2018-01-09, 01:17 AM
TÍN TÂM MINH
TAM TỔ TĂNG XÁN
Đạo Sư Osho
Việt Dịch - Minh Nguyệt
1. Đạo Lớn Khó Thấy
Chúng ta sẽ bước vào thế giới vô niệm kỳ diệu của Thiền sư Tăng Xán, là Tam tổ của Thiền tông. Nhiều điều không được biết về ngài. Lịch sử chỉ ghi nhận bạo động. Lịch sử không thể ghi chép sự vắng lặng. Tất cả mọi ghi chú đầy nhiễu loạn. Khi có người thật sự tịch lặng, ngài biến mất trong mọi lai lịch. Ngài không thuộc một phần điên loạn của chúng ta. Tam Tổ Tăng Xán là một du tăng suốt cuộc đời ngài, nay đây mai đó. Ngài luôn du hành. Ngài là dòng sông. Ngài không là mặt hồ động. Ngài luôn lang thang. Đó là ý nghĩa không bám chấp của Đức Phật, không chỉ ngoại giới nhưng cả nội giới. Họ vô gia cư. Khi họ có tổ ấm, họ dính mắc. Họ không bám rễ vào bất kỳ đâu. Không có tổ ấm nào khác cho họ ngọai trừ toàn bộ vũ trụ. Thậm chí, khi Tam Tổ Tăng Xán chứng quả vị giải thoát, ngài vẫn sống như người hành khất. Không có gì đặc biệt về ngài. Ngài là một con người bình thường, con người của Đạo.
Có một điều tôi xin nhắc đến, và bạn cần nên nhớ kỹ: Thiền là sự lai ghép, như những đóa hoa đẹp sinh ra từ cây lai, nhiều đứa trẻ dễ thương cũng được sinh ra qua sự lai ghép này. Thiền cũng vậy. Thiền là sự lai ghép giữa tư tưởng của Đức Phật và của Lão Tử. Một cuộc hội ngộ vĩ đại như vậy chưa từng xảy ra bao giờ. Đó là lý do tại sao Thiền kỳ diệu hơn cả tư tưởng của Đức Phật và của Lão Tử. Một sự khai hoa của đỉnh Vô thượng và sự gặp nhau có tầm vóc lên giữa hai đỉnh cao đó. Thiền không Phật không Lão, nhưng dung chứa cả hai.
Ấn Độ có thái độ quá nghiêm nghị đối với tôn giáo… một quá khứ thật dài, đè nặng trên tâm thức của Ấn Độ, nên tôn giáo trở nên quá nghiêm trang. Lão Tử là một trò cười, được biết đến như người ngớ ngẫn. Ngài không nghiêm trang. Bạn không thể tìm thấy người nào thiếu nghiêm trang hơn ngài. Khi tư tưởng của Đức Phật và Lão Tử gặp nhau, Ấn Độ và Trung Hoa gặp gỡ, Thiền ra đời. Tam Tổ Tăng Xán gần với nguồn nguyên thủy khi Thiền mới ra đời. Ngài dung nạp nền tảng Thiền. Tiểu sử của ngài không liên hệ, bởi khi thiền giả nào chứng ngộ ngài không còn tiểu sử. Ngài không còn hình tướng, nên khi nào ngài ra đời hay tịch diệt là việc không liên hệ. Vì vậy, tại Á Châu, chúng tôi không quan tâm đến tiểu sử hoặc lịch sử. Nỗi ám ảnh này chưa bao giờ có mặt nơi đây. Nỗi ám ảnh này hiện diện tại Tây Phương. Đại đa số quần chúng có hứng thú với những việc không liên quan.Tam Tổ Tăng Tăng Xán sinh ra năm nào hay tịch diệt năm nào thì có gì khác biệt? Tam Tổ Tăng Xán quan trọng, không bởi thân sinh diệt. Sinh tử vốn không liên hệ. Liên hệ hay không, không nằm ở tự tánh. Đây là những lời pháp duy nhất mà Tam Tổ Tăng Xán đã nói ra. Nên nhớ kỹ, chúng không là ngôn ngữ, bởi chúng phát xuất từ tâm siêu vượt trên mọi ngôn ngữ. Không là lời suy diễn mà là qua sự tự chứng đích thực. Ngài biết ngài nói gì. Ngài không phải con người tri thức. Ngài là bậc trí tuệ. Ngài đã thắm thấu mọi huyền cơ. Bất kỳ pháp gì ngài mang đến đều vô cùng trọng đại. Nó có thể chuyển hoá bạn hoàn toàn, trọn vẹn. Nếu bạn lắng nghe ngài, chính sự lắng nghe đó có thể là sự hoán chuyển, bởi bất kỳ lời pháp nào của ngài cũng đều là châu ngọc tinh quí, nhưng thật khó, khoảng cách giữa bạn và ngài quá lớn. Bạn tâm trí, ngài vô tâm. Lời pháp của ngài được bầy tỏ qua sự tịch lặng. Dù bạn im lặng, tâm bạn vẫn động loạn không ngừng.
Đã xảy ra…
Có một vụ án buộc tội Mulla Narasruddin bị đưa ra trước tòa. Tòa án không thể chứng minh được gì nhiều. Anh bị buộc tội đa thê. Ai cũng biết sự việc này, nhưng không một ai có thể chứng minh. Luật sư bảo với Nasruddin, “Tốt nhất là anh nên im lặng. Nếu anh nói lời nào ra là sẽ bị dính ngay. Hãy để tôi lo mọi việc.”
Mulla Narasruddin giữ sự im lặng, dù lòng anh sôi sục, nổi sóng, chỉ muốn cắt ngang nhiều lần, nhưng anh tự chủ được. Bên ngoài, anh có vẻ giống một vị Phật, bên trong anh như người điên. Quan tòa không thể kết tội anh, dù biết rằng anh có nhiều vợ. Vì không có bằng chứng nên ông không thể làm được gì hết. Cuối cùng, ông phải thả anh ra. Ông tuyên án, “Mulla Narasruddin, anh được thả, có thể về nhà được rồi đó.” Mulla Narasruddin ngơ ngác đáp, “Thưa Chánh án, nhà nào vậy?” Anh có nhiều nhà vì anh đa thê.
Một lời nói từ bạn sẽ biểu lộ nội tại của tâm. Chỉ một lời là toàn bộ tự tánh của bạn bị phơi bày. Thậm chí, cũng không cần một lời nào, chỉ một điệu bộ là tâm động loạn của bạn sẽ có mặt. Thậm chí, dù bạn thinh lặng, sự thinh lặng của bạn sẽ không biểu lộ gì khác ngoài con khỉ ồn ào bên trong. Khi Tam Tổ Tăng Xán nói pháp, ngài nói trên một bình diện hoàn toàn khác. Ngài không hứng thú nói. Ngài không hứng thú ảnh hưởng bất kỳ ai. Ngài không nỗ lực thuyết phục bạn về một vài lý thuyết, giáo điều hoặc chủ nghĩa nào đó. Khi ngài nói, sự vắng lặng của ngài khai hoa. Khi ngài nói, ngài cho bạn biết rằng ngài đã tự chứng,và muốn chia sẻ kinh nghiệm này với bạn. Không phải là để thuyết phục bạn, mà là chia sẻ với bạn. Nếu bạn có thể thấu hiểu dù một lời pháp của ngài, bạn sẽ cảm niệm được sự vắng lặng tối diệu đang thải hương trong bạn.
Chỉ lắng nghe nơi này… Chúng ta sẽ nói về Tam Tổ Tăng Xán và lời pháp của ngài. Nếu bạn chú ý lắng nghe, bạn sẽ cảm nhận được sự tịch lặng ngát hương trong bạn. Lời pháp của ngài là nguyên tử, dồi dào năng lượng. Khi bậc chứng ngộ nói lời pháp nào, ngôn ngữ là hạt giống và dù là hàng triệu triệu năm sau, vẫn là hạt giống truy tầm trái tim. Nếu bạn sẵn sàng là mảnh đất phù sa, những lời pháp mãnh liệt vũ bảo của ngài… vẫn sống động… chúng sẽ thâm nhập vào bạn nếu bạn cho phép, bạn sẽ hoàn toàn chuyển hoá xuyên suốt qua chúng. Đừng lắng nghe chúng bằng tâm trí. Ngữ nghĩa của chúng không thuộc về tâm trí. Tâm trí tuyệt đối bất lực thấu hiểu chúng. Chúng không phát xuất qua tâm trí. Chúng không thể thấu hiểu bằng tâm trí. Chúng phát xuất từ tâm vô niệm. Chúng chỉ có thể hiểu thấu bằng tâm thái vô niệm. Khi bạn lắng nghe tại đây, xin đừng lý giải. Xin đừng lắng nghe ngôn ngữ nhưng khoảng cách giữa ngôn ngữ, không qua pháp của ngài nhưng qua ngữ nghĩa thậm thâm vi diệu của ngài. Hãy để ý nghĩa tối vi diệu này bao bọc bạn như làn hương. Thật thinh lặng, nó thâm nhập bạn, bạn sẽ đơm hoa kết trái, nhưng xin đừng diễn giải. Đừng nói rằng, “Ý của ngài như vậy và như vậy…” bởi mọi lý giải sẽ là của bạn.
Có một lần đã xảy ra… Mulla Narasruddin trở về, hoàn toàn say khướt, trong thời khắc cực nhỏ của ban mai, Khi anh đi ngang qua một nghĩa địa, anh nhìn tấm biển quảng cáo. Trên tấm biển có hàng chữ. Bấm chuông báo người chăm nom nghĩa địa. Anh đã làm như vậy. Mới sáng sớm, người coi nghĩa địa bị phá nên loạng choạng bước ra, có vẻ tức giận. Nhìn thấy Nasruddin say sưa, ông càng tức giận hơn. Ông nhìn Nasruddin, lớn tiếng, “Tại sao anh bấm chuông? Tại sao? Có vấn đề gì? Anh muốn gì?” Nasruddin nhìn ông ta khoảng một phút, yên lặng, nhìn tấm biển quảng cáo, và hỏi, “Tôi muốn biết là ông làm cách nào có thể tự mình bấm chuông?
”
Nó được viết là: Hãy bấm chuông báo người trăm nom nghĩa địa. Làm sao dịch giải? Tùy bạn. Đừng lý giải… Hãy lắng nghe. Khi bạn lý giải bạn không thể lắng nghe. Tâm thức không thể làm hai việc đồng một lúc. Nếu bạn tư duy, bạn không thể lắng nghe. Như khi bạn nghe nhạc… chất lượng lắng nghe khác hơn vì bạn không lý giải. Âm thanh vô ý nghĩa. Tam Tổ Tăng Xán là nhạc sĩ, không phải triết gia. Tam Tổ Tăng Xán không phát biểu ngôn ngữ. Lời pháp của ngài siêu vượt trên mọi ngôn ngữ. Chúng trọng đại, nhưng vô ý nghĩa. Chúng là âm thanh âm nhạc. Bạn ngồi dưới dòng thác, lắng nghe thác đổ, nhưng bạn có lý giải tại sao hay không? Tuy vô tự, nhưng nó vẫn diễn đạt. Nó nói nhiều, nhưng như +là không nói gì hết. Bạn có lắng nghe và trở nên yên lặng khi bạn ngồi dưới dòng thác đổ hay không? Bạn lắng đọng lắng nghe âm thanh của thác thâm nhập thật sâu thẳm trong bạn. Nội tại bạn trở nên thinh lặng yên tĩnh lạ thường. Bạn trở thành đền thờ… Một cái gì bất khả tư nghì đang xuyên suốt qua nguồn thác đổ. Bạn có lắng nghe lời chim líu lo hay không, hay là làn gió nhẹ thổi vi vô ưu xuyên qua rừng cây, làm rơi rụng những chiếc lá khô bay vần vũ là đà trên mặt đất? Bạn làm gì? Bạn lắng nghe. Tam Tổ Tăng Xán không là một triết gia hay hay là một giáo sư thần học. Ngài không thương mại lý tưởng cho bạn. Ngài không hứng thú với ý tưởng. Ngài không phải là một đạo sư. Sự có mặt của ngài không phải là để thuyết phục bạn. Ngài đơn thuần đơm hoa nở nụ. Ngài là thác đổ, hay là luồng gió nhẹ vi vu qua hàng cây xanh. Ngài là dòng nhạc ngân nga của loài điểu… vô ý nghĩa nhưng thậm thâm vi diệu. Bạn phải hấp thụ sự trọng đại đó, chỉ có vậy, bạn mới đủ khả năng thấu hiểu.
Trước khi chúng ta bước vào lời pháp của ngài, hãy nhớ kỹ ngôn từ thậm thâm vi diệu, không qua ngữ nghĩa, giai điệu, dòng nhạc, không qua ý nghĩa, âm thanh vô thinh của tâm ngài, trái tim ngài, không qua tư duy của ngài. Bạn phải lắng nghe qua tự tánh như nguồn thác đổ của ngài. Lắng nghe như thế nào? Hãy thinh lặng. Đừng mang tâm trí bạn vào. Đừng tư duy “Ngài đang nói gì vậy?” Hãy lắng nghe trước khi quyết định, trước khi cho là ngài đúng hay sai, dù bạn bị thuyết phục hay không. Ngài không quan tâm đến lý lẽ của bạn. Bạn cũng không nên bận tâm. Bạn đơn thuần lắng nghe trong khoái cảm say mê. Bậc Giải Thoát như Tam Tổ Tăng Xán nên được thích thú đến, một hiện tượng khá tự nhiên.
Một tảng đá tuyệt đẹp. Bạn sẽ làm gì nó? Bạn say mê nó. Bạn vuốt ve nó. Bạn cảm nhận nó. Bạn sẽ làm gì với đám mây trôi nổi trên bầu trời. Bạn khiêu vũ trên đất. Bạn ngắm nhìn chúng, hay bạn thinh lặng, nằm dài trên cỏ ngắm nhìn chúng nổi trôi, tràn ngập tâm hồn bạn. Không chỉ bầu trời ngoại giới, mỗi giờ khắc trôi qua, bầu trời nội tại của bạn tràn ngập và vắng lặng hơn. Đột nhiên, bạn vắng mặt, chỉ có mây xanh vận hành, ngoài và trong. Phân biệt chấm dứt. Không còn cả biên giới. Bạn trở thành mây và mây trở thành bạn. Hãy xem Tam Tổ Tăng Xán như hiện tượng tự nhiên. Ngài không phải là con người. Ngài là Thượng Đế. Ngài là Đạo. Ngài là một vị Phật.
Trước khi chúng ta nỗ lực đi vào lời pháp thậm thâm vi diệu của ngài, có một vài điều nên được thấu hiểu. Chúng sẽ thúc đẩy bạn. Tâm là một căn bệnh, một sự thật căn bản mà Đông phương khám phá. Tây phương cho rằng tâm trí có thể trở nên bệnh hoạn, có thể khoẻ mạnh. Tâm lý học Tây phương dựa trên nghiên cứu này: Tâm trí bệnh hoạn hay lành mạnh, nhưng Đông phương thì bảo rằng một tâm trí như vậy là một tâm trí bệnh hoạn. Nó không thể lành mạnh. Không khoa phân học tinh thần nào chữa trị được. Cùng lắm là có thể chữa trị nó trở nên một căn bệnh bình thường. Tâm có hai loại bệnh: Căn bệnh bình thường. Có nghĩa là căn bệnh của bạn cũng bình thường như đại đa số. Hai là căn bệnh bất bình thường. Căn bệnh của bạn đặc biệt, ngoại lệ, rất cá nhân, không thuộc đại đa số. Đó là sự khác nhau duy nhất. Bệnh bình thường hay bệnh bất bình thường, tâm không thể lành mạnh. Tại sao?
Đông phương cho rằng chính tâm đó sẽ không lành mạnh. Tâm luôn phân chia. Từ ngữ “sức khoẻ” rất đẹp, bắt nguồn từ gốc của từ “toàn thể” Sức khoẻ, chữa trị, toàn thể, linh thiêng… các từ này đều cùng một gốc. Tâm trí không thể lành mạnh bởi nó không thể là toàn thể. Tâm phân khai từ cơ bản của nó. Nếu nó không thể hợp nhất, làm sao nó có thể lành mạnh? Nếu nó không thể lành mạnh, làm sao nó thánh thiện? Mọi tâm phàm tục. Không có gì như tâm thánh. Thánh nhân sống vô tâm bởi ngài không phân biệt. Tâm là căn bệnh. Tên của căn bệnh là gì? Aristotle là tên. Nếu bạn thật sự muốn làm cho nó giống một căn bệnh, bạn có thể đặt ra từ “Aristotlitis” thì sẽ giống căn bệnh ngay. Tại sao Aristotle là bệnh? Aristotle nói, “Cái này hay cái kia. Hãy chọn đi.” Sự chọn lựa là chức năng của tâm. Tâm không thể không chọn lựa. Chọn lựa, bạn bị mắc bẫy. Mỗi khi bạn lựa chọn, bạn đã chọn cái này đối nghịch với cái kia. Nếu bạn chọn lựa điều gì, bạn nhất định đã đối kháng cái kia. Bạn không thể chỉ thuận. Bạn không thể chỉ chống. Khi từ “thuận” đi vào, từ “chống” đã theo sau như hình với bóng. Khi “chống” có “thuận” hiện diện… ẩn tàng hay không ẩn tàng.
Khi bạn lựa chọn, bạn phân tán. Bạn nói, “Điều này thiện. Điều này ác.” Sự sống thống nhất. Vạn hữu không phân khai, luôn trong sự hòa hợp sâu đậm. Nó nhất thể. Nếu bạn nói, “Đây là tốt. Đó là xấu.” tâm trí đi vào bởi sự sống gồm cả hai. Đẹp trở thành xấu. Xấu trở thành đẹp. Không biên giới. Không ngăn kín, không tách biệt. Vạn hữu luôn là một dòng chảy từ đây đến đó. Tâm có nhiều ngăn cố định. Cố định là tánh của tâm. Linh động là tánh của vạn vật. Đó là lý do tâm là một sự ám ảnh. Nó luôn cố định, cứng ngắt. Vạn hữu không cứng ngắt, nhưng linh động, uyển chuyển, luôn vận hành đến sự đối cực. Vạn vật sinh diệt trong từng giây phút. Trẻ rồi lại già. Đôi mắt đẹp rồi những vết chân chim xuất hiện. Khuôn mặt như đóa hoa hồng thắm, phút chốc không còn nữa… chỉ còn lại chiếc bóng của quá khứ. Đẹp thành xấu. Sinh và diệt. Diệt rồi sinh. Phải làm gì với cuộc đời? Bạn không thể chọn. Nếu bạn muốn hiện diện với sự sống, với toàn thể, bạn vô chọn lựa.
Tâm chọn lựa. Aristotle biến nó là căn bản luận lý và triết lý. Bạn không thể tìm thấy một con người nào cách biệt với Tam Tổ Tăng Xán hơn Aristotle. Tam Tổ Tăng Xán nói, “Hoặc là điều này hay là điều kia. Đừng lựa chọn.” Tam Tổ Tăng Xán dạy, “Hãy vô chọn lựa.” Tam Tổ Tăng Xán khai thị, “Đừng phân biệt!” Khi bạn phân biệt, bạn đã lựa chọn, bạn phân chia, rời rạc, bệnh hoạn, không còn đồng nhất. Nếu bạn hỏi một tín đồ Công Giáo… người không thật sự thờ phụng ngài, cơ bản thuộc giới Aristotle. Công giáo đặt nền tảng trên Aristotle hơn Đức Chúa Giê Su. Đức Ki Tô giống Tam Tổ Tăng Xán hơn. Ngài dạy, “Đừng phán xét. Con hãy đừng phán xét!” Ngài dạy tiếp, “Điều này tốt. Điều kia xấu.” Ngài còn dạy, “Đừng chọn lựa. Đừng phán xét.” Công giáo không hướng về Đức Ki Tô. Những nhà sáng lập Công giáo nhiều Aristotle tính hơn là Công giáo tính.
Bạn không thể biến hóa giáo đường từ Tam Tổ Tăng Xán hay Đức Ki Tô. Làm sao bạn có thể biến hóa giáo đường thành sự vô lựa chọn? Giáo đường thuận và nghịch. Thuận Thượng Đế và nghịch với Ma vương. Trong vạn hữu, Thượng Đế và Ma vương không là hai. Họ đồng nhất thể. Ma vương một khuôn mặt và Thượng Đế là một khuôn mặt khác cùng nguồn năng lượng. Họ không là hai. Có đôi lúc ngài xuất hiện trong hóa thân của Ma vương, và có đôi lúc ngài xuất hiện trong hóa thân Thượng Đế. Nếu bạn nhìn thẩm thấu, bạn sẽ thấy họ như nhau. Thỉnh thoảng, ngài trong hóa thân kẻ cướp và thỉnh thoảng ngài trong hóa thân người đức hạnh. Có đôi lúc, ngài biến hiện ở nơi chốn nhơ nhuốc với những chúng sinh không được xem trọng, bị phán xét. Ngài vận hành. Ngài là dòng chảy. Không bến bờ nào quá xa mà ngài không đến. Không ai siêu vượt hơn ngài. Ngài vận hành trong mỗi chúng sinh.
Đức Chúa Giê Su vô phân biệt, nhưng Công giáo phân biệt bởi tôn giáo phải đạo đức. Khi một tôn giáo trở thành đạo đức thì không còn là một tôn giáo nữa. Tôn giáo là sự mạo hiểm cùng tột nhất. Phải thật dũng cảm mới vô chọn lựa, bởi tâm nói, “Hãy lựa chọn!” Tâm nói, “Hãy nói đi!” Điều này tốt. Điều kia xấu. Điều này tốt. Điều kia xấu. Tôi yêu điều này. Tôi ghét điều kia. Tâm bảo, “Hãy lựa chọn!” Tâm bị cám dỗ trong phân biệt. Khi bạn phân biệt, tâm thoải mái. Nếu bạn vô phân biệt, nếu bạn nói, “Tôi không nói. Tôi không phán xét” Tâm cảm giác như trên giường chết. Aristotle nói: A là A và không thể là A. Sự đối lập không thể gặp gỡ. Tam Tổ Tăng Xán dạy rằng không có đối cực. Chúng gặp nhau. Một trong những căn bản chân lý cần nhận thức, rằng đối lập không là sự đối lập. Chính bạn nói chúng đối lập, nếu không chúng không đối lập. Hãy ngắm nhìn vạn vật, bạn sẽ thấy chúng cùng một nguồn năng lượng.
Bạn yêu một người. Một phụ nữ tới tôi, cô nói, “Con kết hôn mười năm nhưng chúng con chưa bao giờ cãi nhau. Bây giờ, đột nhiên, có chuyện xảy ra. Anh rời bỏ con.” Cô tư duy là vì họ chưa bao giờ cãi nhau là họ yêu nhau thắm thiết. Quá vô minh. Quá Aristotlian tánh, tuyệt đối lô gic. Cô nói, “Trong mười năm hôn nhân, chúng con chưa hề cãi nhau, chưa bao giờ giận dỗi nhau. “ Cô có ý là, “Chúng con yêu nhau tha thiết nên chúng con chưa bao giờ giận dỗi nhau. Thậm chí, không một xung đột nhỏ, bây giờ, có chuyện xảy ra? Bỗng nhiên, anh rời bỏ con. Anh đã mất trí rồi chăng? Tình yêu của chúng con rất sâu đậm.” Cô đã sai. Nếu tình yêu sâu đậm thì nhất định phải có tranh cãi. Có lúc phải đánh nhau. Tranh cãi nhau không làm tình yêu tan vỡ, nhưng sâu đậm hơn. Nếu tình yêu hiện hữu, nó sẽ phong phú hơn qua sự lục đục. Nếu tình yêu không hiện diện, bạn rẽ đôi, chia tay. Mười năm là thời gian dài. Thậm chí, trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, quá dài để duy trì cùng một tâm thái, bởi tâm luôn vận hành trong đối cực. Bạn yêu một người, đôi lúc bạn giận. Thật sự, bạn giận bởi bạn yêu. Có lúc, bạn hận! Đôi lúc bạn hy sinh cho người yêu. Đôi lúc, bạn muốn giết người đó. Cả hai là bạn.
Nếu bạn chưa bao giờ cãi nhau trong mười năm, có nghĩa là chưa yêu nhau. Có nghĩa là không phải là một mối quan hệ. Bạn quá sợ hãi là bất cứ cơn giận nào, xung đột nào cũng có thể làm tan vỡ cuộc tình. Bạn quá đỗi sợ sệt nên bạn không bao giờ tranh cãi. Bạn không bao giờ tin rằng tình yêu sâu đậm hơn sự tranh cãi. Sự lục đục chỉ tạm thời. Sau mỗi lục đục, bạn sẽ yêu nhau tha thiết hơn[1]. Bạn chưa bao giờ tin tưởng như vậy. Vì vậy, bạn cố gắng không tranh cãi. Không phải là việc đáng ngạc nhiên khi người chồng ra đi. Tôi nói, “Tôi ngạc nhiên là chồng của cô đã sống với cô hơn mười năm. Tại sao?”
Có một người đàn ông tìm đến tôi, ông nói, “Con trai con có vấn đề gì rồi. Con dạy dỗ nó hơn hai mươi năm. Nó luôn nghe lời. Một thiếu niên tốt ngài khó thể tìm thấy. Nó chưa bao giờ không vâng lời, chưa bao giờ chống lại con. Bỗng nhiên, nó trở thành kẻ híp py. Nó nhìn con như một người xa lạ. Hai mươi năm qua nó rất là nghe lời. Chuyện gì xảy ra với con trai tôi?” Không có chuyện gì xảy ra cả. Đây là một điều chắc chắn bởi nếu người con trai thật sự thương yêu cha của nó, anh nhất định phải bất tuân phục. Anh có thể không vâng lời ai bây giờ? Nếu người con trai thật sự yêu thương người cha, tin cậy ông thì sẽ không vâng lời, bởi anh biết mối quan hệ của họ cực kỳ sâu đậm, dù anh không nghe lời cũng không thể chia rẽ họ được. Ngược lại, sẽ phong phú thêm. Sự đối nghịch sẽ giúp tình cảm phong phú hơn.
Sự sống sinh động. Đối lập và giai điệu có mặt. Bạn biến chuyển. Bạn vận hành. Bạn tuân phục. Bạn bất tuân phục. Bạn yêu và bạn hận. Đây là cuộc đời, không logic. Logic dạy nếu yêu thì không thể hận. Nếu bạn yêu, làm sao bạn giận? Nếu bạn yêu bằng cách đó, bạn yêu một cách đơn điệu buồn tẻ, cùng nhịp điệu. Bạn sẽ căng thẳng. Không thể nào thư giãn được. Logic tin ở hiện tượng luyến tính. Trên một đường thẳng, bạn vận hành. Sự sống tin ở vòng tròn. Vẫn đường thẳng đó, lên xuống và biến thành một vòng tròn. Bạn nhất định đã trông thấy vòng tròn Bát Quái của Trung Quốc. Sự sống là vậy. Đối cực gặp nhau. Vòng Bát Quái có nửa phần trắng, nửa phần đen. Nửa phần trắng có một chấm đen, và trong nửa phần đen có một chấm trắng. Phần trắng đi vào phần đen. Phần đen đi vào phần trắng. Đây là vòng tròn. Nữ vận hành trong nam. Nam vận hành trong nữ. Đây là sự sống. Nếu bạn quan sát chăm chú, bạn sẽ thấy nó trong bạn. Nam không thể là nam trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Có lúc, họ là nữ. Nữ không thể là nữ trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Có lúc, họ là nam. Họ năng nổ hơn bất cứ người nam nào và họ nguy hiểm hơn bất cứ người nam nào, bởi tánh nam của họ thuần khiết hơn và chưa bao giờ được sử dụng. Mỗi khi họ sử dụng năng lượng đó, họ sắc bén hơn nên không một người nam nào có thể cạnh tranh nổi với họ. Nó như vùng đất mầu mỡ chưa bao giờ được trồng trọt qua trong nhiều năm. Khi bạn ném hạt giống vào, lập tức đầy hoa quả.
Người nữ có đôi lúc đầy nam tính. Khi họ đầy nam tính rồi thì không một người đàn ông nào có thể cạnh tranh với họ. Họ sẽ vô cùng nguy hiểm. Tốt nhất là người đàn ông nên phục tùng. Tất cả mọi người đàn ông đều hành động như vậy. Họ phục tùng. Họ quy phục. Bỗng nhiên, người đàn ông đầy nữ tính, nếu không sẽ rắc rối. Hai lưỡi gươm trong một vỏ gươm, sẽ có sự rắc rối. Nếu người nữ đầy nam tính, thay đổi vai trò, lập tức người nam biến đổi qua nữ tính. Mọi sự được thiết lập. Quỹ đạo hoàn thành.
Khi người nam phục tùng và quy phục, sự phục tùng có sự thuần khiết mà không người nữ nào có thể cạnh tranh nổi. Thông thường, họ không trong phong thái đó. Thông thường, họ tranh đua. Bình thường, họ đầy ý chí, không quy phục, nhưng khi họ phục tùng, họ ngây thơ đến không có người nữ nào có thể cạnh tranh. Hãy ngắm nhìn đàn ông đang yêu. Họ trở thành một đứa bé. Cuộc đời vận chuyển như vậy. Nếu bạn thấu hiểu nó, bạn không lo nghĩ. Bạn biết, tình nhân đã ra đi. Họ sẽ quay về. Người được yêu giận dỗi, cô sẽ yêu. Bạn đủ kiên nhẫn. Với Aristotle, bạn không thể kiên nhẫn, họ ra đi trên cuộc hành trình tuyến tính. Không trở lại. Không quỹ đạo. Tại Đông phương, chúng tôi tin ở vòng tròn. Tại Tây Phương, họ tin ở một đường thẳng. Tâm trí Tây phương là một đường thẳng. Tâm trí Đông phương là một vòng tròn. Tình yêu của Đông phương có thể chờ đợi. Họ biết người con gái bỏ họ sẽ quay về. Cô đang trên đường trở về. Khi người phụ nữ quay về, cô đã hối hận. Cô phải quay trở lại. Không sớm thì muộn, cô sẽ gõ cửa. Chỉ chờ đợi… bởi đối cực luôn có mặt. Sau khi người con gái trở về sau sân hận, tình yêu tươi mát hơn. Không phải sự lặp lại. Cơn sân hận đã hủy hoại quá khứ. Bây giờ, cô như người con gái tuổi độ thanh xuân, ngây thơ vô tội. Cô yêu say mê… Tình yêu nhuộm mầu hồng thắm hơn.
Nếu bạn thấu hiểu, bạn không đối kháng bất cứ điều gì. Bạn nhận biết thậm chí sân hận cũng tuyệt vời. Thậm chí, tranh cãi lúc này hay lúc khác giúp tình yêu đặc sắc hơn. Mọi sự mang âm điệu vào sự sống, giúp tình yêu phong phú hơn. Bạn chấp nhận, trong sự chấp nhận sâu sắc đó, bạn kiên nhẫn, không vội vã và không thiếu sự kiên nhẫn. Bạn có thể mong chờ, nguyện cầu, hy vọng và mơ mộng. Nếu không, sự sống là một tuyến tính, như Aristotle tư duy… như sự suy nghĩ của Tây phương, chuyển đổi từ Aristotle đến Bertrand Russell. Như Bertrand Russell suy nghĩ, sự sống bất dung. Không có người quay về. Bạn luôn rung động, sợ hãi, ức chế. Bạn sống với người con gái mười năm hay mười kiếp, nhưng đã sống chung với một người xa lạ. Bạn tự chủ. Cô tựchủ. Thiếu sự hội ngộ. Sự sống thiếu sự hợp lý. Logic chỉ là phần thể… Dĩ nhiên, rất dứt khoát, phân khai, khép kín. Sự sống là một mớ hỗn loạn. Phải hành động ra sao? Nếu như vậy. Đừng khép kín quá. Đừng ngăn cách. Đừng dứt khoát. Đừng phân chia. Đây là một sự hỗn độn. Luận lý là sự chết và sự sống linh động. Vấn đề là lựa chọn nhất quán hay chọn lựa sự sống.
Nếu bạn quá thiên về nhất quán, bạn sẽ chết dần chết mòn. Quá trình nhất quán xảy ra chỉ khi nào bạn buông bỏ mọi đối lập hoàn toàn. Bạn yêu và chỉ yêu, không bao giờ sân hận, không tranh cãi. Bạn phục tùng, chỉ phục tùng. Không bao giờ không vâng lời, không bao giờ nỗi loạn, không bao giờ bỏ đi. Tình cảm nhạt nhẽo dần. Mối quan hệ bị đầu độc… Nó hủy diệt cuộc tình.
Còn tiế
[1]Dịch Học cũng bảo, “Âm Dương xung khí dĩ vi hòa”. Âm Dương (nam nữ) xung nhau để rồi hòa hợp lẫn nhau, chứ không phải triệt tiêu lẫn nhau. Nam nữ “xung” nhau để có thể thấy được ưu khuyết điểm của nhau, rồi sau đó mới có thể thông cảm và hiểu biết lẫn nhau, mới có thể tha thứ nhau, chiều chuộng cho nhau, và mưu cầu được hạnh phúc.
Có Âm Dương, có vợ chồng, Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê.
1.
“Đạo lớn chẳng gì khó
Cốt đừng chọn lựa thôi
Quí hồ không thương ghét
thì tự nhiên sáng ngời…”
2.
“Sai lạc nửa đường tơ
Đất trời liền phân cách
Chớ nghĩ chuyện ngược xuôi
Thì hiện liền trước mắt…”
3
“Đem thuận nghịch chỏi nhau
đó chính là tâm bịnh…”
Chúng ta sẽ bước vào thế giới vô niệm kỳ diệu của Thiền sư Tăng Xán, là Tam tổ của Thiền tông. Nhiều điều không được biết về ngài. Lịch sử chỉ ghi nhận bạo động. Lịch sử không thể ghi chép sự vắng lặng. Tất cả mọi ghi chú đầy nhiễu loạn. Khi có người thật sự tịch lặng, ngài biến mất trong mọi lai lịch. Ngài không thuộc một phần điên loạn của chúng ta. Tam Tổ Tăng Xán là một du tăng suốt cuộc đời ngài, nay đây mai đó. Ngài luôn du hành. Ngài là dòng sông. Ngài không là mặt hồ động. Ngài luôn lang thang. Đó là ý nghĩa không bám chấp của Đức Phật, không chỉ ngoại giới nhưng cả nội giới. Họ vô gia cư. Khi họ có tổ ấm, họ dính mắc. Họ không bám rễ vào bất kỳ đâu. Không có tổ ấm nào khác cho họ ngọai trừ toàn bộ vũ trụ. Thậm chí, khi Tam Tổ Tăng Xán chứng quả vị giải thoát, ngài vẫn sống như người hành khất. Không có gì đặc biệt về ngài. Ngài là một con người bình thường, con người của Đạo.
Có một điều tôi xin nhắc đến, và bạn cần nên nhớ kỹ: Thiền là sự lai ghép, như những đóa hoa đẹp sinh ra từ cây lai, nhiều đứa trẻ dễ thương cũng được sinh ra qua sự lai ghép này. Thiền cũng vậy. Thiền là sự lai ghép giữa tư tưởng của Đức Phật và của Lão Tử. Một cuộc hội ngộ vĩ đại như vậy chưa từng xảy ra bao giờ. Đó là lý do tại sao Thiền kỳ diệu hơn cả tư tưởng của Đức Phật và của Lão Tử. Một sự khai hoa của đỉnh Vô thượng và sự gặp nhau có tầm vóc lên giữa hai đỉnh cao đó. Thiền không Phật không Lão, nhưng dung chứa cả hai.
Ấn Độ có thái độ quá nghiêm nghị đối với tôn giáo… một quá khứ thật dài, đè nặng trên tâm thức của Ấn Độ, nên tôn giáo trở nên quá nghiêm trang. Lão Tử là một trò cười, được biết đến như người ngớ ngẫn. Ngài không nghiêm trang. Bạn không thể tìm thấy người nào thiếu nghiêm trang hơn ngài. Khi tư tưởng của Đức Phật và Lão Tử gặp nhau, Ấn Độ và Trung Hoa gặp gỡ, Thiền ra đời. Tam Tổ Tăng Xán gần với nguồn nguyên thủy khi Thiền mới ra đời. Ngài dung nạp nền tảng Thiền. Tiểu sử của ngài không liên hệ, bởi khi thiền giả nào chứng ngộ ngài không còn tiểu sử. Ngài không còn hình tướng, nên khi nào ngài ra đời hay tịch diệt là việc không liên hệ. Vì vậy, tại Á Châu, chúng tôi không quan tâm đến tiểu sử hoặc lịch sử. Nỗi ám ảnh này chưa bao giờ có mặt nơi đây. Nỗi ám ảnh này hiện diện tại Tây Phương. Đại đa số quần chúng có hứng thú với những việc không liên quan.Tam Tổ Tăng Tăng Xán sinh ra năm nào hay tịch diệt năm nào thì có gì khác biệt? Tam Tổ Tăng Xán quan trọng, không bởi thân sinh diệt. Sinh tử vốn không liên hệ. Liên hệ hay không, không nằm ở tự tánh. Đây là những lời pháp duy nhất mà Tam Tổ Tăng Xán đã nói ra. Nên nhớ kỹ, chúng không là ngôn ngữ, bởi chúng phát xuất từ tâm siêu vượt trên mọi ngôn ngữ. Không là lời suy diễn mà là qua sự tự chứng đích thực. Ngài biết ngài nói gì. Ngài không phải con người tri thức. Ngài là bậc trí tuệ. Ngài đã thắm thấu mọi huyền cơ. Bất kỳ pháp gì ngài mang đến đều vô cùng trọng đại. Nó có thể chuyển hoá bạn hoàn toàn, trọn vẹn. Nếu bạn lắng nghe ngài, chính sự lắng nghe đó có thể là sự hoán chuyển, bởi bất kỳ lời pháp nào của ngài cũng đều là châu ngọc tinh quí, nhưng thật khó, khoảng cách giữa bạn và ngài quá lớn. Bạn tâm trí, ngài vô tâm. Lời pháp của ngài được bầy tỏ qua sự tịch lặng. Dù bạn im lặng, tâm bạn vẫn động loạn không ngừng.
Đã xảy ra…
Có một vụ án buộc tội Mulla Narasruddin bị đưa ra trước tòa. Tòa án không thể chứng minh được gì nhiều. Anh bị buộc tội đa thê. Ai cũng biết sự việc này, nhưng không một ai có thể chứng minh. Luật sư bảo với Nasruddin, “Tốt nhất là anh nên im lặng. Nếu anh nói lời nào ra là sẽ bị dính ngay. Hãy để tôi lo mọi việc.”
Mulla Narasruddin giữ sự im lặng, dù lòng anh sôi sục, nổi sóng, chỉ muốn cắt ngang nhiều lần, nhưng anh tự chủ được. Bên ngoài, anh có vẻ giống một vị Phật, bên trong anh như người điên. Quan tòa không thể kết tội anh, dù biết rằng anh có nhiều vợ. Vì không có bằng chứng nên ông không thể làm được gì hết. Cuối cùng, ông phải thả anh ra. Ông tuyên án, “Mulla Narasruddin, anh được thả, có thể về nhà được rồi đó.” Mulla Narasruddin ngơ ngác đáp, “Thưa Chánh án, nhà nào vậy?” Anh có nhiều nhà vì anh đa thê.
Một lời nói từ bạn sẽ biểu lộ nội tại của tâm. Chỉ một lời là toàn bộ tự tánh của bạn bị phơi bày. Thậm chí, cũng không cần một lời nào, chỉ một điệu bộ là tâm động loạn của bạn sẽ có mặt. Thậm chí, dù bạn thinh lặng, sự thinh lặng của bạn sẽ không biểu lộ gì khác ngoài con khỉ ồn ào bên trong. Khi Tam Tổ Tăng Xán nói pháp, ngài nói trên một bình diện hoàn toàn khác. Ngài không hứng thú nói. Ngài không hứng thú ảnh hưởng bất kỳ ai. Ngài không nỗ lực thuyết phục bạn về một vài lý thuyết, giáo điều hoặc chủ nghĩa nào đó. Khi ngài nói, sự vắng lặng của ngài khai hoa. Khi ngài nói, ngài cho bạn biết rằng ngài đã tự chứng,và muốn chia sẻ kinh nghiệm này với bạn. Không phải là để thuyết phục bạn, mà là chia sẻ với bạn. Nếu bạn có thể thấu hiểu dù một lời pháp của ngài, bạn sẽ cảm niệm được sự vắng lặng tối diệu đang thải hương trong bạn.
Chỉ lắng nghe nơi này… Chúng ta sẽ nói về Tam Tổ Tăng Xán và lời pháp của ngài. Nếu bạn chú ý lắng nghe, bạn sẽ cảm nhận được sự tịch lặng ngát hương trong bạn. Lời pháp của ngài là nguyên tử, dồi dào năng lượng. Khi bậc chứng ngộ nói lời pháp nào, ngôn ngữ là hạt giống và dù là hàng triệu triệu năm sau, vẫn là hạt giống truy tầm trái tim. Nếu bạn sẵn sàng là mảnh đất phù sa, những lời pháp mãnh liệt vũ bảo của ngài… vẫn sống động… chúng sẽ thâm nhập vào bạn nếu bạn cho phép, bạn sẽ hoàn toàn chuyển hoá xuyên suốt qua chúng. Đừng lắng nghe chúng bằng tâm trí. Ngữ nghĩa của chúng không thuộc về tâm trí. Tâm trí tuyệt đối bất lực thấu hiểu chúng. Chúng không phát xuất qua tâm trí. Chúng không thể thấu hiểu bằng tâm trí. Chúng phát xuất từ tâm vô niệm. Chúng chỉ có thể hiểu thấu bằng tâm thái vô niệm. Khi bạn lắng nghe tại đây, xin đừng lý giải. Xin đừng lắng nghe ngôn ngữ nhưng khoảng cách giữa ngôn ngữ, không qua pháp của ngài nhưng qua ngữ nghĩa thậm thâm vi diệu của ngài. Hãy để ý nghĩa tối vi diệu này bao bọc bạn như làn hương. Thật thinh lặng, nó thâm nhập bạn, bạn sẽ đơm hoa kết trái, nhưng xin đừng diễn giải. Đừng nói rằng, “Ý của ngài như vậy và như vậy…” bởi mọi lý giải sẽ là của bạn.
Có một lần đã xảy ra… Mulla Narasruddin trở về, hoàn toàn say khướt, trong thời khắc cực nhỏ của ban mai, Khi anh đi ngang qua một nghĩa địa, anh nhìn tấm biển quảng cáo. Trên tấm biển có hàng chữ. Bấm chuông báo người chăm nom nghĩa địa. Anh đã làm như vậy. Mới sáng sớm, người coi nghĩa địa bị phá nên loạng choạng bước ra, có vẻ tức giận. Nhìn thấy Nasruddin say sưa, ông càng tức giận hơn. Ông nhìn Nasruddin, lớn tiếng, “Tại sao anh bấm chuông? Tại sao? Có vấn đề gì? Anh muốn gì?” Nasruddin nhìn ông ta khoảng một phút, yên lặng, nhìn tấm biển quảng cáo, và hỏi, “Tôi muốn biết là ông làm cách nào có thể tự mình bấm chuông?
”
Nó được viết là: Hãy bấm chuông báo người trăm nom nghĩa địa. Làm sao dịch giải? Tùy bạn. Đừng lý giải… Hãy lắng nghe. Khi bạn lý giải bạn không thể lắng nghe. Tâm thức không thể làm hai việc đồng một lúc. Nếu bạn tư duy, bạn không thể lắng nghe. Như khi bạn nghe nhạc… chất lượng lắng nghe khác hơn vì bạn không lý giải. Âm thanh vô ý nghĩa. Tam Tổ Tăng Xán là nhạc sĩ, không phải triết gia. Tam Tổ Tăng Xán không phát biểu ngôn ngữ. Lời pháp của ngài siêu vượt trên mọi ngôn ngữ. Chúng trọng đại, nhưng vô ý nghĩa. Chúng là âm thanh âm nhạc. Bạn ngồi dưới dòng thác, lắng nghe thác đổ, nhưng bạn có lý giải tại sao hay không? Tuy vô tự, nhưng nó vẫn diễn đạt. Nó nói nhiều, nhưng như +là không nói gì hết. Bạn có lắng nghe và trở nên yên lặng khi bạn ngồi dưới dòng thác đổ hay không? Bạn lắng đọng lắng nghe âm thanh của thác thâm nhập thật sâu thẳm trong bạn. Nội tại bạn trở nên thinh lặng yên tĩnh lạ thường. Bạn trở thành đền thờ… Một cái gì bất khả tư nghì đang xuyên suốt qua nguồn thác đổ. Bạn có lắng nghe lời chim líu lo hay không, hay là làn gió nhẹ thổi vi vô ưu xuyên qua rừng cây, làm rơi rụng những chiếc lá khô bay vần vũ là đà trên mặt đất? Bạn làm gì? Bạn lắng nghe. Tam Tổ Tăng Xán không là một triết gia hay hay là một giáo sư thần học. Ngài không thương mại lý tưởng cho bạn. Ngài không hứng thú với ý tưởng. Ngài không phải là một đạo sư. Sự có mặt của ngài không phải là để thuyết phục bạn. Ngài đơn thuần đơm hoa nở nụ. Ngài là thác đổ, hay là luồng gió nhẹ vi vu qua hàng cây xanh. Ngài là dòng nhạc ngân nga của loài điểu… vô ý nghĩa nhưng thậm thâm vi diệu. Bạn phải hấp thụ sự trọng đại đó, chỉ có vậy, bạn mới đủ khả năng thấu hiểu.
Trước khi chúng ta bước vào lời pháp của ngài, hãy nhớ kỹ ngôn từ thậm thâm vi diệu, không qua ngữ nghĩa, giai điệu, dòng nhạc, không qua ý nghĩa, âm thanh vô thinh của tâm ngài, trái tim ngài, không qua tư duy của ngài. Bạn phải lắng nghe qua tự tánh như nguồn thác đổ của ngài. Lắng nghe như thế nào? Hãy thinh lặng. Đừng mang tâm trí bạn vào. Đừng tư duy “Ngài đang nói gì vậy?” Hãy lắng nghe trước khi quyết định, trước khi cho là ngài đúng hay sai, dù bạn bị thuyết phục hay không. Ngài không quan tâm đến lý lẽ của bạn. Bạn cũng không nên bận tâm. Bạn đơn thuần lắng nghe trong khoái cảm say mê. Bậc Giải Thoát như Tam Tổ Tăng Xán nên được thích thú đến, một hiện tượng khá tự nhiên.
Một tảng đá tuyệt đẹp. Bạn sẽ làm gì nó? Bạn say mê nó. Bạn vuốt ve nó. Bạn cảm nhận nó. Bạn sẽ làm gì với đám mây trôi nổi trên bầu trời. Bạn khiêu vũ trên đất. Bạn ngắm nhìn chúng, hay bạn thinh lặng, nằm dài trên cỏ ngắm nhìn chúng nổi trôi, tràn ngập tâm hồn bạn. Không chỉ bầu trời ngoại giới, mỗi giờ khắc trôi qua, bầu trời nội tại của bạn tràn ngập và vắng lặng hơn. Đột nhiên, bạn vắng mặt, chỉ có mây xanh vận hành, ngoài và trong. Phân biệt chấm dứt. Không còn cả biên giới. Bạn trở thành mây và mây trở thành bạn. Hãy xem Tam Tổ Tăng Xán như hiện tượng tự nhiên. Ngài không phải là con người. Ngài là Thượng Đế. Ngài là Đạo. Ngài là một vị Phật.
Trước khi chúng ta nỗ lực đi vào lời pháp thậm thâm vi diệu của ngài, có một vài điều nên được thấu hiểu. Chúng sẽ thúc đẩy bạn. Tâm là một căn bệnh, một sự thật căn bản mà Đông phương khám phá. Tây phương cho rằng tâm trí có thể trở nên bệnh hoạn, có thể khoẻ mạnh. Tâm lý học Tây phương dựa trên nghiên cứu này: Tâm trí bệnh hoạn hay lành mạnh, nhưng Đông phương thì bảo rằng một tâm trí như vậy là một tâm trí bệnh hoạn. Nó không thể lành mạnh. Không khoa phân học tinh thần nào chữa trị được. Cùng lắm là có thể chữa trị nó trở nên một căn bệnh bình thường. Tâm có hai loại bệnh: Căn bệnh bình thường. Có nghĩa là căn bệnh của bạn cũng bình thường như đại đa số. Hai là căn bệnh bất bình thường. Căn bệnh của bạn đặc biệt, ngoại lệ, rất cá nhân, không thuộc đại đa số. Đó là sự khác nhau duy nhất. Bệnh bình thường hay bệnh bất bình thường, tâm không thể lành mạnh. Tại sao?
Đông phương cho rằng chính tâm đó sẽ không lành mạnh. Tâm luôn phân chia. Từ ngữ “sức khoẻ” rất đẹp, bắt nguồn từ gốc của từ “toàn thể” Sức khoẻ, chữa trị, toàn thể, linh thiêng… các từ này đều cùng một gốc. Tâm trí không thể lành mạnh bởi nó không thể là toàn thể. Tâm phân khai từ cơ bản của nó. Nếu nó không thể hợp nhất, làm sao nó có thể lành mạnh? Nếu nó không thể lành mạnh, làm sao nó thánh thiện? Mọi tâm phàm tục. Không có gì như tâm thánh. Thánh nhân sống vô tâm bởi ngài không phân biệt. Tâm là căn bệnh. Tên của căn bệnh là gì? Aristotle là tên. Nếu bạn thật sự muốn làm cho nó giống một căn bệnh, bạn có thể đặt ra từ “Aristotlitis” thì sẽ giống căn bệnh ngay. Tại sao Aristotle là bệnh? Aristotle nói, “Cái này hay cái kia. Hãy chọn đi.” Sự chọn lựa là chức năng của tâm. Tâm không thể không chọn lựa. Chọn lựa, bạn bị mắc bẫy. Mỗi khi bạn lựa chọn, bạn đã chọn cái này đối nghịch với cái kia. Nếu bạn chọn lựa điều gì, bạn nhất định đã đối kháng cái kia. Bạn không thể chỉ thuận. Bạn không thể chỉ chống. Khi từ “thuận” đi vào, từ “chống” đã theo sau như hình với bóng. Khi “chống” có “thuận” hiện diện… ẩn tàng hay không ẩn tàng.
Khi bạn lựa chọn, bạn phân tán. Bạn nói, “Điều này thiện. Điều này ác.” Sự sống thống nhất. Vạn hữu không phân khai, luôn trong sự hòa hợp sâu đậm. Nó nhất thể. Nếu bạn nói, “Đây là tốt. Đó là xấu.” tâm trí đi vào bởi sự sống gồm cả hai. Đẹp trở thành xấu. Xấu trở thành đẹp. Không biên giới. Không ngăn kín, không tách biệt. Vạn hữu luôn là một dòng chảy từ đây đến đó. Tâm có nhiều ngăn cố định. Cố định là tánh của tâm. Linh động là tánh của vạn vật. Đó là lý do tâm là một sự ám ảnh. Nó luôn cố định, cứng ngắt. Vạn hữu không cứng ngắt, nhưng linh động, uyển chuyển, luôn vận hành đến sự đối cực. Vạn vật sinh diệt trong từng giây phút. Trẻ rồi lại già. Đôi mắt đẹp rồi những vết chân chim xuất hiện. Khuôn mặt như đóa hoa hồng thắm, phút chốc không còn nữa… chỉ còn lại chiếc bóng của quá khứ. Đẹp thành xấu. Sinh và diệt. Diệt rồi sinh. Phải làm gì với cuộc đời? Bạn không thể chọn. Nếu bạn muốn hiện diện với sự sống, với toàn thể, bạn vô chọn lựa.
Tâm chọn lựa. Aristotle biến nó là căn bản luận lý và triết lý. Bạn không thể tìm thấy một con người nào cách biệt với Tam Tổ Tăng Xán hơn Aristotle. Tam Tổ Tăng Xán nói, “Hoặc là điều này hay là điều kia. Đừng lựa chọn.” Tam Tổ Tăng Xán dạy, “Hãy vô chọn lựa.” Tam Tổ Tăng Xán khai thị, “Đừng phân biệt!” Khi bạn phân biệt, bạn đã lựa chọn, bạn phân chia, rời rạc, bệnh hoạn, không còn đồng nhất. Nếu bạn hỏi một tín đồ Công Giáo… người không thật sự thờ phụng ngài, cơ bản thuộc giới Aristotle. Công giáo đặt nền tảng trên Aristotle hơn Đức Chúa Giê Su. Đức Ki Tô giống Tam Tổ Tăng Xán hơn. Ngài dạy, “Đừng phán xét. Con hãy đừng phán xét!” Ngài dạy tiếp, “Điều này tốt. Điều kia xấu.” Ngài còn dạy, “Đừng chọn lựa. Đừng phán xét.” Công giáo không hướng về Đức Ki Tô. Những nhà sáng lập Công giáo nhiều Aristotle tính hơn là Công giáo tính.
Bạn không thể biến hóa giáo đường từ Tam Tổ Tăng Xán hay Đức Ki Tô. Làm sao bạn có thể biến hóa giáo đường thành sự vô lựa chọn? Giáo đường thuận và nghịch. Thuận Thượng Đế và nghịch với Ma vương. Trong vạn hữu, Thượng Đế và Ma vương không là hai. Họ đồng nhất thể. Ma vương một khuôn mặt và Thượng Đế là một khuôn mặt khác cùng nguồn năng lượng. Họ không là hai. Có đôi lúc ngài xuất hiện trong hóa thân của Ma vương, và có đôi lúc ngài xuất hiện trong hóa thân Thượng Đế. Nếu bạn nhìn thẩm thấu, bạn sẽ thấy họ như nhau. Thỉnh thoảng, ngài trong hóa thân kẻ cướp và thỉnh thoảng ngài trong hóa thân người đức hạnh. Có đôi lúc, ngài biến hiện ở nơi chốn nhơ nhuốc với những chúng sinh không được xem trọng, bị phán xét. Ngài vận hành. Ngài là dòng chảy. Không bến bờ nào quá xa mà ngài không đến. Không ai siêu vượt hơn ngài. Ngài vận hành trong mỗi chúng sinh.
Đức Chúa Giê Su vô phân biệt, nhưng Công giáo phân biệt bởi tôn giáo phải đạo đức. Khi một tôn giáo trở thành đạo đức thì không còn là một tôn giáo nữa. Tôn giáo là sự mạo hiểm cùng tột nhất. Phải thật dũng cảm mới vô chọn lựa, bởi tâm nói, “Hãy lựa chọn!” Tâm nói, “Hãy nói đi!” Điều này tốt. Điều kia xấu. Điều này tốt. Điều kia xấu. Tôi yêu điều này. Tôi ghét điều kia. Tâm bảo, “Hãy lựa chọn!” Tâm bị cám dỗ trong phân biệt. Khi bạn phân biệt, tâm thoải mái. Nếu bạn vô phân biệt, nếu bạn nói, “Tôi không nói. Tôi không phán xét” Tâm cảm giác như trên giường chết. Aristotle nói: A là A và không thể là A. Sự đối lập không thể gặp gỡ. Tam Tổ Tăng Xán dạy rằng không có đối cực. Chúng gặp nhau. Một trong những căn bản chân lý cần nhận thức, rằng đối lập không là sự đối lập. Chính bạn nói chúng đối lập, nếu không chúng không đối lập. Hãy ngắm nhìn vạn vật, bạn sẽ thấy chúng cùng một nguồn năng lượng.
Bạn yêu một người. Một phụ nữ tới tôi, cô nói, “Con kết hôn mười năm nhưng chúng con chưa bao giờ cãi nhau. Bây giờ, đột nhiên, có chuyện xảy ra. Anh rời bỏ con.” Cô tư duy là vì họ chưa bao giờ cãi nhau là họ yêu nhau thắm thiết. Quá vô minh. Quá Aristotlian tánh, tuyệt đối lô gic. Cô nói, “Trong mười năm hôn nhân, chúng con chưa hề cãi nhau, chưa bao giờ giận dỗi nhau. “ Cô có ý là, “Chúng con yêu nhau tha thiết nên chúng con chưa bao giờ giận dỗi nhau. Thậm chí, không một xung đột nhỏ, bây giờ, có chuyện xảy ra? Bỗng nhiên, anh rời bỏ con. Anh đã mất trí rồi chăng? Tình yêu của chúng con rất sâu đậm.” Cô đã sai. Nếu tình yêu sâu đậm thì nhất định phải có tranh cãi. Có lúc phải đánh nhau. Tranh cãi nhau không làm tình yêu tan vỡ, nhưng sâu đậm hơn. Nếu tình yêu hiện hữu, nó sẽ phong phú hơn qua sự lục đục. Nếu tình yêu không hiện diện, bạn rẽ đôi, chia tay. Mười năm là thời gian dài. Thậm chí, trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ, quá dài để duy trì cùng một tâm thái, bởi tâm luôn vận hành trong đối cực. Bạn yêu một người, đôi lúc bạn giận. Thật sự, bạn giận bởi bạn yêu. Có lúc, bạn hận! Đôi lúc bạn hy sinh cho người yêu. Đôi lúc, bạn muốn giết người đó. Cả hai là bạn.
Nếu bạn chưa bao giờ cãi nhau trong mười năm, có nghĩa là chưa yêu nhau. Có nghĩa là không phải là một mối quan hệ. Bạn quá sợ hãi là bất cứ cơn giận nào, xung đột nào cũng có thể làm tan vỡ cuộc tình. Bạn quá đỗi sợ sệt nên bạn không bao giờ tranh cãi. Bạn không bao giờ tin rằng tình yêu sâu đậm hơn sự tranh cãi. Sự lục đục chỉ tạm thời. Sau mỗi lục đục, bạn sẽ yêu nhau tha thiết hơn[1]. Bạn chưa bao giờ tin tưởng như vậy. Vì vậy, bạn cố gắng không tranh cãi. Không phải là việc đáng ngạc nhiên khi người chồng ra đi. Tôi nói, “Tôi ngạc nhiên là chồng của cô đã sống với cô hơn mười năm. Tại sao?”
Có một người đàn ông tìm đến tôi, ông nói, “Con trai con có vấn đề gì rồi. Con dạy dỗ nó hơn hai mươi năm. Nó luôn nghe lời. Một thiếu niên tốt ngài khó thể tìm thấy. Nó chưa bao giờ không vâng lời, chưa bao giờ chống lại con. Bỗng nhiên, nó trở thành kẻ híp py. Nó nhìn con như một người xa lạ. Hai mươi năm qua nó rất là nghe lời. Chuyện gì xảy ra với con trai tôi?” Không có chuyện gì xảy ra cả. Đây là một điều chắc chắn bởi nếu người con trai thật sự thương yêu cha của nó, anh nhất định phải bất tuân phục. Anh có thể không vâng lời ai bây giờ? Nếu người con trai thật sự yêu thương người cha, tin cậy ông thì sẽ không vâng lời, bởi anh biết mối quan hệ của họ cực kỳ sâu đậm, dù anh không nghe lời cũng không thể chia rẽ họ được. Ngược lại, sẽ phong phú thêm. Sự đối nghịch sẽ giúp tình cảm phong phú hơn.
Sự sống sinh động. Đối lập và giai điệu có mặt. Bạn biến chuyển. Bạn vận hành. Bạn tuân phục. Bạn bất tuân phục. Bạn yêu và bạn hận. Đây là cuộc đời, không logic. Logic dạy nếu yêu thì không thể hận. Nếu bạn yêu, làm sao bạn giận? Nếu bạn yêu bằng cách đó, bạn yêu một cách đơn điệu buồn tẻ, cùng nhịp điệu. Bạn sẽ căng thẳng. Không thể nào thư giãn được. Logic tin ở hiện tượng luyến tính. Trên một đường thẳng, bạn vận hành. Sự sống tin ở vòng tròn. Vẫn đường thẳng đó, lên xuống và biến thành một vòng tròn. Bạn nhất định đã trông thấy vòng tròn Bát Quái của Trung Quốc. Sự sống là vậy. Đối cực gặp nhau. Vòng Bát Quái có nửa phần trắng, nửa phần đen. Nửa phần trắng có một chấm đen, và trong nửa phần đen có một chấm trắng. Phần trắng đi vào phần đen. Phần đen đi vào phần trắng. Đây là vòng tròn. Nữ vận hành trong nam. Nam vận hành trong nữ. Đây là sự sống. Nếu bạn quan sát chăm chú, bạn sẽ thấy nó trong bạn. Nam không thể là nam trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Có lúc, họ là nữ. Nữ không thể là nữ trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Có lúc, họ là nam. Họ năng nổ hơn bất cứ người nam nào và họ nguy hiểm hơn bất cứ người nam nào, bởi tánh nam của họ thuần khiết hơn và chưa bao giờ được sử dụng. Mỗi khi họ sử dụng năng lượng đó, họ sắc bén hơn nên không một người nam nào có thể cạnh tranh nổi với họ. Nó như vùng đất mầu mỡ chưa bao giờ được trồng trọt qua trong nhiều năm. Khi bạn ném hạt giống vào, lập tức đầy hoa quả.
Người nữ có đôi lúc đầy nam tính. Khi họ đầy nam tính rồi thì không một người đàn ông nào có thể cạnh tranh với họ. Họ sẽ vô cùng nguy hiểm. Tốt nhất là người đàn ông nên phục tùng. Tất cả mọi người đàn ông đều hành động như vậy. Họ phục tùng. Họ quy phục. Bỗng nhiên, người đàn ông đầy nữ tính, nếu không sẽ rắc rối. Hai lưỡi gươm trong một vỏ gươm, sẽ có sự rắc rối. Nếu người nữ đầy nam tính, thay đổi vai trò, lập tức người nam biến đổi qua nữ tính. Mọi sự được thiết lập. Quỹ đạo hoàn thành.
Khi người nam phục tùng và quy phục, sự phục tùng có sự thuần khiết mà không người nữ nào có thể cạnh tranh nổi. Thông thường, họ không trong phong thái đó. Thông thường, họ tranh đua. Bình thường, họ đầy ý chí, không quy phục, nhưng khi họ phục tùng, họ ngây thơ đến không có người nữ nào có thể cạnh tranh. Hãy ngắm nhìn đàn ông đang yêu. Họ trở thành một đứa bé. Cuộc đời vận chuyển như vậy. Nếu bạn thấu hiểu nó, bạn không lo nghĩ. Bạn biết, tình nhân đã ra đi. Họ sẽ quay về. Người được yêu giận dỗi, cô sẽ yêu. Bạn đủ kiên nhẫn. Với Aristotle, bạn không thể kiên nhẫn, họ ra đi trên cuộc hành trình tuyến tính. Không trở lại. Không quỹ đạo. Tại Đông phương, chúng tôi tin ở vòng tròn. Tại Tây Phương, họ tin ở một đường thẳng. Tâm trí Tây phương là một đường thẳng. Tâm trí Đông phương là một vòng tròn. Tình yêu của Đông phương có thể chờ đợi. Họ biết người con gái bỏ họ sẽ quay về. Cô đang trên đường trở về. Khi người phụ nữ quay về, cô đã hối hận. Cô phải quay trở lại. Không sớm thì muộn, cô sẽ gõ cửa. Chỉ chờ đợi… bởi đối cực luôn có mặt. Sau khi người con gái trở về sau sân hận, tình yêu tươi mát hơn. Không phải sự lặp lại. Cơn sân hận đã hủy hoại quá khứ. Bây giờ, cô như người con gái tuổi độ thanh xuân, ngây thơ vô tội. Cô yêu say mê… Tình yêu nhuộm mầu hồng thắm hơn.
Nếu bạn thấu hiểu, bạn không đối kháng bất cứ điều gì. Bạn nhận biết thậm chí sân hận cũng tuyệt vời. Thậm chí, tranh cãi lúc này hay lúc khác giúp tình yêu đặc sắc hơn. Mọi sự mang âm điệu vào sự sống, giúp tình yêu phong phú hơn. Bạn chấp nhận, trong sự chấp nhận sâu sắc đó, bạn kiên nhẫn, không vội vã và không thiếu sự kiên nhẫn. Bạn có thể mong chờ, nguyện cầu, hy vọng và mơ mộng. Nếu không, sự sống là một tuyến tính, như Aristotle tư duy… như sự suy nghĩ của Tây phương, chuyển đổi từ Aristotle đến Bertrand Russell. Như Bertrand Russell suy nghĩ, sự sống bất dung. Không có người quay về. Bạn luôn rung động, sợ hãi, ức chế. Bạn sống với người con gái mười năm hay mười kiếp, nhưng đã sống chung với một người xa lạ. Bạn tự chủ. Cô tựchủ. Thiếu sự hội ngộ. Sự sống thiếu sự hợp lý. Logic chỉ là phần thể… Dĩ nhiên, rất dứt khoát, phân khai, khép kín. Sự sống là một mớ hỗn loạn. Phải hành động ra sao? Nếu như vậy. Đừng khép kín quá. Đừng ngăn cách. Đừng dứt khoát. Đừng phân chia. Đây là một sự hỗn độn. Luận lý là sự chết và sự sống linh động. Vấn đề là lựa chọn nhất quán hay chọn lựa sự sống.
Nếu bạn quá thiên về nhất quán, bạn sẽ chết dần chết mòn. Quá trình nhất quán xảy ra chỉ khi nào bạn buông bỏ mọi đối lập hoàn toàn. Bạn yêu và chỉ yêu, không bao giờ sân hận, không tranh cãi. Bạn phục tùng, chỉ phục tùng. Không bao giờ không vâng lời, không bao giờ nỗi loạn, không bao giờ bỏ đi. Tình cảm nhạt nhẽo dần. Mối quan hệ bị đầu độc… Nó hủy diệt cuộc tình.
Còn tiế
[1]Dịch Học cũng bảo, “Âm Dương xung khí dĩ vi hòa”. Âm Dương (nam nữ) xung nhau để rồi hòa hợp lẫn nhau, chứ không phải triệt tiêu lẫn nhau. Nam nữ “xung” nhau để có thể thấy được ưu khuyết điểm của nhau, rồi sau đó mới có thể thông cảm và hiểu biết lẫn nhau, mới có thể tha thứ nhau, chiều chuộng cho nhau, và mưu cầu được hạnh phúc.
Có Âm Dương, có vợ chồng, Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê.