mục màu, đề mục đất, nước, lửa, gió, hư không, áng sáng, xanh, vàng, đỏ trắng; họ biết rõ cái lộ trình, biết rõ họ đang đi đến đâu chứ không có đắc thiền kiểu may rủi, họ đắc rất là nhanh.

Còn cái vị này là không thiện xảo trong thiền định có nghĩa là, cái chữ avacana ở đây đó nó có nghĩa là nhập, tức là khi đắc thiền, nhập thiền hoặc là khi hóa thông thì cái vị mà lợi căn họ muốn là được, họ không có phải bị chậm, họ không bị giới hạn như là người độn căn, bởi vì sao? Bởi vì thí dụ như họ đang ở trong tâm bình thường, tâm dục giới mà họ muốn nhập vào sơ thiền rất là dễ, họ chỉ cần họ quay trở lại cái đề mục mà hôm trước họ đắc đó trong tích tắc họ bỏ được liền. Và thí dụ như vị đó họ đang trong lúc sinh hoạt bình thường tâm dục giới mà vị đó muốn hóa hiện thần thông, vị đó an trú, vị đó nhập vào tứ thiền thì vị đó có thể hóa hiện thần thông như ý mình muốn. Như vậy thì đắc thiền, nhập thiền và hiện thông đều được như ý hết. Còn vị kia chậm, vị kia không có được cái khả năng đó, có nghĩa là muốn cái gì phải từ từ, từ từ, từ từ.

Nói cách khác thế này, mình giỏi nấu ăn, đêm hôm 2 giờ sáng đang ngáy pho pho có người dựng đầu dậy hỏi "Làm sao mà để cho bánh xèo nó giòn?" Là mình đưa ra bao nhiêu cách mà lúc mình đang ngáy ngủ mình trả lời rào rào, rào rào làm sao để bánh xèo nó giòn. Đó, rồi mình ngủ một giấc nó dựng đầu dậy nó hỏi tiếp "Làm sao để bánh cuốn nó đừng có dính với nhau?" Mình trả lời cái rẹt. Đó là đầu bếp giỏi. Còn cái thứ mà ngồi rờ rờ, rờ rờ là hỏng được, nhớ nha. Nhớ cái chỗ đó, còn vị đó mà thông thuộc rồi thì họ muốn là được, avacana là vậy.

* Cái thứ hai là thiện xảo an trú nghĩa là sao? Là vị đó có thể có cái khả năng kéo dài như ý mình muốn bao lâu cũng được.

* Và cái thứ ba là cái khả năng xuất khỏi, khả năng xuất thiền của vị đó rất là nhanh. Vuṭṭhāna là xuất thiền hoặc là đi ra khỏi.

Khả năng xuất thiền rất là nhanh. Bài kinh này học cho biết thôi, chứ còn ở đây trong room này là hỏng biết các vị có được cận định chưa nữa, đừng có nói cái khác mà nghe nó thêm nhức đầu. Nhưng mà tôi đã nói không biết bao nhiêu lần, một bài kinh nói về một đề tài mà xem ra có vẻ quá cao so với cái đầu của mình, mình tưởng mình không cần thiết. Sai bét, hỏng có phải như vậy. Dầu cho bài kinh đó nói về thánh trí, nói về thần thông, nói về thiền định thì bài kinh nào cũng có hai nghĩa hết. Một là cái nghĩa trực tiếp nội dung bài kinh, thứ hai là cái nghĩa liên quan. Không biết trong room có hiểu cái đó không ta?

Thí dụ như hồi nãy, cái bài kinh mà Ngài nói về lục thông thì mình thấy trên mặt nổi, rõ ràng bài kinh đó nói về ngũ thông cộng với thông thứ 6 là trí La hán, đúng. Nhưng mà nội dung hai cái bài kinh đó là gì? Là Ngài dạy rằng khi mà ta lìa bỏ được cái cảnh giới thấp để lên cảnh giới cao, thí dụ bỏ từ dục mà lên thiền sắc, bỏ từ sắc mà lên thiền vô sắc, bỏ được cảnh giới phàm vào được thánh trí. Thì ở mỗi một trình độ như vậy cái thế giới nó hiển hiện ra trong mắt của ta nó khác đi nhiều lắm. Cái khả năng lai vãng và nghe nhìn của ta sẽ khác đi nhiều lắm.

Thí dụ như mấy huynh đệ đang ngồi thiền trong tuyết sơn thì cái ông sư huynh ổng mới lên tiếng, ổng hỏi:

- Các sư đệ có thấy gì không?… Mấy anh em tỳ kheo đang ngồi với nhau thì vị sư huynh lớn nhất, vị đại sư huynh mới hỏi "Các sư đệ có thấy gì không?" Thì vị trẻ nhất mới nói là:

- Dạ đâu có gì đâu sư huynh.

Thì cái ông thứ hai ổng mới trả lời, ổng nói:

- Đệ thấy một cái vị Càn thác bà ôm đàn vừa đi ngang.

Vị thứ ba mới trả lời thế này:

- Đệ có nhìn thấy một khối 5 uẩn vừa di chuyển.

Nghe kịp chưa? Thì vị sư huynh mới trả lời thế này:

- Ở đây vị mà dùng trí tuệ quán có đồng ý với vị tu chỉ và vị tu chỉ có đồng ý với vị tu quán hay không?

Thì hai vị tỳ kheo ấy trả lời:

- Chính vì đồng ý cho nên chúng ta mới cùng màu áo.

Các vị còn nghe không ta? Chính vì đồng ý cho nên chúng ta mới cùng màu áo.

Tôi nói các vị nghe một chuyện, đó là có lần đó Ngài Maha Cunda là em của Ngài Xá Lợi Phất dạy cho chư tỳ kheo thế này: "Này các tỳ kheo, cái ngày nào mà vị pháp sư không có chống đối vị luật sư và vị luật sư không chống đối cái vị thiền sư, vị thiền sư không chống đối cái vị pháp sư, vị pháp sư không chống đối vị thiền sư thì ngày đó chư thiên và nhân loại còn được lợi lạc là bởi vì mỗi vị có một cái sở trường đóng góp cho chúng sanh khác nhau".

Ở đây cũng vậy, vị tỳ kheo sư huynh hỏi các vị sư đệ, vị đầu tiên không có thành tựu gì hết, vị đó nói "Sư đệ đâu có thấy gì đâu" thôi mình để vị đó qua một bên. Gặp bên Bắc Tông họ nói cái ông đầu tiên này là Phú Lâu Na, chứng tánh không à. Nhưng mà bên Nam Tông thì ông kia ổng trả lời như vậy thì mình phải hiểu là không có đắc gì hết. Nhưng mà hỏi cái ông thứ hai, khi ông thứ hai nói "Dạ em vừa thấy một vị Càn thác bà ôm đàn đi ngang", nhưng mà tới vị thứ ba: "Em thấy một khối 5 uẩn vừa đi ngang". Thì cái vị đại sư huynh mới nói cái vị mà tu chỉ có nghĩa là thấy Càn thác bà có đồng ý với cái vị mà thấy 5 uẩn hay không và cái vị thấy 5 uẩn có đồng ý cái vị thấy Càn thác bà hay không? Thì vị đó trả lời câu rất là hay "Dạ chính vì đồng ý nên chúng ta mới cùng màu áo". Bởi vì trong pháp này khi mà có học pháp rồi thì mình sẽ thấy rằng: Thấy đó là Càn thác bà là thấy theo thiền chỉ, thấy 5 uẩn là thấy theo thiền quán. Chỉ là định học, quán là tuệ học. Không có chống đối nhau. Các vị nghe kịp không?

Nhớ cái đó. Có nghĩa là ở các vị thượng thừa họ là như vậy đó, có nghĩa là họ không lấy cái sở chứng, cái thành tựu của họ, họ không có lấy cái đó làm điều tâm đắc rồi phủ nhận cái của người khác. Đó cái bài học 72 này nó còn có cái nội dung thứ hai đó nữa. Có nghĩa là sao ta? Có bất cứ một công đức gì, bất cứ một thiện pháp gì, cái chuyện đầu tiên là ta phải biết rõ làm sao để thực hiện được nó, có nghĩa là phải tu tập nó. Thí dụ như bố thí hay là nghe pháp đi, chuyện đầu tiên là mình phải thấy được lợi ích trong đó để mình thực hiện, để mình trao dồi. Nhưng cái thứ hai nữa mình xét lại cái khả năng mà mình sống được trong thiện pháp nó bao lâu. Chứ nhiều khi mình cao hứng mình nghe người ta rủ đi hành thiền, rủ đi làm từ thiện mình cũng hăng lắm, nhưng mà mình làm được bao lâu?

Và cái cuối cùng là trong thiền, mình có khả năng xuất thiền, ngoài cái đó ra, những công đức khác mình làm được, mình cầm lên được thì mình bỏ xuống được. Trong room có nghe kịp cái đó không? Cầm lên được, bỏ xuống được. Bỏ đây không phải là liệng hỏng có tu nữa, mà bỏ đây có nghĩa là không có chấp ở trong đó, không có coi cái đó là số một, không có thấy ta là hay nhất trong vũ trụ, không có thấy ta là giữ giới ngon lành nhất, thiền định ngon lành nhất, chánh niệm ngon lành nhất, kiến thức ngon lành nhất, niềm tin ngon lành nhất, bố thí ngon lành nhất. Mình không có thấy như vậy, mình làm được bao nhiêu mình làm. Ngày nào mình còn một cái so sánh là hơn, bằng, thua, kém thì ngày đó mình chưa có khá được. Cứ làm thôi, cái chuyện so sánh là điều không cần thiết.

Cho nên nghĩa một của bài kinh này nói cái gì?

1. Nói đến cái khả năng của một thiền giả, người chứng thiền họ phải biết rõ cái cách nào để nhập thiền, cách nào để chứng thiền, hiện thông.

2. Cái thứ hai là họ có khả năng tự tại trong cái việc mà kéo dài thời gian nhập thiền bao lâu như ý.

3. Cái thứ ba là họ có khả năng xuất thiền như ý.

4. Cái thứ tư là làm việc chu toàn đã giải thích rồi.

5. Cái thứ năm ở đây có ba điều, hai điều đã giải thích ở kinh trên rồi cho nên chỉ giải thích một điều nữa là không kiên trì. Không kiên trì là gì? Là không có liên tục, có nghĩa là trong kinh nói có ba trường hợp mà khiến cho thiền nó bị mất, các vị còn nhớ không? Một là mạng chung, hai là phiền não mãnh liệt và ba là không có trau dồi thường xuyên. Trong room còn nhớ cái này không ta?

Ba cái lý do làm cho thiền mình không giữ được, một là mạng chung có nghĩa là mình chết thì cái thiền đó không còn nữa. Thí dụ như bây giờ tôi đắc tam thiền đi, khi tôi chết thì tôi sanh về cõi tam thiền, thì chuyện đầu tiên là tôi về trể tôi sống bằng tâm quả còn cái thân người đó không còn nữa, thân người khi tôi đắc đó là nhân loại mà, khi tôi chết những gì tôi làm được trong nhân loại là bỏ. Một đó là mạng chung.

Hai đó là gì ta? Hai đó là phiền não mãnh liệt. Thí dụ như Đề Bà Đạt Đa khi mà ổng có cái lòng hại Phật, có cái lòng chia rẻ tăng, có cái lòng làm giáo chủ là tự nhiên thiền mất. Hoặc như Bồ tát có lúc Ngài đang bay Ngài nhìn thấy bà hoàng hậu tắm thì Ngài bị đứt thiền, bị hoại thiền. Đó, vậy trường hợp thứ hai là do phiền não mãnh liệt.

Trường hợp ba là do không trau dồi thường xuyên. Thí dụ như Ngài A Xà Chí hồi nãy tôi nói đó hoặc là trường hợp bồ tát Tất Đạt Đa lúc 7 tuổi đắc sơ thiền xong rồi đâu có biết gì đâu mà trau dồi rồi để chìm lỉm. Sau này 28 năm sau trong rừng khổ hạnh lâm Uruvela Ngài mới nhớ lại Ngài nói: "Hay vậy ta, hay à, hồi nhỏ mình đâu có biết gì. Tại sao mà mình có thể hít ra thở vào rồi mình chỉ theo dõi nó có 3 hơi là mình được cái cảm giác rất là đặc biệt. Tại sao hay vậy ta?" Tại sao Ngài không nhớ lại cái kinh nghiệm thiền định vừa rồi cách đó mới có một, hai năm hà, trước khi Ngài khổ hạnh Ngài đắc tới phi tưởng phi phi tưởng mà tại sao Ngài không nhớ? Là tại vì cái mà Ngài nhớ là nhớ lúc nhỏ mới ghê, lúc Ngài 7 tuổi không biết gì hết, mình chỉ hít ra thở vào vài hơi là mình được cái cảm giác rất rất là đặc biệt. Khi mà Ngài xét cái đó Ngài mới bèn quay lại trau dồi thiền định và với cái sự trau dồi ấy trong vòng nháy mắt Ngài đắc lên tới tứ thiền. Tức là Ngài dùng hơi thở đắc tới thiền sắc giới thôi, rồi từ cái nền sắc giới ấy Ngài mới đắc thêm 4 cái tầng vô sắc. Mà nói chậm lại không thôi bà con hiểu lầm bà con nói là ổng nói tu hơi thở mà đắc vô sắc là sai, hỏng có đúng nha. Ngài đắc lên tới tứ thiền tức là ngủ thiền sắc giới xong rồi từ đó Ngài đắc luôn một lèo lên tới phi tưởng phi phi tưởng.

Cho nên trong cái giây phút mà Ngài thành đạo là Ngài có trong người của Ngài tới phi tưởng phi phi tưởng xứ, chớ không phải thấp đâu, trong cái đêm đó là Ngài đã đạt tới đỉnh cao của tam giới rồi. Có nghĩa là trong cái thời khắc đó, toàn bộ chúng sanh trong vô lượng vũ trụ, chúng sanh phàm phu, cảnh giới cao nhất của chúng sanh phàm phu là gì? Là phi tưởng phi phi tưởng. Thì bồ tát đêm ấy Ngài cũng đã ngự lên cảnh giới khiếp như vậy, dĩ nhiên cảnh giới tâm linh, cảnh giới tinh thần thôi. Khi mà Ngài đắc toàn bộ các tầng thiền, Ngài mới dùng tứ thiền hơi thở Ngài mới quán chiếu 12 duyên khởi, quán chiếu 12 duyên khởi Ngài đắc chứng hai minh đầu tiên, đó là:

* Túc mạng minh, Ngài dành nguyên cái canh đầu tiên để mà Ngài quán xét "Ồ! Mình kiếp xưa là như vậy, như vậy, như vậy và mình như thế nào, tất cả chúng sanh khác cũng đều như vậy. Cũng đều là sao? Cũng đều có nghĩa là lên voi xuống chó, lúc siêu lúc đọa, lúc bốn đường dữ lúc thì nhân thiên.

* Rồi tới canh hai, Ngài dùng cái sanh tử minh Ngài thấy rằng tất cả những cái thân sanh tử ấy là đều do các nghiệp thiện ác mà ra.

Rồi tới canh cuối, Ngài mới thấy rằng nhân sanh tử như vậy, quả sanh tử như vầy từ đâu mà ra? Từ vô minh mà ra, từ vô minh trong 4 đế, vô minh ấy tạo ra hành tức nghiệp thiện ác, do nghiệp thiện ác nó mới tạo ra các tâm đầu thai, do có các tâm đầu thai mới có danh sắc đầu đời. Từ đó nó mới có 6 căn, 6 xúc, 6 thọ, 6 ái. Từ 6 ái nó mới ra tứ thủ, hai hữu. Từ hai hữu nó mới ra sanh lão bệnh tử, sầu bi khổ ưu não. Trong nỗi khổ triền miên ấy, chúng sanh vật lộn tìm lối thoát, loay hoay một lát vì vẫn còn vô minh trong 4 đế cho nên họ mới làm cái vòng tròn mới.

Vì khổ quá mới tìm lối thoát mà do vô minh trong 4 đế cho nên lối thoát họ chọn được chính là quay quẩn trong các nghiệp thiện ác. Giải tỏa cái vấn đề của mình bằng cách là đầu tư các nghiệp thiện ác và đầu tư các nghiệp thiện ác thì lại tiếp tục tạo ra các tâm đầu thai. Do có các tâm đầu thai tiếp tục có 6 căn, 6 xúc, 6 thọ, 6 ái, tứ thủ, hai hữu và sanh lão bệnh tử. Ngài thấy như vậy, Ngài "Ồ! Thì ra thế giới này nó quẩn quanh trong đó".

Như vậy thì từ cái đề mục hơi thở Ngài mới đắc được cái túc mạng minh và sanh tử minh. Khi quán chiếu hai cái này trong suốt hai canh đầu rồi tới canh thứ ba Ngài quán chiếu duyên khởi và Ngài chứng quả vô thượng Chánh đẳng chánh giác.

Và trong kinh giải thích thêm là tại sao Ngài đắc một đêm như vậy là bởi vì sao? Trong kinh nói Ngài giống như vị đại đế vậy. Tức là từ ở ngoài biên thùy mà muốn vào hoàng cung không có đi như cái người bình thường. Người bình thường có nghĩa là chỉ cần có một ba lô, một ghi đông nước, một ít tiền lẻ, một túi lương khô là xong. Ngài thì không, Ngài phải nghi trượng cờ quạt, tiền hô hậu ủng, xe Ngài đi đằng trước rồi bao nhiêu xe của tam cung lục diện, rồi tướng lãnh, nguyên soái, một đoàn quân đi đằng trước, một đoàn quân đi bên cạnh, một đoàn quân đi bọc hậu sau cùng và chung quanh Ngài có mấy lớp vệ sĩ đi từ từ, từ từ, từ từ, khi chặng nào thì có hành cung ở chặng ấy. Trong room có biết hành cung không ta?

Hành cung là cái chỗ mà mấy ông vua đi dọc đường xa mấy ổng tấp vô, vua có hành cung còn người thường có tràng đình vói tiểu đình. Cứ 10 dặm là tiểu đình, 100 dặm là tràng đình, cái chỗ mà ghé chân nghĩ mệt. Vua là hành cung, cứ đi xa xa vậy, ngày xưa chúng ta biết Tùy Vạn Đế bên Tàu, đời nhà Tùy ổng mê Tô Châu, Hàn Châu quá mà từ Bắc Kinh xuống đó xa quá đi, đi về Nam Kinh cũng xa mà nhất là từ Nam Kinh về Tô Châu, Hàn Châu đi bằng cách nào? Thế là ổng đã cho xây cái Đại vận hà dài 1 ngàn 800 cây số. Cho đến hôm nay, cái Đại vận hà nó vẫn là một công trình thủy lợi hàng đầu của thế giới. Đó! vì ông vua ổng muốn đi thôi mà nó phải rườm rà như vậy đó, nhờ cái Đại vận hà các đời hoàng đế mới có thể đi thỏa mái trong đất Trung Hoa, chứ còn đi đường bộ đi sao nổi quí vị? Các vị tưởng tôi nói lạc đề, hỏng có phải. Tôi muốn nói là một ông vua đi nó lớn chuyện như vậy đó. Có ai biết cái Đại vận hà được xây dựng trước hết là phục vụ cho các chuyến đi của vua Tùy Vạn Đế, rồi cái lợi ích thứ hai là thông thương, buôn bán cho thường dân, bá tánh, bách gia bách tính. Các vị nghe kịp không? Chỉ vì phục vụ cho mấy chuyến đi của vua Tùy Vạn Đế mà nó ra cái Đại vận hà đó, đâu ai biết, đâu ai tin cái chuyện đó đâu.

1:20:53

06/10/2019 - 08:46 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Đây cũng vậy khi mà một vị hoàng đế đi đứng từ nơi này đến nơi khác, ngoài việc cờ quạt, nghi trượng còn có các hành cung, binh lính, tướng lãnh tùm lum tà la, tam cung lục diện. Ở đây cũng vậy, một vị La hán bình thường chỉ cần thấy lá rơi, nghe nước chảy, cảm nhận được, ghi nhận một thiện niệm, ác niệm trong lòng đắc cái rẹt lục thông tam minh và 4 trí vô ngại. Nhưng mà riêng Ngài thì không, Ngài là một vị hoàng đế, một vị pháp vương mà, từ từ, từ từ như vậy đến khi mà vào lúc rạng đông, bên Bắc tông nói là lúc nhìn sao mai. Lúc rạng đông, khi trí tứ quả của Ngài vừa xuất hiện một phát là 6 Như Lai biệt trí và 10 Như Lai lực. Như Lai biệt trí là gì? Là đại bi trí chúng sanh chư căn thượng hạ lực, chúng sanh khuynh hướng thiện ác lực, biết rõ khuynh hướng thiện ác của chúng sanh, rồi trí đại bi, trí song thông, trí vô ngại, tất cả 6 trí cùng lúc có mặt, là ngay lúc đó, khiếp như vậy.

Thì ở đây mình học về 6 cái này là mình có hai bài học. Cái thứ nhất là học về những khả năng cần có của một người tự tại trong thiền định mình đã chứng. Cái bài học thứ hai là gì? Đó là trong tất cả các công đức mình cũng phải có khả năng tương tự như vậy, có khả năng trau dồi thiện pháp, có khả năng cầm lên và bỏ xuống không có đắm đuối đê mê ở trong đó.

Và 3 cái còn lại đó là làm việc một cách chu toàn, nghiêm túc, làm việc một cách kiên trì và luôn luôn quan tâm đến những điều kiện hỗ trợ, làm công đức nào cũng phải vậy.

6. Muốn tu thiền cũng phải quan tâm những điều kiện hỗ trợ cho cái chuyện tu thiền chứ không phải tự nhiên mà xách cái ba lô vọt ào qua bên thiền viện, không có phải đâu. Mình phải quan tâm đến những điều kiện là sao? Trước khi đi làm ơn đi khám bệnh chút xíu, nếu xưa giờ mình có vấn đề về sức khỏe thì hôm nay trước khi cầm cái ba lô vọt qua Miến Điện làm ơn hỏi bác sĩ một tiếng "Tôi có đi được không?" Bác sĩ nói "Được", còn không bác sĩ đòi mình vô 8 chai nước biển mình cũng phải nằm đó để bác sĩ vô. Rồi ổng dặn cầm cái gì đem theo, thuốc gan, thuốc mật, thuốc bao tử, tăng xông, cao máu gì đó là phải đem theo, rồi ổng dặn là mình ăn uống sao mình phải chuẩn bị.

Phải biết quan tâm những điều kiện hỗ trợ cho công việc của mình thì mình mới có thể hoàn thành công việc một cách tốt đẹp. Đây là điều cuối cùng rất quan trọng, biết quan tâm đến những điều kiện hỗ trợ. Muốn đi đâu, làm gì, bây giờ các vị muốn xuống bếp thì các vị cũng phải biết quan tâm tới những điều kiện hỗ trợ nha. Thí dụ mình muốn xuống bếp là mình phải coi dao, thớt, nồi, chảo phải ok, dầu, đường, mắm, muối, tiêu, tỏi, hành, hẹ phải ok mình mới nhào xuống bếp được nha.

Bi kịch của người nói trước đám đông là đứng trước đám đông mà không có đề tài. Bi kịch của người đầu bếp là xuống bếp mà không có đồ dùng. Bi kịch của hành giả là không có biết quan tâm những điều kiện hỗ trợ cho công phu của mình. Và cuối cùng bi kịch của một khách trầm luân trong cõi sanh tử đó là trên giường hấp hối không biết mình sẽ đi đâu về đâu, và ngó lại thì cái tư lương phải đem theo trên đường hoàn toàn không có.
Như vậy thì mình vừa học xong cái bài kinh số 72.

1:24:16

(còn tiếp)
Reply
(tt và hết) Sư Toại Khanh Giảng về Thần Thông và các Kinh khác (4-4)


https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...Th%C3%B4ng

1:24:16

06/10/2019 - 08:13 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]


KTC.6.73 Thiền (1)

Ðoạn tận sáu pháp các Tỷ-kheo, có thể đạt được và an trú sơ Thiền:
  1. Dục tham,
  2. sân, 
  3. hôn trầm thụy miên, 
  4. trạo hối, 
  5. nghi, 
  6. không như thật khéo thấy với chánh trí tuệ các nguy hại trong các dục. 

Bây giờ mình còn được 10 phút cho bài kinh 73: "Người muốn chứng thiền phải lìa được 5 triền cái, thấy được cái tai hại của dục lạc". Tại sao mà ở đây mình thấy trong 5 triền cái đầu tiên là tham dục mà tới cái thứ 6 Đức Phật Ngài lại kể riêng là thấy được nguy hiểm trong các dục là vì sao? Là bởi vì trong một khoảnh khắc nào đó chúng ta có thể ly dục, không thích gì hết và ngay trong khoảnh khắc đó chúng ta có thể chứng thiền. Chẳng hạn như mình thấy bồ tát Tất Đạt Ngài không có biết dục là gì, Ngài cũng không có biết ly dục là gì, nhưng trong một khoảnh khắc của năm Ngài lên 7 tuổi, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi miễn là dục ái vắng mặt thì bồ tát có thể chứng thiền, chứng được sơ thiền, đúng. Nhưng mà bồ tát không có được cái thứ 6 này, có nghĩa là Ngài không có thấy được nguy hiểm trong các dục. Bây giờ trong room hiểu chưa ta? Đây là lý do vì đâu đã lìa 5 triền cái mà tại sao Đức Thế Tôn Ngài kể luôn cái thứ 6 là bởi vậy đó.

Là bởi vì thái tử Tất Đạt rõ ràng rằng trong một tích tắc đã là người ly dục cho nên mới chứng được sơ thiền chứ, nhưng mà bồ tát Tất Đạt chỉ được 5 cái điều đầu tiên thôi tức là sự vắng mặt tạm thời của 5 triền cái, nếu mình đủ duyên và tu đúng, nghĩa là đúng và đủ thì trong tích tắc có thể chứng được sơ, nhị, tam, tứ thiền, đúng. Nhưng mà không có cái thứ 6 thì cái quả chứng ấy không bền, là vì sao? Là vì có rất nhiều và rất nhiều những người đắc thiền xong, rồi quay lại đời sống thế tục và không có thể trở lại với thiền định được nữa. Con số này đông hơn quân Nguyên chứ không phải là như quân Nguyên mà là đông hơn quân Nguyên. Có nghĩa là có vô số người trong cuộc đời này, trong đời sống của họ, họ đã từng đắc thiền, đắc sơ thiền mà họ không biết. Có, kể cả họ không biết Phật Pháp. Chẳng hạn như những vị đạo sĩ, có rất là nhiều người trong hàng Phật tử mình tôi nghĩ rằng cái chuyện mà thời nay tôi không biết, nhưng theo mô tả trong kinh thì thời Đức Phật cái người mà đắc sơ thiền trong tích tắc nhiều hơn quân Nguyên là vì sao? Vì mình thấy thái tử Tất Đạt 7 tuổi biết cái gì mà còn đắc sơ thiền, có một điều là do họ không biết, thứ nhất họ không biết cái cảm giác đó là cái gì. Nếu mà có học đạo và có thầy kềm cặp thì biết, còn không chính Ngài, lúc đó Ngài chỉ biết cảm giác rất là an lạc. Nếu mình là người huệ căn thì mai này mình có thể quay lại cảm giác đó bằng cách là thực hiện những thao tác cũ, thí dụ như hơi thở. "Bữa hổm mình làm sao mình được cảm giác đó ta?" Ngồi yên, biết rõ hơi thở ra, biết rõ hơi thở vào, với sự tập trung ấy 5 triền cái vắng mặt thời gian lâu mau tùy người, thì tâm sơ thiền xuất hiện lúc đó họ không biết đó là tâm sơ thiền, họ chỉ biết đó là cảm giác an lạc và thanh tịnh. Nếu họ muốn cảm giác đó quá thì họ phải quay lại với thao tác cũ, ngồi yên lại theo dõi hơi thở ra biết là ra, vào biết là vào, với sự tập trung ấy 5 triền cái vắng mặt và nếu đủ duyên thì tâm sơ thiền xuất hiện, họ chỉ biết tới đó thôi.

Nhưng còn cái vụ thứ 6 này không phải ai cũng có, đó là thật sự biết chán sợ trong 5 dục. Tôi nhắc lại, bài kinh này rất là sâu. Sâu ở chỗ nào? Sâu ở chỗ này: Anh muốn thực hiện cái gì chỉ cần anh làm đúng kỹ thuật thì anh sẽ làm được, có một điều là anh cần đến một cái nền tảng nhận thức, một nền tảng kiến thức để mà hỗ trợ cho công việc ấy. Tôi nói lại lần nữa, bất cứ việc gì nếu anh áp dụng đúng kỹ thuật thì anh sẽ thực hiện được, nhưng mà để đạt được sự lâu bền thì anh phải cần đến một khả năng nhận thức rất là vững vàng. Trong room có hiểu cái đó không ta?

Có nhiều chuyện đôi khi trong đời này chúng ta thực hiện được bằng sự ngẫu nhiên, nghe có hiểu không? Có nhiều sự trong đời, có nhiều trường hợp trong đời này chúng ta thực hiện thành công bằng sự ngẫu nhiên. Nhưng mà nếu muốn quay trở lại với sự thành tựu ấy và kéo dài nó, biến nó thành sở hữu của mình thì chúng ta không còn là vấn đề ngẫu nhiên, không còn là vấn đề may mắn mà phải tuân thủ chặt chẽ kỹ thuật. Quí vị nghe kịp không?

Cho nên 5 cái đầu có thể chỉ là sự may mắn, nhưng mà riêng cái thứ 6 này bắt buộc phải có thông qua một sự chuẩn bị, thông qua một sự đầu tư nghiêm túc. Đây chính là vì sao ở đây bên cạnh cái việc lìa bỏ 5 triền cái Đức Thế Tôn lại kể thêm điều thứ 6 là vậy đó quí vị.

Tôi nhắc lại bồ tát Tất Đạt rõ ràng trong một khoảnh khắc ngắn ngủi nào đó Ngài lại không có 5 triền cái và Ba la mật của Ngài phải nói là nhiều như biển, như núi, như trời cao đất rộng cho nên tích tắc là Ngài có ngay cái sơ thiền nhưng mà ngay lúc đó Ngài không có được cái thứ 6, Ngài không biết chán sợ trong các dục.

Tôi nói lại một lần nữa, cái đặc điểm của một vị bồ tát là cái gì ta? Là luôn luôn hướng tới cái tốt hơn, thứ hai khả năng buông bỏ rất giỏi và thứ ba không tự giam nhốt mình trong bất cứ một cái nhà ngục nào. Nếu hôm nay những người nào nghe giảng trong cái bài pháp này, trong cái room này thì chỉ cần ghi 3 đặc điểm của bồ tát về cũng có thể tu được một đời, tu được muôn kiếp chỉ bằng 3 cái này:

°Một, luôn hướng tới cái tốt hơn, về mặt tinh thần nha.

°Hai là khả năng buông bỏ rất giỏi, bởi vì khi anh muốn hướng tới cái tốt hơn thì anh phải có khả năng buông bỏ chứ. Chứ còn bây giờ mà anh cứ ôm cái nhà cấp 4 tôn thấp lè tè, lè tè thì làm sao anh có thể về Thảo Điền hay Phú Mỹ Hưng anh có cái nhà khác được, nha. Anh phải có cái gan bỏ cái nhà bên lổ cống thì anh mới đi xa được. Cho nên cái thứ nhất là phải có ý hướng về cái tốt hơn, thứ hai khả năng buông bỏ rất giỏi.

°Thứ ba, không bị giam nhốt trong bất cứ nhà ngục nào cho dầu đó là một cái thành tựu lớn bé, cho dầu nó là một niềm đam mê như thế nào đi nữa thì bồ tát luôn có khả năng đó. Một là hướng đến cái cao hơn, tốt hơn. Hai là bồ tát có khả năng buông bỏ rất giỏi. Ba là không tự giam nhốt mình trong bất cứ một cái nhà ngục nào.

Từ đó, bồ tát có thể thực hiện vô số hạnh lành, đặc biệt bồ tát về mặt tình cảm bồ tát không có tự giam nhốt mình trong cái gọi là tình thân. Đối với bồ tát muôn loài, vạn loài chúng sinh thảy đều là người một nhà bởi vì bồ tát không có bị giam nhốt. Về trí tuệ, bồ tát không ngừng tìm tòi trong văn, tư, tu. Còn về tình cảm thì bồ tát không bị giới hạn bởi những biên giới, bởi những giới tuyến, bởi những rào cản, bồ tát thương hết muôn loài.

Còn mình thì sao? Mình nói cho đã nhưng mà cuối cùng cái gọi là thương của mình chỉ là ái thôi chứ đừng nói từ. Mà đã nói ái là gì? Ái là thương yêu có điều kiện và trong giới hạn, còn từ bi thì không. Từ bi đúng nghĩa là không cần điều kiện và không có ranh giới thì cái tâm ấy mới được gọi là vô lượng tâm. Chứ còn cái thứ tâm từ mà chỉ rải riêng cho cái người nhà, cho bồ nhà, cho nội bộ, cái đó chưa được gọi là vô lượng tâm mà coi chừng nó mới còn ở cái mức tham ái, nha. Mà trong khi đó từ tâm là không cần điều kiện và không có biên giới, còn tham ái là yêu thương có điều kiện và bị giam nhốt trong biên giới.

Ok, bây giờ đúng là 4 giờ rồi. Chúc các vị một ngày vui và ngày mai chúng ta gặp lại nhau. Bye bye.
Mục lục các bài giảng


(Hết)
Reply
Bốn Truyền Thống Thánh Nhân (Sư Toại Khanh)





Con người có hai nhu cầu:
  1. Nhu cầu vật chất có 4 là: ăn, mặc, ở, và thuốc men.
  2. Nhu cầu tâm linh có 2 là nhận thức và hành trì.
Reply
Sad 
Sư Toại Khanh Giảng về Duyên Khởi - 12 Nhân duyên - 6 Cơ tánh chúng sanh (1-6) 

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...Ang%20sanh

16/10/2019 - 08:34 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

1:40
Tôi nói với bà con 3 buổi giảng trước, đó là chúng ta có mặt trong đời này mỗi người có một cái vốn liếng, có một cái nền tảng, có một cái hành trang riêng.

Cái vốn liếng, nền tảng, hành trang đó là gì? Đó là
  1. tiền nghiệp quá khứ, rồi
  2. khuynh hướng tâm lý nhiều đời và
  3. cái môi trường hiện tại mà mình đang sống.
Ba cái này cộng lại nó làm nên cái gọi là nền tảng tâm thức hay là cái vốn liếng hiện hữu của một người. Và tùy thuộc vào 3 cái này, chúng ta lúc mà sống ác hay sống thiện cũng có một cái nét rất là riêng. Và chính vì mỗi người có một kiểu ác, có một kiểu thiện không có giống nhau cho nên khi mà tu tập, nghe lời Phật dạy, cầm một trang kinh giống nhau, nhưng cái khả năng mà đón nhận của mình không có giống nhau. Nghe kịp không?

Quan trọng lắm, và có một điều tâm niệm rất là quan trọng mà tôi đặc biệt muốn bà con lưu ý, đó là: Trong từng phút chứ không phải là từng giờ, từng ngày, mà là từng phút, cái nếp nghĩ của chúng ta nó quyết định, nó có một cái vai trò rất là lớn cho cái đoạn đường sắp tới. Các vị có đồng ý cái đó không?

Tôi ví dụ rất là nhẹ thôi. Trưa nay, từ ga xe lửa tôi đi với một số Phật tử về chùa, đi tới một cái ngả ba tự nhiên cả đám đứng lại, hỏi bây giờ nên quẹo hay nên thẳng? Thấy dễ sợ chưa? Đúng ra chỉ cần quẹo là cả đám giờ này chưa về tới, mà lúc đó tôi buồn ngủ, con mắt của tôi nó giống như là dán keo vậy đó. Mà tôi chỉ mong tới chùa, trời thì nóng mà mình buồn ngủ mà giờ giấc thì còn lại không có nhiều, lúc đó hình như là 3 giờ mấy rồi, tôi muốn về tranh thủ ngủ một chút, mắc cái chứng gì mà mấy ngày nay tôi buồn ngủ suốt. Về đêm ngủ cái tầm 3 giờ hoặc 2 giờ mấy là nó giựt mình và nó thức luôn, cho nên gần như ngày nào tôi cũng bị thiếu ngủ hết, đối với tôi đi chơi là một hy sinh lớn lắm.

Thì tôi muốn nói rằng, chỉ một quyết định ngay ở ngả ba đường: quẹo hay là đi thẳng, chính cái quyết định quẹo hay là đi thẳng đó, nó đã làm nên buổi chiều của chúng ta. Nghe kịp không?

Và giữa biển người mênh mông, tại sao chúng ta không lấy người này mà lại lấy người kia, đó là một quyết định.

Có một câu chuyện mà tôi rất là tâm đắc. Vào một buổi chiều vàng có một nhóm bạn trung niên làm cái party để mà đãi nhau, một buổi tiệc có ý nghĩa là 20 năm ngày cưới. Chắc có nghe câu chuyện này rồi? Thì khi mà cái tiệc đang diễn ra vui vẻ thì cái nhân vật chính trong đó là ai? Là người chồng, 20 năm ngày cưới là có chồng có vợ, thì người chồng bước ra ngoài, mọi người tưởng là ảnh ra ngoài ảnh hút thuốc, thì trong đám bạn có một, hai tên cũng dân hút thuốc thấy ảnh bước ra ngoài họ bắt chước đi theo. Ra ngoải thấy ảnh đứng ngoài hè ảnh khóc thì đám bạn ngạc nhiên, nó hỏi "Có chuyện gì khóc?", ảnh nói rằng "20 năm trước tao dính vào một vụ án, mà nếu lúc đó tao không có nhờ con gái của ông chánh án, tao đã vô tù rồi. Mà nếu tao vô tù thì chiều nay tao ra, nhưng mà vì tao đã không vô tù, bây giờ tao bị chung thân". Có hiểu không?

Tức là "Nếu mà năm đó tao đừng có sợ tù đó, tao tới luôn bác tài đó, thì chiều nay tao ra, tao đã coi từng ngày, mỗi lần gây lộn với bả là tao tính ngày chính xác lắm, cho nên là chiều nay tao ra rồi, chiều nay party mới đúng nghĩa nè, tự do thật sự nè. Còn đằng này, vì sợ 20 năm tù đày đó, tao đã lấy nàng và đời tao vận vào một cái khổ nghiệp, tao đã ở tù 20 năm và còn 20 năm nữa, cho đến bao giờ tao còn thở".

Ở đây cũng vậy, quí vị thấy, cuộc đời nó là một quyết định, tất cả là những quyết định, tất cả là những chọn lựa sai hay đúng và AI, CÁI GÌ đã thúc đẩy chúng ta đi đến một quyết định như vậy? Cái chọn lựa đó chính là 3 cái tôi vừa kể, đó là tiền nghiệp quá khứ, khuynh hướng tâm lý và môi trường hiện tại.

Môi trường hiện tại gồm có cái gì?
  1. bối cảnh sinh trưởng,
  2. môi trường giáo dục, trong đó gồm có học đường, xã hội, cha mẹ, thân quyến, bè bạn, láng giềng và kể cả môi trường làm việc.
Tất thảy những cái đó cộng chung lại được gọi là môi trường sống hiện tại.

Chúng sanh có 6 cơ tánh: dục tánh, nộ tánh, độn tánh, đãng tánh, mộ tánh, ngộ tánh

Thì cái khuynh hướng tâm lý quan trọng lắm quí vị, trong kinh dạy thế này "Tất cả chúng sanh trong đời gom chung lại thì nó chỉ có 6 khuynh hướng thôi, đó là 
  1. ngườinặng về tham, thích tùm lum hết và
  2. người nặng về sân, rất dễ bất mãn, bất mãn cái này, cái kia.
Tôi đã từng gặp cả hai loại người đó.

* Loại người thứ nhất là thích đủ thứ, họ dễ an lạc, họ dễ vui lòng lắm. Đi du lịch cũng thích, cho họ cục kẹo ngon ngon họ cũng thích, gặp họ mà mình vồn vã, mình nồng nhiệt họ cũng vui. Rồi chỉ cần một chút thái độ, cử chỉ ân cần của ai đó là đủ làm cho họ mến yêu một miền đất, họ rất là đơn giản, người họ giống như là được tạo ra từ keo vậy đó, họ dễ dính lắm, nha.

* Còn cái người thứ hai gần như kiếp trước họ tạo ra từ lửa, kiếp này họ nóng và họ dễ dàng bất mãn, mình có làm gì họ cũng bất mãn, đến mức mà dọn cho họ ăn đó, họ tìm không ra được cái họ bực, họ cũng ráng nói một câu "Nóng quá sao mà ăn?", họ tìm không ra đó, cuối cùng họ phải phán một câu nóng quá sao họ ăn, nói xong rồi húp tiếp.

Cái hạng thứ nhất là đụng đâu thích đó, là tham, gọi là dục tánh.

Hạng thứ hai, là nộ tánh, hay bất mãn này nọ suốt cả đời, không có vừa lòng cái gì hết, ngay cả lúc đi tu thiền cũng vậy. Mình sợ sanh tử luân hồi, chán chuyện đời, chán chuyện nhà, chán chuyện xã hội, chán công ăn việc làm, chán cái chuyện cơm gạo áo tiền mình mới đi vào thiền viện. Mọi người đang cố gắng để từng bước, từng bước đi tới, lên cao và đi ra. Nên nhớ tinh thần của tu tập là đi lên, đi tới và đi ra, ai cũng biết chuyện đó hết. Vậy chứ họ đi vô thiền viện chuyện đầu tiên là bực mình với điều kiện của thiền viện trước cái đã, nó lạ như vậy.

Cho nên có một vị thiền sư dòng U Pandita, Ngài dạy thiền cho một đám người ngoại quốc, trong đó có Đại Hàn, có Nhật, có Tàu nữa. Có ông Tàu đó ổng lên ổng hỏi "Bạch Ngài, con thích Ngài Mahasi lắm, con thích dòng U Pandita lắm. Con thắc mắc tại sao trên người của mình thiếu gì chỗ niệm, tại sao cứ phồng xẹp là làm sao?", thì Ngài trả lời thế này "Trong kinh dạy rằng chú ý chỗ ra vào chỗ mũi hoặc môi trên. Sư phụ Mahasi của tôi thì Ngài thấy rằng thêm một chỗ nữa đó là phồng và xẹp. Còn cở ông thì thêm một chỗ nữa, ông để cái tâm vô đâu cũng được hết, miễn là đừng có để tâm vô cơm gạo áo tiền thôi". Hiểu câu này không? Câu trả lời rất là hay. Tôi chịu cái câu đó lắm. Vì ổng thắc mắc là tại sao phải để vô trong lổ mũi, tại sao để lên môi, tại sao để trên bụng, thì Ngài dòm tướng ông này không xong rồi, con cháu của Tập Cẩn Bình, Ngài thấy hỏng xong, "Ok, you muốn để đâu you để, you muốn chú ý cái gì you chú ý, nhớ đừng chú ý tới cơm gạo áo tiền là xong". Và cái ông đó về sau trở thành một hành giả tinh tấn hàng đầu của thiền viện đó, mà ổng cúng nhiều lắm, hỏng biết đắc gì hay không mà thấy ổng cúng nhiều thấy được rồi.

Vậy cho nên, chúng sanh có hạng thì bạ đâu thích đó, cái gì cũng thích hết.

Hạng thứ hai, cái gì cũng làm họ bất mãn hết.

* Và hạng thứ ba là độn tánh, nhớ chậm mà hiểu cũng chậm, nhớ dở mà hiểu chậm gọi là độn tánh, là tánh si.

Các vị có nghe cái chuyện hiểu chậm và chuyện cười chậm chưa? Ngày kia, con sư tử nó nghĩ cách làm sao ăn thịt muôn thú trong rừng mà không mang tiếng bạo chúa, nó mới nghĩ ra một cách, nó gom mấy con thú lại nó nói "Bây giờ mỗi đứa kể một câu chuyện, chỉ cần trong rừng sót một con không cười thì coi như là bị ăn thịt". Các vị biết ai mà có cái tài diễu như vậy được? Nguyên một rừng người thế này mà mình kể thế nào cũng có một, hai tên mặt nó đơ đơ nó không cười, giống cái cô này hôm qua giờ cổ đâu có chịu cười, thì là, "Có mà", "Không, tôi đang nói chuyện khác". Thế là ngày nào con sư tử nó cũng có cái để nó ăn hết á. Đặc biệt bửa kia tới phiên con thỏ nó lên nó kể chuyện, nó kể chuyện duyên dáng, dí dỏm, thông minh, hài hước, trào lộng, cả một khu rừng ai cũng cười hết, đến cả con lười nó còn cười mà, nhưng mà riêng cái con heo rừng nó không chịu cười, nó tỉnh bơ, mặt nó đơ đơ như heo vậy. Thì hôm sau tới phiên con lừa nó lên nó kể, kể nguyên khu rừng không ai cười hết trơn á, ngáp vậy đó mà riêng con heo nó cười, sư tử ngạc nhiên nói "Tại sao con thỏ kể mày không cười mà tới phiên con lừa kể mày cười?", "Không, tôi cười chuyện hôm qua". Thì con sư tử nói "Trời ơi, hôm qua mày cười sớm là con thỏ còn rồi". Con thỏ nó còn rồi, thì ra là cười nguội, nha.

Thì cái người độn tánh là gì? Nhớ dở là vì thiếu niệm, hiểu chậm là do thiếu tuệ và thiếu định. A, ở đây những người Phật tử chắc nhiều người nghe cái này hơi lạ phải không? Nhớ dở là thiếu niệm đã đành nhưng hiểu chậm là do thiếu trí và cả thiếu định.

Và sẵn đây tôi xin có một lời cảnh báo, nhiều người tưởng rằng giỏi toán là thông minh, chưa chắc, mà có trường hợp giỏi toán là do định mạnh. Thí dụ như số pi có nhiều người họ nhớ rất là nhiều bởi do định mạnh, bởi vì cái khả năng suy diễn của người này rất là kém. Tôi từng biết một vài người cực giỏi về physics là vật lý, cực giỏi, mà trong đời sống từ cái tâm lý, xã hội, cho đến quan hệ gia đình kém cỏi lắm, kém đến mức mà mình phải nghi ngờ là anh này ảnh gần như là bị down syndrome vậy đó, ảnh không có một cái, dây thần kinh mà quan hệ xã hôi của ảnh bị đứt, đứt nguyên một chùm luôn đó, mà rất là giỏi vật lý. Hiểu không? Suốt ngày cứ vùi đầu vô trong ba cái vật lý đó, nhưng mà buông cái vật lý đó ra là ổng không biết cái gì hết. Cho nên phải cẩn thận, cái người giỏi về một môn nào đó, đôi khi chỉ là do một cái tiền nghiệp quá khứ họ chỉ dồi mài có một cái đó thôi.

Trong khi đó, trong kinh mình định nghĩa trí là gì? Trí là khả năng phân biệt được cái gì nên và không nên.

Tôi nói hoài, ở trong Tiếng Anh người được gọi là "man", Tiếng Đức là "mann", trong Tiếng Phạn là "mānusa", và ở trong Tiếng Pali nó có cái động từ là māneti nghĩa là đếm, cân, đong, đo, đếm. Như vậy mānusa, các nhà ngôn ngữ học giải thích thế này: Con người là động vật duy nhất mà biết cân, đong, đo, đếm mỗi khi nói, làm và suy nghĩ, đặc biệt là trong quan hệ đối giao với người khác, nghe kịp không?

Cho nên cái chữ trí trong Đạo Phật nghĩa nó sâu lắm, có nghĩa là biết cái gì nên và không nên, biết cái gì nên thêm, cái gì nên bớt, cái gì nên chỉnh sửa. Thì đó gọi là trí, nha. Chứ còn giỏi riêng toán, lý, hóa, văn, sử, địa, ngoại ngữ chưa chắc là trí trong Đạo Phật.

Bởi vì chúng ta cũng biết, ngay cả cái chuyện làm thơ cũng có hai, một là nhà thơ, hai là thợ thơ. Nhà thơ là người có xúc cảm, có cảm hứng, có tình cảm, có linh cảm, có cảm xúc rồi từ đó đôi khi chữ nghĩa tự động nó ra ngoài sự kiểm soát của họ, nhờ vậy mới gọi là tuyệt tác, nghe kịp không? Nhưng mà riêng thợ thơ là gì? Thợ thơ là họ cứ viết cái bằng trắc, bằng trắc họ cứ ráp vô, thí dụ nghe những câu thơ như thế này:

Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên,
Giáp ta thắng trận Điện Biên lẫy lừng.

Hoặc:

Con ruồi là giống hiểm nguy,
Cái chân của nó rất vi trùng nhiều.

Có một bài văn mà tôi nhớ hoài:
Chồng tôi là một nhà thơ,
Vào ra, ngẩn ngẩn, ngơ ngơ, thế nào.
Đến nay tôi rất tự hào,
Con tôi chưa một đứa nào làm thơ.

Những bài thơ đại loại như vậy đó là do cái đám thợ thơ nó làm chứ không phải là nhà thơ. Còn nhà thơ thứ thiệt đó cả đời nhiều khi chỉ cần có hai, ba bài, chẳng hạn Sơn Nam. Ai nói đến Sơn Nam cũng nói ổng là nhà Nam bộ, ổng là một nhà văn, ổng là một cái nhà này nhà kia, nhưng đặc biệt tôi thấy chưa có ai nói Sơn Nam là nhà thơ, nhưng mà theo Bùi Giáng ổng đoán một câu rất là xác đáng mà tôi rất là tâm đắc, ổng nói "Được gọi là thi sĩ chỉ cần hai bài thôi, mà nó ra hồn ra vía thì đủ để chứng minh người đó có tư cách ngồi trong chiếu trên của làng thơ".

Sẵn đây tôi nói luôn, có biết "Chủ tịch là gì không?"

Chủ là xếp, tịch là chiếu. Chủ tịch là người ngồi chiếu trên. Yah, tịch là chiếu.

Tịch nó có nhiều nghĩa, tịch có nghĩa là mất, lửa đang cháy bị tắt gọi là tịch.

Tịch có nghĩa là buổi chiều, như tịch dương.

Tịch cũng có nghĩa là chiếu. Nhớ nha. Cho nên chủ tịch có nghĩa là người ngồi chiếu trên chứ không có gì hết. Mà cái chữ này nó xuất phát từ nền văn hóa làng xã của người Nam Á ngày xưa, đó là người Tàu và người Việt, có chuyện gì thì ra ngoài đình làng mà nói chuyện, đúng không? Như Thị Nở vậy đó, ra ngoài làng xử đó. Tại sao hết người nhắc, đi nhắc Thị Nở mới lạ, ý quên Thị Mầu. Có nghĩa là ra ngoài làng mấy ông thiên chỉ, hương tề, hội tề, hương quản thì mấy ổng ngồi ở chiếu trên, rồi cái đám dân làng cóc lác, lòng tong, cá chốt thì ngồi ở dưới. Mấy ông ngồi ở trên gọi là chủ tịch, nhưng mà lâu dần rồi chữ chủ tịch họ gom gọn lại còn có một ông president thôi. Nha, thì nó hơi lạc đề một chút.

17:17
17/10/2019 - 08:23 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Thì cái chúng sanh hạng đầu tiên bạ đâu thích đó gọi là dục tánh.

Cái hạng thứ hai là bất mãn tùm lum hết thì gọi là nộ tánh.

Cái hạng thứ ba là nhớ chậm mà hiểu cũng dở thì gọi là độn tánh.

Cái hạng thứ tư là lăng xăng, nay cái này, mai cái kia thì gọi là đãng tánh. Cái hạng này quan trọng lắm, ở trong đám chúng ta nó đông như quân Nguyên, bữa nay thì theo Thanh Hải vô thượng sư, ngày mốt á lô Làng Mai, bữa kia a lô Trúc lâm Thanh Từ, bữa nọ a lô Thích Pháp Tiến. Trong đời tôi hận nhất là cái bà ở bên Mỹ, bả mời mình về nhà tổ chức lớp tu học, mình giảng cho gãy lưỡi xong xuôi rồi cái lúc bà con về hết, bả nói "Thầy, bửa nào con gởi cho thầy mấy cái links thầy Pháp Tiến giảng hay lắm". Tôi có cảm giác giống như là tôi đang theo đuổi bả để rồi bả đưa khoe tôi một đống thơ tình của thằng khác vậy. Nó đau lên tới óc luôn. Thì lúc đó chưa quen lắm, tôi chỉ cười gượng. Tới lúc mà quen hơi nhiều, tôi nói "Cô tìm được ai mà vô duyên hơn cô không?".

Ok, đãng tánh là nay người này, mai người kia, người không lập trường, không chủ kiến thì gọi là đãng tánh. Cái loại này nó nguy lắm, chủ yếu mất thời gian, nghe kịp không? Bữa nay thì yoga, mai khí công, mốt thái cực quyền, bữa nọ là fitness, tập một hồi teo nhéo, từ chữ V xuôi thành V ngược. Biết V ngược không? Hồi chưa tập thì ngực lớn eo nhỏ, tập lâu ngày ngực nhỏ eo lớn. Tôi nè. Cho nên cái hạng đãng tánh là vậy đó.

Có một câu chuyện rất là đau, kể ra đây thì bà con hận lắm, nhưng không kể không được. Có một con chó nó ở kế bên hai cái chùa, mỗi ngày chùa A cúng ngọ lúc 11 giờ thì nó qua nó ăn một mớ, rồi chùa B cúng ngọ 11 giờ rưởi nó qua nó ăn một mớ, mà hai chùa nằm ở hai bên sông, thì cứ 11 giờ nó ăn bên đây, 11 giờ rưởi nó nghe tiếng chuông nó bơi qua bên kia nó ăn. Xui bữa đó nhằm bữa đó cúng Vu lan, hai chùa làm lễ cùng một lúc, cho nên nó đang ăn bên đây mấy miếng, nó nghe bên kia đánh chuông nó nghĩ chùa bự chắc ngon hơn bên đây, nó lội, nó lội được nửa đường nó chực nhớ lại cái câu người ta nói "thấy vậy mà hỏng phải vậy", chưa chắc gì chùa lớn mà đồ ăn ngon, nó quay trở lại, mà cứ nó nghe chuông bên đây, nó đổi ý giữa dòng, đổi, hồi nó đuối nó chết. Nghe kịp không? Câu chuyện đó nghe rất là vô duyên, rất là nhạt, nhưng thật ra nó chính là phản ánh cái bản chất của nhiều người trong chúng ta, cả cuộc đời do dự, bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, chọn một dòng, hay để nước trôi?

Chúng ta không có nhiều thời gian, quí vị biết, chúng ta không thể nào làm con chuột bạch cho người khác được hết á. Thầy nào hay mình cũng nhào vô làm đệ tử, nắm áo, níu quần được một thời gian, chán theo ông khác, cứ như vậy cái người thiệt thòi chính là mình bởi vì mình không có thời gian. Nói như vậy, tôi không hề có ý xúi các vị thờ tôi, cũng không có xúi các vị chết sống với ông sư phụ nào hết, mà tôi chỉ đề nghị các vị cẩn thận một chút, chỉ vậy thôi. Và tôi nói cái câu này bà con chắc phải suy nghĩ lại: Tại sao ăn uống thì mình rất là cẩn thận, sợ cholesterol, sợ cao máu, sợ dư đường, phải không? Mà tại sao đối với cái đầu của mình, mình lại dễ dãi là bạ đâu tin đó, là sao? Điều đó cho thấy là mình coi trọng vật chất hơn tinh thần, đúng không? Bởi vì đối với cái tấm thân trời ơi này nè, ăn uống rất là cẩn thận, nhưng mà tại sao đối với cái đầu của mình thì tại sao đụng đâu mình tin đó, điều đó cho thấy là mình có vấn đề rất là nặng, nghe kịp chưa?

Cái lý do mà tôi chọn đặt cái tên Kalama cho thiền đường ở Miến Điện, nó có ý nghĩa đó là mỗi lần mà bà con nhắc tới cái tên đó bà con phải nhớ đến nội dung của bài kinh Kalama. Lần đó Đức Phật đến thăm một ngôi làng tên là Kalama, người dân ở đó gặp Ngài họ thưa với Ngài một chuyện "Bạch Thế Tôn, có rất nhiều thầy bà, sư phụ, giáo chủ ghé đây, ai cũng nói mình số một hết á, tụi con hoang mang lắm, xin Thế Tôn cho chúng con một gợi ý". Thì Phật dạy rằng "Trước khi quyết định phán xét cho ai đó là số 1, số 10, ai đó là đúng, sai, tài, chánh, hay hay dở, thì chuyện đầu tiên chúng ta xử việc chứ không xử người". Hiểu không? Coi họ nói cái gì? Và nội dung của điều họ nói nó ra làm sao? Nó là cái điều đem lại lợi ra sao, hại ra sao, thiện hay là bất thiện? Quan sát ở cái chỗ đó thôi, đừng có dễ dàng, nhẹ dạ, cả tin giao phó niềm tin của mình cho những cái mà nó có nhãn hiệu lấp lánh, lung linh và lộng lẫy. Thí dụ như cái này là của sư phụ gì đó rất là tiếng tăm, cái này được kinh điển ghi lại nhiều đời, cái này đã là truyền thống của dân tộc, của cộng đoàn, của xã hội v v… Ngài nói rằng tất thảy những cái đó đều là những nhãn hiệu rất là nguy hiểm, đa phần chúng ta chết trong nhãn hiệu, các vị biết không?

Tại sao cái nền kinh tế của các xứ dân chủ tư bản nó mạnh hơn cộng sản? Là bởi vì từ rất lâu đời, những cái xứ phát triển họ coi nặng cái thương hiệu. Các vị biết bên Thụy Sĩ có những cái lò rèn mà cho đến năm nay là 2018, mọi thứ đã là 4 chấm hết rồi, vậy mà bên Thụy Sĩ và bên Đức vẫn còn giữ lại những cái lò rèn, họ làm kéo, làm dao bằng tay 100% hand made and home made và bán chạy như tôm tươi. Tại sao vậy? Vì họ coi nặng thương hiệu và họ tìm mọi cách để họ giữ uy tín cho thương hiệu. Và chính vì vậy cho nên khái niệm thương hiệu đã được nẩy sinh ra trong cái tâm thức của nhân loại.

Và từ chỗ biết đến thương hiệu, con người đã bắt đầu biết chết cho thương hiệu. Có hiểu không? Cái bóp bằng da thì da nào hỏng phải là da? Nhưng mà nó quất lên đó chữ Gucci một cái, bao nhiêu tiền nàng cũng móc ra. Chỉ cần nó không để Gucci mà nó để Củ Chi không có ai mua hết, các vị thấy không, chỉ đổi một chút xíu thôi, dễ sợ chưa, tất cả là nhãn hiệu thôi. Cho nên hãy cẩn thận coi chừng mình trở thành nạn nhân của những nhãn hiệu, coi chừng mình là nạn nhân của quảng cáo và trở thành ra loại người đãng tánh, tiếng Pali gọi là vitakkayanta, đãng tánh, lăng xăng lăng xăng cả đời không có bến dừng, suốt đời như con thuyền trôi dạt từ bờ này sang bờ khác, mất thời gian.

* Dục tánh, nộ tánh, độn tánh, đãng tánh, rồi tiếp theo là mộ tánh. Mộ là sùng mộ đó. Mộ tánh là đụng cái gì cũng tin hết, đụng đâu tin đó, tin cuồng, tin dại, tin si, tin khờ. Đó gọi là người mộ tánh, người rất là dễ tin. Nhưng mà dĩ nhiên, đó là định nghĩa thôi, chứ còn mà mình may mắn, ở đây có hai cái gạch đầu dòng:

- Người may mắn gặp được chánh pháp thì cái mộ tánh rất tốt, nghe kịp không?

- Mà nếu không gặp được chánh pháp thì cái mộ tánh rất là nguy hiểm. Bởi vì nó đi theo cái đám mà ôm bom tự sát đó. Các vị biết rằng, có những cái người tử vì đạo bên Đạo Hồi, họ được học trong thánh kinh Đạo Hồi ghi rất là rõ: Kẻ chết cho Đạo Hồi, chết vì vinh quang, quyền lợi, danh dự và sự tồn tại của Đạo Hồi, sau khi chết về trời mỗi người đàn ông sẽ được 47 cô tiên nữ đẹp như mơ, trên thiên đàng có đấng Allah, chúng ta có một dòng sông toàn là rượu ngon và những thảm cỏ xanh với những bầy chim hiền với những cô tiên nữ đẹp lộng lẫy, mà riêng mình sẽ hưởng 47 cô. Chỉ vì lời hứa hẹn này mà bom nổ tùm lum hết. Có một ngày thì một tòa soạn bên Pháp họ vẽ một bức tranh biếm họa, họ vẽ hình một ông râu ria tùm lum, quấn khăn để chữ Allah, ổng ngồi trên mây, ổng phán thế này "Trên đây đã hết gái, đừng tự tử nữa". Chỉ trong vòng 3 seconds, nguyên một đám quân Nguyên tràn tới nó quậy banh cái tòa soạn, nó đốt. Quí vị tưởng tượng hôn, nó mộ tánh, nó cuồng.

Cái nguy hiểm nhất của chúng ta là gì? Tôi đã nói hoài, Thánh nhân hiểu rõ điều mình tin nên tin chết bỏ điều mình hiểu. Còn phàm phu chúng ta thì không hiểu lắm điều mình tin nên không tin lắm điều mình hiểu. Chính vì không tin lắm cho nên mình tin tùm lum, hiểu không? Tức là mỗi thứ mình chóp một chút, chỗ nào mình cũng xà vô mình tin hết á. À há, cho nên cái tin này có hai nhánh, đó là chánh tín và cuồng tín:
  1. Chánh tín có nghĩa là niềm tin dựa trên trí tuệ, trên logic, trên cái quan sát. 
  2. Còn cái cuồng tín là tin theo cảm tính, tin theo cảm xúc, tin theo tình cảm, tôi thích thì tôi tin, tôi không cần biết lý do, nha.
* Rồi cái cuối cùng là cái ngon lành nhất, đó là ngộ tánh. Ngộ tánh tức là có những người cũng tóc tai, râu ria y như thiên hạ, cũng đói ăn, khát uống y như mọi người, nhưng có một điều họ có điểm đặc biệt, họ có cái ngộ tánh. Đặc điểm của ngộ tánh gồm có ba:
  1. Một, khả năng phân biệt thiện ác rất giỏi.
  2. Hai, người có ngộ tánh luôn luôn hướng đến cái tốt hơn, chứ không có dậm chân tại chỗ, đó là đặc điểm của người có ngộ tánh.
  3. Ba, khả năng của người ngộ tánh là buông bỏ rất giỏi. 
Người ngộ tánh có ba cái đặc điểm, có ba cái characteristics, thì làm ơn về coi, tối nay về dò coi mình thuộc loại nào. Ở đây có người nói với tôi họ thuộc loại đa nhân cách, cở nào cũng có hết.

Rồi, cái đặc điểm của người có ngộ tánh, thứ nhất là khả năng phân biệt thiện ác, tốt xấu rất giỏi, nha, có nghĩa là ông nội, bà ngoại, ba má xưa giờ chấp nhận như vậy, nhưng mà riêng mình nghe nó hơi kỳ kỳ. Thí dụ như, cứ Vu lan là hè nhau đốt một mớ vàng mã, là mình thấy nó hơi ngộ ngộ, mình hỏi tại sao, hoặc tại sao mở cửa mả. Ở đây ai biết mở cửa mả không? Rồi nghe người lớn giải thích mình thấy nó kỳ kỳ, cái người ngộ tánh họ thấy kỳ lẹ lắm, còn cái đứa không phải ngộ tánh thấy "Ờ, chắc tại mình hiểu không tới thôi tin luôn". Hoặc có nhiều người họ nghĩ lạ lắm "Bao nhiêu thiên hạ tin vàng mã, ít ra nó cũng có đúng chứ", bao nhiêu thiên hạ tin, trong đám những người tin đó có những người có học thức, có bằng cấp hẳn hoi, lý nào họ ngu họ lại đi tin điều vô lý, thế là chúng ta tin vào đám đông.

Nhưng mà cái người ngộ tánh thì không, họ thấy nó kỳ kỳ thì sao ta? Họ lập tức nhớ tới câu này "Cái gì sai bét dầu một triệu người tin nó vẫn sai. Cái điều gì nó là chân lý dầu không có đứa nào tin thì nó vẫn là chân lý". Có hiểu cái đó không? Câu này là câu thần chú phải nhớ để mình đừng có bị lụy vào đám đông, nha.


- Đặc điểm đầu tiên của người ngộ tánh là khả năng phân biệt rất giỏi.

- Thứ hai luôn luôn biết hướng tới phía trước và lên trên, không có dậm chân tại chỗ, không có sớm vừa lòng thỏa mãn với cái họ đang có. Đó là đặc điểm của người ngộ tánh, họ luôn nghi ngờ cái con đường dưới chân của họ.

- Rồi cái đặc điểm thứ ba là gì? Đặc điểm thứ ba của người ngộ tánh là khả năng buông bỏ rất giỏi. Nghe kịp không? Còn nhớ câu chuyện ngày hôm qua tôi kể không? Cái anh mà đi học võ trên núi đó, lúc mà ảnh xuống núi, sư phụ tiễn xuống núi, sư phụ mới giơ nắm đấm lên "Con nhớ, chúng ta là người học võ, chúng ta chinh phục thế giới, chinh phục thiên hạ bằng cái nắm đấm, nhưng con nhớ những gì trong nắm tay luôn ít hơn trong vòng tay. 

Sống phải cởi mở, bao dung thì con sẽ có được nhiều thứ hơn. Nhưng mà con nhớ, vòng tay con đủ lớn rộng để ôm lấy thiên hạ hay không? Không, vòng tay, vòng ôm của con nó chỉ rộng hơn nắm tay nhưng nó không bằng cái tầm nhìn của con. "Tầm nhìn của con bao xa thì con có được bấy nhiêu thiên hạ." Nghe kịp không?

17/10/2019 - 08:23 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Cho nên cái người ngộ tánh họ không có dại dột mà khư khư cầm lấy mọi thứ, bởi vì chúng ta biết bản thân cái chữ cầm nó có hai nghĩa, chữ hold có hai nghĩa. 
  1. Nghĩa thứ nhất là nó giữ cái hiện tại, giữ cái đang có, 
  2. bản thân chữ hold còn có một nghĩa nữa là không có khả năng nhận thêm cái mới. 
Cái nghĩa thứ hai trong tự điển không có ghi, nhưng mà mình có được quyền được hiểu như vậy không? Mình nghe nói hold là mình phải biết rằng nó không có khả năng nhận được cái khác, đúng không? Đã nói hold mà, có nghĩa là nó chỉ có một cái đó thôi mới gọi là hold, chứ nó tè lè ra vầy làm sao mà gọi là hold? Nhớ nghe.

Cho nên cái đặc điểm thứ ba của người ngộ tánh là khả năng buông bỏ rất giỏi, rất giỏi.

Tại sao chiều nay tôi lại chọn cái đề tài này ra tôi nói? Là bởi vì tất cả chúng ta ở đây và vô lượng chúng sanh trong tất cả vũ trụ đều không nằm ngoài 6 hạng người này.

Cho nên trong kinh nói, có nhiều pháp hội mà Đức Thế Tôn quan sát cái hội chúng ngồi trước mặt, Ngài nói một cái pháp thoại mà cùng một lúc tương ứng, thích hợp với cả 6 cơ tánh là vậy đó. Rồi có những trường hợp nguyên một hội chúng đều mộ tánh, nộ tánh, độn tánh, đãng tánh hay là giác tánh thì Ngài chọn một đề tài cho cả đám. Nhưng mà có trường hợp là Ngài phải mix đề tài Ngài trộn lại, có nghĩa là có những bữa thì Ngài cho ăn món, có những bữa Ngài cho ăn buffet, nó muốn ăn gì nó ăn. Nghe kịp không?

32:56
18/10/2019 - 08:13 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
32:27

(còn tiếp)
Reply