LTP Học Phật Pháp
CHUYỂN HÓA GIẢI ĐÃI VÀ NGHI NGỜ
Quảng Tánh


https://thuvienhoasen.org/a33541/chuyen-hoa-giai-dai-va-nghi-ngo

[Image: khat-thuc.jpg]


Sự tu hành không phải lúc nào cũng suông sẻ mà có khi thăng lúc trầm. Do đó, người tu cũng lắm phen cảm thấy đuối sức, mệt mỏi, muốn buông xuôi là chuyện bình thường.


Ngay những lúc mềm lòng, nản chí như vậy, nếu có được sự soi sáng và khích lệ của thầy bạn, vực dậy sơ tâm thì thật có phước duyên. Nên có thầy sáng và bạn lành yểm trợ tu hành sẽ trợ duyên rất nhiều cho những ai đang loay hoay tìm cách vượt qua bão giông nghiệp lực của chính mình.

Nốt lặng trong đường tu không phải tự dưng sinh ra mà được dẫn dắt từ những nốt trầm. Những hạt mưa li ti gom lại mới kết thành dòng thác. Bắt đầu từ những việc như buông lung các căn, không tiết độ trong ăn uống, chẳng giữ thời khóa công phu bền bỉ, không siêng năng chế ngự ngủ nghỉ, không học tập và tư duy Chánh pháp nên dần dà sự thối thất trong đường tu đã xảy ra.

“Một thời, Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo tên là Đê-xá, cùng với một số đông Tỳ-kheo khác tập hợp tại nhà ăn. Tỳ-kheo Đê-xá nói với các Tỳ-kheo:

- Thưa các Tôn giả, đối với Pháp tôi không thể phân biệt. Tôi không thích tu phạm hạnh nữa, chỉ thích ngủ nghỉ nhiều và nghi hoặc đối với Pháp.

Bấy giờ trong chúng có một Tỳ-kheo đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi qua một bên, bạch Phật:

- Thế Tôn, Tỳ-kheo Đê-xá, nhân lúc chúng Tăng tập hợp tại nhà ăn, đã nói lên những lời như vầy: ‘Đối với Pháp tôi không thể phân biệt. Tôi không thích tu phạm hạnh nữa, chỉ thích ngủ nghỉ nhiều và nghi hoặc đối với Pháp’.

Phật bảo Tỳ-kheo:

- Tỳ-kheo Đê-xá này là kẻ ngu si, không gìn giữ các căn, ăn uống không có chừng mực; đầu đêm, cuối đêm, tâm không tỉnh thức, giải đãi biếng nhác, không nỗ lực tinh tấn, không khéo quán sát tư duy pháp thiện. Tỳ-kheo này mà đối với phân biệt pháp, tâm thích tu phạm hạnh, xa lìa mọi sự ngủ nghỉ và ở trong Chánh pháp mà xa lìa mọi sự nghi hoặc, thì việc này không thể xảy ra. Nếu Tỳ-kheo giữ gìn các căn, ăn uống chừng mực; đầu đêm, cuối đêm, tỉnh thức tinh tấn, quán sát pháp lành; với Tỳ-kheo ấy, sự yêu thích pháp phân biệt, ưa tu phạm hạnh, xa lìa mọi sự ngủ nghỉ, tâm không nghi ngờ Pháp, điều này có thể xảy ra”.

(Kinh Tạp A-hàm, kinh số 271 [trích])
Thế Tôn đã chỉ dạy thật rõ ràng, sự việc gì cũng có nhân duyên. Tu tiến hay lùi cũng đều có nhân duyên. Phải thấy rõ tiến trình nhân-duyên-quả của mỗi sự việc thì mới có thể trị liệu và chuyển hóa. Bạn đồng tu với mình càng ngày càng tăng trưởng phước huệ, an yên với đạo mà sao ta thì ngược lại. Bằng hữu thì phơi phới, hoan hỷ, an vui trong Pháp mà sao ta lại bất an, nghi hoặc, muốn thoái lui.

Truy tìm nguồn cơn của sự việc, hóa ra cũng tại mình. Lâu nay mình buông lung quá, thấy cái gì cũng thích, nghe cái gì cũng hay,… các căn không phòng hộ. Ăn uống thì vô chừng, không kể giờ giấc, lại luôn tìm cầu mới lạ ngọt ngon. Lười biếng công quả, giải đãi công phu, ham mê ngủ nghỉ nên lực tu ngày càng suy kiệt. Lại thêm không chịu học hiểu Chánh pháp để thấy con đường, đi trong lờ mờ và quờ quạng biết về đâu.

Khi đã thấy rõ nhân duyên của sự thối thất rồi thì hãy đứng dậy và đảo chiều nghiệp lực. “Nếu Tỳ-kheo giữ gìn các căn, ăn uống chừng mực; đầu đêm, cuối đêm, tỉnh thức tinh tấn, quán sát pháp lành; với Tỳ-kheo ấy, sự yêu thích pháp phân biệt, ưa tu phạm hạnh, xa lìa mọi sự ngủ nghỉ, tâm không nghi ngờ Pháp, điều này có thể xảy ra”.

Lời Đức Phật dạy (trong phần cuối của bản kinh trích ở trên) “Hãy đến dưới bóng cây, hoặc chỗ đất trống, hoặc trong hang núi, trải cỏ làm chỗ ngồi, khéo tư duy chánh niệm, tu tập không buông lung, chớ để tâm hối hận về sau này” chính là chìa khóa cho sự nghiêm thân, tấn đạo.

Quảng Tánh
Reply
Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya
Chương VI - Sáu Pháp

VII. Ðại Phẩm

(I) (61) Xấu Hổ


Roll down từ từ sẽ thấy ...

-----------------
(VI) (66) Vị Tỷ Kheo Phải Kính Trọng Ai?

1. Rồi Tôn giả Sàriputta, trong khi sống một mình, Thiền tịnh, tâm tư suy nghĩ như sau khởi lên: "Vị Tỷ-kheo cung kính tôn trọng, sống nương tựa ai để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập thiện?" Rồi Tôn giả Sàriputta suy nghĩ như sau: "Tỷ-kheo cung kính tôn trọng, sống nương tựa Ðạo Sư để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập thiện. Tỷ-kheo cung kính tôn trọng, sống nương tựa Pháp... chúng Tăng... Học pháp... Ðịnh... không phóng dật... Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, sống nương tựa tiếp đón thân tình để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập thiện". Rồi Tôn giả Sàriputta lại suy nghĩ như sau: "Những pháp này trong ta đã được thanh tịnh trong sáng. Vậy ta hãy đi đến Thế Tôn và báo cho Thế Tôn rõ những pháp này, như vậy các pháp này sẽ được thanh tịnh trong ta và được xem là trong sạch hơn nữa. Ví như một người tìm được một đồng tiền vàng lớn, thanh tịnh trong sáng. Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta hãy đi đến người thợ vàng và đưa xem đồng tiền vàng này. Ðồng tiền vàng này được ta đưa cho người thợ vàng như vậy sẽ được thanh tịnh và trong sáng hơn nữa". Cũng vậy, các pháp này ở nơi ta được thanh tịnh, trong sáng. Ta hãy đi đến Thế Tôn và báo cho Thế Tôn rõ những pháp này. Như vậy các pháp này sẽ được thanh tịnh trong ta và được xem là trong sạch hơn nữa". Rồi Tôn giả Sàriputta, vào buổi chiều, từ Thiền tịnh đứng dậy đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn:

2. - Ở đây, bạch Thế Tôn, trong khi con sống một mình Thiền tịnh, tâm tư suy nghĩ như sau khởi lên nơi con: "Tỷ-kheo cung kính tôn trọng, sống nương tựa ai để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập thiện?" Rồi bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau: "Tỷ-kheo cung kính tôn trọng, sống nương tựa Ðạo Sư để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập thiện. Tỷ-kheo cung kính tôn trọng, sống nương tựa Pháp... chúng Tăng... Học pháp... Ðịnh... không phóng dật... tiếp đón thân tình để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập thiện".. Rồi bạch Thế Tôn, con lại suy nghĩ như sau: "Những pháp này trong ta đã được thanh tịnh trong sáng. Vậy ta hãy đi đến Thế Tôn và báo cho Thế Tôn rõ những pháp này, như vậy các pháp này sẽ được thanh tịnh trong ta và được xem là trong sạch hơn nữa. Ví như một người tìm được một đồng tiền vàng lớn, thanh tịnh trong sáng. Người ấy suy nghĩ như sau: "Ta hãy đi đến người thợ vàng và đưa xem đồng tiền vàng này. Ðồng tiền vàng này được ta đưa cho người thợ vàng như vậy sẽ được thanh tịnh và trong sáng hơn nữa". Cũng vậy, các pháp này ở nơi ta được thanh tịnh, trong sáng. Ta hãy đi đến Thế Tôn và báo cho Thế Tôn rõ những pháp này. Như vậy các pháp này sẽ được thanh tịnh trong ta và được xem là trong sạch hơn nữa".

- Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Này Sàriputta, Tỷ-kheo cung kính tôn trọng, sống nương tựa Ðạo Sư, có thể từ bỏ bất thiện, tu tập thiện. Này Sàriputta, Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, sống nương tựa Pháp... chúng Tăng... Học pháp... Ðịnh... không phóng dật...Này Sariputta, Tỷ-kheo cung kính, tôn trọng, sống nương tựa tiếp đón thân tình để có thể từ bỏ bất thiện, tu tập thiện.

Khi được nói vậy, Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn:

3. - Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như sau: Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, sẽ cung kính Pháp, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, vị ấy cũng không cung kính Pháp. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp sẽ cung kính chúng Tăng, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, vị ấy cũng không cung kính chúng Tăng. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, sẽ cung kính Học pháp, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, vị ấy cũng không cung kính học pháp. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, sẽ cung kính Thiền định. Sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, vị ấy cũng không cung kính Thiền định. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, không cung kính Thiền định, sẽ cung kính không phóng dật, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, không cung kính Thiền định, vị ấy cũng không cung kính không phóng dật. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, không cung kính Thiền định, không cung kính không phóng dật, sẽ cung kính tiếp đón thân tình, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, không cung kính Thiền định, không cung kính không phóng dật, vị ấy cũng không cung kính tiếp đón thân tình.

Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, sẽ không cung kính Pháp, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, vị ấy cũng cung kính Pháp. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp sẽ không cung kính chúng Tăng, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, vị ấy cũng cung kính chúng Tăng. Bạch Thế Tôn, chắc chắn vị Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, sẽ không cung kính Học pháp, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, vị ấy cũng cung kính học pháp. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, sẽ không cung kính Thiền định, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, vị ấy cũng cung kính Thiền định. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, cung kính Thiền định, sẽ không cung kính không phóng dật, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, cung kính Thiền định, vị ấy cũng cung kính không phóng dật. Bạch Thế Tôn, chắc chắn Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, cung kính Thiền định, cung kính không phóng dật, sẽ không cung kính tiếp đón thân tình, sự kiện này không xảy ra. Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, cung kính Thiền định, cung kính không phóng dật, vị ấy cũng cung kính tiếp đón thân tình. Bạch Thế Tôn, với lời vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

4. - Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Lành thay, này Sàriputta, với lời nói vắn tắt này của Ta, Thầy đã hiểu một cách rộng rãi như vậy. Này Sàriputta, thật vậy, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, sẽ cung kính Pháp, sự kiện này không xảy ra. Này Sàriputta, Tỷ-kheo nào không cung kính bậc Ðạo Sư, vị ấy cũng không cung kính Pháp... Này Sàriputta, vị Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư... không cung kính Pháp... không cung kính chúng Tăng... không cung kính Học pháp... không cung kính Thiền định... . không cung kính không phóng dật, sẽ cung kính tiếp đón thân tình, sự kiện này không xảy ra. Này Sàriputta, Tỷ-kheo nào không cung kính Ðạo Sư, không cung kính Pháp, không cung kính chúng Tăng, không cung kính Học pháp, không cung kính Thiền định, không cung kính, không cung kính không phóng dật, vị ấy cũng không cung kính tiếp đón thân tình.

Này Sàriputta, chắc chắn Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo sư, sẽ không cung kính Pháp, sự kiện này không xảy ra. Này Sàriputta, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, vị ấy cũng cung kính Pháp... Này Sàriputta, vị Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư... cung kính Pháp... cung kính chúng Tăng... cung kính Học pháp... cung kính Thiền định... cung kính không phóng dật, sẽ không cung kính tiếp đón thân tình, sự kiện này không xảy ra. Này Sàriputta, Tỷ-kheo nào cung kính Ðạo Sư, cung kính Pháp, cung kính chúng Tăng, cung kính Học pháp, cung kính Thiền định, cung kính không phóng dật, vị ấy cũng cung kính tiếp đón thân tình. Này Sàriputta, lời nói vắn tắt này của Ta, ý nghĩa cần phải được thấy một cách rộng rãi như vậy.
Reply
Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya

Chương VI - Sáu Pháp

VI. Ðại Phẩm

(I) (55) Sona



Roll down từ từ sẽ thấy ...


-----------------
VII. Phẩm Chư Thiên

(I) (65) Vị Bất Lai

1. - Do không đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng được quả Bất lai. Thế nào là sáu?

2. Bất tín, không tàm, không quý, biếng nhác, thất niệm, ác tuệ. Do không đoạn tận sáu pháp này, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng được quả Bất lai.

3. Do đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, có thể chứng được quả Bất lai. Thế nào là sáu?

4. Bất tín, không tàm, không quý, biếng nhác, thất niệm, ác tuệ. Này các Tỷ-kheo, do đoạn tận sáu pháp này, có thể chứng được quả Bất lai.


(II) (66) A-La-Hán

1. - Do không đoạn tận sáu pháp, này Tỷ-kheo, không có thể chứng được quả A-la-hán. Thế nào là sáu?

2. Hôn trầm, thụy miên, trạo cử, hối quá, bất tín, phóng dật. Này các Tỷ-kheo, do không đoạn tận sáu pháp này, không có thể chứng được quả A-la-hán.

3. Do đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, có thể chứng được quả A-la-hán. Thế nào là sáu?

4. Hôn trầm, thụy miên, trạo cử, hối quá, bất tín, phóng dật. Này các Tỷ-kheo, do đoạn tận sáu pháp này, có thể chứng quả A-la-hán.


(III) (67) Những Người Bạn

1. - Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy là ác thân hữu, ác bằng hữu, ác bạn bè, thân cận, hầu hạ, tôn kính ác thân hữu, chấp nhận tà kiến của họ, sẽ làm cho viên mãn hành trì pháp, sự kiện này không xảy ra. Không viên mãn hành trì pháp, sẽ có thể làm cho viên mãn hữu học pháp, sự kiện này không xảy ra. Không viên mãn hữu học pháp, sẽ viên mãn các giới luật, sự kiện này không xảy ra. Không viên mãn các giới luật, sẽ từ bỏ dục tham, sắc tham, hay vô sắc tham, sự kiện này không xảy ra

2. Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy là thiện thân hữu, thiện bằng hữu, thiện bạn bè, thân cận, hầu hạ, tôn kính thiện thân hữu, chấp nhận chánh kiến của họ, sẽ làm cho viên mãn hành trì pháp, sự kiện này có thể xảy ra. Sau khi viên mãn hành trì pháp, sẽ có thể làm cho viên mãn hữu học pháp, sự kiện này có thể xảy ra. Sau khi làm cho viên mãn hữu học pháp, sẽ làm cho viên mãn các giới luật, sự kiện này có xảy ra. Sau khi làm cho viên mãn các giới luật sẽ từ bỏ dục tham, sắc tham, hay vô sắc tham, sự kiện này có xảy ra.


(IV) (68) Hội Chúng


1. - Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy ưa thích hội chúng, vui thích hội chúng, chuyên tâm ưa thích hội chúng, ưa thích đồ chúng, vui thích đồ chúng, chuyên tâm ưa thích đồ chúng, vui thích đồ chúng sẽ hoan hỷ sống một mình, sống viễn ly, sự kiện này không xảy ra. Không hoan hỷ sống một mình, sống viễn ly, vị ấy sẽ nắm giữ tướng của tâm, sự kiện này không xảy ra. Không nắm giữ tướng của tâm, sẽ làm cho viên mãn chánh kiến, sự kiện này không xảy ra. Không làm cho viên mãn chánh kiến, sẽ làm cho viên mãn chánh định, sự kiện này không xảy ra. Không làm cho viên mãn chánh định, sẽ từ bỏ các kiết sử, sự kiện này không xảy ra. Không từ bỏ các kiết sử, sẽ chứng ngộ Niết-bàn, sự kiện này không xảy ra.

2. Thật vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy không ưa thích hội chúng, không vui thích hội chúng, không chuyên tâm ưa thích hội chúng, không ưa thích đồ chúng, không vui thích đồ chúng, không chuyên tâm ưa thích đồ chúng, không vui thích đồ chúng, không chuyên tâm ưa thích đồ chúng, sẽ hoan hỷ sống một mình, sống viễn ly, sự kiện này có xảy ra. Hoan hỷ sống một mình, sống viễn ly, vị ấy sẽ nắm giữ tướng của tâm, sự kiện này có xảy ra. Nắm giữ tướng của tâm, sẽ làm cho viên mãn chánh kiến, sự kiện này có xảy ra. Làm cho viên mãn chánh kiến, sẽ làm cho viên mãn chánh định, sự kiện này có xảy ra. Làm cho viên mãn chánh định, sẽ từ bỏ các kiết sử, sự kiện này có xảy ra. Từ bỏ các kiết sử, sẽ chứng ngộ Niết-bàn, sự kiện này có xảy ra.

(V) (69) Vị Thiên Nhân

1. Bấy giờ có một Thiên nhân, sau đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn:

- Có sáu pháp này, bạch Thế Tôn, dắt dẫn vị Tỷ-kheo đi đến không thối đọa. Thế nào là sáu? Tôn kính Ðạo Sư, tôn kính Pháp, tôn kính Tăng, tôn kính học pháp, tôn kính thiện ngôn, tôn kính thiện bằng hữu. Sáu pháp này, bạch Thế Tôn, dắt dẫn vị Tỷ-kheo đi đến không thối đọa.

Thiên nhân ấy nói như vậy, bậc Ðạo Sư chấp nhận. thiên nhân ấy, với ý nghĩ: "Bậc Ðạo Sư đã chấp nhận ta", đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi biến mất tại chỗ.

2. Rồi Thế Tôn sau khi đêm ấy đã mãn, gọi các Tỷ-kheo và nói:

- Này các Tỷ-kheo, đêm nay có một Thiên nhân, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta, sau khi đến, đảnh lễ Ta, rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên nhân ấy bạch với Ta: "Có sáu pháp này, bạch Thế Tôn, dắt dẫn vị Tỷ-kheo đi đến không thối đọa. Thế nào là sáu? Tôn kính bậc Ðạo Sư, tôn kính Pháp, tôn kính Tăng, tôn kính học pháp, tôn kính thiện ngôn, tôn kính thiện bằng hữu. Sáu pháp này, bạch Thế Tôn, dắt dẫn Tỷ-kheo đi đến không thối đọa". Này các Tỷ-kheo, vị Thiên nhân ấy nói như vậy, nói như vậy xong, đảnh lễ Ta, thân bên hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.

3. Ðược nói như vậy, Tôn giả Sàriputta đảnh lễ Thế Tôn và thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vầy: Ở đây, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo tự mình tôn kính bậc Ðạo sư và nói lời tán thán sự tôn kính bậc Ðạo Sư. Ðối với các Tỷ-kheo khác không tôn kính bậc Ðạo Sư, họ được khích lệ trong sự tôn kính bậc Ðạo Sư. Và đối với các Tỷ-kheo khác có tôn kính bậc Ðạo Sư, vị ấy nói lên lời tán thán với họ, như chân, như thật, đúng thời. Tự mình tôn kính Pháp... tự mình tôn kính thiện ngôn... tự mình tôn kính thiện bằng hữu và nói lời tán thán sự tôn kính thiện bằng hữu. Ðối với các Tỷ-kheo khác không tôn kính thiện bằng hữu, họ được khích lệ trong sự tôn kính thiện bằng hữu, vị ấy nói lên lời tán thán với họ, như chân, như thật, đúng thời. Bạch Thế Tôn, lời nói vắn tắt này của Thế Tôn, con hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi như vậy.

- Lành thay, lành thay, này Sàriputta! Lành thay này Sàriputta, Thầy đã hiểu lời nói vắn tắt này của Ta một cách rộng rãi như vậy. Ở đây, này Sàriputta, Tỷ-kheo tự mình tôn kính bậc Ðạo Sư, và nói lời tán thán sự tôn kính bậc Ðạo Sư.

Ðối với các vị Tỷ-kheo khác không tôn kính bậc Ðạo Sư, họ được khích lệ trong sự tôn kính bậc Ðạo Sư. Và đối với các vị Tỷ-kheo khác có tôn kính bậc Ðạo Sư, vị ấy nói lên lời tán thán với họ như chân, như thật, đúng thời. Tự mình tôn kính Pháp... tự mình tôn kính Tăng... tự mình tôn kính học pháp... tự mình tôn kính thiện ngôn... tự mình tôn kính thiện bằng hữu và nói lời tán thán sự tôn kính thiện bằng hữu. Ðối với các Tỷ-kheo khác không tôn kính thiện bằng hữu, họ được khích lệ trong sự tôn kính thiện bằng hữu. Và đối với các Tỷ-kheo khác có tôn kính bằng hữu, vị ấy nói lên lời tán thán với họ như chân, như thật, đúng thời. Này Sàriputta lời nói vắn tắt này của Ta cần phải hiểu ý nghĩa một cách rộng rãi.
Reply
Lightbulb 
Sư Toại Khanh bổ túc bài giảng Kinh Sư Tử Hống (Tăng Chi Bộ Kinh # 64) và giảng Kinh A-La-Hán ( Tăng Chi Bộ Kinh # 66)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/Youtube%202019/20190605.KTC.6.65%20V%E1%BB%8B%20B%E1%BA%A5t%20Lai


(Bổ túc Kinh # 64)
KTC Sư Tử Hống

Quote:Kalama xin tri ân bạn elteetee ghi chép bài giảng
15/09/2019 - 08:07 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]


Sinh Tử vs. Sinh Diệt:

Thưa quí vị, hôm trước cái đuôi bài kinh Sư Tử Hống nó có một cái chuyện tôi muốn nói mà tôi quên mất tiêu, nếu quí vị mà tin mắt thấy cái lúc tôi giảng gần hết mà tôi có chút gì đó hơi chần chừ, hơi do dự tôi muốn nói một chuyện mà tôi quên mất tiêu hỏng biết chuyện đó là chuyện gì. Bửa nay bắt buộc mình phải quay lại chuyện đó, quay lại hai đoạn số 12 và 14 của kinh Sư Tử Hống, lưu ý chữ sự sanh diệt của chúng sanh. Thưa với bà con, đây là một sự nhầm lẫn, xin phân biệt hai từ sinh diệt và sinh tử.

Sinh tử ở đây là cutūpapāta.

Sinh diệt có nhiều chữ phổ biến lắm nhưng ở đây là udayabhaya.

Sinh tử là nói trên hiện tượng, là sự biến mất của hình hài, thân phận hay là cái kiếp số. Còn sinh diệt là nói trên khía cạnh bản chất, nói đến sự xuất hiện và biến mất của từng đơn vị pháp giới nhỏ nhất là sát na. Sinh tử là nói trên phương diện vĩ mô. Còn sinh diệt là nói trên phương diện micro, là vi mô.

Viết lại dùm tôi, xin phân biệt hai cái từ sinh diệt và sinh tử. Ở đây là một sự nhầm lẫn, cái trí sanh tử minh ở đây là nói về cái sự sống chết, sinh tử trong mỗi kiếp sống. Còn sinh diệt là trong mỗi sát na, mỗi khoảnh khắc. Trong room có hiểu được không ta?

Thí dụ như trong Tiếng Việt có chữ thay thế hay dẹp bỏ thì mình có thể dùng trong tình huống bình thường nhất, mình dùng trong tình huống nào cũng được, thí dụ trong một ngăn kéo có những cái món mà mình phải đem dẹp, mình bỏ; hoặc là thay thế ở trong cái radio nó có chỗ nào hư, trong cái đồng hồ reo nó có chỗ nào nhỏ nhỏ nó hư đi mình mới đem mình thay thế. Như vậy dẹp bỏ hay thay thế là cái từ mà mình có thể dùng trong mọi tình huống lớn, bé đều được; riêng cái chữ lật đổ và đảo chánh thì không được. Cái chữ lật đổ và đảo chánh mình phải nói đến một sự cố sự kiện mang cái tầm vĩ mô. Trong room có nghe kịp không ta? Lật đổ và đảo chánh thì nó cũng là dẹp bỏ, cũng là thay thế thôi chớ hỏng có gì hết, nhưng mà nó đòi hỏi phải có một hoàn cảnh mà mang cái tính sự cố, sự kiện. Còn cái chữ dẹp bỏ hay thay thế tuy cái nghĩa nó cũng từa tựa như đảo chánh hay lật đổ nhưng nó đòi hỏi một cái bối cảnh đặc biệt.

Ở đây cũng vậy, sinh tử là nói đến cái trường hợp biến mất của một hình hài, của một thân phận, của một kiếp số chúng sinh. Thí dụ như từ một con chó nó chết nó sanh làm con khác hoặc là nó chết nó sanh lại một con chó khác, hoặc làm một con thú khác, được sanh làm trời, làm người, thì trường hợp đó gọi là sanh tử.

Còn sanh diệt thì nó không có lớn chuyện như vậy, nó là những gì xảy ra trong tích tắc, trong từng khoảnh khắc, trong từng sát na thì gọi là sanh diệt.

Như vậy thì sanh tử trí ở đây không phải là nhớ đến cái chuyện sanh diệt mà nhớ đến sanh tử, nhớ đến cái sự biến mất và hình thành của từng thân phận, của từng hình hài, của từng kiếp số chúng sinh, làm ơn nhớ dùm cái đó, nhớ cái đoạn 12 và 14 của kinh Sư tử hống.

04:53

(Giảng Kinh # 66)
KTC A-La-Hán

Rồi hôm qua chúng ta đã học xong cái kinh 65 Vị Bất Lai. Hôm nay chúng ta học kinh 66 [b]A-La-Hán[/b]. Thưa với bà con một chuyện đó là tôi nói cái chuyện này không biết là bao nhiêu lần rồi, Đức Thế Tôn có vô lượng phương tiện để mà Ngài diễn bày chánh pháp, thí dụ như nói đến con đường giải thoát thì có lúc Ngài chỉ nói đến một chữ thôi đó là "không dễ ngươi", xong.

Không dễ ngươi là sao ta? Không dễ ngươi có nghĩa là không coi thường điều ác nhỏ mà làm, không coi thường điều thiện nhỏ rồi không làm, không coi thường cái chuyện sanh tử dầu sự có mặt tế vi của một vị trời phi tưởng phi phi tưởng hay của một con trùn, con dế, thì hễ mà tái sanh đều là chuyện hết.

Cái không dễ ngươi đây phải hội đủ ba nghĩa,
  1. một là không coi thường điều ác nhỏ rồi làm,
  2. thứ hai là không coi thường điều lành nhỏ rồi không làm,
  3. thứ ba là không coi thường chuyện tái sinh.
Chuyện tái sinh dễ sợ lắm, người mà hành thiền đó, người tu Tứ niệm xứ mà nhớ được ba cái ý nghĩa của cái chữ không dễ ngươi này là họ tu đã luôn.

Mà nó đau một chỗ đó, đi chùa mấy chục năm nghe cái gì mình hỏng biết mà mấy cái này hỏng được nghe,
  1. cái chỗ định nghĩa về 4 đế hỏng được nghe, cứ nghe phớt phớt không hà,
  2. rồi định nghĩa về cái chữ không dễ duôi, không dễ ngươi cũng không được nghe.
Chỉ cần các vị nhớ dùm tôi cái chuyện này: Không dễ ngươi có nghĩa là không chê điều ác nhỏ rồi làm, không chê điều lành nhỏ rồi không làm, không quan tâm đến cái chuyện sanh tử, luân hồi. Thì ba cái này cộng lại gọi là không dễ ngươi.

Không chê điều ác nhỏ mà làm thì quí vị hiểu rồi, không có điều ác nào mà nhỏ hết tại mình tưởng tượng thôi chớ không có ác nào nhỏ hết, thí dụ đập con ruồi, đập con muỗi, mình thấy nó nhỏ, nhưng mà các vị tưởng tượng con voi nó nhìn mình bao lớn? Rồi các vị tưởng tượng một cái đoạn núi nó bị sạt lở mấy trăm tấn, mấy ngàn tấn so với cái ký lô của mình là có mấy chục ký, trong khi cái chuyện sạt núi, lở núi nó là hiện tượng thiên nhiên hoành tráng, qui mô mấy ngàn, mấy trăm tấn, còn chúng ta có mấy chục ký; như vậy thì tôi có thể nói cái chết của các vị là không đáng kể có chịu không? Tôi nghe nói bị sạt lở ở đâu bị chết, tôi nói "Ôi, một bên là mấy ngàn tấn đá đất, còn một bên có cái mạng mấy chục ký làm cái gì dữ vậy". Các vị có chịu nổi không? Các vị nghĩ các vị có chịu nổi không? Hoặc là bây giờ có người nào nó đè quí vị ra nó chặt một lóng tay đó thì tôi hỏi các vị chuyện đó chuyện lớn hay chuyện nhỏ? Mấy chục ký lô mà mất có lóng tay làm gì dữ vậy? Đâu có bao nhiêu. Tôi móc con mắt ra vụt, một con mắt vậy đâu có gì đâu, quí vị là cái gì trong trời đất này hả? Móc con mắt vụt, tôi thấy chuyện đó bình thường có gì đâu đáng kể, và nếu mà tôi nói như vậy các vị có chịu nổi không? Tôi nói "Ôi, con mắt của các vị đâu có đáng kể gì đâu?". Điều đó cho thấy rằng điều ác hay điều thiện cái qui mô nó khó nói lắm, mình đừng có nói cái đó nó nhỏ hay lớn, vấn đề là cái tâm của anh đó khi thực hiện việc ác, việc lành nó ra sao, chớ anh đừng có nói với tôi là việc nào lớn. Vì không có việc gì lớn, việc gì nhỏ chỉ có tâm của anh nó như thế nào, cái đó mới quan trọng nha, nhớ cái chỗ đó.

Cho nên cái không dễ ngươi là vậy đó, thấy cái chuyện gì cũng đáng để mình lưu tâm hết, nhớ cái đó, quan trọng lắm. Các vị đừng có nói với tôi là một muỗng cơm mà để bát không có nghĩa lý, sai bét. Ai nói một muỗng cơm không quan trọng? Có ai đi Miến Điện chưa? Người Miến Điện họ cúng cái gì, họ để bát cái gì? Nó nghèo le lưỡi nó cúng cái gì? Nó cúng có muỗng cơm hà, có muỗng cơm thôi. Mà 100 cái muỗng vậy đó là nó thành được cái bát rồi. Mà hễ đầy rồi là mấy ổng đổ ra cái đồ đựng là mấy ổng đi bát tiếp, mà thêm 100 muỗng nữa là được một bát nữa. Một ông đi đem về hai bát cơm, thì các vị tưởng tượng đi 200 ông sư đem về 400 bát cơm ăn được 500 người, các vị nghĩ chưa, thấy lớn chuyện chưa? Chỉ có một muỗng cơm thôi mà 500 người trong thiền viện ăn le lưỡi, ăn cái bụng lặt lè không hết, các vị nghĩ cái muỗng cơm nó nhỏ hay lớn?

Yah, cho nên đừng có nói cái chuyện mà tôi kêu gọi bà con, mai mốt về Miến Điện nghèo quá cứ mỗi ngày móc ra mấy chục ngàn Việt Nam, hoặc nói theo tiền Mỹ móc ra chừng đồng bạc thôi nha, chị em, anh em, cư sĩ, hành giả cứ mỗi người móc ra đồng bạc liệng ra đó nấu cho nồi cơm. Đó! Rồi mấy chư tăng, hành giả đi ngang mình làm cho mỗi vị một muỗng thôi, thì mình tưởng tượng ra mỗi ông một muỗng, mà mấy ổng đi hai bát là coi như là 200 ông là nuôi được 500 người, vì một bát cơm như vậy ăn hơn hai người. Một bát vậy ăn hơn hai người, 400 bát cơm là ăn được 500 người cái chuyện đó là chuyện đương nhiên dễ hiểu thôi. Các vị có ngờ được bữa ăn của 500 người ấy nếu qui ra tiền Mỹ, tiền Euro, tiền Úc nó lớn đến bao nhiêu. Nhưng mà các vị đâu có biết những cái đó ở Châu Á phật tử Miến Điện nghèo xơ xác họ vẫn làm được.

Cho nên cái chữ không dễ ngươi là gì? Là không thấy cái gì là nhỏ hết, nha. Một việc thiện mà được làm bằng cái tấm lòng, một cái tâm lớn thì là đại nghiệp, là trọng nghiệp. Một cái việc mà mình thấy nó nhỏ nhỏ nhưng mà mình làm với cái tâm cùng hung cực ác thì cái quả vẫn là trọng nghiệp, là đại nghiệp nha.

10:26
16/09/2019 - 08:17 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Các vị biết cái tật thích nói xấu người ta, cứ thấy đông đông là bắt đầu xáp vô "Ê, có biết cái vụ bà Tám ở đường Đồng Khởi không, cái bà thí chủ chùa Kỳ Viên đó...", "Ờ, tệ lắm, kỳ rồi tôi đi lễ với bả trên Phước Sơn á, trời ơi, bà đó xài hỏng có được...". Là mình đang gieo nghiệp đó, mình đang gieo đó; rồi bắt đầu cái tên kia ảnh nhào vô ăn ké, đánh hôi, trong room biết chữ đánh hôi không ta? Đánh hôi có nghĩa là thằng kia nó chủ xị nó đánh trước rồi mình nhào vô mình ké hai, ba đạp, vài ba đấm. Đó rồi mình bắt đầu nhào vô mình ké, mà mình tưởng là thằng kia nó đề xướng rồi mình ké mình hỏng có tội, nhưng mà chưa biết à, chưa biết cái tội đứa nào nhiều hơn đứa nào, nha.

Cho nên nhiều khi nói tới chuyện tu hành, Đức Phật chỉ nói một chữ thôi, đó là không dễ ngươi.

Nhưng có chỗ Ngài nói có hai thôi là chỉ và quán, không hề nói tới giới, tại sao? Là bởi vì trường hợp Ngài nói như vậy đương sự họ nghe họ phải hiểu ngầm,
  1. không có giới thì làm gì có hai cái kia, đó là cái thứ nhất;
  2. thứ hai với cái người cầu đạo giải thoát thì cái chuyện giữ giới là chuyện rất là đơn giản.
Cho nên có trường hợp Ngài nói có hai: chỉ và quán thôi, trong Tăng chi chớ không ở đâu hết, ớn cái dân mình đọc sách thì không dám đọc mà cứ nghe ai nói cái gì mà nó khác khác với cái đầu của nó bắt đầu nó chấp, bắt cả họ ra nó chửi đổng vậy đó, nha. Có lúc Ngài nói đạo giải thoát có hai thôi đó: chỉ và quán.

Có lúc Ngài nói ba, đó là tam học giới, định, tuệ̣.

Có lúc Ngài nói có bốn thôi là lộ trình bốn đế, có, cái đó có à, bốn Ngài nói nhiều lắm, Ngài nói tứ chánh cần, có lúc Ngài nói là bốn niệm xứ, có lúc Ngài nói bốn như ý túc, có lúc Ngài nói lộ trình tứ diệu đế đó là tu. Tại sao ta? Hiểu được cái khổ, trừ được cái tập, chứng được cái diệt và hành được cái đạo. Thôi bây giờ cái diệt nó xa quá thôi bây giờ mình làm ba cái thôi, đó là khổ, tập và đạo; nhưng mà thôi cái đạo cũng xa quá thôi dẹp luôn, chỉ còn khổ và tập thôi. Anh làm ơn mà anh đi, đứng mà anh sống chánh niệm dùm tôi, để anh thấy lúc nào có thích, có đam mê là tập, ngoài cái thích, cái đam mê ra là anh khổ hết, anh cứ quán khổ đế cho tôi hết: khổ đế, khổ đế, khổ đế.

Cứ là anh thấy thích: đây là tập đế. Lúc nào không có tập là anh cứ phang cho tôi là: khổ đế đang có mặt, khổ đế đang có mặt. Xong rồi đi tiếp, đi biết là đi, anh ngồi biết là ngồi, muốn ngồi biết là muốn ngồi, ngồi xuống biết là ngồi xuống, muốn nằm biết là muốn nằm, nằm xuống biết là nằm xuống. Rồi bắt đầu theo dõi hơi thở trở lại: ra vô, ra vô.

Đang theo dõi như vậy mà có một cái thích thú nào xuất hiện biết đây là tập đế, nguồn của khổ. Mà hễ cơn đau hay bất cứ cái gì ngoài ra cái tâm tham thì quán chiếu đây là khổ đế, nha.

Vậy đó, đó cũng là tu. Chỉ, quán là chỗ đó. Rồi giới định tuệ.

Rồi bây giờ qua tới lộ trình bốn đế, nãy mới vừa giảng xong, lộ trình bốn đế là vậy.

13:19
17/09/2019 - 03:25 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Rồi thứ năm, có lúc Ngài kể có năm là 5 quyền, 5 lực, 5 căn đó.

Rồi có lúc Ngài nói sáu, nghĩa là thu thúc 6 căn.

Có lúc Ngài nói bảy, đó là Thất giác chi.

Tám là bát chánh đạo. Đại khái như vậy.

Thì cứ bao nhiêu đó thôi, tùy cái chỗ mà Ngài giải thích. Đó là nói pháp tu.

Bây giờ nói qua cái phiền não. Phiền não Ngài cũng có nhiều cách kể. Phiền não có một chỗ Ngài kể là sự dễ duôi, xong. Phiền não Ngài kể một cái hà: dễ duôi, xong. Dễ duôi là sao? Dễ duôi tức là dễ ngươi, là coi thường điều thiện nhỏ rồi không làm, coi thường điều ác nhỏ rồi làm, không màng chuyện tái sanh luân hồi thì ba cái này cộng lại gọi là dễ duôi, dễ ngươi, nha.

Có lúc phiền não Ngài kể có hai thôi, đó là đam mê trong thân, đam mê trong tâm; đam mê trong danh, đam mê trong sắc; hoặc là Ngài kể vô minh, tham ái, xong. Rất nhiều chỗ Ngài kể có hai thôi: vô minh, tham ái. Hoặc là Ngài kể tham và ưu. Ở đây có nhiều người thế nào cũng có người nói "Ủa kinh nào vậy ta, kinh nào phiền não kể hai?". Dạ thưa, kinh Tứ niệm xứ: "Ở đây vị tỳ kheo tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm quán thân trên thân diệt trừ tham ưu ở đời". Có đúng không, phiền não ở đây Ngài kể có hai phải không ta? Trong kinh Tứ niệm xứ chớ không phải là tôi, không phải là tôi chế, khổ quá, trong kinh ghi đó "diệt trừ tham ưu ở đời", tham ưu là gì? Là thích ghét. Tham là thích thú, đam mê; còn ưu là bất mãn, trốn chạy, tống khứ. Đó! gom gọn có bao nhiêu đó thôi, nha.

Còn có khi thì kể thành ba, đó là tham, sân, si.

Có khi kể thành bốn: tứ phược, tứ phối, tứ lậu, tứ bộc, tứ kết.

Rồi có lúc Ngài kể thành năm là 5 triền cái. Nhiều người học A tỳ đàm ba mớ, học giáo lý ba mớ họ cứ tưởng là chắc 5 triền cái là 5 cái trở ngại của thiền. Dạ thưa, khi nào nói đến khía cạnh thiền định thì nó là 5 cái trở ngại, đúng; nhưng mà bản thân 5 cái ông đó là toàn bộ phiền não không hề sai. Muốn đắc thiền thì anh phải tối thiểu trấn áp, đè nén, giải quyết tạm thời 5 cái anh đó anh mới đắc thiền được.

Năm cái triền cái đó tức là dục tham là bất mãn trong dục; sân tâm là bất mãn trong 5 dục; hôn thụy tức là buồn ngủ, lười biếng; trạo hối là ăn năn, ray rứt, phóng dật; hoài nghi là hoang mang, nghi hoặc. Năm cái này rất nhiều người họ nghe tôi giảng họ nói "Ủa, tưởng 5 cái đó là trở ngại cho thiền định." Nó là trở ngại cho thiền định nhưng mà nó cũng là đại diện cho tất cả phiền não, vì sao? Vì trong đó có cái gì ta? Trong đó có những thứ phiền não mà phải lên tới A na hàm mới trừ được, đó là dục ái và sân. Và phải là A la hán mới dứt được, đó chính là hôn thụy. Phải nhớ cái đó. Cho nên khi mà 5 triền cái cũng là một cách kể phiền não.

Phiền não kể có 6 là gì? Đó chính là phiền não xuất hiện khi 6 căn làm việc với 6 trần.

Còn phiền não kể có 7 là gì? Đó là 7 cái tiềm miên, đại khái như vậy.

Còn phiền não kể có 8 là gì? Đó chính là cái sự buông lung quên mình chạy theo 8 ngọn gió đời, thì trong room có lẽ các vị chưa nghe phiền não có 8. Rồi bây giờ các vị nghe định nghĩa như vậy các vị nói "Ủa phải không ta?". Khi mà các vị hoang mang như vậy, điều đó có nghĩa là các vị chẳng biết gì về bát phong hết, tức là tám ngọn gió đời. Là gì ta?

Khổ, lạc: gặp khổ thì sân, gặp sướng thì tham

Được khen thì tham, bị chê thì sân

Mất mát, thất bại thì sân; thành tựu, có được cái này cái kia là tham.

Như vậy khổ, lạc, khen, chê, được danh, mất danh, được lợi, mất lợi tổng cộng là 8. Phiền não mình kể tham, sân, si cũng được; kể có 8 cũng được, có nghĩa là cái trạng thái tâm của mình mà nó bệnh hoạn trước 8 ngọn gió đời, nó tiêu cực trước 8 ngọn bát phong đó thì được gọi là phiền não. Các vị nghĩ coi có phiền não nào ngoài 8 cái này không? Không có. Cứ quẩn quanh, quẩn quanh được thiền thích trong thiền, được dục thích trong dục, được khen thích trong khen, bị chê khổ trong chê; hạnh phúc khi được danh, được lợi; đau khổ khi mất danh, mất lợi.

Như vậy thì tôi đánh một cái vòng rất là rộng để cho bà con thấy rằng "Ồ! Tại sao ở đây bài kinh này phiền não được Đức Phật kể có 6" là vậy đó nha. Tùy trường hợp cái đối tượng trước mặt là ai, quá khứ nhiều đời nó đã học cái gì, nó đã tu cái gì và nó tâm đắc cái gì. Cái đó mới là cái khó nha. Ngài biết rõ là cái tên này nè, nó đã tu cái gì, nó đã học cái gì, và nó đã tâm đắc cái gì. Và Ngài biết rõ khuynh hướng tâm lý của cái tay này là gì? Trong các phiền não, anh nặng nhất phiền não nào và các thiện pháp, anh chuyên về thiện pháp nào. Ngài thấy rõ những khía cạnh này ở cái đối tượng đột xuất, thế là Ngài thuyết pháp Ngài nói một câu là nó trúng tới óc luôn, chớ hỏng có màn mà cà rờ cà rờ cà mò cà rà là hỏng có. Ngài thấy hết, Ngài phán ra một cái bảo đảm y như là tiểu lý phi đao. Rồi các vị nghe chưa, bây giờ mình học nè.

19:03

"Do không đoạn tận sáu pháp này, một người không thể nào chứng La hán: hôn trầm, thụy miên, trạo cử, hối quá, bất tín, phóng dật."

1/ Hôn trầm và 2/ Thuỵ miên

Hôn trầm là gì ta? Hôn trầm, thụy miên gom chung. Hôn trầm là lười biếng, thụy miên là buồn ngủ. Hôn trầm, thụy miên là một cặp. Bỏn xẻn, ganh tỵ là một cặp. Dục ái và sân là một cặp.

Dục ái là đam mê trong 5 trần vật chất, tức là sắc thinh khí vị xúc. Còn sân có nghĩa là bất mãn trong 5 trần vật chất. Thì hôn thụy là một cặp. Ganh tỵ và bỏn xẻn là một cặp. Buồn vui là một cặp. Hỷ ưu là một cặp. Khổ lạc là một cặp. Sanh với diệt là một cặp. Thiện ác là một cặp. Nhớ nha. Thì chính vì vậy cho nên cái dễ hiểu nhất ở đây là trong 6 thứ phiền não thì đầu tiên là cái cặp hôn trầm, thụy miên.

Tôi nhắc lại, hôn trầm là nó lười biếng, nó mệt mỏi, nó dã dượi. Còn cái thụy miên là nó buồn ngủ, nó muốn kiếm cái chỗ nó ngã cái lưng để nó an dưỡng. Các vị trong room thế nào cũng có người ngạc nhiên, nhất là có cái đầu khoa học nửa vời, các vị nghe vậy các vị tức lắm, các vị nói "Ủa tôi có cái tấm thân này thì tôi phải có đói, có khát, đúng không? Mà khi tôi đói thì tôi mệt, nếu không có gì trong thời gian dài tôi đói không có gì ăn tôi kiệt sức tôi buồn ngủ, hoặc tôi ăn no quá tôi buồn ngủ, hoặc là trời lạnh mà được đắp mền ấm tôi ngủ, trời nóng mà được mát mẻ tôi ngủ chuyện đó chuyện bình thường, cái đòi hỏi tự nhiên mang tính sinh học của cơ thể này, có gì đâu gọi là phiền não. Dạ thưa, mình hiểu lầm rồi. Vị A la hán có mệt mỏi, vị A La hán có nghỉ ngơi, nhưng mà Ngài nghỉ ngơi thuần túy là cái nhu cầu sinh học, còn mình thì mình kéo theo đó cả cái yếu tố tâm lý. Tin tôi đi, cái làm biếng của mình, cái buồn ngủ của mình nó không chỉ gói gọn ở trong cái nhu cầu sinh học mà nó còn kéo theo đó cả cái vấn đề của tâm lý, cái tâm lý gì ta? Cái tâm thức lý thích an dưỡng, tâm lý không có muốn động tay động chân, tâm lý muốn được nằm yên và nhất là bây giờ có ba cái smart phone, có ipad muốn nằm yên vậy để chat, để lướt web, riết lâu ngày nó quen, nó chây lười, nó ươn, nó nhớt cái lưng, lâu ngày nó quen đi. Sáng vậy, mình biết bửa nay mình hỏng có đi làm cái gì, hỏng có đi đâu làm cái gì mà thức sớm, cứ nằm nướng, nướng cho nó giòn thì thôi, nha. Còn mà thiền thì hồi cao hứng làm cũng dữ lắm, mua sắm tọa cụ rồi trang trí bàn Phật nhìn đã lắm, có, tôi có thấy, rồi sen, rồi lan, đào, cúc, trúc, phần lo kiếm tượng đẹp, một là đi mua cái tủ đồ cổ, hai là đặt thợ special order đặc biệt lắm, trang bị cái phòng ngồi thiền tưởng sao ngồi vài bữa cũng...chuyện đó có rồi, tôi đã gặp rồi. Rồi nghe người ta đi Miến Điện tùm lum hết, cũng khí thế đi theo, qua bển cũng hùn hạp làm phước cuối cùng về mới phát hiện ra là mình chỉ có khả năng tới đó, chỉ có khả năng là đi kiếm mấy ông sư nghèo rồi làm phước, mấy ông sư nhỏ nhỏ đầu ghẻ ốm đói suy dinh dưỡng tội nghiệp, rồi ứa nước mắt chụp hình quay phim đem lên facebook chia xẻ kêu gọi được mấy bửa rồi quên hết. Chớ còn ba cái thiền là đứa nào đứa nấy lạnh xương sống, nổi da gà hết.

Cho nên cái hôn thụy đây là gì? Hôn thụy đây không chỉ đơn giản là cái trạng thái tâm lý muốn an dưỡng, mà nó là một cái tâm trạng buông bỏ cái trách nhiệm đối với bản thân, đối với cuộc sống, đối với con người. Cái hôn thụy nó là cái thứ tâm trạng chỉ thường thấy ở cái người mà không có sức sống, không có lý tưởng; chứ người mà có sức sống, có lý tưởng họ chỉ ngủ khi nào họ kiệt sức, họ ngủ thuần túy là do nhu cầu sinh học, và khi mà nó đủ rồi, họ bật dậy như là một cái lò xo. Các vị để ý coi tôi nói đúng không? Mấy cái người mà họ siêng năng, cần mẫn, chí thú họ tạo dựng sự nghiệp, tôi không nói chuyện trong chùa, tôi nói ngoài đời khi họ chuẩn bị tiền để mua nhà, để lập gia đình, để lo cho con, lo cho ba má là nó chịu cực, chịu khổ hay lắm. Nó không có cái vụ dật dờ, dật dờ là hỏng có, cái dân dật dờ là phải hiểu ngầm
  1. một là nó có vấn đề về sinh học,
  2. hai là nó có vấn đề rất là nặng về tâm lý,
tôi thề như vậy không có lý do thứ ba, tin tôi đi.

Cái dân mà gà mờ, dật dờ vất vưởng giống như con nghiện chưa tới cái cơn đã, chưa tới cái cơn phê vậy đó, nó đang thiếu thuốc, cứ dật dờ vất vưởng vậy đó. Cái tên đó bảo đảm quí vị cái hôn thụy này chỉ có ở hai trường hợp:
  1. một là sinh lý của nó có vấn đề có nghĩa là nó bị bệnh gì đó, tiểu đường ăn no buồn ngủ, thí dụ như vậy.
  2. hai đó là trạng thái tâm lý của cái người bỏ cuộc, không có chí lớn, không có lý tưởng, không có một cái cứu cánh, không có mục đích để hướng tới nó mới nẩy ra cái tình trạng mà gọi là hôn trầm, thụy miên nha.
Đó là một cặp phiền não mà Ngài dạy là không thể nào để nó tồn tại mà chứng thánh được.

24:41
18/09/2019 - 11:26 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Tiếp theo là ... Tại sao mà tách cái này ra?

Quí vị chờ một chút, đây là những khi mà quí vị thấy tôi dừng lại như thế này quí vị không có nên nóng ruột, mà phải vui ở chỗ là mình đang được nghe với tất cả sự cẩn trọng, các vị hiểu không?

Tôi thắc mắc hoài, không biết người ta giảng kinh tạng người ta không có đọc chú giải thì giảng bằng cái gì tôi không hình dung ra được, không có tưởng tượng ra được, các vị hiểu không?...Bữa hổm có người họ đăng mấy cái mục họ cắt mấy cái chỗ mà tôi nói bản dịch của Ngài Minh Châu có vấn đề, không biết họ nghĩ làm sao?

Cái chuyện đó tôi làm bằng thiện chí và tôi chịu trách nhiệm trước bàn dân thiên hạ, trước Tam bảo ba đời mười phương, trước long thần hộ pháp. Nhưng mà khi họ cắt cái đó ra họ đã có ác ý rồi, bởi vì đa phần bà con Phật tử mình lười suy nghĩ, chậm suy tư cứ thấy mà tôi chống báng tiền bối thì coi như quí vị nổi điên lên.

Nó xui một chỗ là tại sao các vị không chịu cầm cuốn kinh lên, các vị vô internet, các vị vô google các vị kiếm, các vị coi người ta nói cái gì.

Có rất là nhiều lần tôi chống tôi nói giảng kinh mà:
  1. không có đọc bản Pali là một,
  2. không có đọc chú giải là hai
thì giảng cái gì?

Quí vị biết không cái gì cái chữ vedanā là thọ, có chỗ dịch là giác, tại cái chữ vedanā từ cái căn (?) là biết. Tại sao tôi đem cái đó ra tôi nói là vì cái bản dịch tiếng Hán nó thay đổi gọi là xoành xoạch, xoành xoạch vậy đó. Ở mỗi một thế hệ từ đời nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, nhà Thanh thời nào cũng có những dịch giả viết sách và dịch sách hết á.

Cho nên ở đây các vị đọc bản Pali trời ơi nó sướng quá luôn, 6 cái pháp trước nhất hôn thụy là một cặp.

3/ Phóng Dật  4/ Trạo Cử  5/ Hối Quá  6/ Bất Tín

3/ Phóng Dật

Tiếp theo là phóng dật, trạo hối, bất tín, dễ ngươi. Bây giờ ác cái chỗ là cái chữ phóng dật ở đây trong bản Hán được dùng chung cho cả hai trường hợp, các vị nghĩ coi có chết người ta không? Một là pamāda, thứ hai là uddhacca, khổ như vậy đó. Mà mình nói cái bản dịch chỗ này có vấn đề thì cả đám nhảy dựng lên như đỉa phải vôi, mà tại sao không hiểu cái chuyện nó có vấn đề, dầu là ông cố nội mình mình cũng phải nhận có vấn đề. Đống phân của ông cố mình thì mình phải nhìn nhận nó là đống phân chớ hỏng thể nào mà mình nói "Không, cái đó của ông cố đó là vàng ngọc, là châu báu, là kim cương của ông cố mình, không được nói là đống phân mà nói là châu báu". Tôi không đồng ý cái đó, của ai đi nữa mà hễ là đống phân thì mình phải gọi đó là đóng phân. Của kẻ thù đi nữa mà đó là chiếc nhẫn kim cương thì mình phải nói đó là nhẫn kim cương. Chớ mình không thể nói là nhẫn kim cương của kẻ thù là đóng phân; mà đống phân của ông cố nội mình là nhẫn kim cương. Thì tôi thấy hình như cái đó nó hơi có vấn đề nha, đó không phải là thái độ khoa học. Đây cũng vậy, thành ra tôi đọc tôi thấy lạ, kỳ vậy ta?

Như vậy 6 phiền não, cặp đầu tiên hôn thụy tôi giải thích rồi. Cái thứ hai là phóng tâm, uddhacca là vikkhepa là không có định, là loạn động. Bởi vì khi bị phóng dật nghĩa là sẽ không có định và do đã không có định nên bây giờ bị phóng tâm nên phóng tâm cũng là một thứ phiền não, bây giờ trong room hiểu chưa ta? Do phóng tâm nên SẼ không có định, do đã không có định nên bây giờ bị phóng tâm. Đây là lý do vì đâu mà phóng tâm cũng là một thứ phiền não, là chỗ đó đó, do hồi nãy mình không có định cho nên mình mới bị phóng tâm. Mà chính vì cái phóng tâm bây giờ nó mới dẫn đến cái chuyện lát nữa mình thiếu định, vì đàng sau cái phóng tâm là không có định nên mình phải dẹp nó mới có được cái định.

Như vậy 6 thứ phiền não này một người mà còn giữ nó lại thì không cách nào mà chứng thánh được. Mới đọc sơ qua mình thấy bài kinh này đâu có gì đâu sâu. Sâu chứ. Cứ nhớ thế này, mỗi lần mình có buồn ngủ, mình lười biếng muốn buông xuôi công việc, mình cứ nhớ "Khi ta sống bằng cái tâm trạng buông xuôi, muốn an dưỡng thì tất cả thiện pháp đều đội nón ra đi". Nhớ nha, nhớ cái câu đầu tiên, bài kinh này nó sâu chỗ đó. Mỗi ngày khi biết ta có ý mà móng, muốn, tâm móng, tâm vọng mà nó muốn nghĩ ngơi, nó muốn buông xuôi gánh nặng tinh tấn, thì hãy nhớ rằng "Khi ta có cái lòng lười biếng, có lòng muốn ngủ nghĩ, muốn an dưỡng thì khi đó tất cả thiện pháp đều đội nón ra đi hết" chớ không phải đơn giản là hôn thụy không đâu, mà nó lớn chuyện như vậy. Khi ta có lòng an dưỡng, nghĩ ngơi, khi ta có lòng lười biếng thì lúc đó tất cả thiện pháp đều đội nón ra đi, có nghĩa là hỏng có đứa nào ở lại với mình hết. Đó là cái thứ nhất.

Cái thứ hai nữa là tại sao anh không có bỏ được cơn làm biếng, không có bỏ được cơn buồn ngủ? Lý do rất là đơn giản bởi vì trong cái đầu của anh, anh không có một lý tưởng nào mà nó đủ sức thôi thúc cái đạo tâm của anh; nó không có một lý tưởng, mục đích, ý nghĩa sống nào nó đủ mạnh để mà nó thúc đẩy cái tâm can, cái cảm xúc của anh hết. Anh nhớ cái đó anh mới khiếp, chớ còn mà mình cứ đi tra tự điển Phật học: hôn trầm thụy miên là trạng thái dã dượi, buồn ngủ, muốn ngủ nghỉ. Yếu quá. Mà phải hiểu sâu như vầy, phải hiểu rằng chính vì mình không có một lý tưởng sống đủ mạnh để mà hướng tới.

Chớ mà hồi nãy tôi nói rồi, ngày xưa đó ở trong nước, trong chùa tôi ở Long Thành có một anh Phật tử, ảnh là một ông sư hoàn tục, ảnh chỉ có một tâm nguyện đơn giản thôi là ảnh đi làm đủ thứ việc lặt vặt để mà ảnh mua, thời đó kinh tế khó khăn lắm. Ảnh đi mua từng cái đùm, sên, căm, líp, vỏ, ruột, sườn, pedal, ghi đông, bọc ba ga, từng món, từng món. Cứ mua một món ảnh mừng lắm, có lúc mua được đồ Pháp, có lúc mua được đồ Nhật, có lúc mua được đồ Ý, sên Ý, đùm Nhật, ghi đông Pháp gì đó. Ảnh lượm được mấy cái đồ tốt tốt vậy đó, giá rẻ, ảnh mua về ảnh chất mà ảnh tinh tấn, ảnh siêng lắm, suốt ngày thấy ảnh đem ra ảnh lau chùi bởi cái mộng ước đời ảnh là gì? Ảnh chỉ mong có được chiếc xe đạp cho thiệt là ngon để đi đường dốc, đi đường xa. Tại thời đó đi xe đò nó khó, đi xe đò cái loại xe than đó, chạy dọc đường cái than nó rớt dưới lộ, thời đó đó. Còn không nó lên nó nhồi nó nhét ngồi chung với mấy bà bán cá, bán khô, bán mắm, trời nó hôi ta nói chết luôn. Không có gì hạnh phúc cho bằng được ngồi xe đạp, nhẹ đạp, đạp phải thêm chữ "nhẹ đạp" đi lên dốc 47, đi về Long Thành, đi ra ngoài Bà Rịa, đi trên một chiếc xe muốn ngừng thì ngừng, muốn chạy thì chạy, xe nhẹ nhàng thanh thản, thậm chí mấy cái xe đạp đó từ Long Thành về Saigon 50 cây số, nếu mà xe đạp ngon thì vận tốc nó là 15 cây số một giờ thì đạp trong vòng 3 tiếng cũng về tới Saigon. Mộng ước ảnh chỉ mong có bấy nhiêu đó thôi. Chỉ vì để có được chiếc xe đạp đó, ảnh lấy nó làm động lực, lấy nó làm sự thúc đẩy, mà ảnh tinh tấn, ảnh siêng năng biết bao nhiêu.

Thì trong đạo Phật, về đạo nghiệp tinh thần cũng như vậy quí vị, nếu mà quí vị không có bị ám ảnh bởi tuổi già, cái chết, cái bệnh, không bị ám ảnh bởi sự sa đọa, bởi sự sanh tử trầm luân thì mình có nhiều cơ hội để mình làm biếng, mình buông xuôi lắm. Trong kinh Đức Phật Ngài gọi cái trường hợp đó là paralokabhayadassāvi là người biết ưu tư khi nghĩ về cái chuyện của đời sau kiếp khác, chớ mình không phải đơn giản là mình cứ sống sung sướng, ăn mặc như ý rồi mình chờ tắt hơi để nó đi đâu thì nó đi. Đó là kiểu sống rất là thiếu trách nhiệm đối với bản thân, quí vị hiểu không? Cho nên riêng cái chữ hôn trầm thụy miên nó lớn chuyện lắm nha.

34:33
19/09/2019 - 01:10 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]


Tiếp theo nữa là phóng dật, hồi nãy tôi có nói là trạng thái không có tập trung tinh thần. Tại sao chúng ta không có khả năng tập trung tinh thần? Có hai lý do, một là do nhiều đời chúng ta không tu tập thiền định, lâu lắm rồi, trước hồi xửa xừa xưa thì có, không có ai chưa từng là phạm thiên, không có ai chưa từng đắc thiền, không có ai chưa từng nhập định; nhưng trường hợp này thì có: lâu quá, quá lâu. Cách đây một ngàn, hai ngàn, ba ngàn, tám ngàn, mười lăm ngàn kiếp mình không có đắc thiền mà mình cũng không có thiết tha; cho nên bây giờ cái tâm định mình nó yếu lắm, từ đó mình bị thường xuyên phóng dật, nhớ nha. Trường hợp thứ nhất là thói quen nhiều đời, nói chung là thói quen nhiều kiếp trở lại đây mình không chuyên tu tập thiền định. Nhưng mà nó cũng có trường hợp thứ hai là do hiện tại nỗ lực không đủ.

Nhớ nha, có hai trường hợp người biết ưu tư khi nghĩ về cái chuyện của đời sau kiếp khác, chớ mình không phải đơn giản là mình cứ sống sung sướng, ăn mặc như ý rồi mình chờ tắt hơi để nó đi đâu thì nó đi. Đó là kiểu sống rất là thiếu trách nhiệm đối với bản thân tạo phóng tâm, một do thiếu túc duyên (túc là xưa) thiền định, hai là do trong hiện tại thiếu nỗ lực, do thiếu lý tưởng sống. Đó! Do hiện tại thiếu nỗ lực, và sợ không hiểu cho nên tôi thêm cái nữa là thiếu lý tưởng sống. Có nghĩa là phải thiết tha. Bây giờ tôi thấy tôi ngồi sao nó lăng xăng quá vậy ta? Mà hỏng được, bằng mọi giá tôi phải ngồi, bởi vì cơ hội làm người rất là khó, cơ hội biết được Phật Pháp rất là khó, cơ hội mà mình có đủ điều kiện tâm sinh lý tài chánh để mà tu tập rất là khó.

Tôi nhắc lại: cơ hội được làm người là rất khó, cơ hội gặp được chánh pháp là rất khó, cơ hội mà có đủ điều kiện tâm sinh lý để mà tu tập cũng rất khó. Nay ta đã có đủ ba điều ấy, mà tại sao cái tâm ta nó lăng xăng như vậy thì rõ ràng là tại vì ta chưa nỗ lực đúng mức. Phải có lý tưởng sống quí vị, phải có lý tưởng sống thì quí vị dẹp được nhiều thứ phiền não lắm, dẹp được nhiều lắm.

Lý tưởng sống đó chính là cái gì ta? Đó chính là dục trưởng hoặc là dục như ý túc và như lý tác ý. Chính cái đó, hai cái dục trưởng và dục như ý túc kể chung là dục (dục cộng với như ý túc), nếu nói theo từ chuyên môn là dục trưởng và thẩm trưởng, tức là cái lòng thiết tha phải lên tới mức cùng cực, cộng với trí tuệ vạch ra đường hướng. Chính dục trưởng và thẩm trưởng nó mới cho phép mình nỗ lực mới có cái cần trưởng, mới có được cái gọi là tâm trưởng, tâm như ý túc. Nhớ nha. Trước khi làm cái gì phải có như lý tác ý cái đó quan trọng lắm, phải khéo tác ý, phải biết suy tư bằng trí tuệ, nhớ há.

Khi mà không có mấy cái này, khi không có dục như ý túc thì coi như mình không có tài nào mà làm được cái gì hết, lòng nó hỏng có thiết tha. Mà nó xui ở chỗ nếu có lòng thiết tha mà thiếu trí tuệ thì nó sẽ thiết tha trong cái chuyện tầm bậy, biết hôn? Có rất là nhiều người bỏ ra mấy chục năm theo đuổi một cái pháp môn tu hành không ra gì hết, rất là vô lý, rất là nông cạn, rất là thiển cận, rất là mù quáng, rất là cuồng tín, một pháp môn mà không có nội dung và chỉ vì họ thiếu trí, họ chỉ có niềm tin thôi, nha. Cho nên mất mấy chục năm mà gọi là "Tưởng giếng sâu anh nối sợi dây dài. Ai ngờ giếng cạn anh tiếc hoài sợi dây".

Trong cái chuyện nam nữ lứa đôi ngoài đời, theo đuổi nhầm người là nó đã đau như bò đá rồi, nói chi là trong đạo nghiệp của cõi tinh thần. Mình cứ đem bán rẻ niềm tin của mình, giao phó cho một cái thứ tầm bậy tầm bạ, cha căng chú kiết, ông bia bà bia không ra gì. Rồi một ngày mình bừng con mắt dậy thấy mình tay không. Cho nên phải sống có lý tưởng nhưng lý tưởng ấy phải được chỉ đạo bởi trí tuệ, nha.

Cho nên mình học 6 pháp này, mình đọc phớt qua mình thấy "Ủa cái đó đâu có gì đâu ta?". Nhưng mà lớn chuyện lắm à.

(Còn tiếp)
Reply
Rainbow 
(tt)Sư Toại Khanh giảng Kinh A-La-Hán (Tăng Chi Bộ Kinh # 66)

38:40
Chuyện đầu tiên hai cái hôn thụy là gì? Là trạng thái sống dã dượi, tiêu cực, thích an dưỡng, hai cái đó nó có nghĩa chung là vậy. Hôn trầm là lười biếng. Thụy miên là buồn ngủ. Hai cái đó đi một cặp.

Tiếp theo là phóng tâm, có nghĩa là không có khả năng tập trung tinh thần, là do thiếu định. Mà có hai lý do thiếu định,
  1. một là thiếu túc duyên thiền định kiếp trước,
  2. hai là do hiện tại nỗ lực chưa đủ.
Mà tại sao nỗ lực chưa đủ? Là vì chúng ta sống không có lý tưởng. Người sống có lý tưởng chuyện khó bằng trời cũng làm được, nếu không làm được mười thì cũng làm được tám, bảy, sáu, năm, bốn, ba, hai, một. Tin tôi đi, nha. Còn anh mà sống không có lý tưởng thì anh sống như một con thú, sống như một linh hồn, sống như cái tượng đá vậy. Có nghĩa là chờ ngày nó bị gãy, bị bể, không có ý kiến, em không có ý kiến, em chờ ngày em rã mục, em trở về đất như là một loài cỏ dại không tên bên lề đường của trần thế.

Cho nên ở đây sống phải có lý tưởng. Tây Ban Nha có một câu rất là hay đó là "Ruồi không có đậu nồi nước sôi", còn Mỹ có một câu tương đương "Rêu không có bám vô hòn đá lăn". Mấy hòn đá ngoài biển, sóng đánh "bành bành bành" nó lăn hoài, rêu không đóng được trên hòn đá lăn; còn cái câu thứ hai là ruồi không có đậu trên nồi nước sôi. Một cái nội tâm mà hừng hực nhiệt huyết thì ba cái tào lao nó không có chen vô được.

Tại sao các vị thích bà tám, thích ngồi lê đôi mách buôn dưa lê, tại sao vậy? Vì cái đầu của các vị nó rỗng quá chứa toàn là sình, rác, phân người trong đó không quí vị mới quỡn quí vị bàn cái chuyện của người ta. Các vị nghĩ dùm tôi một chuyện đi, thứ nhất cái chuyện của người ta nó có mắc gì mình mà mình ăn rồi mình đi mình bàn; thứ hai cái chuyện đó có hay không mà mình bàn như vậy mình hại người ta, mình biết không? Mình đâu có biết, mình đâu có biết mình bàn như vậy mình hại người ta. Rồi bây giờ cái thứ ba mình tưởng có cái thằng nào đó nó đem mình ra nó bêu riếu như vậy có phải là đời mình tàn không?

Tại sao mình không hiểu cái đó?
  1. Một là cái đầu mình rác quá mình hỏng có chuyện gì để mình nghĩ,
  2. thứ hai là mình làm như vậy mình hại người ta, mình biết không? Mình bêu riếu vậy mình hại người ta chớ hỏng lợi ích gì hết.
  3. Cái thứ ba, mình nghĩ làm sao nếu mà có cái tên nào cũng đem mình ra nó bêu riếu thì mình nghĩ làm sao?
  4. Cái thứ tư, thân người khó được, mà có được thân người phải sống cho giống con người chớ hỏng ai mà đem thời gian mà đốt như vậy hết trơn.
Các vị nhìn con chó, con heo nó đốt thời gian, nó đốt đồng hồ, tại vì nó không biết gì hết, tối ngày nó cứ nằm cụp đuôi, nó ngoe ngoải đuôi, nó cụp tai, nó nằm ngoài sân nghe ngóng. Nó không cần biết là xuân hạ thu đông của vũ trụ đang từng bước trôi đi, nó không biết rằng thời gian một kiếp sống càng lúc càng ngắn đi, nó không biết rằng cơ thể của nó đang ngày một xuống dốc để mà chờ chết, để mà lên bàn nhậu, nó đâu có biết.

Cho nên sống không có lý tưởng, không có trí tuệ giống như là một bầu trời đen không tinh tú, quí vị hiểu không? Như vậy được gọi là sống không có lý tưởng, từ đó nó mới dẫn tới hôn thụy, dẫn tới phóng tâm, gớm lắm chớ hỏng phải không. Anh mà anh sống với nhiệt huyết, có lý tưởng đàng hoàng thì anh không có bị mấy cái vụ đó, nhớ nha.

41:44
19/09/2019 - 03:03 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

4/ Trạo cử  5/ Hối quá



Rồi tiếp theo phóng dật là tới trạo hối. Trạo hối nghĩa là cái lòng ray rức, áy náy, bất an với những gì mình:
  1. đã làm hoặc 
  2. chưa làm
Cái này tôi nhớ tôi giảng rồi, trạo hối ở đây là ray rức, áy náy, bất an với những gì mình đã làm hoặc chưa làm. 

Trời ơi tại sao cái chuyện đó tôi làm được vậy hả ta? Tại sao tôi lại nói cái câu đó trời? Tại sao cái chuyện đó mà tôi có thể nghĩ ra cái chuyện tầm bậy tôi nghi oan người ta? Tại sao tôi có thể nói xấu như vậy? Tại sao tôi nói bậy như vậy? Trời ơi tại sao tôi hành động như vậy? Thì đó được gọi là áy náy, ray rức, bất an với những gì mình đã làm.

Rồi cái trường hợp hai là áy náy, ray rức, bất an với những gì mình không làm

Trời ơi câu nói đó có xá gì, chỉ mất có hai nốt nhạc mà tại sao mình không nói? Trời ơi chỉ tốn có mấy đồng bạc tại sao mình không làm? Trời ơi chỉ có mười lăm phút thôi tại sao mình thiếu kiên nhẫn vậy hả trời? Trời ơi cái chuyện có đáng gì đâu tại sao mình không nhịn mà mình lại…? Đó là hối hận vì tại sao mình đã không làm, tại sao cái tâm mình nó như vậy, tại sao cái miệng mình nó như vậy, tại sao cái thân mình nó làm như vậy. Đó là ray rức, áy náy, bất an.

Tôi nói lại một lần nữa, mình làm chuyện bậy là mình phải có khả năng phản tỉnh, nhìn lại vì mình là con người, chỉ có con thú mới không có khả năng. Con người phải có khả năng phản tỉnh, nhìn lại. Con thú không có khả năng soi gương, chỉ có con người mới có khả năng soi gương.

A/ Soi gương có hai: 

  1. một là soi gương vật lý, đó là mirror là tấm thủy tinh tráng thủy hoặc là miếng đồng đánh bóng. Đó là soi gương trên mặt vật chất. 
  2. Cái thứ hai là soi gương trên tinh thần là biết nhìn lại mình để mà chỉnh sửa, rút kinh nghiệm sâu sắc. 

B/ Học hỏi

Thứ hai là phải biết nhìn ra đời để mà học hỏi, để mà tiếp thu. Cho nên làm bậy là phải biết nhìn lại, nhưng cái nhìn lại để rút kinh nghiệm nó không hề giống với cái chuyện ray rức, bất an. Nhiều người họ hiểu lầm họ tưởng là cái thằng đó nó làm bậy vậy đó mà nó hỏng biết cắn rứt.

Bậc thánh:
  1. có tự trọng nhưng 
  2. không có tự ái, 
còn người phàm mình thì: 
  1. tự trọng thì ít mà 
  2. tự ái thì nhiều.
Người phàm mình là
  1. không có khả năng nhìn lại để sửa 
  2. chỉ có khả năng ngó lui để mà tưởng tiếc; ngó lui để mà ray rức, áy náy, bất an.
Hai cái này nó khác nhau, khác nhau nhiều lắm. Thí dụ bây giờ quí vị lỡ chửi tôi,..thay vì bả chửi tôi nhiều quá, bây giờ bả cứ ngồi bả khóc thầm, bả ray rứt, bả gởi email bả xin lỗi, tại sao bả không chịu làm một cái gì đó tích cực? Bả mở băng ra bả nghe, ghi chép cho có bài học, bả đi bả ghi danh bả ngồi thiền, bả lên chùa bả nghe pháp, bả quét dọn, bả chùi cầu, bả rửa chén, bả quên đi cái chuyện bả chửi tôi; phải hay hơn không? Còn đằng này, không, bả cứ buồn, mắt đỏ đỏ, mắt buồn buồn như mất sổ gạo ngồi buồn, là cái đó sai, nha. Ở đây Ngài nói trường hợp trạo hối là như vậy. 

Mình biết mình làm bậy, mình ghi nhận rằng đó là chuyện không nên làm, và ta đã lỡ làm thì sau này ta sẽ không làm, và ngay bây giờ ta phải đi về phía trước thực hiện các hạnh lành. Đó là thái độ của người tu học.

Ghi nhận chuyện ta vừa làm là chuyện bậy, chuyện đó không nên tái phạm nữa, ghi nhận như vậy, rút kinh nghiệm sâu sắc như vậy, rồi đứng lên với tất cả sức mạnh, với tất cả nhiệt huyết, với tất cả lòng thành, với tất cả thiện chí, lao mình về phía trước, xăn áo xăn quần nhảy vào tất cả những công việc gian khó nhất để
 
  1. một là gieo trồng hạnh lành,
  2. hai là tìm quên chuyện xấu cũ.
Quá hay. Còn đằng này, cứ ngồi ray rứt, ray rứt, cái đó là bậy, cái đó hỏng phải là tốt mà nhiều người hiểu lầm cứ tưởng là phải ray rứt mới tốt. Không, anh chỉ cần anh rút kinh nghiệm sâu sắc, rút kinh nghiệm sâu sắc, nhớ cái đó.

45:55
19/09/2019 - 03:55 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

6/ Bất tín

Assaddhiyaṃ là bất tín. Bất tín là gì? Bất tín ở đây là thiếu niềm tin. Hồi nãy tôi có nói, có rất là nhiều người trên đời này họ sống như là một chiếc lá trên dòng, tức là gió và nước đẩy họ về đâu thì cũng được, họ sống không có suy tư. Đối với họ, họ sống không có cần niềm tin, họ sống không có suy tư, họ nghĩ rằng "Kệ nó, hễ đói ăn, khát uống". Nhưng mà theo tinh thần Phật Pháp mà nói, không ai có thể đi về phía trước, đi lên hướng trên mà có thể thiếu niềm tin được hết.

Niềm tin đây là chánh tín là niềm tin dựa trên cơ sở trí tuệ.
  1. Anh phải tin vào điều thiện ở đời,
  2. anh phải tin là mình có thể tốt hơn, 
  3. anh phải tin là mình có thể giúp cho người khác được vui, bớt khổ;
  4. anh phải tin là đời sống mình hoàn toàn có thể có ý nghĩa hơn chớ không phải mà vô nghĩa, vô ích, vô duyên, tầm bậy tầm bạ như bây giờ.
Đó là những niềm tin mà anh phải có,

  1. anh phải tin là mọi sự ở đời là vô ngã, vô thường, phù du, mong manh;
  2. anh phải tin là ở đời này chỉ có hành thiện mới vui mình vui người;
  3. anh phải tin rằng làm ác là buồn mình buồn người;
  4. anh phải tin rằng ta chịu trách nhiệm hoàn toàn những gì ta đã làm, nói và suy tư.
 
Những cái đó là những cái anh phải tin để mà anh sống đời.

Còn đằng này hỏi cái gì cũng cà lơ cà lơ hết thì cái khoảng cách giữa anh với con thú không có xa, nha.

Có nhiều người họ nói "Tui dễ lắm, tui hỏng có đạo nhưng mà làm lành lánh dữ được rồi". Nghe thì nó hay hay đó, nghe coi bộ nó có mùi văn minh, có mùi khoa học, nhưng mà thấy hình như cái tôn giáo nó kỵ khoa học. Mà mình là thời đại gì? Mình là người thời đại này, thôi mình cứ phăng cái câu đó ra cho người ta ớn. Chưa kể là trong nước chỉ cần mà để chữ "Không tôn giáo" là thấy sĩ đồ thênh thang, hoạn lộ bát ngát.

Cho nên nhiều người cứ tưởng "Ôi! Đâu có cần niềm tin". Có chứ! Muốn đi toilet quí vị phải có niềm tin, có niềm tin là mình sẽ làm được cái việc gì đó trong toilet mình mới đi vô trong đó, tay cầm một cọc giấy, tay thì cầm cái phone đi vô toilet ngồi xuống. Đi cầu mà phải có niềm tin chớ đừng có nói tới đạo nghiệp quan trọng, nha.

Bây giờ mình bước ra sân để mình quét lá thì mình phải tin là mình quét được mình mới đi ra sân chứ. Gió mưa tầm tả thì làm sao mà mình quét đây? Mình đã muốn ra sân quét thì phải tin là quét được. Chuyện quét sân cũng phải có niềm tin nữa. Niềm tin sẽ cho mình lý tưởng sống, không có niềm tin là không có làm ăn gì được hết. Người không có niềm tin đó là một dấu chỉ cho thấy cái tay này nhiều đời quá khứ sống không có mục đích, sống không có lý tưởng, lớn chuyện vậy đó. Không có niềm tin là không có tất cả.

48:36
19/09/2019 - 05:40 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Dễ ngươi

Và cuối cùng là pamāda là dễ ngươi, nãy tôi định nghĩa rồi. Dễ ngươi đây nó gồm có ba, một là cái lòng khinh xuất, coi nhẹ những cái chuyện mà lẽ ra mình phải coi trọng, đó được gọi là khinh xuất, được gọi là dễ ngươi.

Cái chữ pamāda phải dịch vậy đó, là khinh xuất, là dễ ngươi, nha, cái này quan trọng lắm. 

  1. Không coi thường điều thiện nhỏ rồi không làm,
  2. không coi thường điều ác nhỏ rồi làm và
  3. không nên thờ ơ trong chuyện sinh tử.
Bởi vì hễ ngày nào mà ta còn có mặt trong cái cõi đời này dầu ở cảnh giới nào thì cái nguy cơ đau khổ luôn lớn hơn cái cơ hội hạnh phúc triệu lần.

Thí dụ các vị nói "Về phạm thiên sướng quá, phạm thiên đâu có khổ". Đúng. Nhưng mà cái vấn đề là trong Tăng chi Đức Phật đã dạy: 

"Này các tỳ kheo, có một điểm khác biệt rất là lớn giữa đệ tử Như Lai và những người không có niềm tin nơi Như Lai nằm ở điểm là đệ tử Như Lai khi mà hưởng dục, họ sống trong dục họ hưởng dục trong cái ý thức".

Như những người cư sĩ họ vẫn có vợ, có chồng, có con có cái nhưng mà họ sống trong ý thức; khi họ tu thiền, họ tu thiền trong ý thức; hưởng dục trong ý thức buông bỏ và tu thiền cũng trong ý thức buông bỏ. Đó là cái điểm khác biệt giữa đệ tử Như Lai và người không phải đệ tử Như Lai.

Một bên thì
  1. hưởng dục trong sự kiểm soát, trong ý thức buông bỏ;
  2. tu thiền trong sự kiểm soát và trong ý thức buông bỏ.
Riêng những người không phải đệ tử Như Lai thì họ mắc vào ba trường hợp sau đây:
  1. một, cắm đầu chạy theo cái mình thích bất kể thiện ác;
  2. thứ hai là hưởng dục bằng cái ý thức dính chặt, họ không thể buông bỏ;
  3. và cái thứ ba, nếu một ngày nào đó họ may mắn mà họ chán dục, họ muốn nghiêng về đời sống tâm linh thiền định thì họ vẫn tu tập bằng cái ý niệm của người sanh tử trầm luân.
Cho nên đệ tử Như Lai khi mà sống trong các dục, đệ tử Như Lai khi tu tập thiền định, đệ tử Như Lai có một thành tựu sở chứng nào dầu là thế nghiệp hay đạo nghiệp, thì đệ tử Như Lai luôn có cái đường để đi lên. Còn riêng về những người không có tin vào Chư Phật thì dầu họ tội lỗi hay họ làm thiện, họ hưởng dục hay là họ đắc thiền, thì luôn luôn trong cái ý thức gọi là sanh tử, nha. Chuyện này rất là lớn. Cho nên chữ pamāda phải hiểu như vậy.

Vừa rồi tôi vừa giảng xong 6 cái phiền não, tức là 6 thứ tâm thức tật nguyền, 6 thứ tâm lý tiêu cực mà nếu chúng ta không có vượt qua được thì cái cơ hội chứng thánh là con số không. Và ở đây cũng phải nói thêm, đọc kinh phải đọc bằng cái não trạng của một người trên 18 tuổi, chúng ta không thể đọc kinh bằng cái não trạng của một đứa bé biết đọc biết viết. Là vì sao? Vì rõ ràng trong kinh là Ngài dạy rằng không bỏ được 6 pháp này nè thì không thể chứng La hán. Nhưng mà mình phải hiểu ngầm là tại sao Ngài lại nhắc tới 6 pháp này? Vì khi không bỏ được 6 pháp này dầu không chứng La hán, đành rằng không chứng rồi đó, nhưng mà đời sống chúng ta sẽ gắn đầy những hệ lụy. Còn nếu mình có bỏ được 6 pháp này, cho dầu mình không có chứng thánh thì mình cũng được an lạc vô cùng, vô cùng an lạc, nhớ nha.

Chớ hỏng phải nói "Quả vị A la hán cách tôi xa lắm, cái này chắc Ngài nói cho mấy người cao siêu chớ mắc mớ gì tôi?" Sai, sai bét, hỏng phải như vậy. Ngài nói là mấy cái này là cản trở, là chướng duyên cho quả vị La hán. Đúng, nhưng mà không chỉ riêng cho vị La hán mà là trong đời sống của chúng ta. Một người mà bị dây dưa sống quá nhiều, quá nặng với 6 thứ phiền não này thì người đó không tài nào mà được an lạc. Và sống không an lạc thì làm sao có một cái chết ngoạn mục, cái chết ngon lành? Mà không có cái chết ngon lành thì làm sao mà có thể xác định được cái chốn về trong tương lai của mình, thưa quí vị?

Trong room thế nào cũng có người thắc mắc nói "Ủa, chết ngon lành là sao?
 
  1. Chết ngon lành tức là cái chết của một người ra đi trong ý thức tỉnh táo.
  2. Cái thứ hai, cái chết ngon lành là cái chết của một người mà đã có hành trang, đã có tư lương chuẩn bị cho đời sau kiếp khác nếu còn có một kiếp sau.
Nếu không có thì thôi không còn chuyện gì để nói hết. Nhưng mà nếu còn có một kiếp sau thì cái tay nào mà nó sống thiện thì cái khả năng mà nó được an lạc, được gọi là thoải mái nó cao hơn là sống gian ác. Tin tôi đi.

52:56
19/09/2019 - 08:52 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

(Giảng Kinh #67)
 Những Người Bạn

Rồi tiếp theo là cái kinh... Có một lần Ngài Anan vào bạch Phật "Bạch Thế Tôn con nghĩ rằng đời tu rất cần bạn bè, rất cần đến sự hỗ trợ của bạn bè. Thậm chí con còn nghĩ một nữa đời tu là cần đến bạn bè, liên hệ tới bạn bè, trên nền tảng giúp đỡ của bạn bè". Thì Đức Phật dạy "Này Ananda, ta nói rằng không phải một nửa mà toàn bộ đời sống phạm hạnh này được thiết lập trên tình bạn".

Một người mà đọc không kỹ hoặc là đầu óc lười suy tư họ sẽ rất ngạc nhiên, họ nói "Ủa tại sao mình tu, mình ở một mình mình, mà tại sao ở đây chính Đức Thế Tôn Ngài xác nhận là toàn bộ đời tu chớ hỏng phải một nửa, mà toàn bộ đời tu được thiết lập trên tình bạn". Xin thưa, cái chữ bạn phải hiểu nhiều nghĩa như sau:

Thứ nhất, bạn ở đây không chỉ riêng là những hình hài có hai tay, hai chân và một cái đầu; mà bạn ở đây là những gì mà chúng ta thường xuyên gặp gỡ, thường xuyên tiếp xúc, va chạm, sống cùng với nó; thì cái đó là bạn. Thí dụ như những cái loại sách báo nào, những trang web nào mà tôi thường xuyên tìm đến để mà đọc, những loại người nào mà tôi thường xuyên tiếp xúc đã đành, mà kể cả những người mà tôi thường xuyên text chat, tôi thường xuyên email, thường xuyên điện thoại, thường xuyên viber, thường xuyên WhatsApp, thì cái đó là những người bạn. Mà trong đó bao gồm những thứ không phải là tay chân, nó hỏng có cần tới tay chân, chưa kể những thứ tâm trạng nào mà tôi thường sống với nó thì nó cũng là bạn của tôi. Như Đức Phật đã từng có dùng cái chữ tanhā dutiāka(?) cái từ dùng cho những người sống nhiều với tham ái, lấy tham ái làm bạn; nghĩa là lên giường ngủ mà cũng thích này thích kia, thức dậy bỏ chân xuống giường bước đi bắt đầu một ngày mới thì cũng sống trong cảm giác thích cái này thích cái kia, đó, nhớ nha.

Như vậy bạn ở đây có nghĩa là người, vật hoặc là một trạng thái tâm lý, một cái trạng thái tinh thần, một cảm xúc nào đó mà mình thường xuyên cọ chạm, gặp gỡ, tiếp xúc, gần gũi nó thì những cái đó được gọi là bạn, nhớ nha. Đây là lý do vì đâu mà Phật dạy rằng toàn bộ đời sống phạm hạnh được thiết lập trên tình bạn, nghĩa là cái đầu mình thường nghĩ nhiều về cái gì, có nghĩa là mình đang sống với cái người bạn đó, người bạn tâm linh, tinh thần đó, nhớ nha. Cái này lớn chuyện lắm, thứ nhất là mình hiểu sai chữ bạn.

Thứ hai là mình đâu có ngờ là những cái chuyện mà mình thường xuyên nghĩ nó quan trọng như vậy. Bởi vì "Tui thì tui có chồng, tui có con, tui có vợ, đúng, nhưng một ngày tui rãnh tui cũng ngồi sáng được một tiếng, chiều một tiếng vậy thôi chứ. Có ai? Có ai cư sĩ được như tui không? Vừa lo chồng nè, lo vợ, lo con, lo cha, lo mẹ, đi làm công sở về là cứ sáng sáng một tiếng, chiều một tiếng các vị có không? Đâu có ai bằng?" Tuy nhiên, làm ơn nhớ dùm ngày 24 tiếng, ngoài 2 giờ ngồi thiền đó ra anh sống bằng cái đầu của anh, anh sống bằng cái tâm trạng gì? Anh nghĩ nhiều về cái gì? Thì cái đó chính là bạn của anh; chớ hỏng phải là mấy cái tay mà hai tay, hai chân, một cái đầu mới gọi là bạn. Không, bạn là những gì mà anh tiếp xúc, gần gũi, cọ xát, va chạm, gặp gỡ, tương phùng thường xuyên, nhớ nha.

Cho nên trong bài kinh 67 (Những Người Bạn) Ngài dạy rất rõ, là khi mà chơi với bạn xấu đó dầu đó là người hay là gì, khi thường xuyên chơi với bạn xấu, khi thường xuyên làm nghiệp xấu, thường xuyên suy nghĩ chuyện xấu, đó, thì không cách nào mà thành tựu được cái đạo nghiệp giải thoát, chuyện đó không bao giờ có. Bài kinh này nếu mà các vị đọc một mình thì thấy nó hỏng có gì ghê, nhưng mà bài kinh này nếu mà được nghe ai gợi ý, các vị sẽ nhận ra nhiều chuyện lớn. Bây giờ bài kinh này nếu cần, mình làm cái outline bài kinh như thế này: Toàn bộ đạo nghiệp hôm nay của ta, toàn bộ đạo nghiệp mai này của ta, toàn bộ đời sống hiện tại của ta, toàn bộ đường đi lối về của ta mai này nó đều nằm gọn trong những gì ta lưu tâm, ta nặng lòng với nó trong từng phút giây hiện tại, lớn chuyện vậy đó. Ta nghĩ nhiều về cái gì, ta thường cọ xát, gặp gỡ với cái gì thì đó chính là cái đường đi lối về cho mai sau của ta. Chớ còn bài kinh này hỏng phải đơn giản như mình nghĩ, mình liếc qua mình thấy, nói sơ sơ, sơ sơ.

Cho nên tôi nói hoài, tôi nói để ý trong mỗi ngày mình thích cái gì, mình ghét cái gì, cái đó nó quan trọng lắm, bởi chính những cái thích cái ghét đó nếu sớm phát hiện kịp thời thì mình sẽ có những thay đổi rất là ngoạn mục trong đời sống của mình. Bởi vì các vị biết không, có những cái thích mà mình chìu nó là mình hư, và có những cái mà mình không có ghét mà lo chống trả nó, lo đối kháng nó, lo tống khứ, lo giải trừ nó là mình cũng hư. Thí dụ như mình sợ cực, hay là mình muốn trốn lánh một cái gì đó, một cái trách nhiệm gì đó, chẳng hạn như vậy, khi mà mình vì chạy trốn cái này cái kia, vì thích, vì theo đuổi cái này cái kia thì chuyện xấu gì mình cũng làm hết các vị biết không?

Cho nên, nên thường xuyên kiểm soát coi ta thích cái gì và ghét cái gì, thường khi trong đời sống của phàm phu chính vì để giải quyết cái thích và cái ghét chuyện gì ta cũng làm. Chính vì vậy, chính vì cái điều mà tôi nói thích và ghét nó quan trọng như vậy là bởi vì sao? Là bởi vì thích và ghét nó chính là những người bạn mà ta phải sống với nó rất là thường.

Tôi nói lại bạn ở đây hiểu trên cả hai nghĩa, nghĩa đen và nghĩa bóng. Nghĩa đen là những cá thể động vật có một đầu, hai tay, hai chân, có quốc tịch, có ngôn ngữ thì cái đó được gọi là người, hiểu chưa? Nhưng mà ở đây ngoài cá thể động vật ra, nó còn có một chuyện nữa, nó là những gì mà chúng ta thường xuyên cọ xát, va chạm, gặp gỡ, tương phùng, tương ngộ.

59:27

20/09/2019 - 08:01 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

(Giảng Kinh #68)
KTC Hội Chúng ( = Đám Đông)

Tiếp theo là kinh 68 (Hội Chúng - Đám Đông). Có vấn đề như thế này, có nhiều cái câu mình nghe nói hay lắm quí vị nhưng mà nếu mình hiểu sai thì coi như là hết xài mà nó còn nguy hiểm nữa. Khi nó bị hiểu sai thì nó chỉ có hại mình thôi, cái câu "Buôn có bạn, bán có phường" làm cái gì cũng có bạn, ở trên mình mới vừa học xong đó. Thứ hai "Ăn cơm có canh, tu hành có bạn", nãy giờ mình mới vừa giảng bài kinh bạn xong rồi bây giờ mình thấy có bài kinh Hội chúng.

Vị tỳ kheo nào thích hội chúng làm ơn nhớ dùm cái này, thích hội chúng nó khác, mà sống có thầy có bạn nó khác. Trong room có phân biệt được cái này không? Sống có bạn nó khác, thí dụ như sống có bạn là gì? Sống có bạn mình hiểu nôm na là mình thích những loại cây đẹp, những loại cây quí nó khác. Còn người thích hội chúng là gì? Là người thích lăn mình ở trong cỏ dại. Hai cái khác nhau, phải ghi cái này nha.

Có thầy, bạn tốt nghĩa là quan hệ có chọn lọc, còn thích thú đám đông là tâm thái quên mình vì ham vui, hai cái khác nhau chớ đừng có đem cộng thành một. Một vị tỳ kheo nên có thầy, bạn xứng đáng; nhưng mà một tỳ kheo thích hội chúng, thích đám đông là thất bại.

Nó có tới một ngàn lẻ một lý do để một người tu lìa xa đám đông; một, khi mình xáp vô đám đông mình được cái gì? Phần mất thì có, phần được thì không. Tin tôi đi, tôi không có thần thông; tôi không phải là một vị chơn tu đạo cao đức trọng, huệ căn sâu dầy gì hết. Tôi chỉ dựa vào kinh sách và đặc biệt dựa vào kinh nghiệm của tuổi đời 50, tôi có thấy cái này: Bất kỳ một cá nhân tăng, tục; nghĩa là tăng ni và Phật tử nào, bất kỳ nha, anyone, anybody mà không có khả năng sống một mình; mà cứ đi rề rà rề rà, la cà, lân la tìm tới để mà nương dựa người khác. Mỗi ngày phải kiếm người để mà tâm sự, trao trút một người, hai người, ba người, năm người, mười người; có nghĩa là thích quần tụ, thích đám đông, thích bầy đàn. Theo tôi, người đó không có khá, đối với tôi người đó là con số không, vì sao? Vì ở ngoài đời một thằng học sinh, một thằng sinh viên mà nó hiếu học nó đã không có thì giờ để mà xáp vô cái đám bạn rẻ tiền. Ngoài đời đó, nói chi là một người biết đạo, hiểu biết giáo pháp giải thoát thì làm sao mà mình có khả năng tâm lý để mà mình theo đuổi rồi dây dưa, rồi la cà với thiên hạ được quí vị?

Khi nào bản thân quí vị không tự mình làm điểm tựa cho chính mình, tự mình không có khả năng đem lại niềm an lạc cho mình thì mình mới hướng ngoại, mình mới đi tìm đến kẻ khác, mình nương đổ, tựa nương kẻ khác để mà tìm lấy một sức sống, một niềm vui. Chứ còn nếu các vị có học giáo lý, các vị có tu tập thiền định, các vị sẽ thấy rằng thời gian để mà các vị suy tư giáo lý, thời gian để tu tập thiền định đã còn không có, thì làm gì mà có thời gian để mà dây dưa, rề rà với thiên hạ?

Các vị tin tôi đi, thiên hạ tôi không biết là bao nhiêu người, năm người, mười người, trăm người, ngàn người xáp vô là chỉ có phiền não thôi, trừ phi các vị là thánh hoặc cái đám đông đó toàn là thánh. Còn không khó lắm, nếu không muốn nói là không thể. Cứ ăn rồi xáp vô đám đông, đám đông có hai: đám đông ngoài đời và đám đông online. Đám đông ngoài đời là bạn bè có thể lái xe tới gặp nhau. Đám đông online là phải vô facebook, phải email, phải text chat, phải điện thoại đầu này đầu kia.

Tôi nhắc lại, có một lý tưởng sống ngon lành thì họ dứt khoát không có thời gian để mà tìm tới đám đông đâu quí vị. Kẻ nào mà còn thiết tha với đám đông là kẻ đó không có lý tưởng sống, không có cái khả năng sống một mình đem lại sự an lạc cho riêng mình. Không có khả năng đó, họ phải nương đổ vào quần chúng, nhớ nha.

. . . . . . . .
1:08:34

Đó là một người còn chìm đắm trong đám đông thì không có tài nào có khả năng an lạc với riêng mình. Mà chúng ta nên nhớ rằng chúng ta vốn dĩ cô đơn từ vô thủy luân hồi, mỗi người có một hạnh nghiệp riêng quí vị. Dầu chúng ta có là cha, là mẹ, là chồng, là vợ, là con, là cái, là anh, là chị, là em, là cháu với nhau trong đời này thì chắc gì đời sau chúng ta gặp lại? Đó là chuyện thứ nhất. Thứ hai,
  1. cơ hội mang thân trời người, nhân thiên rất là khó;
  2. cơ hội đó đã khó, cơ hội được gặp nhau càng khó hơn.
Cho nên, chúng ta vốn dĩ là cô đơn, mà nói như vậy chúng ta cô đơn đã quen rồi, chúng ta quen khổ một mình, quen vui một mình, quen ác một mình, quen thiện một mình. Chẳng qua vì ảo giác, chúng ta thấy rằng một chiều mưa biên giới, ngồi một mình hiu quạnh cô độc quá chúng ta thèm một bàn tay, một mái tóc, một ánh mắt, một tia nhìn để sưởi ấm lòng mình cho nó bớt cô quạnh, mình tưởng đó là tri âm tri kỷ. Không có dám đâu, nó chỉ góp phần chen lấn thôi, chứ niềm cô đơn của chúng ta vẫn muôn đời nằm đó không ai chia xẻ được cho mình đâu. Tôi xin quí vị tin như vậy đi.

Cho nên một người tu hành mà còn tìm đến đám đông là người này:
  1. không có khả năng quán chiếu, 
  2. không có khả năng nội tĩnh. 
Không có khả năng nội tĩnh, không có khả năng quán chiếu, anh tu cái gì? Khi anh không hiểu rằng công việc mà để anh làm nó đã vốn không có thời gian rồi, anh đi biết đi, ngồi biết ngồi, đứng biết đứng, vui biết vui, buồn biết buồn, thở ra thở vào biết rõ, thiện ác buồn vui biết rõ. Chỉ riêng chừng đó việc, anh đã không có đủ thời gian cho anh, thì anh làm gì mà anh có thời gian cho đám đông khác?

Đừng có nói với tôi là chư Phật, chư thánh ngày xưa đi hoằng pháp người ta rần rần đó thì sao? Tôi xin các vị nhớ, người ta là Phật đó, các vị có phải Phật chưa? Đừng có đem so Ngài với mình nha, mình có bằng cái hạt bụi dưới chân Ngài không mà cứ đem thánh hiền ra so hoài, mệt quá nha. Ngài đi hoằng pháp chớ hỏng phải là Ngài xáp vô đám đông.

Còn mình, mình cứ xáp vô đám đông, mình nhân danh từ thiện nè, mình nhân danh học viện, nhân danh thiền viện, nhân danh hoằng pháp, nhân danh xã hội, nhân danh trách nhiệm, nhân danh bổn phận, nhân danh đủ thứ. Chúng ta đứng dưới tên của nhiều cái gọi là mỹ từ, núp dưới mỹ từ để rồi chúng ta cả đời không có khả năng sống một mình, trong khi việc mà mình phải làm với mình nó tới một tỷ lận. Cho nên Đức (Germany) có một câu rất là hay: "Cái người mạnh nhất là người có khả năng sống một mình", còn Đại Hàn thì nói thế này: "Không phải đứa mạnh nhất mà sống, mà đứa sống được mới là đứa mạnh nhất"

Chúng ta thấy là chính Đức Phật đã kêu gọi tinh thần độc cư, không phải đạo Phật là đạo bi quan, bắt mình ăn rồi cứ nghĩ ba cái chuyện bất tịnh, rồi niệm chết, rồi sa đọa, đã vậy bắt sống một mình. Cái đạo gì buồn dữ trời, nhưng mà không, cái đạo này là đạo dành cho người trưởng thành, cái đạo này là đạo dành cho mấy người dám nhìn vào sự thật. Vì hôm nay, anh có thấy được sự thật thì mai này anh có đối diện với nó, anh mới có thể tiếp tục ngon lành, bảnh bao. Còn bình thường lúc vô sự mà anh không có bản lãnh để thấy ra sự thật, thấy nó mà anh chưa có khả năng anh thấy thì mai này nó ập vô mặt anh, anh làm sao anh chịu nổi?

Không có khả năng sống một mình bây giờ, thì mai này anh vào bệnh viện anh sống một mình, anh nằm với ai? Anh nằm với con người của anh, anh ở đó trên giường chết, anh hấp hối với ai? Hấp hối với anh. Anh tắt thở rồi, anh đi về một phương trời miên viễn chiêm bao nào đó, thì anh đi với ai? Anh đi một mình anh nha. Anh đừng có nói với tôi là anh có vợ, có chồng, có con có cái, có bạn có bè, có tri kỷ, tri âm, tôi van anh đừng có nghĩ dại như thế nha. Anh mãi hoài trước sau chỉ có một mình anh. Anh đã luân hồi vô số kiếp, một mình anh, anh có nghiệp thiện nghiệp ác của một mình anh, anh đi vào các cõi một mình anh.

Có một điều trong cái cõi nào đó, anh vô thấy chung quanh, nhìn những người gần gũi anh về quan điểm, về không gian, về địa dư, anh cho đó là bầy đàn, là đoàn thể, là cộng đồng, là dân tộc, là xã hội, là đất nước, là quê hương, là cố quận của anh; chớ thật ra hỏng có, anh vẫn một mình, anh chỉ là một chiếc lá giữa rừng lá thôi, anh hiểu không?

Anh chỉ là một giọt nước trong một cái dòng nước, mà nói vậy thì mình cũng không thấy sự lẻ loi của nó. Nhưng mai này mà có ai đó lấy một giọt nước đem lên bờ mới thấy nó lẻ loi biết chừng nào! Khi một giọt nước rời khỏi dòng nước, những giọt nước còn lại có đứa nào buồn, có đứa nào kêu réo, nhớ thương không? Không có. Ngày nào anh còn ở với tôi thì anh là một phần của cái cộng đoàn mà chúng ta đang có mặt, mai này duyên đến đẩy anh đi thì anh đi phần của anh, chúng tôi tiếp tục ở lại. Đó là chuyện đời nó bạc như vậy đó.

Tôi nói không biết là bao nhiêu lần, thương nhau cho lắm, yêu nhau cho lắm, nhớ cho lắm, đám tang khóc nhiều cho lắm, một thất, hai thất, bảy cái thất, 49 ngày là finish, là fertig, là finir, không còn gì hết, tin tôi đi. Nhiều lắm mỗi năm đến ngày giỗ có nhắc lại một chút. Ừ, nói mới nhớ còn tháng nữa giỗ thượng tọa Thiện Minh của mình Chùa Bửu Quang. Hồi mới mất thôi ta nói um sùm bát nhã, bát nháo rồi sau đó mất tiêu, bây giờ còn một tháng nữa sắp giỗ nè, giỗ giáp năm, mà tôi ngồi tôi coi có ai nhắc nhở gì không, tôi cũng tính muốn viết cái gì đó, hỏng lẽ bây giờ, thứ nhất viết hoài cũng dở, thứ hai nữa có một mình mình làm cũng kỳ, người ta nghi ngờ hỏng biết có chuyện gì không, tại sao có mình ông này ổng lên tiếng. Nhưng mà tự nhiên nó chạnh lòng, nó nghĩ "Ờ sao hỏng ai nhắc gì Sư Thiện Minh hết". Nhớ nha, nó qua rồi thôi.

Hòa thượng Hộ Giác ngày xưa đương thời của Ngài từ 1958 cho tới 1975, đặc biệt trong thời pháp nạn, theo chúng tôi được biết, bên Thiên Chúa thì có Cha Nguyễn Văn Vàng, bên mình thì có Pháp sư Giác Đức, có Hòa thượng Hộ Giác thuyết pháp là kẹt xe, kẹt xe từng đoạn, từng đoạn. Rồi thì sao? Cuối cùng rồi thì về già, mấy năm cuối đời gần tịch quạnh hiu, có ai biết gì đâu, có lúc khoảng chừng tuần lễ, nửa tháng sắp tịch có mấy người đệ tử ở tiểu bang xa bay về xẹt xẹt xẹt hai, ba bữa rồi cũng biến mất. Họ cũng có việc của họ chứ, họ có vợ, chồng, con cái rồi họ đi về họ lo chuyện của họ. Một thời lừng lẫy tiếng tăm rồi sau đó chìm vào lãng quên. Tôi không có nói chuyện đó quí vị không có thấy sự bạc bẻo của đám đông.

Ngày nào nó rần rần, rần rần như vậy đó, bây giờ có một thân một mình như vậy thôi, "Còn duyên ăn nhãn, ăn hồng. Hết duyên bán mít cho chồng, con xơi", "Còn duyên kẻ đón, người đưa. Hết duyên đi sớm về trưa một mình". Cái chuyện đó hỏng có gì lạ hết quí vị. Hoa hậu, diễn viên, ca sĩ một thời nức tiếng, lúc đương thời thôi quí vị, tới hồi mà nó lụi rồi đó, các vị biết Hùng Cường chết kiểu gì không? các vị biết Minh Phụng chết kiểu gì không? Các vị vào trong Chùa Nghệ sĩ ở Saigon các vị coi mồ mả của các nghệ sĩ tiền bối nằm ở đó, các vị coi những nghệ sĩ già tuổi xế chiều cái nghiệp diễn nó hết rồi, duyên diễn nó hết, bây giờ họ sống lây lất trong đó, họ sống ra làm sao?

Tôi nói không có lạc đề đâu, tôi đang nói cái đám đông nó bạc cỡ nào, nó vô ích cỡ nào, nó tào lao cỡ nào, mặc dù chính đám đông đã hỗ trợ cho sự nghiệp của chúng ta. Chúng ta sống không thể thiếu đám đông, nhưng mà nhớ đám đông là nước. Có nước thuyền mới đi, nhưng mà khi thuyền nó chìm rồi thì xong. Đừng có đòi hỏi nước: "Tại sao ngày xưa anh nâng tôi bây giờ anh không nâng tôi nữa? Tại sao ngày xưa anh đưa tôi đi đến biết bao nhiêu bến bờ viễn xứ, bây giờ tôi chìm xuống anh không có một động thái nào để kéo tôi lên, để đưa tôi trở về cái vàng son quá khứ?" Không, nước sẽ trả lời "Không, ngày nào anh còn nổi thì tôi đưa anh đi, anh vẫn đi bằng cái mái chèo của anh, tôi chỉ trợ lực, tôi chỉ giúp sức cho anh thôi. Chớ còn anh không thể trông cậy, nương đổ vào tôi 100%."

Đám đông cũng vậy, anh còn gượng được chúng tôi hỗ trợ anh, nhưng mà anh nhớ luật của trời đất "Thiên hạ phù thịnh bất phù suy", anh còn đi được, còn gượng được thì chúng tôi còn hà hơi, tiếp sức giúp anh. Anh đã sụm bà chè thì anh đi ch đi vì thiên hạ phù thịnh bất phù suy, chỉ giúp người đang đăng quang chớ không ai giúp người ngã ngựa hết. Đó là cái sự bạc bẽo, sự bẽ bàng của cái gọi là đám đông.

Một vị tỳ kheo không hiểu ra điều đó, ăn rồi cứ cắm đầu gục mặt ở trong đám đông thì coi như tàn đời. Cho nên Ngài nói rằng một vị tỳ kheo mà còn chìm đắm trong đám đông, còn tin cậy, còn nương đổ vào đám đông thì cái đạo nghiệp vị đó là zero.

1:17:43


(Còn tiếp)
Reply
Music 
(tt và hết) Sư Toại Khanh giảng Kinh A-La-Hán (Tăng Chi Bộ Kinh # 66)

1:17:43

21/09/2019 - 08:48 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

KTC 69: Kinh Thiên Nhân 

Tôn kính Ðạo Sư, tôn kính Pháp, tôn kính Tăng, tôn kính học pháp (dễ dạy), tôn kính thiện ngôn, tôn kính thiện bằng hữu

Tiếp theo chúng ta còn một bài nữa là bài 69 kinh Thiên nhân. Đêm kia có một vị trời xuống hầu Phật, vị này thưa với Phật cái điều tâm đắc của mình về giáo pháp mà mình đã được nghe, đã được học.

Người đến với Phật gồm có chư thiên và loài người, và cái việc họ đến gồm có nhiều lý do.
  1. Một, họ đến để họ hỏi cái điều họ chưa biết. 
  2. Hai là họ thưa với Ngài cái điều họ tâm đắc.
  3. Ba, họ đến họ nhìn Ngài như là nhìn cái tượng đài chánh pháp, họ đảnh lễ rồi họ đi. Trường hợp đó thương lắm, các vị đó nhớ Ngài, xuống nhìn Ngài giống như nhìn tượng đài chánh pháp.
Tại vì tượng đài chánh pháp là trừu tượng, là siêu hình, là vô tướng, bây giờ muốn nhìn chánh pháp thì nhìn ở đâu? Chỉ có hai chỗ nhìn,
  1. một là mình nhìn vô cái bản tâm tu hành của mình;
  2. còn hai là mình nhìn vào người khác, nhìn người mà có thiện pháp, có chánh pháp ở trong lòng họ thì họ chính là tượng đài chánh pháp.
Chánh pháp chỉ có hai chỗ để mình nhìn:
  1. một là nhìn ở mình,
  2. hai là nhìn ở người khác, mà Đức Phật chính là tượng đài đẹp nhất trong tất cả các tượng đài biểu tượng cho chánh pháp.
Cho nên có nhiều vị xuống gặp Phật chỉ để nhìn Ngài thôi, họ đảnh lễ Ngài rồi họ đi một vòng rồi biến mất. Có nhiều vị hỏi Ngài cái điều họ thắc mắc, có  vị tới để mà trình thưa với Ngài cái điều họ tâm đắc rồi họ đi mất.

Đấy! Thì bài kinh này là trường hợp hai, tức là họ xuống họ thưa với Ngài cái điều họ tâm đắc, họ thưa rằng "Bạch Thế Tôn, theo con được biết một vị tỳ kheo mà có được 6 cái điều kiện này thì đạo nghiệp mới có hy vọng đi lên. Nếu mà không có được 6 cái này, hoặc bị 6 cái ngược lại thì đời tu vị đó chỉ có đi xuống, chỉ có thối đọa thôi, không có hy vọng".

Sáu cái điều đó là gì? Tôi xin thưa với bà con, bà con đừng có bao giờ mà hiền lương, mà dại dột, mà nghĩ rằng mấy cái này là trời nói cho Phật nghe, Phật dạy cho chư tăng, chư thánh nghe rồi mắc mớ gì mình, chuyện trên mây. Sai, sai bét, hỏng có mây, mấy cái này là chuyện sát nách mình không hà. Kể cả ở đây ông trời này ổng xuống thưa với Đức Phật, cái chuyện mà ổng nhắc tới chư tỳ kheo mình nghĩ là xa với mình. Không. Chuyện của mình đó, của từng người mình đó.

Cái đầu tiên là gì? Chuyện đầu tiên là tôn kính đạo sư. Tôi nói không biết bao nhiêu lần, tôn kính ở đây không có phải đi kiếm một bức tranh, một cái pho tượng về quì lạy xì xụp thâu đêm suốt sáng thì gọi là tôn kính. Mà tôn kính ở đây là phải hiểu lời Phật. Cái này phải ghi:

  1. ta học Phật nhiều ta mới hiểu Phật được nhiều.
  2. Thứ hai, có hiểu được thì mình mới có hành được,
  3. và có hành được thì mình mới thành tựu được cái mà Ngài đã muốn mình thành tựu.
Và cái niềm tin của mình đối với Đức Phật cũng có ba cấp:
  1. Cấp một là thông qua trí văn, thông qua những gì mình đọc, mình nghe.
  2. Thứ hai là thông qua những gì mình gậm nhấm, suy tư, thấm thía, tiêu hóa với riêng mình.
  3. Thứ ba là thông qua cái kinh nghiệm thực chứng tu trì.
Cái kinh nghiệm ở đây chưa chắc là có đắc, chưa chắc mình phải là người đắc, ngay lúc còn phàm đó, tôi nói thiệt là chậm, anh phải học giáo lý, có học giáo lý căn bản cái đã. 

Sắp tới đây tôi có một cái lớp giáo lý trong 10 ngày cho Phật tử tại Thụy Sĩ nè, thì tôi mong là thông qua cái lớp 10 ngày đó, người này vô duyên, vô phước là coi như thằng chổng chết trôi tôi không nhắc tới nữa, nhưng mà nếu hữu duyên hữu phước thì ít nhất người này cũng biết tự tu, nha. Và mai này trôi dạt ở phương trời quên lãng nào đi nữa thì người này cũng có thể tự mình xoay sở về vấn đề giáo lý. Chỉ mất 10 ngày thôi.

Tôi nói rồi, bây giờ các vị học giáo lý, các vị tin Phật ở một cái level, ở một cái mức độ khác, chỉ học suông thôi rồi sau đó ngày dài tháng rộng, các vị mới suy tư, thấm thía, tiêu hóa trên những cái mình học. Lúc bấy giờ mình hiểu về Ngài khác một chút, và cuối cùng các vị phải hành trì, nói cụ thể là các vị sống chánh niệm.

Thông qua đời sống chánh niệm các vị ngộ ra nhiều cái điều mà các vị không có tin được, thí dụ như hồi đó giờ cái miệng mình như con két vậy đó, mình nói là vô ngã, vô thường; không có ai thấm thía vô ngã, vô thường bằng cái người sống chánh niệm hết. Hồi đó giờ mình nói là nhân quả báo ứng, nhân thiện thì cho hỷ lạc, nhân ác thì cho khổ ưu, cũng chỉ là con két.

Chỉ có hành giả tứ niệm xứ sống chánh niệm mới hiểu được tại sao mà cái nhân thiện mà nó cho cái quả hỷ lạc, mà nhân ác cho quả khổ ưu. Người tu chánh niệm họ mới hiểu cái đó, họ mới có dịp họ thấy cái đó, tại vì sao? Là vì cái nhân ác hồi đó giờ nếu mình không học giáo lý là mình phải đợi khi nào nó trổ cái quả nặng nề mình mới hiểu. Mà cũng chưa chắc nữa, mình bị khổ có chắc gì mình chịu nhớ rằng cái ác này nó từ cái nhân nào ra? Làm sao mà mình nghĩ ra được cái đó?

Trong khi đó người tu tứ niệm xứ lại khác, ngay trong lúc tâm tham có mặc là họ đã thấy họ đang khổ vì tâm tham. Trong lúc tâm sân đang có mặt, họ đã thấy rõ ràng họ đang khổ vì tâm sân. Khi mà cái lòng sợ hãi, ghen tỵ, bỏn xẻn, tiếc nuối, ray rứt mà nó có mặt thì hành giả tứ niệm xứ bằng chánh niệm của mình thấy rất rõ rằng từng thứ phiền não này xuất hiện rõ ràng nó làm mình khổ. Bất thiện là nhân khổ, lúc đó hành giả mới thấy, chứ còn mà mình chỉ học giáo lý mà qua chữ nghĩa từ chương thì mấy cái đó mình hỏng có hiểu.

Cho nên tôn kính đạo sư là gì?

Tôn kính đạo sư là
  1. anh phải học giáo lý,
  2. anh phải suy tư,
  3. và anh phải hành trì.
 
Lúc bấy giờ anh hiểu về Phật khác đi nhiều lắm, nhớ cái này nha. Tôn kính đạo sư là như vậy đó.

Và trong cái đêm cuối sắp nhập Niết bàn, Đức Phật đã dạy cho Ngài Anan và chư tăng "Này các tỳ kheo, cách tốt nhất, cao quí nhất, ý nghĩa nhất, linh thiêng nhất để mà cúng dường Như Lai đó là hành trì lời dạy của Như Lai", cái này hình như là có, có bài kinh này, các vị vô lục dùm tôi đoạn cuối của kinh Đại Bát Niết Bàn có cái đoạn này, Ngài nói cách cúng dường tốt nhất. Ngày xưa đó, tôi đọc cái này tôi thấy chắc tại vì Ngài là Phật thì Ngài nói như vậy thôi, Ngài muốn cho mình tu chớ Ngài đâu có thích mình bái lạy Ngài, mình có lạy Ngài thì Ngài có biết đâu, Ngài tịch rồi; thứ hai, Ngài đâu có được cái gì đâu dầu Ngài còn tại thế thì mình lạy Ngài, bây giờ cả rừng nó quì nó lạy Ngài, Ngài có được cái gì đâu? Nhưng mà không, hiểu như vậy cạn lắm, thứ nhất mình nghĩ Ngài là thánh Ngài không có thích gì hết; cái thứ hai, Ngài đâu có mập béo gì đâu; thứ ba Ngài vì lòng đại bi Ngài kêu mình tu, mình đừng có xì xụp vậy phước nó nhỏ lắm, hiểu như vậy.

Nhưng mà không, càng lớn tôi mới thấy, nếu mà thiệt dốc lòng kính Phật, trên đời này không có người nào mà kính Phật hơn người hành lời Phật, tin tôi đi. Anh học bằng trời đi nữa, nếu mà anh không có sống chánh niệm, anh không có sống trí tuệ, anh không có sống thiền định thì cái lòng kính Phật của anh không thể nào rốt ráo được. Tin tôi đi, bởi vì chỉ có cái tay nào mà sống chánh niệm mới hiểu được giá trị của lời Phật sâu sắc, thực tế đến mức nào. Phải tin tôn kính đạo sư là như vậy đó, thưa quí vị.

Giống như hôm nay, tự nhiên các vị tới đưa tôi hình cái bà lạ hoắc nói hình má của sư đó, nhỏ lớn tôi mồ côi đâu biết má tôi là ai, tự nhiên giờ đưa tôi cái hình nói má tôi thì khổ quá, không tin thì không được, mà tin thì tin làm sao đây? Nhất là cái người đưa lại là người tôi thương, tôi quí nữa đó là ba tôi, đó là ông nội tôi đưa, bây giờ tôi biết nghĩ làm sao đây? Nó gượng lắm quí vị, nhưng mà cái này tôi biết có nè, là từ cái thuở ba, bốn tuổi tôi biết cái cảnh mà nhà dột, cột xiêu; rồi má tôi phải buôn gánh bán bưng, những đêm mưa gió mà má gánh cái gánh chè, má đi má rao bán trên những khoảng đường vắng, đêm hôm về má nấu chè nấu cháo má làm nhẹ tay má sợ mình giựt mình thức giấc. Rồi những lần mình bị ấm đầu nóng lạnh má thức đêm má canh, có khi nhà nghèo hỏng có tiền mua thuốc, má đỏ mắt má khóc thầm; rồi má đi má vay gạo, vay tiền để về mua thuốc cho mình. Đó! Cái đó tôi biết má tôi rành như vậy đó, thì mai mốt mà nói tới má một cái là một lít nước mắt nó trào ra, mà khóc bằng máu được tôi cũng khóc bởi vì tôi quá thương má tôi, tôi hiểu má tôi rành lắm. Còn tự nhiên đưa một cái hình một cái bà lạ hoắc rồi nói là má đó thì tôi gượng lắm.

Ở đây cũng vậy, mình biết về Phật ít quá thì cung kính là cung kính cái gì? Mình cung kính cái gì? Nghe đồn Ngài đẹp trai 32 tướng tốt, nghe nói Ngài phù phép giỏi thần thông, Ngài trí tuệ, Ngài minh triết. Thì mình nghe mình cũng quì lạy, nhưng mà cái đầu nó hoang mang dữ lắm. Rồi bây giờ dầu kinh điển mình biết nhiều bằng trời nhưng mà không có đời sống chánh niệm, nghe chậm chỗ này, khi mình không có thu hoạch lợi ích từ lời dạy của Ngài thì cái lòng tôn kính của mình đối với Ngài chưa được tới nơi tới chốn. Tôi nói thiệt là chậm nha, khi mình chưa có thu hoạch được cái lợi lạc từ lời dạy của Ngài thì mình kính là kính chỗ nào? Mình mang ơn là mang ơn chỗ nào? Nói vậy hiểu không ta?

Phải có thu hoạch được lợi ích từ lời dạy của Ngài thì cái ơn đó nó mới lớn. Tôi nhớ hoài cái chuyện mà lần đầu tiên tôi ăn cái phô mai của Thụy Sĩ. Sáng điểm tâm người ta đưa tôi khúc bánh mì nóng, giòn ngon lắm thì mình cảm kích. Còn đằng này đưa cho mình cái miếng bánh mì mềm èo lạnh ngắt hà, rồi một cục phô mai ta nói nó meo mốc không, tôi nói "Trời đất ơi! Sao họ bạc đãi mình dữ vậy ta?" Nhưng mà sao đó mình biết họ cưng mình như má của họ, là tại sao? Cái ổ bánh mì đó tại sao nó mềm, tại sao nó lạnh? Tại nó được lấy từ trong tủ lạnh ra mà. Trên đời này không có cái bánh mì nào mà nó giòn cho bằng cái bánh mì nướng tại chỗ. Và chính vì vậy cho nên họ phải lấy cái bánh mì ở trong tủ lạnh ra để chi ta? Họ cho mình nướng tại chỗ mà mình ngu quá, mình nhà quê, mình hai lúa, mình út nếp không có biết cái đó. Cho nên khi họ mời điểm tâm, mình thấy họ dọn ra mà họ chưa kịp nói, vì họ đang bận cái gì bên kia, là mình nhìn mình hởi ôi, mình để cái bàn tay mình lên trên cái dĩa "Trời ơi sao nó lạnh ngát vậy trời?". Liếc qua phô mai gì mà nó một ổ giống như bánh bao mà bị người ta đạp lên vậy, nó chèm bẹp mà mốc không hà. Sau này mình mới biết đó là một loại phô mai cực ngon, ngon vô cùng. Họ chỉ mua cái đó cho bà cố của họ ăn thôi, mà họ cho mình ăn, rất là ngon, mà meo mốc không. Ai mai này đi về Pháp, về Thụy Sĩ làm ơn nhớ dùm nhiều cái món đồ nguội, mà nhất là phô mai mà thấy meo mốc vậy đó, làm ơn đừng có nghĩ nó hư rồi đem liệng nha. Tôi đã bị một vị sư bạn hại tôi, kỳ đó tôi đi bên Majorca với ông sư bạn, thầy Tuệ Dũng, thầy gặp mấy cái hộp nấm đông cô mà nó bị có chút xíu gì đó mà thầy tưởng là mốc thầy đem liệng hết, mấy người phật tử đi chung tới hồi họ nấu họ hỏi nấm đâu thầy nói thầy liệng mất rồi tại thầy tưởng nó hư. Đấy! Cái vấn đề nó nằm ở chỗ đó.

Tôi nhắc lại thế này, khi mà mình có được lợi ích từ lời của Phật thì phải nói là cảm kích, giống như hồi nãy khi tôi hiểu được "À! cái bánh mì nó lạnh ngắt là bởi vì người ta muốn mình đem đi nướng để mình được ăn bánh mì giòn nhất, mới nhất trên hành tinh. Thứ hai, cái loại phô mai này nó phải có cái vỏ mốc mốc meo meo như vậy mới đúng là nó. Loại Camembert de riz của Pháp là trong cái hộp mà mốc như vậy đó, phải mốc như vậy.

Thì ở đây lời Phật cũng vậy, nếu mà mình chỉ học trong kinh, mình đọc phớt phớt phớt qua mình thấy nó giống như một miếng bánh mì nguội lạnh ngắt, mình thấy một miếng phô mai bị meo mốc, rồi bây giờ kêu mình cảm kích cái người mà cho mình miếng bánh mì, kêu mình cảm kích cái người mà cho mình miếng phô mai, mình cảm kích cái gì? Nhưng mà kể từ lúc tôi biết được, tôi biết được vì sao có hai miếng bánh mì đó, vì sao có miếng phô mai mốc đó, tôi cảm kích cái người đó vô cùng. Hôm nay nhắc lại tôi vẫn còn thương, thương ở chỗ là họ đã kiên nhẫn giải thích cho tôi nghe, họ đã lựa cái ngon nhất trên đời này cho tôi ăn.

Về Phật y chang như vậy, thưa quí vị. Các vị phải thu hoạch cái lợi ích từ lời Phật thì các vị mới có thể thương Phật tới nơi tới chốn, chớ không thì nhìn Ngài cũng như lời dạy của Ngài giống như miếng bánh mì nguội vậy.

1:29:58
22/09/2019 - 06:08 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Rồi tiếp theo là tôn kính pháp, y chang như vậy. Đúng ra tôn kính Phật, tôn kính pháp và tôn kính tăng là một; nhưng vì căn cơ của phàm phu thì đành phải chia ba mà nói chứ trong kinh Đức Phật Ngài chỉ nói có một. Thế nào trong room cũng có người nhảy dựng lên "kinh nào, kinh nào, kinh nào?", kinh này mình học rồi. Khi mà Ngài mới thành Phật, Ngài mới suy nghĩ như sau "Ta có cần đến sống bên cạnh một người thầy, một người bạn nào đó hay không? Ai trên đời này cũng có cha, có mẹ, có thầy, có bạn; riêng ta, ta có cần đến một người thầy, một người bạn trên ta hoặc bằng ta hay không?" Ngài vừa suy nghĩ vậy xong, Ngài lập tức biết ngay rằng bằng Ngài còn không có nói gì có hơn Ngài. Thì Ngài mới suy nghĩ tiếp theo Chư Phật ba đời đã sống ra sao? Có thần tượng, có tôn kính cái gì hay không hay là chỉ biết một mình mình? Thì Ngài biết rằng Chư Phật ba đời luôn thờ kính chánh pháp bởi vì chính chánh pháp đã kiến lập nên cái Phật quả, Phật trí. Chính Phật quả, Phật trí, chính cái sở chứng, sở đắc, cái đạo nghiệp của một vị Phật chính là chánh pháp. Chính chánh pháp được biểu hiện qua Chư Phật. Thế là Đức Như Lai mới suy nghĩ Chư Phật ba đời sống tôn kính pháp, nay ta cũng vậy, không phải bây giờ mà đời sau sau nữa, ai muốn thành đại nhân phải biết tôn kính pháp. Đấy! Tôn kính pháp ở đây là vậy.

Cho nên ở đây pháp với Phật với tăng là một. Phật là người hiểu được pháp, hiểu được pháp sống thể hiện toàn vẹn chánh pháp, rồi đem chánh pháp ấy dạy cho người khác. Tôi nói thiệt là chậm:

Phật là:
  1. người chứng ngộ chánh pháp,
  2. sống thể hiện trọn vẹn tinh thần chánh pháp và
  3. đem ra dạy dỗ chánh pháp ấy cho người khác.
Còn Chánh pháp là:
  1. những gì Phật chứng ngộ và
  2. Phật đem ra giảng dạy.
Còn Tăng bảo là
  1. những người mà hành trì theo lời dạy ấy
  2. thành tựu được cái lý tưởng chánh pháp
  3. nhưng không có thể hiện trọn vẹn chánh pháp như là một vị Phật.
Thí dụ trí tuệ thinh văn làm sao bì; từ tâm, trí tuệ, thiền định của bậc thinh văn không thể bì với vị chánh đẳng chánh giác. Cho nên vị thinh văn nếu mà nói về mặt thể hiện thì vị thinh văn có hiểu 4 đế, 12 duyên khởi, đúng, nhưng mà gọi là sống thể hiện tinh thần chánh pháp thì chỉ có vị Phật chánh đẳng chánh giác mới có thể chứng đắc trọn vẹn, sống thể hiện trọn vẹn. Nhớ tôi xài chữ chỗ này, chữ "thể hiện" đó.

Chớ còn như vậy thì tăng là gì? Tăng là cái vùng nước phản chiếu ánh trăng. Đấy! Một vùng nước có nghĩa là nhìn lên (tôi kêu là cái vùng chớ tôi không kêu là vũng nha, vũng là bất kính) một cái vùng nước phản chiếu ánh trăng, ánh trăng đây là chánh pháp. Đó! Tức là muốn biết chánh pháp ra sao thì một là nhìn vào Phật, mà Phật không còn nữa thì mình vào tăng mà tăng ở đây là thánh tăng đó nha.

Cho nên tôn kính Phật, tôn kính pháp, tôn kính tăng là sao?
  1. Là hiểu được Phật đã đắc cái gì, Phật dạy cái gì.
  2. Hiểu được chưa đủ, học phải hiểu và hiểu để hành.
Khi anh có hành trì thì anh mới thấy 
  1. Phật là đáng kính dường nào, và 
  2. Chánh Pháp là thiêng liêng dường nào, và 
  3. Chúng Tăng là phước điền như thế nào. 
Đó là tôn kính tăng.

Chúng ta phải nhớ chữ tăng ở đây có hai trường hợp, 
  1. một là tăng hành chánh
  2. hai là tăng bản thể
  1. Tăng hành chánh tức là tăng hiện tượng, tức là tăng ở trong tạng luật, là gồm các vị gọi là không tóc, đắp y, mang bát gọi là tăng tạng luật, tăng tạng kinh. Nhưng mà 
  2. Tăng bản thểtăng A tỳ đàm, tăng rốt ráo, tăng nội dung thì chính là những vị từ sơ quả trở lên.
Trong room có nhiều người nổi điên lên nói "Trong kinh ghi là tăng gồm phàm tăng và thánh tăng". Dạ thưa, tôi mới vừa nói đó tăng có hai nhưng mà tăng rốt ráo chỉ kể bậc thánh. Các vị không tin? Cũng trong cái quyển Kinh nhật tụng đó có một đoạn có thấy không ta? Suppatipanno đó, trong đó có ghi "Tăng nếu đếm đôi thì có 4, tăng nếu đếm chiếc thì có 8", các vị có thấy cái đó không ta? Mà cái người viết bài chửi tôi thì nó xui một chỗ là họ không có thấy cái đó. Cho nên tăng bản thể nó khác mà tăng hành chánh, tăng hiện tượng nó khác. Khổ vậy đó!

Notes: Bốn đôi tám vị:


1. Tu đà hoàn đạo --> Tu đà hoàn quả (Nhập lưu)
2. Tư đà hàm đạo --> Tư đà hàm quả (Nhất lai)
3. A na hàm đạo --> A na hàm quả (Bất lai)
4. A la hán đạo --> A la hán quả (Ứng cúng)


Cũng giống như mình nói cái chữ "trí thức" nó có nhiều trường hợp. Có nhiều trường hợp cái chữ trí thức ở đây là cái người gọi là cở tú tài trở lên hoặc là được vài năm đại học thì mình kể là trí thức. Nhưng mà có trường hợp trí thức ở đây mình phải hiểu ngầm là cái trình độ thực tế của đương sự. Thí dụ như nói ổng là thành phần trí thức trong xã hội thì phải hiểu ngầm ổng là bác sĩ, ổng là giáo sư trở lên. Nhưng mà chữ trí thức có một trường hợp nào đó nó không có qui định vấn đề bằng cấp. Có trường hợp bắt buộc phải có bằng cấp, có trường hợp người ta không nói tới bằng cấp.

Không chỉ riêng chữ trí thức, ở Việt Nam mình chữ "tiền" nó có hai nghĩa, một là money, mà cũng có trường hợp tiền là rich là giàu. Các vị có đồng ý cái này không ta? Thí dụ như các vị và tôi đi chung với nhau tới một cây xăng, đổ xăng xong tôi vô cây xăng tôi muốn mua một chai nước. Các vị mò vô bóp không có thì tôi đứng kế bên tôi nói "Không có sao đâu anh, tôi có tiền nè, anh muốn mua cái gì anh mua đi tôi trả". Thì anh Phật tử ảnh mới thò tay ảnh lấy hai chai nước. Các vị nhớ nha, anh Phật tử chở tôi vô cây xăng, ảnh mua nước mà ảnh quên cái bóp, tôi nói "Anh lấy gì anh lấy, tôi có tiền nè". Mười lăm phút sau, đi ngang một cái miếng đất quá là lý tưởng, quá đẹp, có một căn nhà cất sẵn trên đó thì anh Phật tử nói với tôi "Sư, sư mua cái này sư làm Kalama đi sư". Tôi mới nói là "Người ta có tiền chứ tôi làm gì có tiền mà tôi mua anh ơi?" Các vị hiểu không? Bây giờ hiểu chưa ta? Hồi nãy cách đó mười lăm phút, trong cây xăng tôi nói anh muốn lấy gì anh lấy đi, tôi có tiền mà, chữ tiền lúc bấy giờ có nghĩa là money; nhưng mà một lát sau khi mà ảnh kêu mua miếng đất làm thiền viện, tôi nói anh ơi người ta có tiền người ta mua chớ tôi làm gì có tiền mà tôi mua. Thì ở đây cũng vậy, chữ tiền mình hiểu tùy chỗ, trong trường hợp nào, chữ tiền tới đó được gọi là tiền, nhưng có trường hợp mức nào mới gọi là tiền.

Như vậy thì tôn kính Phật, tôn kính Pháp và tôn kính Tăng cũng theo cách đó mà hiểu. Thí dụ như mình nói là "Nghe Pháp,trời ơi, chỉ vô nghe ổng giảng ba cái vụ Vu Lan mà cũng gọi là pháp, nghe đã hôn? Nghe pháp, mà thật ra ổng vô ổng nói ba cái đạo hiếu". Thật ra chữ hiếu không phải là tôi chê, nhưng mà nếu mình đem chữ hiếu mình nâng nó lên thành "Hạnh hiếu là hạnh Phật" gì tùm lum hết, rồi mỗi năm mình làm một cái ngày lễ riêng để vinh danh, thổi phồng tinh thần hiếu, mình quên chuyện khác.

Thật ra hiếu nó chỉ là một phần nhỏ trong cái gọi là giáo lý nhà Phật thôi, bởi vì hiếu nó là lòng tri ơn. Yah, hiếu là lòng tri ơn, tri ơn đối với những gì, với những người, những vật nào mà đã có đem lại lợi lạc cho mình thì mình đều có lòng tri ơn, trong đó có cha mẹ, người đã đem mình vào đời. Đúng, cha mẹ là hai người ơn lớn trong đời của mình, nhưng mà tại sao mình quên chuyện khác, đó là trong đời mình còn nhiều người ơn khác, cái người mà giúp mình thay đổi quan điểm sống, thay đổi quan điểm suy nghĩ, giúp mình đến được với chánh pháp, giúp mình hiểu được đạo giác ngộ đó cũng là người ơn. Cái người tạo điều kiện cho mình tu học cũng là người ơn. Cái người dạy cho mình cái điều mình không biết cũng là người ơn. Nhiều người ơn lắm. Nhưng mà vì chúng ta cái bản chất bạc bẽo, rất là bạc bẽo, chúng ta chỉ biết có tiền không hà.

Tôi nói thiệt, trong room này cho tiền quí vị mang ơn chớ còn nghe pháp thì quí vị nói "Ồ! Cái này ổng nói hỏng biết có đúng không nữa". Nói chung là vừa vong ơn mà vừa ... Thì như vậy các vị tưởng tượng chữ pháp đây ái nghĩa nó rộng lắm, quí vị biết không, chữ pháp nghĩa nó rộng lắm, mà mình xài nghĩa rất là nghèo. Thí dụ mình ngồi mình nghe một ông sư giảng "Đừng có om sòm để tôi nghe pháp". Đấy! Rồi bây giờ đó là mình đi ngồi thiền mình nghe nó mát lạnh mình đi khoe với người ta là tôi đang có pháp. Rồi mình nói về Đức Phật, mình nói Đức Phật là người đã chứng được pháp và đem dạy pháp cho người khác thì chữ pháp tùy chỗ có nghĩa khác nhau.

Và ở đây tôi nói tùy vào cái trình độ của mỗi người mà chúng ta hiểu Phật tới đâu, ta hiểu chữ Pháp tới đâu. Và khi mà chúng ta hiểu Pháp tới đâu thì chúng ta mới hiểu Phật tới đâu và Tăng tới đâu. Còn nếu mà học giáo lý, không hành trì Phật Pháp thì mình hiểu Phật rất là hời hợt, rất là sơ sài, rất là nông cạn, rất là thiển cận, rất là phiếm diện, rất là một chiều. Mà nếu đối với Phật mình hiểu lơ mơ, sơ sài kiểu đó thì đối với Tăng cũng vậy nha.

Tôi nhắc lại một lần nữa, các vị có bất mãn chư tăng thời nay bằng trời các vị hãy nhớ thế này "Chúng ta không thể lấy một cái đám ruộng hư để làm biểu tượng cho toàn bộ cái nền nông nghiệp trên thế giới". Câu này có hiểu không ta? Chúng ta không thể lấy một mảnh ruộng bị sâu rầy làm biểu tượng, làm đại diện cho toàn bộ nền nông nghiệp trên thế giới. Người đó là người bị bệnh, bệnh tâm thần cực nặng, bất trị. Mình bất mãn một cá nhân, một đoàn thể nào đó, hãy nhớ họ chỉ là một mảnh ruộng hư, một mảnh ruộng bị sâu rầy; bị chuột bọ, cua, còng cắn phá. Chớ còn bao nhiêu mảnh ruộng khác trên đời nó vẫn tiếp tục tại chỗ để mình gieo trồng.

Bậy bạ nhất là hồi tin thì chó mèo gì mình cũng tin, cắm đầu mà tin. Tới hồi bất mãn thì là báu châu, ngọc ngà gì mình cũng đem liệng. Thái độ rất là bệnh hoạn, mà khổ thay tôi gặp cái kiểu này hơi bị nhiều. Hồi tin thì tin tầm bậy tầm bạ, cở nào cũng tin, cái đầu với cái mông hỏng có phân biệt. Tới hồi mà bất mãn thì chửi bới không còn nước non nào hết. Cho nên cái lòng tôn kính Phật, tôn kính Pháp không chỉ đơn giản nó rẻ tiền đến như vậy đâu quí vị. Đó là tôn kính Phật, Pháp, Tăng.

1:40:27
23/09/2019 - 01:05 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

1:40:55

Tôn kính học pháp là sao? Ở đây là tôn kính tam học đó. Ở đây thế nào cũng có người ngạc nhiên nói "Ủa sao pháp mà tách riêng tam học". Hỏng phải. Ở đây là nói trên khía cạnh hành trì. Bây giờ hỏi người cư sĩ có tôn kính pháp không? Có. Nhưng mà qua tới tôn kính tam học thì người cư sĩ không bì được với người xuất gia, là vì sao? Là vì cái giới học, định học và tuệ học ở người cư sĩ vô cùng hiếm, hiếm khi có cơ hội mà có thể sánh bằng người xuất gia, tôi đang nói người xuất gia đàng hoàng.

Cho nên trong trường hợp này phải hiểu rằng tôn kính pháp tức là một cái niềm tin chung về những gì Thế Tôn đã giác ngộ, đã dạy cho chúng ta. Nhưng mà qua tới tôn kính tam học ở đây tức là tôn kính con đường hành trì của mình, thì về điểm này mình thấy tôn kính pháp thì tăng, tục có thể giống nhau nhưng mà tôn kính điều học thì khác nhau, là vì sao? Vì người cư sĩ họ có thể coi nhẹ cái giới học, coi nhẹ cái định học, coi nhẹ cái tuệ học. Bởi vì nếu mà họ coi nặng là đã cạo đầu lâu lắm rồi.

Cho nên tôn trọng tam học đây có nghĩa là:
  1. vị ấy trân quí từng cái học giới,
  2. trân quí từng cái khoảnh khắc thiền định,
  3. trân quí từng cái khoảnh khắc quán chiếu tứ niệm xứ,
  4. không có dám lơ là dễ ngươi,
  5. không có dám coi nhẹ một phút một giây thời gian.
Vị đó hiểu rằng:
  1. cơ hội làm người rất khó,
  2. cơ hội sa đoạ rất dễ,
  3. cơ hội gặp chánh pháp lại càng khó hơn.
vị ấy hiểu như vậy đó.

Có nhiều cái câu mà đáng để chúng ta đọc làm thần chú:
  1. "Khó thay được thân người,
  2. khó thay gặp Phật Pháp, 
  3. khó thay có điều kiện học và
  4. tu đúng lời Phật".
Chớ đừng có tưởng là được thân người rồi gặp chánh pháp là ngon, nó còn hai cái sau nữa: được học chánh pháp và có cơ hội hành trì chánh pháp.

Tôi hỏi các vị một câu nhẹ nhàng không có ý bậy bạ ở đây, bây giờ các vị trong room này tôi nghĩ chắc nhiều vị cũng giàu tới mức nào tôi không biết nhưng mà ít nhất cũng dư ăn, dư mặc, trong room tôi nghĩ có. Vậy chứ bây giờ các vị tìm dùm cái chỗ nào mà các vị có thể an dưỡng tinh thần, sống buông hết để mà tu tập thiền định trong ba tháng, trong một điều kiện tương đối thoải mái về thức ăn, về nhiệt độ, về phòng ốc, về vệ sinh, các vị tìm ra không? Không phải dễ đâu. Nói thì dễ chứ nó khó lắm, chứ bây giờ ở đâu? Ở đây ai mách dùm tôi được không? Mách dùm đi, tôi đã nhiều lần có cái ý tôi tìm cái chỗ mà như vậy đó, ước gì có cái chỗ nào mát mẻ một chút, sạch một chút, rồi ăn uống cũng hơi dễ nuốt một chút, ăn uống đồ Việt Nam, ở đâu có?

Cho nên:
  1. mang thân người là khó,
  2. được gặp chánh pháp là khó,
  3. học được chánh pháp là khó và
  4. cái thứ tư đó là có cái cơ hội, cái điều kiện để sống theo chánh pháp, khó vô cùng.
Đấy! Có hiểu như vậy mới được gọi là biết tôn kính học pháp là chỗ đó. Học đây là tam học đó quí vị, khó lắm.

24/09/2019 - 08:54 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
1:43:25

Nói thì nghe đã lắm, họ chống báng mình …, nhưng mà mai này tôi cầu nguyện cho những người đó … đừng có bao giờ đặt chân tới.

Những phường bất nghĩa xin đừng đến,
Hãy để thềm ta xanh sắc rêu.
(Hãy hãy hãy của Nguyễn Bính)

Thà để rêu nó mọc nhưng mà xin các vị đừng có mà đại giá quang lâm mà làm rối loạn lòng tôi. Cái chỗ đó là cái chỗ mát mẽ, ăn đồ Việt Nam, người ta còn chửi tôi là cái resort. Cái chữ resort là tôi nói để cho các vị hình dung thôi chứ tiền đâu mà làm resort? … Cái chữ resort đây có nghĩa là bà con giác trưa ra ngồi bà con ngồi bà con nhìn thấy nước, thấy sỏi, thấy một tí sen, một tí súng của quê hương trong cái thiền viện đó nên gọi đó là cái resort. Chứ sort gì đó mà sort, một năm tôi về đó tối đa chỉ có ba tháng thôi, đó là thời gian đầu, rồi từ từ tôi mới về nhiều chứ. Chín tháng kia là quí vị ở đó dầm dề chứ đâu phải tôi, mà tôi đâu có chức quyền gì ở đó. Quên, bửa nay tôi cũng nói trước, một cái điều nội qui bằng vàng được khắc bằng máu, nội qui đầu tiên treo ở cổng vào Kalama là tất cả chư tăng vào đây không có nhận tiền bên trong Kalama. Quí vị mà lén lút mà chèn, mà nhét là các vị đang phá hoại, các vị là quỉ phá đàng trai, các vị là ma vương, nha. Cái chỗ đó không phải là cái chỗ để mà ông sư nhận tiền của cư sĩ. Muốn cái gì thì nhận ở chỗ khác, hẹn nhau ở ngoài chợ á, bởi vì cái chỗ đó. 

Nếumà Kalama là cái chỗ các vị đem bao thơ vào trong đó có nhiều cái bậy lắm:
  1. Thứ nhất, những người đặt chân vào đó chưa gì hết họ sẽ có cảm giác rằng mình phải tốn tiền để cúng dường mà mình thì hỏng có tiền. Đó là cái đáng thương nhất, nhiều người họ ngại lắm, ở Mỹ mà quí vị biết có nhiều trường hợp đau lòng lắm, người ta không có tiền cash, họ không có tiền tươi, họ không có tiền mặt, cho nên họ đi chùa họ khổ lắm, có nhiều người họ làm gì họ có? Họ đi làm tiền lương nó chuyển hết vào trong nhà băng của họ, bây giờ mỗi lần đi chùa, mỗi lần đi gặp ông sư họ phải chạy đi nhà băng họ rút tiền hay sao? Tội nghiệp lắm. Nên thứ nhất là vì lòng đại bi đối với người nghèo.
  2. Thứ hai, là đối với người có tiền, khi mà họ nghĩ rằng ông sư đang trông đợi mình móc túi cúng cái bao thơ đó, nó mất cái đẹp đi. Các vị mà nhà giàu nghĩ rằng ông sư chắc dòm mình để trông đợi mình cho bao thơ, một suy nghĩ rất là bậy, rất là phạm thượng.
Cho nên đối với tên nhà giàu mình ngừa cái suy nghĩ trịch thượng đó. Còn đối với người nhà nghèo thì mình cũng ngừa cái mặc cảm của họ. Cho nên để dàn xếp đẹp nhất là tất cả tăng ni nào có mặt ở trong cái thiền viện không có nhận tiền và các vị cũng làm ơn không có móc tiền tươi, tiền cash mà bỏ bao thơ cúng cho bất cứ tăng ni nào trong đó. Mình phải làm sạch cái chỗ này, thì có như vậy, mình nhìn nhau mình mới trọng nhau được. Trọng hai phía, quí vị nhìn tôi quí vị cũng trọng, tôi nhìn quí vị tôi cũng trọng, trọng qua trọng lại. Còn đằng này tôi nghĩ các vị đang coi thường tôi và tôi cũng ngược lại, tôi cũng nghĩ các vị háo danh, háo cái gì đó các vị mới đem cho tiền tôi, có trường hợp đó nữa, họ không có cho lén mà họ lựa trước đám đông họ cho không hà, háo danh đó.

Cho nên tốt nhất là một cái điều nội qui được viết bằng máu treo trước Kalama là bà con vào đây không có cúng tiền mặt cho bất có tăng ni nào ở đây và tăng ni ở đây cũng không có quyền nhận trong thời gian ở tại đây để tránh mấy cái trường hợp mà người già nghĩ rằng mấy vị tăng ni đang trông đợi mình, còn nhà nghèo thì họ cảm, tội nghiệp. Cho nên tốt nhất là phải như vậy, đó là cái điều nội qui đầu tiên bằng vàng, bằng máu được ghi ở trước Kalama, còn lý do tôi đã giải thích rồi. Khi mà cái chỗ đó là cái chỗ như bao nhiêu nơi khác, cứ gặp là móc tiền ra nó không có đẹp nữa mà cũng dở lắm. Mình có lòng thương quí nhau dễ ẹc hà, quí vị cho tiền điện đi, cho tiền maintenant, tiền bảo trì các điều kiện vận hành hoạt động của thiền viện là các vị đã bở hơi tai rồi. Bây giờ các vị chỉ trả tiền cho người ta chăm sóc vườn, tức là dầu có hành giả về hay không thì vẫn có một số năm ba người Miến Điện thường xuyên vào đó chăm sóc vườn, làm cỏ, tỉa hoa, thay nước, quét dọn. Đó! có ngon thì cúng cái đó, rồi tiền điện, tiền nước, có ngon thì giúp cái đó. Rồi cái hàng rào Kalama thì tôi phải nói rõ bây giờ mình chỉ có khả năng chạy một góc, một cạnh tường. Bốn cạnh tường mà chúng tôi chỉ chạy được có một cạnh là khu dân cư thôi, chứ còn hai cạnh mà giáp rẫy và một cạnh giáp đường chịu thua. Đó! Giờ có ngon nhào vô làm cái đó, chớ đừng có bao giờ tiền đó thì không chịu cho, mai mốt mà gặp tăng ni cứ đè móc ra cho mà trong khi cái chánh, cái lớn thì không chịu làm. Mình bốn ngàn năm văn hiến mình lưu lạc tới bây giờ vẫn còn lưu lạc. Qua mấy lần vượt biên năm 1954, năm 1975 tới bây giờ mà mình vẫn thua dân Do Thái. Dân Do Thái hai ngàn năm lưu lạc mà cái đầu của họ nó đẹp quá đi, có ai biết đất nước Do Thái nó nhỏ như cái móng tay vậy mà nó nằm ở trong top những nước siêu cường. Năm 1973, nếu mà các cường quốc như Anh, Mỹ, Nga mà không có can thiệp thì đã xảy ra cuộc đại chiến nguyên tử trên cái bán đảo Á Rập. Mà lúc đó, các vị biết không, nguyên cái lực lượng Á Rập nó đông như quân Nguyên mà Do Thái nó chỉ như một con kiến giữa một bầy voi mà tại sao nó dám kênh cái đám kia? Nó có bom nguyên tử, năm 1973 mà nó dám rồi đó, dám xử đó, khiếp chưa?

Cho nên mình phải thấy rằng ở đây cái mạnh cái yếu nó nằm ở tinh thần, nằm ở cái khả năng suy tư. Còn mình cứ ăn rồi lèn èn cái ba cái chuyện nhỏ không làm sao mình khôn lớn nổi. Khổ quá, mà ai nói tới nó thù, tôi biết bửa nay lên facebook nó đè ra nó chửi, tôi biết cái kiểu người mình nó như vậy. Hễ nói thiệt nó đè ra nó chửi, một là nịnh, hai là nói xạo, ba là gian trá thì nó khoái, thì nó thờ, nó lạy, nó liếm gót, cái dân mình như vậy.

1:49:25
25/09/2019 - 04:22 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Rồi tiếp theo là tôn kính thiện ngôn. Ở đây là sovacassatā có nghĩa là dễ dạy. Không phải là tôn kính thiện ngôn mà là dễ dạy. Dễ dạy đây có nghĩa là không phải nhẹ dạ cả tin mà dễ dạy đây có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận cái điều hay lẽ phải mà người khác đã bằng thiện chí hướng dẫn mình, định nghĩa đầy đủ là như vậy. Dễ dạy đây là luôn luôn trong tình trạng sẵn sàng đón nhận điều hay lẽ phải mà người khác đã dùng thiện chí để chia xẻ, góp ý xây dựng cho mình, cái dó gọi là sovacassatā, nhớ cái đó. Dễ dạy đây là như vậy đó, nhớ nha.

Thì mình nói mình học đạo chớ thật ra cái tánh này khó có lắm quí vị, khó lắm. Bởi vì tôi đã nói một tỷ lần rồi, chúng ta có hai cách nhận thức vấn đề:
  1. Một là mình nhận thức vấn đề như nó là, tức là nó làm sao mình thấy như vậy.
  2. Cách hai là mình nhận thức vấn đề như mình muốn.
Đấy! Cho nên mình tưởng mình học đạo mấy cái thiện pháp này mình có mà, nhưng mà không, cái dễ dạy nó khó lắm là bởi vì người ta nói cái gì mà nó thuận ý mình mình nghe, người ta nói vuốt mình, người ta nói nịnh mình, người ta nói ngọt mình thì mình nghe. Chớ còn người mà nó nói cái gì mà nó hơi chỏi mình, nó nói cái gì mà mình có cảm giác nó đang xúc phạm, nó đang tổn thương, nó đang chọt, nó đang chĩa, đang xỉa, đang xói mình, mình chịu nổi không? Không, chịu không nổi, cho nên không phải là người dễ dạy.

Người dễ dạy đây là gì? Nói cho dễ hiểu, người dễ dạy là một bệnh nhân ngoan ngoãn trước bác sĩ mà mình đã chọn, thì đó gọi là dễ dạy. Dễ dạy đây có nghĩa là tâm trạng của một bệnh nhân ngoan ngoãn trước một bác sĩ mà mình đã chọn, có cái "đã chọn" nữa. Nói như vậy không phải tôi kêu các vị làm con chuột bạch để cho người ta muốn làm gì thì làm, hỏng phải.

Phải lựa chọn đàng hoàng và khi đã xác định, xác minh, tin được thì mình chấp nhận cái đắng cay. Đắng cay nghĩa là nhiều khi họ nói những cái hơi sốc nhưng phải nghe, bởi vì sao? Vì có những sự thật cũng hơi khó nghe, không phải có những mà là hầu hết sự thật là rất khó nghe, vì sao? Vì từ bao nhiêu đời kiếp mình sống toàn là bất thiện không hà.

Cho nên bất cứ cái gì mà nó mang cái nội dung đả phá bất thiện thì nó đều có cái hơi hướng là chĩa chống lại mình hết. Nếu như mình là thằng ăn trộm, bất cứ một lời rao giảng đạo đức xã hội nào đi nữa mình cũng đều cảm thấy nó chĩa vô người tại vì mình là thằng ăn trộm. Khi mà là thằng ăn trộm thì bây giờ mình cứ nghe cái gì mà liên hệ tới giáo dục, đạo đức, tôn giáo, tâm linh gì đó mình đều nhột dữ lắm. Còn nếu mình không phải là thằng ăn trộm, mình là một người ngon lành, sạch sẽ, đạo đức thì họ càng nói về đạo đức mình càng sướng vì mình nghĩ rằng họ đang vinh danh mình, nha.

Cho nên để trở thành người dễ dạy thì bản thân anh phải có một cái nội hàm như thế nào anh mới có thể dễ dạy được. Một cái cơ thể ok thì nó mới có thể tiếp nhận được thuốc bổ, tiếp nhận được tất cả các liệu pháp, liệu trình. Biết tôi nói trong room có hiểu không ta? Các vị có nghe kịp không?

Một cơ thể ok thì nó mới có cái khả năng gọi là dễ dàng đón nhận mọi liệu pháp, mọi liệu trình thuốc men. Còn cái cơ thể mà trục trặc là sao? Phản ứng thuốc, đưa cái gì vô cũng sốc, đưa cái gì vô cũng phản ứng, đưa cái gì vô miệng ăn nó cũng ói ra là vô phương. Còn một cơ thể khỏe mạnh là sao ta? Thứ nhất là nó không có nhiều vấn đề. Thứ hai, vấn đề nào cũng được giải quyết rốt ráo, rất là đơn giản. Một là không có vấn đề, hai là nó giải quyết vấn đề rất là đơn giản, là vì sao? Vì nó có khả năng tiếp nhận tất cả các giải pháp một cách rất là đơn giản, dễ dạy là có khả năng tiếp nhận tất cả các giải pháp cho vấn đề của mình. Tôi e rằng không có vị nào có cái định nghĩa quái đản như vậy hết, nhưng mà tôi định nghĩa vậy các vị hiểu không ta? Các vị có hiểu cái này không?

Dễ dạy là có khả năng tiếp nhận các giải pháp cho vấn đề của mình, tôi e rằng đây là một định nghĩa mà đáng để học thuộc lòng, chứ còn nói lơ mơ thành ra là dễ dụ khị thì hỏng được. Dễ dạy không phải là dễ dụ khị mà là khả năng tiếp nhận các giải pháp cho vấn đề của mình.

Đấy! Thí dụ như bây giờ mình ra ngoài nha sĩ họ nói cái răng này phải nhổ là mình nghe nói nhổ là mình đã sốc rồi nhưng mà phải chấp nhận. Và cái thứ hai, muốn nhổ là phải chích thuốc tê, mà chích thuốc tê là phải bị đau. Tất cả cái đó là mình thấy chỉ cần là mình xét thấy hợp lý, nó là chuyện phải làm, nên làm thì "bùm" làm liền. Cho nên là ở đây bà con nhớ vậy đó.

1:54:07

Cuối cùng là tôn kính bằng hữu. Đây, bằng hữu đây là quan trọng. Khi mà anh có lòng tôn kính Phật, Pháp, Tăng như là tôi đã giải thích, có nghĩa là
  1. anh phải có một cái nội hàm như thế nào đó anh phải hiểu
  2. và anh phải hành lời Phật như thế nào đó
thì lúc bấy giờ anh mới có cơ hội thấy Phật, Pháp, Tăng là một khối, tin tôi đi.

Tôi nói một lần nữa nha, có học pháp và hành pháp đến mức độ nào đó thì anh sẽ thấy Phật, Pháp, Tăng là một khối. Mà nếu là một khối thì dầu đó là cái vai của bức tượng hay là đầu gối của bức tượng hay là bàn chân của bức tượng hay là cái đỉnh tóc của bức tượng đều đáng kính hết, là vì sao? Vì tất cả những bộ phận ấy đều là một phần trên một khối thống nhất, trong room có hiểu cái đó không ta?

Khi mà mình hiểu mái tóc, bờ vai, bàn tay và gót chân là một phần của bức tượng thì tự nhiên cái phần nào mình cũng quì lạy được hết á, nha.

Thì ở đây cũng vậy khi mà mình thấy Phật, Pháp, Tăng là một khối thống nhất thì tự nhiên kính Phật, kính Pháp và kính Tăng. Tăng ở đây tôi nhắc lại là những bậc Thánh, nha. Nhiều người họ có cái ngu vầy, thứ nhất họ không chịu nghiên cứu kinh điển họ không biết cái định nghĩa Tăng ở đây là Thánh bắt tôi phải nhét cái phàm Tăng vô, đó là cái bậy thứ nhất. Cái bậy thứ hai, trong kinh rất cẩn thận khi mà định nghĩa Tăng phải là Thánh dầu là người có tóc vẫn được gọi là Tăng.

Khi mà Tăng được định nghĩa như vậy đó thì niềm tin của mình đối với Tăng đời đời bất diệt, "Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng niềm tin ấy không bao giờ thay đổi", là vì sao? Vì bậc thánh không có hai mặt. Còn nhét phàm tăng vô thì dĩ nhiên ok, trong tạng luật, trong tạng kinh thì chữ Tăng là chỉ cho các tỳ kheo, đúng, nhưng mà Tăng nói ở Tăng bản thể, Tăng rốt ráo là chỉ tính Thánh nhân, là vì sao?

Vì một vị Tăng phàm phu có thể hoàn tục, vị Tăng phàm phu có thể lên cơn điên loạn và tự phủ nhận cái giá trị bản thân, vị Tăng phàm phu có thể mất sạch mọi thứ khi mà từ trần, khi bị tâm thần hoặc bản thân người ấy tự ý gọi là phá nát mọi thứ. Nhưng mà riêng một vị Thánh Tu đà hườn không thể nào mắc vào một trong ba trường hợp đó, vị Thánh Tu đà hườn dầu có chết cũng không có mất sạch, vị Thánh Tu đà hườn không có thể bị tâm thần, vị Thánh Tu đà hườn không có tự mình phá hủy những gì, những pháp hạnh nào mà mình đã có, nhớ nha.

Người phàm có à, người phàm đổi đạo, người phàm nổi điên, người phàm mê gái, người phàm mê tiền, người phàm mê danh có thể hủy sạch giới luật, phá tang hoang hết. Có, người phàm có, hoặc là người phàm chết rồi làm con heo, con chó là xong, người phàm bị tâm thần, xong. Nhưng riêng bậc Thánh không có ba vụ này, vị Thánh chết rồi không phải là mất sạch, thứ hai bậc Thánh không có bị tâm thần, thứ ba bậc Thánh không có cái vụ tự mình phá hủy những cái mình có.

Chính vì hiểu được Phật, Pháp, Tăng là một khối cho nên mới có cái thứ sáu đó là vị tỳ kheo nói riêng và người tu Phật nói chung rất trân quí thầy bạn, cái thứ sáu trân quí đồng phạm hạnh đó. Tại sao vậy? Bởi vì khi tôn trọng kính Phật, Pháp, Tăng thì mình cũng phải hiểu rằng đồng phạm hạnh chính là những người mà đại diện cho Phật, Pháp, Tăng trong chỗ này, trong thời điểm này, nghe kịp không?

Khi mà mình có lòng quí Phật, quí Pháp, quí Tăng thì mình gặp ai mà có cái dấu hiệu tu học là mình quí vô cùng vì mình đã thấy ở đó có bóng dáng lấp lánh ánh sáng lung linh của châu báu, mình thấy ở họ là một vùng nước phản chiếu ánh trăng, mình có thể mình quì mình lạy được nếu mình yêu trăng.

Đấy! Trong khi đó nếu Phật Pháp hiểu không tới nơi thì Phật mình kính không nổi, Tăng mình kính không nổi, và nếu Tam bảo mình kính không nổi thì tam học mình kính không nổi. Mà nếu tam học mình kính không nổi thì khả năng tiếp nhận của mình ở đâu mà có? Và khi anh không có khả năng tiếp nhận thì sao ta? Anh coi thầy bạn như rác vậy đó, anh hiểu không? Khi mà anh không có những cái đó thì anh coi thầy bạn như rác mà trong khi đó nếu mà anh có một nội hàm tu dưỡng ngon lành, anh có một kiến giải Phật học ngon lành, anh có cái lòng kính tin Tam bảo ngon lành thì tự nhiên anh sẽ rất tôn quí thầy bạn, anh thấy thầy bạn là những vùng nước phản chiếu ánh trăng.

Thầy bạn là những tấm gương mà xuyên qua đó, thông qua đó anh thấy cái bóng dáng của Chư Phật, của Chư Thánh ba đời mười phương, anh thấy trong đó cái bóng dáng của đạo giải thoát, của con đường giác ngộ, anh thấy ở đó một điểm tựa cho mình khi cần thiết, những khi mình sa cơ yếu lòng nha.

Hẹn gặp lại bà con ngày chủ nhật. Chúc bà con một ngày vui.

Mục lục các bài giảng

(Hết)
Reply
(2020-03-03, 09:55 AM)abc Wrote: bạn LTP , bạn hỏi tui rồi tui biết hỏi ai đây?

kinh này tựa lời cảm hứng , có lẽ sư cảm hứng rồi giảng theo cảm hứng chăng? j/k

theo bài giảng và chánh kinh thì không thấy có liên hệ gì mấy , nhưng sư nhiều khi giảng đi theo những gì chợt thấy ra và nhiều, nhiều lần sư giựt mình hỏi ủa , tui đi tói đâu rồi ?

theo tui thây' bài giảng kinh này liên quan đến kinh pháp môn quyết trạch nhiều hơn , có thể vì khi thu âm , đoạn mà sư nói kinh lời cảm hứng xong giờ qua kinh quyết trạch ... mà khúc đó không có thâu  , giờ chép lại nên đọc thây' không khớp

nhưng mà đọc bài giảng đó nhiều cái để học , i like  i like ( i like giống teen quá )

còn kinh lời cảm hứng thì nói về Đề bà đạt đa , mà vì sao một "người" dễ thương như Đức Thế Tôn lại có ngươi ghét cay ghét đắng , tại sao?

Bác abc,

Tựa đề và bài giảng của Sư Toại Khanh đôi khi không ăn nhập vào nhau đó bác .  Ví dụ:

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%A5t%20Lai

có tựa đề là KTC.6.65 Vị Bất Lai, nhưng không phải .  Bài giảng có 2 phần:

1/ Mở đầu: Sư muốn nói thêm về bài KTC Sư tử Hống (Sinh tử vs. Sinh diệt).
2/ Tiếp theo  vào phút 04:53, Sư mở đâu: "Rồi hôm qua chúng ta đã học xong cái kinh 65. Hôm nay chúng ta học kinh 66."  Bài kinh 65 là bài Vị Bất Lai đã học xọng  Bài kinh 66 là bài A La Hán .

Co' le~ ban biên tập ghi lộn .   Hình như Sư có ý sẽ cho in các bài giảng thành sách .  Như vậy, chúng ta có nên báo cho ban biên tập biết không ?
Reply
bạn LTP ,

những gì lợi mình , lợi người thì làm thôi

:full-moon-with-face4:
Reply
(2020-03-09, 01:19 PM)abc Wrote: bạn LTP ,

những gì lợi mình , lợi người thì làm thôi

:full-moon-with-face4:

LTP sẽ liên lạc với Sư.  :)
Reply
(2020-03-15, 08:56 AM)LeThanhPhong Wrote: Ở đời có hai thứ hạnh phúc. 
  1. Thứ nhất là càng tỉnh táo càng hạnh phúc. Và 
  2. Thứ hai, là phải có cái u mê mới hạnh phúc. 

Tại sao mình thich/ghét 1 cái thứ gì đó? Là vì 3 lý do:

1. Tiền nghiệp, nghiệp của quá khứ. 

2. Khuynh hướng tâm lý. 

3. Môi trường sống hiện tại. 

Bee thấy đúng  Thumbs-up4 Tulip4 Heavy-black-heart4 Cheer

Một Ngày Bình Yên ! 
Trong Đám Hoa Rừng .
Heavy-black-heart4
Innocent 


Reply
Good morning, sis Bee,


LTP rất thích lời giảng của Sư Toại Khanh vì những điều Sư giảng rất súc tích và cô đọng. 

Cám ơn sis đã theo dõi các bài LTP chia xẻ .

Mến,
LTP
Reply
Nguyên Lý Duyên Sinh - Phật Học Cơ Bản - THƯ VIỆN HOA SEN

https://thuvienhoasen.org/a16266/nguyen-ly-duyen-sinh

NGUYÊN LÝ DUYÊN SINH
Nguyên Minh



[Image: bonghong.jpg]

Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng sự thật là còn có rất nhiều điều ta không nhìn thấy nhưng vẫn đang hiện hữu đồng thời với sự vật, hiện tượng mà ta nhìn thấy.

Ngắm nhìn một bông hoa, ta chỉ thấy được vẻ đẹp qua màu sắc, đường nét của những cánh hoa, nhưng cái ta không nhìn thấy là sự sống của bông hoa ấy với vô số những điều kiện tương quan cần thiết, chẳng hạn như nước được hút lên từ lòng đất với dưỡng chất để tạo thành nhựa cây, ánh nắng từ không trung tỏa chiếu, vừa sưởi ấm để tạo nhiệt độ cần thiết, vừa giúp vào quá trình quang hợp của lá cây, cho đến thành phần không khí mà cây hoa phải dùng đến trong “hơi thở” của nó...

Nhưng tất cả những gì ta không nhìn thấy đó lại là những điều kiện tất yếu cho sự tồn tại vẻ đẹp của bông hoa. Không có nước, cây sẽ héo úa. Không có dưỡng chất, cây sẽ không thể sinh trưởng. Cho đến không có không khí, không có ánh nắng... đều sẽ dẫn đến sự không tồn tại của bông hoa xinh đẹp kia...

Vì thế, cho dù không nhìn thấy được những yếu tố vừa mô tả, nhưng ta hoàn toàn có thể nhận biết được chúng qua sự tồn tại sống động của bông hoa. Bông hoa tươi đẹp còn đó, có nghĩa là vẫn còn có sự hiện hữu của đất, của nước, của ánh nắng, của không khí... và vô số những yếu tố khác nữa cần thiết cho sự sống của nó.

Tương tự như vậy, chúng ta có thể và cần phải nhận biết mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc sống này một cách sâu xa và toàn diện, nghĩa là trong mối tương quan với sự hiện hữu của chúng. Chúng ta sẽ không thường xuyên giữ được những bông hoa đẹp nếu chúng ta không nhận biết được gì về điều kiện tồn tại của nó.

Vì không nhận biết, ta sẽ có thể vô tình làm hại đến bông hoa, và vì thế nó sẽ không còn tồn tại để cho ta nhìn ngắm. Nếu bạn mang một chậu hoa vào nhà, nó sẽ không thể sống khỏe được vì thiếu ánh nắng. Nếu bạn cắt rời một bông hoa ra khỏi thân cây, nó sẽ héo rũ vài ba ngày sau đó.... Và nếu bạn không nhớ tưới nước cho cây hoa, nó sẽ không thể cho bạn những bông hoa xinh đẹp.

Mọi hiện tượng quanh ta đều không tồn tại độc lập. Chúng luôn có mối tương quan tồn tại và chi phối lẫn nhau. Ngay cả sự tồn tại của mỗi cá nhân chúng ta cũng không phải là ngoại lệ. Chúng ta không thể nhìn thấy nhưng cần phải nhận biết điều đó. Sự sống của chúng ta là một chuỗi tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp với tất cả mọi người quanh ta, với những người khác trên thế giới này, và cả với vô số những yếu tố, điều kiện, nhân duyên khác. Chính vì không nhận biết được những điều này mà con người đã gây ra biết bao tổn hại cho chính mình qua việc tàn phá môi trường, hủy hoại hệ sinh thái, và thậm chí là gây tổn hại trực tiếp cho nhau về cả vật chất lẫn tinh thần.

Khi chúng ta nhận biết mọi hiện tượng, sự vật trong mối tương quan tồn tại với vô số hiện tượng khác, chúng ta sẽ không còn cảm thấy ưa thích hay ghét bỏ một hiện tượng nào đó, bởi vì ta nhận ra rằng sự ưa thích hay ghét bỏ như vậy là hoàn toàn không hợp lý. Làm sao bạn có thể yêu thích bông hoa và ghét bỏ khối phân dùng để bón cho cây hoa ấy? Khi bạn hiểu rằng sự có mặt của khối phân là điều kiện tất yếu giúp cho bông hoa kia tồn tại, bạn sẽ thấy rằng thái độ bình đẳng đối với cả hai mới là hợp lý.

Điều này cũng xảy ra đối với sự tồn tại của mỗi người chúng ta. Khi bạn cảm thấy không ưa thích một sự việc nào đó, hãy dành thời gian để thử suy nghĩ lại. Liệu sự việc mà bạn ghét bỏ đó có phải là hoàn toàn không liên quan đến sự tồn tại của bạn hay chăng? Tôi tin rằng câu trả lời là không. Bởi vì khi bạn nhận biết vấn đề theo cách như trên, bạn sẽ thấy là không một yếu tố nào trong cuộc sống này lại không liên quan – trực tiếp hay gián tiếp – đến sự sống còn của mỗi một cá nhân.

Có những mối quan hệ trực tiếp mà bạn có thể dễ dàng nhận biết, nhưng cũng có những mối quan hệ tưởng như rất mơ hồ vì sự xa xôi, cách biệt, nhưng xét cho cùng vẫn luôn có sự chi phối, ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta. Ta cần có sự quán xét sâu xa và sáng suốt hơn mới có thể nhận ra được những mối quan hệ tinh vi như thế.

Này nhé, ngày hôm qua giá xăng dầu vừa tăng cao, và bạn biết ngay là ngân sách chi tiêu của gia đình sẽ phải có sự thay đổi, điều chỉnh thích hợp. Nhưng bạn có biết vì sao giá xăng dầu tăng cao hay chăng? Có lẽ để nhận biết điều này bạn cần phải quan tâm đến thời cuộc thế giới, đến sự phân tích của các chuyên gia.v.v...

Nhưng tôi thật không có ý muốn bạn đi sâu vào những vấn đề rối rắm như thế. Tôi chỉ muốn nhắc bạn một điều là, những gì ta không nhìn thấy không có nghĩa là không hiện hữu. Và vì thế, chúng ta không thể phủ nhận vô số những điều kiện đã và đang chi phối cuộc sống của chúng ta.

Đạo Phật trình bày những mối tương quan chằng chịt trong cuộc sống như thế trong một nguyên lý gọi là “duyên sinh”, và được kinh Hoa nghiêm mô tả như là “trùng trùng duyên khởi”.

Theo nguyên lý duyên sinh, tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều không thể tự nó sinh khởi. Sự sinh khởi của mỗi một sự vật, hiện tượng đều là do kết hợp bởi một số nhân duyên nhất định nào đó, nhưng mỗi một nhân duyên trong số này lại cũng là sự kết hợp của một số nhân duyên khác nữa. Và vì mối tương quan này được nối dài không giới hạn nên khi xét đến cùng thì tất cả mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ pháp giới đều có liên quan với nhau, đều nương theo nhau mà sinh khởi và tồn tại.

Kinh Hoa nghiêm mô tả mối tương quan này bằng hình ảnh một tấm lưới được giăng ra vô tận trong không gian. Ở mỗi một mắt lưới có đính một viên ngọc sáng. Một cách khéo léo, người giăng lưới đã tính toán sao cho tất cả các viên ngọc đều được phản chiếu trong mỗi một viên ngọc. Và vì thế, khi chúng ta nhìn kỹ vào bất cứ một viên ngọc nào, chúng ta cũng đều thấy được vô số những viên ngọc khác trong toàn tấm lưới.

Toàn thể vũ trụ được mô tả là tương tự như thế. Mỗi một sự vật, hiện tượng đều có thể được nhận biết nơi những sự vật, hiện tượng khác, vì sự tương quan tồn tại của chúng. Và nguyên lý này có thể vận dụng ngay vào những gì đang hiện hữu quanh ta để xóa đi mọi nhận thức phiến diện, hẹp hòi. Khi nhận biết được mối tương quan thật có giữa mọi sự vật, hiện tượng, chúng ta sẽ không còn cảm thấy khó chịu hay bực mình vì một sự việc nhỏ nhặt nào đó đã không diễn ra theo đúng ý mình. Bởi vì khi nhìn sâu vào sự việc bất như ý đó, chúng ta cũng thấy được vô số những sự việc quan trọng và cần yếu khác sở dĩ có được là nhờ nó.

Vì không có một sự vật hay hiện tượng nào có thể tự nó sinh khởi, nên chúng ta cũng có thể hiểu được rằng sự sinh khởi của mỗi một sự vật hay hiện tượng chẳng qua chỉ là sự kết hợp của những nhân duyên nhất định. Khi những nhân duyên không còn nữa, sự vật hay hiện tượng đó cũng sẽ mất đi.

Do ý nghĩa này nên thực sự không hề có sự sinh ra hay diệt mất của sự vật, hiện tượng như cách nhìn thông thường chia cắt thực tại của chúng ta. Một bông hoa hiện hữu là do có sự hiện hữu của những điều kiện như mặt trời, không khí, nước tưới, phân bón... Bông hoa chưa từng thực sự sinh ra mà chỉ là kết quả sự hội tụ của những điều kiện nhân duyên khác. Tương tự như vậy, khi những điều kiện nhân duyên không còn đầy đủ, bông hoa sẽ không còn hiện hữu và ta gọi là mất đi. Nhưng thực ra cũng không có sự mất đi của bông hoa – vì nó chưa từng sinh ra – mà chỉ có sự tan rã của những điều kiện nhân duyên tương ứng.

Trong cách nhìn nhận thông thường của chúng ta về vũ trụ, cách hiểu như trên có vẻ như thật xa lạ. Nhưng nếu bạn càng suy xét kỹ, bạn sẽ càng thấy được tính hợp lý, xác thật của nó. Chính cách hiểu sai lệch về sự “sinh ra” và “chết đi” đã là nguyên nhân mang đến cho chúng ta vô vàn đau khổ. Chúng ta bám lấy những người thân yêu của mình và mong muốn họ sống mãi với chúng ta.

Điều mong muốn vô lý ấy – và vì thế chẳng bao giờ có được – lại được xem là phù hợp với nhận thức của mọi người, với “thế thái nhân tình”. Khi nhân duyên tan rã, người thân ấy không còn nữa và ta gọi đó là “mất đi”. Vì không hiểu được đó chỉ là sự tan rã tất nhiên của những điều kiện nhân duyên, nên ta đau khổ, quằn quại và mong muốn cho sự thật thay đổi. Nhưng rõ ràng đó chỉ là một nhận thức và mong muốn hoàn toàn vô lý nên chẳng bao giờ đạt được. Chúng ta từ chối nhận biết sự thật theo đúng như nó đang diễn ra, và vì thế mà ta đau khổ!

Đối với vô số những vật sở hữu, tài sản của cải trong đời sống, chúng ta cũng luôn nhìn nhận, ôm giữ theo cách tương tự như thế. Trong rất nhiều điều kiện nhân duyên để một sự vật tồn tại thì sự đóng góp của ta chỉ là một phần nhỏ, nhưng ta luôn muốn quyết định sự việc, muốn ôm giữ mãi mãi những vật mình yêu thích. Và khi những điều kiện nhân duyên khác tan rã, sự vật không còn nữa thì chúng ta đau khổ, tiếc nuối...

Sự nhận biết và truyền dạy giáo pháp nhân duyên sinh của đức Phật là một cuộc cách mạng tư tưởng vĩ đại vào thời bấy giờ, và điều đó được nhận biết bởi tất cả những bậc trí thức đương đại. Khi ngài Xá-lợi-phất (Śāriputra) còn chưa gặp đức Phật, ngài là một đệ tử xuất sắc của ngoại đạo. Mặc dù vậy, ngài chưa bao giờ hài lòng với những giáo pháp đã học được từ vị thầy ngoại đạo. Ngài đã từng có giao ước với một người bạn chí thân là ngài Mục-kiền-liên (Maudgalyāyana), rằng nếu ai tìm được bậc minh sư thì sẽ lập tức giới thiệu với người kia biết để cùng theo học.

Một hôm, Xá-lợi-phất gặp một vị tỳ-kheo trên đường đi khất thực. Vị này tên là A-thuyết-thị (Aśvajit), là một trong những đệ tử của đức Phật. Nhìn thấy phong cách siêu việt thoát trần của vị tỳ-kheo, ngài biết ngay đây là một người đang tu tập theo đúng con đường giải thoát. Ngài liền hỏi A-thuyết-thị xem vị này đang theo học với ai. Vị tỳ-kheo chậm rãi trả lời bằng bốn câu kệ như sau:

Nhược pháp nhân duyên sinh,
Pháp diệc nhân duyên diệt.
Thị sinh diệt nhân duyên,
Phật Đại Sa-môn thuyết.

Tạm dịch:

Các pháp nhân duyên sinh,
Cũng theo nhân duyên diệt.
Nhân duyên sinh diệt này,
Do Đức Phật thuyết dạy.

Vừa nghe xong bài kệ, ngài Xá-lợi-phất biết ngay rằng mình đã gặp được bậc minh sư từ lâu mong đợi. Vì chỉ qua bốn câu kệ ngắn ngủi, ngài đã thấy được sự sụp đổ hoàn toàn của toàn bộ nền tảng giáo lý ngoại đạo. Không những thế, những niềm tin sâu xa về một đấng Phạm thiên hay Thượng đế toàn năng sáng tạo vũ trụ cũng hoàn toàn sụp đổ, bất chấp sự ngự trị của nó trong môi trường triết học và tín ngưỡng Ấn Độ từ bao nhiêu thế kỷ qua. Tất cả đều không thật có, chỉ có sự kết hợp và tan rã của các nhân duyên đã tạo nên sự thành hoại của mọi sự vật, hiện tượng trong vũ trụ!

Sau lần gặp gỡ đó, ngài Xá-lợi-phất đã cùng ngài Mục-kiền-liên tìm đến với đức Phật, và họ trở thành 2 trong số 10 vị Đại đệ tử kiệt xuất của đức Phật.

Nguyên lý duyên sinh hoàn toàn không phải do đức Phật nghĩ ra. Ngài chỉ là người đầu tiên nhận biết được nó và mô tả lại một cách chính xác, giúp chúng ta cũng có thể nhận ra được giống như ngài. Sự hình thành và tan rã của tất cả mọi sự vật, hiện tượng do nơi nhân duyên là một sự thật khách quan, và vì thế cho dù bất cứ ai cũng không thể phủ nhận được điều này.

Việc nhận hiểu sâu sắc về nguyên lý duyên sinh giúp chúng ta có một nhận thức khách quan và chính xác về thực tại, và do đó cũng dẫn đến những thái độ ứng xử khôn ngoan và chính xác. Nếu như bạn không thể nắm kéo một cây hoa lên vì muốn nó mau lớn, thì bạn cũng không thể tìm mọi cách níu giữ những gì bạn yêu thích để chúng được tồn tại mãi mãi. Cả hai việc này đều đi ngược với nguyên lý duyên sinh, nhưng việc thứ nhất bạn có thể dễ dàng hiểu được, trong khi việc thứ hai lại là sai lầm của đại đa số con người.

Điều kỳ lạ là, rất nhiều người trong chúng ta dành thời gian nghiên cứu, học hỏi về thuyết tương đối của Albert Einstein để có thể nhận biết chính xác hơn về thế giới vật chất quanh ta, nhưng lại ít người tìm hiểu về nguyên lý duyên sinh để có thể nhận biết một cách chính xác hơn về mọi sự vật, hiện tượng trong đời sống!

Khi bạn thấu triệt được nguyên lý duyên sinh, bạn sẽ có thể rèn luyện được khả năng nhận biết sự việc không giới hạn trong những gì nhìn thấy, mà luôn có sự mở rộng đến những gì tương quan. Hơn thế nữa, vì nguyên nhân sâu xa thực sự của vấn đề đã được nhận biết, nên bạn sẽ không còn bực tức hay oán giận đối với những nguyên nhân cạn cợt bên ngoài của sự việc. Mọi sự việc đều diễn ra theo tiến trình kết hợp các điều kiện nhân duyên, nên chúng ta không thể khởi tâm yêu ghét đối với một trong số các nhân duyên đó.

Nhờ nhận biết được tính chất duyên sinh của mọi sự vật, hiện tượng, chúng ta không còn cảm thấy khó chịu hay bực tức đối với mọi sự việc không tốt xảy đến cho mình, và cũng không còn say mê, tham đắm đối với những sự vật mà ta cho là tốt đẹp, đáng yêu. Điều đó mang lại cho ta một trạng thái tâm thức luôn bình thản và sáng suốt, luôn nhận biết và đón nhận mọi sự việc xảy đến cho mình một cách an nhiên tự tại. Đó chính là khả năng nhẫn nhục được gọi là “đế sát pháp nhẫn”.

Trong mức độ nhẫn nhục này, thực ra cũng không có cả sự nhẫn chịu. Bởi vì mọi việc đều diễn ra do tiến trình kết hợp và tan rã của các nhân duyên, nên chúng ta chỉ nhận biết và an nhiên chấp nhận chứ không có gì gọi là chịu đựng. Khi một cảm giác đau đớn sinh khởi, ta nhận biết sự sinh khởi của nó do những nhân duyên nhất định, và biết rằng nó sẽ mất đi khi các nhân duyên không còn nữa. Vì thế, ta có thể an nhiên nhận biết sự tồn tại và qua đi của nó mà không có bất cứ sự bực tức, khó chịu hay oán hận nào cả. Và một sự chấp nhận hoàn toàn tự nhiên như thế không phải là một sự chịu đựng theo nghĩa đen của từ ngữ.

Đối với tất cả mọi trạng thái đau khổ hay những sự tổn hại do người khác gây ra, ta cũng đều có thể đón nhận theo cách tương tự như thế. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể thấy là nại oán hại nhẫn và an thọ khổ nhẫn đều đã được bao hàm trong đó.


Như đã nói, nguyên lý duyên sinh đưa đến nhận thức rằng mọi sự vật không hề thực có sự sinh ra và diệt mất. Vì thế, nguyên lý này cũng được gọi là vô sinh hay vô sinh diệt, và pháp nhẫn nhục đạt được do sự thấu triệt nguyên lý này cũng được gọi là Vô sinh pháp nhẫn.

Vô sinh pháp nhẫn cũng là quả vị chứng đắc đầu tiên của hàng Bồ Tát, khi mà mọi sự oán ghét, thù hận đều hoàn toàn tan biến, và vị Bồ Tát có thể sinh khởi tâm từ bi bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.

Nhưng nói thật lòng, khi viết lại những dòng này theo ý nghĩa được đọc thấy trong kinh điển, tôi cũng không dám mong rằng sẽ có bạn đọc nào đó nhân nơi đây mà đạt đến mức độ Vô sinh pháp nhẫn của hàng Bồ Tát. Tuy nhiên, tôi thật sự có hy vọng và chân thành mong ước rằng tất cả chúng ta – các bạn và tôi – đều có thể nhận biết được sự chính xác và hợp lý trong những gì được mô tả ở đây, và vì thế mà có thể chấp nhận những điều này như một khuôn mẫu hướng đến trong sự học hỏi vươn lên hoàn thiện bản thân mình.

Chỉ cần được như vậy thôi, chắc chắn bạn sẽ thấy rằng có rất nhiều vấn đề trước đây giờ bỗng nhiên không còn nghiêm trọng nữa, nhiều sự căng thẳng cũng không còn nữa, và nhất là sẽ có rất nhiều người quanh ta bỗng trở nên hiền hòa, dễ mến, hoặc ít ra cũng không còn đáng ghét như trước đây!

Tulip4
Reply
Sư Toại Khanh Giảng về Quan Hệ Giữa Duyên Hệ và Duyên Sinh (1-4)

https://youtu.be/cDdxF91xgwg

(Bài này chưa được ghi chép xuống.  Chúng ta cùng nhau nghe Sư giảng vậy.
Xem bài đã được ghi chép tại trang 45, posts 672-674)

Duyên sinh là hành trình sinh tử của phàm phu với một chuỗi mắt xích nhân quả ghép nối nhau của bốn nhân quả thiện ác (nhân lành, quả lành, nhân xấu, quả xấu).  Người tạo nhân lành đi về cõi vui, vui cách mấy rồi cũng vô thường.  Nhân xấu đưa chúng sanh về cõi khổ, khổ cách mấy cũng vô thường.

Dòng luân hồi là sự tiếp nối nhau của những thứ vô thường ấy.  Nhân vô thường là sao? Là có lúc làm nhân ác, có lúc làm nhân thiện. Đúng không?  Nếu nhân vô thường thì quả cũng vô thường. Đúng không? Co' lúc khổ, co' lúc vui. Đâu có khổ là cứ khổ hoài, đâu có vui là còn vui hoài, cũng như đâu có thiện là cứ thiện hoài.  Ví dụ như có vị Phạm thiên tu thiền tinh tấn ở cõi Phạm Thiên; ông vào cõi người tu một thời gian đắc thiền, đi về Trời.  Như Bồ Tát trước khi là Phật Tổ, cũng có kiếp này có kiếp khác, không phải kiếp nào cũng tu hành. Cho nên sống trong cõi đời này thì nhân vô thường thì quả cũng vô thường. Chính vì nhân quả vô thường, cho nên đời sống này có lúc mình thiện, có lúc mình ác, có lúc mình vui, có lúc mình buồn.

4:00

Còn duyên hệ là những cách thức mà các mắt xích duyên sinh ráp nối nhau .Về mối liên hệ giữa duyên sinh và duyên hệ thì ta có thể hình dung qua ví dụ như sau: con cái phải nhờ cha mẹ mà có mặt ở đời rồi lớn khôn; đó là duyên sinh; và cha mẹ hỗ trợ cho con cái về các khía cạnh thể chất di truyền, bú mớm cơm áo, y tế rồi học hành. Những khía cạnh này tạm hiểu là duyên hê.

Duyên sinh là gì ?  Duyên sinh là do các thiện ác mới có mặt của mình ở đời; những thiện ác đó có quan hệ với nhau như thế nào thì gọi là duyên hệ.  Nhờ có cha mẹ nên tôi mới có hình hài này; đó là duyên sinh.  Cha mẹ giúp đỡ tôi những phương diện nào (giúp đỡ về giáo dục, về y tế) thì gọi là duyên hệ.  Tức là cha mẹ giúp tôi có mặt ở đời là duyên sinh, mà giúp bằng kiểu nào thì đó là duyên hê. Duyên sinh giải thích cho ta biết vì đâu ta có mặt ở đời, duyên hệ cho ta biết hành trình hiện hữu ấy được diễn ra như thế nào. Duyên sinh cho ta biết vì đâu ta có mặt ở đời, duyên hệ tính rộng ra: anh có mặt theo cách nào .  Duyên sinh không thôi nó hẹp lắm .  Cô đó giúp tôi nhiều lắm mới là duyên sinh  thôi; nhưng giúp ra sao thì đó là duyên hệ . 

Tại sao lại có phần duyên hệ ? Là vì chỉ riêng duyên sinh ... Có người học chỉ duyên sinh thôi là đủ rồi, nhưng phải la học duyên hệ để thấm thía thế nào là VÔ NGÃ .  Thứ nhất, họ biết cái đồng hồ này là đồ lắp ráp: đó là duyên sinh, còn duyên hệ cho biết cái đồng hồ này hoạt động bằng cách nào: không có pin là không chạy được.

Duyên sinh cho ta biết vì đâu ta có mặt ở đời .  Duyên hệ giải thích rõ mối quan hệ giữa các thứ duyên .  Ví dụ: Trong 12 duyên, có một duyên luôn luôn có mặt đó là thường cảnh ..(?).  Bất cứ một tốt xấu nào diễn ra trong tâm thức của mình đều để lại một dấu ấn nhạt hay đậm .  Cái dâu ấn ấy được Đức Phật gọi là thường cảnh ...(?).  Nếu mà cái ác hay cái thiện đó xuất hiện nhiều lần sẽ để lại một dấu ấn rất sâu đậm . Còn nếu cái ác đó chỉ qua loa thì dấu ấn ấy rất nhạt nhoà . 

12:20

Ví dụ: Tôi ở với một người có cái ngu, nó nói xấu ông sư ổng thuyết pháêp đem ra ví dụ nó chửi nói xấu không còn cái lai quần nào . Tôi đọc rộng lắm . Trẫm là người đọc vô cùng rộng . Không phải mất thì giờ, tiện thì đọc, không có gì hết thấy tờ báo của người ra tôi lượm tôi đọc .  Đọc xong nó không chịu quên.  Thế là nó nằm ở trong đây, tôi móc ra tôi xài .  Tại sao tôi biết Victoria Secret?  Tại vì tôi đọc trong nhà tắm . Nó không chịu quên .  Tôi uống thuốc tôi tự vận à ?  Nó không chịu quên .

13:00

Chuyện này thuộc thời Đức Phật Ca Diếp, vị Phật cuối cùng trước Đức Phật Thích Ca .  Có hai ông bà ở vùng quê, ngày ngày đến chùa tụng kinh; 'Thân này được cấu tạo bởi 2 thứ danh sắc ... Thân này được cấu tạo bởi 5 uẩn ... Thân này được cấu tạo bởi 12 xứ ... Thân này được cấu tạo bởi 18 giới ..." Họ chỉ hiểu lan man là đồ ráp không thôi . Họ không hiểu 5 uẩn là cái gì, chỉ hiểu là đồ parts, mà không ngờ cái đọc đó trở thành ấn tượng .  Khi họ gặp vị Phật Chánh Đẳng Giác nhắc cho họ nghe .  Chữ "Tỳ Kheo" ở đây là người hiểu được sự cấu tạo (structure, construction) của tấm thân này . Khi nghe Ngài nói như vậy, cái ấn tượng xưa bèn sống dậy, lập tức họ hiểu rằng đồ này là đồ ráp, buồn vui cũng là đồ ráp, mình thích cái này cũng là thích đồ ráp .

14:22

Ngài Xá Lợi Phất đi theo ngoại đạo để cầu đạo giải thoát, gặp Ngài Asaji, thâ;y Ngài Asaji có phong phạm đẹp, là vị A La Hán mà .  Ngài quý quá .  Ngài mon men đi theo Ngài Asaji cho đến khi Ngài Asaji dừng lại ở gốc cây, ngồi xuống để ăn trưa .  Ngài Xá Lợi Phất quỳ  xuống, lấy nước dâng lên cho Ngài Asaji .  Sau đó, Ngài thưa: "Ngài học đạo tu với Sư Phụ là ai ?  Con đã theo Ngài môt đoạn đường .  Từng bước chân, từng ánh mắt của Ngài cho con biết Ngài không phải là người tầm thường , Xin Ngài dạy lại cho con cái mà Ngài đã học được ."  Ngài Asaji khiêm tốn trả lời: "Tôi cũng mới tu đây thôi ." "Thì Ngài mới tu, Ngài cũng cho con một câu nào để biết vì sao Ngài đi tu, và Ngài thấy cái gì Ngài mới đi tu . Con chỉ muốn biết cái gốc đó thôi . Ngài chỉ cần cho con một câu thôi, Con không cần Ngài phải giảng cả ngàn trang ."

Ngài Asaji: "Nếu muốn gọn gọn thì nghe như vầy nè:

Vạn pháp do duyên sinh .
Vạn pháp do duyên diệt .
Sư Phụ của ta đã nói  rõ 
Duyên sinh và duyên diệt ấy ."

Ngài Xá Lợi Phất nghe như vậy xong, do duyên dầy đã tu tập 1 A tăng kỳ, thấy 4 đế và 12 duyên khởi chạy dọc ngay trước mặt Ngài, đắc Tu Đà Huờn liền.  Đắc xong rồi, câu đầu tiên là: "Bạch Ngài, bậc Đạo Sư của chúng ta bây giờ đang ở đâu?" Trước đó, Ngài hỏi "Your Master", bây giờ Ngài hỏi "Our Master".

16:32

Quý vị có thấy sự khác nhau không? Kinh khủng vậy đó. Chỉ nghe có một câu thôi là từ "Your" qua "Our" liền, có nghĩa là con một nhà liền. Thế có nghĩa là, ngộ lắm, với vị Tu Đà Huờn, khi hiểu được một điều: 

"Mọi thứ đều là khổ.  Thích cái gì cũng là thích trong khổ."

Ngay trong khoảnh khắc đắc được cái đó xong, cái ấn tượng đầu tiên là họ hiểu họ chỉ muốn chết về Đức Phật thôi. Vì sao vậy? Vì ơn lớn.  Các vị có biết một người đắc Tu Đà Huờn, cảm giác đầu tiên của họ là họ hất xuống khỏi vai một ngọn núi.  Các vị nghĩ là tôi nói thêm.  Mời các vị nghe thêm.

17:34

Một buổi chiều kia, Đức Phật, trước mặt chư Tăng, Ngài nhặt một hòn sỏi: "Bảy hòn sỏi như thế này, số với dãy núi Himalaya, cái nào nhiều?" Chư Tăng trả lời: " Bạch Đức Thế Tôn, làm sao so sánh được?" Đức Phật dạy: "Những gì mà vị Tu Đà Huờn đã giải quyết xong nhiều như dãy núi Himalaya (kéo dài từ Nepal cho tới Tây Tạng), trong khi các vấn đề phải giải quyết chỉ là bảy hòn sỏi thôi."

Như vậy, cái ví dụ tôi nói các vị Tu Đà Huờn có cảm giác như thoát khỏi trái núi (ở trên vai) không phải là quá đâu, có thể nó chưa tới nữa là đằng khác. Mừng lắm.

18:25

Nếu quý vị chưa hiểu, ví dụ sau đây có vẻ đời.  Ở đây, quý vị có hạnh phúc trong hôn nhân không?  Khi mà Anh Tác (?) còn yêu cô Tami tha thiết, có người nhắn tin cho anh ta biết cô Tami đang ngoại tình, anh đau lắm.  Khi cô Tami xác định rằng không phải, anh ta cảm thấy nhẹ lắm. Đó chỉ là hiểu lầm. Có bằng chứng trăm phần trăm luôn, là vì người tóc ngắn, uống cà phê cười nói thân mật lắm. Cô Tami nói đó là má cổ. Lúc đó, thấy đã lắm, hạnh phúc, nhẹ vậy đó.  Một ví dụ khác: Má tôi bị lẫn, đi lạc từ sáng đến giờ kiếm không ra; bây giờ cảnh sát báo mới thấy xác người già ở dưới mé sông.  Tới nơi, mình lật ra, không phải. Cảm giác lúc đó quá nhẹ nhàng.

20:20

Vị Tu Đà Huờn cũng vậy.  Bấy lâu nay, nghĩ cái này là của mình, đùng một phát, thấy nó chỉ là cọng cỏ bên đường. Nó đã dữ lắm.

Chưa nữa, cái này còn đã hơn nữa.  Kế từ hôm nay, mình không còn sa đoạ nữa. Cái đã thứ ba là tối đa, chỉ còn mấy kiếp nữa là không còn sanh tử nữa. Cái thứ tư nữa là biết rõ dòng luân hồi không có gì để tiếc nuối.

20:50

Thứ nhất là không còn gì để tiếc nuối. 
Thứ hai là không còn gì để quay lại với cái nhàm chán, tẻ nhạt đó nữa.
Thứ ba là không còn sa đoạ.

Chừng nấy là đủ để mình chết với Đức Phật chưa?  Cái ơn lớn quá.

Tôi có nói với quý vị học không tới cái điều mình tin, nên không tin lắm cái điều mình hiểu.   21:13  May tôi không phải là Tu Đà Huờn, tôi cảm ơn Đức Phật từ bi. Các vị tưởng tượng, mình đi máy bay nó chao đi một cái là mình chết điếng luôn. Bây giờ, mình đắc quả A Na Hàm thôi, mình không có cái chết gì hết, mình mang ơn cái người đó thôi. Cho nên khi tôi nói tôi lạy Phật bằng ba cái lạy:

Cái lạy thứ nhất, Thể Tôn có thể không cho con tất cả cái gì con muốn, nhưng Thế Tôn dạy con không muốn cái gì. (lạy một cái)

Cái lạy thứ hai, Thể Tôn không thể nào giúp cho con đời đời không chết, nhưng Thế Tôn có thể dạy cho con không sợ chết.

Cái thứ ba, Thể Tôn không thể nắm tay con đi chơi khắp nơi trong tất cả vũ trụ, nhưng Thế Tôn đã dạy con thấy đi đâu cũng vậy thôi.

21:58

Ba cái đó nó cần lắm. Thứ nhất là đời đời không chết không bằng cái không sợ chết. Mình thích gì, mẹ mình cũng cho, tôi cũng nghi vì sức mẹ có hạn, nhưng nếu mẹ dạy tôi có gì cũng vui thì mẹ dạy hơi bị đúng.

22:21

Trong khi mẹ chiều tôi, cho đến khi nào mẹ hết tiền là tôi chết hoặc mẹ chết tôi cũng chết theo.  Còn đàng này mẹ dạy tôi kiểu gì không biết, nhưng tôi thấy có gì cũng được, cái đó hình như là đúng.  Đúng không?  Dạy cái đó mới ngon. Mà không có chiều mình, nhưng dạy mình mình thấy không cần thiết.  Mình thấy thích là khổ, nhu cầu là khổ. Người hiểu được điều đó, ... Tuy không thấy được Ngài, vật chất cũng không nhận được cái gì từ Ngài, Ngài đã cho tôi tất cả.  Tôi buồn nhất, tôi sợ hãi nhất, tôi lẻ loi nhất, tôi bình yên nhất thì không có gì bằng Ngài hết.  Mình nên có một bức tượng hay bức tranh mà mình vừa ý để có gì mình chạy về mình quỳ được, chứ có nhiều bức tượng nhìn kỳ quá.

Mình phải học để hiểu Đức Phật đã cho mình cái gì. Trước hết, Ngài dạy mình về duyên hệ và duyên sinh, để mình hiểu vì đâu con có mặt ở đời, nhờ vào những điều kiện gì mà con có mặt ở đời.

23:55

(Còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng về Quan Hệ Giữa Duyên Hệ và Duyên Sinh (2-4)

23:55

Duyên sinh dạy cho ta hiểu nhờ vào  những điều kiện nào ta có mặt ở đời này để chịu khổ và duyên hệ dạy ta hiểu rằng những điều kiện đó có quan hệ nào với nhau.

Duyên sinh dạy cho ta hiểu nhờ vào những điều kiện nào mà ta có mặt ở đời. Duyên hệ dạy ta hiểu mối liên hệ giữa các điều kiện ấy, chúng tương tác với nhau ra sao.

25:37

Các vị còn nhớ tôi giảng về mấy cái duyên hôm trước không?

Thứ nhất, tôi thường nói các vị đừng coi thường những gì các vị thấy, nghe, nhìn, thích ghét mỗi giờ trôi qua vì những cái đó là đối tượng của 6 căn, nên được gọi là cảnh duyên. Sáu căn của anh  thường sống với trần cảnh nào thì coi như anh đang âm thầm tạo dựng một tương lai trong trần cảnh ấy.  Đúng không?

Đời sống của mình chỉ là sự cộng ghép của sáu căn và sáu trần. Tùy thuộc vào sáu căn sống tùy thuộc vào cái gì thì tương lai... Mạng của quý vị sống nhờ vào thức ăn và nước uống, nhưng quý vị ăn cái gì, uống cái gì khiến cho mạng của quý vị èo uột hay khỏe mạnh. Mạng cùi của tôi sống được lấy nhờ thức ăn và nước uống, nhưng tôi có thể sống bằng nước cống có được không?  Không. Nước phải là nước lọc.  Mạng cùi của tôi sống được là nhờ thức ăn, nước uống, và thuốc men.  Nếu ba thứ đó có vấn đề thì cái mạng này có vấn đề khác.

Sự có mặt của chúng ta trong cuộc đời này chính là nhờ 6 căn và 6 trần. Nếu hai cái đó có vấn đề thì sự có mặt cũng có vấn đề.  Vấn đề đây là gì? Là khi 6 căn và 6 trần bằng tâm bất thiện coi như sự hiện hữu của chúng ta có vấn đề.  Trước mắt là khổ, tương lai là bị đọa, hình như là cũng bị khổ luôn, phải không?

Đời sống của mình là sự cộng hưởng của 6 căn với 6 trần.Tùy thuộc vào 6 căn 6 trần hoạt động ra sao mà đời sống của ta có phẩm chất như thế nào. Nếu 6 căn 6 trần hoạt động bằng tâm lành thì sự hiện hữu đó OK. Nếu 6 căn 6 trần bằng tâm xấu thì sự hiện hữu đó có vấn đề. Cho nên quan hệ giữa 6 căn và 6 trần đó được gọi là cảnh duyên.

30:07

Thứ hai, thể nào là nhân duyên? Nhân duyên là khía cạnh thiện ác trong đời sống của chúng ta. Trong mỗi phút, chúng ta có biết 6 căn 6 trần không? Có.  Trong mỗi phút, chúng ta sống trong không thỉện thì ác. Thiện ác ấy được gọi là nhân duyên. Đời sống cua quý vị là sự cộng ghép của quả thiện và quả ác. Đúng không? Nhờ quả thiện cho nên bây giờ mặt mũi coi được, trong túi có tiền. Đúng không? Vì nhân bất thiện nên nói hoài không hiểu.  Trong cõi phúc ... các vị đầu muốn dầu không, không thể nào tách rời yếu tố thiện ác. Yếu tố thiện ác làm nên con người của quý vị chưa đủ. Nó làm nên ngôi nhà, địa phương, xã hội, đất nước nơi quý vị sống. Nếu phước nhiều, dầu sống ở Campuchia, mình cũng ở chỗ tốt nhất. Chính thiện ác tạo nên thế giới. Cho nên thiện ác là một phần lớn điều kiện tạo nên thế giới

34:42

Bảng 24 duyên đươc tìm thấy trong đoạn cuối thuộc link:
https://toaikhanh.com/read.php?doc=201908301148&lan=vn

Trưởng duyên là cái gì được tô đậm nhất trong đời sống. Quyền duyên là cái gì đóng vai trò cốt cán trong đời sống của mình; đó là những cảm xúc, đời sống trí tuệ, 6 căn. Ví dụ: Anh thích cái gì, ghét cái gì càng ít căn càng tốt. Ví dụ: Tôi thích cô hàng xóm bằng nhãn căn , ý căn thì ok, thêm một căn nữa thì hơi phiền. Ở chung với Mỹ mà mình thích ăn sầu riêng với ăn mắm quá thì ý căn thôi, chớ nếu chơi luôn tỉ căn với thiệt căn là Mỹ nó không dám ở với mình.

Đức Phật dạy 6 căn là một phần cốt cán trong đời sống của chúng ta. Các cảm xúc cũng là đời sống cốt cán của chúng ta.  Đời sống chúng ta không ngờ là bị nhiều thứ chi phối, và cũng không lường được. Ví dụ: Trong Kinh Thuyết Luận Giải có lời giảng như thế này: Trọn bộ đời sống của phàm phu chỉ là thế giới của cảm xúc. Mình đâu có tin: "Đâu có, cơm gạo áo tiền, con có nhiều thứ, sao Ngài nói gọn như vậy." Cơm gạo áo tiền có phải là cảm xúc không? Đói có phải là cảm xúc không? No có phải là cảm xúc không?  Ăn dở ăn ngon có phải là cảm xúc không? Tiệm bánh bên kia không mua mà mua bên đây? Vì bên đây nó ngon hơn. Ngon, có phải là cảm xúc không? Đi xe 5 phút mua, thôi mua nó đây cho rồi. Cảm xúc. Mua hiệu xà bông gội đầu, cảm xúc; cái Mall ngay đây, mua cho rồi, cảm xúc. Căn nhà này sao lại cất kiểu này mà không cất kiểu kia, tại sao mua căn nhà này lại không mua căn nhà kia? Cảm xúc. Sao cưới bà nội này lại không cưới bà nội kia? Cảm xúc. Toàn bộ thế giới này toàn là cảm xúc. Tại sao một đứa bé nó nằm nó khóc? Tại nó có vấn đề, nó bị ngứa, nó bị nực, nó bị đói, nó tè ra, chưa thay tã nên nó khóc; tại sao nó nhăn răng nó cười; tại nó phê cái gì đó mình không có biết. Mới có hai tuổi, đúng ra từ trong bụng mẹ nó đã có rồi, nhưng vì mình không có thấy, nên chọn đại hai tuổi cho bà con khỏi cãi. Thật ra, vừa lọt khỏi bụng mẹ là nó đã sống với cảm xúc rồi. Tại sao nó khóc? Vì nó không quen với ánh sáng, không quen với nhiệt độ, không quen với thở bằng mũi.  Trong bụng mẹ nó sống bằng cuống rún, mẹ nuôi nó trực tiếp. Bây giờ, vừa ra khỏi bụng mẹ, mẹ với nó bị chia ly bởi vết cắt oan nghiệt. Trong Kinh, sự chào đời của đứa bé linh thiêng lắm.  Hình ảnh đó linh thiêng, chứ không phải chuyện đó linh thiêng.

39:01

Ngày ta mới học đạo, ta phải lệ thuộc vào sư phụ, vào kinh sách rất là nhiều. Lúc đó, ta như đứa bé còn trong bụng mẹ, ta phải sống bằng cuống nhau. Từ từ ta biết đạo, như đứa bé được cắt nhau, nhưng ta vẫn cần đến sư phụ như đứa bé cần bú sữa mẹ. Dần dần, đứa bé ăn baby food, rồi từ từ bỏ baby food, ăn đồ ăn của người lớn nhưng hơi mềm một tí. Từ từ, bố mẹ ăn cái gì, nó ăn cái đó.  Hiểu không?
 
39:39

Ở đây, Phật tử cũng vậy. Buổi đầu phải nhờ Tam Bảo một trăm phần trăm, nhờ sự hỗ trợ của thầy của bạn. Rồi đến một lúc sự quan hệ giữa Tam Bảo và quý vị phải là wireless, cordless. Hiểu không?  Lúc đó, quý vị một mình cũng không sợ, không cô đơn vì quý vị đã có cái ở trong đầu rồi.  Tới nhà nào có nhiều dây quá tôi cũng nhức đầu. Bớt dây lại. Bây giờ, có đồ charge pin không có dây đó.  Cái wireless và cordless rất là quan trọng.

40:25

Tôi rất tâm đắc với một bài viết của tôi. Tôi không nói là tôi viết hay mà tôi tâm đắc, mà vì quanh ý tưởng đó.  

Ngày xưa, có một cô công chúa Ấn Độ rất thích đồ bằng da.  Ngày đó, nàng khóc với vua cha muốn tất cả những nơi nàng đến đều phải trải da. Đức vua rầu quá, và sợ con buồn, nên hứa liều hứa bừa, nhưng trời ơi, trải da cả vương quốc thì da đâu mà trải, mưa nắng rồi dân chúng đẫm lên đó rồi làm sao? Đó là một chuyện impossible.  Ông quan già thưa chuyện đó để ổng xử. Ông làm cho cô nàng 20 đôi dép da, đi đâu cũng có da hết.  Đó là những đôi dép da dầu tiên trên thế giới.

Mình tu như thế nào đó để ở đâu cũng có chùa. Không cần trải da toàn quốc mà chỉ cần mang đôi dép da thì ở đâu cũng có da. Khi ta thương nhau thì đi đâu cũng có nhau trong tim. Đó là tình yêu wireless love.  Ngày xưa, bên Trung Hoa, có một cô mỹ tư (?) cổ sợ mưa sợ nắng lắm. Có lần cô trú mưa với bố.  Cô thưa: "Có cách nào để đi đâu cũng có mái che không?" Ông nói được, và ông làm cái dù.  Như vậy, nhờ người Ấn Độ, mình có dép, và nhờ người Trung Hoa mình có cái dù. 

42:00

Không biết hai chuyện đó có không.  Cái quan trọng là ông bố vì chiều con đã làm cái dù có hình thức của cái mái nhà. Từ từ, người ta làm nó đơn giản đi. Hồi xưa người ta làm như mái nhà để nàng đi đâu thì người hầu cầm đi theo để che cho nàng.

42:22

Từ từ người ta thấy cái dù chỉ có nhà giàu cần, chứ nhà nghèo không cần.  Nhà nghèo mới copy cái dù đó, nhưng ai xài người nấy cầm, không có vụ thằng Tèo che cho thằng Tý. Khi tự cầm thì sao ta?  Nó phải gọn lại hơn chút phải không?

Ta có 2 bài học rất hay từ 2 câu chuyện đó. Ta có thể mang theo mái nhà, ta có thể ở dưới mái nhà ở khắp mọi nơi, và ta có thể dẫm lên da ở khắp mọi chốn chỉ vì một lý do rất đơn giản là dưới mang một đôi giày da và ở trên có một cây dù. Tu hành cũng vậy. Ở khắp nơi, ta có thể đứng dưới mái chùa và ở khắp mọi nơi ta đều có ông Phật, ông Phật trong tim. Cái đó gọi là wireless Buddhism, wireless Buddha. Cái đó quan trọng lắm. Một ngày nào đó bà con một mình ở trong bệnh viện, một ngày nào đó bà con một mình ở trong một mái nhà trong đêm khuya không có chồng, không có vợ, không bạn bè, không con cái, nhớ tu wireless,  nhưng mình còn khoái dây nhợ quá.

44:28

Yeah, sẽ có một ngày ông đi trước, bà ở một mình, hay bà đi trước ông ở một mình, lúc đó mình mới gọi thầm Wireless Buddha: Bây giờ tôi mới biết wireless là gì.

44:45

Các vị còn nhớ bài giảng ngày hôm qua: Khi đem vào một thứ, ta sẽ có nhiều thứ bị lấy ra; và lấy ra  một thứ, có nhiều thứ cần đem vào. Điều này rất quan trọng. Ví dụ có 2 duyên là vô hữu duyên và hiện hữu duyên.

Có khi A giúp B bằng cách vắng mặt, có khi A giúp B bằng cách có mặt trước, có đôi lúc bằng cách có mặt sau, có khi giúp bằng cách không có mặt. Đó là trong A Tỳ Đàm. Bây giờ, quay về đời sống bình thường của mình: Trong mỗi phút giây trôi qua, bà con phải nhớ rằng mình đang kín đáo gầy dựng một tương lai cho kiếp sau bằng những gì mình thêm vào hay bớt ra.

Vô hữu duyên là gì? Vô hữu duyên là A giúp B bằng sự vắng mặt. Nếu trong từng phút trôi qua mà trong lòng mình vắng mặt thiện pháp thì ta đang âm thầm hỗ trợ cho một tương lai mù mịt.  Nếu trong từng phút trôi qua mà trong lòng ta vắng mặt ác pháp thì sự vắng mặt ấy hỗ trợ cho một tương lai tươi sáng.

Thế có nghĩa là cái có và cái không cái thêm và cái bớt, chỉ 4 chữ này thôi đủ làm nên tạo nghiệp.

(Còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh Giảng về Quan Hệ Giữa Duyên Hệ và Duyên Sinh (3-4)

46:12

Sự nghiệp là các nghiệp ngoài đời, tạo nghiệp là các sự nghiệp trong đạo.

Chỉ bốn chữ có và không, thêm và bớt đủ làm nên tạo nghiệp.

Ghê như vậy.  Thế có nghĩa rằng trong từng phút trôi qua, quý vị phải nhớ rằng dầu muốn dầu không ta đang có mặt trên con đường dẫn về đâu đó.  Đó là tạo duyên.

Còn thiện duyên. Trong từng phút trôi qua, thiện và ác trong lòng ta đang âm thầm lớn lên từ đống tro tàn của một cái gì đó.

47:00

Cái ác đang âm thầm mọc lên từ bất thiện. Cái thiện bị đốt cháy, cái ác mọc lên, và cái ác bị đốt cháy, cái thiện mới mọc lên.  Như vậy, trong từng phút trôi qua, có một cái thiện hoặc ác trong lòng ta mọc lên từ đống tro tàn của thiện ác. Rất là thơ mộng và rất là đau lòng.

Tiền sanh duyên có nghĩa là những gì ta đang làm chuẩn bị cái gì trong tương lai. Hậu sanh duyên có nghĩa là những gì mà ta đang sống đây bây giờ là sự thừa tiếp của quá khứ. Nếu hôm nay là ngày Thứ Ba, thì những gì mà mình đang sống vừa là tiền sanh duyên cho Thứ Tư vừa là hậu sanh duyên của Thứ Hai.

Chiều nay 4 giờ có party. Party đó là thế cause, the reason.  Nhưng 12 giờ trưa nay, mình đã mua một đống giấy, một đống ... 48:15 đi về rồi.  Đống đồ ăn đó là quả, đúng không?  Nhưng cái quả đó lại có trước, lúc 12 giờ, trong khi party, cái cause có lúc 4 giờ. Như vậy, cái nhân có sau nên được gọi là hậu sanh duyên. Còn
tiền sanh duyên là cái nhân có trước và cái quả có sau. Nhân trước quả sau gọi là tiền sanh duyên. Nhân sau quả trước gọi là hậu sanh duyên. Nói như vậy trong đời sống mình mỗi ngày là mình đang sống trong một cái biển nhân duyên... Nghĩa là cái này có thì một số cái kia bị mất. Cái này mất là điều kiện cho một nhóm cái có.

49:01

Dễ sợ như vậy.  Từ trước đến giờ mình chỉ học được có mấy cái này: Cái này có thì cái kia có, cái kia mất thì cái kia mất. Học có cái đó thôi.  Nhưng còn có cái khác nữa mới ghê chứ.  Cái này mất là điều kiện cho vô số cái có, mà một cái có là điều kiện cho vô số cái khác bị mất. 

Vấn đề được là có đúng hay không cái đã. Chỉ cần trong nhà có một thằng hút xì ke là biết sắp sửa có nhiều thứ bị mất. Tiếng Việt Nam gọi là "chà đồ nhôm". Nghĩa là thấy một thằng mà nó hút, nghĩa là thấy trong nhà có một bịch nhỏ xíu thôi khoảng 5 gram, có nghĩa là biết bao nhiêu thứ trong nhà đội nón ra đi. Nếu trong nhà có tờ giấy khám bệnh "cancer" là mình cũng biết là trong nhà sắp sửa có nhiều thứ đội nón ra đi.  

Sự có mặt của một thứ có thể khiến nhiều thứ vắng mặt, và sự vắng mặt của một thứ có thể khiến nhiều thứ có mặt. Hiểu như thế nên nhìn Ngài muốn lạy Ngài một cái.  Hai mươi sáu thế kỷ trước mà cái đầu của Ngài ghê gớm như vậy. Bao nhiêu năm đi chùa mà mình không được nghe thứ giáo lý quái gở đó không?  Không.

Cứ đọc như thần chú:

Con đang sống với mất và còn, với có và không, với tăng và giảm.

Khi có một thứ được thêm, có vô số thứ bị mất. Khi có một thứ bị mất thì có vô số thứ được thêm.  

Khi con có một thứ, con bị mất rất nhiều thứ. Khi con mất một thứ, còn sẽ có rất nhiều thứ.

Một cái ác được mất đi thì vô số những cái thiện được sinh. Một cái thiện bị giảm đi thì vô số những cái ác được sinh.

Một cái ác nhỏ xíu là cái mầm của trái nổ phá banh ngôi nhà giác ngộ của mình. Tôi nói chuyện nhỏ thôi: đập muỗi. Mình tưởng nó là chuyện nhỏ. Mai mốt mình gặp Phật. Mình 
nghe pháp xong, xe cán. Cái chuyện đó rất là nhỏ. Đập con muỗi có gì? Nó chết trong sự đè bẹp, đúng không?  Mình đang lên núi ngồi thiền, đá lăn, chết. Cục đá nặng có tấn rưỡi thôi đè dẹp lép nặng 45 ký.  Tấn rưỡi là chết rồi. Cục đá nặng tấn rưỡi thôi, mình nặng 45 ký, nó đè mình xẹp lép.

52:38

Có một vị tỳ kheo đang đi bát bị nguyên đám lính bu lại trói dẫn về xử tử vì cái mặt của vị này y chang mặt thằng ăn cướp trốn vượt ngục. Thời đó không có DNA, không có chụp hình, làm gì có email? Dân chúng nói thằng cha đó, thằng cha đó.  Rồi, đem về giết.  Vì vị tỳ kheo đó giống thằng ăn cướp ác dữ lắm. Coi như phụ nữ mang thai nó cũng giết luôn, còn nít mới lớn nó cũng làm luôn, bà già xử tử luôn.  Coi như nó ác, nó dữ làm.  Nên khi nó bị bắt, chỉ có một cách là xử tử nó cho nó đã làm sao. Họ xử bằng cách lấy cây ngọn xuyên thẳng từ hậu môn lên trên. Lúc đó, Ngài nói câu kệ đắc A La Hán rồi Niết Bàn. Một người đủ phước lễ Phật tới nơi, độ như vậy, đắc A La Hán, người này  tu hành quá.  Trong lúc đau như vậy, mà đắc được, người đó có cái tâm kinh dị lắm.

Một là cái tâm như vậy, hoàn cảnh như vậy, mà tâm vẫn ngon lành đấy các bạn.

Thứ hai, vị này với này tu tập sắp tới rồi, mà sao vẫn không thoát được cái nạn đó? Vì thời xưa, còn bé, ông bắt ruồi lấy que chọt, chơi cho vui. Không ngờ quả trổ ngay lúc gặp Phật, rồi xuất gia.

Cho nên khi có một niệm ác, có vô số những nghiệp lành bị mất đi.  Khi có một niệm lành thì vô số cái ác bị mất đi.  Vì khi mình có cái phước gì đó, mình sẽ né được vô số tội. Khi có một tội, mình bị mất với số cái phước. Ví dụ: Tôi nghèo quá, bữa nay là ngày có một vị như Ngài Mahasi, Ngài Ajahn Chah đến thăm Houston. Cách thuyết giảng của 2 vị đó rất hợp với tôi. Nhưng tối nay tôi có job đêm, vợ đẻ, còn đau, đầu có chửa, tôi phải làm job đêm. Chỉ vì cái tội nghèo thôi, đêm nay làm job đêm nên Ajahn Chah, Ajahn Naeb gì đó là dẹp hết.

55:32

Chỉ vì cái tội nghèo, các vị thấy không, dầu Đức Phật tới, tôi cũng chịu thua vì tôi phải làm cái job đêm.

Rồi chưa hết  chỉ vì tôi bị trọng bệnh, tôi nằm rên hì hì trong bệnh viện, cho dù có 80 vị sư A La Hán, tôi cũng chịu thua.

55:55

Tôi phải là người khỏe mạnh, tôi phải có tiền nè.  Tôi có nhiều điều kiện lắm, nên tôi nghe mấy cha tới đâu là tôi tới đó.Cho nên tôi nói rồi đừng coi thường, chuyện quý vị muốn tới đây là tới. Sai. Nếu có một trục trặc là đâu có được. Tỉ như chóng mặt, dẹp. Cái mặt như cái mỏ heo, ở nhà. Cho nên mình muốn đi nghe pháp không phải là chuyện dễ. Không chóng mặt, không nhức đầu, không diarrhea. Rồi, mình không bị, nhưng chồng mình có bị không, con mình có bị không, má mình có bị không, bà mình có bị không. Coi như nguyên cả giòng họ mình OK, mình mới đi.  Nước nhiễu xuống.

 .. Bên thiền viện tôi biết một vị. Cái cô đó cổ không mất thời gian cho chồng, không mất thời gian cho con, không mất thời gian cho anh chị em, mà mất thời gian cho cái bà boss.  Bà ấy giàu coi như là nứt vách. Mà bà ấy coi bà này là trí kỷ. Một ngày bà ấy nhậu 25 tiếng, một tháng bà ấy nhậu 32 ngày. Coi như bả nhậu cho ngày sau tháng sau luôn. Mỗi lần nhậu là bà khóc, và bắt bà kia nghe bả khóc; như ca sĩ nó bắt mình nghe hát là đã đủ rồi. Nó hát dở, nó hát karaoke, mình bỏ mình đi, nó cũng giận.

57:26
 
Đằng này bà bắt bả nghe bả khóc.  Nghe bả hỷ mũi "Rẹt". Nghe hỷ mũi lâu quá, mình tắt máy là không được. Bà bắt nghe rẹt rẹt vậy đó. Tại sao tôi rành vậy? Tại bả kể tôi nghe. 57:39? .. Coi như là từ bi hỷ xả thành từ bi hỷ mũi. Coi như là bả rất là thương cái bà này, mà bả bắt bà này nè là bạn, 2 giờ sáng phải nghe bả khóc.  Bả buồn bả khóc, hay tâm sự đó. 

Quý vị thấy không? Chỉ vì một cái trục trặc nhỏ trong vòng luân hồi mà mình mất bao nhiêu duyên lành. Vì tiền là mình phải đi làm. Vì bệnh, rồi vì một tật xấu nào đó, hoặc trong gia đình mình có chuyện. Gia đình OK mà bà xếp không OK là coi như cũng không được thoải mái. Đang ngồi thiền nó reo. Ác là không dám tắt, vì tắt nó kêu không được.

Cho nên các vị đừng tưởng là các vị có xe, các vị muốn lại đây là các vị lại được. Sai bét. Phải có một tỷ điều kiện OK, các vị mới có thể ngồi đây. Ghê lắm.

Cho nên hãy nhớ trong từng phút trôi qua, chúng ta có một biển điều kiện, một biển duyên, trùng trùng duyên khởi. Chỉ trục trặc một chút xíu xìu xíu, tôi nói hoài, cho dù tôi nặng 50 ký, cái răng có mấy gram mà nó trục trặc là coi mấy chục ký đó như đơ. Một ví dụ khác là chiếc xe 18 bánh có tổng diện tích rất lớn, nhưng cái phần nó ăn vào mặt đường rất là ít so với tổng diện tích. Chiếc xe đạp nhỏ hơn chiếc xe tải, nhưng cái phần ăn đường cũng rất ít so với tổng diện tích. Mình cũng vậy, dầu mình là Giáo Hoàng hãy là một cô gái, phần dính với thể xác chỉ là hơi thở thôi. Có đúng không? Nó chỉ là một bộ phận của cơ thể. Tim có vấn đề, xong. Gan có vấn đề, xong. Cho nên sự nghiệp mình trùng trùng, nhưng mà cái phần dính vào cuộc đời này nó rất lấy nhỏ, chút máu lên là cái gì cũng dẹp hết. Đường lên, máu lên là lên đường.

1:00:11

Nó rất là bình thường. Tự nhiên đâu nó kỳ kỳ là lên đường. Cho nên Đức Phật dạy: Hãy thận trọng từng giây phút trôi qua, vì trong từng giây phút trôi qua, con đang gieo vô số duyên; trong đó gồm có tiền sanh duyên, hậu sanh duyên, câu sanh duyên, nhân duyên, cảnh duyên, trưởng duyên, quả duyên, thiền duyên, đạo duyên. Và trong đời sống của con, nó đang vận hành trên các duyên cũ và  không ngừng tạo ra các duyên mới.  Cho nên Niết Bàn được gọi là Pháp Ly Duyên có nghĩa là không còn những điều kiện để còn dính mắc vào các điều kiện.  Còn dính mắc vào các điều kiện thì đời sống chúng ta còn có vấn đề.

Đã nói ngày hôm qua rồi.  Mình  sống trong môi trường nghèo khó thì đó là khổ. Mình được sống trong môi trường sung sướng, chiều chuộng thì người đó là sướng. Nhưng khổ thay nếu kiếp trước ấy bị đặt quá nhiều điều kiện thì phải xét lại. Đúng không? Mỗi ngày phần ăn của tôi trong ngôi nhà là 10 ngàn dollars, gồm linh chi ngàn năm, linh sơn tuyết liên, yến xào bào ngư nhưng với điều kiện là hai vợ chồng này bưng về cho tôi. Nếu ông bưng về, tôi có ăn, nếu không tôi đói nguyên ngày luôn. Các vị nghĩ cái đó khổ không? Hình như hơi khổ.  Tôi ăn bình thường, cứ đến 11 giờ có người đem tới chở tôi đi ăn. Nếu người ấy quên là tôi đói. Nó quên ba ngày, tôi đói đúng ba ngày. Nghe thì ham vậy, nghe ăn thịt rồng thì ham vậy, nhưng nếu nó quên một tuần thì sao trời?

1:02:05

Có hiểu lệ thuộc không? Người ta có nói một câu: Thà là anh biểu răng, còn hơn răng bạc răng vàng vừa khóc vừa ăn. Hồi nhỏ, tôi nghĩ ai mà ngu như vậy?  Nhưng mà đúng. Câu ca dao hơi ngắn, ta phải hiểu ngầm. Thà là anh biểu răng có nghĩa là thà là cực khổ mà có tự do còn hơn ăn bạc ăn vàng là vừa khóc vừa ăn; sung sướng nhưng bị lệ thuộc.

Cho nên tôi phải nói nhỏ một cái trong ngoặc đơn là tôi rất ghét, tôi rất là coi thường những cuộc hôn nhân không đến vì tình yêu. Không có tình yêu là bán rẻ tự do. Cô dâu lấy chồng nhà giàu đời sống bị lệ thuộc rất là nặng. Trong khi không phải người ta khờ, người ta đem cả gia tài trao cho mình. Khi mình về, người ta nhìn mình đã biết mình muốn cái gì rồi; người ta nhìn cái lỗ mũi của mình là biết mình nghĩ cái gì rồi. Cho nên việc đầu tiên về nhà chồng đâu có nhẹ bằng cái gánh. Gánh cuối cùng trở thành một con ở không lương. Tôi rất là sợ cái đó. Vậy mà vẫn không ngừng cái tục gả bán con.

Tôi biết một chuyện rất đau lòng một cô Phát tử kể tôi nghe. Mẹ cổ xuất thân nhà nghèo đem gả cho một gia đình nhà giàu bị sai như con ở, không có tình yêu không có tình thương. Cuối cùng, chịu không nổi, bỏ trốn về nhà ở với mẹ. Bà mẹ đã lỡ nhận nhiều tiền của gia đình nhà chồng, một phần vì mặt mũi gia môn, nên bả nói thế này: Con chết mẹ có tiền mua hòm cho con, con sống mẹ không có cơm nuôi con. Mẹ lạy con, con trở về bên chồng đi. Cô ấy tự sát. Cũng may cứu kịp mới đẻ ra cô kể lại cho tôi nghe câu chuyện đó.

Tôi nghe cái đó, tôi oải quá. Con chết thì mẹ có tiền mua hòm, con sống mẹ không có tiền nuôi con. Vì mặt mũi gia tộc đó.

Dòng luân hồi có nhiều cái ngán lắm, quý vị.  Ngán cái cảnh làm chó, làm heo. Ngán cái cảnh làm dâu. Đức Phật dạy khổ luân hồi có nhiều, riêng chỉ mang thân nữ thôi. Mang thân nữ đã là một cái khổ luân hồi. Người job lớn chịu chuyện đời, người làm dâu xứ lạ. Trong Kinh nói đó. Có những cái khổ, nhưng người nữ khổ khác, quả bị trục trặc. Lúc chung vui có nam có nữ, lúc đẻ có một mình. Nghĩ riêng cái khổ của đàn bà là không muốn luân hồi huống chi có những cái khổ khác. Với tánh tôi, tôi không kham nổi làm vợ làm dâu người khác.

01:05:15

Trong Kinh nói không phải ngẫu nhiên mà mang thân nữ. Chúng ta phải có tâm lý như thế nào đó chúng ta mới mang thân nữ để gánh những vấn đề thuộc thân nữ. Thí dụ: Mình coi nặng tình cảm; người nữ, trong tình cảm, rất vĩ đại. Vì thương con thương chồng, họ có thể chịu dơ, chịu cực, chịu hôi hám.  Cái đó là đàn ông thường thiếu kiên nhẫn. Đàn ông chịu nặng được.  Đàn ông chịu khổ, chịu đổ máu để lo cho gia đình, nhưng cái độ bền thì phải xét lại. Không phải tôi chê sự bền bỉ của người nữ, nhưng mà khi họ thương, họ để cái tình trên cái lý. Xét về mặt nào đó, cái đó là hay, nhưng nếu nói rốt ráo về mặt technical, cái đó không nên, bởi vì chúng ta vốn không có nhiều thời gian để sống nhiều về tình cảm. Có hiểu không?

Cho nên, nói theo Kinh Phật, mọi hiện hữu là khổ. Khổ chia làm nhiều lớp:
  1. Khổ tâm, khổ thân.
  2. Khổ từ sự vô thường, không cho mình hạnh phúc.
  3. Lệ thuộc vào các điều kiện đã là cái khổ rồi. Khoan chưa nói đến các vị như vị đắng, vị chua, vị cay.

(Còn tiếp)
Reply