Tháng 4 và những mảnh đời
#31
Tháng tư đen, tưởng nhớ nhà thơ Vũ Hoàng Chương 

Nhắc đến Vũ Hoàng Chương, nhà thơ được mệnh danh là "ngôi sao Bắc Đẩu trong nền văn học miền Nam" là tưởng nhớ đến một nhà thơ bất khuất, một nhân cách lớn của những người làm văn nghệ miền Nam trước 1975...

Xin trích lại bài viết "Lửa tắt bình khô rượu" diễn tả thật đúng phẩm chất nhà thơ lớn của cây bút Hoa Lan Thiện Giới  

...

Lửa tắt bình khô rượu

Ai đã từng làm bạn với Lưu Linh, một anh chàng uống rượu như hũ chìm trong các điển tích thơ văn? Ai đã từng làm “thơ say“ truyền cảm xúc cho những người chưa từng biết uống rượu ? Kể ra chắc nhiều vô số! Nhưng siêu đẳng vẫn là thi sĩ họ Vũ tên gọi Hoàng Chương với bài thơ say bất hủ, chỉ cần đọc lên hai câu là đã thấy tinh tú quay cuồng rồi:

          Em ơi, lửa tắt bình khô rượu. 
          Đời vắng em rồi... say với ai?

Không biết Vũ tiên sinh uống loại rượu gì? Được chưng cất cầu kỳ và phức tạp cỡ nào, mà làm thơ hay thế! Nhưng hỏi là hỏi thế thôi! Tôi biết chắc, thi sĩ chỉ mượn rượu để say trong men tình!

Vậy bài thơ "Đời vắng em rồi" không chỉ được xếp loại vào hàng thơ say mà phải gắn thêm hai chữ "say tình" mới đúng điệu.

Nhân vật nữ trong hai câu thơ này ẩn hiện như sương khói, xuất hiện ngay đầu câu với tiếng gọi "Em ơi," thật tha thiết và biến mất ở cuối câu với hai chữ "với ai?" đầy nghi hoặc!!?

Bóng hồng trong thơ là ai mà có ma lực làm Vũ tiên sinh quẳng hết các bình rượu, không thèm say khi thiếu hồng nhan tri kỷ bên cạnh để say. 

Thơ như thế mới làm tôi nhức nhối con tim, mới làm tôi ngưỡng mộ vị thi sĩ đại tài được ví như một Ngôi Sao Bắc Đẩu lấp lánh trên nền trời văn học Việt Nam.

Thế nhưng, chẳng lẽ lại đổi thơ của cụ Nguyễn Du "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen", nhà thơ lớn này bị vùi dập cho đến chết vào năm 1976, chỉ một năm sau ngày Miền Nam bị Giải Phóng một cách oan uổng.

Các cụ vẫn thường bảo "Thuyền to thì sóng lớn", thi sĩ họ Vũ quá nổi tiếng ở miền Nam, nên phái đoàn thơ văn của miền Bắc trong chuyến "giao lưu" đầu tiên tại Sài Gòn sau 1975 đã chiếu cố đến tiên sinh. Họ đi chiêu dụ thêm vây cánh để làm thơ, viết văn ca ngợi một chủ nghĩa... không còn từ nào để nói nữa!!? 

Phái đoàn gồm nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng, kể cả những kẻ hét ra lửa như Tố Hữu, với biệt danh "Nhà thơ máu và hoa":

Ôi Việt Nam, từ trong biển máu. 
Người vươn lên như một thiên thần. 

Và cũng nhờ tài làm thơ khóc Stalin, thi sĩ máu lửa của miền Bắc này đã leo đến chức Phó Thủ tướng và nằm trong Bộ Chính trị. Thế mà Vũ tiên sinh ngay thẳng của chúng ta đã dám phê bình văn học bài thơ ấy! Hậu quả tai hại như thế nào sẽ được nói rõ ở phần sau?

Nhân vật thứ hai trong phái đoàn giao lưu văn nghệ là người bạn cũ Huy Cận, tình nghĩa thơ văn chỉ đậm đà trong thời gian kháng chiến với ngậm ngùi. Một giai thoại đối đáp khá thú vị giữa hai nhà thơ. Huy Cận với tác phẩm nổi tiếng "Lửa Thiêng" đã hỏi Vũ Hoàng Chương tác giả của "Thơ Say" và "Mây" để  được câu trả lời:

-  Đã lâu lại gặp "Chàng Say".
    "Lửa Thiêng" xin đốt chờ "Mây" xuống trần.
-  "Mây" kia chẳng chịu xuống trần. 
       Lửa ơi theo khói lên gần với "Mây".

Nhưng khi ký kết hiệp định Genève năm 1954, lấy con sông Bến Hải và vĩ tuyến 17 để chia đôi thì đường đời hai ngã giữa hai nhà thơ, từ tư tưởng chính trị đến thơ văn. Mãi đến năm 1975 họ mới gặp lại nhau tại Sài Gòn, do chính Huy Cận chủ động đi tìm Vũ Hoàng Chương. 

Huy Cận dùng tình cảm bạn bè cũ tặng quà quý giá cho bạn vàng, một chai rượu quý, một lọ đầy thuốc phiện và một chân dung cuộn tròn của lãnh tụ, nhờ đề thơ. Thế là Vũ tiên sinh từ từ đã bị phe kia dồn vào chân tường, khi Huy Cận đến đòi thơ trên chân dung lãnh tụ thấy gói quà được trả lại vẫn còn nguyên không đụng đậy. Dĩ nhiên nhà thơ của chế độ, có một thời đã leo đến chức Thứ trưởng Bộ Văn hóa, đã giận tím mặt và để bụng tìm cơ hội trả đũa cho việc không nể nang tình bạn một chút nào! 

 Thi bá họ Vũ đã làm gì nên tội mà "Bên thắng cuộc" đã gán ông vào tội phản động và bắt giam ngày 13 tháng 4 năm 1976, cùng xà lim với bác sĩ Phan Huy Quát (Thủ tướng của nội các cụ Phan Khắc Sửu)? Ít nhất cũng 3 tội, đó là làm thơ thời sự châm biếm chế độ, không nể nang tình bạn và dạy khôn cho kẻ đang thắng thế. 

.   Bài thơ thời sự Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ tiên sinh trong "Mùa xuân đầu tiên" gồm 8 câu 7 chữ đã tuyên chiến với cả chế độ.
Ngoài ra theo tin hành lang, hai câu vè vang tiếng một thời được mọi người ưa chuộng, thuộc nằm lòng, cũng của Vũ Hoàng Chương:
Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu Công Lý. 

Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do.

.   Về tội không nể nang tình bạn thì Huy Cận cũng đành chịu thôi! Làm sao có thể lung lạc được một người có khí phách, không a dua theo thời cuộc như Vũ Hoàng Chương. 

.   Dạy khôn cho kẻ thắng thế, đây mới là tội lớn đưa đến cái chết cho tiên sinh gầy gò ốm yếu chỉ biết làm thơ. Và cầm phấn đứng trên bục giảng của trường Chu Văn An với môn Việt văn. 

Câu chuyện bắt đầu từ một đêm "Họp mặt văn nghệ" do ký giả nằm vùng Thanh Nghị tổ chức và tiếp đón vào tháng 4 năm 1976. Mục đích của cuộc họp mặt là đánh giá văn hóa hai miền rồi thống nhất về một mối (một sự hoang tưởng vô bờ bến!). 

Đề tài đưa ra là bình thơ của Tố Hữu, bài thơ Tố Hữu khóc Stalin chết năm 1953:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng. 
Thương mình thương một, thương Ông thương mười. 

Chuyện Tố Hữu thương ai nhiều ai ít cũng chẳng chết thằng Tây hay con mẹ Đầm nào cả. Nhưng hai câu sau đây đã làm Vũ tiên sinh lộn tiết:

Yêu biết mấy nghe con tập nói. 
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin.

Khi bị ép buộc lên phát biểu, thi sĩ họ Vũ đã từ tốn chê thơ Tố Hữu một cách thẳng thắn và dạy cho họ cách làm thơ. Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ Việt Nam, yêu cụ Stalin thay cho mình, đó là kỹ thuật của thi ca? Phải hỏi có cùng tâm cảnh không? Chắc không? 

Việc bẻ cong ngòi bút, đi thương vay khóc mướn nịnh bợ Stalin, một đồ tể quốc tế, đã sát hại từ 15 đến 20 triệu người dân vô tội trong các trại tập trung ở Sibérie, làm sao bắt Vũ tiên sinh hùa theo ca tụng được. 

Việc làm đồng chí Tố Hữu mất mặt trước đám đông, Vũ tiên sinh phải trả một giá khá đắt. Ngay ngày hôm sau đã được công an mời lên làm việc và tống ngay vào xà lim khám lớn Chí Hòa. Chỉ một thời gian ngắn, thân xác ốm yếu của Vũ tiên sinh đã rệu rã, sắp trở về với cát bụi. Họ mới áp dụng chính sách khoan hồng trả về cho vợ con lo hậu sự. Tiên sinh qua đời ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Khánh Hội, trong ngôi nhà của thi sĩ Đinh Hùng, em vợ của ông thương tình cho ở đậu. 

Hôm nay ngày 13 tháng 4 năm 2021, đúng 45 năm ngày tập đoàn thơ đỏ đã tống giam Ông vào khám lớn rồi bức tử. Xin thành kính đốt nén hương lòng bằng "Lửa Từ Bi" của Vũ Hoàng Chương:

Lửa, lửa cháy ngất tòa sen. 
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc.
Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi.
Chỗ người ngồi: một thiên thu tuyệt tác. 
Trong vô hình sáng chói nét từ bi.
...
Còn mãi chứ, còn trái tim Bồ Tát. 
Dội hào quang xuống chốn A Tỳ. 
Ôi! Ngọn lửa huyền vi...

Hoa Lan.
13 tháng 4 năm 2021.

Nguồn tài liệu:
https://www.chuvananbc.com/tai-sao-vu-ho...ong-bi-bat
. http://vi.wikipedia.org/wiki/Vu_Hoang_Chuong
. http://www.vccottawa.com/haivisaobang

[Image: vu-hoang-chuong.jpg]
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#32
Bài viết của ông chú bên Úc. 

...

Viết cho tháng tư đen ...

Tháng tư đen, ngày cả miền Nam sụp đổ rơi vào tay CS Bắc Việt, tôi xin ghi lại một bài viết gần 6 năm trước. Thứ nhất để tưởng nhớ lại những ngày tôi lang thang ở Seoul, được gặp những nhà lãnh đạo cao nhất của miền Nam. Thứ hai, dạo này nhiều bạn mới kết bạn, tôi sẽ mạn phép giới thiệu những bài viết đã viết vào những ngày tháng đầu tiên ở Facebook ! Câu chuyện tôi sẽ giữ nguyên không thay đổi, dù bây giờ cách nhìn của tôi ít nhiều có sự khác biệt ngày trước....
-------------------------------------
"Mình làm vậy không được đâu" (Tổng Thống Thiệu)
Sứ quán của VNCH tọa lạc trong một Building trong khu phố sầm uất Myeongdong, ở tầng thứ 11. Hán Thành những năm 60 nghèo xơ xác, người dân thất nghiệp rất đông.
Mỗi lần đến thăm sứ quán, tôi lại thấy hàng người xếp hàng từ tầng thứ 11 xuống đến từng 1, để làm thủ tục xin qua VN . Người nào được cấp giấy qua VN làm việc thì mừng như được trúng số.
Những năm tháng tôi ở đó thường xuyên chứng kiến những cuộc biểu tình đẫm máu. Ngay trong khung viên Đại Học Yonsei nơi tôi học, gần như tuần nào cũng có biểu tình. Nguyện vọng của những người biểu tình, đa số là sinh viên, là họ đòi hỏi Nam Hàn phải thống nhất với Bắc Hàn theo kiểu ... Bắc Hàn (!). Hình của "bác" Kim Nhật Thành, bác Mao và những khẩu hiệu ca ngợi thiên đường XHCN được họ mang đi khắp đường phố.
Nhưng giới lãnh đạo Nam Hàn, đa số là tướng lãnh, lúc bấy giờ rất quyết liệt, họ dẹp biểu tình thẳng tay. Họ bắn đạn cao su, khi thấy không ngăn chặn được thì họ bắn bằng đạn thật. Ngày nào cũng đổ máu, ngày nào cũng có người biểu tình bị bắn chết. Mini Thiên An Môn xảy ra khắp nơi ở Hán Thành
Cỡ như Huỳnh Tấn Mẫm, Ngô Bá Thành, Lê Hiếu Đằng etc... bảo đảm nếu sống ở Đại Hàn, thì đã phải nằm trong nhà xác từ lâu rồi..
---------------------
Tư dinh của Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu, đại sứ VNCH, ở Hán Thành nằm trên một ngọn đồi, trong khu ngoại giao được canh phòng nghiêm nhặt. Hôm đó là ngày nhân viên sứ quán và gia đình tụ họp, ăn bữa tiệc tiễn Tổng Thống Thiệu về nước.
Ông Thiệu ngồi hàn huyên với ông Chiểu, bác Nguyễn Trọng Phu, anh Nguyễn Quang Mông, những tùy viên cao cấp của Sứ Quán. Các người khác thì to nhỏ hàn huyên trao đổi về cuộc sống lạnh lẽo ở Hán Thành. Tôi thì ngồi bệt xuống đất chơi với mấy em, con cháu của nhân viên sứ quán.
Cả phòng khách tự nhiên yên lặng khi TV chiếu về biểu tình chiều nay, quân đội kéo lê những xác chết của sinh viên bị bắn quẳng lên xe. Chúng tôi vừa theo dõi, vừa lắc đầu...
Tướng Chiểu quay lại ông Thiệu, giọng sang sảng ..
- Các anh có thấy họ làm không, các anh ở SG sao mà dễ dàng cho chúng phá hoại như vậy, các anh không đọc những báo cáo chúng tôi gửi về sao ...?
Không khí trong phòng khách như trùng hẳn xuống, tất cả im lặng hướng mắt về ông Thiệu chờ nghe câu trả lời ... Ông Thiệu cuối đầu xuống trầm ngâm rồi thở dài ... "Mình làm vậy không được đâu..."
-----------------------------
Miền Nam sụp đổ, CS biến cả nước thành tài sản cho chúng vơ vét. Năm mươi năm sau, ngồi viết những dòng chữ này mà tôi vẫn không hiểu rõ lý do gì mà "mình làm vậy không được đâu ..."..
Vì biểu tình phản chiến đang xảy ra khắp nơi, vì sợ Mỹ cúp viện trợ, vì nhân đạo hay vì nhu nhược ..

Tôi vẫn lẩn quẩn đi tìm câu trả lời ..

Lâm Mạnh Di

[Image: 174020215-3930778000349836-7195827616202958353-n.jpg]
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#33
THÁNG TƯ NGÀY ĐÓ
Nguyễn Thị Thêm
 
Tháng ba 1975 Đà Nẵng trong cơn sốt chiến tranh. Ngôi trường tôi dạy tạm thời cho học sinh nghỉ học. Người dân tị nạn từ các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị chạy vào lũ lượt. Trường mở cửa để làm trại tiếp cư. Các giáo viên phải có mặt để giúp đở dân chúng. 

Nhà tôi ở đối diện với trường học. Đó là lý do tôi nhất định xin về dạy tại đây để tiện việc đi về. Mặc dù bên Ty Giáo Dục Đà Nẵng đã bố trí tôi dạy tại trung tâm thành phố. 

Con nhỏ tên Khanh dạy chung trường với tôi đã khuyên tôi từ tháng trước:

- Em nói với riêng chị, Đà Nẵng sẽ mất về phía bên kia. Chị nên rút hết tiền nhà băng ra và tìm cách cho anh ở nhà đừng về đơn vị. Quân Giải phóng sắp về. 

 Tôi nhìn Khanh bằng đôi mắt nghi ngờ. Đã từng ở vùng xôi đậu, tôi hiểu hai bộ mặt của một con người. Tôi nói:

- Em làm việc cho phía bên kia hả?

 Nó cười:

-Em mà làm gì. Em nghe người ta nói! 

 Thế là Khanh rút tiền ngân hàng, dẫn nhóm tôi đi Chợ Cồn ăn uống một bữa thịnh soạn. Em mua tặng cho mỗi đứa một xấp vải áo dài hoa đồng màu và lơi dần không đi dạy. Chúng tôi phải thay phiên nhau đứng lớp dùm. Khi đoàn người tị nạn về trường, Khanh chỉ có mặt vài lần để xem tình hình. Lần cuối em nhắc tôi lần nữa: 

- Chị đã làm như lời em dặn chưa? Hãy tin em. Em coi chị như chị ruột nên mới dám nói. Chị xem em nè. 

Nói xong Khanh xòe hai bàn tay đã cắt móng sạch sẽ không sơn màu mè đỏ rực như lúc trước. Nó ôm tôi thật chặt. Cho địa chỉ nhà dặn khi nào cần thì tìm nó. Xong nó biến mất không tới trường. 

Tôi lúc đó chạy qua chạy về phụ sắp xếp và giúp đỡ cho bà con trong nỗi lo sợ. Thế nhưng tôi nói ra thì mẹ chồng không tin, còn chồng thì ở mãi đơn vị với bao nhiêu tin xấu từ hậu cứ đưa về.

Đêm đêm pháo dội về ầm ĩ, vì nhà tôi gần phi trường Phước Tường. Đêm nào tôi cũng ôm con chạy xuống hầm trú ẩn. Tôi cũng như mọi người dân ở đây sống hồi hộp vô cùng.

Radio loan tin quân ta đã tháo chạy nhiều nơi và Đà Nẵng trong cơn dầu sôi lửa bỏng. Thiên hạ đua nhau tháo chạy về hướng bến tàu, nhà cửa bỏ trống, mọi người không màng làm ăn, chỉ nghe ngóng và bàn tính đi hay ở lại. Chợ thưa dần, dường những tên nằm vùng đã chính thức lộ mặt. Chồng tôi vẫn còn ở bộ chỉ huy trung đoàn. Mọi tin tức về anh mù mịt, không biết dọ hỏi nơi nào. Ai chạy mặc ai, chúng tôi chỉ ngồi nhà chờ tin anh trong sự hồi hộp và hoang mang.

Ngày tiếp ngày, Đà Nẵng vẫn hổn loạn, bọn hôi của nhào vào những nhà chạy loạn lấy đồ. Những chiếc xe đạp, xe Honda, xe ba gác xuôi ngược với đủ thứ đồ dùng gia đình trên đó.  Đà Nẵng bắt đầu xuất hiện những người mang trên tay những băng đỏ. Họ nghênh ngang đi khắp mọi nơi, mặt đằng đằng sát khí.  Những tin xấu trên radio vẫn liên tục đưa về. Chồng tôi vẫn bặt tăm. Chết sống ra sao không rõ. 

Nhà tôi cũng là một trại tạm cư, ba gia đình bà con bên chồng từ Quảng Trị vào lánh nạn.  Mụ Xếp đến ở nhà tôi với cô con gái thật đẹp tuổi đang độ 17, 18. Đây là gia đình có người đi tập kết. Họ vui ra mặt khi cuộc chiến mỗi lúc nghiêng về phía bên kia. Gia đình anh Bi với hai vợ chồng và 5 đứa con nhỏ. Gia đình chú Đen, 2 vợ chồng với đứa con trai. Mẹ chồng tôi đã mua gạo thật nhiều gạo và thức ăn khô dự trữ để phòng khi hữu sự. Bây giờ là lúc phải dùng để phục vụ cho  hơn 10 người đến ở mà không biết khi nào cuộc chiến chấm dứt.

Gia đình mụ Xếp bán vải nên đồ đạc mụ đem tị nạn chất chật căn phòng bên hông nhà. Vợ chồng anh Bi sáng sớm là bỏ đi ra ngoài. Tôi không biết anh chị đi đâu, bầy cháu tôi phải lo cho ăn uống và chăm sóc. Mỗi lần về đến nhà là đem rất nhiều đồ đạc. Anh chị bỏ vào trong phòng khách dành riêng cho anh chị. Tôi đoán anh chị đi hôi của những tiệm mà chủ đã bỏ đi ra bến tàu, nhưng không dám hỏi. 

Tôi bận bịu với trường, con và 5 đứa cháu. Nấu nướng, cơm nước liền tay. Mẹ chồng tôi hết đi ra rồi đi vô, thở dài lo lắng. Có lúc bà và Mụ Xếp dẫn nhau đi dò tình hình cả buổi trời. Về nhà bà ngồi khóc vì không biết con trai mình sẽ ra sao.

Cuối cùng, trong cơn hổn loạn đó, chồng tôi đã về với một toán lính mặt mày  xơ xác, đầy mỏi mệt và sợ hãi. Họ mặc quân phục, súng ống đầy đủ vì từ căn cứ về. Nghe kể, chồng tôi ở trung tâm hành quân và nhận lệnh bỏ ngõ, nhưng không liên lạc được với Đại đội cũ của mình. Lo cho lính tráng anh đích thân lên tận nơi đóng quân của Đại đội  để kéo họ về. Lịnh trên tuyên bố bỏ Đà Nẵng, ở lại chiến đấu chỉ có con đường chết. Cho nên anh cùng một số lính về đây. Một số tan hàng đã trà trộn với dân chúng tìm về gia đình.

Tôi lo làm cơm nấu thức ăn cho một đại gia đình tối tăm mặt mũi. Ăn cơm xong, chồng tôi quyết định cùng anh em ra bến tàu chạy về Sài gòn.

Có người về báo tin ở bến tàu rất hổn loạn, lính và dân tràn về không thể chen chân. Mọi người tranh nhau tìm một chỗ để thoát khỏi Đà Nẵng.  Nghe nói có nổ súng và có người chết.

Má chồng tôi lưỡng lự không muốn chạy vì còn phần mộ tổ tiên ở quê. Thương con bà đành chìu chúng tôi, miễn cưỡng đi theo. Mấy gia đình tạm cư nhà tôi họ ở lại chờ tình hình. Gia đình tôi nói lời từ biệt và gửi nhà lại cho họ trông chừng dùm. Những người lính đi thành một vòng cung bảo vệ đưa gia đình ông thầy ra bến tàu. Đi được một quảng đường, hòa mình vào dòng người di tản đông đúc, hỗn tạp, má chồng tôi không đi tiếp. Dừng ngay giữa đường, bà nói: 

- Thôi! Vợ chồng mi đi đi. Mạ không đi nữa, mạ về có chết ở cươi mạ cũng chịu. Nếu còn sống thì mạ về quê lo phần mộ tổ tiên ông bà. 

Là con một, mẹ anh ấy đã ở vậy nuôi con từ lúc chồng mất thật sớm, chồng tôi không thể làm đứa con bất hiếu. Anh quyết định ở lại cùng mẹ. Từ giã đồng đội,  chồng tôi dẫn mẹ và vợ con rẽ đoàn người để  ngược lại về nhà. Đó là ngày 28/3/1975.

Về nhà được một chút, mừng vì nhà không bị người ngoài vào hôi của. Chưa biết phải làm gì trong tình thế hổn loạn, thì xe chở người bên kia, cờ xí rợp trời, reo la inh ỏi chạy ngang đường lộ. Đà Nẵng đã thật sự thất thủ.

Tới tối, những người lính lục đục trở về nhà tôi trong sự sợ hãi, mọi việc đã kết thúc. Tôi lôi đồ dân sự của chồng phân phát cho họ. Mấy anh em quăng  quân trang, súng, đạn xuống  cái hố kế ao rau muống sau nhà. Cuộc đời binh nghiệp chấm dứt hôm nay. 

Chồng tôi cố thủ trong nhà để chăm mấy đứa cháu và con. Tôi đi chợ nấu ăn tất bật cả ngày. Những người lính cũng chỉ biết ngồi nhà nghe radio, thỉnh thoảng ra ngoài nghe ngóng. Không khí trong nhà trầm lại, nặng nề. Dường như có một bàn tay vô hình siết chặc cổ. Đau đớn, ngộp thở không thể vẫy vùng. Những người cùng quê ra khỏi nhà mỗi ngày, chôm đồ cũng có, tìm bà con cũng có. Họ dọ dẫm tìm phương tiện về lại Quảng Trị.

Cuối tháng ba, đầu tháng tư  những người bà con bên chồng tôi từng đi tập kết đã có mặt ở Đà Nẵng. Họ tìm cách liên lạc và nhắn tin khuyên má chồng tôi về quê.  Những người tạm cư nhà tôi lần lượt rời nhà tôi để về quê. Khi đi họ ít đồ. Khi về nhiều hơn. Chỉ có nhà tôi gạo cũng lưng, thức ăn cũng hết và tiền bạc cũng không còn là bao. Bây giờ đã đến lúc mạnh ai nấy bơi. 

Tôi thuyên chuyển về đây dạy học, lương truy lãnh đầu tháng tư sẽ nhận coi như mất trắng. Mẹ con tôi dành dụm mới mua cái nhà này. Bà chủ nhà bán gấp để theo Cha Đạo vào Nam. Mọi sự việc xảy ra bất ngờ ngoài sức tưởng tượng. Tuy nhiên chồng tôi còn sống và về nhà kịp thời là sự may mắn nhất hiện giờ. 

Những người lính quê miền Trung chia tay chúng tôi về lại gia đình. Những người quê miền Nam không biết đi đâu, vẫn ở lại nhà tôi chờ đợi tình hình. Họ là những người bạn, người em chân thành dễ mến. Họ cũng như tôi đang hướng về Sài Gòn với tất cả thương yêu và lo lắng.

Má chồng tôi quyết định đem gia đình về lại quê nhà để ổn định đời sống. Nhất là để gặp lại người em trai út đã tập kết ra Bắc bao nhiêu năm không gặp.Tôi tìm Khanh, nhỏ bạn dạy chung. Đến nhà mới phát hiện nhà Khanh là căn cứ  nằm vùng. Ba em ấy là thành ủy và  gia đình thuộc thành phần  cốt cán của chính quyền mới. 

Khanh khuyên tôi đừng về Quảng Trị, hãy ở lại Đà Nẵng vì ở thành phố chính sách cho "lính ngụy" sẽ khác hơn. Tôi không thể cưỡng lại quyết định của mẹ chồng và chồng nên đành phải ra đi. Khanh dẫn tôi đến Ty Giáo Dục Đà Nẵng. Giữa cơn hỗn loạn, giấy tờ văn thư tung tóe khắp nơi, mà em vẫn tìm ra người tiếp quản . Em xin cho tôi được giấy thuyên chuyển từ ty giáo dục Đà Nẵng về Quảng Trị. Đưa giấy tờ cho tôi. Khanh dặn:

- Em khó khăn lắm mới có được giấy này. Chị phải giữ kỹ, không thể xin cái thứ hai. Vì khi ổn định, thành phần cán bộ cốt cán sẽ thay đổi . Chị nhớ chỉ trao cho Ty Giáo Dục Quảng Trị, không đưa cho bất cứ ai ở cấp Xã, Huyện. Chị phải đi dạy vì chị là một nhà giáo giỏi, có chuyên môn. 

Khanh ôm tôi lưu luyến và từ biệt. Còn tôi trong vòng tay ấm áp đó tôi chợt rùng mình. Thì ra lâu nay bên cạnh mình là người của phía bên kia. Thật đáng sợ. Kể từ hôm đó, tôi không hề biết tông tích hay liên lạc với Khanh cho đến bây giờ. Cám ơn Khanh đã hết lòng giúp đở. 

Đúng như Khanh đã nói, tiền gửi ngân hàng của gia đình tôi không lấy được một đồng. Nhưng với tính cả tin, mẹ chồng tôi vẫn nuôi hy vọng chính phủ mới sẽ trả lại cho mình, vì mình gửi ngân hàng nhà nước. Mình là dân, nhà nước nào, chính phủ nào cũng đối xử với dân như nhau mà thôi.

Căn nhà của tôi đã được tháo gỡ, đồ đạc chất một đống trước sân. Che vài tấm tôn làm chỗ ngủ ban đêm và trưa nắng. Tôi như người mộng du làm việc liền tay mà đầu óc không tỉnh táo. Tôi sẽ về đâu, quê chồng tôi sẽ đến như thế nào?. Gia đình anh em tôi loạn lạc này sống hay chết? hai giới tuyến khác nhau biết bao giờ tôi mới gặp lại mẹ cha. Tôi có còn tiếp tục đi dạy được không? Cuộc sống mới sẽ ra sao?Mẹ chồng tôi mừng vui ra mặt. Bà chỉ có một thằng con trai. Bây giờ im tiếng súng không còn chiến tranh. Hòa bình về rồi, quê hương là vòng tay ấm áp ôm những người xa xứ về lại gần gũi bên mồ mã tổ tiên. Bà sẽ về quê, sum họp với bà con làng nước, sửa sang lại nhà từ đường, vun quén lại mãnh đất bà từng sinh ra và lớn lên. Bà sẽ không còn lo sợ cho con trước làn tên mũi đạn. 

Những người bên kia tìm cách liên lạc về:

- Mụ trở về làng mền đi. Không răng mô. Chi chứ việc của hắn có bầy choa lo, vợ hắn đi dạy tại làng. Mụ chừ yên tâm khỏi lo chi súng đạn. Đảng sáng suốt lắm. Mụ sợ chi. Chú chồng tôi từ quê cũng nhắn vào: 

- Mụ về làng đi. Tui cho một sào lúa sắp chín ngoài đồng. Mụ về gặt mà ăn, lo chi đói với khổ. Khi mô mụ lo cho chúng tui, bi chừ tới lúc bầy choa lo cho mụ. 

Ôi! những tin thật tốt, những tấm lòng mở ra như như hoa như gấm. Xóa đi bao nhiêu lời khuyên chân tình của tôi. Tôi khuyên gia đình chồng tôi khoan về quê, cứ ở lại đây chờ tình hình. Người ta sao mình vậy. Xem sao đã rồi hãy tính. Nhưng tiếng nói của tôi rơi vào vô vọng, khi mẹ chồng tôi buông một câu như đinh đóng cột với sự đồng tình của chồng tôi:

 - Mi muốn ở lại thì ở. Tao và hắn sẽ đem con bé về quê. Mi mần răng thì cứ làm. 

 Tôi ở lại ư? Nhà đâu mà ở, tứ cố vô thân biết sống với ai. Còn con tôi, núm ruột yêu thương tôi không thể xa cách. Tôi ngậm ngùi buông xuôi số phận. 

 Mẹ chồng tôi cả tin nên không mua gạo đem về quê. Gạo nhà dự trữ đã  gần hết, Má chồng tôi chỉ cần gạo đổ vào các thùng đạn để chén, dĩa kiểu cho khỏi bể mà thôi. Khi tôi nói bà mua vài bao gạo đem về quê, bà lắc đầu cười rạng rỡ:

- Về làng mình ăn gạo mới con hè! Chi chớ lúa mới gặt về, chà ra, nấu cơm ăn với ruốc và rau luộc thì ngon chi lạ. Ai lại chở củi về rừng. 

 Bà thuê một chiếc xe tải chở nhà và gia đình về quê với giá hơn một cây vàng. Bà không tiếc nuối vì nghe lời cách mạng.

 Một người lính miền Nam là đệ tử ruột của chồng tôi, theo chuyến xe tải má chồng tôi mướn, cùng chuyển đồ đạc gia đình tôi về quê. Em ở lại phụ dựng nhà xong mới từ giã tìm đường về với gia đình. Chúng tôi sau này ở trong Nam cũng cố gắng đi tìm nhưng không gặp lại. Chúng tôi đã biệt tin em tới bây giờ. 

 Đây là lần đầu tiên tôi biết đến quê chồng. Một miếng đất từ đường nho nhỏ, căn nhà gạch bị hư nhiều, bây giờ được làm nhà bếp. Nhà từ Đà Nẵng đem về được dựng lại làm nhà trên. Gia đình bên chồng tôi đa phần làm nghề mộc nên anh em mỗi người góp một tay chỉ mấy ngày là xong. Chúng tôi tạm thời ổn định chỗ ở. 

Con sông Ô Lâu rất gần nhà. Nước trong veo, cá lội nhìn thấy rõ ràng. Tắm giặt lấy nước uống, nước xài gì cũng ở đó. Tôi ra bến loay hoay không biết làm sao lấy nước. Không biết làm sao tắm. Mỗi chiều vợ chồng tôi tập gánh nước. Tôi tập gánh mỗi đầu 1/4 thùng nước rồi tăng dần dần. Vai sưng to đau nhức. Đã vậy tôi không dám tắm sông. Cứ khệ nệ gánh nước về nhà để tắm. Có lần chồng tôi xô tôi đại xuống sông rồi nói: "Tắm là vậy đó. Có gì khó đâu" Thế nhưng tắm sông đối với tôi cũng kỳ kỳ vì tôi không quen. 

Nhà quê cho nên chỉ xài đèn dầu và cũng không có bếp gas. Về đây đầu tiên là phải kiếm cái gì để chụm lửa nấu cơm. Mấy mẹ con đi ra chợ quét lá cây bàng về thổi. Quơ nè tre gai đâm tay chảy máu. Con bé lớn đi qua nhà máy xay lúa xin trấu về chụm.Vợ chồng tôi xin ông chú gốc rạ ngoài đồng và cắt gánh về phơi khô chụm lửa. Hai vợ chồng gặp mưa và gió lớn. Tôi ướt mem, gió thổi muốn bay cả người và quang gánh. Chồng tôi lôi tôi vào trường học trú mưa. Anh lau nước mưa trên mặt tôi thương cảm. Đó là cái nhìn âu yếm lần cuối cùng trước khi anh đi tù Cộng Sản.

Vợ chồng tôi trình diện chính quyền địa phương. Ông Bí thư, ông Chủ Tịch đều là người làng. Cả hai nhìn chúng tôi như những con vật bị ghẻ lở. Họ soi mói nhìn tôi, một người phụ nữ ngụy quyền miền Nam có một đứa con lai Mỹ. Dù đứa con gái ấy tôi không sinh ra nhưng tiếp tay nuôi dưỡng tàn dư Đế quốc thì tội còn nặng hơn lỡ có con với Mỹ. Ông Chủ tịch xã giơ hàm răng vàng khè cáu thuốc lào cười vào mặt tôi:

- O có tội. Tội nặng lắm. Phải đi học tập, phải học tập cải tạo thông suốt mới được trả quyền công dân.

Chồng tôi bị Ủy Ban Xã đòi phải đưa ra tất cả huy chương anh đã được. Phải bằng vàng, bằng đồng thực sự. Họ không tin những huy chương đó chỉ là tượng trưng. Giấy tờ chứng minh đưa ra chúng bảo không hợp lệ. Lại một phen cãi vã sôi nổi của chồng tôi và nhóm cán bộ ngu ngốc mới từ miền Bắc vô. Chồng tôi bị ghi sổ bìa đen vì dám chống cự cãi tay đôi với cán bộ. 

Các chú  chồng và cậu chồng tôi phán những câu thật mới mẻ và nhớ đời:

- Mi là đại úy, mi  có tội với Đảng với đồng bào. Tại sao mi ngoan cố cãi chi với cán bộ. Mi đi học tập cải tạo tư tưởng tốt sẽ được chính phủ khoan hồng về sum họp gia đình. Gia đình mi ở nhà có Đảng và nhà nước lo.

Thế là chồng tôi được lệnh gọi, khăn gói đi tù tận miền Bắc thâm sơn nước độc suốt hơn 8 năm trời. Không như miền Nam còn được về nhà rồi mới đi tiếp. Chồng tôi một lần đi và biệt vô âm tín.

Má chồng tôi bán nữ trang để mua gạo ăn ngay tuần đầu tiên dọn về. Bà bị rơi từ thất vọng này đến thất vọng khác. Bà không còn cười sảng khoái như trước. Bà thường khóc tức tưởi và bệnh thật nặng. Trong bà niềm hối hận vì nhẹ dạ cả tin Thương con đi tù không tin tức. Thương dâu ruộng đồng cực khổ. Không có cái ăn, bà phải vất vả buôn bán, nên bà đau yếu triền miên.

Tôi bị trấn lột hết giấy tờ tùy thân kể cả giấy thuyên chuyển đi dạy. Họ tuyên bố mọi việc được quyết định từ cấp xã. Muốn đi lên tỉnh không có chữ ký của xã tôi không thể rời khỏi làng. Họ cho tôi đi học tập chính trị tại Đông Hà 3 tuần. Ở nhờ  nhà dân, mọi sự tự túc. Con bé em ở nhà khát sữa không có mẹ. Làm gì có sữa Similac để bú, sữa hộp mua cũng không có tiền. Bà nội cho uống nước cháo pha đường đỡ đói. Ở đây tôi lên cơn sốt vì sữa căng cứng không biết sao giải quyết. Cuối cùng phải nhờ con người dân bú thép dùm.

Những buổi học chính trị nhàm chán, những bài giảng huấn vô lý và ngang ngược. Nuốt vào lòng bao bất mãn tôi chịu đựng để còn về với con. Một người trong khóa học vô tình hỏi một câu ngô nghê:

 - Xin hỏi cán bộ.  Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đặt thủ đô ở nơi nào trong nước ta?

Thế là hôm sau anh ta khuất bóng. Nghe nói đã được lịnh thuyên chuyển đi học tập nơi khác rồi.

Sau hơn 3 tuần đi học chính trị tại Đông Hà tôi chính thức được gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Ông chủ tịch nói với tôi :

- Giấy tờ đi dạy của O tui giữ. O phải tập lao động chân tay. O lao động tốt thì chồng O sớm về. O ngoan cố, chồng O không được khoan hồng.

Cái mắc xích giữa người ở nhà và tù cải tạo ràng rịt như vậy nên tôi đành chịu nhịn sang sông. Tôi đã biết thế nào là lao động vinh quang. Biết thế nào là xã viên hợp tác xã miền Bắc. Thế nào là người dân dưới chính quyền Cộng Sản. Đây là một miền quê chuyên về trồng lúa. Tất cả ruộng của người dân bị xung vào hợp tác xã nhà nước. Trâu bò cũng vậy. Trong xã chia nhiều đội lao động dưới quyền một ông Đội trưởng, một đội phó và một thư ký đội. Đội tôi là đội 11.

 Tất cả việc làm ngoài đồng đều được làm bằng sức người và sức trâu. Trâu cày, bừa và đạp lúa. Còn lại người xã viên làm mọi việc. Cuốc đất, gieo mạ, cấy lúa, làm cỏ, xịt thuốc, bón phân, cắt, gánh lúa...Tất cả công đoạn, mọi xã viên đều phải được phân công làm. Không vì yếu hay không biết mà miễn trừ. Mọi người đều phải lao động như nhau, hưởng quyền lợi như nhau và xem chừng lẫn nhau.

Tôi đã được phân công chăn trâu ngay từ ngày đầu tiên vào đội.  Tôi về nhà ôm mặt khóc vì sợ. Cả đời tôi không biết ruộng nương. Trâu là con vật tôi sợ nhất với cái sừng to và dài. Vậy mà tôi vẫn phải "Chăn trâu sướng lắm chứ". Tôi cắt cỏ cho trâu ăn bị gai quàu chảy cả máu tay. Không đúng loại cỏ, trâu chê, tôi không có điểm. Tôi cấy lúa hè thu ông xã trưởng đến ngay lối nhổ lên coi, độ sâu không đúng, bị mất điểm hôm đó.Tôi đi đạp nước ruộng sâu, đi bộ đến nơi là gần một ngày trời. Một tuần đạp nước, mỗi lần đạp là hai người, không quen làm, tôi bị bàn đạp đập vào chân bầm tím. Họ cho tôi đạp ít, nấu cơm nhiều. Cuối cùng bị trừ điểm . Tôi cắt lúa không quen cầm vằng tay bị thương chảy máu. Tôi không biết  dùng đòn xốc  đâm bó lúa để gánh đi,phải nhờ người khác giúp bị trừ điểm. Tôi gánh lúa không nổi và về sân đội chậm, bị trừ điểm.

Cuối cùng điểm nào tôi cũng thấp. Nhưng tôi học được nhiều thứ ở đây mà không trường nào dạy. Đó là kiên trì chịu đựng và học hỏi.  Sống ở đây mới biết miền Nam mình quá ư trù phú, sung sướng. Thật lòng, chỉ khi làm một xã viên hợp tác xã mới thấy thương dân miền Bắc và yêu quý vô cùng cuộc sống dưới chính thể VNCH tự do dân chủ.

Tham gia hợp tác xã, mọi xã viên ăn cơm nhà đi lao động. Lúa chỉ được chia khi vụ mùa kết thúc. Sau khi đóng thuế cho Xã, trả nợ phân, lúa giống, thuốc trừ sâu... còn lại mới chia cho xã viên. Lúa được chia theo công điểm lao động cộng lại suốt vụ mùa. Điểm  lao động được bình bầu sau mỗi ngày làm việc. Mà bình điểm lao động mới nhiêu khê.

Sau khi được lệnh nghỉ việc, cả nhóm ngồi lại và mỗi người đứng lên tự nhận xét mình làm hôm nay tốt hay không, đáng bao nhiêu điểm. Mỗi xã viên có ý kiến nhận xét số điểm ấy có xứng đáng hay không. Đồng ý thông qua hết, thư ký mới ghi vào sổ. Bình tới bình lui, tranh nhau, cãi nhau từng điểm một. Hôm nào về nhà cũng tối om. Tôi đi bờ ruộng không quen cứ bị sụp chân lọt xuống ruộng hoài.  Hai chân mốc cời, gót chân nứt nẻ. Lẹt đẹt đi sau, sợ ma muốn khóc.  Ôi còn đâu cái thời điệu đàng mang guốc cao đứng trên bục giảng.

Tôi là dân chưa hề biết ruộng đồng nên công điểm có là bao.  Nhất là cái khoản bình điểm tôi thấy như tập cho con người tranh chấp nhỏ mọn soi mói lẫn nhau. Thật là một việc làm đáng xấu hổ. Coi quyền lợi cá nhân quá lớn không ngại bôi bẩn hay hạ gục người khác. Tôi không bao giờ tự cho điểm mình hay bình điểm xấu cho người khác. Khi tới phiên tôi,  tôi chỉ xin tập thể cho bao nhiêu cũng được. Tôi đến đây để học làm cho nên không biết đáng được bao nhiêu điểm. Do đó cuối mùa lúa tôi chỉ được 100 ký thóc và vài gánh rơm đem về chụm lửa.

Mẹ chồng tôi bán dần nữ trang để mua gạo và thức ăn. Khi lấy lại cân bằng, bà phải thích nghi và bắt đầu buôn bán lại để có đồng ra đồng vô nuôi cả gia đình. Mọi sinh hoạt đều nhờ vào sự bươn chải của bà mẹ già tội nghiệp. Tôi không quen ngôn ngữ và phong tục, không biết buôn bán, lại phải đi lao động hợp tác xã nên thật tội nghiệp mẹ chồng tôi cực khổ nuôi dâu và nuôi cháu.

Một lần cả ba bà cháu đều bệnh. Mẹ chồng tôi đau buồn, sức yếu không ngồi dậy được, toàn thân đau nhức. Tôi đun rơm nấu ba nồi nước. Một nồi nước lá thuốc, một nồi nước chè xanh, một nồi nước trà tươi để bà cần thứ gì thì có. Sáng sớm lo cho mẹ chồng xong, tôi để con bé nằm bên nội, cõng con bé lớn đi trạm xá.

Đoạn đường làng thật xa. Hai chân con như muốn quẹt dưới đất. Những cơn ho làm con bé như muốn ngất đi. Làn da trắng tái lại tội tình. Đến nơi khai bệnh để lấy vài viên xuyên tam liên đem về. Buổi chiều bồng con bé em đi trạm lần nữa cũng để lấy vài viên xuyên tam liên tán ra cho uống. Biết rằng thuốc cũng chẳng trị được gì, nhưng có sự chứng nhận của trạm, tôi mới được phép ở nhà chăm con.

Nhìn căn nhà trống vắng, nhìn ba người nằm rũ trên giường vì bệnh. Tôi muốn chết cho xong. Tôi ra giữa trời khấn tứ phương, tôi xin cho tôi một lối thoát, tôi xin cho mẹ chồng và hai đứa con tôi bình an. Tôi như muốn điên lên vì bao nghịch cảnh. Như một người máy hay một người mất trí, tôi ra vườn hái đủ loại cây cỏ kể cả dây tơ hồng, cỏ vườn chầu, rau má, cỏ gấu, mã đề, rau húng quế, rau sam, dây cứt quạ, dây nhãn lồng... Tôi chặt ra, phơi khô rồi rang thủy thổ. Tôi nấu nước cho cả ba người cùng uống. "Liều mạng". Tôi nhủ thầm.

Thế mà mẹ chồng tôi ngồi dậy được, con bé lớn giảm ho, con bé em bớt sốt, những ban đỏ nổi lên rồi từ từ lặn. Một sự trả lời diệu kỳ từ ơn trên. Tôi cảm thấy mình vững tin hơn về sự sắp đặt an bài từ cõi vô hình. Tôi mạnh dạn đối diện thực tế. Tôi cứng cỏi hẳn lên. Tôi phải gánh vác cùng mẹ chồng lo nuôi con khôn lớn.

Tôi được tin Sài Gòn thất thủ vào một buổi chiều trên đường từ ruộng về nhà. Xa xa đã nghe loa của Xã vang vang báo tin toàn thắng.  Tôi khựng lại để nghe một lần nữa rồi lặng người đi. Vậy là toàn cõi VN đã là của Cộng Sản. Đành chấp nhận như một định mệnh đã an bài. Trong tôi nhen nhúm một niềm vui đoàn tụ song thân. Bên bờ sông Ô Lâu nhìn dòng nước êm đềm trôi tôi lại nghĩ đến Sài gòn trong cơn hổn loạn như Đà Nẵng trước đây. Nhưng tôi thật sự không thể tưởng tượng được sự hỗn loạn đó kinh khủng đến thế nào.

Chồng tôi vẫn biền biệt. Hình như anh đã được chuyển ra Bắc nhưng nơi nào thì chưa có tin về. Tôi ôm con vào trong lòng. Con bé ốm yếu xanh xao tội nghiệp. Mọi thứ đã chấm dứt hôm nay. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ được trở lại nghề dạy học. Tôi biết con đường phía trước sẽ đầy dẫy chông gai và tủi nhục. Tôi hoàn toàn không biết tin tức chính xác về Sài gòn. Chỉ biết tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng và toàn cõi VN đã rơi vào tay Cộng Sản.

Con bé lớn tôi đi học. Tờ giấy khai sinh kèm theo hồ sơ đóng một cái mộc đỏ "Con ngụy quân, ngụy quyền" làm tôi chới với. Làm sao thoát khỏi mấy chữ đỏ này trong suốt cuộc đời con tôi. Con bé em lớn dần và bập bẹ nói. Mỗi khi đi ngang cỗng chào của xóm có hình ông Hồ và tấm bảng "Độc lập, tự do, hạnh phúc" Cháu giơ tay lên "Muôn năm, muôn năm". Trời ơi! những câu hô hào khẩu hiệu hàng ngày trên cái loa trước trụ sở Ủy Ban đã dạy con tôi hai chữ này. Mọi thứ nhồi nhét vào đầu óc trẻ thơ cho tôi thấy sự khác biệt của nền giáo dục tôi từng học và dạy  khác với bây giờ như thế nào.

Con bé chị đi học về hỏi tôi;

- Mạ có biết răng mà mền được như ri không? Tôi trả lời con là Không biết. Con bé hí hửng trả lời:

-Rứa là nhờ Bác Hồ Chí Minh hy sinh cứu nát. Khôn có Bác mền chết đói. Cô con dạy như rứa. Mền phải nhớ ơn Bác Hồ Chí Minh". 

Học tập và giáo dục chính trị dường như tổ chức thường xuyên cho mọi người dân trong làng xã. Buổi tối đi làm về chưa kịp ăn cơm đã nghe kẻng đội vang lên báo tin lên Ủy Ban học tập.  Có khi về trễ không kịp tắm rửa thay đồ, nghe kẻng đội đánh là phải đi ngay. Mọi người tay cầm con cúi (là rơm bện thật chặc dùng để đốt lên làm đuốc đi đêm) để đi họp. Trên chiếc bàn con, đèn dầu leo lét, cán bộ miền Bắc quần chẻn áo ngắn nói như vẹt. Vừa dai, vừa dài vừa vô lý kéo dài trong cái ngáp mệt mõi và ngủ gật của bà con xã viên.

Tan buổi họp, từng đoàn người như những bóng ma với đóm lửa lập lòe đi vào từng xóm. Những hàng tre  trúc thấp thoáng ánh lửa như âm hồn phảng phất trở về.

Tháng tư năm 1975, người con gái Biên Hòa hoàn toàn đổi đời để sống cho chồng và cho con. Tôi quên mình là ai và hòa nhập với đời sống một xã viên hợp tác xã. Dần dần giọng tôi cứng lại. Tôi nói chuyện bằng âm hưởng của người Quảng Trị nặng và trầm. Tôi dùng những từ địa phương mà người miền Nam không thể nào hiểu được. Thí dụ như "Lấy chỗi quét sân", tôi sẽ nói "Lấy chủi suốt trươi." "Vợ chồng" sẽ dùng chữ "Cáy Dôn", "Uống nước" là "Uống nát", "Cắt gốc rạ" gọi là Bứt Tót"...Mặt tôi sạm đen, chân mốc cời nứt nẻ. Bàn tay ô dề chai cứng, lưng bàn tay chằng chịt những đường gân nổi lên xấu xí. Chiếc vòng cẩm thạch lên nước xanh tuyền ngày xưa, đã bị vùi xuống bùn đen làm chết ngọc. Tôi muốn cỡi ra cất đi nhưng bàn tay đã quá to không cách nào lấy ra được.

Tôi đã có thể chăn trâu, ra lịnh cho trâu đi hay đứng lại. Biết cỏ nào trâu ăn, cỏ nào trâu chê. Việc làm ruộng tôi cũng quen dần. Tôi đã không còn sợ đỉa. Quen dần những câu nói chơi, nói lóng tục tỉu của những người nông dân khi xuống đồng hay gặt lúa. Tôi đã biết cười mỉm khi nghe những bài lên lớp thần thoại Liên Sô vĩ đại hay sự trù dập của những người cầm quyền. Tôi không giận khi họ lấy tôi làm đề tài để chế nhạo vợ sĩ quan ngụy mất nết, hám danh. Tôi không nhục khi họ nói tôi là Me Mỹ có con lai, bám chân đế quốc.

Sống ở nơi này, tôi đã hứng chịu nhiều bi ai nhất trong cuộc đời. Nhưng cũng nơi này cho tôi một tình cảm thiêng liêng ràng buộc nghĩa tình. Cho tôi tập làm người đúng nghĩa, biết tiết kiệm và lo xa. Biết trân quý hạt gạo, củ khoai, chén ruốc. Biết sự nhọc nhằn của những người nông dân tay lấm chân bùn.

Hơn nữa, ở đây tôi đã biết thế nào là bão lụt. Con nước từ dưới sông cứ dâng lên theo cơn mưa không lớn lắm nhưng rất nhiều gió và lạnh. Chỉ vài giờ đồng hồ thôi là xung quanh nước ngập mênh mông. Ngồi trong nhà có thể vớt củi trôi về. Những bụi chuối ngoài vườn chỉ còn thấy những chiếc lá lay động như bàn tay con nguời giơ lên vẫy để cầu cứu. Người dân ở đây nghe gió là đoán biết con nước sắp về, lụt sẽ tới. Họ chặt sẵn chuối làm bè và đó là phương tiện duy nhất để đi từ nhà này sang nhà khác.

Lụt có thể kéo dài vài ngày, nhưng cái lạnh thì cả mấy tháng. Đó là lý do mà ruốc và thuốc lá rất mắc mỏ và cần thiết. Nhà nào cũng phơi khô khoai, sắn, ớt, trữ mắm ruốc để dành  ăn.  Cái lạnh  miền Trung mới đáng sợ. Lạnh đến cá cũng nhảy lên bờ để chết. Tay tôi cấy lúa mà trơ ra không nắm được. Hai chân đứng dưới ruộng quíu lại không thể bước. Tôi té nhiều lần, quần áo lấm đầy bùn nhưng phải đứng lên tiến tới cùng bạn cấy. Nếu không đỉa sẽ gom về tấn công và sẽ bị phê bình kiểm thảo. Mọi người ai cũng ăn trầu và hút thuốc. Riêng tôi chỉ nhai gừng để giữ ấm. Thức ăn đem theo họ kho ớt đỏ lòm, lại còn cắn ớt trái. Riêng tôi chỉ chút muối mè nên lạnh càng thêm lạnh.

Vâng, tháng tư năm 1975 riêng tôi là như vậy. Tôi từng nói đùa với chồng

Anh đi cải tạo miền xa.
Em cũng cải tạo ở nhà khác chi
Giữ trâu, cấy lúa khó gì
Làm thân vợ ngụy kiên trì vượt qua.

Sau 30 tháng 4/ 1975 Biết bao oan khiên đã xảy ra cho dân tộc VN. Bao nhiêu xác người bỏ thây trên biển đông vì hai chữ tự do, bao nhiêu mạng tù nhân CS chết ức oan trên núi rừng Việt Bắc, bao nhiêu người con gái đã bị làm nhục vì hải tặc Thái Lan. Những vết hằn chiến tranh thành sẹo, thành hậu chấn theo mỗi mùa tháng tư lại về. Những khúc phim cũ được quay lại ngay chính từ mỗi con người để khắc khoải không nguôi. 

Tôi đang ở đây, một nước Mỹ xa lạ trở thành quê hương. Những người láng giềng nhiều chủng tộc khác nhau. Hai thằng con trai tôi sinh sau ngày chồng ra tù, bây giờ đang là những người quân nhân trong quân đội Hoa Kỳ. Màu cờ con tôi phục vụ không phải là màu cờ của Tổ Quốc VN. 

Các cháu tôi đã được sinh ra và lớn lên với quốc tịch Mỹ, nói tiếng Mỹ và sống theo người Mỹ. Con bé 5 tháng tuổi trong ngày 30/4/75 bây giờ là một phụ nữ trung niên công ăn việc làm ổn định. Chồng tôi do hậu chấn tù đày nên thân xác và tâm thần sa sút nặng nề. Những ám ảnh những ngày tù tội đè nặng quá khứ  anh vô phương vùng vẫy. Tôi sống trong sự tuyệt vọng về bệnh tình của chồng, dù đây là một nước văn minh có điều kiện về y tế tiên tiến nhất trên thế giới.

Tôi  cám ơn đất nước đã cưu mang gia đình tôi để chúng tôi có cuộc sống tự do. Các con và cháu tôi đến trường mà không bị cái lý lịch ngụy cản bước tương lai. Tôi đã có quá nhiều thứ trong cuộc sống nhờ bàn tay giúp đỡ của những người không hề quen biết. Ông Trời đã xếp đặt cho những kẻ thua cuộc lại có thể đứng thẳng lên hảnh diện vì lý tưởng của mình. Những chiếc áo lính, những cái nón, những bản nhạc... Tất cả những gì của Mỹ Ngụy bây giờ lại là những món đồ giá trị được yêu thích và đáng trân trọng. 

Những người con Ngụy thế hệ thứ hai đã làm rạng danh cha ông tham gia vào dòng chính của quốc gia tạm dung. Các cháu đang  và sẽ là những con người tài năng, giỏi giang đóng góp tài sức và trí tuệ cho đất nước cưu mang mình. Con tôi hãnh diện vì lý tưởng Quốc Gia của cha mình và dù lá cờ vàng không được tung bay tại quê hương VN nhưng nó lồng lộng rực rỡ mọi nơi trên thế giới. 

Xin cám ơn những người đã tranh đấu cho người lính được đến Mỹ theo diện HO. Cám ơn những người đã dũng cảm đứng lên cất cao tiếng nói tự do của người Việt Nam. Cám ơn  anh, cám ơn chị, cám ơn mọi người đã cho chúng tôi đến đây để sống một cách lương thiện và đầy tình người. 

Tháng 4 /2019 tôi viết lại bài này để nhớ một thời xã viên của mình. 

Người chồng của tôi đã khuất núi. Anh đã về với tổ tiên và anh em đồng đội. Anh đã không còn đau đớn và khổ sở vì hậu chấn của chiến tranh và tù đày. 

Tôi không còn trẻ để buồn vui quá khứ. Mọi sự việc trong tôi bây giờ là hãy quên những gì quên được. Sống vui vẻ từng ngày cho con cháu vui theo. 

Quê hương Việt Nam vẫn mãi mãi nằm trong trái tim tôi. 

Nguyễn thị Thêm

[Image: 3298803-F-CBFE-4-DEC-B00-D-40-D8-D870-FDC0.jpg]
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#34
Tôi đi thăm chồng “cải tạo”

Tôi quen anh năm 17 tuổi, khi còn cắp sách đến trường. Lúc ấy anh là sinh viên sĩ quan năm thứ ba, hai mươi tuổi đời, nhưng dạo đó trong mắt tôi anh thật chững chạc, lại tài hoa, và cũng không thiếu… si mê.

Anh nhất định đòi cưới tôi ngay sau khi ra trường, nói rằng thầy mẹ anh sẽ ưng ý, không thể phản đối. Tôi hình như có hơi ngạc nhiên và hơi… sợ sợ, vì tuổi 18, 19 thời đó còn nhỏ lắm, chẳng biết gì, chỉ biết rằng tôi hình như cũng… yêu anh nhiều lắm. Tôi còn nhớ, tuy còn nhỏ và ngây thơ lắm, nhưng những ngày giữa năm thứ tư của anh, từng đêm tôi đã thổn thức một mình. Cảm giác lúc ấy là chỉ sợ mất anh vào nơi gió cát mịt mù mà biết bao người trai đã ra đi không hẹn ngày về. Và tôi nhất quyết lấy anh, tuy anh làm phiền lòng ba má tôi không ít, khi anh dứt khoát từ chối mọi công lao chạy chọt của song thân tôi ngay từ truớc ngày anh tốt nghiệp. Gia đình tôi ngần ngại, nhưng tôi là con gái út, được cưng nhất nhà, vả lại cả nhà ai cũng quý mến anh…

Thế là tôi rời ghế nhà trường năm 19 tuổi, lên xe hoa mà tưởng như đang trong giấc mộng tình yêu thời con gái. Rồi thì giã từ quê huơng Đà Lạt yêu dấu, giã từ những kỷ niệm yêu đương trên từng con dốc, từng vạt nắng xuyên cành trong hơi lạnh thân quen, từng hơi thở thì thầm trong ngàn thông thương mến, tôi theo anh về làm dâu gia đình chồng ở Sài Gòn. Tôi chưa hề được chuẩn bị để làm dâu, làm vợ, đầy sợ hãi trong giang sơn nhà chồng, còn chưa biết ứng xử ra sao, nhưng được cha mẹ và các em chồng hết lòng thương mến.

Các chú em chồng nho nhã luôn luôn hoan hô những món ăn tôi nấu nướng.

Tuần trăng mật thật vội vã nhưng vô cùng hạnh phúc, chỉ vỏn vẹn trong thời gian anh nghỉ phép ra trường, rồi trình diện đơn vị mới. Mùng sáu Tết Tân Hợi 1971, Sư đoàn Dù của anh đi mặt trận Hạ Lào. Hôm ra đi anh vui tưng bừng như con sáo sổ lồng, trong khi tôi thẫn thờ… Anh siết tôi thật chặt, không cho tôi khóc, nói rằng ra đi trong dòng nước mắt vợ hiền là điều xui rủi.

Tôi vội vã gượng cười, để rồi từng đêm thổn thức một mình trong căn phòng lạnh vắng, run rẩy lắng nghe từng tin chiến sự miền xa… Thư anh từ mặt trận toàn những điều thương nhớ ngâp tràn, pha lẫn những lời như những tràng cười say sưa của người tráng sĩ đang tung mình trên lưng ngựa chiến. Mẹ chồng tôi chẳng vui gì hơn tôi. Hai mẹ con buôn bán xong thường đi lễ chùa, khấn nguyện. Bà cụ bảo tôi: “…phải khấn cho nó bị thương nhẹ để mà về, chứ vô sự thì lại không được về, vẫn còn bị nguy hiểm”… Tôi càng hoang mang, thảng thốt, quỳ mãi trong khói hương với đầy nước mắt, chẵng khấn được câu nào… Má tôi trên Đà Lạt cũng vội lặn lội lên tận cốc xa, thỉnh cho được tượng ảnh Bồ Tát Quán thế Âm để chồng tôi về sẽ đeo vào cổ.

Sau trận đầu tiên ở Hạ Lào anh trở về với cánh tay trái treo trước ngực. Tôi run run dội nước tắm cho anh để nước khỏi vào vết thương, mà không giấu được nụ cười đầy sung sướng, pha lẫn… đắc thắng, cảm ơn Trời Phật linh thiêng…

Rồi anh lại ra đi. Tây Ninh, Cam Bốt, cùng những địa danh trong các dòng tin chiến sự mà tôi thuộc nằm lòng. Trảng Bàng, Trảng Lớn, Suông, Chúp, Krek, Đam Be… Anh đi toàn những trận ác liệt một mất một còn với quân thù quái ác. Vừa lành vết thương là lại ra đi. Tôi thành người chinh phụ, thao thức từng đêm, vùi đầu vào gối khóc mùi trong lời khấn nguyện Phật Trời che chở cho sinh mạng chồng tôi. Còn anh, anh cứ đi đi về về trong tiếng cười vui sang sảng, hệt như các bạn chiến đấu trong cùng đơn vị, mà nay tôi vẫn còn nhớ tên gần đủ: các anh Tường, Hương, Trung, Dũng, Sinh, Chiêu, anh Sĩ, anh Tâm, anh Quyền….

Mỗi lần trở về bình an là một lần cả nhà mở hội, và mỗi khi nhận lệnh đi hành quân là một lần tôi thờ thẫn u sầu trong lúc anh hăng hái huýt gió vang vang khúc hát lên đường. Con người ấy không biết sợ hãi là gì, không cần sống chết ra sao, và không hề muốn nghe lời than vãn, chỉ thích nụ cười và những lời thương yêu chiều chuộng. Anh nói không biết tại sao anh có niềm tin kỳ lạ là không có việc hiểm nguy nào hại đựơc thân anh. Tôi chỉ còn biết chiều theo ý chồng, không bao giờ dám hé môi làm anh buồn bực, vì thời gian gần nhau quá ngắn ngủi, tôi chỉ lo cho anh những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của người lính chiến, không muốn để anh bận lòng vì những nỗi lo âu. Lấy chồng hơn hai năm sau mà tôi vẫn chưa có cháu, vì anh cứ đi, đi mãi đi hoài, những ngày gần nhau không có mấy.

Rồi mùa Hè đỏ lửa nổ ra. Anh nhảy vào An Lộc, lăn lóc đánh dập đánh vùi với địch quân đông gấp bội trong gần ba tháng trời, mất cả liên lạc bưu chính, ở nhà không hề nhận một chữ một lời. Người hạ sĩ quan hậu cứ mỗi tháng ghé lại gia đình thăm hỏi đều phải vẫy tay tươi cười ngay từ đầu ngõ. Anh về được đúng một tuần, thì lại lên đường đi Quảng Trị… Rồi anh lại bị thương ở cửa ngõ Cổ Thành, trở về trong phòng hồi sinh Tổng Y Viện Cộng Hòa. Trên đường tới bệnh viện cùng với gia đình, tôi ngất xỉu trên xe của người anh chồng…

Nhưng rồi anh vẫn đứng dậy, lại khoan khoái cất bước hành quân. Ôi, không biết tôi mang nợ anh từ tận tiền kiếp xa xôi nào, mà tôi yêu thương cái con người chỉ biết miệt mài say mê chiến trận. Tôi chỉ biết ước nguyện của anh là trở thành một Tướng Patton của Việt Nam, “Rồi nước mình sẽ phải tự chủ hơn lên, mấy năm nữa phải khác hẳn đi chứ. Nền nếp quân đội sẽ phải thay đổi. Anh sẽ làm tư lệnh đại đơn vị, để anh điều động liên quân chủng, cả thiết giáp, máy bay, đánh giặc như Patton cho mà coi. Cam bốt, Hạ Lào Trung Thượng Lào ăn nhằm gì… Hà hà.” Tôi chỉ ậm ừ vì chẳng hiểu gì, khi anh thì thầm bên tai tôi vào một đêm tôi dần thiếp đi trong đôi cánh của hạnh phúc, một lần anh về phép hành quân…

Sinh cháu gái đầu lòng năm 1973 ở Đà Lạt, anh về thăm mẹ con tôi và trường cũ, xong lại bay đi trấn thủ đường ranh giới ngưng chiến ở vùng Tây Nam Huế…

Tháng Tư năm 1975, đơn vị anh đóng quân ở Thủ Đức, chuẩn bị tử chiến với quân thù. Chú em chồng là sĩ quan chuyển vận tàu HQ505. Tàu ghé Sài Gòn để chuẩn bị đi công tác Phú Quốc. Chồng tôi bảo cả gia đình, gồm thầy mẹ, các chú và cả mẹ con tôi, xuống tàu đi Phú Quốc lánh nạn chiến sự, rồi khi yên sẽ lại trở về. Tôi tưởng anh cũng định ra đi, nhưng anh quắc mắt nói tại sao anh lại phải bỏ đi lúc quân lính của anh vẫn còn chưa nao núng, “bọn nó làm gì thắng nổi khi cả Sư Đoàn Dù đầy đủ bung ra phản công, cho nó ăn một cái Mậu Thân nữa thì mới hết chiến tranh, quân Dù đánh giặc một chấp bốn là thường, còn trận cuối này là xong.” Anh hăng say như sắp xung trận, nhưng rồi anh quay lưng lại, run giọng bảo tôi hãy bế con theo xe của ông anh ra bến tàu. Đến nước đó tôi không còn gì sợ hãi, ôm con nhảy xuống, nhất định đòi ở lại. Vợ chồng sống chết có nhau…

Ba lần toan vượt thoát từ đầu đến giữa Tháng Năm đều thất bại não nề. Anh lên đường đi trại tập trung vào Tháng Sáu, khi tôi đang mang bầu cháu thứ nhì… Bé Dung ưỡn người đòi theo bố. Anh quay lại, vẫy tay cười với mẹ con tôi. Vẫn nụ cười ấy, anh vẫn chẳng nệ âu lo sống chết là gì, nhưng còn mẹ con em, anh ơi???…

Gia đình nhà chồng tôi thiệt có phước, hầu hết đã theo tàu HQ505 đi Phú Quốc rồi sang Mỹ, kể từ hôm tôi ôm con ở lại với chồng. Gia đình tôi từ Đà Lạt chạy về Sài Gòn, sống chen chúc quây quần đùm bọc lẫn nhau. Hàng quán của gia đình chồng tôi bị tịch biên hết. Tôi nhất định giữ chặt ngôi nhà của cha mẹ chồng để lại, đuổi mấy cũng không đi. Chị ruột tôi bỏ dần vốn ra mua được ngôi nhà khác, vì ông chồng ôm vợ bé chạy mất, nhà cửa xe cộ bị tịch biên hết. Tôi và các anh chị em tôi chạy vạy đủ điều để lo sinh kế, nuôi con thơ cha già mẹ yếu. Chồng tôi mịt mù tăm tích, chỉ có đôi ba lá thư viết về từ trại Long Giao. Lên Long Giao cũng không gặp. Anh bị đưa ra Bắc.

Năm đó tôi tròn 25 tuổi, dung nhan tuy tiều tụy nhưng vẫn khiến nhiều kẻ phải suýt soa dòm ngó. Biết bao người mai mối thì thầm bên tai tôi, thôi hãy lo cuộc đời mới, sĩ quan ngụy đi Bắc chẳng có ngày về… Bao nhiêu nỗi khổ đau dồn nén đột nhiên bùng nổ. Tôi vùng lên như một con cọp cái: bác thử nghĩ coi cả bọn cả lũ tụi nó đó có đáng xách dép cho chồng tôi không!!! Rồi ba mẹ con tôi ôm nhau khóc vùi trong tủi hận.

Không, không, một ngàn vạn lần không. Quanh tôi chỉ còn toàn rác rưởi. Vâng, những người đàn ông ở miền Nam mà đang đi tù Cộng Sản mới là những người xứng đáng với đàn bà con gái miền Nam ở lứa tuổi tôi. Chị em chúng tôi gọi đó là “tấm bằng tù cải tạo” của các ông để chọn gửi cuộc đời, dù là trao gửi vào một nơi bất định… Còn gì nữa mà chọn lựa! Thà vậy, đành thôi. Tôi đã là vợ anh, tôi vẫn tôn thờ anh trong tim óc, làm sao khỏi lợm giọng trước bọn người lường lọc, bướm ong, hèn hạ… Chị em tôi buôn bán từ thuốc lá đến bánh cuốn, bánh ướt, bánh mì, thuốc tây, thuốc nam, kiêm luôn cắt chải gội uốn tóc, làm móng tay… nhưng luôn tránh chỗ công quyền và nơi phồn hoa nhan nhản những con mắt hau háu của bọn ăn cướp và bọn trở cờ.  Mấy anh chị em tôi đồng lòng, đùm bọc lẫn nhau, nên áo rách nhưng một tấm lòng son tôi vẫn vẹn với câu thề…

Vượt qua được thời gian khó khăn cực khổ nhất lúc ban đầu, sau ba mẹ con tôi được gia đình chồng từ Mỹ chu cấp, tuy không dư dả nhưng cũng đủ gửi quà ba tháng một lần, rồi lại dành dụm cho môt chuyến thăm nuôi…

Anh từ miền cực Bắc bị đưa về Thanh Hóa chừng một năm, thì tôi xin được giấy phép đi thăm nuôi. Tôi và chị tôi chạy đôn chạy đáo mua đủ một trăm năm chục ký quà để tôi đem ra Bắc cho chồng. Bà cụ buôn bán quen ngoài chợ lại nhờ đem thêm năm chục ký thăm dùm con trai, vì con dâu cụ đã vượt biên. Cháu Dung đã lên 6, em Long nó 4 tuổi và chưa lần nào thấy được mặt cha. Tôi đem cả hai con đi cho anh gặp đứa con trai.

Xuống ga Thanh Hóa, cả đoàn quân khuân vác vây quanh gọi mời giục giã. Tôi và mấy chị cùng thăm chồng chia nhau giữ chặt hàng hóa không cho ai khiêng vác, rồi tự mình kéo lê kéo lết đi thuê nhà trọ. Có người đã đi về kể rằng cứ sơ ý là bị vác hàng chạy mất. Chúng tôi cũng phải chia nhau ở lại nhà trọ coi chừng hàng và đi chợ. Tôi nhờ một chị mua thêm được ký mỡ, về rang tóp mỡ ngoài sân nhà trọ. Nghe con khóc, tôi vội vã chạy vô nhà. Chưa kịp dỗ con thì nghe tiếng ồn ào. Quay ra, hai kẻ cắp đã bưng chảo tóp mỡ ù té chạy, chị bạn rượt theo không kịp. Tôi khóc thầm tiếc hoài, cứ nghĩ những tóp mỡ kia đáng lẽ đã giúp chồng mình đỡ bao đói khát.

Xe đò đi Thanh Cẩm chật ních những bà thăm chồng. Chúng tôi năm người lớn và hai cháu xuống ngã ba Nam Phát để vô Trại 5. Tôi lê từng bao hàng rồi lại quay lui kéo lê bao khác, chừng hơn nửa cây số mới đến trạm xét giấy tờ vào trại, hai cháu còn quá nhỏ chẳng muốn chúng đụng tay. Cô Út thiệt giỏi, xong phần mình lại xông xáo giúp hết người nọ tới người kia.

Xong giấy tờ, chờ một lát thì một người tù hình sự đánh xe trâu đến. Hàng hóa và hai con tôi được lên xe trâu, tôi và chị Phước, chị Điệp cùng hai mẹ con cô Út lẽo đẽo theo sau. Đường đi xuyên trại xuyên rừng dài tám cây số. Chúng tôi chưa biết lúc trở ra mới càng thê thảm.

Chân tay rã rời, tới chiều tối mới thấy cổng trại 5 Lam Sơn. Đêm xuống bé Dung còn phải phụ tôi gom lá mía cho tôi vội nấu hết gạo thành cơm, nắm lại từng vắt, vì nghe nói công an không cho tù chính trị đem gạo sống vô, sợ các anh âm mưu trốn trại. Đêm chờ sáng để thăm chồng, nhìn hai con thơ ngây ngủ say sưa vì mỏi mệt, tôi rời rã vô cùng nhưng không sao ngủ được. Hằng trăm hình ảnh chồng tôi nhảy múa trong đầu… Chồng của tôi, người lính dù hăng hái húyt sáo mỗi khi nhận lệnh hành quân ấy, nay đã ra sao???

Sáng, đến lượt ra nhà thăm nuôi ngong ngóng chờ chồng, tôi không được phép ra khỏi cửa căn buồng nhỏ xíu, kê một bàn gỗ dài và hai ghế băng dọc hai bên. Đột nhiên một ông lạ hoắc đứng lù lù ngay cửa. Tôi ngỡ ngàng chưa biết điều gì. Cô nữ công an nhìn chòng chọc, hằn học, đợi chờ như con gà chọi sắp tung đòn. Tôi không thể hiểu người con gái Bắc cỡ cùng tuổi tôi kia thù hằn tôi điều gì. Tôi ngó lại, lát sau cô ta coi sổ xong, mới nói đây là anh Đức mà bà cụ nhờ tôi đi thăm dùm. Mất nửa tiếng giao quà và kể chuyện gia đình cho anh Đức nghe, tôi được biết chỉ còn một tiếng rưỡi gặp chồng. Thế là tôi bắt đầu ôm mặt khóc, càng lúc càng nức nở vì tủi cực, không thể nào cầm được. Trên thế giới này có ai phải lặn lội hằng ngàn cây số để chỉ được gặp chồng có một giờ ba mưới phút không hả Trời?!!

Hai cô công an lớn tiếng dọa dẫm, những là phải động viên học tập tốt, không lau sạch nước mắt thì không cho ra thăm… Nhưng kìa, ai như chồng tôi vừa bước ra khỏi cổng trại. Tôi không còn nhớ quy định luật lệ gì nữa, vùng đứng dậy chạy nhào ra như một tia chớp. Hai đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy theo. Hai công an nữ bị bất ngờ không cản kịp, đứng nhìn.

Tôi chạy tới ôm anh, và càng khóc dữ, đôi chân khụyu xuống, không còn sức lực. Trời ơi, chồng tôi ốm yếu đến nỗi tôi ôm không trọn một vòng tay. Người anh nhỏ thó hẳn lại, chỉ có đôi mắt sáng với tia nhìn ngay thẳng là vẫn hệt như ngày nào, nhưng nay đượm nét u buồn khiên tôi đứt ruột. Anh vẫn không nói được lời nào, chỉ bặm môi nhìn tôi nhìn con thăm thẳm. Tôi biết anh đang cố trấn tĩnh, vì không muốn rơi nước mắt trước mặt công an. Anh dìu tôi và dắt con trở vào nhà thăm nuôi. Anh nắm chặt tay tôi, đưa vào chiếc ghế băng. Cô công an lạnh lùng chỉ anh bước sang chiếc ghế đối diện, rồi ngồi sừng sững ở đầu bàn, cứ chăm chăm nhìn vào sát tận mặt tôi. Anh khuyên tôi ở nhà ráng nuôi dạy con cho giỏi. Rồi thật nghiêm trang, anh bảo tôi phải đưa con đi vùng kinh tế mới, về tỉnh Mỹ Tho chỗ bác Chánh với chú Cương và cô Huyền đã tự nguyện đi khai hoang rồi, đang chờ vợ chồng mình lên lao động sản xuất. Tôi hơi sững sờ, rồi chợt hiểu, đang khóc lại suýt bật cười hân hoan, khi thấy nét khôi hài tinh anh của chồng tôi vẫn còn nguyên vẹn. Bác Chánh là tên gọi của thầy mẹ chúng tôi, chú Cương và cô Huyền chính là chú Cường, chú em chồng đã đưa cả nhà xuống tàu HQ 505 đi lánh nạn. Cô công an có vẻ rất đắc ý, nhắc tôi:

–  Chị phải nói gì động viên anh ý đi chứ.

Anh nhìn mắt tôi, cười thành tiếng. Tôi chợt cười, nhưng lại chợt giận hờn.

Tôi cúi mặt giận dỗi:

–  Em không đi đâu hết, em chờ anh về đã rồi muốn đi đâu cũng được…

Tôi lại khóc, hai tay nắm chặt tay anh, chỉ sợ phải xa rời. Cô công an cứ quay nhìn hết người nọ đến người kia, lên tiếng:

–  Chị này hay nhỉ! Phải đi kinh tế mới, lao đông tốt thì anh ấy mới chóng được khoan hồng chứ! Trại giáo dục anh ý tiến bộ thế đấy, còn chị thì cứ… Chỉ được cái khóc là giỏi thôi!!

Anh không nhịn được, lại cười khanh khách và nói:

–  Đó em thấy chưa, cán bộ ở đây ai cũng tiến bộ như vậy hết, em phải nghe anh mới được… Em cứ thấy anh bây giờ thì biết chính sách nhà nước ra sao, cũng đừng lo gì hết, ráng nuôi dạy con cho nên người đàng hoàng đừng học theo cái xấu, nghe…

Tôi dở khóc dở cười, chỉ nắm chặt tay anh mà tấm tức, dỗi hờn. Anh gọi hai con chạy sang ngồi hai bên lòng. Cô nữ công an do dự, rồi để yên, lại tiếp tục nhìn sững vào mặt tôi. Anh ôm hôn hai cháu, nói chuyện với hai cháu. Đôi mắt chúng tôi chẳng nỡ rời nhau. Mắt tôi nhòa lệ mà vẫn đọc được trong mắt anh những lời buồn thương da diết. Tội nghiệp hai con tôi đâu biết chỉ được gần cha trong giây lát nữa thôi.

Tôi như một cái máy, vừa khóc vừa lay lay bàn tay anh, nhắc đi nhắc lại, em sẽ đợi anh về, anh đừng lo nghĩ gì nghe, em sẽ đợi anh về, em nhất định đợi anh mà… anh về rồi mình cùng đi kinh tế mới… anh ráng giữ gìn sức khỏe cho em và con nghe… Em thề em sẽ đợi anh về…. Em không sao đâu… Anh đừng lo nghĩ, cứ yên tâm giữ gìn sức khỏe nghe, em thề mà, anh nghe…

Tôi chợt thấy chồng tôi nhòa nước mắt. Cô công an lúng túng đứng dậy, bỏ ra ngoài nhưng lại trở vào ngay, gõ bàn ra hiệu cho người ở ngoài. Người nữ công an kia chẳng biết núp ở đâu, lập tức xuất hiện, báo hết giờ thăm… Vợ chồng tôi lại ôm chặt nhau ở đầu bàn bên kia ngay trước cửa phòng, bất chấp tiếng gõ bàn thúc giục.  Anh nắm chặt hai bàn tay tôi, chỉ nói được một câu:

-Anh sẽ về đưa em và con đi, không thể quá lâu đâu, đừng lo nghe, cám ơn em… đã quyết đợi anh về… Rồi anh nghẹn ngào…

Tôi bị ngăn lại ngay cửa nhà thăm nuôi, cháu Dung chạy ù theo cha, cu Bi nhút nhát đứng ôm chân mẹ cùng khóc. Tôi ôm cây cột gỗ nhìn dáng anh chậm chạp buớc tới hai cánh cổng gỗ to sầm, mà không thể nào ngưng tiếng khóc.

Anh ngoái đầu nhìn lại hoài, bước chân lảo đảo, chiếc xe cút kít một bánh mấy lần chao nghiêng vì hàng quá nặng…

Sáng hôm sau tôi như người mất hồn. Các chị bạn cũng chẳng hơn gì. Mấy chị em và bà bác dắt díu nhau ra, mới biết không được về lối cũ, mà phải đi vòng bên ngoài trại cả gần hai chục cây số nữa để trở lại chỗ ngã ba Nam Phát.

Đường xuyên rừng, rồi lại ra đồng trống, nắng hanh chang chang như muốn quật ngã ba mẹ con tôi. Cu Bi mệt lắm, có lúc ngồi bệt xuống, áo quần mồ hôi ướt nhẹp. Tôi phải đứng giữa nắng đem thân mình che nắng cho hai con, dỗ dành chúng, rồi lại bế cu Bi, lầm lũi bước thấp bước cao. Bà bác và hai chị cùng cô Út cứ phải đi chậm lại chờ mẹ con tôi. Bao nhiêu cơm gạo đã giao cho chồng hết, chúng tôi không còn gì ăn uống. Dọc dường mua được mấy cây mía, tôi róc cho các con ăn cho đỡ đói. Hai đứa không khóc lóc một lời. Bé Dung thiệt ngoan, luôn miệng dỗ em cố gắng. Bụng đói, chân mỏi rã rời trong lúc chiều cứ xuống dần. Đám người lang thang trong những cánh rừng tre nứa âm u, trên miền đất không một chút tình thương. Ai cũng lo sợ, dớn dác nhìn trước ngó sau, tự nhiên túm tụm lại mà đi, càng mệt lại càng như muốn chạy. Tôi bế cu Bi, mỏi tay quá lại xoay ra cõng cháu, vừa mệt vừa đói vừa sợ, lếch thếch vừa đi vừa chạy, không biết sẽ ngã gục lúc nào. Cháu Bi nhìn thấy mẹ mệt quá, đòi tuột xuống, rồi lại hăng hái tiến bước. May sao, đến hơn 6 giờ chiều, trời gần tối hẳn, thì trở lại được ngã ba Nam Phát. Hai công an dắt xe ra đạp về nhà, dặn chúng tôi ở đó đón xe đò ra Thanh Hóa.

Đám người ngồi bệt xuống bên đường. Lâu lắm mới có một xe chất đầy người chạy qua, nhưng đều chạy thẳng, không ngừng. Đã hơn chín giờ đêm. Dáng cô Út cao mảnh rắn chắc đứng vẫy xe in lên nền trời đêm đầy sao như một pho tượng thần Vệ Nữ. Một xe lớn có hai bộ đội chở đầy tre nứa, từ xa chiếu đèn pha sáng lòa trên dáng người con gái đảm đang ấy, từ từ dừng lại. Chúng tôi xúm lại hứa trả thật nhiều tiền, rồi bà bác cùng hai con tôi được lên ngồi ca bin, còn tôi với hai chị và cô Út đẩy kéo nhau leo lên ngồi nghiêng ngả trên tre nứa, tay bám, chân đạp chặt vô thành xe, qua năm tiếng đồng hồ trên con đường đất dằn xóc kinh hồn, nhiều lần tưởng đã văng xuống đất. Hai bộ đội tử tế, không lấy tiền, chỉ ăn hai tô cháo lòng mà chúng tôi mời mãi. Ra đến Thanh Hóa là hai giờ sáng. Các chị đi thăm chồng xuống tàu đêm thật đông, thăm hỏi tíu tít, trả lời không kịp. Khi ấy sao mà chị em chúng tôi thương nhau quá sức.

Vé về Nam không có, phải mua vé ra Hà Nội rồi mới đi ngược trở về. Đêm hôm sau mới đến ga Hàng Cỏ, mấy bà con ra đường đang ngơ ngác thì các chị đằng xa đã đôn đáo vẫy chào, kéo chúng tôi tới chỗ… lề đường, đầy những chiếu với tấm ni lông, nơi tạm trú mà các bà “vợ tù cải tạo” gọi là… Hotel California.

Vâng, chúng tôi nghiễm nhiên nhận chồng chúng tôi là “các ông cải tạo” như người miền Nam vẫn kêu với tấm tình trân quý, để phân biệt với những người tù hình sự. Cho nên danh từ thường đi theo với ý nghĩa nào mà người ta hiểu với nhau, không còn giữ được nguyên cái nghĩa mà nó được đặt cho vì mục đích chính trị sâu xa.

Ngủ lề đường nhưng chẳng ai thấy khổ, vì gần nhau thấy ấm hẳn tình người đồng cảnh. Các chị em thì thầm trò chuyện suốt đêm, kẻ thì khóc rấm rứt, người lại cười khúc khích. Tôi vừa ôm con ngủ gật vừa quạt muỗi cho hai cháu, hình ảnh chồng tôi quay cuồng mãi trong đầu, khi anh nói, khi anh cười, lúc anh đầy nước mắt… Sau những nguồn cơn cực nhọc và xúc động mạnh này, về nhà tôi bị thương hàn nhập lý, rụng hết mái tóc dài, gần trọc cả đầu, tôi đã trối trăn cho bà chị nuôi dạy hai cháu, tưởng không còn được thấy mặt chồng tôi lần nữa…

…Chín năm sau, đúng ngày giỗ đầu Ba tôi, anh đột ngột bước vô nhà. Tôi suýt té xỉu vì vui mừng, cứ ôm chặt anh mà.. khóc ngất. Anh cười sang sảng:

–  Cái chị này chỉ được cái khóc là giỏi thôi, phải động viên cho chồng đi sang Mỹ đi chứ… Hà hà..

Các chị em tôi từ Đà Lạt tất bật xuống thăm. Vừa xong ngày đám giỗ thì cả nhà đã vui như hội. Tất nhiên tôi là người mừng vui nhất….

Hạnh phúc đã trở về trong vòng tay tôi. Tôi sẽ ôm thật chặt lấy nguồn hạnh phúc này, không bao giờ để cho đi đâu xa mất nữa…

tôi đi thăm chồng "cải tạo"
bút ký: minh hòa
ảnh1: tác giả Minh Hòa chụp cùng chồng tại Đà Lạt năm 1971. 

[Image: D5-B3232-C-D7-DB-4347-9-F2-A-6-B7-A560-F0477.jpg]
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#35
CÁI CHẾT CỦA MỘT NGƯỜI VIỆT TÊN NAM

Tôi bắt đầu tháng 4 năm nay, khuya 31/3 - 1/4, bằng giấc ngủ chập chờn. Suốt đêm là như thế ! Lãng vãng trong đầu là khuôn mặt một người đàn ông với hai hàng nước mắt !

Người đàn ông đó là thiếu tướng Nguyễn khoa Nam!
Những ngày này, 44 năm xưa, trong khi phân nửa lãnh thổ "di tản", chiến trường vùng 3 đang sôi động thì "Quân đoàn – Quân khu 4 chưa mất một tấc đất, quân số và vũ khí vẫn còn nguyên vẹn. Chúng ta cứ bình tĩnh chiến đấu, không phải chạy đi đâu cả", đó là những tuyên bố, nhắc nhở của tướng Nam trong các buổi họp tham mưu.

Hai tháng cuối cùng của VNCH, biết bao nhiêu là hình ảnh tang thương, uất hận đã làm ứa máu trái tim, đứt đoạn lòng người, qua những bài viết, lời kể của các chứng nhân: những người lính, người dân có cơ may rời nước đến được bến “tự do”, những người trở về từ trại tập trung, trở về từ cõi chết ... vv Tôi đã thấy, như trước mắt, diễn tiến các cuộc tự sát tập thể của lính mũ xanh, mũ đỏ hay những giây phút cuối cùng của quân nhân các cấp, các binh chủng trên đường lui quân, trong ngày mất nước...
Đó là những hình ảnh làm nước sôi, đá mềm, ngạ quỷ còn phải nhắm mắt, Chúa Phật còn phải thở dài.
Nhưng không biết sao, cái hình ảnh luôn đi về trong tôi, từ gần 20 năm nay, lại là những giọt nước mắt âm thầm của tướng Nguyễn Khoa Nam, trong chiều 30/4 và sáng 1/5, vài mươi phút, trước khi tự sát !

Trung úy Lê Ngọc Danh, tùy viên tướng Nam, thuật lại trong quyển “Nguyễn Khoa Nam" (Hội phát huy văn hóa Việt Nam, 2001).
Chiều 30/4/1975 ( bắt đầu từ 18h30 )
“….. Tư Lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư Lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ thăm viếng thương, bệnh binh buồn tẻ và nặng nề. Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lốm đốm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư Lệnh đứng sát bên và hỏi:
– Vết thương của em đã lành chưa?
– Thưa Thiếu Tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu, chưa lành.

Với nét mặt buồn buồn, Tư Lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư Lệnh chưa kịp nói thêm thì anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư Lệnh mếu máo:
– Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em nhé Thiếu Tướng.
– Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em.
Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư Lệnh đưa ta nâng sửa cặp kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương của ông. Tư Lệnh cố nén xúc động, nhưng người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư Lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:
– Em cố gắng điều trị… có qua ở đây ….”

Sáng 1/5/1975 ( khoảng 30 phút trước khi tướng Nam tự sát )
“ … Tư Lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư Lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra Đại Lộ Hòa Bình trước cửa cửa dinh, tôi đứng bên phải Tư Lệnh, anh Việt ( *) đứng bên trái. Trên lộ, chỉ có vài chiếc xe qua lại, người thưa thớt, khung cảnh vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu Tướng bật khóc. Tư Lệnh cố nén không khóc thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt tuôn trào chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy. Ba người đứng trên sân thượng trước mặt tiền dinh, mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy...".
(*) Trung úy Việt : sĩ quan liên lạc

Tối 30/4 , sau lệnh đầu hàng, trong khi nhiều “đại bàng" tìm cách thoát thân, thì tướng Nam là vị chỉ huy quân sự có cấp bậc cao nhất, có lực lượng hùng hậu nhất, (hơn cả quyền Tổng tham mưu trưởng QLVNCH: Chuẩn tướng nằm vùng Nguyễn Hữu (vô ?) Hạnh), lại bỏ ngày giờ đi thăm hết các thương binh, thể hiện tình “huynh đệ chi binh", như môt câu trong bài hát của ns Anh Bằng: “… Sống chết có nhau là / huynh đệ chi binh " !

Nói với người thương binh cụt hai chân: “Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em". Ông Nam nói và ông Nam làm: ông đã ở lại, vĩnh viễn ở lại, “Người ở lại Tây Đô" không chỉ ở lại với Cần Thơ, với “các em" thương binh trong quân y viện Phan thanh Giản, mà còn ở lại trong lòng người dân Việt Nam Cộng Hòa. Mà không chỉ với người Cộng Hòa, theo như lời kể (2014) của "cựu" tù nhân CS, luật sư Lê Công Định.
“Vào ngày 1/5/1980, sau bữa ăn trưa, ba tôi ngồi uống trà và trò chuyện với các anh em chúng tôi về những ngày tháng Tư của 5 năm về trước. Ba tôi, người thuộc bên thắng cuộc phía miền Nam, đã tham gia chiến tranh vì mơ ước hòa bình và, cũng như nhiều người đương thời, ông đã vỡ mộng vài năm sau khi cuộc chiến kết thúc. Ông kể với lòng kính phục về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân đoàn 4 của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), vị danh tướng đã tuẫn tiết sau khi Sài Gòn thất thủ".

Ông Định viết thêm:
"Trở lại câu chuyện ban đầu, hình ảnh về tướng Nguyễn Khoa Nam do ba tôi kể lại đã khiến tôi lao vào tìm hiểu nhiều hơn về các vị danh tướng VNCH khác, mà thật lòng tôi rất kính trọng, giống ba tôi. Đọc quyển sách “Chân dung các tướng ngụy Sài Gòn” được bên thắng cuộc in và tái bản nhiều lần sau 1975 nhằm mục đích bôi nhọ quân đội và tướng lĩnh của bên thua cuộc, tôi không khỏi bật cười với ý nghĩ rằng chân dung tồi tệ mà tác giả muốn phác họa cho các tướng VNCH thật ra thích hợp và xứng đáng dành cho những sĩ quan Quân Đội Nhân Dân VN thời bình ngày nay hơn. ( https://www.facebook.com/LSLeCongDi…/pos...0875698359… ) !

Ở đây, trong một vài buổi dạ tiệc, dạ vũ, với phần đầu chương trình “cùng (?) hát, cùng… chịu trận (!!!)", thỉnh thoảng tôi lại nghe (!) câu hát “nước mắt đàn ông không rơi từng giọt / nước mắt đàn ông chôn sâu trong lòng...", một câu tuy “cải lương" nhưng nghĩ lại cũng không sai .

Đàn ông rất ít ai khóc (trừ… ca sĩ Anh Khoa), nói gì đến “lính Dù lên điểm" Nguyễn khoa Nam, vào sinh ra tử hằng ngày, lon lá đều lên ở chiến trường (ngoài 5 năm “chịu trận" với chức vụ Đại Đội Trưởng Kỹ Thuật Nhảy Dù). 1961 – 1972 từ Đại úy trưởng ban 3 / TĐoàn 3 Dù lên đến Thiếu tướng Tư lệnh sư đoàn 7. Chưa nói Tướng Nam, qua ký ức những người tiếp cận, là một người ăn nói điềm đạm, ít khi biểu lộ tình cảm. Thế mà cuối cùng ông lại khóc trước mặt thuộc cấp ! Khóc những hai lần !

Hình dung buổi chiều ghê rợn ấy, buổi chiều 30/4, không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra, khi đã có lệnh trên buông súng, khi đang ào ào kẻ chạy, người đi. Nhưng xe Tư Lệnh vẫn cắm cờ, hiên ngang, phom phom vào quân y viện. Hình dung buổi sáng 1/5, từ lầu cao tư dinh, 3 thầy trò im lặng đứng bên nhau nhìn ra Hòa Bình, cái đại lộ thường nhật ngựa xe như nước, bây giờ chỉ hớt hãi dăm bóng người qua. Rồi một người bật khóc, hai người khác khóc theo !
Đó là những người đàn ông, những người trai thời loạn, đã quen tiếng đạn bom, đã kề với cái chết. Thế mà bây giờ lại khóc. Sử sách chỉ ghi điều chánh yếu, không ghi chi tiết nhưng ai dám quả quyết rằng, trước khi tự sát, Hoàng Diệu không khóc, Võ Tánh không khóc, Phan thanh Giản không khóc…. Vv ? Khóc không vì sợ, không vì yếu lòng, “xưa nay chinh chiến mấy ai về". Nước mắt này là nước mắt uất hận, tức tối, đau thương… Như muốn cắn lưỡi phun máu hỏi trời “Tại sao lại là như thế ?!"

Cũng những ngày này, 47 năm trước, 12/4/1972: Trung tá Nguyễn Đình Bảo, tiểu đoàn trưởng 11 Dù, đã ở lại “Charlie", sau 5 ngày quần thảo với 1 đối phương đông gấp 6 lần (2 trung đoàn bộ binh + 1 trung đoàn pháo) !

Ông Bảo là đàn em ông Nam. Cả hai ông đều ăn gạo sấy, uống bi-đông Nhảy-Dù từ lúc là sĩ quan mới ra trường lên đến cấp chỉ huy. Khi ông đại tá Nam nắm Lữ Đoàn 3 thì ông thiếu tá Bảo là một tiểu đoàn phó. Bây giờ “người ở lại Charlie", “kẻ ngã xuống Cần Thơ".
Charlie hay Cần Thơ đều bắt đầu bằng “C", khác chăng một bên đồi cao, một bên thành phố !

Khóc anh Bảo, nhạc sĩ Trần thiện Thanh viết: “Nhớ anh trời làm cơn bão". Cơn bão âm ỉ từ 72 biến thành hồng thủy, địa chấn 75: nước mất, nhà tan, với biết bao nhiêu là xác người Nam Việt: xác lính can trường, xác dân vô tộ . Trong số những cái chết can trường, có cái chết tự sát của một người Việt tên Nam.

Tôi đã trãi qua (hầu như) trắng đêm 1/4/2019 ! Lãng vãng trong đầu là khuôn mặt cương ngh , oai nghiêm của một người đàn ông. Với hai hàng nước mắt !

Người đàn ông đó là Thiếu tướng tư lệnh vùng 4 Nguyễn khoa Nam ! Hai hàng nước mắt đó là những giọt lệ cuối đời ông. Một cuối đời đúng nghĩa. Bởi, chỉ vài mươi phút sau, ông đã kê súng bắn vào màng tang tự sát.
“Tư Lệnh thà chết chứ không bàn giao !"

Huỳnh Kim Thu

[Image: 08-A93-D69-AA3-E-4-DBF-B751-9063729-C1893.jpg]
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#36
Cám ơn người bạn đã gửi bài này cho Kỳ đăng.   Tulip4

...

Câu Chuyện Về Gia Đình Đại Tá Hồ Ngoc Cẩn
Người Vợ Lính Ở Thủ Đức


[Image: 9-D50-CA29-9764-43-DE-BE67-13-C316-F7-D3-FE.jpg]

Đám cưới nhà quê. Chuyện người vợ

Mùa xuân năm 1959. Họ đạo Thủ Đức có đám cưới nhà quê. Cô dâu Nguyễn thị Cảnh mỗi tuần giúp lễ và công tác thiện nguyện cho nhà Thờ. Chú rể là anh trung sĩ huấn luyện viên của trường bộ binh Thủ Đức.

Cha làm phép hôn phối. Họ Đạo tham dự và chúc mừng. Bên nhà gái theo đạo từ thuở xa xưa. Bên nhà trai cũng là gia đình Thiên Chúa Giáo. Cô gái quê ở Thủ Đức, 18 tuổi còn ở với mẹ. Cậu trai 20 tuổi xa nhà từ lâu. Cha cậu là hạ sĩ quan, gửi con vào thiếu sinh quân Gia Định từ lúc 13 tuổi. Khi trưởng thành, anh thiếu sinh quân nhập ngũ. Đi lính năm 1956. Mấy năm sau đeo lon trung sĩ. Quê anh ở Rạch Giá, làng Vĩnh Thanh Long, sau này là vùng Chương Thiện. Ngày đám cưới, ông già từ quê lên đại diện nhà trai. Đứng trước bàn thờ, cha xứ hỏi rằng anh quân nhân này có nhận cô gái làm vợ không. Chú rể đáp thưa có. Cha hỏi cô gái có nhận anh trung sĩ này làm chồng. No đói có nhau. Gian khổ có nhau. Cô gái Thủ Đức vui mừng thưa có. Anh trung sĩ Rạch Giá phục vụ trường bộ binh đi lễ nhà thờ gặp cô gái xóm đạo Thủ Đức nên kết nghĩa vợ chồng. Cô gái thề trước nhà Chúa, có cả họ Đạo chứng kiến. Cô đã giữ trọn đời làm vợ người lính. Từ vợ trung sĩ trại gia binh cho đến phu nhân đại tá trong dinh tỉnh trưởng. Cô theo chồng đi khắp 4 phương suốt 16 năm chinh chiến để rồi 30 tháng 4 năm 75 trở thành vợ người tử tội. Cô đem con trở về Thủ Đức lánh nạn chờ ngày chồng bị xử bắn. Dù thăng cấp, dù thắng hay bại, dù sống hay chết, chồng cô vẫn là người anh hùng. Cô mãi mãi vẫn là người vợ lính. Anh lính đầu đời chinh phu của cô lúc lấy nhau đeo lon trung sĩ và khi ra đi đeo lon đại tá. Thủy chung cô vẫn sống đời vợ lính. Chồng của cô là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Hiện nay cô vợ lính gốc Thủ Đức, sau khi tìm đường vượt biên, đem con trai duy nhất qua Bidong, Mã Lai rồi vào Mỹ sống ở Nam Cali. Cô may thuê. Bán quán nuôi con. Con trai lập gia đình có 2 cháu. Người vợ lính năm xưa từ 75 đến nay, ở vậy thờ chồng đã trở thành bà nội ở chung một nhà với con cháu. Suốt đời vẫn nghèo, nghèo từ trung sĩ mà nghèo lên đại tá. Nghèo từ Thủ Đức mà nghèo qua Chương Thiện. Nghèo từ Việt Nam mà đem theo cái nghèo qua Mỹ. Bởi vì suốt đời chỉ là người vợ lính.

Một đời chinh chiến. Chuyện người chồng

Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938. Xuất thân thiếu sinh quân Gia Định rồi nhập ngũ và lên cấp trung sĩ huấn luyện viên vũ khí tại trường bộ binh. Sau khi lập gia đình có 1 con thì anh trung sĩ tìm cách tiến thân xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ anh sinh viên sĩ quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại tá tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc đều lên tại mặt trận. Ông đã từng mang mầu áo của Biệt động quân và các sư đoàn bộ binh. Huy chương và chiến công nhiều vô kể. Suốt một đời chinh chiến từ trung đội trưởng lên đến trung đoàn trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp Hậu giang và Tiền giang. Năm 1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể sư đoàn 21 từ miền Tây lên tiếp tay cho quân đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho lệnh tăng cường thêm 1 trung đoàn của sư đoàn 9. Tư lệnh quân khu, ông Trưởng nói với ông Lạc sư đoàn 9 đưa 1 trung đoàn nào coi cho được. Trung tá Hồ ngọc Cẩn dẫn trung đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp cùng nhẩy dù đánh dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh đại úy đại đội trưởng của trung đoàn suốt mấy tuần dằng co với địch trước phòng tuyến của tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng chưa vào được. Lính hai bên chết đều chôn tại chỗ. Thiết vận xa M113 của ta còn phải lui lại phía sau. Chỉ có bộ binh của trung đoàn 15 nằm chịu trận ở tiền tuyến. Anh sĩ quan kể lại, chợt thấy có một M113 của ta gầm gừ đi tới. A, tay này ngon. Chợt thấy một ông xếp từ thiết vận xa bước ra, phóng tới phòng tuyến của đại đội. Nhìn ra ông trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận địa rồi hô quân tiến vào. Cùng với tiền đạo của nhẩy dù, trung đoàn 15 bắt tay với lính phòng thủ An Lộc. Sau khi Bình Long trở thành Bình Long Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mổi người lên 1 cấp. Trung tá Hồ Ngọc Cẩn ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh quang tại bản doanh Sa Đéc. Rồi ông được đưa về làm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Vùng đất này là sinh quán của ông ngày xưa. Cho đến 30 tháng 4-1975 Sài Gòn đã đầu hàng, nhưng Chương Thiện chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện chưa chịu hàng. Chiều 29 sang 30 tháng 4, tiểu khu trưởng vẫn còn bay trực thăng chỉ huy. Khi radio Sài Gòn tiếp vận về tin buông súng, các đơn vị bên ta rã ngũ. Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan hàng, đại tá tiểu khu trưởng Hồ Ngọc Cẩn bị lính cộng sản vây quanh khi còn ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân phục cấp bậc đầy đủ. Câu chuyện về giờ phút cuối cùng của người chồng, đã được người vợ kể lại cho chúng tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức bi thảm.

Giây phút cuối của Chương Thiện,

Bà Cẩn với âm hưởng của miền quê Thủ Đức kể lại qua điện thoại. Cô Cảnh nói rằng suốt cuộc đời chưa ai hỏi thăm người thiếu phụ Thủ Đức về một thời để yêu và một thời để chết. Bà nói:

“Kể lại cho bác rõ, những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau ngay trong tiểu khu. Anh Cẩn vẫn còn bay hành quân. Nhà bị pháo kích. Tuy gọi là dinh tỉnh trưởng nhưng cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30 tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy ra ngoài. Đi lẫn vào dân. Ở Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng. Ai cũng tưởng là vợ lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải đi. Bà con kéo mẹ con em tìm đường chạy về Cần Thơ. Chú lính nói rằng bà không đem con chạy đi chúng nó bắt thì khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ. Mẹ con vừa đi vừa khóc. Hình ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nhìn thấy bố ngồi trên xe Jeep, Việt cộng cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh không chống cự, không vùng vằng, không nói năng. Đưa mắt nhìn về phía dân ở xa, giơ tay phất nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con. Chạy đi. Đó là hình ảnh cuối cùng đã gần 40 năm qua. Từ đó đến nay mẹ con không bao giờ gặp lại. Thân nhân bên anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em và con trai ra mặt. Sợ bị bắt. Được tin anh ra tòa nhận án tử hình. Rồi tin anh bị xử bắn. Thời gian anh bị giam gia đình bên anh có đi tiếp tế nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về. Hôm anh bị bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đình cũng không ai được báo tin riêng, nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi coi. Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng. Từ xa, nhìn qua nước mắt và nín thở. Chị thấy chú Cẩn mặc quần áo thường dân tỏ ý không cần bịt mắt. Nhưng bọn cộng sản vẫn bịt mắt. Bác hỏi em, bà chị có kể lại rõ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975. Mỗi lần nói đến là chị em lại khóc nên cũng không có gì mà kể lại. Chúng bịt mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng gì. Suốt cuộc đời đi đánh nhau anh vẫn lầm lì như vậy. Vẫn lầm lì chịu bị bắt, không giơ tay đầu hàng, không khai báo, không nói năng gì cho đến chết. Anh làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến tiểu khu trưởng. Báo chí, anh em nói gì thì nói, anh Cẩn chả nói gì hết. Bác hỏi em là mồ mả ra sao. Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức. Gia đình không cho em ra mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được. Chúng đem chôn ở phía sau Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem về Rạch Giá. Rồi đến khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro cốt về nhà ông chú bên Long Xuyên. Ngày nay, em nói để bác mừng là sau khi vượt biên qua Mỹ em đã đưa di hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đình. “

“Cô đi năm nào”, tôi hỏi bà Cẩn.

“Mẹ con em ở Thủ Đức ba năm sau 75. Đến 78 thì vượt biên qua Pulo Bidong. Ở trại 8 tháng thì bà con bảo trợ qua Mỹ. Qua bên này mình chả biết ai, không ai biết mình. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân, mẹ con ở với nhau. Em đi làm nghề may, rồi đi bán quán cho tiệm Mỹ. Bây giờ cháu trai duy nhất của anh Cẩn đã có gia đình sinh được 2 con.”

Chuyện đời người vợ lính thời chinh chiến với kết thúc bi thảm và anh hùng, tôi nghe kể lại thấy lòng xót xa lắng đọng.Tôi bèn quay qua hỏi chị Cẩn sang đề tài khác. “Nãy giờ nói toàn chuyện buồn, cô nhớ lại xem suốt đời từ đám cưới cho tới 75, cô có những kỷ niệm nào vui không.”

Bà Cẩn ngừng lại suy nghĩ.

“Em thấy năm nào tháng nào cũng vậy thôi. Toàn lo việc nhà, nội trợ nuôi con. Anh Cẩn đi đâu thì mẹ con cũng đi theo. Từ trại gia binh đến cư xá sĩ quan. Chúng em không có nhà riêng, không có xe hơi, không có xe gắn máy. Từ Sa Đéc trung đoàn 15 qua đến tiểu khu Chương Thiện, toàn là ở trại lính”.

Tôi hỏi tiếp:

“Cô có đi dự tiệc tùng, mừng lên lon, thăng cấp, dạ hội gì không?”.

“Không, em chả có đi đâu. Ở Chương Thiện em cũng không đi chợ. Dân chúng cũng không biết em là ai. Mua bán gì em về Cần Thơ, đông người, cũng chả ai biết em là ai. Em cũng không có nhà cửa nên cũng không mua sắm đồ đạc. Lương nhà binh cũng chẳng có là bao. Em cũng không ăn diện nên chẳng có nhiều quần áo. Năm 1972 ở An Lộc về, anh Cẩn mang lon đại tá không biết nghĩ sao anh nói với em, vợ chồng chụp được một tấm hình kỷ niệm. Đây là tấm hình gần như duy nhất. Xin bác dùng tấm hình này của nhà em mà để lên tấm bia lịch sử”.

Tôi nói rằng, tấm hình của cô và anh Cẩn rõ ràng và đẹp lắm. Hoàng Mộng Thu có đưa cho tôi xem. Chúng tôi sẽ dùng hình này. Nhưng tôi vẫn gặng hỏi. “Thế bao nhiêu lần anh thăng cấp cô có dự lễ gắn lon không?”.

“Em đâu có biết. Chỉ thấy anh Cẩn đi về đeo lon mới rồi cười cười. Cũng có thể gọi là những giây phút hạnh phúc của đời nhà binh”.

“Thế cô chú ở Thủ Đức có khi nào đi chơi Vũng Tàu tắm biển không?”.

Bà Cẩn thật thà nói rằng.

“Khi anh Cẩn học ở Đồng Đế thì em và con có ra thăm Nha Trang nên thấy biển. Còn chưa bao giờ được đi với anh Cẩn ra Vũng Tàu. Sau này đến khi vượt biên thì mẹ con em mới thấy biển Vũng Tàu…”

Trong số một triệu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa, dường như sĩ quan, anh nào cũng có 1 lần đi với vợ con hay người yêu trên bãi biển Vũng Tàu. Chỉ có hàng binh sĩ, chỉ những người lính là chưa có dịp. Hồ Ngọc Cẩn ở Rạch Giá suốt đời chưa đem vợ Thủ Đức đi Vũng Tàu. Vì vậy chị Cẩn suốt đời vẫn chỉ là vợ lính. Trong quân đội, dù là tướng tá hay sĩ quan, anh nào mà chả có thời làm lính. Sau đó mới làm quan. Chỉ riêng cô Nguyễn thị Cảnh, vợ đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người đóng vai vợ lính suốt đời. Những ngày vui nhất của chị là thời gian được làm vợ anh trung sĩ hiền lành của trường bộ binh Thủ Đức. Ngày đó đã xa rồi hơn nửa thế kỷ, ở bên kia địa cầu, trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, có vợ chồng anh lính trẻ mỗi sáng chủ nhật cầm tay nhau để đi lễ nhà thờ.

Giao Chỉ, San Jose
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#37
“thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
khách má hồng nhiều nổi truân chuyên”
- Chinh Phụ Ngâm

Chuông đồng hồ trên tường gõ bốn tiếng, tôi cựa mình thức giấc. Từ lúc nửa đêm về sáng tôi đã trằn trọc mãi không dỗ được giấc ngủ. Tôi mãi bận tâm cho chuyến đi thăm nuôi lần này. Tôi không biết mọi sự có được suôn sẻ hay không trên quãng đường từ Nam ra Bắc xa vời vợi. Các con còn bé ở nhà ăn chơi có được khoẻ mạnh không? Sức khoẻ của chồng tôi hiện đang ở Vĩnh Phú thế nào? Trong lá thư mới nhất anh gởi về nhà, viết: “Anh vẫn khoẻ, học tập tốt, lao động tốt để sớm về với em và các con, ngày về không còn bao lâu nữa”. Trời ơi, bao năm rồi những lá thư gởi về nhà vẫn là những dòng viết theo quy định của trại, cũng ngần ấy ý, không hơn không kém. Mới tuần trước, tôi đến thăm một chị bạn có chồng học tập ở Vĩnh Quang. Anh gửi về cho chị thư bảo: “Sức khoẻ anh rất tốt, người anh mập ra” Chị ấy ôm tôi khóc ngất:

“Vừa có tin về, anh mất rồi bồ ơi! Anh bị phù thủng mà không có thuốc, lại hằng ngày ăn bắp hột và nước muối, anh đã vội ra đi mà không chờ mình ra thăm!”

Quay nhìn thấy các con còn ngủ say, tôi nhẹ nhàng xuống giường vào bếp nhen lửa nấu cơm. Sau khi chuẩn bị xong cơm nước mang theo ăn đường tôi mới gọi các con dậy. Hai cháu lớn lần này được đi thăm bố mừng lắm. Đứa lớn Yên Hà 12 tuổi, cháu trai Thành Long 10 tuổi. Chiều hôm qua tôi dắt Trúc Như 7 tuổi gửi nhà dì, Giang Nam 5 tuổi ở nhà mợ và bé út Hồng Ngọc 3 tuổi cho chú thím chồng tôi. Sửa soạn đâu vào đấy, dựa theo ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu trong đêm, mẹ con tôi khẽ khàng di chuyển đồ thăm nuôi. Nghe tiếng động, chú thím chồng tôi thức giấc giúp mẹ con tôi chuyển đồ ra xe. Người xích lô cùng xóm mà thím tôi dặn trước đã đến nhà chờ từ bao giờ. Nghe thím tôi bảo: “Chở giùm cháu tôi đi thăm nuôi chồng”, ông tỏ ra rất nhiệt tình vui vẻ. Ông cột từng bao giỏ đệm, từng túi đồ lỉnh kỉnh phía sau xe, phía trước, lấy dây ràng chặt cẩn thận kỹ lưỡng. Tôi bảo các con tôi chào ông bà, rồi vội vàng chạy vào giường chổ bé Ti còn đang ngủ ôm hôn con mà nước mắt chảy dài. Tôi nghẹn ngào nói lời gửi gấm với bà thím rồi vội lên xe cho kịp giờ lên ga Bình Triệu. Từ ngày chồng tôi đi cải tạo, gia đình chú thím chồng tôi tuy không khá giả mấy nhưng đã dành cho mẹ con tôi rất nhiều an ủi về tinh thần và vật chất. Ông bà giúp đỡ san xẻ cho tôi từng chút gạo, chút nước mắm trong những lúc mẹ con tôi gặp khó khăn. Trong cảnh “sa cơ lỡ vận”, “thân cô thế cô”, tôi rất hay tủi thân, chỉ cần một cử chỉ lạnh nhạt của người thân trong gia đình hay của bạn bè cũng đủ làm cho lòng tôi tê tái.

“Miếng khi đói bằng gói khi no” tôi rất biết ơn chú thím tôi. Tôi nhớ một lần, có một người nằm vùng mà trước kia rất nghèo khổ thường ngày làm công, đã chịu ơn vợ chồng tôi, tình cờ gặp lại sau 30/04 tỏ ra khinh bỉ tôi, nói lời hống hách. Tôi đau lòng quá thăm hỏi sơ qua rồi bỏ đi. Tôi cúi đầu che nón chảy nước mắt và không bao giờ quay lại gặp chào hỏi nữa. “Giấy rách phải giữ lấy lề” hàng ngày tôi đã tự dặn lòng mình và dạy dỗ cho các con tôi như thế, dù các con tôi còn bé và chưa hiểu được hết những gì trong tôi đang suy nghĩ. Giữa cảnh chợ đời đen bạc tình người, đổi trắng thay đen, tình cảnh người cô phụ đơn thân độc mã thật lắm đắng cay. Là một Phật Tử, tôi hiểu được chữ “nghiệp” trong giáo lý nhà Phật, nên tôi can đảm gánh chịu những đắng cay mà định mệnh ác nghiệt đã đặt dành. Tôi tự dặn mình “khóc nhục, rên hèn, van yếu đuối”. Chung quanh tôi, kế cận tôi, đều là những người cùng cảnh ngộ chẳng ai giúp đỡ được ai. Chị dâu tôi, chị chồng tôi, cô tôi, bạn bè tôi đều có chồng đi cải tạo “cùng một lứa, bên trời lận đận” những chuyến thăm nuôi đường xa, những người vợ tù cải tạo gặp nhau, thương nhau như ruột thịt, người lớn tuổi đối với người trẻ hơn coi như cô, như dì, như chị, dù mới gặp nhau lần đầu ở trên tàu, trên xe, hoặc ngồi chung chuyến đò sang sông, hay đò dọc theo sông Hồng nước đục đỏ lờ, hoặc đi bộ trên những con đường viền trắng mép đồi xanh của vùng trung du Phú Thọ. Chúng tôi thật tình yêu thương nhau, nấu cho nhau từng chén cháo hành nếu chẳng may bị sốt rét dọc đường chưa tới trại thăm chồng.

Mẹ con tôi đến bến Bình Triệu thật đúng giờ, chỉ còn 20 phút nữa tàu khởi hành. Tôi nhìn quanh và chợt lo lắng không biết làm thế nào chuyển hết đồ lên tàu cùng hai con nhỏ. Quang cảnh sân ga trước giờ tàu chạy thật náo nhiệt, người mua kẻ bán dành giật nhau lên tàu. Kẻ trộm, kẻ cướp mình chẳng biết như thế nào. Dù đã có kinh nghiệm đi tàu xe bao lâu nay từ ngày chồng tôi đi xa, nhưng tôi cũng không khỏi lo âu trong lòng. Như hiểu được ý tôi, bác xích lô bảo để ông giữ đồ giùm, tôi cứ việc yên tâm đưa các con lên toa tìm chỗ ngồi, xong mẹ con tôi ra cửa sổ để bác chuyển đồ lên. Nghe bác nói tôi mừng quá dắt các con lên. Lúc đó, có một tốp người gánh thuê chen nhau giành giật mối, một người đã ngã vào tôi và giẫm lên chân tôi đau điếng. Tôi sợ trễ giờ tàu, gắng đứng dậy lò cò dắt con tôi lên tàu. Hai con tôi cứ luôn miệng hỏi :“Mẹ có đau không? Mẹ có đau không?” Tôi ứa nước mắt nhìn con tôi trả lời : “Không, không sao, nhanh lên đi các con”.

Tàu xình xịch rời sân ga Bình Triệu, lặng lẽ nhìn quanh các khách đồng hành, tôi mừng quá vì không hẹn mà gặp, chúng tôi đều là những người đi thăm nuôi ở miền Bắc. Tên và địa chỉ người nhận quà đều viết bằng sơn đen, chữ châm phương, nét rõ ràng. Có ba người ở trại Tân Lập K1 cùng với chồng tôi, hai người ở K5 Tân Lập và hai người ở Vĩnh Quang. Chúng tôi tay bắt mặt mừng vui vẻ chia nhau chỗ để, sắp xếp các giỏ xách bao bị cho gọn gàng, xách nặng để dưới, xách nhẹ để trên. Tôi lấy trong giỏ đệm cuộn dây nilon cột các quai xách lại, tuần tự của tất cả các xách đi đường cho yên tâm, khỏi sợ bị mất dọc đường. Kinh nghiệm những chuyến đi mấy lần trước ba đêm trên tàu thường có những em bé lam lũ mò đến, khi chúng tôi đang ngái ngủ mệt vì đường xa đã lén lôi một vài chiếc giỏ xách đi qua toa khác. Hoặc khi đến các ga những người bán hàng rong chờ khi tàu gần chạy, chụp vội chiếc giỏ đệm của chúng tôi chạy xuống ga! Tất cả chúng tôi trân trọng giữ gìn từng giỏ đệm. Mớ tài sản nghèo nàn này, đối với mọi người chị em chúng tôi đều hết sức trân quý. Có phải chăng chúng đã gói ghém tất cả lòng yêu thương, mồ hôi và nước mắt thương nhớ từng ngày của người ở nhà dành cho người tù đang sống đời khổ hạnh ở xa. Tôi nhớ mãi kỳ đi thăm nuôi lần trước, một chị bạn đồng hành khi tới ga Nha Trang đã bị một em bé bán nước, xách một giỏ đệm chạy xuống sân ga vừa lúc tàu chuyển bánh.

Chúng tôi la hét gọi công an can thiệp nhưng tàu đã chạy đi, đành mất luôn. Chị chủ chiếc giỏ bị mất cắp tên Thiên Hương, người Huế. Tôi thật ái ngại khi thấy chị gục đầu vào thành cửa sổ tàu nhìn ngược về hướng ga Nha Trang khóc nức nở, chị quá tiếc chiếc giỏ đầy ấp thức ăn và thuốc men. Từ đó chị cứ khóc rấm rức mãi, tôi phải dỗ chị như dỗ người em gái nhỏ của tôi. Vóc dáng thảnh mảnh, mái tóc dài của nàng tôn nữ đã gợi nhớ một thời Đồng Khánh của tôi, với những người bạn mà mấy năm nay tôi chưa từng được gặp lại.

Quà thăm nuôi chúng tôi phải chắt chiu từng chút, từng chút không phải chỉ từng ngày mà hàng tháng. Bắt đầu từ khi viết đơn xin thăm nuôi, xin chữ ký ở địa phương. Lần này cầm tờ đơn và nửa gói thuốc lá 555, tôi đội nón, đi lếch thếch từ phường lên thị trấn rồi công an huyện. Mỗi nơi tôi đều không quên đem theo mấy điếu thuốc thơm và lòng kiên nhẫn ngồi đợi chờ, đón nhận những tia nhìn hằn học thiếu thiện cảm. Sau khi nhận đủ các chữ ký của chính quyền, của công an, tôi trở về trường nhờ xác nhận “là giáo viên lao động tiên tiến ” “có chuyển biến tốt” “hoàn thành tốt công tác giáo dục tại địa phương” không hiểu sao tôi lại thấy vui mừng vì được ban lãnh đạo nhà trường đối xử công bằng không phân biệt thành phần nguỵ quân, ngụy quyền. Không làm khó dễ chắc là nhờ nửa ký đậu xanh tôi để lại trên bàn Hiệu Trưởng. Rồi trưởng phòng giáo dục nhất trí với ban lãnh đạo nhà trường. Trong lòng tràn ngập niềm vui, tôi thấy yêu đời hơn bao giờ hết khi trở về nhà nhìn các con đang quây quần trong bếp chờ mẹ về ăn cơm. Thấy mẹ vui, các con tôi cũng tíu tít vui theo. Cháu Yên Hà từ bếp bưng ra nồi cơm độn mì sợi. (“Từ giải phóng đến nay ta ăn độn dài dài” “ Từ bộ đội vô đây ta ăn độn nhiều hơn“.
Đó là bài đồng dao mà tôi vẫn nghe các trẻ con hát lén trong xóm). Tôi phụ cháu bưng ra nồi canh rau muống “toàn quốc” nấu với chút bột ngọt và tôm khô. Trên mâm đã có sẵn hũ chao và chén nước mắm. Mẹ con tôi quây quần ăn uống ngon lành, “Cơm dưa muối khó khăn mới có, của không ngon nhà khó cũng ngon”.

Mẹ con tôi mấy tháng nay rất tằn tiện trong sinh hoạt hàng ngày ở nhà để đủ tiền sắm sửa quà đi thăm nuôi. Tôi cũng phải tuyển chọn từng món đồ dần dần bán đi. Từ tủ chén, bộ xa lông, bộ nệm, bộ bàn ghế, cái máy chụp hình, quạt máy. Lần này là chiếc máy may (vật dụng tương đối cần thiết cho sinh hoạt gia đình chúng tôi hiện nay, sau giờ dạy học ở trường về nhà tôi nhận đồ may thêm). Khi người hàng xóm qua trả tiền và khiêng chiếc máy may thân quen gần gũi với tôi hàng đêm từ ba năm nay, tôi đã không cầm được nước mắt. Một số trong chúng tôi những người vợ tù, sau cuộc đổi dời, bây giờ phần lớn chỉ còn một hầu bao cạn kiệt. Nhưng với thành tâm thành ý và lòng yêu thương chồng tha thiết, chúng tôi luôn tìm mọi cách để sửa soạn cho phần quà gửi đi được tươm tất một chút. Suy nghĩ thế nào để chọn các thức ăn rẻ tiền nhưng được bổ dưỡng và nhất là để được lâu. Các loại đậu xanh đậu đỏ, đậu đen ngâm nước rửa sạch để nguyên vỏ hong lên phơi khô đem rang xay mịn, đường cát sên lên đánh ra thành cát, trộn đều bột dâu, dầu ăn, vitamin B1, tán mịn trộn chung in thành bánh sấy lửa dòn gói nilon từng cái. Một đôi lần, tôi cắt vài miếng giấy nhỏ viết bằng bút chì mấy chữ “ rất thương” hoặc “luôn chờ” “nhớ giữ gìn sức khoẻ” những tờ giấy nhỏ bé giữa bánh in để động viên tinh thần anh, để anh vững tâm vượt qua được mọi khổ ải, bệnh hoạn mà sống.

Tôi còn làm tóp mỡ ngào đường nữa. Tóp mỡ được thắng hết mỡ, chắc nước để riêng chỉ lấy tóp cùng dừa, đậu phộng rang, chuối khô, gừng già, tất cả đem ngào đường (món này vừa béo,vừa bùi, các anh rất thích giữa mùa đông xứ Bắc). Đường cát vàng nặn chanh lấy nước trộn đều phơi khô để được lâu.

Tôi dặn chồng tôi mỗi khi trời nắng nghỉ mệt bỏ vào hộp ghi-gô nước mấy muỗng đường chanh này là có thể giải khát được. Muối sả rang cùng tôm khô đã giã nhuyễn cho chút tiêu, vị tinh, là có thể chấm ăn với khoai mì, hay ngọn rau tàu bay hái vội được chút đỉnh, khi đi đốn củi trên rừng, cũng nấu được chút canh. Mắm ruốc xào sả ớt thật cay với thịt băm nhỏ cùng mấy thẻ đường tán kho kẹo. Cá sặt khô, nước mắm kho đóng bánh, gia vị nấu canh từng gói nhỏ, tương hột sả ớt gừng kho kẹo với đường, cơm gạo sấy. Giá tôi có thêm được ít tiền lần này tôi sẽ mua thêm một kí lạp xưởng ít tôm khô hoặc thịt nạc để làm chà bông thì tốt biết mấy. Ôi những món ăn bình dân rẻ tiền nhất lại quí giá đến thế đối với chúng tôi bây giờ. Tôi còn nhớ hôm mẹ con tôi nấu xôi nếp đậu đen ngào đường, gừng, đóng bánh rắc mè chuẩn bị cho quà thăm nuôi mà các con tôi cứ ngồi nhìn thèm, nhưng biết thức ăn đem cho cha nên không đứa nào dám xin. Thỉnh thoảng Trúc Như hay hỏi mẹ: ” Bao giờ đến Tết hả mẹ?” vì tôi thường nói đến Tết ba về có cơm trắng, có bánh in, có xôi đậu đen ăn!

Người vợ tù thương chồng mà vì tình mẹ bao la, thương con cũng không kém. Có một mẩu chuyện đau lòng mà trên một chuyến thăm nuôi tôi đã được nghe mấy chị gọi là chuyện tếu thời đại cười ra nước mắt. “Chị vợ tù cùng mẹ chồng nấu nướng thức ăn chuẩn bị đi thăm nuôi. Thức ăn ngon bay mùi thơm phức, làm mấy đứa nhỏ bỏ chơi ngoài sân chạy vào bếp quanh quẩn bên mẹ. Mẹ thấy thương quá đút vào trong miệng mỗi đứa một cục thịt kho, còn đưa thêm một miếng xôi bự, hai trái chuối khô. Thình lình bà nội vào bếp thấy các cháu ôm quà chạy ra, bà đứng nhìn theo giận lắm, bà nói bâng quơ “Trẻ con chúng nó ở nhà ăn gì mà chả được, chỉ tội cho ba chúng nó đói khổ thèm khát”. Người con dâu cúi đầu xuống giữa hai đầu gối, rớt nước mắt, cô nói nhỏ: ” Mẹ thương con của mẹ, con cũng thương con của con chứ!” Dĩ nhiên khi ra thăm nuôi, mẹ chồng nàng dâu ai cũng thi nhau kể chuyện để làm quà cho người tù khuây khoả, nhưng chẳng ai kể chuyện này vì cả hai đều sợ buồn lòng người ở xa .

Sau khi chuẩn bị đầy đủ quà cáp, tôi mừng quá vì còn đủ tiền tàu xe, ăn đường, mua được thuốc men cho chồng và cho mẹ con tôi phòng thân dọc đường. Với những người vợ tù cải tạo cái bánh vẽ: “Sắp được về rồi, ngày về của anh không còn xa nữa” là niềm vui để chúng tôi tự an ủi mỗi lần gặp trắc trở, gian nan là tia sáng ở cuối đường hầm, là nghị lực, là mong ước hàng đêm.

Tàu rời sân ga, hai con tôi ngồi vào ghế vui thích nhìn vào cảnh phố xá nhà cửa của ngoại ô Sai Gòn lui dần phía sau. Tôi áy náy nói chuyện với các con về việc bác xích lô lấy tiền xe rẻ quá, chỉ tượng trưng, so với công ông đã cho chúng tôi đi cả đoạn đường xa, và chuyển giùm hàng lên tàu giúp mẹ con tôi. Nhưng một chị cũng cùng đi thăm nuôi ngồi gần liền bảo:

“Chị áy náy làm gì, thời buổi này những người thuộc phe ta thiếu gì, họ coi việc giúp đỡ gia đình nguỵ quân, nguỵ quyền một cách kín đáo là như làm được một việc thiện. Má tôi bảo mỗi lần đi thăm bố tôi ở Hàm Tân, thấy má tôi già mà còn cực khổ lễ mễ xách đồ thăm nuôi, ông tài xế thương nhảy xuống đỡ hộ, đôi khi còn mua nước đem đến mời má tôi uống, hoặc bao tiền xe chút đỉnh cho bà già.”

Lời nói vô tình của chị bạn làm tôi chạnh lòng. Tôi nghĩ đến cô Linh, cô Hiệu Trưởng của trường trong thời gian đầu tôi được nhận cho đi dạy lại. Có những đêm vừa ngồi soạn bài, vừa nghĩ đến đời sống gia đình. Các con tôi còn quá nhỏ, lương tiền giáo viên ít ỏi, con nay đau mai ốm. Chồng tôi tù tội ở xa đói khác, khổ ải, đầy đoạ. Nhất là bản thân tôi hàng ngày phải đối phó với xã hội qua thân phận một người vợ tù cải tạo đầy tự ti mặc cảm trong một xã hội đầy nhiễu nhương bất trắc. Tôi lại còn quá trẻ, mới 33 tuổi đời, liệu tôi có đủ can đảm, nghị lực để vượt qua? Bao nhiêu tủi thân, hận đời, lo sợ, hoang mang tràn ra theo nước mắt. Những trang giáo án ướt nhoè nhoẹt, sáng hôm sau nộp lên để ban giám hiệu duyệt, đã làm cô hiệu trưởng nhìn tôi ái ngại. Cô nói nhỏ riêng với tôi:

“Chị về chép lại mấy trang này đi nhé”
Tôi nói “Vâng” và trong lòng thật cám ơn cô. Dưới chế độ cộng sản khóc cũng là có tội, vì tỏ ra oán trách chế độ!

Tàu qua ga Sóng Thần, rồi đến ga Biên Hòa ồn ào, tàu đậu lại rồi đi ngay vì ga nhỏ. Con tàu lại xình xịch nối tiếp đoạn đường thiên lý còn xa vời vợi. Một chị bạn ngồi cạnh ngâm nga:

“tôi thấy tôi thương những chuyến tàu
ngàn đời không đủ sức đi mau
có chi vướng víu trong hơi máy
mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau”

Những câu thơ thời tiền chiến sao thật phù hợp với hôm nay. Tôi chợt thấy nhớ quá tuổi học trò cả ngày Chủ Nhật ngồi nắn nót chép thơ của Tế Hanh, Huy Cận.

Tàu qua khỏi ga Dầu Giây, bắt đầu dần vào ga Long Khánh. Mấy mẹ con tôi vui thích đứng lên bên cửa sổ, nhìn những dãy nhà hai bên đường, tìm người quen. Tàu chậm dần khi qua con lộ chính. Nhiều người đi bộ, đi xe đạp, xe gắn máy dừng lại đứng bên ngoài cây chắn ngang. Một vài người quen nhận ra chúng tôi, vẫy tay chào hỏi: “Đi đâu vậy?”
Các con tôi vui thích reo lớn: “Đi thăm ba cháu!”

Tàu vào ga đậu lại, bà cụ bán chôm chôm chạy theo vào sân ga từ bao giờ, bà vẫy tay cho chúng tôi và hét lớn “Gửi lời thăm chú” và thảy lên cửa sổ chỗ chúng tôi đứng một giỏ đệm nhỏ có mấy ký chôm chôm và bảo cháu: ” Bà gửi cho ba”.

Tôi thật xúc động vì quá bất ngờ, chưa kịp nói lời cảm ơn thì tàu đã chuyển bánh. Tôi thò đầu ra cửa sổ vẫy tay chào cám ơn. Tàu chạy khuất, tôi còn kịp nhìn thấy bà đứng trên sân ga nhìn theo với gánh hàng nghèo nàn của bà.

Long Khánh đã là nơi ghi dấu bao kỷ niệm của vợ chồng tôi. Từ một cô giáo đang dạy học ở Đà Lạt, sau ngày cưới tôi phải theo chồng, một sĩ quan của trung đoàn 43 sư đoàn 18 bộ binh, sư đoàn đã anh dũng cố thủ ở Long Khánh, đơn vị đã chiến đấu anh hùng gây tổn hại rất lớn cho địch quân tại mặt trận Xuân Lộc ở những ngày sau cùng của tháng 4 năm 1975. Có lẽ vì vậy khi tôi muốn trở lại Long Khánh để sống, mọi người trong gia đình đều can gián, tôi cũng thấy e ngại lo sợ rất nhiều.

Sau ngày chồng tôi đi trình diện học tập ở đồn Bosco, tôi thấy không thể ở nấn ná ở nhờ nhà chú thím chồng tôi ở đường Nguyễn Thông. Nhà chật chội với cái gác nhỏ nóng cả buổi trưa và buổi tối. Những lúc ru con ngủ, tôi phải luôn tay quạt mồ hôi mẹ và mồ hôi con tuôn lã chã. Tôi gắng chờ chồng về nhưng chờ một tháng trôi qua chồng tôi vẫn biệt vô âm tín. Ngày ngày lúc các con ngủ trưa, tôi đội nón lội bộ đi tìm người quen hỏi thăm tin tức những sĩ quan đi cải tạo hiện đang ở đâu. Tôi vô cùng sốt ruột, hỏi ai cũng chẳng biết, chỉ một hôm có người báo có người quen thấy sĩ quan nguỵ ngày ngày ở Long Giao đi vác củi trong rừng cao su. Tôi hỏi quanh co, tìm cách buôn bán để kiếm sống, hỏi người ta cách thức để tìm xin một chỗ bán xôi chè trong chợ. Nhưng tôi cũng chợt khựng lại vì sợ không biết có kham nổi không vì từ bé tới bây giờ, tôi không hề có kinh nghiệm về buôn bán và cũng không biết nấu nhiều loại xôi chè một lúc cho ngon. Vả lại các con tôi còn bé quá đang cần tôi săn sóc hàng ngày và lo cơm nước cho cả nhà. Tuy chú thím chồng tôi rất thông cảm nhưng cảnh ăn cơm nhờ ở đậu thật quá khó khăn. Căn gác lại chật chội quá nóng bức. Các con tôi bị rôm sảy, rồi mụn nhọt đầy đầu. Tôi phải đưa các cháu vào bệnh viện nhi đồng chữa trị và đi vào các vườn xin lá ổi, lá sả về nấu phèn chua tắm gội. Tối nóng, các cháu khóc, tôi phải bồng ru từng đứa. Ngồi quạt cho các con tôi ngủ mà nước mắt đầm đìa.

Ba tháng sau ngày chồng tôi vào tù, sắp tới mùa tựu trường, nghĩ đến chuyện học hành của các con, nghĩ đến tương lai các con, sau khi đi hỏi xin dạy ở Sài Gòn không được, tôi quyết định bồng bế cháu về Long Khánh. Xuống đến bến xe Long Khánh, tôi nhìn quanh quất để tìm một chiếc xích lô để về nhà một người quen xin ở nhờ vì biết nhà của vợ chồng tôi đã bị bộ đội ở. Hôm tôi gặp một người quen ở chợ Long Khánh đi chợ Sài Gòn, họ đã báo với tôi tin này. “Nhà của Trung Tá là chiến lợi phẩm, dù chủ nhà không đi nước ngoài cũng không được trả lại cho gia đình”. Với biết bao chán nản não nề, thấy trời đã dần tắt nắng chỉ còn những tia nắng còn sót lại trên những cây cao su già. Mới đó thế mà đã ba năm trôi qua rồi, bao nhiêu hồi hợp lo sợ mỗi khi nghĩ đến tương lai, rồi cũng dần qua hàng đêm, tôi hết lời cầu xin bình an cho chồng tôi ở xa và mẹ con tôi ở nhà.

Tàu đến ga Bảo Chánh thì các con tôi kêu đói bụng. Tôi lấy cơm mang theo cho các con và mời mấy chị ngồi gần cùng ăn. Có một chị hồn nhiên nói:

“Trong lúc bà và các cháu lơ mơ ngủ bọn này đã ăn quà ăn bánh rồi.”
Nhìn các chị vẫn vui vẻ chuyện trò, tôi nghĩ: “Đúng là nắng mấy hoa cũng không héo”. Nhìn qua cửa sổ tàu thấy một tốp người mặc áo tù đội nón đang làm cỏ bắp, tôi chắc họ là những người tù ở K4 Xuân Lộc. Một chị ngồi gần tôi ngâm thơ giọng bùi ngùi:

“Sáng sớm tinh mơ dậy tưới rau, áo quần không đủ ấm nên đau.”
Một giọng oanh vàng thỏ thẻ:
“Đây là cảnh các ông bây giờ đấy!”
Một người khác đọc tiếp:
“Chiều chiều buôn bán ở bên sông, đoàn người vác củi về qua đó, lệ ướt rèm mi ai biết không?”

Tàu qua ga Cà Ná, Phan Thiết lúc nào tôi cũng không hay vì đã ngủ thiếp đi. Khi vào ga Nha Trang thì trời đã tối, tàu đậu lại ga này hơi lâu. Quang cảnh mua bán dưới sân ga nhộn nhịp quá. Đèn đường sáng hẳn, những chiến đèn xách tay treo đầy trên các gánh cháo gánh cơm. Các đèn con di động đây đó theo chân các cháu bán nước trà, bán thuốc lá lẻ, bán kẹo bánh, cá khô, mực khô. Các con tôi đang ngủ, thức giấc mở to mắt kinh ngạc. Tôi mua cho các con hai tô cháo nóng hổi, rồi lục xách lấy phần cơm còn lại buổi trưa ăn nốt. Con gái lớn tôi bảo:

“Mẹ ăn cháo chung với con nhé?”
“Không, mẹ không thích ăn cháo cá.”

Tàu lại xình xịch rời sân ga. Sau một giấc ngủ mệt nhọc chúng tôi đều thức dậy với tiếng loa phóng thanh có giọng nói chanh chua của người đàn bà miền ngoài: “Đây là ga Diêu Trì”
Tôi chợt reo lên mừng rỡ:

“Đã đến Quy Nhơn rất gần”.

Quy Nhơn của hai năm sư phạm thật dễ thương. Cái tuổi thiếu nữ nhí nhảnh tập làm cô giáo mẫu mực, nghiêm túc. Dáng dấp của những bà cụ non trông thật buồn cười. Nhớ nhất là con đường lầy lội trước trường vào những ngày mưa, áo dài phải vén lên vừa ôm cặp vừa ôm tranh ảnh đi dạy mẫu ở trường sư phạm thực hành vẫn làm le không quá giang mấy chiếc xe Jeep nhà binh từ quân y viện xuống, vì mình đã có vị hôn phu là Trung Uý tác chiến xuất thân từ trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Những buổi tối nội trú đứng trên balcon nhìn ra biển đen phía trước. Tàu lớn với đèn sáng choang như một thành phố nổi và tàu đánh cá câu tôm, câu mực nhấp nháy đèn như các vì sao.

Đang thả hồn về quá khứ, tôi chợt giật mình với những tiếng rao hàng và quang cảnh buôn bán la hét om sòm dưới sân ga. Có nhiều khách đi tàu cứ ngồi nguyên trên tàu, nhoài người ra cửa sổ mua hàng, mua quà. Người bán hàng đứng dưới đưa hàng lên kỳ kèo giá cả cho đến lúc tàu chạy đòi khách vứt tiền xuống, dưới đưa giỏ xoài lên.

Mấy chị đi thăm nuôi vui mừng hí hửng vì mua được giỏ xoài rẻ đem ra cho chồng nhưng khi tàu chạy đem giỏ xoài ra sắp xếp lại mới thấy chỉ có mấy quả xoài trên mặt tròn trịa tươi ngon, còn bên dưới toàn là xoài sắp úng hay đã hư. Tôi thật chán với cảnh đời lừa gạt, đói khổ quá rồi làm bậy hay sao? Tàu chạy, mẹ con tôi mở mấy gói xôi ra chấm muối mè ăn. Ăn xong, ngồi nhìn quang cảnh hai bên đường rầy xe lửa. Những hàng dừa xanh trĩu quả, những mái nhà tranh làng quê Việt Nam thật êm đềm với bóng cây xanh bên những dòng sông uốn khúc dưới chân cầu. Tôi dựa vào ghế lim dim ngủ. Chợt tôi nghe chị Lan ngồi cạnh đọc nho nhỏ:

“Đôi dép râu giết chết đời tuổi trẻ,
nón tai bèo che kín mộng tương lai.”

Tôi mở mắt khi nghe tiếng suỵt và chị Nga ngồi đối diện đá lia lịa vào chị ngồi bên rồi cả bàn chân rớt trên chân tôi đau điếng. Tôi muốn khóc thét lên vì ngón chân cái tôi sưng vù và đỏ mọng vì bị giẫm lên ở ga Bình Triệu. Mấy người đi soát tàu đang tiến về phía chúng tôi. Sau khi họ đi khỏi, chị Nga nhìn ngón chân cái của tôi . Thấy tôi còn nhăn nhó vì đau, chị nói lời xin lỗi và quay lại chị Lan sừng sộ:

“Ăn nói phải giữ mồm giữ miệng chứ, chết cả đám bây giờ!”

Xong chị rút trong xách tay lấy ra bình thuốc dán con rắn tiện tay xé vội một góc của quyển sách đang đọc, lấy que tăm quẹt thuốc lên mảnh giấy, quẹo cây diêm hơ nóng cho thuốc chảy và nhẹ nhàng dán vào ngón chân tôi. Tôi nhìn chị cám ơn. Đến chiều thì tôi thấy đầu tôi như muốn hầm hập sốt, ngón chân đau buốt, thuốc dán làm cho mủ bắt đầu gom lại. Tôi bảo các con ăn cơm, mấy chị đưa cái bánh chưng nhưng tôi sợ chân sẽ đau thêm vì ăn nếp nên từ chối không nhận. Chị Lan mở ví cho hai viên xuyên tâm liên và bảo tôi:

“Chị uống sẽ thấy bớt nhiều”.

Tôi uống thuốc nhưng cả đêm vẫn sốt, chân đau không ngủ được nhưng tôi không dám rên vì sợ các con thêm lo. Buổi chiều chị bạn lấy thuốc dán thay tiếp cho tôi. Tàu đến ga Quãng Ngãi ai cũng gọi là ga Gà vì gà ở đây rất rẻ. Cháu Yên Hà mua cho mẹ tô cháo gà, hai chị em một dĩa cơm mắm và trứng chiên. Thấy gà rẻ, tôi gọi mua cho con hai cái đùi gà và bảo chặt cho các con ăn cơm. Nhìn thấy các con đã lâu nay chưa được ăn thịt gà, tôi ứa nước mắt vì thấy các con ăn ngon lành quá. Hai đứa cứ ngậm hoài mấy cục xương không chịu nhả.

Mấy chị mua đường cát ga Quảng Ngãi để đem ra Vinh bán lấy lời. Thấy mấy chị quen việc mua bán, giá cả và có mấy người quen ở Quảng Ngãi, mua được đường tốt nên tôi cũng chung tiền. Năm chị em mua năm chục ký đường. Người ta gói sẵn 5 bịch trong giấy xi măng cẩn thận. Mấy chị xếp chỗ để sắp mấy bịch đường. Tôi vì bị đau chân nên được ngồi một chỗ chẳng làm gì. Tôi lấy sách ra đọc cho quên đường xa, quyển truyện dịch ra từ tiếng Nga:“Thép đã tôi thế đấy”. Tàu qua ga Tam Kỳ, rồi đến ga Kỳ Lam, những ga nhỏ không đậu lại, chỉ có khi đến ga Thanh Khê, chúng tôi mới bảo nhau là tàu sắp đến Đà Nẵng. Đà Nẵng làm một ga rất lớn và khang trang của miền Trung. Lượng khách lên tàu đi Huế, đi các tỉnh miền Bắc rất đông. Cảnh mua bán thật tấp nập ồn ào. Hàng chuyển lên tàu, từ Sài Gòn đưa xuống cũng nhiều không kém. Ôi quê hương miền Trung của tôi! Tôi bảo các con:
“Nhà ngoại ở Hội An cách đây 10 cây số, nhưng mẹ con mình không ghé thăm được, phải để chuyến về.”

Chợt tôi thấy một dáng người ốm yếu nhỏ con giống anh Tư tôi quá. Anh đang đi vội vàng dọc theo các toa tàu như đang tìm người quen. Tôi mừng quá quên cả chân đau vội nhảy đến bên cửa sổ lớn tiếng gọi anh. Các con tôi cũng gọi cậu. Anh tôi mừng quá, chạy luôn lên tàu ôm các cháu rồi ôm chặt lấy tay tôi. Tôi rối rít hỏi:

“Mẹ có khoẻ không? Mẹ khoẻ không khi về em sẽ ghé”.
Anh tôi cười thật gật đầu nói:
“Anh có nhận được thư em, biết chuyến tàu này nên má hối anh từ Hội An ra đây rất sớm.”

Anh chìa cho tôi chiếc giỏ đệm, tôi cầm lấy mà nước mắt cứ đầm đìa. Bao nhiêu năm nay tôi mới gặp anh tôi, anh ốm và gầy quá. Bỗng tàu hú còi, tôi đẩy anh tôi xuống tàu cho kịp. Sau khi đậu nửa giờ, tàu bắt đầu chuyển bánh. Dưới sân ga đã nắng, anh tôi vẫn còn đứng nhìn theo. Mẹ con tôi mở chiếc giỏ đệm anh vừa đưa cho, thấy có khoai lang khô, mấy cặp đường tán thứ bự đổ khuôn như cái bọc lớn, màu vàng gói trong rơm là loại đường mà chồng tôi rất thích, một lọ thuốc viên trụ sinh con nhộng, tôi mừng quá. Món này rất quý cho chồng tôi. Tôi cũng có mua theo cho chồng để phòng thân. Mấy hôm nay chân tôi đang mưng mủ nhưng không dám uống, muốn để dành thuốc tốt cho chồng. Trong giỏ còn có gói cơm trong lá chuối lăn tròn như bánh tét để đi ăn đường rất ngon. Có cả một lọ tôm rim thịt và cá chuồn chiên. Tôi mừng quá nghĩ đến tình ruột thịt, đến mẹ, đến anh chị tôi đang ở quê nhà.

Đến trưa, tôi xắt cơm trắng thành từng lát, lấy muối xả mắm ruốc xào mời mọi người. Ai ai cũng khen ngon vì cơm nén xắt lát ở trong Nam ít ai làm.

Tàu qua hầm của đèo Hải Vân, hai con tôi thấy hầm tối rất sợ. Tôi phải giải thích cho các cháu hiểu.

Tàu đi ngang đèo Hải Vân, phong cảnh sơn thủy dưới nắng mai, các cháu vui thích thấy tàu chạy ven núi và biển xanh thật đẹp dưới chân đèo. Qua các ga nhỏ, tàu dần vào ga Huế. Ga Huế cũng thuộc vào loại ga lớn của một thành phố tiếng tăm của miền Trung nên tàu đậu lại lâu như Đà Nẵng, cảnh mua bán dưới ga thật tấp nập. Tiếng rao hàng giọng Huế thật dễ thương, bánh bột lọc, mè xửng Huế, bánh bèo, bánh lá chả tôm, mùi bún bò bốc khói thơm lừng từ một nồi bún của bà hàng đặt bán dưới sân ga. Bà đang luôn tay múc bún và hai cô bé bưng bún cho khách không kịp sợ trễ giờ tàu chạy.

Mấy chị rủ tôi xuống ăn bún, tôi chỉ chân đau, đưa cái ca nhỏ đưa chị mua giùm nước nóng. Mẹ con tôi lại đổ cơm lát ra ăn với cá chuồn chiên. Ôi chưa có bữa cơm nào mà tôi ăn ngon như thế từ bao lâu nay vì cơm trắng và cá chuồn chiên đậm đà quê hương tôi vẫn nhớ.

Tàu rời Huế rồi qua Đông Hà, Đồng Hới, Quảng Bình. Chân tôi vẫn đau, mặc dù tôi đã gỡ thuốc dán ra rửa nước nóng ở ga Huế. Tôi xé một đoạn tay áo bà ba cũ đem theo mặc dọc đường để bó lấy ngón chân vì sợ bụi đường xa. Sau đó vì có thuốc tôi mạnh dạn lấy viên trụ sinh uống. Khi đến ga Vinh, chúng tôi bán được đường có lời càng làm cho mẹ con tôi rất vui. Mấy chị lại rủ mua bơ hộp lớn đem về Hà Nội bán. Ở đây cũng có bột mì rất rẻ vì hàng từ biên giới Lào đưa về. Nhưng bột mì thì chuyến đem về Đà Nẵng mới có giá trị. Trong lòng vui nên tôi quyết định uống thêm vài viên trụ sinh nữa. Chân tôi đã bớt đau rất nhiều, tôi mừng quá vì đoạn đường trước mặt còn xa. Đường từ Hà Nội về Phú Thọ qua ga Ấm Thượng, chúng tôi phải đi đò dọc rồi đi bộ rất xa trên đường đất, bắt buộc chân tôi phải lành lặn mới đi theo kịp bạn đồng hành lại còn phải dắt theo hai cháu bé nên tôi mạnh dạn uống thêm trụ sinh

Càng đi sâu vào miền Bắc, tôi càng cảm nhận được cảnh xác xơ nghèo khổ của người miền này. Đất đai khô cằn, những củ khoai củ sắn không mập tròn múp míp như khoai sắn ở trong nam. Trâu bò già yếu làm rượng một các uể oải. Nhà hai bên đường có chỗ là nhà tranh vách đất (đất sét nhồi rơm).

Người miền Bắc thường thấp, chân to bè chứng tỏ họ đã lao động từ nhỏ. Trẻ em toàn đi chân đất. Những bé trai đã lên 9,10 tuổi vẫn còn cởi trần mặc quần đùi. Làng quê vẫn còn lại những hố bom lớn dọc theo đường rầy xe lửa. Tôi nghĩ ở thành phố dân chúng chắc khá hơn.

Tàu tới ga Bình Sơn, bọn tôi mua khoai lang luộc sẳn đem theo ăn đường, và trứng vịt. Trứng vịt ở đây nhiều và bán rất rẻ. Cảm động nhất là khi qua ga Phủ Lý. Cái tên tôi thấy rất quen thuộc vì tôi đã đọc thấy rất nhiều lần trong Tự Lực Văn Đoàn. Tàu dần vào Hà Nội, đến ga Hàng Cỏ tàu dừng hẳn. Mây chị em chúng tôi đón khách lên mua hàng: dừa chúng tôi mua ở Tam Quan, xoài Nha Trang, bơ hộp lớn ở Vinh, trứng vịt ở Bỉm Sơn. Tất cả đều bán được giá. Chúng tôi thật vui vì bán hàng có lời và không cần bưng xách nặng nhọc. Chúng tôi bắt đầu lo đến hàng thăm nuôi. Tôi và một chị dắt hai cháu xuống trước đứng dước cửa sổ, ba chị ở trên chuyển hàng xuống. Tôi bảo các con ngồi lên những giỏ đệm để giữ hàng vì nghe nói ga Hàng Cỏ mất cắp nhiều. Chúng tôi thuê xích lô chở hàng về nhà trọ. Những chiếc xích lô cũ kỷ to bè, thấp tà tà, vừa chạy vừa hỏi thăm chúng tôi. Mới nhìn qua họ đã biết chúng tôi ở trong Nam ra thăm tù.

Về đến nhà trọ hàng hóa an toàn, các con đều khoẻ, chân tôi cũng đã hết đau nhức, chúng tôi bắt đầu tắm gội, ăn bữa cơm nóng tại nhà trọ, bà chủ cho chúng tôi ăn cơm độn mì sợi, rau muống luộc, nước rau ngâm trái sấu chua, trứng vịt chiên sao mà ngon quá. Các con tôi cũng ăn được nhiều cơm, ngồi nhà nhìn ra phố một lúc, thấy người qua lại nhộn nhịp, phần lớn là xe đạp. Mấy cô gái phần lớn là mặc quần tây áo sơ mi trắng, tóc để dài kẹp duỗi phía sau hay thắt bím, tôi nghĩ đây là các cô công nhân đi làm về chứ các thiếu nữ Hà Nội phải ăn diện lắm. Các con tôi rất thích nghe mấy đứa bé trong nhà ríu rít giọng Hà Nội, lạ tai rất hay. Trời vừa tối là tôi giăng mùng cho các con ngủ. Mấy chị em chúng tôi lo sắp xếp lại mấy giỏ quà vì mấy ngày đi đường bèo nhèo lắm rồi.

Ngày hôm sau, tất cả chúng tôi đã ra ga Hàng Cỏ rất sớm để lấy vé đi Ấm Thượng, Phú Thọ. Tàu đi giữa đường thì trời tối. Tàu rộng nên chúng tôi ngồi thoải mái, ba mẹ con tôi ngồi một ghế. Tôi ngồi sát cửa sổ, hai chị bạn tôi ngồi ghế đối diện, chúng tôi dựa vào nhau ngủ. Mấy chị ngồi dãy ghế bên kia đường đi, ai cũng mệt nên đều ngủ lấy sức. Trước khi chợp mắt, tôi còn nhận biết có một người hành khách mặc áo sơ mi trắng ngắn tay đến ngồi ghé tạm. Mọi người đang ngủ say đều choàng thức giấc vì chị bạn đã lớn tiếng mắng ai:

“Đồ khốn nạn, mất dạy.”

Tôi thức dậy vừa kịp nhận ra người đàn ông lúc nãy đã đi khuất qua tàu khác. Mấy chị ngồi bên kia cũng chạy qua bấm đèn pin lên hỏi nhanh việc gì xẩy ra? Chị bạn mặt đỏ phừng tức giận:

“Đang ngủ thiu thiu thấy có người đến ngồi kế bên, ban đầu em còn tưởng là các chị, sau thấy họ ngồi sát vào có bao súng cồm cộm bên hông, em biết ngay là công an kiểm soát trên tàu. Nó xoay lưng lại, em xoay mặt ra đường đi, thấy em vẫn ngủ, nó ngồi nghiêm lại để tay lên đùi em xoa nhẹ kéo lên từ từ, em vụt chụp tay nó nhưng hụt, thấy em lớn tiếng nó lẻn đi ngay như mấy chị thấy đó”.

Lúc đó chị Lan ngồi bịch xuống ghế ôm mặt khóc. Một chị sừng sộ:

“Đi tìm đánh chết mẹ nó đi”.

Quay nhìn thấy các con vẫn say ngủ không biết gì, tôi rất yên tâm. Tôi đứng lên vỗ vai chị bạn an ủi và bảo phải trái cho bạn nghe:
“Thôi bỏ qua đi, coi như là một bụi gai, một đống phân trâu trên đường đi, chẳng lẽ mình dừng chân truy cứu, rồi hàng họ hư hao hết, chồng con mình không được ăn thì chớ, bọn mình lại còn bị làm khó dễ và cả bọn cũng không yên trên đường về, con cái còn quá nhỏ ở nhà “.

Mấy chị em nghe lời tôi, ngồi lại với nhau tay trong tay ứa nước mắt căm hờn.

Tàu đến ga Ấm Thượng đúng nửa đêm, bọn chúng tôi vào ở lại quán qua đêm trong một căn nhà dành cho người đi thăm nuôi tại đây, chúng tôi có thể mượn chăn mùng và chiếu trải lên một cái sập đóng bằng tre, tôi giăng mùng và lấy các giỏ đem thức ăn để chung quanh chỗ mẹ con tôi nằm ở trong mùng. Mấy chị em cùng đi đường từ Sài Gòn ra nằm xúm xít bên nhau người thức người ngủ ngó chừng cho nhau cảnh giác chuyện đêm qua. Thật ra, chúng tôi cũng chẳng ngủ được gì vì mùi hôi từ mùng chăn phả ra và rệp cắn ngứa suốt đêm.

Sáng sớm, chúng tôi cắt người coi đồ, còn số khác dắt nhau ra chợ gần bến đò mua thêm ít rau cải tươi, cá sông, trái thơm và con gà để đem vào trại. Nấu nướng ăn uống xong, chúng tôi thuê thêm người gánh dùm bao gạo và mấy bao giỏ xách đem xuống ghe. Nước đục lờ đờ trôi. Chiếc ghe lướt nhẹ nhàng. Ai cũng ngồi im nhưng tôi chắc trong lòng ai cũng mang nhiều tâm sự. Ngày mai tôi sẽ gặp được anh, các cháu sẽ gặp cha. Cả chuyến đi mệt nhọc chỉ chờ mong giây phút ấy. Cảnh rừng cọ đồi chè vùng trung du Phú Thọ lui dần theo hai bên bờ. Đến chiều thì chúng tôi tới bến đò, đã thấy xe trâu của trại đậu chờ ở đây. Một người tù tự giác và một công an đứng bên xe cho phép chúng tôi dở hàng lên xe. Tôi tới bên chú công an xin phép cho con tôi ngồi lên phía trước xe trên mấy giỏ đệm vì các cháu sợ đi bộ đêm hôm. Ai cũng bảo nửa đêm mới đến K1, giữa đường còn phải lội qua một con suối cạn.

Nửa đêm thì chúng tôi đến trại, sau khi trình giấy tờ chúng tôi được cho mượn mùng mền chén tô niêu để ngày hôm sau chuẩn bị cơm nước, chị em chúng tôi xúm xít nằm ngủ gần nhau. Khi các cháu ngủ say chúng tôi lục đục ngồi dậy ra cửa ngồi chơi hóng mát, nấu nước sôi pha trà uống. Được một lúc, phía trước đường có chiếc xe cút kít được hai người tù đẩy đi trong đêm, có một chú công an mang súng theo, cái đèn gió chập chờn trong đêm yên tĩnh. Một chị bấm tay tôi:
“Đi chôn người chết”

Một chị quỳ xuống làm thánh giá, còn mấy người khác chắp tay lên ngực niệm Phật. Tay tôi bỗng lạnh ngắt, mấy chị dìu tôi vào chỗ nằm. Tôi ôm hai con vào lòng và lâm râm niệm Phật.

Mới 4 giờ sáng, chúng tôi lục đục dậy, bắt đầu nhóm bếp làm gà, nấu cơm vắt thành nắm, chiên lại con cá, nấu miếng thơm. Trời sáng thì tôi đã sẵn sàng thức ăn vì tôi nấu ít món giản dị. Canh nấu ruột gà và thêm ít thịt. Tôi nấu cho chồng tôi tô mì có rau cải và cà rốt. Phần thịt còn lại, tôi rô ti để chồng tôi ăn buổi tối. Tôi gọi các con tôi dậy cho ăn cơm sáng, xong tôi phụ mấy chị nấu ché nước.

Mười giờ sáng, chúng tôi tất cả đều sẳn sàng. Ngồi đợi được một lát thấy các anh sắp hàng một lặng lẽ đi ra. Người công an vác súng ra theo. Nhìn từ xa, mấy chị em chúng tôi mắt đỏ hoe nhưng ai cũng cố kềm lòng nuốt lặng lẽ vào trong. Tôi đã dặn các con từ trước phải đứng im không được gọi ba lớn tiếng sợ bị đuổi về. Chồng tôi đi thứ ba. Tôi thật mừng thấy dáng anh đi đứng còn vững vàng, có phần ốm và xanh nhiều nhưng không bị phù thủng. Mắt anh bị đỏ, tôi nhớ tôi có mang thuốc nhỏ mắt theo.

Tôi muốn chạy đến bên anh nhưng hai chân tôi như bị dính chặt mặt đất .

Công an ra lệnh cho các anh ngồi vào bên ghế đối diện với chúng tôi. Hai con đứng bên kêu Ba Ba, anh mỉm cười như mếu. Lúc mọi người im lặng vào chỗ ngồi, hai người công an đứng hai đầu dãy bàn dài, vẫn chằm chằm nhìn chúng tôi. Tất cả chúng tôi để tay lên bàn nhưng khoảng cách còn xa đâu thể nắm được bàn tay xương xẩu đang cố vươn ra một cách tuyệt vọng từ phía bên kia. Tôi đưa mắt nhìn người công an ngập ngừng xin phép cho hai con tôi được chạy qua với cha. Nhưng với vẻ mặt lạnh nhạt, họ tròn mắt nhìn tôi hằn học và quay đi. Mặc, tôi đẩy các con tôi vòng qua ghế nhưng người công an đưa tay ngăn lại. Tất cả mọi người đều tỏ vẻ bất mãn và nhìn các con tôi như muốn nói: “Tội nghiệp mấy đứa nhỏ”.

Cháu Yên Hà nước mắt tràn mi kêu nhỏ: “Ba ơi, ba!”

Anh nhìn lên không biết vì mắt bị bệnh đỏ hay vì nước mắt nhưng mãi từ đấy, tôi không thể nào quên được ánh mắt đầy tuyệt vọng của chồng tôi lúc ấy. Tiếng thì thầm thăm hỏi thật sự không phải là tiếng lòng của chúng tôi lúc ấy:

“Khoẻ không? Vẫn khoẻ….Có bệnh gì không?…Có….Cần gì không?…Ở nhà sống thế nào?….. Mẹ thế nào?…..Các con có học giỏi không?….Các em có khoẻ không?….”

15 phút trôi qua, tên công an bảo chúng tôi biết đã hết giờ thăm nuôi. Đến lúc trao quà, nhân lúc đưa quà lộn xộn, tù nhân xách hàng ra xe cút kít, các con tôi chạy đến ôm chầm cha. Anh nghẹn ngào cúi xuống hôn con làm tụt bao hàng rơi vương vãi xuống nền đất bột. Ba mẹ con tôi cùng anh vội vàng hốt bỏ vào giỏ. Người công an gầm gừ hối thúc chồng tôi nhanh chân ra sắp hàng vào trại. Đứng trước nhà thăm nuôi, chúng tôi nhìn theo bóng dáng gầy còm ốm yếu của những người tù đang lặng lẽ đi không muốn nổi trên con đường đất nhỏ dẫn vào trại. Họ lặng lẽ cúi mặt không dám nhìn lại vợ con.

Không hẹn, chị em chúng tôi cùng nấc lên uất nghẹn. Những tiếng nấc bi thương đã cố kìm giữ nay bỗng vã ra và nước mắt ràn rụa trên mặt thấm mặn môi. Không biết nước mắt này đang khóc cho người ở lại trong ngục tù hay khóc cho thân phận mình trong quãng ngày “nắng mưa dãi dầu, trăm đắng ngàn cay của những tháng đợi chờ sắp tới?”

con đường dài thăm nuôi 
bút ký: cam thảo



Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#38
Nỗi Buồn Tháng Tư

Vi Vân

Lại tháng Tư về anh biết không?
Tôi nghe ray rứt ở trong lòng
Từng đêm trăn trở niềm đau xót
Nhớ thuở điêu tàn của núi sông.

Bao năm phiêu bạt đời viễn xứ
Lòng mãi nhớ hoài một Tháng Tư
Kinh hoàng ngơ ngẩn sầu ly biệt
Cha đã ra đi chẳng giã từ.

Quê hương xa thẳm cuối đường mây
Tôi vẫn còn đây giữa chốn nầy
Thương về non nước, chiều đưa tiễn
Anh ở phương nào vạn đắng cay.

Tôi khép tình riêng từ dạo ấy
Thương chàng băng hoại giữa lao lung
Từng đêm nghe gió lùa qua cửa
Như tiếng thời gian khóc não nùng.

Tôi sẽ vì anh nguyện đợi chờ
Cho dù tan tác mộng tình thơ
Dù anh gục ngã bên trời đó
Hay trở về em, vẹn ước mơ.

Anh đã nằm yên dưới huyệt sầu
Hồn em lịm chết những đêm thâu
Mỗi lần nắng hạ về gợi nhớ
Bóng người năm cũ đã về đâu?



Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam ...

Reply
#39
Tháng 3, rồi tháng 4 năm 1975, thiên hạ chạy di tản rần rần từ miền trung vào trong nam, rồi từ đất liền “chạy” ra biển, nhốn nháo hỗn loạn chẳng biết “trời trăng” gì hết, chỉ có một ý nghĩ rõ rệt ở trong đầu là “Ở lại với tụi nó là chết!”. Vậy rồi giai đoạn di tản đó chấm dứt vào ngày 30 tháng 4…

…Giữa tháng 4, một thằng bạn gọi điện thoại cho tôi, nói: “Mầy đừng đi di tản. Ở lại đi! Không có sao hết! Tao bảo đảm”. Thằng nầy làm lớn trong “Tổng Nha”, nó nói “chắc như bắp”! Lại một thằng bạn khác - thằng này người Pháp, làm việc ở sứ quán Pháp - nói trong điện thoại, giọng rất bình thản: “Mầy đừng đi đâu hết! Mọi việc đều đã thoả thuận trước rồi! Yên tâm!”. Riêng tôi, tôi nghĩ: “Mình làm việc cho hãng dầu ngoại quốc trực thuộc hãng quốc tế SIPC (Shell International Petroleum Company – Anh Quốc) chắc không sao!”. Vậy là tôi quyết định ở lại…

…Ngày 30 tháng tư năm 1975! Việt cộng vào “đớp” hết, công tư gì cũng đớp hết, thượng vàng hạ cám gì cũng đớp hết. Họ gọi hành động đó bằng một danh từ nghe cũng…văn chương:”Tiếp Quản”. Không biết hai thằng bạn tôi kể ở trên có…tức hộc máu hay không khi thấy mình bị gạt dễ dàng như con nít? Riêng tôi, tôi thấy như tôi từ trên trời rơi xuống, thấy những gì xưa nay mình học, mình hỏi, mình hiểu biết, mình suy luận v.v…đều sai bét đối với “cái gọi là cách mạng”!

Hãng dầu tôi làm việc bị tiếp thu bởi… “ê-kíp” có bí số K7. Những người nầy mặc đồ đen đội mũ tai bèo đen. Mấy tay có vẻ “xếp” mang túi dết ngang hông và bao súng lục nằm…sau đít! Họ chiếm kho dầu Nhà Bè và văn phòng trung ương ở đường Thống Nhứt. Hai hôm sau, có tin bộ đội vào kho Nhà Bè “vít” K7 ra ngoài, vì kho dầu không thuộc quyền quản lý của mấy cha K7. Vậy là trong cái tổ chức rất là… “cách mạng” nầy, cái “đầu não” của công ty không còn dính với cái thân mình là kho dầu nữa! Phải nói thiệt: tôi làm việc cho hãng dầu hơn 19 năm, đã đi thăm viếng nhiều hãng dầu ở các quốc gia khác, nhưng chưa thấy một tổ chức hãng dầu nào…khùng như vậy!

Qua sáng ngày thứ ba, tôi được chở xuống kho Nhà Bè để hướng dẫn một ông tướng VC đi viếng kho (Có lẽ mấy tên “nằm vùng” đã cho bọn “cách mạng” biết rằng tôi…rành kho dầu này lắm!). Đến kho, tôi được “ông” bộ đội xếp kho cho biết ông tướng là “xếp” cục hậu cần. Tôi tưởng tượng sẽ gặp lão ta với bộ quân phục thẳng nếp và một ngực mề đai như thường thấy ở mấy tướng các nước cộng sản!

…Xe ông tướng đến. Bước xuống là một người cao lớn mặc bộ đồ “xá xẩu” tàu bằng lụa màu ngà, đội nón Panama trắng, miệng ngậm ống đót có điếu thuốc đang cháy dở. Được giới thiệu, ông ta không bắt tay tôi, chỉ gật nhẹ đầu, nói:”Ta đi thôi!”. Tôi lưu ý ông ta đừng hút thuốc trước khi vào kho. Ổng gạt bỏ mẫu thuốc nhưng vẫn ngậm ống đót trên môi…

Kho Nhà Bè lớn lắm. Ngoài bốn cầu tàu chiếm hết mặt sông, trên bờ có khu bồn chứa và các khu nhà máy trộn nhớt, trộn hoá chất, sản xuất thùng thiếc 20 lít đựng dầu hôi, châm dầu vào thùng 200 lít, nhà máy nhựa đường.v.v…

“Phái đoàn” đi viếng gồm có ông tướng, hai người hộ vệ và xếp kho. Vì kho dầu không làm việc, nên tôi chỉ đưa họ đi…phớt phớt vòng ngoài các khu nhà máy. Tôi có ý đợi họ đặt câu hỏi, nhưng không nghe cha nào nói một tiếng. Sau nầy, tôi mới biết rằng ngoài bắc không có những gì chúng tôi có ở trong nam, cho nên họ không biết… khỉ gì để mà hỏi!

Đến khu bồn chứa, bỗng ông tướng chỉ một cái bồn, hỏi: “Cái bể nầy bao nhiêu khối?”. Tôi trả lời: “Mười lăm ngàn m3”. Hỏi: “Mỹ nó làm cho các anh đấy à?”. Trả lời: “Không có thằng Mỹ nào vô đây hết! Toàn là dân Việt Nam thực hiện”.

Nghe vậy, lão ta cười khẫy: “Làm gì có! Ở ngoài ta, trên 2000 khối là phải ông Liên Xô hay ông Trung Quốc thực hiện cơ!”. Cái cách thằng chả nghi ngờ lời tôi nói đã chạm mạnh tự ái của tôi, đồng thời cũng cho tôi thấy rằng miền bắc của mấy chả nó dở ẹc hà! Tôi nhấn mạnh: “Tất cả ba mươi mấy cái bồn nầy, lớn nhỏ gì cũng do nhà thầu thực hiện với thầy thợ hoàn toàn người Việt”. Tôi đưa mấy người đến xem cái bồn mới làm xong cách đây mươi hôm. Đó là cái bồn lớn nhứt kho Nhà Bè, 30000 m3, do nhà thầu Việt Nam EVS thực hiện, nó lớn bằng nửa cái sân banh!. Từ đó, mấy chả làm thinh luôn cho đến về văn phòng để họp với mấy anh em cấp chỉ huy cũ theo ý muốn của ông tướng!

Sau khi nghe mấy anh em lần lượt trình bày lý lịch, cấp bậc, phần việc và lương bổng của mình, ông tướng nói: “Các anh yên tâm: Đảng và Nhà Nước sẽ trả lương các anh y như cũ. Cứ yên chí phục vụ!”. Nghe giọng ông ta rất tin tưởng vào những gì ổng nói, mình cũng thấy tin tưởng theo…

…Thời gian sau, hãng dầu đường Thống Nhứt được mang tên “Công Ty Xăng Dầu Khu Vực Hai”. Hỏi “Khu Vực Một” ở đâu thì được trả lời “Chưa có, nhưng đã có Tổng Công Ty ở Hà Nội”! Cách mạng có khác!

Rồi là “xếp thang lương”, nghĩa là mỗi ngành mỗi nghề đều được xếp cấp bậc trên từng thang lương, từ đó lãnh lương mổi tháng 2 kỳ, mổi kỳ nửa lương. Tôi được xếp “ kỹ sư bậc 2 trên 6 “, nghe…khoẻ re. Thang lương có 6 bậc mà mình nằm gần trên đĩnh rồi, họ cũng biết…chấm điểm đó chớ! Ai dè khi lãnh lương mới…té ngửa: mấy chả xếp thang lương ngược, hạng nhứt là bậc 6 nằm trên hết, rồi tuột lần xuống dưới chót là hạng một. Tôi bậc 2 trên 6, là hạng…áp chót! Mẹ!...

Tôi lãnh 80 đồng tiền mới (Vậy là thằng cha tướng Tổng Cục Hậu Cần đã nói láo! ). Bực mình, chạy đi gặp thủ trưởng, ảnh nói: “Trời đất! Bác Hồ chủ tịch nước mà chỉ lãnh có 200 đồng. Còn anh, anh lãnh tới 80 đồng còn muốn gì nữa?”. Thấy thằng chả đem “Bác Hồ” ra…làm chứng, tôi biết có cãi cũng vô ích. Rồi tôi nhớ ra là anh tài xế cũ của tôi bây giờ lãnh 90 đồng, tôi…đánh đòn chót: “Vậy thôi anh cho tôi làm tài xế, đi!”. Thằng chả cười, thấy như tôi sao quá khùng, nên vừa lắc đầu vừa trả lời: “Đâu được! Anh là Kỹ Sư đâu làm tài xế được!”. Tôi làm thinh, bước ra khỏi văn phòng thủ trưởng mà thấy như mình từ trên trời rơi xuống!

…Tôi “chịu trận” với cái gọi là “cách mạng” hết ba năm. Vượt biên thất bại hết ba lần, qua lần thứ tư đi thoát, để bây giờ - ba mươi mấy năm sau - ngồi viết mấy dòng nầy nhân ngày 30 tháng tư thứ 37…mà thấy không phải tôi đã từ trên trời rơi xuống, chính mấy thằng cha “cách mạng” mới là từ trên trời rơi xuống!

chuyện thuở giao thời
tiểu tử

[Image: 34301785-D668-47BE-98B3-A0AC1A0CD299.jpg]
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#40
SỐ ĐỎ

Tôi đã gặp lại hắn, sau hơn 20 năm.

Một sự tình cờ, tôi đã gặp lại hắn, sau hơn 20 năm, kể từ lúc cả hai cùng được thả ra, vào một ngày đầu Tháng Năm, 1981, từ trại tù Bình Điền, Thừa Thiên Huế.

Tôi biết hắn từ trước năm 1975 không những vì cả hai cùng học một lớp bậc Trung học, cùng một khóa Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, thậm chí, sau đó lại về cùng một đơn vị.

Trước ngày mất nước năm tháng, hắn lấy vợ. Vợ hắn, tên là Hạ, đúng là một cô giáo hiền thục, đoan trang và thương chồng theo cách tăn măn tỉ mỉ của những cô gái Huế (thời trước.)

Rồi trôi theo vận nước, tôi đi với hắn vào cùng một trại tù và (thật kỳ lạ) sáu năm sau lại cùng với hắn ra khỏi trại.

Trong khoảng thời gian (ở tù) này, và nhất là sau khi cùng được thả ra về sống tại địa phương. Tôi mới biết được và hết sức khâm phục lòng hy sinh và sự chịu đựng của vợ hắn …

Khi cuộc đời nhà binh của hắn và kể cả tôi nữa kết thúc tại bãi biển Thuận An, Huế vào ngày 26 Tháng Ba, 1975. Chúng tôi bị lùa lên trại tù Khe Sanh, rồi về Cồn Tiên, hắn hay chắt lưỡi với tôi:

- Trời hỡi!! vậy mà cũng còn may.

Tôi hỏi thì hắn trả lời:

- May là vì hai vợ chồng tôi chưa có con, không bị ràng buộc chi hết, nàng có thể tự do đi lấy chồng khác, chớ đeo theo mình, cái thằng tù chung thân khổ sai này làm cái chi?!

Tại trại tù Cồn Tiên (Tỉnh Quảng Trị) lần thăm nuôi đầu tiên, vợ hắn lên thăm. Hắn nói ngay với với nàng: Thôi đến mức ni là đủ rồi, em còn trẻ, chưa có con, anh cho phép em ly dị anh, rồi về mà kiếm một thằng chồng khác, chớ đeo theo anh làm cái chi nữa?, lấy ai cũng được, miễn răng em hạnh phúc là anh mừng rồi.

Vợ hắn im lặng không nói. Ba tháng sau, về trại Ái Tử (Đồng Hà) lại thấy nàng tay xách nách mang giỏ lớn, giỏ nhỏ lên thăm. Hắn lại khuyên nàng như lần trước, thì bị nàng nạt: - Đừng có giở trò cao thượng với tui, tui là vợ anh thì đến chết tui vẫn là vợ anh, đừng có nói ba xàm ba láp.

Đến đây thì hắn tắt đài không dám hó hé thêm một tiếng.

Vì chuyện này tôi không biết hắn vui hay là buồn, vui cũng đúng thôi vì thời buổi này có được một người chung tình như vợ hắn thì cũng đáng vui, nhưng buồn như trường hợp hắn lại cũng đúng. Buồn vì tội nghiệp cho cô vợ trẻ không biết có mắc nợ nần chi từ đời kiếp nào mà bây giờ phải đeo theo mà trả.
Sau này khi được phóng thích về địa phương, nghe thuật lại thì ra vợ hắn đã bỏ nghề giáo từ lâu, để lăn lưng ra chợ trời, buôn thúng bán bưng mà kiếm từng đồng bạc lên thăm nuôi anh chồng đang sa cơ thất thế.

Lại nghe nói trước đó có anh trưởng Ban Thuế Vụ tỉnh đeo theo nàng như đỉa nhưng luôn luôn bị nàng quyết liệt từ chối.

Trước ngày đi vùng kinh tế mới trong Nam, tôi nói với hắn:

- Ông có phước lắm mới có được người vợ như rứa, ráng mà sống với nhau trọn đời.

Hắn trả lời:

- Mẹ tôi sinh ra tôi làm người còn vợ tôi mới là người mở mắt cho tôi biết cái gì gọi tấm lòng cao thượng.

Khoảng vài năm sau thì nghe nói hai vợ chồng hắn đã lên tàu vượt biên.

Nghe tin này tôi cầu mong hai vợ chồng hắn đi đến nơi đến chốn bình yên và mãi mãi hạnh phúc bên nhau.

Mười năm sau, gia đình tôi đi Mỹ theo diện H.O. Qua Mỹ, tôi ra sức tìm kiếm hai vợ chồng hắn. Và qua nhiều người bạn tôi nghe tin hắn đang sinh sống tại một Tiểu bang miền Đông và cũng nghe nhiều chuyện về hắn. Nhưng mãi đến hơn hai chục năm sau, tình cờ, tôi mới có dịp gặp lại người bạn cũ này.

Đó là một đêm Giao Thừa Âm lịch tại thành phố Salt Lake City, Tiểu bang Utah. Ngoài trời tuyết rơi trắng xóa. Trong một căn chung cư ẩm thấp nghèo nàn ở vùng North Salt Lake.

Ngồi trước mặt tôi là một người đàn ông ốm yếu, đầu tóc bạc trắng, nhìn tôi qua cặp mắt ủ rủ, chính là hắn.

Tôi hỏi hắn:

- Chuyện gì đã xảy ra? Ông có nhớ tôi đã từng nói với ông là hãy sống hạnh phúc với Hạ và hãy biết quý trọng tấm lòng cao thượng của nàng.

Hắn nhìn tôi, với ánh mắt sáng lên chút diễu cợt, rồi biến mất, chỉ còn hai bên khóe mắt của hắn tôi nhìn thấy những vết hằn buồn rầu ai oán.

Đúng rồi, chính cái tấm lòng cao thượng hay là sự hy sinh cao cả đó nhưng than ôi, kết quả mà nó mang lại là tất cả những gì anh đang thấy đây.

Hắn bắt đầu câu chuyện .......

Chiếc thuyền mỏng manh chở khoảng 150 người rời khỏi Lăng Cô nhắm hướng hải phận Quốc tế, vào cái ngày định mệnh đó. Chỉ 4 tiếng đồng hồ sau thì nó vỡ tan ra từng mảnh. Khi tôi tỉnh dậy thì thấy đang nằm trên một tàu hàng Nam Dương. Trong số 150 người trong đêm đen bão táp, chỉ có chừng vài mạng được vớt lên, còn hầu hết đều mất tích, vợ tôi nằm trong số người mất tích đó. Thì anh cũng biết, trên biển cả mênh mông mất tích là đồng nghĩa với cái chết. Vì thế, anh hiểu là tôi đau khổ đến mức nào không??? Vợ tôi đã hy sinh hết mọi thứ, kể cả tuổi xuân của nàng chỉ vì nàng yêu tôi. Vậy mà tôi chưa kịp đền đáp mang lại cho nàng sự hạnh phúc, chỉ còn vài bước nữa là đến bến bờ tự do thì nàng đã vĩnh viễn chìm sâu dưới lòng đại dương. Nỗi mất mát lớn lao này đã cào xé, dằn vặt tôi, tạo nên một cơn hoảng loạn dai dẳng đến nỗi người ta phải đem tôi vào bệnh viện. Tôi nằm trong một bệnh viện tâm thần, hay nói cho đúng đó là nhà thương điên trong vòng một tháng trời, và ở trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh, nửa điên nửa khùng. Trầm trọng đến nỗi ai cũng nghĩ chỉ còn nước ngồi chờ đến giờ đem tôi đi chôn.

Nhưng rồi như một định mệnh đã được an bài, một ngày kia, tôi bỗng tỉnh dậy và thấy một cô gái người Việt đang đứng nhìn tôi ở đầu giường. Hỏi ra, mới biết, đó là một cô gái sống tại Mỹ và làm trong một cơ quan thiện nguyện chuyên giúp đỡ những người tị nạn. Hiểu được và thông cảm nguyên nhân căn bệnh trong người của tôi, cô gái tên là Huyền, đã tình nguyện chăm sóc cho tôi và dần dần đem tôi lên từ dưới đáy sâu của cơn khủng hoảng tuyệt vọng để hồi sinh trở thành một người bình thường.

Rồi cũng dần dần cả hai chúng tôi trở thành hai người bạn thân lúc nào cũng không hay. Huyền chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, không đẹp, nhưng đằm thắm, dịu dàng. Nàng đã có một đời chồng, và chính điều này cũng là một tâm sự buồn mà có vài lần nàng đã bộc lộ cho tôi biết. Nhưng nàng nói cũng nhờ sự bộc lộ đó mà nàng luôn luôn giữ được trạng thái cân bằng trong tâm lý. Tôi cũng kể cho nàng thêm những chi tiết về Hạ người vợ xấu số của tôi, về cái tình yêu và sự hy sinh của nàng dành cho tôi.

Tôi nói với Huyền:

- Suốt đời có lẽ không bao giờ tôi quên được vợ tôi.

Huyền nói:

- Đừng bao giờ quên cô ấy vì chính lúc anh nghĩ về cô ấy là chính lúc anh tự cảm thấy an ủi được rất nhiều. Nhưng anh cũng nên nhớ, anh cũng cần nghĩ về anh nữa, bởi anh cũng cần phải sống và biết cách sống nữa chứ.

Phải nói tôi cám ơn Huyền rất nhiều về những gì mà nàng đã làm cho tôi trong thời gian vừa qua và khi nhìn vào đôi mắt đằm thắm của nàng tôi chợt nghĩ biết đâu hương hồn vợ tôi đã phù hộ cho tôi gặp được cô gái này cũng nên? Hóa ra trong cuộc sống trước mắt, tôi đang có hai người đàn bà ở bên cạnh, một người ở quá khứ và một người đang sống ở hiện tại. Họ đã tạo cho tôi một thế cân bằng trong tâm lý và giúp tôi dần dần vượt qua được trạng thái hụt hẫng đau đớn trước kia.

Chừng vài tháng sau, cũng nhờ sự giúp đỡ bảo trợ của Huyền, tôi đã được phái đoàn phỏng vấn chấp thuận cho định cư tại Mỹ. Lúc đó tôi về một Tiểu bang miền Đông với Huyền, và theo lời khuyên của nàng tôi ghi danh đi học, bắt đầu từ các lớp ESL, rồi qua College, sau đó lên Đại học. Trong thời gian đi học tôi và nàng thuê chung một căn apartment hai phòng (dĩ nhiên).

Tôi đi học ban ngày, cuối tuần đi làm thêm kiếm tiền phụ giúp một phần trả tiền ăn ở. Còn nàng thì đi làm ca đêm. Cũng nên nói thêm, chúng tôi luôn luôn coi nhau như là bạn, tôn trọng nhau đối xử nhau một cách vui vẻ và chân thật. Tôi ráng sức học và hiểu rằng đó là cách để khỏi phụ lòng người đã giúp đỡ tôi đến nơi đến chốn. Tôi cũng hiểu rằng, nàng cũng đang ráng sức đi làm để tạo điều kiện dễ dàng trong việc học của tôi. Nghĩ lại, mới thấy cả hai chúng tôi cũng đều ráng sức và cũng vì nhau mà ráng sức. Phải chăng chúng tôi đang làm một việc mà chỉ có hai người đang yêu nhau mới làm?

Trong đời tôi định mệnh đã cướp đi của tôi một cơ hội là mang lại hạnh phúc cho người đã từng hy sinh cho mình, đó là Hạ. Lần này tôi không muốn mình vuột đi một cơ hội tương tự như vậy. Tôi quyết định chọn một ngày quan trọng nhất để tôi ngỏ lời cầu hôn với Huyền. Ngày đó cũng là ngày tôi tốt nghiệp với mảnh bằng kỹ sư công chánh.

Rồi cái ngày đó đã tới.

Buổi trưa sau khi làm lễ tốt nghiệp xong cả hai chúng tôi về nhà. Chúng tôi quyết định cùng nấu chung một vài món để ăn mừng và đó cũng là một cơ hội để tôi nói lời tình yêu với Huyền. Tôi nghĩ không có một cơ hội nào tốt hơn là cơ hội này. Tôi đang lau chén đũa và trải khăn bàn trong lúc chờ nàng chạy ra cái chợ ở đầu phố nói là mua thêm ít rau, và vừa lẩm bẩm trong miệng câu nói mà tôi chờ đợi được nói suốt cả năm trời nay.

Đúng lúc thì có tiếng chuông cửa. Một người đi bỏ báo đứng chờ ở ngoài, đưa cho tôi một lá thư nhỏ, nói: - Phải anh là anh Tiến không? Có một người ở đằng kia nhờ tôi trao cho anh tờ giấy này.

Tờ giấy nhỏ bằng bàn tay, chữ viết tròn trịa quen thuộc:

- Anh Tiến, Em là HẠ đây, em vẫn còn sống đây, nhưng chuyện dài dòng lắm, em thì không tiện vào nhà. Qua gặp em trong cái công viên phía bên kia đường.

Tôi không còn nhớ lúc đó tâm thần tôi hoảng loạn đến mức độ nào. Tôi cũng không biết mình nên làm gì nữa. Giá lúc đó mà động đất xảy ra hay núi lửa phun lên, sóng thần tràn vào tôi cũng không cần biết. Tâm trạng hoảng loạn này có lẽ cũng lớn ngang với lúc tôi tỉnh dậy trên chiếc tàu hàng Nam Dương và biết người vợ mình đã bị nhận chìm giữa lòng đại dương cách đây 7, 8 năm về trước. Nhưng rồi như cái máy tôi bước ra cửa lảo đảo băng qua bên kia đường.

Tôi nhận ra nàng ngay. Chính là Hạ. Vợ tôi, nàng không khác mấy như tôi gặp nhiều lần trong những giấc mơ trước kia. Nhưng bây giờ không phải là trong giấc mơ mà bằng xương thịt nàng, hiện ra dưới ánh nắng buổi trưa với làn da có vẻ xanh xao hơn và đôi mắt buồn rầu. Cơn xúc động đến nỗi tôi muốn ôm chầm lấy nàng. Nhưng nàng ngăn tôi lại rồi hấp tấp nói.

Anh Tiến, em không còn nhiều thì giờ nữa vì trong vòng một tiếng nữa em sẽ rời nước Mỹ trở về lại Úc.

Tôi nhìn thấy nàng cười nhưng nước mắt thì ràn rụa trên má.

Anh biết không, khi em trôi dạt trên biển và được một thương thuyền Úc vớt lên, đem về Úc. Lúc đó em vẫn tin rằng chỉ có em là người duy nhất sống sót trên chiếc tàu định mệnh đó. Mãi vài năm sau thì có người liên lạc với em và cho biết anh vẫn còn sống. Anh biết là ai không? NGƯỜI ĐÓ LÀ CÔ HUYỀN. Chính cô Huyền đã bỏ rất nhiều công sức để truy tìm em trên khắp các trại tị nạn, trong một hy vọng là em còn sống. Và thật không uổng công cho cô ấy. Huyền đã tìm ra em. Cô ấy đã liên lạc với em nhiều lần, kể hết mọi chuyện về anh và nói với em rằng sẽ tạo điều kiện cho hai người gặp nhau nhưng phải chờ anh tốt nghiệp xong.

Hai ngày trước cô Huyền mua vé cho em từ Úc bay qua đây và hẹn em đúng giờ này đến ăn cơm chung để mừng anh và em. Nhưng ngồi trên máy bay em đã nghĩ lại rồi. Chính cô Huyền mới là người xứng đáng với anh, cô Huyền là người đã cứu anh ra khỏi cơn khủng hoảng tâm thần, đưa anh qua Mỹ và tạo điều kiện cho anh ăn học thành tài. Anh nên nhớ, nếu không nhờ cô ấy, chắc gì anh còn sống được đến ngày hôm nay.

Hồi sáng em đứng ở đây nhìn anh và cô Huyền bước xuống xe, nhìn trong mắt anh lúc đó, anh hiểu không, em là đàn bà mà, em biết liền, trong đôi mắt anh lúc đó đang tràn trề sự hạnh phúc của một người đang yêu. Cô Huyền mới xứng đáng là người được anh trao cái hạnh phúc đó. Cô ấy đã hy sinh cho anh nhiều rồi. Đừng nên để cô ấy hy sinh thêm nữa, vì hơn ai hết chính em biết cô Huyền cũng đang yêu anh. Và em cũng yêu anh dường nào.

Tôi không hiểu Hạ bỏ đi từ lúc nào. Tôi ngồi xuống chiếc ghế đá bên cạnh, đầu óc vẫn còn choáng váng những lời nói của Hạ hồi nãy. Thật sự đến lúc này tôi vẫn không biết mình nên nghiêng về bên nào. Trời đất ơi! Tôi không ngờ Huyền là người đã âm thầm đi tìm Hạ thay cho tôi. Tôi đã mang ơn nàng nhiều quá, và không biết bằng cách nào để trả được cái ơn đó, trừ phi. Nhưng chỉ có Hạ là người biết được điều khó xử này của chồng mình. Cô ấy đã có một quyết định cũng giống như cái quyết định cách đây chục năm về trước, khi thả nổi đời xuân xanh của mình để đi nuôi một thằng tù không biết ngày nào mới được tha ra. Đó là người đàn bà suốt đời hy sinh cho hạnh phúc của chồng.

Và, trời ơi, Anh biết không. Đó là định mệnh, lại một định mệnh cay nghiệt. Nó vẫn không buông tha cho tôi. Tôi nhận ra ngay khi vừa bước chân vào nhà. Căn nhà vẫn trống rỗng y chang như lúc tôi bước ra.

Hạ đã lầm!

Tôi cũng lầm!

Làm gì có chuyện Huyền mời Hạ đến để ĂN CHUNG với CÔ ẤY bữa cơm mừng ngày tái ngộ.

Làm gì có chuyện Huyền chạy ra chợ mua thêm ít rau.

TẤT CẢ CHỈ LÀ CÁI CỚ.

Tôi đi ngay vào trong phòng nàng. Và tìm thấy một lá thư trên bàn. Chỉ có vài dòng run rẩy:

- Chúc mừng hai người tìm lại được hạnh phúc bên nhau. Đừng bao giờ tìm em nữa.
Huyền

Những dòng chữ còn ướt đẫm nước mắt của nàng.

Tôi lịm người đi giữa câu chuyện mà Tiến đang kể, giọng kể của hắn nghe đều đều như lời cầu nguyện, đầy cam phận cho một tên tử tù trên đường ra pháp trường.

Một lúc sau đó tôi mới hỏi hắn, một câu thiệt vô duyên:

Sao ông không đi tìm họ???

Theo anh thì tôi nên tìm ai? Nhưng định mệnh không cho tôi làm việc đó. Hai người đàn bà này, người nào cũng cho rằng tôi đang sống trong hạnh phúc với người kia. Hãy để cho họ tin như vậy đi, đừng bao giờ làm họ thất vọng. Đó cũng là một cách trả ơn những sự hy sinh đó.

Chính vì thế tôi bỏ hết tất cả và đến đây – một mình – trong cái xó này.

Salt Lake City-Utah
Những tấm lòng cao thượng
Nguyễn đình Liên

[Image: 678757-DB-1595-4-EA6-8263-46-AA5-CF65-B2-F.jpg]
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#41
CẢM NGHĨ VỀ NGÀY 30 THÁNG TƯ: NGƯỜI VIỆT KỲ THỊ NGƯỜI VIỆT

[Image: 176328463-1359226087777172-6317948120667862118-n.jpg]

Tấm hình này được chụp năm 1988 tại ga Hoà Hưng, Sài Gòn.

Người đàn ông mặc bộ đồ tù màu xám, râu tóc bạc phơ trong ảnh là Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh sống sót trở về từ ngục tù cải tạo của Cộng Sản. Người con trai tóc ngã hoa râm đang ôm cánh tay ba và khóc như một đứa trẻ. Nhiều người nhìn tấm hình này cũng đã khóc theo như để chia sẻ chút ít cho nỗi đau ngút ngàn mà anh đã trải qua sau nhiều năm dài đầy ác mộng.

Người vợ sau 13 năm trường gian khổ nhục nhằn, mỏi mòn chờ trông ngày về của chồng với nụ cười trong nước mắt.

Người con trai trông già trước tuổi, cằn cỗi với năm tháng sống đời lây lất tăm tối trong một xã hội phân biệt đối xử với lý lịch “con ngụy”, vì ba anh là “sĩ quan ngụy đi học tập cải tạo”. Những giọt nước mắt của họ phải chăng để mừng đời được “giải phóng” hay ứa ra từ nỗi đớn đau vì bị kỳ thị từ “bên thắng cuộc”. Người Việt kỳ thị Người Việt, những người cùng chung nòi giống, cùng máu đỏ da vàng và cũng là người Việt Nam với nhau 

Đã 46 năm bạn có thể quên vì bạn không bị chế độ Cộng Sản trả thù, kỳ thị, phân biệt đối xử. Bạn quên vì bạn may mắn được di tản ra nước ngoài trước khi Cộng Sản ập đến. Có thể bạn không quan tâm vì không liên quan đến bạn, hay vì bạn sinh ra hoặc lớn lên sau năm 1975.

Nhưng rất nhiều người trong đó có tôi không quên được, mặc dù tôi cũng muốn quên đi những điều xấu xa, dơ bẩn, tệ hại đó đã diễn ra tại quê hương của chúng ta mặc dù không còn tiếng súng 

Tấm hình này làm tôi ứa nước mắt mỗi khi nhìn lại vì tôi là người trong cuộc. Từ đó tôi thấy thân phận những người đã từng có hoàn cảnh giống tôi, anh chị em và các bạn tôi... Vì ba của tôi cũng là người sống sót trở về sau 13 năm bị giam giữ từ trong ngục tù cộng sản!

A.N.
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#42
(2021-04-21, 07:53 PM)Lục Tuyết Kỳ Wrote: CẢM NGHĨ VỀ NGÀY 30 THÁNG TƯ: NGƯỜI VIỆT KỲ THỊ NGƯỜI VIỆT

..................

Bài viết nói lên một sự thật vào những thập niên đó. Và còn rất nhiều những trường hợp phân biệt đối xử dành cho những gia đình, cá nhân có dính líu đến chính quyền cũ xuất phát từ suy nghĩ, chính sách của chính quyền mới, nếu kể ra được thì cần một thời gian thật dài kể mới hết.

Tuy nhiên cũng xin được nói một tiếng nói công tâm rằng, việc dùng cụm từ NGƯỜI VIỆT KỲ THỊ NGƯỜI VIỆT để chỉ chung cho vấn đề này vào thời đó xem ra có vẽ khiên cưỡng bạn Kỳ ơi, theo ý tui thì chỉ là sự phân biệt trong cách đối xử giữa hai bên, bên thắng dành cho bên thua thôi, chưa hẵn là giữa người Việt với người Việt, bởi ngay trong nội bộ của bên thắng vẫn còn có người khi ấy thắc mắc rằng họ vào đây để "giải phóng" cái khỉ khô gì khi nhìn hai xã hội quá khác biệt nhau, khác biệt từ ý thức hệ cho đến sự tự do, khác biệt từ cuộc sống cho đến lối suy nghĩ, vậy thôi.

Còn bây giờ, bỏ qua yếu tố 30 tháng 4 đi để nói đến sự khác biệt giữa những thế hệ người Việt với nhau, từ người Việt ở trong nước với người Việt ở nước ngoài, giữa người Việt ở khắp nơi trên thế giới với nhau, giữa người Việt ở trong nước với nhau thì chuyện NGƯỜI VIỆT KỲ THỊ NGƯỜI VIỆT là chuyện có thật và xảy ra thường kỳ, kể hoài cũng chưa chắc hết.

Chuyện KỲ THỊ giữa người Việt với nhau là một câu chuyện dài không bao giờ dứt được.  Smiling-face-with-halo4
Love is now or never...
Reply
#43
THĂM ANH Z30C

Nguyễn Thị Thanh Dương 
.
Xong phần rán mỡ chờ cho mỡ nguội chị Bông đổ cả tóp mỡ và mỡ nước vào lon “guigoz”, chị Bông để yên chảo trên bếp để rang thịt. Đây là món thịt ba rọi rang mặn.

Thế là xong hai món sau cùng để mang đi thăm anh Bông đang tù cải tạo.
Món mỡ nước dùng để xào nấu thì ít mà chủ yếu là món để anh Bông ăn dần. Chỉ cần chút mỡ nước với vài miếng tóp mỡ rắc vào chút muối là trở thành món mặn ngon lành dù ăn với cơm độn hay mì sợi luộc, khoai mì luộc
Thịt ba rọi ướp đủ gia vị tiêu hành muối đường rang mặn thì “cao cấp” hơn lon mỡ nước, trước đó chị Bông đã làm một lọ ruốc to rang rất kỹ để khó bị hư hỏng và một lo muối mè, muối tiêu..
Thằng Bi ngồi xem mẹ làm, nó thèm thuồng đòi ăn thịt, chị Bông đã bảo con:
- Lúc khác nhà mình ăn, thịt này để dành đi thăm bố ngày mai.

Bí vùng vằng trách mẹ:
- Con mình không cho mà cho người ta.
Chị Bông bật cười trước câu nói của con, bố nó chỉ là “người ta” xa lạ.
Chị đành chịu thua con, lấy cho nó bát cơm với thịt ba rọi rang mặn còn nóng trên bếp dù củi lửa đã tắt.
Chị Bông sinh Bi ngày 13 tháng 8 năm 1975, bố nó không có nhà cho đến ngày hôm nay thì trách gì đứa trẻ lên 5 chẳng thân tình với người cha vắng mặt.mặc dù chị Bông đã nhiều lần kể cho nó nghe về bố, cho nó nhìn những tấm hình cũ của bố nó, nhưng trong đầu óc trẻ thơ thì những hình ảnh ấy cũng xa vời như truyện cố tích.
Ngày 22 tháng 9 năm 1975 cả miền Nam Việt Nam đổi tiền, tiền Việt Nam Cộng Hòa sẽ đổi lấy tiền do ngân hàng Việt Nam phát hành. Thằng Bí mới được một tháng chín ngày tuổi, nó còn bé bỏng qúa chị Bông không thể bế nó theo, phải nhờ một bác hàng xóm trông nó để chị đi đổi tiền.
Chị Bông sống chung với đại gia đình nhà mình, mẹ mất, nhà toàn đàn ông con trai, bố và các cậu em, còn mấy đứa em gái thì nhỏ chẳng biết gì., chẳng ai có thể trông Bí được .
Địa điểm gởi tiền là trụ sở phường gần nhà nên bà hàng xóm đã hai ba lần chạy đến tìm chị Bông và lo lắng:
- Thằng Bi cứ gào khóc tôi dỗ mãi không nín. chỉ sợ nó khóc nhiều qúa…. hết hơi chết mất. Chị về nhà cho nó bú một tí được không? …
Chị Bông vẫn đứng xếp hàng và phải năn nỉ bà hàng xóm một hơi dài :
- Bác ơi, thời gian đổi tiền nhà nước cho có hạn, tiền mình đã ít mà không đổi kịp thì coi như trắng tay lấy gì mà sống. Trẻ con càng khóc càng…nở phổi bác đừng lo, nó lạ người nên khóc chứ không đói sữa đâu., cháu cho nó bú no rồi mới đi mà.
Khi chị Bông đổi tiền xong về đến nhà thằng Bí vẫn còn thỉnh thonảg khóc tức tưởi y như đứa bé bị mẹ bỏ rơi, chị Bông ôm ấp con vào lòng một lát là nó im ngay. Bà hàng xóm phải khen:
- Gớm, thằng con chị Bông mới một tháng tuổi mà khôn lanh qúa. Đúng như chị nói thì ra nó lạ hơi mẹ nên gào khóc phản đối tôi đấy.
Chị Bông vừa nghĩ về con vừa làm tiếp công việc của mình, món thịt rang mặn cũng bỏ vào lon “Guigoz” như món mỡ nước, cái lon “Guigoz” thật tiện lợi, nắp đây kín khó đổ thức ăn ra ngoài. Ấy thế mà có lần chị đã làm. đổ khi đi thăm chồng. lần đầu tiên.
Thời gian đầu sau khi các sĩ quan đi trình diện, nhà nước cho gởi qùa bằng đường bưu điện về một địa chỉ chẳng biết ở nơi đâu ngoài số hòm thư.
Ngày hôm ấy khi ra bưu điện gởi qùa chị Bông đã khóc vì tủi thân, miền Nam thất thủ chồng chị và bao nhiêu người khác thành kẻ tù tội đáng thương, vợ con, cha mẹ, anh em của họ ở cái xã hội chủ nghĩa này bỗng bị mang bản án lý lịch đen tối như đêm ba mươi khó mà ngóc đầu lên nổi.
Sau này chị Bông được biết anh đã ở Long Khánh, rồi đổi về Thành Ông Năm, Hốc Môn thì chị Bông nhận được giấy đi thăm nuôi chồng lần đầu tiên.
Ôi, ngày vui mừng cũng là ngày nước mắt. Khi gặp anh, ngồi cùng anh nơi dãy ghế dài giữa đám đông người cũng thăm nuôi như mình chị Bông đã khóc ngon lành, qúa cảm xúc chị đã luống cuống đánh đổ cả lon “guigoz” mỡ nước, mỡ dây bẩn ra cả quần áo chồng và vợ nhưng chả ai kịp lau chùi kỹ, chỉ lau sơ sơ rồi hối hả nói chuyện tiếp vì sợ hết giờ.

Về đến nhà chị mới tiếc lon mỡ, tự trách mình vụng về làm chồng mất một món ăn.
Chị Bông chỉ được thăm chồng một lần ở Thành Ông Năm thì anh lại chuyển trại về Hàm Tân Thuận Hải .

Cứ khỏang chừng một năm chị lại nhận giấy thăm nuôi chồng ở Hàm Tân Thuận Hải. Thế nên dù chưa nhận được giấy phép đi thăm nuôi lần sau chị Bông đã sắm sửa dần dần, chứ mua sắm một lúc thì tiền đâu ra, chị dặn chị Hai Pháo hàng xóm, người chuyên buôn hàng từ Tây Ninh về, khi thì mua ký đường thẻ, đường Thốt Nốt, lúc thì mua cân nếp, đậu xanh,

Mì sợi, bánh mì thì chị Bông phơi khô ở nhà và để dành sẵn nên khi nhận được giấy thăm nuôi là chị Bông đã có đủ cả chưa kể các món hàng từ bên phía nhà chồng gởi cho nên lần nào đi thăm nuôi anh Bông cũng là hai bao tải.như ngươi đi buôn lậu.thời buổi khó khăn.

Ngày mai chị Bông sẽ đi thăm chồng tại trại cải tạo Z30C, Hàm Tân Thuận Hải 
Ngày mai chị Bông sẽ cho hai con đi thăm bố, đây là lần đầu tiên Bi được đi.
Tờ mờ sáng 3 mẹ con đã có mặt ở điểm hẹn tại ngã ba Hàng Xanh, nơi chuyến xe than sẽ đón khách toàn là những vợ tù cải tạo đi thăm chồng tại địa điểm Hàm Tân.

Chiếc xe than chạy đi trong sương mờ gió sớm, thằng con lớn ngồi bên cạnh còn thằng Bi ngồi trong lòng mẹ ngủ tiếp. Gió thốc qua lưng chị Bông cảm giác lạnh lùng, nhất là khi xe chạy qua những cánh rừng cao su thăm thẳm. ..
Chị Bông nhìn cảnh bên đường, thỉnh thoảng có những cục than đỏ hồng từ thùng than của xe rơi xuống lăn trên đường như những đốm mắt đỏ trên nẻo đường đi, những đốm mắt đỏ vì thương nhớ và mòn mỏi chờ mong của những người vợ tù đi thăm chồng, của những đứa con thơ ngơ ngác mong người cha trở về...

Trời sáng dần, đến Long Khánh có những vườn chôm chôm chín đỏ bên đường, xe than dừng bánh tại một vườn chôm chôm cho mọi người xuống nghỉ và mua trái cây.

Hành khách xúm xít vào vườn hái chôm chôm hay mua chôm chôm đã hái sẵn bày ngoài bàn bên lề đường.
Hai đứa con chị Bông lần đầu tiên được thấy cây chôm chôm có trái chúng nó thích qúa, thằng anh bảo thằng em:
- Đi thăm bố vui nhỉ Bi
Bi hí hửng nói với mẹ:
- Con thích đi thăm bố để hái chôm chôm mẹ ơi…
Ba mẹ con ôm ba bịch chôm chôm đầy ắp lên xe để tiếp tục cuộc hành trình.
Khi xe đến Hàm Tân tất cả hành khách xuống xe với hành lý của mình. Xe than đi tiếp đến Phan Thiết và sẽ quay lại đón khách vào buổi chiều, đưa khách trả về thành phố Sài Gòn.
Chị Bông đã đi thăm chồng vài lần tại Z30C nên có nhiều kinh nghiệm, chị đã quen con đường từ đây đi bộ vào trại nhưng sẽ gian nan cho hai đứa con, con đường đầy cát bụi , mỗi bước đi là bàn chân chìm trong cát.. Thương con qúa..
Chị trả gía kỳ kèo từng đồng một với đám xe thồ để thuê họ thồ hai bao tải qùa.
Người thồ xe buộc hai bao tải vào hai bên chiếc xe đạp và dắt xe đi theo chị Bông vào trại.
Thằng lớn vừa đi vừa thỉnh thoảng túm áo mẹ vì sợ ngã, chị Bông bế thằng Bi trên tay, mỏi cả tay nhưng chẳng nỡ để thằng bé 5 tuổi phải đi bộ, chỉ thỉnh thoảng cho nó đứng xuống để chị nghỉ tay.. 
.
Cổng lán trại hiện ra như cổng thiên đường vì nơi ấy sẽ có niềm vui gặp gỡ cho bao người chờ mong, người trong tù và người đi thăm tù.…
Chị Bông nhìn cây Phượng non nơi cổng trại, cây Phượng cao mới hơn đầu người, lá xòe ra xinh đẹp xanh tươi đu đưa thật hồn nhiên trong gió. .
Sau khi trình giấy tờ nơi cổng trại mẹ con chị Bông lê lết kéo mang hai bao đồ vào lán gần ngay đó. Hai con chị Bông gặp trẻ con nhà khác thế là chúng chơi chung với nhau nhanh chóng cũng như các phụ nữ cũng nhanh chóng làm quen chuyện trò với nhau trong khi chờ đợi gặp gỡ người thân.
Chị Bông đi rảo một vòng quanh lán, lán là dãy nhà hình chữ L làm bằng tre nứa mái lợp lá, nền đất nện chắc, dĩ nhiên là công sức của những người tù cải tạo. Nơi sau lán có mấy hố xí, nơi đầu lán có cái giếng bên cạnh nhà bếp để cho thân nhân tù có thể rửa ráy và nấu nướng.
Những người giàu có hay người cầu kỳ họ mang theo nồi niêu bát đũa và những thức ăn tươi ngon để nấu tại bếp này, chốc nữa người tù của họ sẽ được ăn một món ăn ngon đặc biệt nào đó.

Người ta xầm xì vì phái đoàn thăm nuôi ông giám đốc ngân hàng Việt Nam Thương Tín, họ đi thăm nuôi mang nhiều đồ ăn thực phẩm đắt tiền, ngoài vợ con ông còn có người giúp việc đi theo để khuân đồ và nấu nướng ..

Một tiếng sau mọi người trong lán nhốn nháo mừng rỡ bảo nhau người tù đang ra, họ đổ xô ra ngoài cửa lán chờ vì từ xa đang có đoàn người đi đến, dòng người xám xịt trong buổi trưa trời quang mây tạnh.

Chị Bông gọi hai con và ba mẹ con cũng chen chân lóng ngóng bên thềm lán. Chị dặn dò con:
- Lát nữa gặp bố hai con ôm bố, chào bố nhé.
Thằng anh hứa:
- Vâng ạ.
Còn thằng em thì nghi ngại:
- Nhưng bố có quen con không?
Chị Bông phải dỗ dành:
- Bố quen và thương Bi lắm đó..
Chị Bông căng mắt ra tìm chồng trong đám đông khi họ đã dừng lại trước sân lán, ông nào cũng xơ xác như nhau từ mặt muĩ, vóc dáng đến áo quần. Khó mà hình dung ra trước kia họ là ai.

Nhiều người tù nhận ra thân nhân trước khi thân nhân nhận ra họ.

Anh Bông đang đứng trước mặt vợ con, thằng con lớn đã được đi thăm bố vài lần, quen mặt bố, nó ôm chầm lấy bố vui mừng.
Chị Bông bế Bi lên đưa cho anh Bông, nó lạ lẫm mắc cở nhưng không dám phản đối,.cả nhà kéo nhau vào lán thăm nuôi cùng với hai bao đồ.
Trong lán thăm nuôi kê một dãy bàn dài, gia đình chị Bông được bố trí ngồi ngay đầu bàn mà nơi đầu bàn có công an đứng canh nên vợ chồng trao đổi câu chuyện hết sức cẩn thận, Chị Bông không lãng phí thời gian vào đề ngay, chị nói nhỏ bên tai chồng “Họ đến nhà khuyên em đi kinh tế mới thì chồng sẽ mau về anh ạ”.

Anh Bông vội vàng đáp lại:” Không, em đừng bao giờ đi kinh tế mới mà khổ thân, hai việc chẳng có liên quan đến nhau. Vợ một thằng tù bạn anh đã đi kinh tế mới cả năm nay mà có thấy ai cho nó về đâu. ”

Thằng Bi nãy giờ vẫn ngồi im thin thít trong lòng bố. Chị Bông muốn con tự nhiên và thân thiện hơn với bố nên bảo nó::
- Bí hát cho bố nghe một bài đi.
Bí thích hát và hay hát, nghe thế nó tụt ngay ra khỏi lòng bố, đứng xuống đất và hồn nhiên nói:
- Con hát bài đêm qua em mơ gặp bác Hồ cho bố nghe mẹ nhé..
Ôi, Bi biết gì về bác Hồ mà mơ gặp “bác” ttrong khi nó chưa bao giờ ước ao mơ gặp bố nó. Vì có anh công an đứng gần nên chị Bông chẳng biết nói gì hơn. .
Bi hát xong được bố mẹ khen nó sung sướng lắm. Vợ chồng chị Bông tiếp tục nói chuyện, bao nhiêu điều muốn nói dịp này cứ tuôn ra không kịp…
Bỗng có tiếng khóc thất thanh của thằng Bi ở đâu đó: “Mẹ ơi, mẹ ơi…” thì ra hai anh em Bí đã chạy đi chỗ khác chơi mà vợ chồng chị Bông mải xúm đầu vào nhau nói chuyện không ai để ý.. Thằng anh đã về đúng chỗ cũ với bố mẹ, thằng em đang bị lạc nên khóc ầm lên như thế.

Chị Bông phải vội vàng đứng dậy đi tìm con theo tiếng khóc của nó, thằng bé đã đi sang lán thăm nuôi bên kia và quên đường trở về vì cách bài trí đều giống nhau, cũng cái bàn dài, cũng đầy người ngồi nói chuyện mà không thấy bố mẹ đâu cả..

Nó làm phí mất của bố mẹ mấy phút giây vàng ngọc.

Mười lăm phút thăm nuôi ngắn ngủi, mười lăm phút phù du đã bay vèo. Anh công an dõng dạc tuyên bố đã hết giờ, các thân nhân ra về để cải tạo viên còn thu xếp hành trang về trại.

Mọi người lại nhốn nháo đứng lên, nắm níu tay nhau, nước mắt và nụ cười lẫn lộn. Anh Bông nhân lúc lộn xộn này vội duí vào tay chị Bông một mẩu giấy cuộn tròn và nói nhỏ:” em đứa thư anh Đức về cho người nhà theo địa chỉ trong thư”
Chị Bông cũng vội cất mẩu giấy vào trong giỏ xách và hỏi lại cho chắc ăn “Anh Đức ở Phú Nhuận hả anh?”

Anh Bông chỉ kịp chớp mắt trả lời vì anh công an đã đến gần.
Anh Bông cột dây vào hai miệng bao tải và xỏ vào hai đầu cái đòn tre để chuẩn bị gánh quà về trại. Anh lại đi bộ gần hai cây số đường rừng để về trại.cũng như chị lại đi bộ hai cây số đường cát nóng để rời lán.. Giữa hai vợ chồng là con đường ngược chiều, càng đi càng xa nhau vời.vợi.

Chị Bông dắt tay hai con đứng nhìn đám tù nhân cải tạo trước khi rời lán:
- Hai con nhìn kỹ bố đi. Lâu lắm chúng ta mới được đi thăm lần nữa.
Thằng Bi chê:
- Mẹ ơi, con thấy bố và các bạn của bố ai cũng nghèo và xấu qúa.
- Tại họ đi học tập xa nhà con ạ.
Thằng anh thì hỏi một câu thực tế:
- Bao giờ bố về?
- Bao giờ bố học tập tốt thì sẽ về.
Ra đến cổng trại chị Bông nhìn cây Phượng non vẫn đang rung rinh trong nắng gío, lòng chị bỗng ngậm ngùi, hoa Phượng mai này còn được nở hoa, được tự do khoe nhan sắc với đời, 
Những người tù cải tạo thì đang lầm lũi bước trở lại trại tù và không biết được ngày mai, không biết được ngày về cho nên chị Bông đã không thể trả lời được câu hỏi của thằng con lớn..
Đi bộ trên con đường đầy cát lần trở về hình như chị Bông bước chậm hơn lần đến, cát níu kéo từng bước chân chị Bông. Hành lý không còn mà lòng chị mang nặng nỗi buồn.

Chuyến xe than đã đợi sẵn, chủ xe kết hợp buôn nước mắm từ Phan Thiết về Sài Gòn vì chuyến về xe rộng, hành khách không còn hành lý cồng kềnh nữa.
Chị Bông nhìn lại con đường đầy cát dẫn vào lán trại, con đường đã đưa chị gặp chồng và cũng đã đưa chị rời xa., con đường đã cho chị niềm vui nao nức và cũng đã cho chị nỗi niềm thất vọng. xót xa.

Tạm biệt anh, tạm biệt Z30C Hàm Tân Thuận Hải. Hẹn anh một ngày tao ngộ nhưng không phải tại nơi này…
Ngồi trên xe hai con chị thấm mệt lim dim ngủ. Trẻ con thật vô tư.

Chị Bông ôn lại từng phút giây gặp gỡ chồng, tất cả đến rồi đi như một giấc mơ.

Chị nhớ đến mẩu giấy nhờ chuyển của người tù tên Đức. Chị đã một lần mang thư đến nhà này rồi, chị đạp xe từ Gò Vấp lò mò tìm đúng địa chỉ, là một căn nhà to đẹp kín cổng cao tường, khi chị bấm chuông cửa một người hé cổng thò đầu ra nghe chị nói, họ cám ơn và nhận thư xong lạnh lùng khép cánh cổng lại.

Lần này anh Đức lại nhờ chuyển thư nữa, chị cũng vì bạn chồng, vì sự tin cậy chờ mong của người trong tù gởi gấm mà đến nhà này lần nữa dù thái độ khi nhận thư người thân của họ chẳng mấy mặn mà..

Không biết người trong ngôi nhà to đẹp ấy là người thân thế nào với anh Đức mà để anh thiếu thốn cứ phải gởi thư xin thêm đồ tiếp tế và dặn dò nhớ đi thăm anh...

Có lần chị Bông cũng chuyển thư cho vợ một bạn tù cùng với anh Bông, nhà này ở cư xá Lữ Gia, chị Thành vợ anh Thân cảm động khi nhận được thư chồng .
Chị Bông quen chị Thành từ đó. Thỉnh thoảng chị Thành đạp xe đến nhà chị Bông chơi., cả hai cùng tuổi, cùng cảnh nên dễ thân nhau. Trong tù hai ông thân nhau thế nào thì chị Bông và chị Thành cũng thân nhau thế đấy.

Nhà chị Thành ở cạnh nhà cha mẹ ruột, cùng làm nghề sản xuất miến. Khi anh Thân đi tù cải tạo chị Thành không làm miến nữa, ba mẹ con chị sống trong sự đùm bọc của gia đình bên ngoại.

Chiếc xe than vẫn chạy đều đều trên đường., càng lúc càng xa Z30C Hàm Tân Thuận Hải.

Chị Bông thẫn thờ nhìn con đường dài đang chạy lùi phía sau, những cục than đỏ hồng trong thùng xe than vẫn thỉnh thoảng rơi trên đường, lần này những cục than cháy đỏ ấy như những ánh mắt lưu luyến thiết tha của những người chồng người cha từ trong trại tù cải tạo Z30C Hàm Tân Thuận Hải đang lưu luyến dõi theo vợ con họ trên đường về nhà.

Nguyễn Thị Thanh Dương

[Image: 176241595-3832403920129181-7461375470338052744-n.jpg]
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#44
Share lại một bài viết cũ của mình nhân ngày giỗ của ông, Cố Chuẩn Tướng Lê Đức Đạt.  Cũng như một nén hương gởi tới vị tuấn kiệt tài ba anh dũng đã vị quốc vong thân, mong hồn thiêng của ông phù trợ những đứa sinh sau đẻ muộn chúng tôi luôn giữ vững niềm tin và tranh đấu cho dân tộc Việt Nam sẽ có được một ngày Dân Chủ, kg còn bị áp bức như hôm nay.

Về Tân Cảnh và John Paul Vann, phim A Bright, Shinning lie có nói đến.  Trong phim này, John Paul Vann muốn lừa VC vào Tân Cảnh để tiêu diệt bằng không lực, sau đó được TT Thiệu gắn huy chương ngay mặt trận rồi bị tai nạn máy bay trược thăng ngay sau đó.  Trong phim cũng có nói về vài sĩ quan hèn nhát của VNCH.  Nhưng phim làm theo lời thuật của một phóng viên Mỹ, mà sự chính xác thường là không hoàn toàn và mỉa mai vì để chạy tội cho sự bỏ rơi đồng minh của Hoa Kỳ.  

Hãy trả sự thật lại cho lịch sử!
...

Tôi là một đứa con gái trưởng thành và lớn lên trên đất khách, đã nhận Hoa Kỳ là đất nước của tôi, Quốc Kỳ của tôi lá cờ trắng/đỏ/xanh, Quốc ca của tôi là Star-Spangled. Nhưng may mắn cho tôi, dòng máu của Mẹ Việt Nam vẫn tuôn chảy, và gia sản tôi nhận được là một kho tàng lịch sử oai hùng của một dân tộc hơn bao nghìn năm đẫm máu, hiên ngang trước kẻ xâm lăng. Những tài liệu lịch sử mà bố tôi và các bác bắt tôi phải học ngay từ tấm bé để kg quên cội nguồn của mình khi sống trên một đất nước tự do, cũng như kg quên mối thù dân tộc đã khiến bao người phải lâm vào cảnh nhà tan cửa nát. Và luôn hãnh diện là người con gái mang dòng máu Việt Nam, da vàng luôn hướng về đất Mẹ, như bài hát "Mẹ ơi, con là người Việt Nam". Tôi rất hãnh diện là hậu thế của sĩ quan QLVNCH đã vị quốc vong thân, đã bị bao năm tù đày, tra tấn đẫm máu trong trại "Cải tạo", và của những vong linh đã bỏ mình trong biển Đông khi đi tìm Tự Do.

Trong các tài liệu tôi học được, bài về Chuẩn Tướng Lê Đức Đạt đã gây nhiều cảm xúc kg ít, có lẽ vì dáng dấp thư sinh bên ngoài một trái tim đầy nhiệt huyết của một vị tướng.

Ngày 23 tháng 4, 1972 đã anh dũng hy sinh ngoài chiến tuyến. Ông đã được phong cấp Tướng ngày 24 tháng 4, năm 1972.

Dưới đây là bài viết về vị Cố Chuẩn Tướng của Mũ Đỏ Trung Tá Bùi Đức Lạc ...

LT aka LTK
4/23/2013

[Image: 5965-10201532034089957-1582701900-n.jpg]
...

CỐ CHUẨN TƯỚNG LÊ ĐỨC ĐẠT - NGUYÊN TRUNG ĐOÀN TRƯỞNG THIẾT GIÁP -ĐẠI TÁ TỈNH TRƯỞNG BÀ RỊA - ĐẠI TÁ TƯ LỆNH PHÓ--- TƯ LỆNH SƯ ĐOÀN 22 BỘ BINH : HẮC BẠCH NHỊ HÀ QLVNCH : VỊ QUỐC VONG THÂN -TRẬN TÂN CẢNH : DÂY KẼM GAI BỌC THÂY ANH HÙNG 23.4.1972.

Chuẩn Tướng Lê Đức Đạt
Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Chuẩn Tướng Lê Đức Đạt
Mủ đỏ Bùi Đức Lạc

Trận Tân cảnh 23-4-1972: Kẽm Gai Bọc Thây Anh Hùng

Thực tình tôi không muốn viết bài này vì nó cho tôi một kỷ niệm nhiều đau thương nhất trong cuộc đời binh nghiệp vốn dĩ đã kém may mắn cuả tôi, hơn nữa tôi không muốn gợi lại những chuyện (sự thật đau lòng) nhưng một vị đàn anh dã yêu cầu nên tôi đành vâng lời, tôi cố gắng chỉ viết những gì thật cần thiết, còn những gì không cần thiết tôi xin được né tránh, một điều xin thưa rằng đây là sự thực những gì tôi thấy, những gì tôi nghe; nhớ tới hình dáng người dân địa phương, lưng mang gùi nặng tay vẫy chào như trao trách nhiệm bảo vệ thôn rẫy, mà lòng nào đành quên sao? Nhớ tới những vị đàn anh, những người bạn, những người em lạc lõng tại SÐ22BB mà lòng nao nao bất ổn, đây là một cuộc hành hạ không phải là một trận đánh, tôi không hiểu sao sau khi SÐ22BB bị bỏ rơi tàn bạo mà tôi còn đủ tinh thần tiếp tục chiến đấu, tôi vẫn ngạc nhiên tại sao chúng ta vẫn hiên ngang ôm lấy quê hương cho đến năm 1975.

Nguyễn Ðình Bảo mới ra đi hun hút, tôi lặng người trước cơn gió tây Hạ Lào, dáng dấp lao đao như muốn ngả theo gió, cách nay 5 năm tức năm 1967 tôi đã tiễn một người bạn đồng cư trong trại Học sinh di cư Phú Thọ ra đi tại đây Nguyễn Thu, toàn những mất mát rơi rụng không bao giờ cầm lại được, năm 1959 tôi cùng Ðại Úy Lai văn Chu Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 7 Bộ Binh SÐ3DC chơi Vũ Cầu rất thân thiết, hai năm sau ông đổi lên Tân Cảnh rồi hai năm sau nữa tôi thấy tên ông trên cổng trại Trung Ðoàn 42 Bộ Binh tức doanh trại Bộ Tư Lệnh Hành Quân cuả SÐ22BB bây giờ.

Tôi được đọc hai cuốn sách cuả hai tác giả rất nổi danh và baì viết của vị trưởng Phòng 2 Quân Ðoàn II tuy chỉ nói phớt qua về SÐ22BB nhưng điểm chính đều sai lạc. Cuốn thứ nhất tôi được đọc khoảng năm 1988 trong sách nói (khi bị tấn công thì Trung Ðoàn 42 thuộc SÐ22BB và Bộ Tư lệnh của Sư Ðòan này đầu hàng). Cuốn thứ hai khỏang năm 1994 nói (sau khi bị địch quân vây hãm Ðại Tá Lê Ðức Ðạt Tư Lệnh SÐ22BB được trực thăng bốc ra ngoài), bài viết của vị Trưởng Phòng 2 Quân Ðoàn tôi được đọc năm 1996 (SÐ22BB thua là do rút Nhảy Dù đi nơi khác). Tôi thật sự không hiểu tài liệu tham khảo ở đâu vậy. Thứ nhất: SÐ22BB không hề đầu hàng mà bị thất thủ. Thứ hai: Ðại Tá Tư Lệnh SÐ22BB tử trận ngay tại chỗ. Thứ Ba: Tôi chính là người cho lệnh bắn yểm trợ sau cùng, và có lẽ là người sau cùng tiếp chuyện trên máy với vị Tư Lệnh khả kính này trước không đầy 3 phút khi ông vĩnh viễn ra đi.

Rải rác khắp các vùng chiến thuật biết bao nhiêu chiến sĩ Vô Danh đã anh dũng chiến đấu và hiên ngang gục ngã họ chẳng bao giờ được nhắc nhở và nếu may mắn được nhắc tới thì cũng chứa chất hàm hồ sai lạc như các chiến sĩ SÐ22BB. Gặp lại những người bạn cũ trên chiến trường này than phiền về những bất công cuả dư luận, nhất là một người anh nên tôi xin kể lại trận đánh có một không hai này.

Ngày 14-4-1972 tôi tháp tùng Ðại Tá Lữ Ðoàn Trưởng LÐ2ND bay trên căn cứ Charlie, chúng tôi không sao ngăn được những giọt lệ tự nhiên lăn trên gò má. Căn cứ Charlie không còn nữa mà chỉ còn là một vùng đất đỏ, trông như một khu đất mới được cầy lên để chuẩn bị canh tác không một công sự nào còn tồn tại, tất cả mọi sinh vật trong vùng này đều bị hủy diệt và chắc chắn không còn nguyên vẹn hình hài, tôi sẽ nấc lên khi gọi tên Bảo, thân xác anh đích thực đã trở thành tro bụi, cùng với các chiến sĩ anh hùng TÐ11ND và một Trung Ðoàn cuả SÐ320 Công Sản Bắc Việt, những tấm thảm B52 đã trải lên Charlie để Charlie không còn tồn tại trên thế gian này. Tuy vậy phòng không của địch trên sườn Yankee và khoảng giữa Delta và Charlie và dưới sườn phiá đông nam của Charlie cũng giăng lưới đầy trời, tôi trình bầy với ÐT/LÐT những vùng thông thủy không có phòng không chắc chắn các đơn vị chúng đang ẩn náu tại đó nếu không phòng không của chúng đã rút đi rồi, ta nên xử dụng Pháo Binh, ÐT/LÐT đồng ý ngay và những loạt đạn TOT phủ xuống như một tấm thảm B52, quả nhiên vì không hầm hố cho nên địch quân chạy tán loạn, và đương nhiên không khi nào các Pháo Thủ Mũ Ðỏ lại để chúng an lành như vậy, sau một giờ bay vừa tránh đạn phòng không vừa điều chỉnh Pháo Binh. Phi công xin đi đổ xăng chúng tôi đáp xuống Tân Cảnh. Trực thăng bay đi phi trường Phượng Hoàng đổ xăng; chúng tôi vừa đến cửa Trung Tâm Hành Quân (TTHQ) cuả BTL/SÐ22BB thì hoả tiễn cuả địch dàn chào ngay, một vị sĩ quan nói đùa (chúng nó chào mừng Nhảy Dù đó). Tại TTHQ Ðại Tá Lê Ðức Ðạt TL/SÐ22BB đề nghị cùng ÐT/LÐT/LÐ2ND là cho TÐ9ND do Trung Tá Trần hữu Phú làm TÐT vào giữ căn cứ Tân Cảnh,nhưng ÐT/LÐT/LÐ2ND không đồng ý với những lý do sau đây: Thứ nhất: trong căn cứ quá đông người. Thứ hai: việc bảo vệ BTL/SÐ22BB phải do đơn vị cơ hữu chiụ trách nhiệm. Thứ ba: các đơn vị Nhảy Dù lưu động có hiệu quả hơn là nằm một chỗ. Tôi nhìn thấy nỗi lo lắng hiện trên khuôn mặt hiện đang khắc khổ của vị TL/SÐ22BB. Sau đó ÐT/LÐT/LÐ2ND đề nghị nên cho TÐ9ND đang trong vùng của LÐ2ND vào chiếm những cao điạ hướng đông đông bắc cuả Tân Cảnh còn BCH/TÐ nên cho đóng tại phi trường Phượng Hoàng vì dẫy núi này sẽ chế ngự mọi hoạt động không vận cho Tân Cảnh và phi trương Phượng Hoàng, ÐT/TL/SÐ22BB mừng rỡ và đồng ý ngay, ông đề nghị Nhảy Dù nên xin tăng cường quân, nhưng ông đâu có biết hiện nay Sư Ðoàn Nhảy Dù không còn một đơn vị nào tại hậu cứ.

Ngày 15-4-1972 toàn bộ TÐ9ND vào vùng hành quân mới, hai Ðại Ðội do Thiếu Tá Võ thanh Ðồng TÐP chỉ huy,dùng trực thăng chiếm các cao địa nhưng ngày khởi đầu hai trực thăng bị bắn rơi vì LZ (bãi đáp) được dọn quá sơ sài. Ngoài tầm của các Pháo Ðội TÐ1PB/ND, hơn nữa TÐ9ND được tăng phái cho SÐ22BB nên tôi không có trách nhiệm đổ quân cũng như dọn bãi đáp, ngược lại lúc này tôi phải yểm trợ trực tiếp cho một Liên Ðoàn BÐQ mới được tăng phái dưới quyền chỉ huy cuả LÐ2ND. Hai đại đội còn lại cuả TÐ9ND tung vào lục soát khu vực hướng bắc và tây bắc cuả căn cứ Tân Cảnh tức hướng tây cuả phi trường Phượng Hoàng còn lại BCH/TÐ9ND đồn trú ngay tại phi trường Phượng Hoàng. Như vậy ngoài vòng đai căn cứ Tân Cảnh từ hướng Tây bắc sang đến hướng đông đông bắc là do TÐ9ND trách nhiệm, còn các hướng khác là do các đơn vị cơ hữu cuả SÐ22BB trách nhiệm.

Ngày 18-4-1972 khoảng 2330g địch quân pháo và đánh thăm dò căn cứ, từ chùa Tân Cảnh địch quân dùng hoả tiễn điều khiển bắn các chiến xa phòng thủ trong căn cứ, nhưng không một chiến xa nào bị hạ. Ngày 19-4-72 chúng tôi lại đáp xuống Tân Cảnh thì các sợi dây mầu xanh, đỏ, vàng điều khiển hoả tiễn còn vương vãi trên hàng rào phòng thủ, vị trí đặt hoả tiễn ngay tại chùa Tân Cảnh tức phía tây nam căn cứ cách không tới 1Km, nên ngoài tầm chính xác của hỏa tiễn đó là lý do không trúng chiến xa cuả ta, nhưng nó đã làm cho quân ta xuống tinh thần không ít. Tôi vòng phiá nam căn cứ thấy đang huấn luyện chống chiến xa địch nhưng từ HLV trở xuống không ai thấy chiến xa địch bao giờ, và lúc này dàn phòng không của địch đã đến gần căn cứ chúng tôi là người phát hiện đầu tiên, khi địch quân khai hỏa nếu chúng tôi bay cao một chút, hay bay sát lộ thì đã bị hạ rồi, nhưng vì bay sát ngọn cây và xa đường lộ nên thoát nạn. Vị trí phòng không ngay sát căn cứ trong vùng trách nhiệm của SÐ22BB gần trên đường đi Võ Ðịnh nơi đóng quân của LÐ2ND. Lúc này bất cứ ai cũng cảm thấy địch quân sắp sửa dứt điểm Tân Cảnh, nhưng cấp trên cũng vẫn chưa cho không quân chiến lược can thiệp, còn không quân chiến thuật cũng rất hạn chế, khi đánh căn cứ số 6 hay căn cứ số 5, chúng tôi xin không quân chiến thuật còn dễ dàng và dồi dào hơn bây giờ. Lúc đó ta chỉ là cấp đại đội bị vây hãm, còn bây giờ sự an nguy cho cả một Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn và một Trung Ðoàn cộng. Vậy mà cấp trên vẫn thờ ơ. Sức người có hạn hỏi làm sao chống đỡ được đây? Nhất là hiện nay trục lộ tiếp tế cũng đã bắt đầu bị chặn đứng, trong khi những đoàn xe tiếp tế cuả địch quân di chuyển cả ban ngày, còn ban đêm xe địch quân di chuyển, đèn sáng như trong thành phố vậy. Hỏi làm sao tinh thần của anh em SÐ22BB còn vững được. Các dấu hiệu rõ ràng sự xuất hiện cuả SÐ320, SÐ304, SÐ986, các trung đoàn phòng không, các trung đoàn chiến xa. Thời điểm này nếu chúng ta khôn ngoan một chút thì phải cho BTL/SÐ22BB rút về cố thủ tại Kontum. Tân Cảnh nếu cần chỉ nên để lại một trung đoàn là nhiều, chứ không nên để một BTL/SÐ làm tiền đồn cho Quân Ðoàn, lúc đó quân số mà BTL/SÐ22BB chỉ huy chỉ vỏn vẹn có Trung Ðoàn 42 Bộ Binh còn Lữ Ðoàn Nhảy Dù thì Bộ Tổng Tham Mưu có thể rút đi bất cứ lúc nào, ai cũng rõ là địch sẽ dùng một Sư Ðoàn cộng với chiến xa để dứt điểm Tân Cảnh, trong khi SÐ22BB chỉ có một Tiểu Ðoàn trừ trong căn cứ để bảo vệ BTL. Không có chiến lược hay chiến thuật nào lại xử dụng BTL/SÐ làm tiền đồn bao giờ, một sự bất nhẫn tàn bạo đã phí mạng hàng trăm quân nhân và làm thành làn sóng bất mãn. Quân số không quan trọng bằng tinh thần, tôi thấy anh em trong căn cứ tinh thần xuống từ khi không được yểm trợ không quân đúng mức nhất là những mục tiêu rõ ràng, chẳng hạn như đoàn xe địch di chuyển ban ngày không bị một lực lượng nào ngăn cản, hay những vị trí phòng không, vị trí pháo binh của địch. Việc Tân Cảnh còn hay mất chỉ còn chờ thời gian khi nào địch quân khởi sự tấn công mà thôi thật sự là như vậy. Tôi đang ghi chép những vùng địch tập trung, ÐT/TL/SÐ22BB gọi tôi ra chỗ vắng dặn dò (tôi quen Co Chuan tuong Ðạt khi ông còn là Tỉnh Trưởng Bà Riạ không lần nào xuống Trung Tâm Huấn Luyện Vạn Kiếp thao dượt mà ông lại quên đón chúng tôi vào tư dinh để hàn huyên, tôi thường gọi ông bằng anh, chỉ gọi bằng cấp bậc những khi có mặt người khác).

- Anh cảm thấy nguy đến nơi rồi, bọn Tây (Cố Vấn Mỹ) mấy hôm nay nó có thái độ rất lạ lùng, chú mày nhớ rằng có chuyện gì phải vào tần số chỉ huy để yểm trợ cho anh.
- Anh nên vào tần số của em dễ làm việc hơn tốt nhất anh nói bên Pháo Binh biệt phái một toán Sĩ Quan Liên Lạc bên cạnh anh, họ sẽ có đủ đặc lệnh Truyền tin để liên lạc với em.
- Ừ như vậy tiện đó, nhớ rằng anh rất cần em khi có biến động.
- Anh cẩn thận em thấy không được yểm trợ đúng mức anh em trong căn cứ có vẻ mất tinh thần. Ông gật đầu tỏ dấu không còn làm gì hơn được. Ông bắt tay tôi thật chặt trước khi chia tay, mắt ông đờ đẫn vì nhiều đêm mất ngủ, chúng tôi trở về căn cứ Võ Ðịnh nhìn cách phòng thủ và tinh thần cuả anh em Mũ Ðỏ tôi an tâm, đặn dò Trung Tâm Phối Hợp Hoả Lực nếu SÐ22BB bị đánh phải gọi tôi dậy ngay, dầu gì tôi cũng chỉ còn Pháo Ðội trên Yankee là có thể bắn cho Tân Cảnh, được đạn dược trên đó còn. Hai Pháo Ðội 105 ở Võ Ðịnh và Non Nước thì mút tầm, có thể xử dụng 155 ở Non Nước. Tôi dặn dò các Pháo Ðội liên hệ, cũng là lúc mà tôi điều khiển tác xạ vào vùng tập trung quân chung quanh Tân Cảnh, hai Pháo Ðội mặc dù mút tầm tôi vẫn cho bắn vào những nơi không qua đầu hay thẳng trục đồng hồ chỉ 0300G vậy mà ÐT Ðạt vẫn còn trên máy, trận Hạ Lào cũng không làm tôi bối rối như trận này.
Ngày 20-4-72 các đơn vị hoạt động chung quanh căn cứ Tân Cảnh ghi nhận địch quân di chuyển đông và tiến dần về Tân Cảnh, hướng tây bắc (DAKTO) có tiếng đoàn chiến xa di chuyển. Khi bay lên vùng này chúng tôi cố gắng tìm dấu vết chiến xa nhưng địch quân không để lộ dấu vết. Như vậy chiến xa địch nếu có cũng ít mà thôi. Ðồng thời ÐÐ2TS/ND cũng làm thịt những toán TSV/PB cũng như những toán tiền thám cuả địch chung quanh căn cứ cuả LÐ2ND (Võ Ðịnh).

- Ngày 21-4-72 các ÐÐ cuả TÐ9ND bắt đầu chạm địch cánh quân trên núi đụng rất nặng, một ÐÐ Trưởng tử thương, TÐP bị thương nặng không sao có thể tản thương được, hai ÐÐND hoạt động hướng tây bắc Tân Cảnh bắt sống được một tù binh trong toán Tiền Sát Viên Pháo Binh. Tù binh khai thuộc SÐ968 và mới từ Bắc vào bổ xung cho đơn vị này, theo kinh nghiệm khi nào TSV/PB tới gần tức là để điều chỉnh Pháo Binh và không bao giờ chúng đi một toán, mất toán này còn toán khác, khi Pháo địch đã hoạt động trúng ta, là thời điểm tấn công cũng bắt đầu, pháo bắt đầu mãnh liệt từ 1800G và lúc 2300G chúng tấn công thăm dò căn cứ, lần này chúng tấn công quy mô hơn, hoả lực vũ bão hơn, vậy mà không quân chiến thuật chỉ yểm trợ có một phi tuần mà thôi, một tiền đồn với cấp Ðại Ðội nếu bị đánh cũng không đến nỗi yểm trợ rời rạc như vậy, từ hôm đó một vị sĩ quan Pháo Binh bên cạnh TL/SÐ22BB bắt đầu liên lạc với TÐ1PB/ND tôi được biết là Ð/U Hưng, Hưng làm việc rất giỏi và rất cẩn trọng.

- Ngày 22-4-72 ban Cố Vấn trốn khỏi Tân Cảnh bằng trực thăng không thông báo cho BTL/SÐ22BB biết, tuy nhiên mọi người đều biết trước vì đang đêm 2400G ban Cố Vấn đánh dấu bãi đáp, trong lúc địch đang pháo mạnh, ban ngày lúc địch pháo cũng như tấn công mạnh đã thấy họ dọn bãi đáp cho trực thăng ngay sát phòng Cố Vấn, một vài sĩ quan có đề nghị với ÐT/TL không cho Cố Vấn đi, nhưng ông cười và đáp ngắn gọn (cho họ đi) nhờ vậy toán Cố Vấn ra đi an toàn, từ lúc đó địch quân đánh mạnh, cường độ Pháo cũng gia tăng. Hướng tấn công chính là ngay cổng chính tức là hướng từ phố Tân Cảnh, có tiếng xe tăng từ hướng Dakto chạy về, và xe tăng địch khởi sự bắn đại bác không giật và đại liên vào căn cứ, anh em trong căn cứ cố gắng mở hàng rào từ phía nhà của Cố Vấn để băng sang Phi Trường Phượng Hoàng, hy vọng bắt tay với TÐ9ND, toán Công Binh do đích thân vị Tiểu Ðoàn Trưởng Công Binh chỉ huy phá hàng rào cũng đành bó tay vì hàng rào được làm bằng thùng xăng 200 lít nhồi đất và gài mìn dầy đặc cộng với kẽm gai, các cột kẽm gai được đúc bằng xi măng rất kiên cố, về sau phải xin Không Quân oanh tạc mở đường, nhưng phòng không của địch quá mạnh, máy bay không sao xuống thấp được.

- Ngày 23-4-1972 tức là ngày chủ nhật, Pleiku hay Sài Gòn giờ này có thể trời đang đẹp 1000G không Quân mới giúp mở được hàng rào có thể rút sang phi trường, tuy vậy muốn băng qua được cũng vẫn còn rất khó khăn, lúc này TÐ9ND cũng bị tấn công mạnh, bốn đại đội tác chiến đều ở ngoài nên BCH/TÐ không có khả năng tiếp cứu, 1300G thiết giáp hạng nhẹ của địch không một chiếc nào bị thương vào tới cột cờ, nhưng địch không có tùng thiết cho nên thiết giáp nằm tại đó, quân ta vẫn cứ chạy qua mặt thiết giáp ra phiá hàng rào đã phá. Hưng liên lạc cho tôi cho biết anh và Ðại Tá TL/SÐ22BB ra tới hàng rào, lúc đó ÐT/TL giật lấy máy.

- 11 (chỉ danh cuả tôi) đây 01 (chỉ danh cuả ÐT/TL/SÐ22BB. Nguy rồi 11 anh bắn ngay vào sân cờ thiết giáp nó vào sân cờ rồi.
- 01 đây 11 tôi thi hành ngay.
-11 đây 01 anh tiếp tục cho bắn như vậy may ra tôi có thể gặp Cửu Long (TÐ9ND) được, khoảng 2 phút sau tôi nhận được Hưng gọi.
-11 đây Hồng Hà gọi …………… 01 theo ông Bắc Bình rồi.
Tôi hiểu Hưng muốn nói gì nhưng tôi cũng cứ hỏi lại.
- Hồng Hà đây 11 anh nói gì lập lại.
-11 dây Hồng Hà tôi nói ………. 01 theo ông Bảo rồi.
- Hồng Hà đây 11, anh cố gắng mang 01 sang Cửu Long được không.
- Không được vì xe tăng nó bắn nên kẽm gai quấn chặt lấy ông ấy rồi, tôi cố gỡ ra nhưng không ai có kềm cắt kẽm gai cả. Giọng Hưng yếu hẳn đi tôi nghe rõ tiêng nổ chát chúa và tôi hoàn toàn mất liên lạc từ lúc 1410G ngày 23-4-72. Cho tới giờ phút này cuối tháng 4-97 tức 25 năm sau từc 1/4 thế kỷ, thương nhớ ngày Tân Cảnh thất thủ, chỗ Cố Chuẩn Tướng Ðạt ( truy thăng cấp tướng vào 24-4-1972) và Hưng nằm xuống tại đâu, chỗ nào tôi vẫn còn nhớ, cỏ cây dù có che lấp hình hài các anh nhưng tôi không sao quên được chỗ nằm của các anh những anh hùng của SÐ22BB, tôi biết các anh nằm xuống mà không sao nhắm mắt được./.

Trung tá Bùi Ðức Lạc

*************************************
Kính Thưa Phu nhân Tướng Quân : Lê Đức Đạt !

Sau đây là bức thơ tôi gởi đến Phu nhân Tướng Quân : Lê Đức Đạt đang định cư tại Pháp Quốc.
Khởi đăng trên Điện báo : Diễn đàn Người Việt Boston 21. 9.2008 :
Nhà Nghiên Cứu Sử
Nguyễn Hùng Kiệt

Kính Thưa Phu nhân Tướng Quân : Lê Đức Đạt !

Cách đây 3 tháng tình cờ tôi đọc được trên diễn đàn, một cựu Quân nhân Sư đoàn 22 bộ binh thiện chiến, thiết tha kêu goi hãy viết về Tướng quân Lê Đức Đạt Vị Quốc vong thân 23-4-1972, cũng như Tướng Quân Nguyễn Văn Hiếu Tư lệnh Sư đoàn 22 bộ binh (1966-1969) bị thảm sát 8-4-1975. Lịch sử phải trả lại cho sự thật. Tôi đã tìm hiểu về Tướng quân anh hùng. Đau xót thay, tư liệu những người tự xưng Sĩ quan QLVNCH: Phạm Phong Dinh Thiên Anh hùng Ca VNCH, nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Phương, thậm chí ông Đại tá Truởng phòng 2 Quân đoàn 2 (Trịnh Tiếu) : Thần thoại theo Phủ Tồng thống VNCH: Bình Long Anh Dũng – Kontum Kiêu Hùng – Trị Thiên Dậy Lửa đối với tôi là thiếu lương thiện. VNCH đã bị bức tử, họ sống tại hải ngoại trong thời đại thông tin vẫn không chấp nhận sự thật.

Chúng tôi đi tìm tư liệu CS, và Mỹ. Thưa Bà trong tháng 4. 1972 QLVNCH có 2 Vị Tướng kiệt xuất :

1, Tướng Lê Đức Đạt đã anh dũng tử thủ Tân cảnh trong tình trạng không tiếp tế, không tản thương, Tướng Quân đã bẻ gảy nhiều đợt tấn công 3 sư đoàn CS: SĐ 320. SĐ10, SĐ2 Sao vàng, 2 trung đoàn pháo, 2 Thiết đoàn thiết giáp : Xin phu nhân, gia đình đọc trích đoạn Quân sử Hà Nội:

“Cứ điểm Đắc Tô (bắc Tân Cảnh) gồm quận lỵ Đắc Tô, chốt Ngọc Tu, có các Tiểu đoàn 4, 8 (Trung đoàn 47 SĐ22), Tiểu đoàn 9 (Lữ đoàn 2 Nhẩy Dù ) và 1 chi đội xe tăng bảo vệ. Cứ điểm Tân Cảnh của QLVNCH có trung đoàn 42 (sư đoàn 22) gồm 3 tiểu đoàn 1, 2, 4; thiết đoàn 14 (20 xe tăng M-41, 21 xe bọc thép M-113); 1 tiểu đoàn pháo (4 khẩu 155 mm, 6 khẩu 105 mm); 1 đại đội vệ binh; 1 đại đội trinh sát; 1 đại đội công binh, bố trí thành 13 khu phòng thủ.
Sáng 21 tháng 4, tiểu đoàn 8, trung đoàn 47, sư đoàn 22 QLVNCH bất ngờ chạm súng với các đơn vị đi đầu của trung đoàn 141 sư đoàn 2 QĐNDVN đang chiếm lĩnh vị trí xuất phát. Trung đoàn 675 pháo binh (QĐNDVN) được lệnh khai hỏa, pháo kích tất cả các vị trí của cụm phòng ngự Đắc Tô – Tân Cảnh bằng pháo 122 mm và hỏa tiễn H12. Đại tá Lê Đức Đạt điều 10 xe tăng ra phản kích, QLVNCH ở Kon tum chưa biết đến B-72 mà cho rằng đây chỉ là loại đạn chống tăng Sagger AT-3). Lúc 10h30 sáng ngày 22 tháng 3, sở chỉ huy tiền phương sư đoàn 22 QLVNCH tại Tân Cảnh bị pháo binh QĐNDVN bắn trúng, 20 sĩ quan QLVNCH chết và bị thương, các phương tiện thông tin liên lạc bị phá hủy. Tân Cảnh mất liên lạc với Kon Tum và không thể chỉ huy được các đơn vị thuộc quyền. Các chi đội thiết giáp 1 và 2 (thiết đoàn 14 QLVNCH) đang phòng ngự Bến Hét xin đại tá Đạt cho rút về phòng ngự Tân Cảnh nhưng liên lạc bị đứt, hai đơn vị này tự rút về tử thủ Tân Cảnh. QĐNDVN mất 5 xe tăng PT-76 va 4 T-54 ở Đắc B’Rung do trúng tên lửa TOW từ máy bay AC-130, va M.72. Tuy nhiên, 15 chiếc T-54 và PT-76 còn lại vẫn tiếp tục tấn công. Lúc 17 giờ chiều 22 tháng 4, Sư đoàn 2 QĐNDVN đã chiếm được cứ điểm Đắc Moi và quận lỵ Đắc Tô (Đắc Tô I). Các trung đoàn 41, 47, 2 chi đội thiết giáp (1 và 14), một tiểu đoàn của trung đoàn 42, tiểu đoàn 9 (lữ đoàn 2 nhẩy dù ), 2 tiểu đoàn pháo binh QLVNCH chiến đấu ngoan cường dũng mãnh. Đại tá Lê Đức Đạt, sư đoàn trưởng sư đoàn 22 và 1 cố vấn Mỹ tử thương. Tuy nhiên QĐND thương vong rất lớn, mất hai tuần mới có thề bổ sung quân số tấn công Kon tum, tạo điều kiện cho Đại tá Lý tòng Bá có thời gian phòng thủ Kon Tum Tướng Ngô Du và ban tham mưu quân đoàn 2 không thể tăng viện cho Đắc Tô – Tân Cảnh vì đường 14 đã bị QĐNDVN cắt đứt ở Diên Bình. Căn cứ Võ Định, tiền đồn phía Bắc của Kon Tum đã bị mất. Lúc này, sư đoàn 22 QLVNCH chỉ còn lại trung đoàn 42 (thiếu) đang phòng thủ Bình Định, Quân đoàn 2 (QLVNCH) chỉ còn sư đoàn 23 để phòng thủ Kon Tum. Ngày 27 tháng 4, Đại tá Lý Tòng Bá tư lệnh sư 23 được chỉ định làm tư lệnh mặt trận Kon Tum. Tướng Ngô Du bị lên cơn đau tim cấp, không chỉ huy được. TT Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Cao Văn Viên đề nghị một số Trung tướng ở Sài Gòn lên thay nhưng không ai chịu lên. Cuối cùng tổng thống Thiệu chọn thiếu tướng Nguyễn Văn Toàn. Tướng Toàn hứa với Nguyễn Văn Thiệu và Cao Văn Viên sẽ cố giữ lại Kon Tum. Cố vấn John Paul Vann cử Rhotenberry là cố vấn trưởng cho Sư Đoàn 23. Để chống lại xe tăng T-54 của QĐNDVN, Đại tá Lý Tòng Bá lệnh cho các tiểu đoàn lập các tổ chống tăng và tập bắn súng M72 LAW vào các xe tăng M-41 đã bị cháy. Ngày 30 tháng 4, tướng Toàn tăng viện cho sư 23 thêm 1 trung đoàn bộ binh, 1 liên đoàn biệt động quân, 20 xe tăng M-48 và nhiều phương tiện, đạn dược… Cố vấn John Paul Vann hứa cấp đủ 100 box B-52 (300 lần chiếc) yểm hộ từ trên không.” (Tài liệu Học viện Quốc phòng Hà Nội)

Thưa Phu nhân, và Gia đình Hình ảnh Tướng Lê Đức Đạt đã Anh dũng chiến đấu đến giờ phút cuối cùng tại Tân Cảnh, cũng như Hình Ảnh Tướng Vũ Văn Giai tư lệnh chiến trường Quảng Trị 4-1972, đã tiêu diệt trên 12,000 cộng quân, trong điều kiện không tiếp tế, không cứu viện, lại bị làm vật tế thần ra Toà án mặt trận lột lon chuẩn tướng để chạy tội cho Tướng HXL,và TT Thiệu trong việc thất thủ Quảng Trị là vết dơ trong nền Đệ nhị Cộng Hoà. Tôi sẽ viết bài về vị Tướng Giai với trận đánh Tây tiến 1, Tây tiến 2, bẻ gảy Bảo táp 1 , Bảo táp 2 của 5 sư đoàn CS trong chiến dịch Nguyễn Huệ CS tháng 4 -1972: ra quân trong khí thế :”Thần tốc như Nguyễn Huệ , Khí thế hơn Mậu Thân " để trả lại Danh dự cho Tướng Giai đang định cư tại Cali. Tướng Giai đã bị ở tù từ 1972-1975, sau 1975 CS lại giam vào tù hơn 14 năm!

Cũng như Tướng Đạt đã được truy phong cấp Tướng 24-4-1972 . Nhưng 1974 trong danh sách Tướng Lãnh VNCH 160 vị thì lại không có tên, Tướng Giai cũng vậy? (bao gồm những vị còn sống, hay hy sinh). Đây là sự thiếu lương thiện !

Lịch sử chính danh Dân tộc VN, sẽ ghi chiến công Tướng Lê Đức Đạt, cũng như Tướng Vũ Văn Giai, và cũng lên án những kẻ nào đã nguỵ tạo lịch sữ .
Xin gởi đến Phu Nhân Và Gia đình lòng kính trọng sâu sắc.

Một lần nữa xin cám ơn ban biên tập Người Việt Boston cho post ý kiến của tôi .

Thật ra tôi cũng chưa viết hết ý : Tại sao Tân Cảnh thất thủ ? Tại sao Cố vấn John Paul Vann không tiếp cứu Tân Cảnh một cách nhiệt tình ? Dù Cố vấn Vann nói câu nói lịch sử trưa 22-4-1972 :

"NẾU QLVNCH : TƯỚNG LÃNH AI CŨNG NHƯ ĐẠI TÁ ĐẠT, HOA KỲ và VNCH ĐÃ CHIẾN THẮNG CUỘC CHIẾN NÀY !"

Ông tử nạn trực thăng 9-1972 khi trên đường lên Mặt trận Kon Tum . Đám tang được tổ chức trọng thể theo nghi thức Cấp Tướng lãnh Mỹ Quốc . TT Richard Nixon đến dự tang lễ.

Từ bao năm nay những ngưởi viết sử VNCH lên án ông ta, có lẻ cả Phu nhân, và Gia đình, nhưng sự thật không phải vậy ! Vì ý kiến quá dài tôi không thể viết được, nếu Phu nhân, các bạn trên diễn đàn yêu cầu tôi sẽ viết.

Trân trọng , Xin gởi đến Hương Hồn Tướng quân Lê Đức Đạt lòng kính phục,và ngưỡng mộ sâu sắc.

Nhà Nghiên Cứu Sử
Nguyễn Hùng Kiệt



Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply
#45
Câu chuyện về Jacky Ly

Khó có thể biết Lý Vĩnh Thắng – tên tiếng Việt của Jacky Ly – sẽ trở thành người như thế nào nếu Thắng và gia đình vẫn còn ở một ngôi làng nghèo miền núi ở Phó Bảng, Hà Giang. Có thể Thắng là một “học sinh nghèo vượt khó” xuất sắc nhưng cũng có thể Thắng chỉ là một anh nông dân chăn bò, làm nương rẫy, như thời niên thiếu, và chôn cuộc đời ở một ngôi làng nhỏ đến mức thậm chí gần như “không có tên” trên bản đồ các tỉnh vùng núi phía Bắc Việt Nam. Câu chuyện về Jacky Ly là trường hợp điển hình của vô số gia đình Việt Nam trong đó việc quyết định tìm kiếm tự do bằng con đường vượt biên là chọn lựa duy nhất và quyết định đó đã mang lại những bước ngoặt thay đổi khó có thể ngờ… 

Băng rừng vượt biên

Việc chuẩn bị được thực hiện chu đáo và cẩn thận. Trước khi đưa cả nhà đi, ông Lý Hội Quyền – cha của anh Lý Vĩnh Thắng – đã một mình lẻn sang Vân Nam-Trung Quốc để dò xét và tìm chỗ ở tạm. Một đêm năm 1987, Thắng – lúc đó 10 tuổi – cùng hai chị và đứa em gái được bố mẹ chở trên xe đạp. Hành lý mang theo chỉ là vài bộ đồ và ít thức ăn. Họ bắt đầu cuộc hành trình bí mật. Phải kín đáo và thận trọng tuyệt đối. Chỉ một dấu hiệu đáng ngờ, họ cũng có thể bị hàng xóm trình báo và bị công an bắt. Đây là lần thứ hai họ vượt biên. Lần thứ nhất, đi từ Hải Phòng, trước đó vài năm (1979), đã thất bại. Sau chuyến đi không thành đó, gia đình ông Lý đến sống ở Tân Mỹ, Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Họ lầm lũi sinh nhai bằng nghề nông. Tuy nhiên, ông Lý vẫn âm thầm tìm cách thoát. Hành trình vượt biên lần thứ hai khởi hành từ đây, cách biên giới Việt-Trung đến 400 km. 

Băng qua biên giới một cách an toàn là điều không đơn giản. Vết tích cuộc chiến Việt-Trung 1979 vẫn còn in đậm. Cả hai bên biên giới đều đầy mìn và bẫy chông. Để tránh bị phát hiện bởi lính biên phòng của cả hai bên, gia đình ông Lý phải len lỏi đi trên những con đường mòn nhỏ, xuyên rừng. Có những đoạn ông Lý phải cõng đứa con gái sáu tuổi gần như suốt ngày lẫn đêm (sau này khi kể lại, ông nói rằng nếu không phải là cô con gái của ông mà là khối vàng thì ông cũng sẵn sàng vất bỏ vì quá cực nhọc). 

Sau 14 ngày, gia đình ông Lý vào đất Vân Nam-Trung Quốc. Thở phào. Nhưng chưa nhẹ nhõm. Không giấy tờ tùy thân, họ có thể bị nghi ngờ, tố giác và bị công an Trung Quốc bắt đuổi trở về Việt Nam. Cả nhà ông Lý phải di chuyển liên tục và có khi phải chia ra ở rải rác. Họ chỉ tá túc một chỗ trong vài tuần rồi lại tìm nơi khác. Cuối cùng, họ đến Phòng Thành, Quảng Tây. Tại đây, ông Lý cùng một số người Việt khác, cũng vượt biên trốn khỏi Việt Nam, tìm cách đi khỏi Trung Quốc. Họ tìm được một đầu mối giới thiệu mua thuyền và thuê tài công. Họ dự tính thoát đến Macau. Nếu Macau từ chối nhận tỵ nạn, họ sẽ đi Hong Kong. Nếu Hong Kong khước từ, họ sẽ đi Nam Triều Tiên. Nếu lại bị từ chối, họ sẽ đi Nhật Bản! 

Ngày 18-6-1988, 72 người tỵ nạn, trong đó có sáu thành viên gia đình ông Lý, lục tục xuống chiếc thuyền đánh cá cũ nát. Con thuyền dài 12m-rộng 3m chỉ có mái che sơ sài cho khoang động cơ. Mọi người mang theo lương thực cho khoảng 30 ngày và phó mặc số phận cho hai tài công. Sau vài ngày lênh đênh, giữa cái nắng lột da và những cơn đói dữ dội, họ bị một trận bão dập tơi bời, những tưởng thuyền bị lật úp và tất cả chết đuối giữa biển. Khi đến Bắc Hải, thành phố phía Tây Nam Trung Quốc, họ lại bị một “cú sét đánh” thậm chí choáng váng hơn: qua radio, họ biết tin Macau lẫn Hong Kong vừa tuyên bố ngưng nhận người tỵ nạn Việt Nam. Bất kỳ người tỵ nạn Việt Nam nào đến Hong Kong sau ngày 16-6-1988 đều bị đưa vào trại tập trung để trả lại quê nhà. Không lẽ quay về? Họ liều mạng đi tiếp. 

Sau 13 ngày “nướng” mình dưới nắng biển, họ đến gần Macau. Hai tài công rời thuyền. Họ được thuê chỉ để đưa mọi người đến đây, như thỏa thuận. Một người Việt, tên Thái, bất đắc dĩ trở thành người lái thuyền. Sự thiếu kinh nghiệm đi biển lập tức được “trả giá” sau đó khi thuyền va vào đá ngầm. Hỗn loạn và sợ hãi. Thật may là họ được cảnh sát biển Macau phát hiện và cứu. Sau khi giúp sửa thuyền, cảnh sát Macau yêu cầu tất cả rời đi. Mọi người lại ra khơi, gần như trong vô vọng. Cuối cùng, ngày 1-7-1988, thuyền đến Hong Kong. Đây là con thuyền thứ 47 của người tỵ nạn Việt Nam đến sau khi Hong Kong ban bố chính sách mới dành cho người tỵ nạn kể từ ngày 16-6-1988. 

Những năm tháng ở trại tỵ nạn Hong Kong in sâu ký ức Thắng. Nếu không được bố mẹ và hai chị dạy bảo và che chở, Thắng rất có thể đã trở thành đứa bé hư hỏng đi theo đám băng nhóm giang hồ thuộc thành phần tỵ nạn đến từ các tỉnh khác của Việt Nam. Trại tỵ nạn chật chội, đông đúc, với đủ thành phần phức tạp, đã tạo thành một xã hội Việt Nam thu nhỏ nơi người ta không chỉ giành giật miếng ăn mà còn gây ra những hành vi tội phạm. Hãm hiếp và đâm chém xảy ra như cơm bữa. Sau hơn hai năm sống trong cảnh nhốn nháo, gia đình ông Lý cuối cùng được Chính phủ Mỹ đồng ý cho tỵ nạn. Họ được đưa qua Philippines sáu tháng để học tiếng Anh trước khi đến Mỹ… 

Bắt đầu từ tay trắng

Nước Mỹ. North Carolina. Cuộc hành trình dài đã đến đích. Tuy nhiên, một chặng mới lại bắt đầu. Tất cả đều chỉ có hai bàn tay trắng. Họ đã rời con thuyền rách nát số 47. Họ đã rời khu ổ chuột tỵ nạn Hong Kong. Họ đang đặt chân đến một vùng đất xa lạ và tiếp tục đi trên những con đường thậm chí khó khăn và khó lường hơn cả những con đường mòn vượt rừng xuyên bóng đêm băng qua Vân Nam ngày nào. Phần tiếp theo của câu chuyện là chuỗi nỗ lực điển hình của gần như mọi người Việt tỵ nạn giai đoạn đó. Chen chúc trong căn nhà nhỏ được cấp tạm cho người tỵ nạn, gia đình ông Lý lao vào xã hội Mỹ với vốn liếng tiếng Anh gần như bằng không. Ông Lý phải làm ba “job” để giúp gia đình. Ban ngày ông làm thợ hàn. Ban đêm ông làm công nhân xưởng lắp ráp. Và cuối tuần ông làm nhân viên phục vụ nhà hàng. Trong khi đó, vợ ông lãnh quần áo gia công về nhà may; và hai chị của Thắng-Jacky đi làm nail sau khi học xong trung học. Jacky cũng phải đi làm thêm vào cuối tuần, từ chạy bàn đến rửa chén, cho đến khi vào đại học và vào quân đội… 

Khó có thể biết ông Lý Hội Quyền nghĩ gì về tính mạng của mình cũng như vợ con vào thời điểm ông quyết định đưa cả nhà đi vượt biên. Nhưng có điều chắc chắn rằng ông không thể tưởng tượng có ngày mà cậu con trai duy nhất của ông, Vĩnh Thắng – Jacky, lại thành đạt hơn cả sự mong đợi, với không chỉ hai bằng master (từ National War College và Đại học Johns Hopkins), mà còn trở thành một sĩ quan cấp cao quân đội Hoa Kỳ. Ông Lý Hội Quyền (từ trần năm 2012) – người mà Jacky luôn xem như là tấm gương vĩ đại đối với mình – cũng khó có thể tưởng tượng một ngày mà con trai ông trở về lại Phó Bảng với tư cách một sĩ quan quân đội Mỹ, ở cương vị Chánh Văn phòng hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt, thực hiện các dự án hợp tác và tìm kiếm cơ hội hỗ trợ những gia đình nghèo miền núi Việt Nam, nơi có bóng dáng những đứa trẻ lếch thếch hệt Vĩnh Thắng ngày nào… 

Tôi phải cố gắng, luôn cố gắng, phải “work extra hard” – Jacky nói. Ngày 1-1-2021, Jacky Ly trở thành đại tá quân đội Hoa Kỳ (lễ gắn lon chính thức được tổ chức chiều ngày 23-4-2021). Sau hơn 20 năm phục vụ quân đội Mỹ, Jacky Ly vẫn muốn tại ngũ. 42 tuổi, Jacky sẽ còn đi xa, thậm chí có thể xa hơn cả những điểm đến mà người cha không bao giờ có thể nghĩ tới, khi ông cõng cô em gái của Jacky lên đường trong đêm tối cùng gia đình ra đi chỉ với một thôi thúc: tìm kiếm tự do và một tương lai sáng sủa hơn cho các con của mình.  

***************

Đại tá Jacky Ly

Từng chỉ huy đại đội lính nhảy dù mũ đỏ (thuộc 82nd Airborne Division) và tham gia chiến trường Afghanistan, Iraq, cũng như công tác tại Hàn Quốc, Hawaii…, cuộc đời Jacky Ly gắn liền với binh nghiệp. Nhập ngũ năm 18 tuổi khi vào Vệ binh North Carolina với dự tính ban đầu chỉ phục vụ quân đội ba năm nhưng sau đó Jacky không rời bộ quân phục. Jacky tốt nghiệp bằng cử nhân quản trị doanh nghiệp về hệ thống thông tin máy tính từ Đại học Appalachian State. Trong thời gian quân ngũ, ngoài những khóa đào tạo chuyên biệt trong quân đội, Jacky còn học National War College, Đại học Johns Hopkins, và Trường tham mưu quân sự Malaysia. Từng là Chánh Văn phòng hợp tác quốc phòng (Chief of the Office of Defense Cooperation) trực thuộc Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, Jacky còn là cố vấn quân sự cấp cao và chánh Văn phòng Hợp tác An ninh trực thuộc Phái bộ Hoa Kỳ tại Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) ở Jakarta, Indonesia. Đại tá Jacky Ly sắp nhận nhiệm vụ mới tại Đông Nam Á với tư cách tùy viên quốc phòng.

[Image: 4-A8-D85-AE-0-AF0-4-E2-E-B6-A7-319734-F839-B1.jpg]
Kiếp luân hồi có sinh có diệt
Đời vô thường giả tạm hư không
Ngũ uẩn: “Sắc bất dị không”
An nhiên tự tại cho lòng thảnh thơi.
-CT-

願得一心人,
白頭不相離.
Reply