PHÂN TÂM HỌC HIỆN ĐẠI QUA CÁI NHÌN PHẬT GIÁO
#2
1. Vô thức

Sự khám phá ra vô thức đã đặt nền móng cho phân tâm học, vì phân tâm học là tâm lý học về vô thức hay tiềm thức. Vô thức là kho chứa những cảm xúc, những tình cảm, những tham muốn, những giận ghét v.v… bị “dồn nén” (những chữ trong ngoặc kép là của phân tâm học) vào bên trong, kho chứa những “mặc cảm mang màu sắc cảm xúc”. Để hiểu sơ vô thức là gì, chúng ta nói đến thí nghiệm liên tưởng từ (association test) của Jung. Người được thử nghiệm phải trả lời tức khắc khoảng 100 từ được đọc chậm bằng những từ đầu tiên vừa hiện trong đầu mình. Người kiểm tra sẽ ghi thời gian phản ứng đối với từng chữ một. Khi trước một từ mà đương sự phản ứng chậm, ngập ngừng, thì đây là từ có vấn đề: từ ấy đã chạm đến một mặc cảm. Ví dụ tới từ “màu đỏ”, đương sự ngập ngừng, thì có thể là hồi còn nằm trong nôi y đã bị ai đó đắp cho cái mền màu đỏ mà vô tình phủ lên mặt, và từ đó y sợ màu đỏ cho tới lớn, sự sợ hãi màu đỏ đã chìm vào vô thức và điều kiện hóa hành động sống bình thường của y. Để làm cho y hết sợ màu đỏ, nhà phân tâm học dùng “thôi miên” hay “liên tưởng tự do” hay “phân tích giấc mơ” (theo phương pháp Freud) hoặc dùng phương pháp “phân tích bằng cách nói chuyện” (theo Jung) để đưa sự dồn nén (repression) hay mặc cảm (complexe) ấy ra ánh sáng của ý thức. Khi được đưa ra ý thức, khi nó được biết đến, mặc cảm đó được giải phóng, người ta lành bệnh, hết sợ màu đỏ một cách vô thức.
Đời sống bình thường của con người được quy định, bị điều động rất nhiều những mặc cảm này. Ví dụ. sư nghiệp của Napoleon, ngoài tài năng quân sự và tham vọng cầm quyền, còn bị điều động bởi một mặc cảm thấp lùn mà mọi người thường chế giễu khi còn ở trường sĩ quan. Hoặc Hitler, còn có mặc cảm là người thợ sơn, một người lính tầm thường, ngoài ra người ta còn thấy tính bạo hành (sadisme) trong việc đưa 6 triệu người Do Thái vào lò hơi ngạt. Hoặc các thanh niên đua xe, ngoài việc thích tốc độ, còn có thể có mặc cảm thu sút nên muốn chứng tỏ mình. Hoặc những người nghiện rượu, nghiện ma túy cũng có những vấn đề mặc cảm nào đó, hay nói theo Phật giáo có những phiền não không thể giải tỏa nào đó. Sự khám phá ra vô thức cho chúng ta thấy, cuộc sống bình thường của chúng ta phần nhiều diễn ra trong vô thức, không có ý thức. Chúng ta thường hành động một cách vô ý thức, đây là điều Phật giáo gọi là hành động không tỉnh giác, hành động vô minh.
Bây giờ khi so sánh với Duy thức, thì cái vô thức của những nhà phân tâm học đã đi đến cái thức thứ tám (alaya – vijnana), kho chứa tất cả những ấn tượng, những cảm xúc, thói quen… của con người. Thức thứ tám hay thức a lại da là kho chứa (tạng thức) tất cả những gì năm thức giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) cảm nhận, được tô đậm thêm bằng sự phân biệt của thức thứ sáu là ý thức, được khúc xạ qua mạt na (thức chấp ngã thứ 7). Thức thứ 8 là thức nền tảng của sinh mệnh, chứa tất cả những hành động (nghiệp) của quá khứ. Những gì được chứa là những chủng tử (hạt giống) chờ cơ duyên để biểu hiện ra (hiện hành).
Vô thức của phân tâm học là thức thứ 8 của Duy thức. Có điều thức a lại da của Duy thức thì rộng hơn và sâu hơn vô thức.
Rộng hơn: vô thức chỉ chứa những mặc cảm, những phiền não lớn (gây ra bệnh tâm thần) còn a lại da thì chứa tất cả những kinh nghiệm sống của con người có được qua 8 thức.
Sâu hơn: vì a lại da không chỉ chứa tất cả những kinh nghiệm sống trong một kiếp mà của tất cả kiếp, từ khi có thời gian đối với con người.
Ở đây cũng nói thêm, một số ít nhà phân tâm học và cả một số nhà mà bây giờ chúng ta gọi là trường sinh học (như Edgard Cayce), khi thôi miên nhiều bệnh nhân, họ có thấy một số nguyên nhân gây bệnh không ở trong đời này mà ở một quá khứ vượt qua đời này. Ví dụ, người sợ nước một cách vô cớ thì y đã chết đuối trong quá khứ, hoặc người vào một phòng không có cửa hay một hẻm cụt thì sợ, vì y đã chết trong hầm không có lối thoát vào đời trước, hoặc khi thôi miên có người nói bằng những tiếng cổ ngữ rất xưa mà y chưa từng học hay gặp… Nhưng một số truyền thống tôn giáo – triết học không tin có những đời trước, những ghi nhận này không được công nhận chính thức. Ở đây chúng ta ghi nhận thêm một điều: công cụ để thăm dò vô thức là thôi miên thì kém rất xa công cụ thăm dò vô thức của Phật giáo là thiền định và thiền quán.
Cũng chính vì không hình dung ra những đời trước cho nên khi thấy trong tâm thức những người khác nhau lại có những cổ mẫu (archetype) giống nhau nên Jung đã cho có một “vô thức tập thể” chung. Theo quan điểm Phật giáo có những cổ mẫu giống nhau là vì những người ấy trong những đời trước đã sống cùng những nơi chốn như nhau nên tâm thức của họ được in vào những hình ảnh, những biểu tượng giống nhau. Nếu vô thức là tập thể thì một người thành Phật, nghĩa là chuyển thức hoàn toàn thành trí, như Đức Thích Ca, thì tất cả mọi người đều đồng thời được tịnh hóa tâm thức, đều được giải thoát. Cho nên không có a lại da tập thể, mà chỉ có tương tác giữa các vô thức hay a lại da thức với nhau.
Nhờ sự khám phá ra vô thức, chúng ta biết nhân cách con người rộng lớn hơn ý thức rất nhiều. Chỉ nói riêng về sự ứng dụng phân tâm học vào văn học, mặc dù phân tâm học vẫn là môn học phát triển chậm và không mạnh ở Việt Nam, hiện nay chúng ta thấy những giáo sư về văn học đã giới thiệu, nghiên cứu và có người đã dùng nó trong nghiên cứu văn học: Đỗ Lai Thúy (Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa thông tin, 2004,Phân tâm học và văn hóa tâm linh), Phương Lựu (Lý luận phê bình văn học Phương Tây thế kỷ XX, NXB Văn Học, 2001), Nguyễn Văn Dân (Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Khoa học xã hội, 2004), Tạp chí văn học số 2, 7, 9 năm 1995…
Thở ra nhẹ một kiếp người
Buông tay bỏ lại một đời phù vân
Reply


Messages In This Thread
RE: PHÂN TÂM HỌC HIỆN ĐẠI QUA CÁI NHÌN PHẬT GIÁO - by caothang - 2019-05-31, 01:50 PM