LTP Học Phật Pháp
(2020-02-16, 07:36 PM)abc Wrote:  bài Kinh Quyết Trạch,này hay va thực tế

Các bài giảng của Sư Toại Khanh đều hay.  LTP rất cám ơn các vị đã bỏ công ghi lời giảng của Sư xuống, để rồi ngày hôm nay, mình có thể tìm học nghiền ngẫm.

LTP rất cám ơn bạn abc đã giới thiệu Sư trong trang Phật Giáo.
Reply
Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya
HT Thích Minh Châu dịch Việt

Chương VI - Sáu Pháp


VI. Ðại Phẩm

Bắt đầu với:

 (I) (55) Sona

đi xuống sẽ tìm thấy ...

------------

(IX) (63) Một Pháp Môn Quyết Trạch

1. - Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Thầy pháp môn thể nhập, pháp môn pháp. Hãy nghe và tác ý, Ta sẽ giảng.

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

2. - Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp môn thể nhập (quyết trạch), pháp môn pháp?
Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các dục, cần phải biết duyên khởi các dục, cần phải biết các dục sai biệt, cần phải biết các dục dị thục, cần phải biết các dục đoạn diệt, cần phải biết con đường đưa đến các dục đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, cần phải biết cảm thọ, cần phải biết các cảm thọ duyên khởi, cần phải biết các cảm thọ sai biệt, cần phải biết các cảm thọ dị thục, cần phải biết các cảm thọ đoạn diệt, cần phải biết con đường đưa đến các cảm thọ đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các tưởng, cần phải biết các tưởng duyên khởi, cần phải biết các tưởng sai biệt, cần phải biết các tưởng dị thục, cần phải biết các tưởng đoạn diệt, cần phải biết con đường đưa đến các tưởng đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các lậu hoặc, cần phải biết các lậu hoặc duyên khởi, cần phải biết các lậu hoặc sai biệt, cần phải biết các lậu hoặc dị thục, cần phải biết các lậu hoặc đoạn diệt, cần phải biết con đường đưa đến các lậu hoặc đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, cần phải biết nghiệp, cần phải biết duyên khởi các nghiệp, cần phải biết các nghiệp sai biệt, cần phải biết các nghiệp dị thục, cần phải biết các nghiệp đoạn diệt, cần phải biết con đường đưa đến nghiệp đoạn diệt. Này các Tỷ-kheo, cần phải biết khổ, cần phải biết khổ duyên khởi, cần phải biết khổ sai biệt, cần phải biết khổ dị thục, cần phải biết khổ đoạn diệt, cần phải biết con đường đưa đến khổ đoạn diệt.

DỤC:
3. Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các dục, cần phải biết các dục duyên khởi, cần phải biết các dục sai biệt, cần phải biết các dục dị thục, cần phải biết các dục đoạn diệt, cần phải biết con đường đưa đến các dục đoạn diệt, đã được nói như vậy. Và do duyên gì được nói như vậy?

Này các Tỷ-kheo, có năm dục trưởng dưỡng này: 
  1. Các sắc do mắt nhận thức, khả lạc, khả ý, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. 
  2. Các tiếng do tai nhận thức... 
  3. Các hương do mũi nhận thức...
  4. Các vị do lưỡi nhận thức... 
  5. Các xúc do thân nhận thức...
 khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, dầu chúng không phải dục, chúng được gọi là dục trưởng dưỡng trong giới luật của bậc Thánh.

Các tư duy tham ái, 
Là dục của con người, 
Các hoa mỹ ở đời, 
Chúng không phải là dục, 
Các tư duy tham ái 
Là dục của con người, 
Các hoa mỹ an trú
Như vậy ở trên đời, 
Ở đây những bậc Trí, 
Nhiếp phục được lòng dục
.


4. Này các Tỷ-kheo, thế nào là các dục duyên khởi? Xúc, này các Tỷ-kheo, là các dục duyên khởi.


Vànày các Tỷ-kheo, thế nào là các dục sai biệt? Này các Tỷ-kheo, 

  1. Dục trên các sắc là khác, 
  2. Dục trên các tiếng là khác, 
  3. Dục trên các hương là khác, 
  4. Dục trên các vị là khác, 
  5. Dục trên các xúc là khác. 
Này, các Tỷ-kheo đây là các dục sai biệt.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các dục dị thục? Này các Tỷ-kheo, khi muốn một cái gì, sanh khởi một tự ngã khởi lên từ vật ấy, từ vật ấy, để dự phần phước đức, hay để dự phần không phước đức, Này các Tỷ-kheo, đây gọi là các dục dị thục.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các dục đoạn diệt? Xúc đoạn diệt, này các Tỷ-kheo là dục đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo tám ngành đưa đến các dục đoạn diệt. Tức là chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử rõ biết các dục như vậy, rõ biết các dục sanh khởi như vậy, rõ biết các dục sai biệt như vậy, rõ biết các dục dị thục như vậy, rõ biết các dục đoạn diệt như vậy, rõ biết con đường đưa đến các dục đoạn diệt như vậy, khi ấy, vị ấy được rõ biết Phạm hạnh thể nhập này như là các dục đoạn diệt.

Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các dục... cần phải biết con đường đưa đến dục đoạn diệt, Ðoạn diệt đã được nói như vậy. Chính do duyên này, đã được nói như vậy.

CẢM THỌ:
5. Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các cảm thọ... cần phải biết con đường đưa đến các cảm thọ đoạn diệt, đã được nói như vậy. Do duyên gì đã được nói như vậy?

Này các Tỷ-kheo, có  ba cảm thọ này:
 
  1. lạc thọ, 
  2. khổ thọ, 
  3. phi khổ phi lạc thọ.

6. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các cảm thọ sanh khởi? Xúc, này các Tỷ-kheo, là các cảm thọ sanh khởi. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các cảm thọ sai biệt? Này các Tỷ-kheo, 

  1. có các lạc thọ liên hệ đến vật chất, 
  2. có các lạc thọ không liên hệ đến vật chất; 
  3. có các khổ thọ liên hệ đến vật chất, 
  4. có các khổ thọ không liên hệ đến vật chất; 
  5. có các cảm thọ không khổ không lạc liên hệ đến vật chất, 
  6. có các cảm thọ không khổ không lạc không liên hệ đến vật chất. 
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là các cảm thọ sai biệt.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các cảm thọ dị thục? Này các Tỷ-kheo, khi nào cảm thọ cái gì, sanh khởi một tự ngã khởi lên từ vật ấy, từ vật ấy, để dự phần phước đức, hay để dự phần không phước đức. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là các cảm thọ dị thục.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các cảm thọ đoạn diệt? Xúc đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, là các cảm thọ đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo tám ngành đưa đến các cảm thọ đoạn diệt. Tức là chánh tri kiến... chánh định. Và khi nào, này các Tỷ kheo, vị Thánh đệ tử đã biết các cảm thọ như vậy, rõ biết các cảm thọ sanh khởi như vậy, rõ biết các cảm thọ sai biệt như vậy, rõ biết các cảm thọ dị thục như vậy, rõ biết các cảm thọ đoạn diệt như vậy, khi ấy, vị ấy được rõ biết Phạm hạnh thể nhập này như là các cảm thọ đoạn diệt.

Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các cảm thọ... cần phải biết con đường đưa đến các cảm thọ đoạn diệt, đã nói như vậy. Chính do duyên này, đã được nói như vậy.

TƯỞNG:
7. Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các tưởng...cần phải biết con đường đưa đến các tưởng đoạn diệt, đã được nói như vậy. Do duyên gì đã được nói như vậy?

Này các Tỷ-kheo, có sáu tưởng này: 
  1. Sắc tưởng, 
  2. Thanh tưởng, 
  3. Hương tưởng,  
  4. Vị tưởng, 
  5. Xúc tưởng,
  6. Pháp tưởng.
8. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tưởng sanh khởi? Này các Tỷ-kheo, xúc là các tưởng sanh khởi.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các tưởng sai biệt? Này các Tỷ-kheo, 

  1. Các tưởng trong các sắc là khác. 
  2. Các tưởng trong các thanh là khác,
  3. Các tưởng trong các hương là khác,
  4. Các tưởng trong các vị là khác,
  5. Các tưởng trong các xúc là khác,
  6. Các tưởng trong các pháp là khác.

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là các tưởng sai biệt.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các tưởng dị thục? Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng các tưởng là kết quả của thói quen, khi nào người ta biết sự vật như thế nào, như thế nào, người ta nói sự vật ấy như sau, như sau: "Như vậy tôi tưởng". Này các Tỷ-kheo, đây gọi là các tưởng dị thục.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các tưởng đoạn diệt? Xúc đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, là tưởng đoạn diệt. Ðây là Thánh đạo tám ngành đưa đến các tưởng đoạn diệt. Tức là chánh tri kiến... chánh định. Khi nào này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử rõ biết các tưởng như vậy, rõ biết các tưởng sanh khởi như vậy, rõ biết các tưởng sai biệt như vậy, rõ biết các tưởng dị thục như vậy, rõ biết các tưởng đoạn diệt như vậy, rõ biết con đường đưa đến các tưởng đoạn diệt như vậy, khi ấy, vị ấy được rõ biết Phạm hạnh thể nhập này như là các tưởng đoạn diệt.

Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các tưởng... cần phải biết con đường đưa đến các tưởng đoạn diệt, đã được nói như vậy. Chính do duyên này đã được nói như vậy.

LẬU HOẶC:
9. Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các lậu hoặc... cần phải biết con đường đưa đến các lậu hoặc đoạn diệt, đã được nói như vậy. Chính do duyên nào đã được nói như vậy?
Này các Tỷ-kheo, có ba lậu hoặc này:

  1. dục lậu,
  2. hữu lậu,
  3. vô minh lậu.
10. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc sanh khởi? Vô minh, này các Tỷ-kheo, là các lậu hoặc sanh khởi.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc sai biệt? Này các Tỷ-kheo,
  1. có các lậu hoặc đưa đến địa ngục,
  2. có các lậu hoặc đưa đến bàng sanh,
  3. có các lậu hoặc đưa đến ngạ quỷ,
  4. có các lậu hoặc đưa đến thế giới loài người,
  5. có các lậu hoặc đưa đến thế giới chư Thiên. 

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là các lậu hoặc sai biệt.

Và này các Tỷ Kheo, thế nào là các lậu hoặc dị thục ? Này các Tỷ kheo, khi nào vì vô minh cái gì sanh khởi, một tự ngã khởi lên từ vật ấy, từ vật ấy, để dự phần phước đức, hay để dự phần không phước đức. Này các Tỷ kheo, đây gọi là các lậu hoặc dị thục.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc đoạn diệt? Vô minh đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, là các lậu đoạn diệt. Ðây là con đường Thánh đạo tám ngành đưa đến các lậu hoặc đoạn diệt. Tức là chánh tri kiến... chánh định. Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử rõ biết các lậu hoặc là như vậy, rõ biết các lậu hoặc sanh khởi như vậy, rõ biết các lậu hoặc sai biệt như vậy, rõ biết các lậu hoặc dị thục như vậy, rõ biết các lậu hoặc đoạn diệt như vậy, rõ biết con đường đưa đến các lậu hoặc đoạn diệt như vậy, khi ấy, vị ấy được rõ biết Phạm hạnh thể nhập này như là các lậu hoặc đoạn diệt.

Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các lậu hoặc... cần phải biết con đường đưa đến các lậu hoặc đoạn diệt, đã được nói như vậy. Chính do duyên này đã được nói như vậy.

NGHIỆP:
11. Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các nghiệp... cần phải biết con đường đưa đến các nghiệp đoạn diệt được nói như vậy. Do duyên gì được nói như vậy?

Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng suy tư là nghiệp; sau khi suy tư, tạo nghiệp về thân, về lời, về ý.

12. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các nghiệp sanh khởi? Này các Tỷ-kheo, xúc là các nghiệp sanh khởi.

- Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các nghiệp sai biệt? Này các Tỷ-kheo,

  1. có nghiệp đưa đến cảm thọ ở địa ngục,
  2. có nghiệp đưa đến cảm thọ loài bàng sanh,
  3. có nghiệp đưa đến cảm thọ cõi ngạ quỷ,
  4. có nghiệp đưa đến cảm thọ thế giới loài Người,
  5. có nghiệp đưa đến cảm thọ thế giới chư Thiên. 
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là các nghiệp sai biệt. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các nghiệp dị thục? Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng có ba loại nghiệp dị thục:


  1. Ở ngay đời hiện tại, hay
  2. Ở đời sau, hay
  3. Ở một đời sau nữa.

Này các Tỷ-kheo, đây là các nghiệp dị thục.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là  nghiệp đoạn diệt? Xúc đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, là nghiệp đoạn diệt. Ðây là Thánh đạo tám ngành, con đường đưa đến các nghiệp đoạn diệt. Ðó là chánh tri kiến... chánh định. Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử rõ biết các nghiệp như vậy, rõ biết các nghiệp sanh khởi như vậy, rõ biết các nghiệp sai biệt như vậy, rõ biết các nghiệp dị thục như vậy, rõ biết các nghiệp đoạn diệt như vậy, rõ biết con đường đưa đến các nghiệp đoạn diệt như vậy, khi ấy, vị ấy rõ biết Phạm hạnh thể nhập này như là các nghiệp đoạn diệt.

Này các Tỷ-kheo, cần phải biết các nghiệp... cần phải rõ biết con đường đưa đến các nghiệp đoạn diệt, đã được nói như vậy. Chính do duyên này đã được nói như vậy.

KHỔ:
13. Này các Tỷ-kheo, cần phải biết khổ, cần phải biết khổ sanh khởi, cần phải biết khổ sai biệt, cần phải biết khổ dị thục, cần phải biết khổ đoạn diệt, cần phải biết con đường đưa đến khổ đoạn diệt, đã được nói như vậy. Chính do duyên gì đã được nói như vậy?

  1. sanh là khổ,
  2. già là khổ,
  3. bệnh là khổ,
  4. chết là khổ, 
  5. sầu bi khổ não là khổ,
  6. cầu không được là khổ,
tóm lại năm thủ uẩn là khổ.

14. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ sanh khởi? Ái, này các Tỷ-kheo, là khổ sanh khởi.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ sai biệt? Này các Tỷ-kheo có khổ lớn, có khổ nhỏ, có khổ chậm biến, có khổ mau biến. Này các Tỷ-kheo, đây là khổ sai biệt.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ dị thục? Này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người bị khổ chinh phục, tâm bị trói buộc, ưu sầu, bi thảm, than van, đập ngực, khóc lóc, đi đến bất tỉnh; do bị khổ chinh phục, tâm bị trói buộc, nên đi tìm phía bên ngoài xem có ai biết được một câu, hai câu thần chú đề đoạn diệt khổ này.

Này các Tỷ-kheo, Ta tuyên bố rằng khổ đem lại kết quả mê loạn, đem lại kết quả tìm kiếm. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là khổ dị thục.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là khổ đoạn diệt?

Ái đoạn diệt, này các Tỷ-kheo, là khổ đoạn diệt. Ðây là Thánh đạo tám ngành đưa đến khổ đoạn diệt. Ðó là chánh kiến... chánh định. Này các Tỷ-kheo, khi nào Thánh đệ tử rõ biết khổ như vậy, rõ biết khổ sanh khởi như vậy, rõ biết khổ sai biệt như vậy, rõ biết khổ dị thục như vậy, rõ biết khổ đoạn diệt như vậy, rõ biết con đường đưa đến khổ đoạn diệt như vậy, khi ấy, vị ấy được rõ biết Phạm hạnh thể nhập này như là khổ đoạn diệt.

Này các Tỷ-kheo, cần phải biết khổ, cần phải biết khổ sanh khởi, cần phải biết khổ sai biệt, cần phải biết khổ dị thục, cần phải biết khổ đoạn diệt, cần phải biết con đường đưa đến khổ đoạn diệt, đã được nói như vậy. Chính do duyên này, đã được nói như vậy.


Này các Tỷ-kheo, đây là thể nhập pháp môn, pháp pháp môn.

-----------------

Chư Hiền, thế nào là Năm thủ uẩn? Chính là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.

Xem chi tiết:

Quote:Kinh Trung Bộ số 28. Ðại kinh Dụ dấu chân voi (Mahàhatthipadopama sutta)
Reply
Bản Anh Ngữ:

https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an06/an06.063.than.html

AN 6.63 
PTS: A iii 410
Nibbedhika Sutta: Penetrative

translated from the Pali by
Thanissaro Bhikkhu
© 1997

X
The updated version is freely available at[Image: dto_logo.png]
This version of the text might be out of date. Please click here for more information


------------------------------

"I will teach you the penetrative explanation that is a Dhamma explanation. Listen & pay close attention. I will speak."

"As you say, lord," the monks responded.


The Blessed One said: "And which penetrative explanation is a Dhamma explanation?


"Sensuality should be known. The cause by which sensuality comes into play should be known. The diversity in sensuality should be known. The result of sensuality should be known. The cessation of sensuality should be known. The path of practice for the cessation of sensuality should be known.
"Feeling should be known. The cause by which feeling comes into play should be known. The diversity in feeling should be known. The result of feeling should be known. The cessation of feeling should be known. The path of practice for the cessation of feeling should be known.
"Perception should be known. The cause by which perception comes into play should be known. The diversity in perception should be known. The result of perception should be known. The cessation of perception should be known. The path of practice for the cessation of perception should be known.
"Fermentations [1] should be known. The cause by which fermentations come into play should be known. The diversity in fermentations should be known. The result of fermentations should be known. The cessation of fermentations should be known. The path of practice for the cessation of fermentations should be known
"Kamma should be known. The cause by which kamma comes into play should be known. The diversity in kamma should be known. The result of kamma should be known. The cessation of kamma should be known. The path of practice for the cessation of kamma should be known.
"Stress should be known. The cause by which stress comes into play should be known. The diversity in stress should be known. The result of stress should be known. The cessation of stress should be known. The path of practice for the cessation of stress should be known.


[1] "'Sensuality should be known. The cause by which sensuality comes into play... The diversity in sensuality... The result of sensuality... The cessation of sensuality... The path of practice for the cessation of sensuality should be known.' Thus it has been said. In reference to what was it said?
"There are these five strings of sensuality. Which five? Forms cognizable via the eye — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing; sounds cognizable via the ear... aromas cognizable via the nose... flavors cognizable via the tongue... tactile sensations cognizable via the body — agreeable, pleasing, charming, endearing, fostering desire, enticing. But these are not sensuality. They are called strings of sensuality in the discipline of the noble ones.

The passion for his resolves is a man's sensuality,
not the beautiful sensual pleasures
found in the world.
The passion for his resolves is a man's sensuality.

The beauties remain as they are in the world,
while the wise, in this regard,
subdue their desire.

"And what is the cause by which sensuality comes into play? Contact is the cause by which sensuality comes into play.
"And what is the diversity in sensuality? Sensuality with regard to forms is one thing, sensuality with regard to sounds is another, sensuality with regard to aromas is another, sensuality with regard to flavors is another, sensuality with regard to tactile sensations is another. This is called the diversity in sensuality.
"And what is the result of sensuality? One who wants sensuality produces a corresponding state of existence, on the side of merit or demerit. This is called the result of sensuality.


"And what is the cessation of sensuality? From the cessation of contact is the cessation of sensuality; and just this noble eightfold path — right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration — is the way leading to the cessation of sensuality.


"Now when a disciple of the noble ones discerns sensuality in this way, the cause by which sensuality comes into play in this way, the diversity of sensuality in this way, the result of sensuality in this way, the cessation of sensuality in this way, & the path of practice leading to the cessation of sensuality in this way, then he discerns this penetrative holy life as the cessation of sensuality.
"'Sensuality should be known. The cause by which sensuality comes into play... The diversity in sensuality... The result of sensuality... The cessation of sensuality... The path of practice for the cessation of sensuality should be known.' Thus it has been said, and in reference to this was it said.
[2] "'Feeling should be known. The cause by which feeling comes into play... The diversity in feeling... The result of feeling... The cessation of feeling... The path of practice for the cessation of feeling should be known.' Thus it has been said. In reference to what was it said?
"There are these three kinds of feeling: a feeling of pleasure, a feeling of pain, & feeling of neither pleasure nor pain.
"And what is the cause by which feeling comes into play? Contact is the cause by which feeling comes into play.


"And what is the diversity in feeling? There is the feeling of pleasure connected with the baits of the world. There is the feeling of pleasure not connected with the baits of the world. There is the feeling of pain connected with the baits of the world. There is the feeling of pain not connected with the baits of the world. There is the feeling of neither pleasure nor pain connected with the baits of the world. There is the feeling of neither pleasure nor pain not connected with the baits of the world. This is called the diversity in feeling.[2]


"And what is the result of feeling? One who feels a feeling produces a corresponding state of existence, on the side of merit or demerit. This is called the result of feeling.


"And what is the cessation of feeling? From the cessation of contact is the cessation of feeling; and just this noble eightfold path — right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration — is the way leading to the cessation of feeling.


"Now when a disciple of the noble ones discerns feeling in this way, the cause by which feeling comes into play in this way, the diversity of feeling in this way, the result of feeling in this way, the cessation of feeling in this way, & the path of practice leading to the cessation of feeling in this way, then he discerns this penetrative holy life as the cessation of feeling.

"'Feeling should be known. The cause by which feeling comes into play... The diversity in feeling... The result of feeling... The cessation of feeling... The path of practice for the cessation of feeling should be known.' Thus it has been said, and in reference to this was it said.


[3] "'Perception should be known. The cause by which perception comes into play... The diversity in perception... The result of perception... The cessation of perception... The path of practice for the cessation of perception should be known.' Thus it has been said. In reference to what was it said?
"There are these six kinds of perception:[3] the perception of form, the perception of sound, the perception of aroma, the perception of flavor, the perception of tactile sensation, the perception of ideas.


"And what is the cause by which perception comes into play? Contact is the cause by which perception comes into play.

"And what is the diversity in perception? Perception with regard to forms is one thing, perception with regard to sounds is another, perception with regard to aromas is another, perception with regard to flavors is another, perception with regard to tactile sensations is another, perception with regard to ideas is another. This is called the diversity in perception.


"And what is the result of perception? Perception has expression as its result, I tell you. However a person perceives something, that is how he expresses it: 'I have this sort of perception.' This is called the result of perception.


"And what is the cessation of perception? From the cessation of contact is the cessation of perception; and just this noble eightfold path — right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration — is the way leading to the cessation of perception.


"Now when a disciple of the noble ones discerns perception in this way, the cause by which perception comes into play in this way, the diversity of perception in this way, the result of perception in this way, the cessation of perception in this way, & the path of practice leading to the cessation of perception in this way, then he discerns this penetrative holy life as the cessation of perception.

"'Perception should be known. The cause by which perception comes into play... The diversity in perception... The result of perception... The cessation of perception... The path of practice for the cessation of perception should be known.' Thus it has been said, and in reference to this was it said.


[4] "'Fermentations should be known. The cause by which fermentations come into play... The diversity in fermentations... The result of fermentations... The cessation of fermentations... The path of practice for the cessation of fermentations should be known.' Thus it has been said. In reference to what was it said?


"There are these three kinds of fermentations: the fermentation of sensuality, the fermentation of becoming, the fermentation of ignorance.


"And what is the cause by which fermentations come into play? Ignorance is the cause by which fermentations come into play.


"And what is the diversity in fermentations? There are fermentations that lead to hell, those that lead to the animal womb, those that lead to the realm of the hungry shades, those that lead to the human world, those that lead to the world of the devas. This is called the diversity in fermentations.


"And what is the result of fermentations? One who is immersed in ignorance produces a corresponding state of existence, on the side of merit or demerit. This is called the result of fermentations.


"And what is the cessation of fermentations? From the cessation of ignorance is the cessation of fermentations; and just this noble eightfold path — right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration — is the way leading to the cessation of fermentations.

"Now when a disciple of the noble ones discerns fermentations in this way, the cause by which fermentations come into play in this way, the diversity of fermentations in this way, the result of fermentations in this way, the cessation of fermentations in this way, & the path of practice leading to the cessation of fermentations in this way, then he discerns this penetrative holy life as the cessation of fermentations.


"'Fermentations should be known. The cause by which fermentations come into play... The diversity in fermentations... The result of fermentations... The cessation of fermentations... The path of practice for the cessation of fermentations should be known.' Thus it has been said, and in reference to this was it said.


[5] "'Kamma should be known. The cause by which kamma comes into play should be known. The diversity in kamma should be known. The result of kamma should be known. The cessation of kamma should be known. The path of practice for the cessation of kamma should be known.' Thus it has been said. In reference to what was it said?
"Intention, I tell you, is kamma. Intending, one does kamma by way of body, speech, & intellect.


"And what is the cause by which kamma comes into play? Contact is
 the cause by which kamma comes into play.

"And what is the diversity in kamma? There is kamma to be experienced in hell, kamma to be experienced in the realm of common animals, kamma to be experienced in the realm of the hungry shades, kamma to be experienced in the human world, kamma to be experienced in the world of the devas. This is called the diversity in kamma.

"And what is the result of kamma? The result of kamma is of three sorts, I tell you: that which arises right here & now, that which arises later [in this lifetime], and that which arises following that. This is called the result of kamma.


"And what is the cessation of kamma? From the cessation of contact is the cessation of kamma; and just this noble eightfold path — right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration — is the path of practice leading to the cessation of kamma.


"Now when a disciple of the noble ones discerns kamma in this way, the cause by which kamma comes into play in this way, the diversity of kamma in this way, the result of kamma in this way, the cessation of kamma in this way, & the path of practice leading to the cessation of kamma in this way, then he discerns this penetrative holy life as the cessation of kamma.


"'Kamma should be known. The cause by which kamma comes into play... The diversity in kamma... The result of kamma... The cessation of kamma... The path of practice for the cessation of kamma should be known.' Thus it has been said, and in reference to this was it said.


[6] "Stress should be known. The cause by which stress comes into play should be known. The diversity in stress should be known. The result of stress should be known. The cessation of stress should be known. The path of practice for the cessation of stress should be known.' Thus it has been said. In reference to what was it said?
Birth is stress, aging is stress, death is stress; sorrow, lamentation, pain, distress, & despair are stress; association with the unbeloved is stress; separation from the loved is stress; not getting
what is wanted is stress. In short, the five clinging-aggregates are stress.


"And what is the cause by which stress comes into play? Craving is the cause by which stress comes into play.


"And what is the diversity in stress? There is major stress & minor, slowly fading & quickly fading. This is called the diversity in stress.


"And what is the result of stress? There are some cases in which a person overcome with pain, his mind exhausted, grieves, mourns, laments, beats his breast, & becomes bewildered. Or one overcome with pain, his mind exhausted, comes to search outside, 'Who knows a way or two to stop this pain?' I tell you, monks, that stress results either in bewilderment or in search. This is called the result of stress.


"And what is the cessation of stress? From the cessation of craving is the cessation of stress; and just this noble eightfold path — right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, right concentration — is the path of practice leading to the cessation of stress.


"Now when a disciple of the noble ones discerns stress in this way, the cause by which stress comes into play in this way, the diversity of stress in this way, the result of stress in this way, the cessation of stress in this way, & the path of practice leading to the cessation of stress in this way, then he discerns this penetrative holy life as the cessation of stress.


"'Stress should be known. The cause by which stress comes into play... The diversity in stress... The result of stress... The cessation of stress... The path of practice for the cessation of stress should be known.' Thus it was said, and in reference to this was it said.



"And this is the penetrative explanation that is a Dhamma explanation."


---------------
Notes
1.Asava.2.See The Wings to Awakening, passage §179.3.
I.e., mental labels.
Reply
Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt


Chương VI - Sáu Pháp
VI. Ðại Phẩm

(I) (55) Sona


Roll down từ từ sẽ thấy ...

-----------------


(V) (59) Người Bán Củi


1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn ở Nàdika, tại giảng đường bằng gạch. Bấy giờ có gia chủ bán củi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với người bán củi đang ngồi xuống một bên:
2. - Này Gia chủ, trong gia đình Ông có bố thí không?
- Bạch Thế Tôn, trong gia đình con có bố thí. Những Tỷ-kheo là vị sống ở rừng, theo hạnh khất thực, mặc áo lấy vải lượm từ đống rác, bậc A-la-hán, hay thực hành A-la-hán đạo, những Tỷ-kheo như vậy, bạch Thế Tôn, đều được bố thí.

3. - Nhưng chắc chắn, này Gia chủ, đây thực là một sự khó khăn cho Ông, một người tại gia thọ dụng các dục, bị con cháu trói buộc, được dùng hương chiên đàn từ Kàsi, được đeo và thoa với vòng hoa, hương, hương liệu, được tiêu dùng vàng và bạc để có thể nói ai là bậc A-la-hán, ai là bậc thực hành A-la-hán đạo.

Tỷ-kheo trú tại rừng núi, này Gia chủ, nếu tháo động, kiêu căng dao động, lắm mồm, lắm miệng, lắm lời, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, các căn thả lỏng, thời vị ấy về phương diện này đáng bị chỉ trích.

Này Gia chủ, nếu Tỷ-kheo trú ở rừng núi, không tháo động, không kiêu căng, không dao động, không lắm mồm, lắm miệng, không lắm lời, chánh niệm, tỉnh giác, định tĩnh, nhất tâm, với các căn được phòng hộ, thời vị ấy về phương diện này đáng được tán thán.

Nếu Tỷ-kheo sống ở cuối làng, này Gia chủ, tháo động, kiêu căng... các căn thả lỏng; vị ấy về phương diện này đáng bị chỉ trích.

Nếu Tỷ-kheo sống ở cuối làng, này Gia chủ, không tháo động, không kiêu căng... các căn được phòng hộ, thời vị ấy về phương diện này đáng được tán thán.

Nếu vị Tỷ-kheo theo hạnh khất thực, này Gia chủ, nhưng còn tháo động, kiêu căng... đáng bị chỉ trích.

Nếu Tỷ-kheo theo hạnh khất thực, này Gia chủ, nhưng không tháo động, không kiêu căng... đáng được tán thán.

Nếu Tỷ-kheo nào nhận lời mời, này Gia chủ, nhưng còn tháo động... đáng bị chỉ trích.

Nếu Tỷ-kheo nào nhận lời mời, này Gia chủ, nhưng không tháo động... đáng được tán thán.

Nếu Tỷ-kheo nào mặc áo lấy vải lượm từ đống rác, này Gia chủ, nhưng còn tháo động... đáng bị chỉ trích.

Nếu Tỷ-kheo nào mặc áo lấy vải lượm từ đống rác, này Gia chủ, nhưng không tháo động... đáng được tán thán.

Nếu Tỷ-kheo nào mang y từ người Gia chủ cúng, nhưng không tháo động... đáng được tán thán.

Tuy vậy, này Gia chủ, hãy cúng dường chúng Tăng. Nếu Ông cúng dường chúng Tăng, tâm sẽ được định tín. Nếu Ông có tâm định tín, lúc thân hoại mạng chung, sẽ được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.

- Bạch Thế Tôn, bắt đầu từ hôm nay, con sẽ bố thí cúng dường chúng Tăng.
Reply
chào anh LeThanhPhong ,

Hôm nọ Bee có đọc anh viết cho Bee bên kia nhưng vì không muốn kéo thread lên cho nên Bee im lặng 

Hôm nay mạo muội vào trả lễ cùng anh , chuyện nhìn lầm gọi lầm tên không có gì to tát , xin anh đừng bận lòng .

chúc anh 1 ngày vui vẻ và tràn đầy sinh lực và tâm thân an lạc .

Tulip4

Một Ngày Bình Yên ! 
Trong Đám Hoa Rừng .
Heavy-black-heart4
Innocent 


Reply
(2020-02-18, 03:12 PM)Bee Wrote: chào anh LeThanhPhong ,

Hôm nọ Bee có đọc anh viết cho Bee bên kia nhưng vì không muốn kéo thread lên cho nên Bee im lặng 

Hôm nay mạo muội vào trả lễ cùng anh , chuyện nhìn lầm gọi lầm tên không có gì to tát , xin anh đừng bận lòng .

chúc anh 1 ngày vui vẻ và tràn đầy sinh lực và tâm thân an lạc .

Tulip4

Cám ơn Bee đã thông cảm.  LTP rất hân hạnh được quen biết Bee.

Tulip4
Reply
Sư Toại Khanh - KTC 6.59 Người Bán Củi, KTC 6.60 Hatthisāriputta, và KTC6.61 Con Đường Đến Bờ Kia (1-7)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BB%A7i

KTC.6.59 Người Bán Củi (post # 139)



1. Đức Thế Tôn ở trường hợp này vì thấy căn cơ của người bán củi là cơ hội dẫn đến điều Ngài muốn dạy nên mới đặt câu đặc biệt hỏi với ông ta như thế.

2. Người bán củi rất hoan hỷ hào hứng thưa là ông ta có bố thí cho các vị tỳ kheo đầu đà đang hành trì, các bậc A La Hán, những vị đang trên đường tu hành để đắc chứng đạo quả. Đây là một lối trả lời rất thông thường mà chúng phàm phu vẫn trả lời như thế. Bố thí làm phước v.v. ...

3. Đức Phật dạy rằng: Trong đời sống và với trình độ tâm linh, nhận thức của một người cư sĩ làm sao ông thể dám nói rằng một vị nào đó là A La Hán, hay là đang trên con đường tu hành đi đến quả vị A La hán? Thực đây là điều rất là khó nói. Với con mắt và suy nghĩ của một cư sĩ phàm phu chúng ta không thể nào quyết đoán được một cách mau chóng, đơn giản, dễ dàng, sơ sài về nhận xét người nào đó qua khía cạnh hình thức. Đây là một điều rất đỗi không nên làm. Mình dầu có quý có mến ai bằng trời đi nữa phải nên nhớ rằng ở đời thì thường là thấy vậy mà thật sự không phải vậy.

30/06/2019 - 07:53 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Một ngưởi có thể có một sở hành hay đời sống không ra gì nhưng có thể họ có một đời sống tâm linh. Tôi xin lấy ví dụ như trong giới văn nghệ sĩ trí thức ở VN, nếu ai mà thấy các ông Trịnh Công Sơn, Bùi Giáng ở ngoài đời cũng khó mà tưởng tượng được đây là những gương mặt tiêu biểu cho nền văn hóa, văn nghệ, trí thức của VN. Ông Trịnh Công Sơn ngưởi nhỏ thó, thuốc lá, rượu chè trông có vẻ bê bối bề bộn. Còn ông Bùi Giáng thì khỏi nói tới rồi. Những người bề ngoài có vẻ không ra gì nhưng bên trong nội dung của họ lại có thể nói là xuất sắc trong lãnh vực của họ. Nhưng ngược lại, có những người trong đời sống thường nhật họ có vẻ chỉnh chu tinh tươm mà bên trong lại trống rỗng.

01/07/2019 - 11:30 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Trong bộ Puggalapannatti (phần 4 A Tỳ Đàm) Phật dạy rằng có những trường hợp có những trái xoài khi nhìn bên ngoài thì thấy có vẻ ngon, nhưng bên trong thì lại không ra gì hết và ngược lại có những trái xoài khi nhìn bên ngoài thì thấy không ra gì hết, nhưng bên trong thì lại rất là ngon. Ở đây ví dụ trái xoài nhưng mình phải hiểu bao nhiếu các thứ khác trên đời cũng vậy. Thấy vậy mà chưa chắc bên trong nó là vậy. Bài kinh này sâu là sâu chỗ đó. Chúng ta chỉ mới nói về thân nghiệp thôi. Có những người thân nghiệp rất là tốt nhưng ý nghiệp không ra gì. Có những người thân nghiệp không mấy xuất sắc nhưng ý nghiệp thì lại rất xuất sắc. Có những người khẩu nghiệp không ra gì, nói năng không chừng mực, hớ hên, nhưng mà họ lại có một đời sống nội tâm. Có những người ăn nói chặt chẽ chừng mực nhưng bên trong lại rỗng, không có gì hết. Về ý nghiệp, có những người nếu mình có thể biết tâm họ là tâm người lành - suốt ngày chỉ biết làm phước, tụng kinh niệm Phật, nhưng họ chỉ tới đó thôi, và không thể đi lên nữa. Trong khi có những người ý nghiệp thường nhật của họ thanh tịnh sạch sẽ nhưng họ có khả năng vượt khỏi ý nghiệp thường nhật đó khi họ muốn. Thí dụ, trong kinh có nói đến những người chứng thiền chẳng hạn. Bình thường họ cũng có thể sống y như mình vậy, đói ăn, khát uống, mệt thì nằm nghỉ nhưng khi họ cần, họ có thể nhập định, một ngày, hai ngày, hoặc năm bảy ngày - chuyện đó đối với họ là bình thường. Các bậc thánh, A La Hán cũng vậy, bình thường họ cũng có thể đi đứng, ăn uống, nói năng, sinh họat như chúng ta vậy, nhưng bất cứ lúc các ngài cần thì các ngài có thể nhập hai thứ thiền: thiền quả hay thiền định.

04/07/2019 - 01:27 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]


Thiền định (samatha) là dành cho các ngài có đắc và thiền quả chỉ có thánh nhân mới nhập được (khi đã an trú vào thánh tâm, thánh trí). Cho nên, để nhận xét, để đánh giá, để cho điểm một người thì rất là khó - cũng như ở một bài kinh khác mà chúng ta đã học rồi. Vua Pasenadi đang ngồi hầu Phật thì có 7 du sĩ ngoại đạo đi ngang qua. Vua liền đứng dậy chấp tay hướng về họ và cúi chào rất là thành kính. Khi họ đi khuất rồi thì Vua ngồi xuống và thưa: "Bạch Thế Tôn, con nghĩ đó là các vị A La Hán, con tôn kính họ như những vị A La Hán vì con nghĩ họ là A La Hán".

Chữ A La Hán ở đây, cho tôi nói thêm chúng ta là người Việt, chúng ta biết được chữ A La Hán là do hoc hỏi từ Phật giáo. Nhưng đối với người Ấn Độ thời xưa, trước khi Phật ra đời thì chữ A La Hán đã có rồi. Trước khi Phật ra đời, thì chữ Phật cũng đã có rồi (trong kinh Vệ Đà có nhắc đến chữ Phật và chữ A La Hán). Từ A La Hán thời đó được hiểu nôm na là những người đã thoát qua một tục lụy nào đó, hiểu một cách đại khái, dân gian, đời thường như vậy; chứ không phải hiểu theo chuyên môn Phật giáo A La Hán là những vị đã tu tập Ba La Mật toàn đủ viên mãn, đã diệt trừ tất cả phiền não. Nếu không học giáo lý mình sẽ không biết cái đó.

Lúc đó Đức Phật dạy rằng: "Để biết được đức hạnh của một người con phải sống lâu bên cạnh họ nhiều ngày nhiều tháng, một thời gian dài. Để biết được trí tuệ của một người ta phải ngồi lại trao đổi đàm luận với họ thì mới biết họ ra sao." Bài kinh đó rất là ăn khớp với bài kinh này. Ở đời phải cẩn thận khi nhận xét mọi sự. Nhiều khi thấy vậy mà không phải vậy.

04/07/2019 - 09:31 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Và chuyện đó không phải chỉ ở người khác mà ở cả bản thân chúng ta. Mình ngồi thiền, mình nghĩ như vậy là mình hay lắm, mấy ngày nay mình thanh tịnh lắm, mình cao siêu lắm. Nhưng thực ra cái đó mới chỉ là phần vỏ thôi. Vỏ có nhiều lớp lắm quý vị. Lớp vỏ ngoài là cái người ta có thể thấy bằng mắt. Cái lớp vỏ tiếp theo bên trong là những cái gì mà bản thân mình có thể tự lừa dối hay tự hiểu nhầm. Cái lớp vỏ thứ ba là cái đằng sau, dưới cái lớp vỏ tự dối hay hiểu nhầm, chính là nó là cái gì, là cái ruột của nó, cái nội dung của nó, cái bản chất của nó, cái cốt lõi của nó là cái gì. Đó mới là cái quan trọng. Tôi xin nhắc lại. Bài kinh này dạy cho mình nhiều điều rất là quan trọng.

  1. Thứ nhất là không thể nhìn qua cái hình thức cái vỏ bên ngoài của một cái sự vật nào đó mà mình đánh giá một cách vội vã hấp tấp. Đó là chuyện không nên. Cái vẻ ngoài nó có nhiều lớp. Tôi bây giờ quay lại cái đời sống nội tâm của quý vị. Một là qúy vị ăn mặc đi đứng nói năng chừng mực có kiểm soát - đó mới là lớp vỏ ngoài, cái mà thiên hạ có thể nhìn thấy.
  2. Riêng các vị thì còn một lớp thứ hai nữa. Đó là mấy ngày nay quý vị sinh hoạt ra sao. Đó cũng chỉ là lớp vỏ thôi, thưa quý vị, những sinh hoạt mấy ngày nay ra sao cũng chỉ là lớp vỏ thôi, và là những gì mà quý vị có thể tưởng lầm về chính mình.
  3. Lớp vỏ thứ ba mới ghê. Đó là bản chất thật sự của mình là ra sao. Đây là lý do vì đâu mà tất cả các vị chư Phật chánh đẳng chánh giác bà đời mười phương đều có sáu Như lai biệt trí.
21/07/2019 - 10:09 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

(Sáu Như Lai biệt trí:)
Tức là cái trí riêng không có ở hàng độc giác và thinh văn. Trong 6 cái trí ấy có 2 cái trí đặc biệt gọi là (Pali).

  1. Cái trí thứ nhất là biết cái chúng sanh này, cái khuynh hướng tấm lý của họ nặng về cái gì trong bất thiện: tham nhiều, sân nhiều, si nhiều, tà kiến nhiều, tật đố, ganh tị, bỏn xẻn ... cái nào nhiều. Cái đó phải biết, biết để các ngài mới có thể thuyết pháp cho họ một cách chính xác được. Một câu là ngay chóc, chích xác còn hơn là Lục Mach Thần Kiến Nhât Dương Chỉ nữa. Nhìn thấy và chỉ ngón tay một cái là ngay chóc, ngay cái huyệt luôn.
  2. Cái trí tiếp theo là cái trí biết cái thiện pháp của họ, biết người này là cái gì mạnh - khác với cái trí kia là biết cái phiền não nào mạnh (tham sân si ái mạn kiến nghi họ nặng về cái gì). Còn cái trí tiếp theo là tín tấn niệm định tuệ tàm quý - cái chánh niệm thiền định của họ cái nào mạnh. Họ xuất sắc, sắc xảo, chuyên nghiệp về cái gì.
Thì về cái khoản này thì ngay đến cả một vị đại trí như là ngài Xá Lợi Phất vẫn không sao bì được với Đức Thế Tôn. Ngài xá Lợi Phất nhiều lắm thì ngài biết được người này là thông minh, người này có huệ căn ... Nhưng người này hạp với cái gì thỉ cũng vẫn nằm ở trong cái vòng suy đoán thôi. Mặc dù khả năng suy đoán của ngài Xá Lợi Phất so với các vị khác cái tỷ lệ chính xác cao hơn họ rất là nhiều. Vì ngài bẩm sinh đã thông minh, ngài là bậc thông tuệ, ngài lại có thần thông nữa mà, nhiều uyên thâm trong kinh nghiệm sống nhiều đời nữa. Nhưng so với vị Chánh đẳng giác thì ngài Xá Lợi phất chỉ nằm trong cái vòng suy đoán thôi. Riêng Chánh đẳng giác thì không có suy đoán. Chánh đẳng giác biết rõ. Bởi vậy vì đâu mà tôi nói mỗi người có tới mấy lớp là như vậy đó. Lớp ngoài là người ta có thể thấy mình, quan sát mình. Lớp thứ hai là bản thân mình có thể mò đoán suy ra được. Nhưng mà đàng sau cái lớp thứ hai này là bắt đầu mình đuối rồi. Vì sau cái lớp thứ hai này thì phải nhờ dến các vị có thần thộng, có thiền chỉ.

22/07/2019 - 11:25 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Thì các vị đó có tam thông thì mới biết rằng là cái ông này nè, trong cái tuần lễ này nè, là ổng OK đó. Nhưng mà tuần sau, sau nữa, tháng sau, năm sau ông sẽ không có được như vậy là vì bản chất của ông là blah blah blah. Nhớ nhe. Vị đó có được cái túc mạng minh và sanh tử minh cộng với tha tâm minh, ba cái minh đó hợp lại thì vị đó có thể thấu suốt được một con người ở một cái chừng mực nhất định nào đó. Túc mạng minh là nhớ được cái quả luân hồi. Nhớ biết kiếp nào đó mà người này sanh ra, ở đâu, làm gì, làm cái loài nào, ăn uống, hưởng thọ ra sao, hình sáng ra sao, sinh hoạt ra sao. Đó là nhớ cái quả luân hồi. Còn nhớ được cái nhân luân hồi là nhớ được cái người này kiếp trước làm trâu làm ngựa là do cái nghiệp gì, kiếp trước làm vua làm ăn mày là do cái nghiệp gì. Đó là nhớ cái nhân luân hồi. Còn cái tha tâm minh là biết rõ hiện giờ nhân vật này đang nghĩ cái gì. Tổng hợp ba cái minh này lại thì một người phàm sẽ có khả năng suy đoán 1 cách tương đối là chính xác, vì người này đã có thể xuyên qua hai cái lớp vỏ ngoài. Lớp ngoàii cùng là cái gì mà thiên hạ có thể lấy mắt lấy tai để quan sát nhận xét mình. Rồi cái lớp thư hai là cái gì mà bản thân đương sự hiểu được mình, cái này dĩ nhiên mắt người khác đâu có thể thấy được. Cái lớp thứ ba là chỉ có các vị có chứng đắc thiền định. Và lớp thứ tư là phải đến các bậc thánh nhân có thiền định. Và trong cái lớp thư tư này lại chia ra nhiều cấp. Chánh đẳng giác không giống độc giác. Độc giác không giống trí thượng thinh văn. Trí thượng thinh văn không giống đại thinh văn. Đại thinh văn không giống những vị thinh văn thường. (Thường có nghĩa là thời gian tu tập không có cố định). Vị A la hán tu nhiều kiếp thì mạnh hơn vị A la hán tu ít kiếp. A la hán thì hơn A na hàm. Rồi A na hàm tu nhiều kiếp thì mạnh hơn vị A na hàm tu ít kiếp. Cứ như vậy mà mình hiểu nhe. Cho nên ở cái lớp thư tư này là mình thấy rối rồi. Do đó, quý vị phải hiểu là để hiểu 1 con người chúng ta phải xuyên qua 4 lớp như vậy. Quý vị nghĩ đi, 4 lớp, nhe. Thì quý vị tưởng tượng là hôm nay mà chúng ta đánh giá 1 người mà chỉ thông qua cái lớp vỏ ngoài thì trời ơi làm sao mà trúng được? Thấy vậy mà không phải vậy. Nhưng mà chuyện nó quan trọng như thế này. Xin cho tôi nói hơi bất vệ sinh một chút. Mỗi con người nó giống như một cái khu đất vậy đó. Ở trong đó thì có chỗ có hoa, cỏ, có chỗ thì có 1 đống rác, thậm chí 1 đống phân, 1 xác thú chết, có 1 cụm hoa, thậm chí có 1 chiếc nhẫn kim cương nằm trên đất, thỉ dụ như vậy. Thì tùy minh, mình đặt chân lên cái miếng đất đó mình coi coi cái gì mà mình xài được. Thí dụ mình cúi xuống mà thấy cái nhẫn kim cương là lượm bỏ túi liền. Thứ hai là thấy có đống phân là tránh qua 1 bên liền, thấy có hoa là hái liền, thấy có đống rác là quẹo qua 1 bên liền. Quý vị nghe kịp không ta? Tức là mình đặt chân lên 1 vùng đất mà mình thấy nhẫn kim cương là mình lượm bỏ túi, hái cái hoa nhưng mà nhớ tránh cái đống phân dưới đất nè, nhờ đừng có đứng gần cái đống rác. Mỗi con người nó y chang như vậy.

22/07/2019 - 12:25 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Chứ còn quý vị không phải thắc mắc là "Trời ơi, nói khó như vậy, tới mấy lớp như vậy, thì làm sao mà tui sống ở đời đây?" Dạ thưa chúng ta cứ làm y chang như là tôi nói về cái khu đất vậy. Đừng có thắc mắc gì hết. Mình dốt tới trời đi nữa thì mĩnh có thể quan sát được cái này cái kia mà. Dĩ nhiên khả năng quan sát của người này không bằng của người kia. Của phàm sao bằng được của thánh. Của người không thiền sao bằng được với người có thiền định nhe. Nhưng mà tùy khả năng của mình thôi. Mình thấy cái gì là ngọc, lượm bỏ túi. Thấy cái gì là hoa, ngắt cài lên tóc. Còn mà thấy cái gì là rác, là phân, là xác thú, là 1 bãi nước bọt, thì mình tránh qua 1 bên. Vậy đó, nhe. Cho nên cái bài kinh này sâu là sâu chỗ đó. Bài kinh này đề nghị mình 1 chuyện cực kỳ quan trọng. Đó là chúng ta sống trong đời này bằng cả 6 căn. Mắt tai mũi lưỡi thân và ý. Những cái mình thấy bằng mắt nó chưa phải là toàn bộ vũ trụ. Những cái mình nghe bằng lỗ tai nó chưa phải là toàn bộ vũ trụ. Những cái mình ngửi thấy bằng mũi, nếm thấy bằng lưỡi, chạm bằng xúc giác hay mình suy tư bằng cái đầu của mình nó cũng không phải là toàn bộ vũ trụ. Là vì sao? Cái biết của mắt, tai mũi, lưỡi, của thân thì dễ hiểu rồi. Nhưng riêng cái biết của ý thức nó gồm có ba trường hợp:

1 là cái biết của thức, tức là cái biết đơn giản liên hệ của 5 căn.

2 là cái biết của tưởng, có nghĩa là cái biết thông qua kinh nghiệm, nhớ nhe.

Hồi nhỏ, khi còn đi lủm đủm thì má tôi, bà ngoại tôi gọi cái đó là cái tô. Khi tôi 90 tuổi, tôi gặp cái đó tôi cũng kêu nó là cái tô, bởi vì từ ngày nhỏ xíu xìu xiu khi tôi còn chập chững tôi đã nghe người lớn dạy cho tôi cái đó là cái tô. Từ hồi bé người lớn đã dạy cho tôi cái đó là màu tím, cái đó là màu hồng, màu vàng, người lớn đã dạy cho tôi cái đó là vuông tròn dài ngắn, từ nhỏ người lớn đã dạy cho tôi cái đó là chua, cay, mặn, ngọt, đắng, bùi, chát. Từ hồi nhỏ tôi đã biết cái đó. Thì cả đời tôi sống trong cái biết đó, trong từ chuyên môn gọi là tưởng - ngoài đời thì gọi là kinh nghiệm. Còn từ của Đức Phật dạy, không phải từ của tôi, đó là wohara - chữ này có rất nhiều nghĩa, nhưng ở đây nó có nghĩa là mặc định hay là mặc tướng. Thí dụ, đối với người Nhật họ mói mặc như vậy là đẹp, đối với người Đại Hàn họ mói mặc như vậy là đẹp, đối với người Việt Nam họ mói mặc như vậy là đẹp. Mà cho tối nói ngoài lề 1 chút. Cái y phục truyền thống của Việt Nam tôi thấy tôi mê lắm. Cái áo dài của nam hay của nữ tôi thấy nó đẹp và có duyên lạ lắm. Thậm chí 1 nhà fashion designer của Mỹ ổng có nói 1 câu thế này: cái áo dài Việt Nam coi như là kín đáo mà lại hở hang bậc thầy. Nó tuy kín đáo nhưng là thầy hở hang. mà hở hang 1 cách thông minh và gợi cảm. Trong khi đó mình thấy cái đồ truyền thống của Đại hàn trời đất ơi nó xấu không có tả được. Korean Traditional Clothing. Trời ơi, nó xấu không có tưởng tượng được. Nó phình ra như cái áo bà bầu vậy đó. Có thể nhốt một đám con nít ở trong cái vày đó cũng được nữa. Nó to đùng như vậy nè. Nhưng mà dối với người Đại Hàn thì họ mặc định đó là đẹp. Rồi thì có những người họ nói cái đó là cái mùi thơm trong khi có những người họ lại nói cái đó là cái mùi hôi. Cái đó gọi là mặc định.


(3 là cái biết của trí.)

(còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh - KTC 6.59 Người Bán Củi, KTC 6.60 Hatthisāriputta, và KTC6.61 Con Đường Đến Bờ Kia (2-7)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BB%A7i

KTC.6.59 Người Bán Củi (post # 139)

24/07/2019 - 11:29 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Hay là mặc tướng thôi. Tức là cái biết thông qua tưởng, nhe. Cái biết bằng thức là cái biết thông qua 6 giác quan; còn cái biết bằng tưởng là cái biết thông qua cái kinh nghiệm. Cái biết của thức là cái biết trực quan, thí dụ như tui thấy cái đó, tui nghe cái đó mà tui chưa có nhận ra nó là cái gì.
 
  1. Cái biết lúc mà chụp hình lần đầu tiên thì gọi là cái biết trực quan. 
  2. Cái thứ hai là cái biết của tưởng (sanna) là cái biết qua kiến thức và kinh nghiệm, nhe. 
  3. Cái  thứ ba là cái biết của trí là qua khả năng nhận thức sinh động và trung thực. Vấn đề ra sao thì thấy như vậy. Đó là cái biết của trí. 
Còn cái biết mà hồi đó giờ mình tưởng mình biết thí dụ, trời ơi ổng giỏi lắm, cái gì ổng cũng biết. Xin thưa quý vị đó toàn là biết do kinh nghiệm không thôi. Tui nhắc lại nhe. Người Việt mình hay có cái câu đó: trời ơi, ổng uyên thâm lắm, ổng thông thái lắm, cái gì ổng cũng biết hết. Mình tưởng đó là hay nhưng mà toàn bộ chỉ là cái biết của tưởng thôi. Còn cái biết sinh động sáng tạo của trí lại khác. Thí dụ như, nghe người ta nói cái gì đó mình hiểu mà cái hiểu đó là cái hiểu gọi là xuyên qua cái nhận thức, qua cái sự cân đong đo đếm, chứ không phải bằng cái vốn liếng cũ. Nhớ nhe. Không có hiểu bằng cái vốn liếng cũ mà nó có cộng thêm cái yếu tố mới trong đó nữa.

24/07/2019 - 12:56 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Cái gì mình làm mà mình thấy không nên. Thí dụ chuyện gì mình sắp làm mình nghĩ cái này là hại mình, hại người và cái việc mà hồi nhỏ bố mẹ mình chỉ dạy là không có được làm cho người ta khóc, không có được làm cho người ta chảy máu, không có được đâm heo, thuốc chó, không có được đào tường khoét vách, không được phá gia cang, không được làm người ta tan nhà nát cửa. Mình chỉ học được tới đó thôi. Nhưng mà lớn lên thì với trí tuệ của người học đạo, của người có kiến thúc nhiều, thì trên nền tảng kiến thức, tuy là tưởng đó, nhưng mà mình lại có những cái biết riêng. Cái biết đó nó sinh động và sáng tạo. Thí dụ như mình làm những việc mà xưa giờ mình chưa từng làm, mình hiểu được những việc mà xưa giờ mình chưa từng hiểu. Vậy đó. Thí dụ như từ nhỏ lớn, mình hiểu cái chữ thiện là gì. Thiện có nghĩa là cái gì lành, cái gì tốt, cái gì mà đạo đức, cái gì mà xã hội khen gợi tán dương. Thì mình hiểu đó là thiện. Nhưng mà hôm nay khi mình học đạo, mình có trí văn, trí tư, trí tu, mình hiểu chữ thiện nó rộng hơn. Ngày xưa mình chưa học đạo, mình chỉ nghĩ rằng ớ đời nó có cái tốt với cái xấu, cái bậy và cái không bậy thôi. Nhưng mà theo trong Phật pháp còn có cái thứ ba, mà phải là người trí họ mới thấy được - đó là; tất cả việc ác dẫn ta đi xuống đường đọa; tất cả thiện pháp đưa ta đi đường siêu, dầu siêu hay đọa đều là 3 cõi 6 đường sanh tử trầm luân, niên viễn không ngừng. Các vị nghe hiểu không ta? Thì hễ nhận thức được cái điều thứ ba này các vị sẽ có trí tuệ; chứ còn mà chỉ đơn giản dùng cái kiến thức, dùng cái kinh nghiệm thì quý vị khó mà chấp nhận được rất nhiều điều trong Phật pháp. Rất là khó. Bởi vì cái kinh nghiệm của mình là từ đâu ra? Từ học đường, từ trường lớp, từ xã hội, từ gia đình, từ truyền thống tâm linh của dân tộc, thì phải nói những cái mà tôi vừa nói không có cái nào cò đủ sức để làm nền tảng cho cái nhận thức mà tôi vừa nói. Nghĩa là:

  1. Hạng 1: thích gì làm nấy, bất kể thiện ác.
  2. Hạng 2: lánh ác, hành thiện để trốn khổ tìm vui
  3. Hạng 3: tiếp tục lánh ác hành thiện nhưng mà để không còn thiện ác buồn vui
Để hiểu việc được như hạng thứ 3 này nè, thì cái đó phải có trí tuệ.

Quý vị nghe kịp không? Và chưa hết đâu quý vị, chưa hết đâu - nó còn nữa.

Người mà không có trí tuệ là không biết phân biệt nên và không nên. Nhưng mà đến cái hạng thứ 2 thì họ vẫn còn sống trong mặc định. Thí dụ họ thấy rằng ai cũng khen người có giới, ai cũng khen người bố thí, ai cũng khen người tu thiền. Tui là người có giới nè, tui tháng nào cũng có mấy ngày bát quang, tui ngày nào cũng có 4 tiếng ngồi thiền, tui coi như chủ nhật cuối tuần nào cũng đi chùa làm phước, chủ nhật nào tui cũng đi giúp cho mấy cái viện dưỡng lão, viện mồ côi, trại cùi, trại ung thư ... đó! Nhưng mà còn có cái hạng thứ 3 hơi khó.

Cái bước 3 hơi khó. Hạng thứ 3 này sẽ thấy rằng những việc thiện tôi làm chỉ nhằm có mấy ý nghĩa sau đây: 1. cầu quả giải thoát: tôi làm việc thiện bây giờ xin chuyển tất cả vào cái tài khoản niết bàn hết! chỉ rót vào tài khoản niết bàn, nhe. Đầu tư trong cái cứu cánh giải thoát. Cái này tui nói tui biết sẽ có người nhảy nhổm lên nói tu là buông mà sao lại có cái chữ đầu tư ở đây? Tui chỉ dùng cái chữ cho bà con hiểu thôi. Chứ làm ơn đừng có dốt là nhảy lên mà cãi chữ, mệt lắm - tui không có quởn, nhe. Tui nói riết, ngày xưa người ta có tu đà quờn, ngày nay mình có tu đà quởn! Có nghĩa là nó tu rồi nó quởn rồi nó làm những cái tào lao đó, nghe. Cái khó là cái thứ 3 này nè. Cái thứ nhất là không biết thiện ác. Cái thứ hai là biết tránh ác hành thiện. Nhưng mà cái thứ 3 là biết mình làm thiện là chỉ nhằm 3 ý nghĩa : 1. cầu quả giải thoát, 2. để trang nghiêm nội tâm và 3. là vì lòng đại bi với đời, thấy người ta khổ không cam lòng được, nhe. Thì cái người mà hiểu đạo thì họ chỉ làm phước chỉ vì 3 cái lý tưởng này thôi.

25/07/2019 - 02:40 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Tôi nhắc lại: 1 là cho quả cầu giả thoát cho mai sau, 2 là ngay hiện tại trang nghiêm cái nội tâm, 3 là nhắm đến đối tượng, giúp người khổ ngay trước mặt. Đây chính là 3 cái đối tượng, 3 cái lý do để người hành đạo mà có trí họ hành thiện. Còn thông thường chúng ta không có tới được cấp 3 này, chỉ được tới cấp thứ hai thôi. Nghĩa là biết hành thiện, lánh ác. Để làm gì? Để trốn khổ tìm vui, để kiếp sau đừng khổ, đừng đói, đừng nghèo, đừng xấu, đừng bịnh, nhe, đừng bị vô duyên trong tình cảm, đừng bị thua thiệt trên con đường hoạn lộ, quan chức, đi đâu cũng ngồi trên đầu người ta, ăn ngon mặc đẹp, vợ đẹp con ngoan, chồng dễ thương, blah blah blah ... Tức là tu thiện chỉ để cầu quả nhân thiên, như vậy mới là bước thứ hai thôi. Nhắc lại, bước 1 là không biết gì hết, bước 2 là tu để cầu quả an lạc, nhân thiên, bước 3 là để giải thoát sanh tử. Đó là nói về quả báo. Còn nói về ý nghĩa của mỗi việc thiện mà người biết đạo thì chỉ có 3 cái đối tượng tôi đã nói trên đây.


25/07/2019 - 04:30 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

1 là cho quả cầu giả thoát cho mai sau, 2 là ngay hiện tại trang nghiêm cái nội tâm, 3 là nhắm đến đối tượng, giúp người khổ ngay trước mặt. Thí dụ cúng dường chư tăng, giúp đỡ người nghèo khổ, trẻ em cơ nhỡ, người già quạnh hiu, người bịnh không ai chăm sóc, cần thuốc men, ... thí dụ như vậy. Nhớ nhe. Thì phải hiểu mấy cái này mình mới nhận ra con người thiệt của mình đó, ít nhiều nó ra làm sao. Chứ mà hiểu cho đến nơi đến chốn thì chỉ có chánh đẳng chánh giác, dưới ngài là các vị Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, ngài Ca Diếp. Chứ cỡ như mình vào với nhau, đánh giá nhau thì trớt quớt. Cho nên nguyên bài kinh này mình thấy cũng hơi dài dài đó. Tôi nói có nhanh lắm không ta? Cái Youtube này hay nè. Chỉ có cái là hôm đầu tiên nên bà con có lẽ hơi chậm, hơi bị lọng cọng. Và chính tui ngày đầu tiên nói pháp mà chường cái mặt tui lên đây cũng hơi ngại. Nhưng mà riết nó quen rồi thì cũng OK, nhe.

Như vậy thì bài kinh người đốn củi nó có nội dung như thế nào? Nó có nội dung là: hãy cẩn thận đừng vội vã, hấp tấp khi phán đoán, nhận xét, đánh giá bất cứ, người hay vật hoặc sự kiện nào chỉ vì cái lớp vỏ ngoài hời hợt của nó. Nhớ nhe. Tui nói mà không biết bà con có nghe kịp không?

Rồi cái nội dung cuối cùng này mới ghê nè. Tại sao mà Đức Thế Tôn khi gặp ông bàn củi ngài lại hỏi cái câu đó, thưa quý vị? Đọc trong kinh mình mới thấy khiếp, mới thấy hoan hỷ. Là tại sao người khác ngài không hỏi câu đó, mà gặp cái ông này ngài lại hỏi? Là bởi vì ngài biết trước 1 cái duyên sự cũng khá là quan trọng, không phải chỉ cho lúc đó mà cho ngàn đời sau, trong đó có chúng ta hôm nay, tại đây và bây giờ. Ngài biết trước được ông này là 1 cữ sĩ phải nói là tính tâm toàn vẹn, thương kính Tam Bảo chư tăng. Ngài không muốn ông này sẽ bị sốc sau này, ngài biết trước những sự kiện sẽ xảy ra cho ổng, cho nên ngài mới hỏi ổng câu hỏi đó, để mà có được câu trả lời của ổng rồi dựa trên câu trả lời ấy mà ngài mới dạy những điều mà nãy giờ mình nghe, nghe giảng đó, nhe. Thì ổng tiếp tục ổng nói qua những gì mà Đức Thế Tôn đã dạy từ rày về sau thì con sẽ tiếp tục cúng dường bố thí nhưng mà bằng cái sự cẩn trọng, bằng cái trí tuệ. Các vị nghe kịp không? Và tại sao có cái phần kinh này? Là bởi vì trong kinh nói cái ông này ổng hộ trì chư tăng đông lắm, có tới 500 vị tỳ kheo thường xuyên nhận sự hỗ trợ, hộ độ cúng dường của ổng. Rồi có 1 ngày kia, 1 ngày xấu trời đáng buồn kia coi như là cả 500 trăm vị đó lần lượt rủ nhau hoàn tục sạch bách! Nhưng mà sao? Tuy 500 vị tỳ kheo rủ nhau hoàn tục sách bách nhưng ông ta không hề có mảy may bị giao động. Bởi vì ổng đã nghe rồi. Ổng đã nghe Đức Phật giảng cách đây cũng đã lâu rồi. Ngài đã dặn dò trước. Bây giờ ổng mới nhớ lại là "À thì ra, ngày ấy Thế Tôn đã biết được lòng ta đối với chúng tăng. Ngày ấy Thế Tôn đã biết ta sẽ gặp chuyện gì, và ngày ấy Thế Tôn đã dạy ta điều gì. Hôm này thì chuyện này cũng rất đỗi bình thường thôi." các vị nghe kịp không? Cái điểm đặc biệt là chỗ đó! Nhớ nghe.

26/07/2019 - 10:38 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Chứ còn rất nhiều bà con hôm nay mà tôi nhìn họ mà ào ạt vậy thì tôi ngán dữ lắm. Tôi ngán là khi họ ào ào như vậy là thế nào cũng sẽ có bữa trong nhà họ có chuyện xào xáo, rắc rối, bởi vì ông chồng làm phước nhiều quá bà vợ không đồng ý, bà vợ mạnh tay quá ông chồng không đồng ý, con cái làm mạnh tay quá bố mẹ không đồng ý, bố mẹ mạnh tay quá con cái không đồng ý, nhà mình mạnh tay quá bà con dòng họ bạn bè họ cũng nhắc nhở. Cái thứ nhất là như vậy. Tôi nghĩ thế nào họ cũng có ngày bị dẫm đá thôi. Hay bị đá rớt trúng chân. Cái thứ hai nữa là tôi không biết mai này lỡ thị phi nó đổ ập lên đầu họ, họ có chịu nổi không? Ngay cả 1 vị Chánh Đẳng Chánh Giác mà cón bị thị phi má quý vị, thì không biết hôm nay 1 cá nhân hay 1 đoàn thể phàm tăng thì làm sao mà tránh được thị phi. Thử hỏi 1 người mà đã bỏ ra quá nhiều thời gian công sức tiền bạc tâm tư, lòng quý kính, thần tượng thờ phụng 1 đỗi rồi bây giờ đùng một cái nó tanh bành té bẹ, chó chê, mèo mửa tanh tưởi ngửi không vào ... thì thử hỏi các vị làm sao mà mình chịu nỗi đây? Cho nên tui thấy mấy người mà ào ạt tu hành làm phước tui cũng hơi run. Tui run là run giùm họ chứ mắc mới gì đến tui. Tui run là tui thấy chết rồi, gia đình họ có để yên hay không, bạn bè họ có để yên hay không, bà con dòng tộc có để họ yên hay không, vì họ làm bạo quá mà. Cái thứ hai là thị phi tiếng đời nó có tha họ hay không. Rồi cái thứ ba là có một ngày mà đột nhiên nửa đêm vắng mà họ vắt chân lên trán mà họ nghĩ ra cái điều gì đó mà nó đi ngược lại cái cách suy nghĩ của họ xưa giờ thì làm sao? Cho nên cái thứ nhất là những người thân tộc, thứ hai là tiếng đời thị phi, cái thứ ba là bản thân chính mình. Các vị biết không? Khổ dữ lắm!

(Còn tiếp)
Reply
(tt) Sư Toại Khanh - KTC 6.59 Người Bán Củi, KTC 6.60 Hatthisāriputta, và KTC6.61 Con Đường Đến Bờ Kia (3-7)

https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=...%E1%BB%A7i

131/07/2019 - 01:35 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Cho nên Đức Phật thấy trước cái điều này, và thấy cái ông này không xong. Và không biết bà con còn nhớ cái chuyện ngài Sivali ngài có người mẹ, quý vị còn nhớ không? Mang thai 7 năm 7 tháng 7 ngày. 7 năm 7 tháng rồi mà bị kẹt ở trảng môn 7 ngày nữa, nghĩa là sanh khó, mà đỉnh của khó chứ không phải khó thường. Rồi gia đình và ông chồng mới vào lạy Phật. Rồi Phật mới chú nguyện cho bà Suppavasa được mẹ tròn con vuông. Thì ngay khi Đức Thế Tôn vừa dứt lời thì ở nhà bà coi như thanh thản nhẹ nhàng sanh con mà không hề đau đớn tí ti. Sau đó gia đình hoan hỷ quá đi gia đình mới xin thỉnh Thế Tôn và chư tăng về để cúng dường. Có cái kẹt là ngày mai của cái ngày mà gia đình ngài Sivali muốn thỉnh thì đã có thí chủ rồi, mà thí chủ đó lại là đệ tử của ngài Mục Kiền Liên. Cho nên khi gia đình của ông Hoàng vào thỉnh Đức Phật thì Đức Phật mới nói là ngày mai đã có người khác thỉnh rồi, người đó là đệ tử của ngài Mục Kiền Liên. Nếu ông muốn thỉnh thì ông nên tới thương lượng với ngài Mục Kiền Liên xem sao. Thì ngài Mục Kiền Liên nghe vậy thì ngài rất lấy làm hoan hỷ. Ngài nói vậy thì quá tốt, dịp này quá tốt, không có việc gì không nên. Nhưng mà hãy để cho ta đền thương lượng với người đệ tử của ta xem họ có đồng ý hay không. Thì người đệ tử của ngài Mục Kiền Liên kính thầy, quý thầy lắm, quý Phật, thương Phật lắm, cho nên chỉ cần sư phụ của họ lên tiếng, nếu kêu họ mà dời nhà trong ba phút là họ dời liền, họ quý lắm như vậy. Trong kinh nói 1 cái vị thánh nhân cư sĩ thời Đức Phật nếu có phải chết vì Tam Bảo họ vẫn nhăn răng ra cười đủ 3 nụ rồi thì họ mới chết.

04/08/2019 - 12:02 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Thậm chí ở trong Trung Bộ Kinh, kinh Bhaddali, (MN65), Phật có xác định: một tỳ kheo chứng sơ quả nếu mà Như Lai có đề nghị họ nằm xuống để ta dẵm lên họ thì họ vẫn vui. Phải viết chứ không thôi bà con nghĩ tui bịa. Trong quý vị có nhiều thành phần. Nhiều người kinh thì không chịu đọc, mà nghe cái gì ngộ ngộ là bắt đầu nghi ổng bịa. Trời ơi, thời này là thời Google, mình tự mình lấy cái đầu của con người, chứ đứng lấy cái đầu của con khác, mình vô Google mình search, mình kiếm. Mình tạo cái keywords, trong nước kêu là từ khóa, mà tìm, mà search. Còn là cứ không coi kinh, không search internet, mà lại xem toàn cái tầm bậy. Xong rồi hoang mang nghi hoặc, nghe người nào nói mà không giống cái đầu tào lao của mình là nghi, nhe. Thì giờ vô bài Kinh Trung Bộ mà xem coi có đúng vậy không, nhe. Thì khi mà ngài Mục Kiên Liên ngài đề nghị với người đệ tử như vậy, thì người đệ tử nói "Thầy dạy là con làm liền, con không có 1 chút gọi là khó chịu hết. Nhưng mà con chỉ xin thầy bảo đảm với con 3 chuyện thì con hứa con nhường cho họ ngay". Thì ngài Mục Kiên Liên trả lời "Cứ nói đi, ta sẽ tùy sức mà ta bảo đảm". Ông kia nói "Điều thứ nhứt là sư phụ có bảo đảm là con sống đủ tuổi thọ, con có đủ thời gian để con làm phước hay không." Thì ngài Mục Kiền Liên trong một phần tỉ của giây là ngài thấy ngay. Ngài nói "Ta thấy. Ta biết ngươi trăm tuổi chứ không có đi sớm." Thì tiếp theo ông kia nói là "Xin ngài hứa bảo đảm với con là sau khi con nhường cho họ xong thì tài sản con không bị cháy nhà, không bị cướp, không bị vua tịch thu, không bị mất mát gì hết". Cũng trong một phần tỉ của giây, ngài Mục Kiền Liên thấy ngay là chuyện đó không thể xảy ra, và ông này càng ngày càng giàu chứ không thể nghèo được. Ngài nói "Ta hứa. Hứa thứ nhứt là ngươi sống trăm tuổi chứ không có đi sớm, cho nên thời gian của ngươi nó dài và nó dư. Thứ hai là tài sản của ngươi không có vần đề, không bị đe dọa gì hết, và ngươi sẽ càng ngày càng giàu. Mai này ngươi sẽ chết trên một đống vàng. Không có cái gì phải lo". Nhưng đến điều thứ ba, ông kia nói "Xin ngài hứa bảo đàm với con là cái đạo tâm của con không có bị vần đề.". Ngài Mục Kiền Liên nói: "Không. Cái gì ta cũng hứa, nhưng cái khoản này ngươi phải tự hứa, tự xét, tự liệu. Ta không có hứa giùm." Câu trả lời này chỉ có vị Thánh mới trả lời như vậy. Chứ còn phàm phu mà có đắc thiền thần thông cũng không có trả lời hay như Thánh. Có những trường hợp éo le, lắc léo như thế này thì mình mới thấy những khác biệt cực kỳ lớn giữa vị phàm và bậc Thánh, nhe. Trong khi đó, đối với 1 vị phàm phu đắc thiền, thì vị đó nhìn về tương lai chỉ biết liền là ông này 2 chục, 3 chục năm nữa có tiếp tục làm Phật tử hay không. Phật tử kiểu gì, loại nào, cỡ nào, tầm nào, là thấy ngay chứ là sao không thấy. Thế là phán ngay. Đó là phàm. Chứ còn ngài Mục Kiền Liên thì không. Ngay trong cái lúc mà ngài vừa nghe ông kia đề nghị cái mục thứ ba thì ngài muốn nhân cái đề nghị này, ngài gởi về trước mắt là cho ổng, và ngài còn gởi về hàng ngàn Phật tử mai sau một bài học. Làm ơn ghi giùm tui cái này: Không phải ngài dạy riêng cho ổng, không phải ngài mượn cái dịp này để ngài dạy, mà ngài muốn gởi về cho hàng ngàn thế hệ Phật tử mai sau, của lịch sử Phật Giáo 5000 năm, rằng là: "Không ai có thể bảo đảm cái lòng thiện tâm của con bằng chính con." Chưa đắc Tu Đà Huờn thì không nên quá tin cái tâm của mình. Nhớ nhe. Và cần cái cơ hội nào để gởi bài học đó cho hậu thế? Dạ thưa đây là 1 trong những cơ hội bằng kim cương. Chứ bây giờ có dịp nào mà gởi bài học đó cho cái đám hậu lai, hậu tấn, hậu học đây? Đây là cái dịp bằng vàng bằng kim cương. Và chỉ có cái tốc trí mà nhanh hơn 3 ngàn lần ánh sáng của 1 bậc đại thánh như tôn giả Mục Kiền Liên mới có thể kịp thời nghĩ ra câu trả lời lạ lùng như vậy.

10/08/2019 - 04:52 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Khi mà người đệ tử đề nghị ngài bảo đảm cho điều thứ ba, thì với cái trí Ngài hiểu rất nhanh đây là cơ hội bằng vàng bằng kim cương. Ngài dạy liền: "Không, Ta không bảo đảm. Chuyện đó ngươi phải tự bảo đảm." Đọc cái đó nếu bằng cái đầu hời hợt thì dỏm lắm. Mình thấy ngài hình như hơi dở, Ngài thua xa mấy cái vị phàm đã đắc thần thông. Nhưng mà không. Quý vị mà coi kinh tới chỗ này quý vị thấy quý vị run bắn người té ghế chỉ vì các vị thấy 1 câu trả lời hay đến mức không thể hay hơn. Đây là 1 câu trả lời của 1 bậc đại thánh, hoàn hảo, kiện toàn trí tuệ, nhe. Ngài nói "Tuổi thọ tài sản của ngươi ta bảo đảm. Nhưng cái khoảng thứ ba này ngươi phải tự liệu." Rất xuất sắc. Thì không ngờ thầy nào trò nấy. Người đệ tử vừa nghe xong liền nói: "Bạch Ngài. Con xem ngài là sư phụ thì con trình như vậy chứ về cái khoảng thứ ba này ngay trước mặt sư phu con xin tự bảo đảm". Đọc cái đó mới thấy run. Thấy như vậy thì trò cũng phải cỡ cái tầm đó.

10/08/2019 - 05:24 - caoxuankien - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Mình mới run, nhe. Trình là trình như vậy nhưng mà cái khoản thứ ba này thì "con xin tự bảo đảm." Cái mạng này có thể mất nhưng mà cái tín tâm không thể mất được. Đặc biệt như vậy. Nhớ cái đó.

Bài kinh này nãy giờ tôi cứ hơi lo là, trời ơi, bài kinh này nếu mà không nghe giảng, mà cứ liếc con mắt sơ qua trên mặt giấy thì uổng cho bài kinh này lắm. Uổng lắm.

Rồi, vậy là mình vừa học xong bài Kinh gọi là Kinh Người Đốn Củi, mà tôi cho rằng không hề đơn giản tí nào.

(còn tiếp)
Reply
Tăng Chi Bộ - Anguttara Nikaya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt


Chương VI - Sáu Pháp
VI. Ðại Phẩm

(I) (55) Sona


Roll down từ từ sẽ thấy ...

-----------------


(VI) (60) Hatthisàriputta

1. Như vầy tôi nghe:
Một thời, Thế Tôn trú ở Bàrànasi tại Isipatana, vườn Lộc Uyển. Lúc bấy giờ, nhiều vị Tỷ-kheo trưởng lão, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, ngồi tụ họp tại ngôi nhà hình tròn và thuyết về Thắng pháp luận. Tại đấy, Tôn giả Hatthisàriputta, trong khi các Tỷ-kheo trưởng lão đang thuyết về Thắng pháp luận, lại nói xen vào chặng giữa. Rồi Tôn giả Mahàkotthita nói với Tôn giả Hatthisàriputta:

- Tôn giả Citta Hatthisàriputta, trong khi các Tỷ-kheo trưởng lão đang thuyết về Thắng pháp luận, chớ có nói xen vào chặng giữa! Tôn giả Citta hãy chờ cho đến cuối câu chuyện.

Ðược nghe nói vậy, các Tỷ-kheo bạn bè của Tôn giả Citta Hatthisàriputta nói với Tôn giả Mahàkotthita:

- Tôn giả Kotthita chớ có bất mãn Tôn giả Citta Hatthisàriputta! Tôn giả Citta Hatthisàriputta là bậc Hiền trí. Tôn giả Citta Hatthisàriputta có thể nói chuyện về Thắng pháp luận với các Tỷ-kheo trưởng lão và thật rất khó lòng cho các Hiền giả để biết được tâm tư của người khác.

2. Ở đây, thưa các Hiền giả, có hạng người, khi còn sống gần vị Bổn sư hay sống gần một vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, trong khi ấy, là người nhu hòa nhất trong những người nhu hòa, là người khiêm tốn nhất trong những người khiêm tốn, là người an tịnh nhất trong những người an tịnh. Khi người ấy rời khỏi bậc Ðạo Sư, rời khỏi các vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, vị ấy sống giao thiệp với các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo-ni, với các nam cư sĩ, nữ cư sĩ, với các vua chúa, các đại thần của vua, với các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo. Do vị ấy sống giao thiệp, phóng túng, thô lỗ, đam mê nói chuyện, tham ái tấn công tâm vị ấy. Vị ấy, với tâm bị tham ái tấn công, liền từ bỏ học pháp và hoàn tục. Ví như, này các Hiền giả, một con bò ăn lúa, bị dây cột lại, hay bị nhốt trong chuồng. Này Hiền giả, nếu có ai nói như sau: "Con bò ăn lúa này sẽ không bao giờ đi xuống ruộng lúa nữa", nói như vậy, thưa các Hiền Giả, là nói một cách chơn chánh không?

- Thưa không, thưa Hiền giả, sự kiện này, thưa Hiền giả, có xảy ra: Con bò ăn lúa ấy, sau khi bứt dây, hay phá sập chuồng, có thể xuống ruộng lúa nữa.
Cũng vậy, này các Hiền giả, ở đây, một số người khi còn sống gần vị Bổn Sư, hay sống gần một vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, trong khi ấy, là người nhu hòa nhất trong những người nhu hòa, là người khiêm tốn nhất trong những người khiêm tốn, là người an tịnh nhất trong những người an tịnh. Khi người ấy rời khỏi bậc Ðạo Sư, rời khỏi vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, vị ấy sống giao thiệp với các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo-ni, với các nam cư sĩ, nữ cư sĩ, với các vua chúa, các đại thần của vua, với các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo. Do vị ấy sống giao thiệp, phóng túng, thô lỗ, đam mê nói chuyện, tham ái tấn công tâm vị ấy. Vị ấy, với tâm bị tham ái tấn công, liền từ bỏ học pháp và hoàn tục.

3. Ví như có hạng người ly dục..., chứng và trú sơ Thiền. Với tư tưởng: "Ta đã được sơ Thiền", vị ấy sống giao thiệp với các Tỷ-kheo... từ bỏ học pháp và hoàn tục. Ví như, này các Hiền giả, một cơn mưa to lớn xảy ra tại ngã tư đường, khiến cho bụi bặm biến mất và bùn hiện ra. Này các Hiền giả, nếu có ai nói như sau: "Nay tại ngã tư đường này, bụi sẽ không hiện ra nữa". Người ấy nói như vậy có nói một cách chơn chánh không?

- Thưa không, thưa Hiền giả. Sự kiện này có xảy ra, thưa Hiền giả: "Tại ngã tư đường này, có người đi qua, hay có trâu bò đi qua, hay gió và nóng có thể làm cho khô khí ẩm ướt và bụi sẽ hiện ra trở lại.

- Cũng như vậy, thưa các Hiền giả, ở đây có hạng người ly dục... chứng và trú Thiền thứ nhất. Vị ấy, với ý nghĩa: "Ta đã chứng sơ thiền", sống giao thiệp với các Tỷ-kheo... từ bỏ học pháp và hoàn tục.

4. Ở đây, này các Hiền giả, có hạng người làm cho tịnh chỉ tầm và tứ... chứng và trú Thiền thứ hai. Vị ấy, với ý nghĩa: "Ta đã chứng được Thiền thứ hai", giao thiệp với các Tỷ-kheo... từ bỏ học pháp và hoàn tục. Ví như, thưa các Hiền giả, một hồ nước lớn gần một làng hay thị trấn. Tại đấy, một cơn mưa to xảy đến, khiến cho các loài sò ốc, các đá sỏi biến mất.

Thưa các Hiền giả, nếu có ai nói như sau: "Nay tại hồ nước này, các loại sò ốc, các đá sỏi sẽ không xuất hiện ra nữa". Người ấy nói như vậy có nói một cách chơn chánh không?

- Thưa không, thưa Hiền giả. Sự kiện này có xảy ra, thưa Hiền giả: Tại hồ nước này, loài Người có thể uống, hay loài trâu bò có thể uống, hay gió và sức nóng có thể làm cho khô khí ẩm ướt, và các loài sò ốc, các đá sỏi có thể xuất hiện ra lại.

- Cũng vậy, thưa các Hiền giả, ở đây có hạng người làm cho tịnh chỉ tầm và tứ... chứng và trú Thiền thứ hai. Vị ấy với ý nghĩ: "Ta đã chứng được Thiền thứ hai", giao thiệp với các Tỷ-kheo... từ bỏ học pháp và hoàn tục.

5. Ở đây, thưa các Hiền giả, có hạng người từ bỏ hỷ... chứng và trú Thiền thứ ba. Vị ấy với ý nghĩ: "Ta đã chứng được Thiền thứ ba", giao thiệp với các Tỷ-kheo... từ bỏ học pháp và hoàn tục. Ví như, thưa các Hiền giả, có người đã ăn đồ ăn thượng vị, không ưa thích các đồ ăn hôm qua để lại. Thưa các Hiền giả, nếu ai nói như sau: "Nay người này không còn ưa thích đồ ăn nữa", thưa các Hiền giả, người ấy nói như vậy có nói một cách chơn chánh không?

- Thưa không, thưa Hiền giả. Sự kiện có xảy ra: Người này, thưa Hiền giả, khi ăn đồ ăn thượng vị, cho đến khi nào chất dinh dưỡng còn tồn tại trong thân, cho đến khi ấy, không có một món ăn nào khác sẽ làm vị ấy ưa thích. Cho đến khi chất dinh dưỡng tiêu mất, khi ấy món ăn có thể làm cho vị ấy ưa thích.

- Cũng vậy, này các Hiền giả, ở đây có hạng người từ bỏ hỷ... chứng và trú Thiền thứ ba, vị ấy với ý nghĩ: "Ta đã chứng được Thiền thứ ba", giao thiệp với các Tỷ-kheo... từ bỏ học pháp và hoàn tục.

6. Ví như, này các Hiền giả, có hạng người từ bỏ lạc, từ bỏ khổ... chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy với ý nghĩ: "Ta đã chứng được Thiền thứ tư", giao thiệp với các Tỷ-kheo... từ bỏ học pháp và hoàn tục. Ví như, này các Hiền giả, một hồ nước trong khe núi, không có gió, không có sóng. Rồi thưa các Hiền giả, nếu có ai nói như sau: "Nay trong hồ nước này sẽ không hiện ra sóng nữa", người ấy, thưa các Hiền giả, có nói một cách chơn chánh không?

- Thưa không, thưa Hiền giả. Sự kiện này có thể xảy ra: Nếu từ phương Ðông, mưa to gió lớn đến, mưa to gió lớn ấy làm cho hồ nước ấy khởi sóng; nếu từ phương Tây... nếu từ phương Bắc... nếu từ phương Nam, mưa to gió lớn đến, mưa to gió lớn ấy làm cho hồ nước ấy khởi sóng.

- Cũng vậy, này các Hiền giả, ở đây có hạng người từ bỏ lạc, từ bỏ khổ... chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy với ý nghĩ: "Ta đã chứng được Thiền thứ tư", giao thiệp với Tỷ-kheo... từ bỏ học pháp và hoàn tục.

7. Ở đây, này các Hiền giả, có hạng người không tác ý tất cả các tướng, chứng đạt và an trú vô tướng tâm định. Vị ấy, với ý nghĩ: "Ta đã chứng đạt được vô tướng tâm định", sống giao thiệp với các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo-ni, với các nam cư sĩ, nữ cư sĩ, với các vua chúa, đại thần các vua chúa, với các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo. Do vị ấy sống giao thiệp, phóng túng, thô lỗ, đam mê nói chuyện, nên tham ái tấn công tâm vị ấy. Vị ấy, với tâm bị tham ái tấn công, liền từ bỏ học pháp và hoàn tục. Ví như, thưa các Hiền giả, một vị vua, hay đại thần của vua, đang đi giữa đường cùng với bốn loại binh chủng, đến trú ở một đêm tại một khóm rừng. Ở đấy, do tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng bộ binh, tiếng trống lớn, trống nhỏ, tiếng tù và, nên tiếng của con dế biến mất. Rồi này các Hiền giả, có người nói như sau: "Nay trong khóm rừng này, tiếng kêu của con dế không hiện ra nữa". Người ấy nói như vậy, thưa các Hiền giả, có nói một cách chơn chánh không?

- Thưa không, thưa Hiền giả. Sự kiện này có xảy ra, thưa Hiền giả: Khi nào vua hay vị đại thần của vua ra đi khỏi khóm rừng này, khi ấy tiếng con dế kêu sẽ hiện hữu.

- Cũng vậy, thưa các Hiền giả, ở đây, có hạng người do không tác ý tất cả các tướng, chứng đạt và an trú vô tướng tâm định. Vị ấy, với ý nghĩ: "Ta đạt được vô tướng tâm định", sống giao thiệp với các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo-ni, với các nam cư sĩ, nữ cư sĩ, với các vua chúa, các đại thần của vua, với các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo. Do vị ấy sống giao thiệp, phóng túng, thô lỗ, đam mê nói chuyện, nên tham ái tấn công tâm vị ấy. Vị ấy, với tâm bị tham ái tấn công, liền từ bỏ học pháp và hoàn tục.

8. Rồi Tôn giả Citta Hatthisàriputta sau một thời gian từ bỏ học pháp và hoàn tục. Rồi các Tỷ-kheo, bạn của Tôn giả Citta Hatthisàriputta đi đến Tôn giả Mahàkotthita, sau khi đến nói với Tôn giả Mahàkotthita:

- Có phải Tôn giả Mahàkotthita biết được tâm của Citta Hatthisàriputta với tâm của mình: "Citta Hatthisàriputta đã chứng quả chứng này, quả chứng này, hay là chư Thiên báo cho biết về vấn đề này; tuy vậy, vị ấy sẽ từ bỏ học pháp và hoàn tục"?

- Thưa chư Hiền, tôi biết được tâm của Citta Hatthisàriputta với tâm của tôi, rằng Citta đã chứng được quả chứng này, quả chứng này, và chư Thiên cũng báo cho biết về vấn đề này: "Thưa Tôn giả, Citta Hatthisàriputta đã chứng được quả chứng này, quả chứng này, nhưng vị ấy sẽ từ bỏ học pháp và hoàn tục".

Rồi các bạn bè của Citta Hatthisàriputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:

- Bạch Thế Tiôn, Citta Hatthisàriputta đã chứng được quả chứng này, quả chứng này, nhưng đã từ bỏ học pháp và hoàn tục.

- Này các Tỷ-kheo, Citta không bao lâu sẽ nghĩ đến xuất ly.

9. Rồi Citta Hatthisàriputta không bao lâu cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Rồi Tôn giả Citta Hatthisàriputta sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu chứng được mục đích mà các thiện nam tử chân chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, hướng đến. Ðó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, vị ấy ngay trong hiện tại đã tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy biết rõ rằng: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa".

Và Tôn giả Citta Hatthisàriputta trở thành một vị A-la-hán.
Reply
(tt) Sư Toại Khanh - KTC 6.59 Người Bán Củi, KTC 6.60 Hatthisāriputta, và KTC6.61 Con Đường Đến Bờ Kia (4-7)

[/url][url=https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/2019%20Youtube/20190526.KTC.6.59%20Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20B%C3%A1n%20C%E1%BB%A7i]https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/2019%20Youtube/20190526.KTC.6.59%20Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20B%C3%A1n%20C%E1%BB%A7i

KTC.6.59 Người Bán Củi (post # 139) đã giảng xong (#142-144)

KTC 6.60 Hatthisàriputta (post # 145)


22/08/2019 - 09:13 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

44:02

Tiếp theo là kinh Hatthisāriputta. Cái kinh này nó lạ một chỗ, hỏng phải lạ đâu, các vị kiết tập đã chọn ra những cái bài kinh mà có nội dung mà coi như khiều khiều, móc móc, có máng máng vào nhau nhẹ nhẹ thì các vị mới cho xếp gần nhau, chớ còn thời điểm thực tế mà những bài kinh này ra đời thì đương nhiên làm sao mà gần nhau được. Có nhiều bài kinh cách nhau năm bảy năm về thời gian và có thể trăm dặm, ngàn dặm về không gian nhưng mà khi kết tập các Ngài gom gom nó gần gần nhau, lùa lùa cho nó gần gần vậy đó.

Bài kinh này là bài kinh Hatthisāriputta, có nghĩa là thời Đức Phật cái chữ Sāriputta không phải chỉ có một người, nha. Cái vị này kêu là Upatthisa(?) Sāriputta, còn cái vị này là Hatthisāriputta, một cái tên khác.

Cái bài kinh này nói cái gì? Thưa với các vị, bài kinh này có nội dung như thế này, bà con trong room còn nghe phải không? Trước hết phải nói cho bà con biết một chuyện, cái vị tôn giả Mahākoṭṭhita ở đây chính là đệ nhất về patisampida, có nghĩa là Ngài đắc A la hán xong là trí tuệ̣ của Ngài luân chuyển ở trong cái pháp, trong giáo lý (mình gọi cái từ bây giờ là pháp học) suốt đời. Còn mình bây giờ là mình không chịu học giáo lý hoặc học ba mớ rồi bắt đầu chửi giáo lý như người ta chửi chó, nha. Tu là không cần học, tu là chỉ có thiền thôi, mà tôi biết thiền ở đâu ra tôi hỏng biết. Tôi nói thiệt tôi hỏng biết thiền đó ở đâu ra nếu không có giáo lý. Tu là mình chỉ giới, có niệm và có thiền thôi. Như vậy thì suốt mấy chục năm Đức Phật để lại Tam tạng kinh điển cái đó để xin lỗi để mình đi nhóm lửa à? Mà ngộ lắm hàng ngàn người Việt nam hè nhau cắm đầu, gục mặt mà tin cái lời tuyên truyền mà vô cùng phải nói là tội lỗi đó, nha.

Thì là Ngài Mahākoṭṭhita là vị đệ nhất về trí vô ngại hoặc là vô ngại giải. Bữa đó Đức Phật có đông đảo chư tăng thì các vị trưởng lão đang nói chuyện với nhau về Abhidham (về A tỳ đàm) thì lúc đó Ngài Hatthisāriputta Ngài có lên tiếng Ngài góp ý. Thì ở đây chúng tôi cũng xin nói thêm là Ngài Hatthisāriputta là một nhân vật rất là đặc biệt. Ngài đi xuất gia không có bao lâu mà Ngài đã nhanh chóng thuộc lòng Tam tạng và chú giải của A tỳ đàm.

Tôi nói tới đây thế nào trong room cũng có người nhảy dựng lên nói hồi đó làm gì có chú giải. Đó là cái bệnh của người Việt nam không có đọc sách, mà cứ ăn rồi cứ một là ngồi tưởng tượng, còn hai là quơ đại ông sư phụ nào đẹp trai, mặt hiền hiền, giọng nói truyền cảm, cắm đầu, gục mặt tin theo.

Làm sao không có chú giải? Tôi hỏi các vị chú giải chúng ta đang học đây là ở đâu? Xin thưa, nó từ 3 nguồn:

Nguồn 1: Là đệ tử của Ngài Xá lợi phất, Ngài Mục kiền liên, Anan, Ca diếp v v... Nghe thầy nói cái gì, hoặc nghe Phật giảng cái gì mà họ không hiểu thì họ bèn hỏi lại. Thì cái phần hỏi lại này được gọi là chú giải. Các vị có hiểu không ta? Là họ hỏi ngay cái người vừa dạy cho họ, thì cái phần giải thích đó được gọi là chú giải và họ cũng học thuộc lòng luôn, hoặc họ nghe Ngài Xá lợi phất nói mà họ đi hỏi Ngài Mục Kiền Liên, họ nghe Ngài Mục Kiền Liên họ đi hỏi ngược lại Đức Phật, họ nghe Đức Phật họ đi kiếm Ngài Anan họ hỏi. Còn hỏi tại sao họ không hỏi thẳng thì nhiều lý do lắm, nhiều khi vì lòng tôn kính họ sợ họ không có hỏi, hoặc lúc đó họ thấy vị kia đang bận không có thời gian, vị kia cần nghỉ ngơi hoặc bản thân họ lúc đó họ không có nghĩ ra cái chỗ để hỏi. Các vị có hiểu cái này không ta? Không nghĩ ra cái chỗ để hỏi, mai nó về nó ngấm, mưa lâu thấm đất, bắt đầu họ mới nghĩ ra, Ồ cái chỗ này mình nghĩ chưa có thông.

Thế là chú giải có ba nguồn, nguồn 1 là họ hỏi trực tiếp Đức Phật hoặc các vị thánh thời Đức Phật. Rồi cái phần chú giải này khi kết tập, các vị thánh họ không có kết tập bởi vì phần này nó quá rời rạc, mà tại sao không có kết tập là bởi vì nó có vấn đề lớn thế này: Chỉ trùng thuật những gì chính Đức Phật thuyết giảng hoặc được Đức Phật ấn khả xác định, xác nhận. Còn cái phần chú giải này trong đó nó rất là tạp, có những cái phần của Ngài Xá lợi phất, Anan, Ca diếp, đúng, nhưng có những phần là do phàm phu hoặc là do tam quả, sơ quả, nhị quả.

Thì tôi hỏi bây giờ trong buổi kết tập làm gì có thời gian mà lập ra, thưa các bố, thế là, các vị thời xưa thì trong kinh ghi rõ thời đó đắc chứng đạo quả rất dễ mà đồng thời cái cường trí, trí nhớ thời đó phải nói là cực kỳ kinh dị. Thì các vị đó ráng nhớ, thì vị nào nhớ được bao nhiêu thì nhớ, có vị sở trường về Trung Bộ, Trường Bộ, Tăng Chi, Tương Ưng, Tiểu Bộ. Cho nên đây là lý do vì đâu mà trong kỳ kết tập 1, sau khi kết tập xong Trung Bộ Kinh thì chư tăng đồng thuận phần này giao cho đệ tử của ai, giao cho các vị trưởng lão mà trong đó nó gồm có Ngài Xá lợi phất, Ngài Anan, Ngài Kassapa và Ngài Anurudha. Họ giao cho các vị đó, nhớ nha. Giao đây có nghĩa là chẳng những thuộc chánh kinh mà làm ơn nhớ luôn chú giải để đệ tử có hỏi thì làm ơn giải thích dùm. Nhưng mà kết tập thì vẫn cứ chép kết tập phần chánh tạng thôi, nhớ nha. Cái chỗ này phải nhớ, chớ không thôi đơ đơ ra mai mốt bắt đầu bị cái bệnh học giả là một, mà vô học là hai. Học giả tức là đọc một hai cuốn gì đó rồi cho là đủ.

Tây có một câu hay lắm: "Người không đọc sách đáng sợ mà người đọc có một cuốn còn đáng sợ hơn", quí vị nhớ. Trên đời tôi run nhất là 2 cái loại này: một là không đọc sách, nói chuyện với nó như nói chuyện với đầu gối vậy, còn hai nữa là nó chỉ đọc có một cuốn là mệt lắm nha. Cả đời nó lấy cây thước 8 tấc nó đi đâu nó cũng lấy cây thước đó nó đo. Hể cái nào mà dưới 8 tấc thì nó kêu là ngắn, còn cái nào hơn 8 tấc thì nó kêu là quá dài. Tôi sợ nhất là cái loại tâm thần trí thức, nha.

Cái nguồn 1 là trực tiếp từ các bậc thánh, từ Đức Phật.

Cái nguồn 2 là đời sau, cái chú giải đời 1 nói là chú giải mà thật ra có nhiều cái điểm phải nói là không được nhắc tới. Cho nên đời 2 là các vị đời sau họ phải y cứ trên toàn bộ Tam tạng để mà họ chú thích những cái chỗ mà chưa được nói tới trong chú giải, đó là nguồn 2.

Nguồn 3, các vị nghe cái chỗ nguồn 3 này mới run nè, trong cái quyển Tâm Thức Gió Lùa tức là Chuyện Phiếm 2, chúng tôi sẽ nó tuốt tuồn tuột, tất tần tật mấy cái vụ này, bà con đón đọc. Thì nguồn 3 này, tôi biết tôi nói trong room này nhiều người vừa đập máy, văng tục chửi thề văng nước bọt bỏ đi tôi vẫn nói. Bởi người Việt nam mình 4 ngàn năm văn hiến mà là như vậy. Bởi vì chạm vô cái dốt, cái ngu của mình là mình chịu hỏng nổi. Cái nguồn 3 này mới là ghê nè.

Tôi nhắc lại, nguồn 1 là trực tiếp học từ Đức Phật và các bậc thánh đương thời Ngài. Nguồn 2 là các vị tổng hợp đối chiếu với những gì mà trong chánh tạng và chú giải nguồn 1 họ mới tạo ra chú giải nguồn 2.

Cái nguồn 3 này tại sao tôi phải giới thiệu dài dòng bởi vì nguồn 3 này nó hơi nặng, là sự vay mượn từ văn hóa, triết học , tư tưởng, thậm chí ngôn ngữ và khoa học đương thời. Là đương thời nào?

Vào thế kỷ thứ 8, có một vị trưởng lão viết cái quyển luận thư mà nó bàn về Trung Bộ Kinh thì lúc đó các vị đó đã đưa vào ở trong Trung Bộ Kinh những cái điều mà kiến thức đương thời của vị đó. Thí dụ như cái thời đó là họ biết xài xe lửa hơi nước, thời đó là họ bắt đầu là có ca nô, thời đó họ biết xài xuồng hơi, tôi ví dụ nha. Thì khi mà viết chú giải, vị đó đưa cái đó vào, rồi chưa hết vị đó đem vào những tác phẩm mà vị đó đọc được.

Thí dụ như thời này, cái vị viết chú giải không ngần ngại đưa vào trong đó một hai câu hay hay của nhà thơ, nhà văn bây giờ. Chẳng hạn có một câu mà tôi tâm đắc vô cùng, của Nguyên Sa đó là:

Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc,
Áo nàng xanh anh mến lá sân trường.

Hể mình thích cái gì là mình sẽ lấy cái thích đó mình trùm lên bao nhiêu thứ khác.

Có một câu của Vũ Quần Phương mà mới hôm giảng bên Mỹ tôi có nhắc:

Anh đợi nhau bên cầu.
Đứng một ngày đất lạ thành quen.
Ta đợi nhau trên cầu.
Đợi một đời đất quen thành lạ.

Cái câu này rất là hay, rất là Phật Pháp. Tại sao mà ta đợi nhau một ngày mà đất lạ thành quen? Là khi buổi đầu mình thương nhau quá, thì tất cả những gì thuộc về người thương của mình, mình đều thấy nó của mình, nó thuộc về mình, mình thấy nó cả đường đi lối về của cả bao nhiêu tâm tư, tình cảm của mình, bao nhiêu buồn vui của mình đều gắn trọn lên con người ấy.

Cho nên: Ta đợi nhau một ngày, đất lạ thành quen. Nhưng ta đợi nhau một đời, đất quen thành lạ. Khi ta ở với nhau lâu quá nó mới lòi ra, mình thấy tụi mình thì ra hai đứa hai cõi quạnh hiu, rất mực riêng tư. Cái chuyện đồng sàng dị mộng là chuyện đương nhiên. Lúc mới quen nhau thấy: Ta đợi nhau một ngày, đất lạ thành quen, nhưng mà, Khi ta đợi nhau một đời, đất quen thành lạ, là ở chỗ đó. Ta mới hiểu nhau, ta tưởng quen nhau là tri âm tri kỷ, tri âm tiền kiếp, bây giờ trùng phùng tái ngộ ở cõi này để làm nên cái nợ ba sinh, nhưng mà không có hề hiểu nhau. Rồi thì chúng ta mới nhận ra một chuyện động trời: Thì ra hai đứa là hai con đường riêng, you đi đường you mà tôi đi đường tôi, you go your sugar, I go my sugar. Có nghĩa là càng hiểu nhau để càng thấy mình là lạ với nhau lắm lắm, mình không có thuộc về nhau. Bản thân tôi, tôi còn không hiểu làm sao tôi hiểu you. Yeah.

Thì những cái vị viết chú giải họ thấy cái câu đó hay, họ không ngần ngại bỏ vào. Hoặc là như ông Cung Trầm Tưởng: Ta ôm em hôm nay mà nhớ em ngày sau. Rất là hay. Là bởi vì trong mỗi sát na em không còn tồn tại nữa.

Hoặc là Du Tử Lê có một câu: Vết răng tháng chạp mà dấu bầm tháng hai, câu đó quá hay luôn. Cái vết răng tháng chạp mà dấu bầm tháng hai, bị cắn hôm tháng chạp mà qua tháng hai nó mới bầm. Bửa nay người ta nói mình câu gì đó mình hỏng có đau, nhưng mai này, một ngày nào đó mình nhớ lại mình đau quá. Rõ ràng là Vết răng tháng chạp mà dấu bầm tháng hai. Hoặc là mình nghe cái câu đó mình hỏng thấy gì hết, nhưng mà một ngày nào đó mình chia tay rồi, mình về mình nhớ mình thương. Ồ, thì ra người ta nói câu đó người ta có ý mà sao lúc đó mình ngu dữ vậy ta? Trời ơi, sao mình khờ, tại sao mình cô phụ một tấm lòng vậy ta?

Như vậy thì một lúc khi Vết răng tháng chạp mà dấu bầm tháng hai, là nhiều khi cái chuyện nó cũ sì rồi mình mới bắt đầu mình giận, để cho tâm sân nó đến muộn hoặc có lúc mình để cho tâm tham nó đến muộn. Lẽ ra mình đã thương người ta ngay từ ánh mắt ban đầu lưu luyến ấy rồi, nhưng mà để về sau một tháng, hai tháng, một năm, hai năm mình nhớ lại mình bắt đầu ngậm ngùi, tiếc thương. Thì như vậy là mình đã để cho tâm tham nó đến muộn. Như vậy, tôi quá thích cái câu đó, cái câu đó quá hay: Vết răng tháng chạp mà dấu bầm tháng hai, thì những câu đó ở trong room này nhiều cái người gọi là cái dân mà đoan chính, thục nữ nghe nó nổi điên, tại sao mà giảng kinh đem mấy cái này vào? Tại cái não trạng của các vị đó có vấn đề, cái đầu chỉ để đội nón, để trang điểm, nha. Chớ lẽ ra thì tùy cái nhận thức của mình mà mình nhìn đâu cũng thấy Phật Pháp dầy đặc hết trơn á.

Đó, thì mấy cái vị mà viết chú giải cũng vậy đó. Khi mà họ viết, họ không ngại đưa vào trong đó cái này cái kia. Cho nên, tôi nói thẳng luôn đó là trong Thanh Tịnh Đạo, chẳng hạn như cái phần giải về Phật, trong đó Ngài Buddhaghosa giảng về chữ Bhavaga (Thế Tôn) có 6 ý nghĩa. Mà 6 ý nghĩa đó chúng ta lại bắt gặp ở trong bộ Yoga Sutra của Patanjali được viết bằng tiếng Sankrit. Và tôi cũng chưa hề thấy một tác giả Phật giáo nào nhắc tới điểm này. Tôi không dám nói rằng tôi là người pháp hiện ra điểm này, nhưng, và tôi cũng không dám nhận tôi biết chữ Sankrit, tôi biết rất là đại khái mơ hồ. Tôi biết qua bản tiếng Anh thôi, mà tôi đọc tôi giật mình. Tức là cái quyển đó, bản dịch của Yoga Sutra không hề nhắc tới Phật giáo, nhưng mà tôi đọc tôi giật mình, tôi: Ồ! thì ra 6 cái này được nhắc đến trong đây mà Yoga Sutra là một trong những tác phẩm kinh điển của Ấn giáo. Mà bây giờ nó nhắc tới như vậy đó thì sao? Mà Patanjali cũng là một nhân vật lớn bên Ấn giáo nói chung.

Thì bây giờ xin hỏi bà con trong room, bố mẹ ở đây, ai mượn của ai? Tôi không nói là Ngài Buddhaghosa mượn của Ấn giáo, tôi cũng không có hồ đồ mà tôi nói Ấn giáo mượn của Ngài Buddhaghosa. Mà tôi chỉ hỏi bà con như vậy. Và chuyện nữa, bà con làm ơn, bà con nào mà đọc cái Ngàn Lẻ Một Đêm và Kinh Bổn Sanh của Phật giáo mình, nó có nhiều cái kinh nó giống nhau gọi là tàn canh gió lạnh, giống nhau chỉ có nước là khóc thôi. Chưa hết, cái huyền thoại mà coi như Âu Cơ mà đẻ trăm trứng, dạ xin thưa, đã có trong Kinh Bổn Sanh của Phật giáo rồi. Và hôm nay chúng ta biết rằng huyền thoại trăm trứng không phải chỉ có trong Việt sử, mà nó có trong truyền thuyết của rất là nhiều nước, đặc biệt là những nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn độ.

Cho nên bà con nhớ thế này, nước nào cũng bắt đầu, dân tộc nào cũng bắt đầu bằng những huyền thoại cả, và những huyền thoại đó đôi khi nó xuất phát từ cái môi trường sinh hoạt, cái bối cảnh trước mắt, nhưng đôi khi nó được vay mượn từ một dòng chảy giao thoa nào đó giữa các nền văn hóa, văn minh mà bây giờ nó đã mất dấu rồi.

Cho nên hôm nay chúng ta có 3 nguồn chú giải:

Nguồn 1 là trực tiếp từ thời Đức Phật.

Nguồn 2 là sự đối chiếu so sánh, kết hợp, tổng hợp từ nguồn 1.

Nguồn 3 là sự vay mượn các nguồn của đời sau. Đặc biệt là ở những vùng đất mà bộ sách đó được viết và ở bản thân cái người viết.

Cho nên báo trước bà con đọc chú giải đừng có sốc. Sốc là thấy nó nhiều cái chỗ kỳ quá. Thí dụ như chỗ nói về vũ trụ quan, Đức Thế Tôn khi nói về vũ trụ quan, Ngài nói đến sự hiện hữu của vô lượng vũ trụ, Ngài nói rất là gọn và cách nói của Đức Thế Tôn hôm nay khoa học chỉ có cúi đầu thôi. Trong khi đó, vũ trụ quan mà được nói tới trong Thanh Tịnh Đạo, được nói trong chú giải là chỉ có kêu trời thôi, mình ráp không được với cái nền văn minh hôm nay, cho bà con biết như vậy. Mà tôi phải nói huỵch toẹt ra không phải là vì cái lòng báng bổ mà vì tôi quá yêu đạo Phật, tôi quá kính thờ Đức Phật, bắt buộc tôi phải nói ra chuyện đó, để bà con làm ơn mai này có bất mãn thì bất mãn ai đó, đừng bất mãn Thế Tôn vì Thế Tôn có nói thế bao giờ.

1:00:41

23/08/2019 - 09:32 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Mình thương ông già mình thì mình phải làm rào mình bọc bảo vệ ông già mình trước chứ, rồi ngoài ra ai muốn làm gì đó thì làm. Chứ còn đằng này mình để luông tuồng như vậy thì hỏng được.

Nãy giờ tôi đánh một vòng chỉ riêng cái kinh tôi nói về Ngài Hatthisāriputta mà tôi đánh một vòng như vậy là vì tiện đâu nói đó, không thôi mai mốt lớn tuổi tôi quên. Bây giờ tôi quên dữ lắm các vị biết không? Tôi quên sạch bách, tôi quên nhiều lắm. Coi như bây giờ là tôi chỉ thuyết pháp bằng cách lên đồng thôi, cứ thắp hương là:

Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phiếm này,
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, là hay chị về.

Tôi không ngờ mấy câu đó của Kiều mà dặn em Thúy Vân mà nó lại ứng, lại vận vào đời tôi bây giờ. Bây giờ tôi thuyết pháp toàn là bằng cách lên đồng thôi. Thì Ngài Hatthisāriputta tu có thời gian rất là ngắn nhưng mà Ngài đã thuộc lòng nguyên tạng A tỳ đàm và chú giải. Rồi thì sao? Rồi thì trong buổi nói chuyện về A tỳ đàm với các vị trưởng lão thì Ngài Hatthisāriputta mới có góp ý. Lúc đó Ngài Mahākotthita Ngài mới có lời nhắc nhở. Ngài nói: “Ở đây các vị tôn túc đang nói, Sư là tân thọ đừng có chen vào”. Ngài nói như vậy không phải là Ngài chèn ép đàn em, hỏng có phải. Là vì 2 lý do:

1/ Là những vị mà đang nói chuyện lúc đó toàn là cao thủ võ lâm, toàn là những bậc đại thánh, đại hiền, đại trí, những vị đó mà trao đổi thì coi như sẽ để lại những bài học lớn cho hậu tấn. Trong khi vị này còn là phàm, mới là con vẹt chùa thôi. Thì góp ý trong thế giới của chúng ta bây giờ thì nếu một vị như vậy dầu còn phàm, mà tinh thông như vậy thì phải nói là thạc đức, thạc học, là đỉnh cao trí tuệ cho tăng già hôm nay. Nhưng mà vào thời buổi Đức Phật thì một vị như thế này lên tiếng chỉ làm mất phần cho hậu thế thôi. Mất phần là sao? Lẽ ra là các bậc đại thánh nói chuyện với nhau là để lại cho đời những bài học xuất sắc hơn. Còn đằng này người phàm chen vào chỉ làm mất thời gian thôi. Đó là lý do thứ nhất Ngài Mahākotthita không muốn gián đoạn buổi trao đổi, đàm luận giữa các vị tôn túc.

2/ Là Ngài thấy rõ căn tánh của Ngài Hatthisāriputta không phải tay vừa cho nên Ngài kềm lại để giúp cho vị này. Ngài nói rằng: “Sư đệ, đừng có chen vào khi các vị tôn túc nói chuyện như vậy.”

Cái câu chuyện đó đến rồi, bắt đầu các vị thấy không, theo chánh kinh, Ngài nói như vậy xong rồi Ngài mới nhắc lại cái nội dung y chang như là cái bài Kinh Người Đốn Củi mà chúng ta vừa học. Ngài nói rằng không có phải ai mà mở miệng làm két chùa, nói đạo, nói pháp đều có một cái nội hàm tu tập hết, kể cả những vị mà sống bên cạnh thầy, bạn, những vị thuộc lòng kinh điển, thậm chí là những vị có đắc thiền thì cũng vẫn còn có nhiều chuyện phải làm chứ không phải là ở gần thầy, gần bạn là coi như đạo nghiệp hoàn tất, hoặc thuộc lòng giỏi giang kinh điển là đạo nghiệp hoàn tất, hoặc đắc ba mớ thiền định ngồi lim dim, hít thở vậy là đạo nghiệp hoàn tất. Mà mình còn nhiều chuyện phải làm, cho đến bao giờ phiền não kết thúc, sanh tử chấm dứt, thì lúc đó là yên tâm để mà nằm xuôi tay. Chớ còn ba cái chuyện mà thầy, bạn, kiến thức, thiền định, đắc chứng, phù phép thì Ngài nói không nên dựa vào đó để mà mất thời gian cho mình và cho người. Các vị nhớ nha.

Nguyên cái bài dài sọc chỉ có nội dung như vậy. Một người dầu có thầy, có bạn bên cạnh, một người dầu có tinh thông kinh điển, một người dầu có đắc thiền, đắc định nhưng mà hễ đạo nghiệp giải thoát chưa hoàn tất thì không nên làm mất thời giờ của mình và của người. Đại khái như vậy.

(Còn tiếp)
Reply
Anh LeThanhPhong ,

mấy bài viết anh copy và paste có nhiều bài chữ nhỏ quá khó đọc 
có bài thì chữ to
anh thích vậy hay là do tại tuỳ bài anh đăng bị vậy ?

Một Ngày Bình Yên ! 
Trong Đám Hoa Rừng .
Heavy-black-heart4
Innocent 


Reply
(2020-02-18, 07:36 PM)Bee Wrote: Anh LeThanhPhong ,

mấy bài viết anh copy và paste có nhiều bài chữ nhỏ quá khó đọc 
có bài thì chữ to
anh thích vậy hay là do tại tuỳ bài anh đăng bị vậy ?

LTP post bài bằng phone nên nó kỳ cục như vậy.  Đã sửa là font Arial, size 4 (như anh abc đề nghị) đó chứ. 

Cám ơn Bee cho LTP biết.  Để mình dùng tablet soát lại.

Cheer
Reply


(tt) Sư Toại Khanh - KTC 6.59 Người Bán Củi, KTC 6.60 Hatthisāriputta, và KTC6.61 Con Đường Đến Bờ Kia (5-7)

[/url][url=https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/2019%20Youtube/20190526.KTC.6.59%20Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20B%C3%A1n%20C%E1%BB%A7i]https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/2019%20Youtube/20190526.KTC.6.59%20Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20B%C3%A1n%20C%E1%BB%A7i

KTC.6.59 Người Bán Củi (post # 139) đã giảng xong (#142-144)

KTC 6.60 Hatthisàriputta (post # 145)


1:05:11

24/08/2019 - 12:28 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Các vị có biết không, lời nhắn nhủ này không phải chỉ riêng cho Ngài Hatthisāriputta mà nó còn đồng vọng đến ngàn sau. Bao nhiêu thế hệ chư tăng đã đến rồi đi trong giáo pháp này, đã biết bao nhiêu người, hàng ngàn người, hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn người đã chiêm nghiệm, thấm thía, gậm nhấm, tiêu hóa bài kinh này. Và có một điều là sau buổi nói chuyện này không lâu thì tôn giả Hatthisāriputta đã hoàn tục. Trong chánh kinh nói không có nhiều, chỉ nói đại khái là hoàn tục thôi. Nhưng mà trong chú giải nói rằng vị này tổng thời gian trước sau trong đời tu là hoàn tục 7 lần. Mà thời gian của mỗi lần không cách nhau bao xa. Vô rồi ra, vô rồi ra, vô rồi ra, cứ đi ra: Ta đi, ta về lại nhớ trăng treo. Có nghĩa đi thì nhớ ở nhà. Ta về thì nhớ vầng trăng ở viễn phương, cái dạng Ngài vậy đó. Ngài cứ về nhà thì Ngài thấy Ngài sống trong một cái chỗ hôi hám, chật chội, bụi bặm, Ngài đã lìa bỏ một cõi tu giải thoát, thanh tịnh, có Phật, có thánh chúng, có thầy, có bạn. Mà khi Ngài vào rồi thì lòng hỏng có yên, Ngài thấy làm như mình có cái gì đó nó ray rứt, bồn chồn, áy náy thì phải đi ra, mà tổng thời gian là 7 lần như vậy. Trong chú giải có ghi rõ rằng đây là do tiền nghiệp quá khứ.

Và sẵn ở đây tôi nhắc lại một chuyện trước khi tôi quên. Đức Phật Ngài dạy rằng:

- Cho rằng cái gì cũng là nghiệp quá khứ, đây là một cực đoan.
- Cho rằng mọi thứ ngẫu nhiên mà có, đây cũng là cực đoan.
- Cho rằng do một đấng khuất mày, khuất mặt, cao siêu nào đó an bài, cũng là cực đoan.

Nhớ cái đó. Mà trong khi đó 2 điều sau là đúng rồi, cho rằng ngẫu nhiên là sai, do đấng nào đó bày ra là sai. Nhưng riêng cái điều đầu tiên, Ngài dạy rằng nếu mà mọi thứ mà do tiền nghiệp hết vậy chứ bây giờ mình tu làm cái gì? Mình cứ ngồi ở đây mình chờ nghiệp cũ, giờ khỏi tu. Hôm nay là ngày 12 mà mình cứ chờ cái quả của ngày 13 nó trổ, cho nên ngày 12 mình hỏng có tu, đúng không? Tại hôm nay là ngày 13, mình cứ chờ cái quả của ngày 12, cho nên mình hỏng có tu hành gì hết. Như vậy tới ngày 14 thì sao? Các vị có hiểu không?

Cho nên mỗi ngày là phải gieo nhân lành hiện tại, hể còn là phàm dầu muốn dầu không, tôi nói bằng mực đỏ nha, "dầu muốn dầu không", miễn là chưa chứng La hán "dầu muốn dầu không" trong từng giây ta đều tạo nghiệp hết. Nhưng có một điều là, hồi nãy tôi nói tạo nghiệp có 2:

1/ Tạo nghiệp để cầu quả sanh tử hoặc tạo nghiệp trong cái sự thiếu kiểm soát.
2/ Tạo nghiệp trong sự kiểm soát và chỉ hướng đến quả giải thoát.

Tạo nghiệp không kiểm soát là muốn làm gì thì làm, thất niệm, thất định, phóng dật. Cái thứ hai là gieo nhân sanh tử có nghĩa là làm lành, làm phước mà còn cầu quả nhân thiên. Còn trường hợp thứ ba là mình là thường xuyên sống chánh niệm, tôi nói không biết bao nhiêu lần cái bài học vô cùng quan trọng này, học giáo lý và sống chánh niệm bao nhiêu nó đủ rồi. Nhiều người nghe như vậy họ tưởng thiếu, không, tôi bảo đảm bằng cái mạng cùi của tôi, nha. Chỉ học giáo lý căn bản rồi sống chánh niệm là không thiếu gì hết. Là tại sao? Bởi vì khi anh có giáo lý căn bản và anh sống chánh niệm thì anh không hề bỏ qua cơ hội bố thí, không hề bỏ qua cơ hội nghe pháp, phục vụ, hồi hướng, tin tôi đi. Chỉ cần anh có giáo lý và có chánh niệm thì anh không hề bỏ sót một cơ hội làm phước nào hết, đồng thời anh sẽ làm phước bằng sự kiểm soát của hành giả "làm gì biết nấy". Và công đức của người hành giả như vậy, hành giả mà có giáo lý, có chánh niệm thì công đức đó mình mới hy vọng "hợp trí - vô trợ - thọ hỷ".

Tại sao tôi dám nói người có giáo lý thì làm phước dễ được cái tâm hợp trí, là vì sao? Là vì hợp trí có 3: văn, tư, tu. Một người mà có giáo lý nếu mà khi họ làm phước cái tư nó chưa kịp tới thì tối thiểu nó cũng có trí văn. Tối thiểu bởi vì họ có giáo lý mà, cái đó nó nằm trong người họ chớ đi đâu? Cho nên người có giáo lý khi họ làm công đức gì, chuyện đầu tiên phải là hợp trí, đương nhiên là hợp trí, vì dầu gì họ làm bằng cái nhận thức của người có hiểu biết.

Họ cũng có ly trí chớ nhưng mà nó hiếm, miễn là chỉ cần mình có giáo lý thì mình khó bề mà làm cái gì mà ly trí. Tôi ví dụ nha, như một dược sĩ, bác sĩ hoặc một y tá có biết về thuốc, về y, về dược, có nhiều lúc họ quên mất cái bằng cấp của họ, nhưng mà khi họ nấu ăn, khi mà họ chọn rau, chọn trái để họ mua, lúc đó làm gì thì làm, họ quên mất cái bằng của họ rồi, nhưng mà ngộ lắm, đa phần trong đời sống họ vẫn ăn, vẫn nấu, vẫn mua sắm, vẫn sinh hoạt theo cái kiến thức của một người có biết về y, về dược, tôi bảo đảm cái đó. Nó ngộ lắm, lúc đó họ không có nhớ tới cái nghề nhưng ngộ lắm, họ vừa đưa tay họ bóc cái chôm chôm là họ nhớ, Ủa, Châu Âu làm gì có chôm chôm trời? Trái này nhập từ Châu Á, mà hể nhập từ Châu Á thế nào cũng có phân, cũng có thuốc sâu. Họ vừa đưa tay cầm trái bưởi lên, họ thấy chữ China, hỏng phải họ ghét Tàu, hỏng phải họ ghét trên quan điểm chính trị, mà trên cái góc độ khoa học, họ vừa cầm trái bưởi, họ thấy chữ China, là họ đặt xuống. Cầm trái thanh long, thèm lắm, nhưng chực nhớ Ủa xứ này đâu có thanh long trời, vậy là đồ nhập, nhập từ Châu Á rồi là hỏng xong, để xuống. Nó ngộ lắm, tại vì tôi có từng đi chợ với mấy người đó, họ ngộ, họ bén lắm. Củ tỏi họ cầm lên, họ thấy China, họ để cái cụp xuống liền, họ phải mua tỏi Peru, tỏi của Nam Mỹ, tỏi của Turkey, Thổ Nhĩ Kỳ, tại vì sao? Là vì họ quên mất bằng cấp học vị, họ quên mất chuyên môn nhưng mà cái biết đó đã là cái basement, là cái background, là cái nền của họ.

(Còn tiếp)
Reply
Shocked 
(tt) Sư Toại Khanh - KTC 6.59 Người Bán Củi, KTC 6.60 Hatthisāriputta, và KTC6.61 Con Đường Đến Bờ Kia (6-7)

[/url][url=https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/2019%20Youtube/20190526.KTC.6.59%20Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20B%C3%A1n%20C%E1%BB%A7i]https://toaikhanh.com/audiotext.php?mp3=audio/2019%20Youtube/20190526.KTC.6.59%20Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20B%C3%A1n%20C%E1%BB%A7i

KTC.6.59 Người Bán Củi (post # 139) đã giảng xong (#142-144)

KTC 6.60 Hatthisàriputta (post # 145)


Cho nên người có kiến thức giáo lý họ làm phước rất dễ có tâm đại thiện hợp trí là chỗ đó. Nhớ cái chỗ này. Cho nên hôm nay Ngài Hatthisāriputta hoàn tục 7 lần là vì sao? Là vì cái nghiệp nhưng mà đừng có nghe như vậy rồi mai mốt các vị cứ hoàn tục hoài, ra vô, ra vô, coi cái chùa như cái chợ, "Tại cái nghiệp của em như thế thì em phải chịu". Sai bét. Không phải lúc nào cũng móc cái nghiệp ra, bởi vì chính Đức Phật đã dạy "Mọi sự đổ hết cho nghiệp đó cũng là một ngộ nhận".

Chẳng hạn như bửa hổm bên Houston tôi giảng ở bển, có cô Phật tử cổ than: "Trời ơi, cái số của con thầy ơi, con phải khổ vầy vầy…", nhưng mà cổ hỏi tôi làm sao. Tôi giải thích cho cổ xong, cổ nói: "Nhưng mà con nghĩ đó là cái nghiệp mà con phải trả". Tôi nổi điên, tôi nói: "Cô ơi, hồi nãy giờ tôi nghe là tôi thấy do cái tâm của cô nhiều hơn là do hoàn cảnh. Nếu mà cô đừng có kể sai. Mọi sự mà cô kể đúng, thì theo tôi nhận xét, cái chuyện nãy giờ cô than phiền về gia đình của cô toàn là do cái tâm của cô". Cổ nói: "Không, nhưng mà đó cũng là cái nghiệp." Tôi hỏi: "Cô ơi, nếu mà cô nói như vậy tôi hỏi cô nha", mà tôi hỏi giữa đám đông, bửa đó chắc cũng không dưới 50 người. Tôi hỏi: "Vậy chứ tôi hỏi quí vị nè, bây giờ tôi về Houston, tôi không có về chùa, tôi không có về một cái chỗ ở mà nghiêm túc, sạch sẽ, minh bạch, mà tôi đi về nhà một cô gái nào đó, rồi tôi ở một mình tôi với cổ trong căn nhà đó.Rồi mỗi ngày cổ đưa đón tôi lại đây dạy học, rồi tối cổ đưa tôi về nhà, đóng cửa có hai người trong nhà thôi, thì các vị có chịu nổi không?" Thì tôi thấy một rừng người lắc đầu nguầy nguậy. Thì lúc đó tôi mới nói, tôi sẽ giải thích thế này, tôi nói: "Quí vị ơi, tại cái số của tôi, cái nghiệp nó khiến, bây giờ cái nghiệp của tôi là cái nghiệp phải chịu tai tiếng. Cho nên khi tôi vừa xuống máy bay là cô này cổ tới cổ rước tôi. Cái chuyện mà cổ đẹp là do cái nghiệp của cổ, còn cái chuyện mà tôi thương cổ cũng là cái nghiệp của tôi, thì hai cái nghiệp tụi tôi cộng lại với nhau, tui tôi về cùng sống trong bến mộng cũng là cái nghiệp luôn, thôi thì tới giờ, tôi tới đây tôi dạy xong tôi trở về cái bến mộng của tôi, bởi vì cái nghiệp mà. Cái nghiệp khiến cho cổ đẹp mà cái nghiệp nó khiến cho tôi mê cổ. Như vậy các vị có chịu nổi đó là nghiệp hay không?" Thì tôi lại thấy lắc đầu nữa, coi đã hôn, lại lắc một lần nữa.

Ở đây cũng vậy, không phải cái gì mình cũng đổ cho nghiệp hết, mà chỉ hỏi như vậy họ mới lắc cái đầu. Cái gì cũng đổ cho nghiệp, khi mà tôi đưa cái trường hợp đó ra là họ nhảy nhỏm liền. Mà trong lớp bửa đó có một cô ngó cũng được lắm, tôi mới chỉ cô đó, tôi nói: "Nếu quí vị nói đó là nghiệp thì một lát tôi đi trả nghiệp nha. Một lát tôi theo cô này về tôi trả nghiệp à, tôi hỏng ở nhà cái cô ba đó, cô ba già khằn, tôi hỏng ở nữa, tôi về cái cô này". Mà ai cũng biết cái mặt của cổ cũng được, mà tôi biết cổ gật đầu cái rẹt, nhất là nghe nói giúp ông thầy trả nghiệp là bả giúp liền hà, giúp để trả nghiệp.

1:14:50

24/08/2019 - 12:59 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]

Nhưng mà vấn đề nó không phải là vậy, cho nên ở đây trong trường hợp này Ngài Hatthisāriputta đúng là do nghiệp, nhưng mà đừng có dựa bài kinh này mai mốt muốn làm gì thì làm rồi đổ thừa cho nghiệp thì cái vụ đó hình như nó hơi bị sai, nha. Bài kinh này nó sâu là sâu chỗ đó, cái sâu thứ nhất: nội dung nhắc lại bài kinh trước, đó là "Đừng đánh giá vấn đề qua hình thức, coi chừng thấy vậy mà không phải vậy", kể cả một tỳ kheo có thầy, bạn bảo vệ, một tỳ kheo có giáo lý, có kinh điển tinh thông Phật Pháp, một tỳ kheo có đắc chứng thiền định ngon lành, thì tất cả chỉ là thấy vậy thì biết vậy thôi, đường tiếp theo khó nói lắm.

Tôi hỏi các vị một câu thôi, tôi là tu sĩ, tôi nhớ cái gì tôi nói cái đó, nhưng mà tu sĩ mà xài cái thí dụ này thì khó. Tôi hỏi các vị, "Cũng con cá mà tại sao có con mình ngâm nước nó rã, mà tại sao con cá nó lội cả đời mà nó hỏng có rã là sao?" Trong room có hiểu được cái này không? Con khô mà các vị liệng trong nước, các vị thả trong nước cho nó bồng bềnh trong một tháng là nó rã bèn, con khô hoặc con mắm mà mình thả nó vô trong nước một tháng là nó rã bèn. Nhưng mà tại sao con cá nó bơi cả năm, hai năm, ba năm trong nước mà nó không bị rã? Tại sao vậy? Trong room có hiểu không? Đó, bây giờ hiểu chưa?

Như vậy thì bài kinh này muốn nói cái gì? Là có những người tuy là họ có đắc chứng thiền định, họ tinh thông giáo lý nhưng về Phật Pháp họ chỉ là con khô thôi. Đó, cho nên họ rất dễ bị thử thách, khi mà dòng đời cuốn trôi họ rồi họ rất dễ bị rã.

Tôi đã gặp những loại hành giả thuộc về khô này tôi gặp hoài. Coi như đi tu thiền là cũng đi chậm chậm làm như mới xuất viện vậy đó, rồi lim dim lim dim như mới mổ mắt vậy đó, mà ăn nói cẩn thận chừng mực, rồi mở miệng ra thì thôi thưa bẩm lịch sự lễ phép thiền lắm, nghe không khí chánh niệm nó phảng phất chung quanh nghe thơm lừng vậy đó. Trời đất ơi, ít bửa nó tan hàng nó về rồi là nó y như là cái bà tám, bà tám double, bà tám triple vậy đó. Vì sao? Vì cái đạo căn của họ giống như là con khô, con mắm vậy đó.

Họ phải là người sống ở trong pháp, thì cái đó chỉ có thánh thôi. Trường hợp thứ hai phải là bậc Á thánh, là như trường hợp Ngài Hatthisāriputta là Á thánh. Là vì sao? Vì căn cơ của họ đã chín muồi, bây giờ chỉ cần chờ ngày thích hợp là họ chứng, chỉ trừ trường hợp đó. Mà hai cái bậc này thì mình đừng có rớ tới, bởi vì mình hỏng có nằm ở trong đó đâu.

Cũng giống như mình phải học hành, phải làm lụng mới có tiền chớ mình đừng có lôi mấy ông tỷ phú hoặc mấy cái ông trúng số ra mình làm mẫu là bậy, nha. Đời này mình chỉ nhìn ông Bill Gates để mà mình học cái gương lập nghiệp của ổng thôi. Chớ đừng có thấy ổng giàu, thấy ổng tà tà mà ổng giàu rồi bắt chước, rồi cũng bày đặt tà tà mà giàu thì cái đó tôi hỏng hứa, nha. Cho nên ở đây mình có nhiều trường hợp lấy thánh làm gương, là gương chuyện gì chớ hỏng phải là làm gương cho tất cả mọi chuyện.

Thì trong đây mình cứ nhớ thế này, mình tâm niệm bài giảng này: "Trong Phật Pháp, tôi sẽ là con cá hay là con khô." Bởi có những người họ bơi lội trong Phật Pháp này thời gian họ bị rã, mà trong khi đó có những người mà họ càng bơi họ càng lớn, càng mạnh, càng to, càng đẹp, càng khỏe. Còn mình là con khô, con mắm đem ngâm nước một thời gian nó rã, ngâm trong đaọ rã, mà đem ra ngoài đời cũng rã luôn. Còn Ngài Hatthisāriputta lúc Ngài hoàn tục 7 lần giống như 7 lần mà Ngài bị mắc cạn vậy đó, có nghĩa là Ngài có văng lên bờ một chút, có bị ngộp ngộp chút nhưng sau đó Ngài rớt trở lại dưới nước, thí dụ như vậy. Và Ngài có ngâm trong nước bao lâu Ngài cũng hỏng có hư.
Rồi như vậy là mình học xong. Khoan, hồi nãy quí vị hỏi nghiệp gì? Quên.

Đời Phật Ca Diếp, Ngài Hatthisāriputta là một tỳ kheo cũng có một ông sư bạn tu chung, mà cái ông này ổng do cái phước riêng ổng có một ít y bát rồi mấy cái đồ dùng cá nhân, hỏng có nhiều nhưng mà cũng đồ tốt, thí dụ như vậy. Thì vị đó có ý hoàn tục, thì Ngài suy nghĩ nhanh lắm, nghĩ thoáng qua thôi, Ngài nghĩ: "Ông này bây giờ có giữ ổng lại cũng đâu có được mà bây giờ ổng ra, mấy cái này ổng để lại cho mình chứ ai". Bởi vậy cho nên là Ngài có cái ý, Ngài nói: "Ờ thì thôi, tôi thấy ở hỏng được thì ra chớ ở đây làm gì, lỡ chợ lỡ quê, lỡ thầy lỡ thợ." Nhưng mà ngay sau đó Ngài hối hận. Có hối hận. Ngài nói: "Không, không, không. Hôm qua tôi thấy ông muốn quá nên tôi nói vậy thôi, chứ ông tưởng tượng mình từ dưới sình mình đã leo lên bờ, tắm rửa sạch sẽ rồi, bây giờ mình nhảy xuống sình nữa hay sao? Thôi thôi, tôi can, tôi can. I can you, I can you, nha." Có chuộc lỗi, có nói sửa lại, có. Nhưng mà hồi đầu có cái ý hơi ác, là thôi, nói cũng có lý lắm: "Lỡ thầy lỡ thợ, lỡ chợ lỡ quê, thôi bây giờ ra đi cho thoải mái, làm cư sĩ tốt còn hơn làm ông sư xấu." Quất cho thằng nhỏ một thời moral vậy, cuối cùng thấy kỳ kỳ mới chỉnh lại, may là chỉnh kịp. Cho nên bây giờ mới ra có 7 lần thôi, nếu mà hỏng chỉnh là nó quất 14 lần luôn, nha.

1:20:25
24/08/2019 - 01:16 - elteetee - [Mục Lục các Bài Giảng] - [Hỗ trợ ghi chép bài giảng]
Cho nên là mình học cái bài kinh này nó sâu dữ lắm. Là mình thấy chỉ một câu nói nhẹ nhàng xúi dại người ta để lại cái nghiệp không có tả được. Ngài Chulapanthaka cũng thời Phật Ca Diếp, Ngài cũng là vị tỳ kheo thấy vị sư già học kinh mà chậm, Ngài cũng nói một hai câu mà giống như dè bỉu, châm chọc, hỏng có nhiều, có một câu, hai câu, giỡn giỡn vậy đó. Giống như hồi đó tôi nhớ ở Việt nam, hồi tôi còn nhỏ, có chú tiểu đó học chậm lắm, học ngoài trường đời, học chậm rồi ở lại lớp, lưu ban một hai năm gì đó, rồi ông sư trong chùa ổng nói đùa, ổng nói: "Thấy người ta học thấy ham, người ta một năm ba lớp, còn cái chú này một lớp làm ba năm". Thì nói đùa cho cả đám cười cho vui vậy thôi. Nhưng mà nếu chú đó mà là một vị đại căn bồ tát mà mình trêu chọc kiểu đó là cũng mệt mỏi lắm chớ hỏng phải không. Mệt mỏi à, bởi vì mình không biết cái người mà mình đang đùa giỡn đây, mình đang tấn công đây, họ là cái loại nào, cái cỡ nào, cái tầm nào mình không có biết. Con chó, con heo trước mặt mình nó cũng hoàn toàn có thể là bồ tát nhằm cái lúc mắc đọa, nha. Đâu có chắc được, con chó, con heo mình đâu có chắc.

Rồi bây giờ Việt nam mình họ nói có nhiều câu mà họ không có hiểu là “Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá” đó là nói hẹp. Còn nói rộng bất cứ cái nghề gì mà có thể xâm phạm đời sống chỗ ở, sự thoải mái, an lạc của chúng sanh khác đều rất nguy hiểm, rất tổn đức. Bởi trong cái nghề đánh lưới, bắt cá, săn bắn, đốn cây của mình, mình đã không biết mình xâm phạm biết bao nhiêu cái quyền lợi, lợi ích của các loài mà mình thấy được và không thấy được. Trong ngôn ngữ bình thường cũng vậy, mình xâm phạm, mình tấn công cho nó đã nư, đã tức, hoặc nhiều khi chỉ là mua lấy một trận cười của anh em mà mình gieo một cái nghiệp mình không có lường được.

Cho nên cũng xin nói riêng với bà con, có giận ai thì giận nhiều lắm hãy để nằm trong cái ý nghiệp thôi, chớ đừng có đưa nó ra thân nghiệp và khẩu nghiệp cũng phiền. Bởi mai này, người chịu cái đó là mình chớ có ai. Mà có cái vụ này hơi mệt, ở trong đạo mình, mình mà đụng cái người mà họ không có ý ác với mình thì tội nó nặng lắm quí vị biết không?

Trong Kinh Pháp Cú ghi rất rõ, ai mà dùng cái tâm ác mà tấn công người không có ý ác thì cái tội đó nó trổ ra rất là nặng. Nó trổ ra những cái tội, thí dụ như là sẽ bị hình phạt, tù tội, nó khiến chớ hỏng ai tố mình hết, hoặc là sẽ bị trọng bịnh và chết bị mê loạn, hoảng hốt rồi sa đọa. Dùng tâm ác mà tấn công người lành sẽ bị cái đó, mà trong đó có cái ớn là khi mà chết tâm hoảng loạn, và đặc biệt trong hiện tại rất dễ bị mắc trọng bịnh. Nhiều khi mình hỏng có ngờ ở đâu mà có cái bịnh đó, bịnh đó không phải là tiền nghiệp xa xôi mà nhiều khi nó chỉ là nghiệp ngay trong đời này thôi. Khi mà có tâm ác như vậy, giống như Kokàlika học trò của Đề bà đạt đa, mà ổng có tâm ác với Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên thì có người tới khuyên ổng ba lần ổng không nghe, thì ngay sau đó một hai ngày là cả người ổng nổi lên những mụt nhọt. Lúc đầu nó nhỏ như mụn bọc, trong kinh tả bằng hột mè, lên tới hột đậu, đậu xanh rồi lên tới đậu phộng, bắt đầu nó bể ra, vỡ ra, cả người ổng tanh hôi, đau đớn, rên xiết, ổng chết đọa địa ngục, là do dùng tâm ác tấn công người khác. Trường hợp đó quá tệ.

Còn trường hợp nhẹ hơn là nhiều khi chỉ là cái nghiệp trong lúc vui đùa, hoặc như Ngài Hatthisāriputta chỉ là cái nghiệp trong lúc Ngài có ý thích thích nhẹ nhẹ thôi, thích một hai món đồ của ông kia xài đồ tốt, lúc mình nghĩ nhanh, mình nghĩ hơi ác một chút, mình nghĩ "ổng ra rồi cái này của mình chớ của ai". Nhưng ngay sau đó là Ngài hối hận liền tức thì trong ba nốt nhạc là hối hận rồi. Mà vậy đó, các vị coi cái quả nó trổ ra hoàn tục 7 lần. Phiền lắm, nha.

(Hết phần giảng KINH HATTHISÀRIPUTTA)

(còn tiếp)
Reply