Đối Thoại Pháp
#1
Tỳ kheo Paññissara – Sư Chân Tuệ (Sư Thư)


CHÂN ĐẾ VÀ TỤC ĐẾ

Hỏi: Xin Sư nói rõ hơn về 2 sự thật: Chân đế và Tục đế

Đáp: Chúng ta tiếp nhận các đối tượng thông qua sáu giác quan gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Mắt tiếp nhận đối tượng là sắc, cụ thể là màu. Màu nằm trong nhóm tứ đại. Tai tiếp nhận đối tượng là âm thanh, chỉ đơn thuần là âm thanh thôi chứ không phải là âm thanh gì. Mũi tiếp nhận đối tượng là mùi. Lưỡi tiếp nhận đối tượng là vị. Chúng ta có sáu vị là: đắng, cay, mặn, ngọt, chua, chát, vị chỉ là vị chứ không phải là vị của món gì. Thân tiếp nhận đối tượng là sự xúc chạm, cụ thể hơn ở đây là nóng lạnh, cứng mềm, thô mịn. Nóng lạnh là đặc tính của hỏa đại; cứng mềm, nặng nhẹ, thô mịn là đặc tính của đất; chuyển động và nâng đỡ là đặc tính của gió. Ngoài những đối tượng kể trên, còn lại là các đối tượng của ý căn. Đối tượng của ý căn bao gồm cả khái niệm.

Tiến trình tiếp nhận đối tượng sẽ diễn ra ở ngũ căn và ngay sau đó nó chạy ở ý môn, khi nó chạy qua ý căn thì các khái niệm mới có thể xen vào. Ví dụ lưỡi sẽ không biết được là vị của gà, cá... nó chỉ biết được sáu vị, sau đó phân biệt gà, cá là lộ trình của ý căn. Nó diễn ra rất nhanh, ví như có một con chim đậu trên cành cây, khi đó có ánh nắng mặt trời chiếu vào con chim, lập tức cái bóng của con chim cũng xuất hiện.

Do đó, cần biết được khi nào ta ghi nhận chân đế, khi nào ghi nhận được tục đế. Hai đối tượng này luôn có sự tương tác và chuyển tiếp sang nhau, cái chính là chúng ta có nhận ra được điều đó hay không.


Hỏi: Vậy hành thiền là để chúng ta loại bỏ các khái niệm phải không ạ?

Đáp: Không phải như vậy. Chúng ta thấy nếu không có các khái niệm thì cuộc sống sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Chẳng hạn: nếu không có khái niệm thì đi từ nhà ra chợ ta sẽ không nhớ đường, không biết mở cửa....vì chỉ có các khái niệm như cao thấp, trái phải, ngắn dài do cái tưởng ghi lại mới giúp chúng ta hiểu và hành động được trong cuộc sống.
Như vậy, nếu không có các khái niệm, không có tưởng thì chúng ta không làm được gì hết. Cuộc sống cần phải có khái niệm. Đức Phật vẫn gọi "Xá Lợi Phất lại đây", Ngài không thể gọi "ngũ uẩn lại đây", vậy thì Đức Phật vẫn phải dùng các khái niệm, các vị thánh tăng cũng phải dùng các khái niệm và chúng ta cũng vậy.
Reply
#2
Hỏi: Nếu như có một vị thánh sống ở đời như chúng ta thì cũng phải dùng các khái niệm và chúng ta cũng phải dùng các khái niệm, vậy có gì khác nhau giữa chúng ta và một vị thánh?

Đáp: Khi cần sử dụng, các ngài vẫn dùng các khái niệm nhưng không còn tà kiến nữa còn chúng ta thì vẫn còn tà kiến. Trong cuộc sống này, chúng ta sống với tâm tham nhiều hơn tâm vô tham. Tham là bạn đồng hành với chúng ta cả ngày.
Tâm tham có hai loại: tâm tham hợp với tà kiến và tâm tham không hợp với tà kiến. Khi chúng ta sống với tâm tham hợp tà thì rất nguy hiểm, vì khi có tà kiến thì bốn đường ác đạo sẽ rộng mở chào đón chúng ta bất kỳ lúc nào. Hai bậc thánh đầu tiên thì vẫn còn tâm tham, nhưng tâm tham lúc đó rất là vi tế và ly tà.

Hỏi: Ngay cả khi làm các việc thiện như bố thí, cúng dường vẫn có tà kiến phải không ạ?

Đáp: Đúng như vậy, ngay cả khi chúng ta làm thiện thì vẫn có tà kiến bình thường, chẳng hạn như tôi cúng dường, mong cho tôi được giàu sang,...Chúng ta cúng dường với tâm mong được lên cõi này cõi kia thì đó chính là hữu lậu. Chúng ta cúng dường với một tâm mong cầu, thì đó là dục lậu. Thấy tôi cúng dường cho ngài này, cho vị trưởng lão kia...đó chính là kiến lậu. Khi hội tụ đủ hữu lậu, dục lậu và kiến lậu thì lúc đó chính là vô minh lậu. Như vậy, chúng ta làm phước mà vẫn có đủ bốn lậu hoặc. Nếu không biết để bóc tách chúng ra thì phước nhận được sẽ không phải phước giúp thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi, có thể đó là phước giúp ta đi lên các cõi trên nhưng không giải thoát. Chúng ta khéo bóc tách các pháp và hiểu được thì khi quan sát sẽ nhận biết dễ hơn.

Mắt, mũi, tai, lưỡi, thân không phân biệt đối tượng của chúng. Âm thanh chỉ là âm thanh, mùi chỉ là mùi. Tiến trình chuyển từ năm căn sang ý căn rất nhanh, vì vậy mà chúng ta hay bị tâm "lừa". Ví dụ, chúng ta nhìn thấy hàng kiến, dòng chữ điện tử chạy... kỳ thực đó là do tâm tạo, mắt thấy hình ảnh thôi nhưng tâm tưởng phóng ra.

Giống như một con chim được ánh mặt trời chiếu vào, ngay tức khắc bóng nó cũng được hiện ngay trên mặt đất. Tiến trình đối tượng tác động qua năm căn đồng thời tác động qua ý căn cũng liên quan và nhanh như vậy. Do đó, chúng ta không nên tin ở mắt ¬nhiều mà nên chú ý đến ý căn nhiều hơn, dần dần sẽ hiểu rõ hơn. Nhiều lúc chúng ta nghe hình như đang có ai gọi, nhìn hình như đang có người... nhưng kỳ thực thì đó chỉ là tưởng hoạt động. Nếu chúng ta không biết thì tưởng sẽ tiếp tục kéo chúng ta đi, còn nếu thấy rõ được cơ chế đó thì nó sẽ tự tan đi.

Hỏi: Khi quan sát cần những phẩm chất tâm gì thưa Sư?

Đáp: Khi quan sát cần có ba yếu tố đó là tinh tấn, tỉnh giác và chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Tham là tham, ưu là sân và ở đời là tất cả những gì sinh khởi trên thân tâm.

Bát chánh đạo là có tám chi đạo, nhưng thực tế khi quan sát thì chúng ta chỉ quan sát được với năm chi đạo của nhóm Định và nhóm Tuệ (Chánh định, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh kiến, Chánh tư duy). Chánh kiến là hàng đầu, khi chúng ta nói có Chánh định thì điều đó có nghĩa là chúng ta có Chánh kiến ở đó rồi. Khi nói có Chánh định thì điều đó có nghĩa là không phải có Chánh định đứng một mình, mà Chánh định ở đây là sự hợp nhất của năm chi đạo.

Trong sự quan sát không có nhóm Giới vì Giới của chúng ta là giới ngăn ngừa. Bình thường thì chúng ta có giữ giới không? Ví dụ như ngay lúc này chúng ta có giữ giới sát sinh không. Không, vì có gì đâu mà giữ. Nếu như có con muỗi muốn đốt tôi, tôi đưa tay ra định giết nó, nhưng lúc đó tôi nghĩ "mình đang giữ tám giới, vì vậy mình không nên sát sinh", khi đó giới ngăn ngừa mới được sinh khởi. Bình thường thì sẽ không có, khi nào phát sinh thì nó mới có. Đối tượng của tôi là con muỗi, tức là khái niệm, trong khi đó tôi quan sát Tứ Niệm xứ thì đối tượng là danh sắc, vì vậy mà cùng một lúc chúng ta không thể quan sát được với tám chi đạo.
Reply
#3
Hỏi: Thưa Sư, trong thực hành con hay nhầm lẫn giữa suy nghĩ về điều gì đó và thực sự quan sát được điều đó.

Đáp: Chúng ta thể suy nghĩ mà không có khái niệm được, nhưng kinh nghiệm chân đế không cần suy nghĩ. Có ai suy nghĩ được Chân đế không? Có ai nghĩ là nóng hay lạnh không? Nóng hay lạnh chỉ cảm nhận trực tiếp được thôi, còn nếu ai đó nghĩ là cái sàn này cứng, đó là khái niệm. Như vậy khi chúng ta suy nghĩ là khái niệm có mặt, còn khi 5 căn tiếp xúc đối tượng thì ở đó có mặt pháp thực, pháp chân đế.

Cần biết rõ khi nào chân đế có mặt, khi nào tục đế xen vào, không nhầm Pháp này thành Pháp kia, thế là đủ rồi. Con đường chúng ta phải đi cho đúng, do vậy, xác định được đối tượng đúng coi như giải quyết được vấn đề.
Suy nghĩ là cần thiết, nhưng vấn đề là loại suy nghĩ nào? Suy nghĩ phóng tưởng, bất thiện thì không nên, còn Chánh tư duy lại cần thiết. Chánh tư duy là một trong những chi của nhóm Tuệ. Nếu không chúng ta rất dễ dàng hiểu lầm, dẫn đến mong cầu không còn suy nghĩ, không còn khái niệm khi ngồi thiền. Không còn suy nghĩ là chúng ta chết, chúng ta sống ở đây bất kể lúc nào cũng luôn luôn có tâm, luôn luôn có suy nghĩ.

Hỏi: Thưa Sư, các thiền sinh thì nên có thái độ như thế nào trước những cảnh đẹp, vị ngon, mùi thơm...vv

Đáp: Sau một thời gian, người hành thiền sẽ trở nên tinh tế hơn, phẩm chất tâm cũng được tốt hơn. Vấn đề ở đây là tâm tiếp nhận đối tượng đó như thế nào, chẳng hạn trước cảnh buổi chiều hoàng hôn trên biển, hay ở một thung lũng rất nhiều cây xanh, hoa nở...Chúng ta đã trải nghiệm, cảm nhận như thế thì lẽ ra chỉ cảm nhận trong thời khắc đó, ghi nhận nó như thế thôi, nhưng tâm muốn lưu giữ lại, muốn lần sau tới lại lần nữa. Nếu có tiền mua thì mua cho bằng được, nếu trong vườn thấy bông hoa đẹp muốn ngắt hoa cho vào trong bình để được ngắm nhiều hơn...vv. Cái chúng ta cần loại bỏ là tâm tham muốn níu kéo, bám giữ, muốn thêm nhiều nữa chứ không phải đối tượng.

Hỏi: Thưa sư cho con hỏi, mấy người lớn tuổi trong gia đình con hay quên nhưng lại hay nhớ chuyện thời xưa, đánh nhau, chiến tranh rồi hận thù người này, thích người kia, vậy sao người ta cứ nhớ và nói hoài chuyện ngày xưa vậy Sư?

Đáp: Bởi vì họ bị ám ảnh, không buông được, họ chỉ nghĩ đến những điều đó thôi. Các thông tin đó hằn rõ nét nhất còn với những điều mới họ lại không tiếp cận được nữa. Người ta luôn luôn nhớ những gì qua đi, đó là tâm lý của người già.
Khi trí não còn tốt, sức khỏe còn tốt, tất cả mọi thứ còn linh hoạt thì cơ hội để chúng ta tiếp cận với thiền rất tốt. Vì thế người ta có suy nghĩ là để đến già đi tu, đây là suy nghĩ sai lầm, cổ hủ. Càng trẻ đi tu được là phước báu lớn.
Reply
#4
TÀ KIẾN

Hỏi: Xin Sư giảng rõ hơn về Tà kiến ạ?

Đáp: Tà kiến (diṭṭhi) là thấy một cách sai lạc, diễn giải một cách không đúng đắn, thấy sai khác với thực tại.

Chẳng hạn khi nhìn, có một cái nhìn sanh khởi thì chúng ta cho rằng là có người nhìn, khi nghe một âm thanh thì chúng ta cho rằng đó là âm thanh của một cái gì đó (vd: tiếng xe, tiếng chim, tiếng người,...). Tiếng người, tiếng xe, tiếng chim,... là các khái niệm, chúng ta suy nghĩ về các khái niệm chứ các khái niệm này không thể nghe được. Thực tại xảy ra đối với cái nghe ở tai, đối với cái nhìn ở mắt nhưng tiến trình suy nghĩ đến khái niệm thì lại xảy ra ở ý môn. Tiến trình này xảy ra ở các satna, các khoảnh khắc khác nhau, nhưng chúng ta cũng lại không phát hiện ra được điều đó.

Đặc tính của Tà kiến là do chúng ta tác ý một cách sai lệch, hướng tâm một cách sai lệch. Chức năng của Tà kiến là làm cho các sự vật và hiện tượng bị sai lạc, xa rời bản chất thực

Chánh kiến là một chi đạo nằm trong Chánh đạo. Tà kiến cũng là một chi đạo nhưng nó là một chi của Tà đạo. Chừng nào chúng ta còn nắm giữ một quan điểm, một ý tưởng cho rằng đây là con đường để dẫn tới một nơi an vui, hạnh phúc, một sự tự do, giải thoát thì nghĩa là Tà kiến đang dẫn ta đi sai chệch, đi về các mục tiêu sai lệch ra khỏi mục tiêu chân chánh.
Dưới thời Đức Phât, người ta cũng tin tưởng là có nhiều cách thực hành khác nhau để đạt tới sự thanh tịnh, giải thoát. Họ cho rằng là cứ phải khổ hạnh thì sẽ tẩy rửa được nghiệp, rồi người ta thực hành hạnh của con vật như là hạnh con chó hay là hạnh con bò. Ngày nay, chúng ta cũng có thể rơi vào tà kiến mà không biết: chẳng hạn, ăn uống đúng để giải thoát cũng là một dạng tà kiến.

Khi có kiến điên đảo (diṭṭhi-vipallāsa) thì chúng ta không biết đúng sai. Mặc dù đã biết Chánh đạo là như vậy nhưng chừng nào ta chưa thực sự thấy thì vẫn có thể rơi vào tà kiến.

Thông thường có thể chia tà kiến ra làm 3 loại khác nhau:
Natthika-diṭṭhi: Cho rằng không có kết quả của nghiệp, chủ trương rằng chết là hết.
Ahetuka-diṭṭhi: Cho rằng các hiện tượng là không có nhân, không có căn nguyên, chúng sinh có số phần và không có cái gì có thể thay đổi được.
Akiriya- dịtthi: Tà kiến không tin tưởng vào Nghiệp (Kamma), phủ nhận tất cả hành động thiện hay bất thiện, nghĩa là dù hành động thiện hay bất thiện thì đều giống nhau không để lại nghiệp quả gì hết.

Cũng có thể chia theo Thường kiến (Sassata-diṭṭhi) hoặc Đoạn kiến (Uccheda-diṭṭhi) hoặc là một phần Thường kiến, một phần Đoạn kiến.

Về văn tuệ, chúng ta có thể hiểu được khi nghe các thông tin nhưng chỉ khi thấy được rõ ràng sự sanh khởi và diệt tận của các pháp thì lúc đó chánh kiến mới được xác lập một cách chắc chắn. Thấy được sự sanh khởi thì người ta sẽ không còn tin tưởng vào Đoạn kiến và thấy được diệt tận thì người ta cũng không còn tin tưởng vào Thường kiến. Nếu không thấy được nghiệp và các nhân duyên thì cũng sẽ không thấy được kết quả của nghiệp và ngược lại.

Chúng ta cũng có những tà kiến về Ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành thức), cho rằng sắc là ngã, ngã là có sắc; rồi sắc có trong ngã, rồi ngã có trong sắc; sắc trong ngã thì sắc nhỏ hơn và ngã trong sắc thì ngã nhỏ hơn. Tương tự như vậy cho các danh uẩn còn lại.
Reply
#5
Hỏi: Con biết rằng do có tà kiến nên ta nắm vào các khái niệm. Con muốn hỏi là bắt vào các khái niệm có phải là tà kiến không?

Đáp: Thường thường mọi người để ý cho sư một chút có những điều đúng chiều xuôi thì cũng đúng cho chiều ngược nhưng có những điều đúng theo chiều xuôi nhưng không đúng theo chiều ngược, có những điều đúng theo chiều ngược nhưng không đúng theo chiều xuôi.

Như Đức Phật vẫn nói "La Hầu La lại đây", "Xá Lợi Phật lại đây" thì Ngài bắt vào cái gì? Ngài vẫn bắt vào khái niệm. Ngài vẫn bắt vào khái niệm con người, chúng sinh, người này, người khác,.. nhưng không bao giờ Ngài có hiểu biết sai lầm đó là một con người thực sự, một chúng sinh thực sự. Trong Tứ vô lượng tâm liên quan đến các đối tượng là chúng sinh, nó là khái niệm. Từ, Bi, Hỉ, Xả thì đối tượng của nó là các khái niệm.

Trong tất cả các pháp bất thiện thì Tà kiến là cái tệ hại nhất. Từ Tà kiến nảy sinh ra các bất thiện pháp khác. Do vậy, việc thực hành là để xác lập sự hiểu biết rõ ràng hay nói cách khác là có được Chánh kiến.
Chánh kiến hay hiểu biết có mặt nghĩa là thấy được tam tướng: Vô thường, Khổ, Vô ngã. Chánh kiến có mặt còn giúp cho chúng ta hiểu được về nhân duyên của các pháp hữu vi.

Chánh kiến là đối lập với Tà kiến. Nhờ có chánh kiến, ta hiểu rõ được về Niết bàn, ở đây là sự diệt khổ. Khi chánh kiến có mặt, chúng ta sẽ thấy đúng với thực tánh pháp, với bản chất của các hiện tượng. Tà kiến cũng là thấy nhưng là thấy sai. Nhờ hiểu đúng chúng ta mới thực hành đúng.

Quan kiến mà sai thì có nghĩa là 7 yếu tố còn lại trong Bát Chánh Đạo cũng sai hết, trở thành Tà đạo. Chánh kiến sẽ quyết định cái sau có đúng hay là không. Có Chánh kiến thì những cái sau nó mới là Chánh, Tà kiến thì cái những cái đi sau nó là Tà. Tà ở đây tức là sai, không đúng với Chánh đạo


Hỏi: Thưa Sư, trong kinh hay nói tới việc Đức Phật thuyết kinh dành cho người biết, người thấy không phải là dành cho người không biết, không thấy. Xin Sư giải thích thêm ạ?

Đáp: Người biết là người có thể khơi dậy tác ý chân chánh hay là như lý tác ý. Tác ý chân chánh hay như lý tác ý là điều kiện, nhân duyên để Chánh kiến sanh khởi. Như lý tác ý có nghĩa là hướng tâm đúng đắn.

Cái kim đặt ngang trên tờ giấy thì không thể nào đâm toạc được tờ giấy. Cần phải dựng để cho kim vuông góc với tờ giấy đã, sau đó chỉ cần dùng một lực rất nhẹ thì nó cũng có thể đâm thủng tờ giấy. Cây kim để ngang thì cho dù ta có ấn mãi, ấn rất mạnh đi chăng nữa thì cũng không thể nào đâm thủng được. Phải định hướng cho đúng, đó là người biết.
Người thấy là thấy theo cách không để cho tác ý không chân chánh khởi lên. Nguyên nhân để cho chánh kiến sanh khởi đó là có tác ý chân chánh, như ý tác ý.

Một yếu tố khác nữa là: tiếng nói của người khác. Chúng ta phải thân cận với những bậc trí để có được những thông tin đúng. Không có Đức Phật thì không có được những thông tin đúng, nhất là trong Pháp hành Vipassana, chỉ có Đức Phật thuyết giảng mà thôi.

Những thông tin đúng đắn sẽ giúp chúng ta hiểu đúng, từ đó thực hành đúng. Chính vì vậy chúng ta nên nghe pháp nhiều. Chúng ta nghe pháp nhiều đến khi có cảm giác như đã nằm lòng rồi, tức là lời nói, suy nghĩ và hành động đã hợp nhất rồi, lúc ấy thì yên tâm hơn. Ngược lại, nếu còn hồ nghi, phân vân không chắc chắn, tức là chúng ta đã nghe, đã áp dụng nhưng chưa triệt để. Cần hiểu một cách rõ ràng thấu đáo sẽ dễ dàng hơn trong việc áp dụng.

Hỏi: Thưa Sư, con có nên cố gắng để có chánh niệm suốt cả ngày không?

Đáp: Khi có chánh niệm thì chúng ta ghi nhận và biết mình có chánh niệm; khi thất niệm, ta cũng biết rõ rằng là mình thất niệm. Từ đó, chúng ta thấy được sự khác biệt giữa những khoảnh khắc chánh niệm và thất niệm; đó mới là điểm mấu chốt, chứ không phải là việc cố gắng là có chánh niệm suốt.

Việc phát hiện ra được các khoảnh khắc, các satna mà thất niệm rất có giá trị. Chúng ta không thể cầu toàn được và nên hiểu rằng các pháp sinh khởi có cả tốt xấu, có cả trắng cả đen, có cả thiện và bất thiện. Vấn đề là chúng ta có biết khi nó có mặt hay không? Khi nó có mặt ta biết nó có mặt, khi nó không còn nữa thì ta biết là nó không còn nữa; đó là mới điều quan trọng chứ không phải ta bắt buộc phải luôn có chánh niệm, luôn có pháp thiện.
Reply
#6
Hỏi: Có khi nào chúng ta hành động mà không có suy nghĩ không thưa Sư?

Đáp: Chúng ta cần có suy nghĩ trước khi hành động. Trước khi làm một cái gì đó thì phải có ý tưởng, ý tưởng dẫn đến suy nghĩ và do có suy nghĩ dẫn đến hành động.
Suy nghĩ rất ít khi vắng mặt; kể cả khi vào những mức định sâu vẫn có thể có suy nghĩ tại một vài sát na hay khoảnh khắc nào đó. Nhưng người ta nói rằng không nên để ý đến các suy nghĩ vụn vặt đó chứ không phải là không có suy nghĩ, hoàn toàn vắng bặt các suy nghĩ.

Hỏi: Vậy ý tưởng và hành động liên quan đến nhau như thế nào thưa Sư?

Đáp: Các ý tưởng ngay từ đầu có thể đúng hay sai do các thông tin, kinh nghiệm mà mình đã thâu thập. Ví dụ khi chúng ta gặp một người, nhìn và thấy người đó là một người mới, người này mới hoàn toàn hay là mới so với các ý tưởng từ trước? Rất nhiều ý tưởng về người đó, những thông tin về người đó, những dữ liệu về người đó mình biết rồi, đã được định hình sẵn rồi. Các ý tưởng này tác động lên suy nghĩ của ta rồi trên có sở đó chúng ta đưa ra các hành động, lời nói cụ thể. Như vậy các ý tưởng đó là những ý tưởng thuộc về quá khứ.

Nếu không để ý thì chúng ta vẫn nhìn con người này với ý tưởng đó là con người tôi đã gặp ngày hôm qua. Tuy nhiên, nếu chúng ta thấy người này là một người mới hoàn toàn thì đó lại là một ý tưởng khác. Ý tưởng thì vẫn là ý tưởng, ý tưởng về một người, một vật hay là ý tưởng về không có con người, hay không có sự vật vẫn là ý tưởng.

Như vậy, chúng vẫn hành động dựa trên ý tưởng, suy nghĩ cũng trên ý tưởng. Nếu để cho hành động đúng thì ý tưởng phải đúng. Và nếu ý tưởng sai thì hành động không thể đúng được. Như vậy thay đổi ý tưởng thì dẫn đến thay đổi suy nghĩ, mà suy nghĩ của chúng ta có cảm xúc ở đó. Ý tưởng thay đổi tác động đến suy nghĩ cũng có nghĩa là nó tác động đến cảm xúc bởi có suy nghĩ là có cảm xúc. Do đó thông qua cảm xúc ta cũng biết được là ý tưởng và những suy nghĩ đó như thế nào, đó là các mắt xích tác động qua lại lẫn nhau.

Hỏi: Ngay cả trong trường hợp khẩn cấp con vẫn thấy cần các dữ liệu thu lượm được từ trước, luồng thông tin để đem đến những suy nghĩ đó rất nhanh, không nắm bắt được nhưng nó vẫn có. Ví dụ để cứu 1 người chết đuối ạ thì chắc chắn người đó biết là họ biết bơi

Đáp: Khi mọi chuyện xảy ra rất nhanh, suy nghĩ vẫn có nhưng nó chỉ ở trên những gì tiếp nhận ở hiện tại thôi. Lúc đó gần như ta làm việc theo bản năng, xử lý với ý tưởng ngay tại hiện tại, không thể gợi lại các ý niệm cũ được nữa
Còn nếu lấy các thông tin và dữ liệu trước đây để xử lý trong hiện tại là chúng ta luôn có những định hình trước rồi.

Hỏi: Nếu ta lấy quá khứ gắn vào hiện tại thì nghĩa là ta đang nhìn vấn đề với cặp kính màu rồi.

Đáp: Khi đó không còn đúng nữa rồi, sự thật đã bị pha màu rồi. Khi mà chúng ta phát hiện ra đang có những cảm xúc chi phối ta là khi đó đã pha màu rồi đó. Có nghĩa là cần kiểm tra lại thái độ sau đó là cái gì.

Khi quan sát đi quan sát lại cơ chế này rất nhiều lần thì chúng ta sẽ hiểu thật sự thấu đáo vấn đề này, mà có hiểu biết (hay tạm gọi là trí tuệ hoặc bất kỳ ngôn từ nào cũng được) thì có thể phân tách được đâu là đúng đâu là sai, đâu là phải đâu là trái, đâu là chánh đâu là tà, thì tự động những gì không chân chánh sẽ được buông bỏ.

Hỏi: Vậy thì muốn nhận ra để có một ý tưởng đúng thì cần phải có chánh niệm, trí tuệ phải không ạ?

Đáp: Ý Sư nói là phải thực hành theo từng bước, không thể cầu toàn ngay được, phải phát hiện ra được cơ chế như thế này trước đã. Nếu không phát hiện ra được thì ta vẫn còn đang trong đống bùng nhùng này và nó vẫn còn chi phối ta. Không phát hiện ra các cơ chế làm việc của tâm thì làm sao có sự hiểu biết?

Đầu tiên cần phải có chánh niệm để quan sát, sau đó bắt đầu có sự hiểu biết, rồi dần dần sẽ nhận rõ ra được cơ chế vận hành, biết đâu là cái đúng, đâu là cái sai. Mới đầu thì chúng ta cần phải có thông tin trước nhưng phải qua những phân tích như thế này mới bóc tách, mới thấy rõ ra được. Khi thấy rõ rồi những cái gì sai sẽ tự động được buông bỏ.

Hỏi: Xin Sư cho ví dụ về mối liên hệ giữa ý tưởng và hành động ạ?

Đáp: Ví dụ nếu ai đó đặt lòng tin lên quá cao thì một lần làm họ mất lòng tin sẽ rất khó để họ tin tưởng lần sau, như người ta vẫn bảo "một lần thất tín là vạn lần bất tín". Sự việc có thể không xảy ra như vậy, nhưng chúng trở nên lặp lại là do có ý tưởng như vậy.

Hỏi: Như vậy các ý tưởng là do đâu mà tạo thành?

Đáp: Do rất nhiều yếu tố như: môi trường chúng ta sống, chỗ chúng ta học tập từ bé, văn hóa gia đình...vv. Bây giờ chúng ta tiếp nhận những thông tin về Pháp thì là những thông tin mới, những thông tin đúng, dần dần tạo nên những ý tưởng mới tạm gọi là ý tưởng, thái độ đúng. Trên cơ sở đó thì mình bắt đầu quan sát học hỏi thêm.
Reply
#7
Hỏi: Con ngồi thiền thấy rất nhiều suy nghĩ, xin Sư cho con thêm những thông tin đúng về vấn đề này ạ?

Đáp: Cái gì cũng vậy, khi nói một cái gì đó sanh khởi tức là nó có mức năng lượng nào đó. Một viên đạn được phóng ra thì theo chu kỳ, phóng ra hết năng lượng nó sẽ tự rớt. Suy nghĩ cũng vậy, khi nó sanh khởi nó có một năng lượng để phóng ra. Có những cái rớt ngay, cũng có những cái phóng xa hơn do có năng lượng mạnh hơn, nó bay xa hơn rồi mới rớt.

Nếu chúng ta không can thiệp thì tự suy nghĩ sẽ rớt, còn nếu can thiệp thì suy nghĩ sẽ như máy bay đang bay được tiếp thêm dầu, cứ bay hoài, bay mãi. Suy nghĩ khi đó được tiếp thêm năng lượng sẽ cứ lan man đi mãi. Nếu chúng ta (tạm gọi là) quan sát khách quan, không can dự thì sẽ thấy bất kỳ một cái gì phóng ra đều có một mức năng lượng rồi nó tự hết. Ta sẽ thấy nó tới và nó đi vì chỉ có một mức năng lượng như vậy thôi. Nếu ta không can dự vào thì nó sẽ không được nạp thêm năng lượng và tự rớt khi hết năng lượng.

Nhiệm vụ của chúng ta là quan sát. Quan sát ở đây cũng cần có mức năng lượng và cần phải duy trì liên tục, vì nếu không được duy trì thì mức năng lượng này cũng cạn dần rồi hết. Nếu duy trì được mức năng lượng thì sự quan sát sẽ ngày càng sắc bén hơn; nếu không thì nó cũng lúc trồi, lúc sụt theo mức năng lượng của nó.
Như vậy suy nghĩ có một mức năng lượng và sự quan sát cũng có một mức năng lượng. Nếu quan sát đúng đắn thì năng lượng cho sự quan sát luôn luôn được bồi đắp và sẽ trở nên sắc bén hơn, tốt hơn. Nếu không can dự vào tiến trình suy nghĩ thì các suy nghĩ sẽ tự đến rồi đi.

Hỏi: Thưa Sư có nên quan sát mức năng lượng chánh niệm này không ạ?

Đáp: Thực ra phẩm chất của chánh niệm cũng chính là năng lượng. Mọi người có biết được chánh niệm đang tốt hay không tốt không? Chúng ta có biết được việc đó không? Chánh niệm lúc trồi lúc sụt chúng ta có biết không? Tại sao nó trồi, tại sao nó sụt, và làm sao để nó trồi liên tục? Đó là do ta đang tiếp năng lượng cho chánh niệm. Năng lượng cho sát na kế tiếp được bồi đắp, thừa hưởng từ những sát na trước.
Năng lượng chánh niệm cần được duy trì từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác. Vậy suy nghĩ của chúng ta có như vậy không? Nếu quan sát và thấy chánh niệm như thế thì suy nghĩ thế nào? Khúc đầu nhẹ nhàng, khúc sau tăng mạnh hay khúc đầu tăng mạnh, khúc sau nhẹ nhàng? Nếu như khúc đầu mạnh, khúc sau nhẹ thì nguyên nhân tại sao? Đâu là yếu tố quyết định?
Khi quan sát chúng ta có thể thấy nếu tâm thay đổi đối tượng thì suy nghĩ sẽ rớt ngay tức khắc, đó là một cách cắt năng lượng của suy nghĩ. Tuy nhiên, còn một cách khác là vẫn tiếp tục quan sát và không can dự vào suy nghĩ, không tiếp thêm năng lượng cho suy nghĩ; suy nghĩ sẽ tự rớt khi hết năng lượng.

https://thienquantam.com/index.php/bai-v...o-i-phap-1
Reply