VietBest

Full Version: Sống Đạo trong đời
You're currently viewing a stripped down version of our content. View the full version with proper formatting.
Pages: 1 2
Giáo Dân Có Bổn Phận Và Trách Nhiệm Gì Trong Giáo Hội?


4/28/2016 12:14:55 PM

[Image: PopeFrancis-24Apr2016-09.jpg]

Giáo dân là thành phần Dân Chúa đông đảo nhất trong Giáo Hội. Do đó, Giáo dân có vai trò rất quan trọng trong Hội Thánh do Chúa Giêsu thiết lập trên nền tảng các Thánh Tông Đồ để tiếp tục Sứ Vụ của Người trên trần thế cho đến thời sau hết.
PopeFrancis-24Apr2016-09.jpg

Trong phạm vi bài này, tôi muốn trình bày cách tổng quát về vai trò và sứ mạng của người Giáo dân dựa trên những tài liệu căn bản của Giáo Hội để mong cống hiến một cái nhìn đúng đắn về trách nhiệm và bổn phận của người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội hôm nay.

Trước hết, xin được nói qua về Giáo Hội và sứ mạng của Giáo Hội trong trần thế.

Giáo Hội là gì? Có thể định nghĩa vắn gọn: Giáo Hội là nơi qui tụ toàn thể Dân Thiên Chúa (The Assembly of God’s People) dưới quyền thủ lãnh của Chúa Kitô. Nói cách khác, Giáo Hội là Cộng Đoàn những người tin và muốn được huởng công ơn cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô, Đấng đã khai sinh Giáo Hội trong thời cuối cùng bằng việc rao giảng Tin Mừng và loan báo Nước Thiên Chúa đã đến trong trần gian (Mt 4:17; Mc 15).

I.- SỨ MẠNG CỦA GIÁO HỘI

Giáo Hội có sứ mạng nối tiếp Sứ Mạng của Chúa Kitô, tức nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ cho hết mọi người trên trần thế “làm cho muôn dân trở thành môn đệ, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19). Trong Sứ mạng này, Giáo Hội là Bí Tích hay Nhiệm Thể (Mystical Body) của Chúa Kitô trong trần thế. Theo lời dạy của Thánh Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium, Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập trên nền tảng các Tông Đồ “tồn tại trong Giáo Hội Công Giáo do Đấng kế vị Phêrô và các Giám mục hiệp thông với Ngài coi sóc và lãnh đạo”.[1] Do đó, cũng theoThánh Công Đồng, “những ai biết Giáo Hội Công Giáo được Thiên Chúa thiết lập nhờ Đức Giêsu Kitô như phương tiện cứu rỗi cần thiết mà vẫn không muốn ra nhập hoặc không kiên trì sống trong Giáo Hội này thì không thể được cứu rỗi”.[2]

Như thế, ta thấy Giáo Hội quan trọng và cần thiết biết bao cho những ai muốn lãnh nhận Ơn Cứuđộ của Chúa Kitô. Phải nói là, Giáo Hội Công Giáo (Catholic Church) để phân biệt với các giáo hội khác cũng tin nhận Chúa Kitô, nhưng không hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo về một số tín điều quan trọng và về quyền cai trị Giáo Hội thay mặt Chúa Kitô trên trần thế. Cũng phải nhấn mạnh thêm ở đây, là danh xưng “Công Giáo” không hề đồng nghĩa với công cộng (public) như có người đã hiểu sai và có ác ý xuyên tạc. Công Giáo (catholicam = catholic = catolico = catholique)có nghĩa là phổ quát (universal), là của chung (for everybody) vì được dành cho hết mọi người, mọi dân tộc không phân biệt mầu da, ngôn ngữ, phong tục, tất cả đều được mời gọi gia nhập để lãnh Ơn Cứu độ của Chúa Kitô.

II.- PHẨM TRẬT TRONG GIÁO HỘI

Đứng đầu của hàng giáo phẩm là Đức Giáo Hoàng, người kế vị Thánh Phêrô, vị thay mặt Chúa Giêsu trong nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Chúa và cai quản Giáo Hội hoàn vũ (Universal Church), với sự hiệp thông và cộng tác của Giám mục đoàn (College of Bishops). Hồng Y đoàn (College of Cardinals), gồm những vị được tuyển chọn trong Giám mục đoàn (và đôi khi cũng có một số Linh mục xuất sắc được chọn làm Hồng Y), với nhiệm vụ chính là cố vấn cho Đức Thánh Cha và là ứng viên tương lai tham dự vào mật nghị bầu Tân Giáo Hoàng khi đương kim Giáo Hoàng qua đời.

Hiệp thông và cộng tác với Giám mục đoàn trong thừa tác vụ (Ministerium = Ministry) là Linh mục đoàn. Phụ tá cho Giám mục và Linh mục là các Phó tế chuyển tiếp (transitional) hay vĩnh viễn (permanent deacons). Tu sĩ (Religious) là những người có lời khấn và thuộc về một Dòng tu hay Tu hội, được thành lập hợp pháp theo Giáo Luật. Nam tu sĩ có thể lãnh Chức Thánh để trở thành Linh mục, hay Giám mục.

Cũng cần nhấn mạnh ở đây, là trong Giáo Hội Công Giáo hiện nay, chỉ có 3 Chức Thánh (Ordo) là: Phó tế, Linh mục và Giám mục.[3] Chức Giám mục là chức thánh cao nhất dành cho những linh mục được chọn làm Giám mục, để nối tiếp sứ vụ của các Thánh Tông Đồ trong Giáo Hội. Các Hồng Y và chính Đức Giáo Hoàng cũng chỉ có chức Giám mục mà thôi.

Chức thánh (Ordo) không phải là Thừa tác vụ (ministerium), mặc dù mọi công việc mục vụ và thánh vụ của Linh mục hay Giám mục là tác vụ của chính Chúa Giêsu là Đầu (in persona Capitis). Tuy nhiên, phải có chức thánh Linh mục thì mới được thi hành thừa tác vụ Linh mục (priestly ministries), cũng như phải có chức thánh bậc Giám mục thì mới được trao cho những thừa tác vụ của Giám mục (Episcopal ministries). Không có nghi thức nào trong Giáo Hội hiện hành gọi là “Nghi Thức trao tác vụ linh mục”, mà chỉ có Nghi thức truyền chức Phó tế, Linh mục hay Giám mục mà thôi.[4] Vì thế, ngày lãnh Chức Thánh (Ordo) Phó tế, Linh mục hay Giám mục phải gọi là ngày lãnh chức thánh (ordination), và lễ đó gọi là Lễ Truyền chức chứ không thể gọi là “Ngày trao tác vụ Phó tế, Linh mục hay Giám mục” được, vì không có loại nghi thức này trong Giáo Hội Công Giáo hiện nay.

III.- GIÁO DÂN

Giáo dân là thành phần Dân Chúa đông đảo nhất trong Giáo Hội. Ngoài hàng giáo phẩm, Giáo sĩ và Tu sĩ, Giáo dân là những người đã lãnh nhận, hoặc đang khao khát lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, tức là Nhiệm Tích làm cho họ trở nên “Dân Thiên Chúa và tham dự vào chức vụ tư tế,ngôn sứ và vương giả của của Chúa Kitô theo cách thức của họ”.[5] Tước vị này của Giáo dân vốn xuất phát từ Phép Rửa Tội (Baptism) và được Thánh Công Đồng Vatican II long trọng nhắc lại, chứ không phải là giáo huấn mới của Giáo Hội về vai trò của người Giáo dân như có người lầm tưởng. Công Đồng đã dành trọn Chương IV của Hiến Chế tín lý Lumen Gentium để nhấn mạnh về vai trò và trách nhiệm của Giáo dân trong Giáo Hội ngày nay. Theo đó, Giáo dân, nhờ Bí Tích Rửa Tội, được tham dự vào các sứ vụ tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa Kitô, nhưng với “cách thức của họ”. Nghĩa là, họ được tham dự và thi hành theo cách thức sau đây:

1.- Sứ vụ tư tế (priestly ministry)

Công Đồng nói rõ: Chức tư tế chung của Giáo dân (Common priesthood of the Faithful) và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật (ministerial or hierarchical priesthood) của hàng giáo sĩ “khác nhau không chỉ về cấp bậc và còn về yếu tính” nữa, mặc dù cùng tham dự vào Chức Tư Tế duy nhất của Chúa Kitô... Linh mục, Giám mục là những người lãnh Chức Thánh (Holy Orders) để thay mặt Chúa Kitô cử hành Hy tế Tạ ơn (Eucharist) hàng ngày dâng lên Chúa Cha thay mặt cho toàn thể nhân loại. Ngược lại, Giáo dân được mời gọi dâng chính đời sống chứng tá của mình trong các môi trường hoạt động cùng niềm vui, nỗi buồn, việc bác ái, hy sinh, cầu nguyện lên Thiên Chúa trong tinh thần hiệp thông với Chúa Kitô một lần dâng hy tế trên thập giá năm xưa, và còn đang tiếp tục dâng hy tế ấy qua sứ vụ của Giáo Hội, cụ thể là qua sứ vụ của những vị được tấn phong làm tư tế thừa tác như Linh mục và Giám mục.

Như vậy, tuy cùng tham dự vào Chức Tư Tế của Chúa Kitô, nhưng cách thức và bản chất hoàn toàn khác với vai trò tư tế của Linh mục và Giám mục. Cụ thể, khi tham dự Thánh Lễ hay Hy Tế tạ ơn (Eucharist), Giáo dân không được phép đọc chung kinh nguyện nào, đặc biệt là Kinh Nguyện Thánh Thể (Eucharistic prayer) cùng với chủ tế (celebrant), hoặc giơ tay trên lễ vật như Chủ tế và các vị đồng tế (concelebrant), dù được mời đứng vây quanh Bàn Thánh. Ngay cả Phó tế cũng không được phép làm việc này hoặc đọc chung các kinh Tiền tụng và Kinh nguyện Thánh Thể cùng với Chủ tế, mà phải quỳ gối khi Chủ tế bắt đầu đọc Kinh nguyện Thánh thể để phân biệt rõ vai trò tư tế của chủ tế (và đồng tế nếu có) với nhiệm vụ phụ giúp Bàn Thánh của Phó tế.

Về việc tôn kính Phép Thánh Thể, Giáo dân không được phép tự ý lấy Mình Thánh Chúa trong Nhà Tạm (Tabernacle), hoặc trên Bàn Thờ để rước lấy, hay mang cho người khác, trừ trường hợp được Giám mục trao cho nhiệm vụ làm thừa tác viên Thánh Thể (Extraordinary minister of Holy communion) để phụ giúp trao Mình Thánh trong Thánh Lễ hay mang cho người đau ốm ở tư gia hoặc bệnh viện. Trong nhiệm vụ đặc biệt này, Giáo dân phải hết sức tỏ ra lòng tôn kính đối với Chúa Giêsu hiện diện thật sự trong Phép Thánh Thể. Cụ thể, phải mặc y phục xứng đáng và mang Mình Thánh trong túi đựng riêng (Pix) và đeo quanh cổ khi đi ra ngoài. Không được bỏ chung với các vật dụng khác trong ví sách tay, giỏ đi chợ hoặc hộp để đồ trong xe. Cũng phải mang Mình Thánh đến ngay cho người muốn lãnh nhận, không thể mang về nhà hoặc đi đây đó làm việc riêng trước khi trao cho bệnh nhân. Mình Thánh còn dư, phải đem về đặt lại trong Nhà Tạm, không được phép cất giữ ở nhà hay trong xe qua đêm, trừ trường hợp bất khả kháng không thể đến nhà thờ để trao lại trong ngày.

2.- Sứ vụ ngôn sứ và chứng nhân (prophetic ministry)

Nhờ Bí Tích Rửa Tội, người Giáo dân tham dự cùng với hàng tư tế phẩm trật vào sứ vụ ngôn sứ của Chúa Kitô, nhưng với cách thế khác nhau do bởi địa vị của họ trong Giáo Hội. Thật vậy, hàng giáo sĩ phẩm trật (Giám mục, Linh mục) rao giảng lời Chúa, dạy dỗ và cử hành các Bí tích trong phạm vi thánh đường (Phó tế được công bố và giảng Tin Mừng, được chứng hôn [có sự thừa ủy], Rửa Tội, chủ sự nghi thức an táng nhưng không được cử hành các bí tích khác). Ngược lại, Giáo dân được mời gọi rao giảng Lời Chúa và giáo lý bằng chính đời sống chứng nhân của mình trong các môi trường sống. Nghĩa là được mời gọi và có bổn phận làm tông đồ cho Chúa bằng cách chu toàn các bổn phận ở gia đình trong vai trò vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em. Bên ngoài xã hội, người Giáo dân làm tông đồ cho Chúa qua đời sống chứng tá, bằng cách nêu cao những giá trị của Tin Mừng trong khi sống và làm việc chung với những người không cùng tín ngưỡng với mình, để giúp họ nhận ra Chúa và tin yêu Người như Chúa Giêsu đã dạy: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian… ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ nhìn thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5:16).

Đây là sứ vụ ngôn sứ của người tín hữu Chúa Kitô, tức là sứ mạng góp phần phúc âm hóa thế giới cùng với hàng giáo sĩ. Vì sống giữa đời, nên người Giáo dân có nhiều cơ hội thuận tiện để rao giảng lời Chúa bằng chính đời sống của mình. Nếu họ can đảm sống trung thực với những giáo huấn của Chúa về công bằng, bác ái, yêu thương, tha thứ, tôn trọng danh dự, tính mạng và quyền lợi của người khác cách phải lẽ, thì chắc chắn họ sẽ phúc âm hóa hữu hiệu những môi trường có mặt họ sống chung với những người khác. Trong viễn ảnh này, đời sống chứng tá của họ có giá trị thuyết phục người khác mạnh hơn cả những lời giảng thuyết hùng hồn trong nhà thờ của hàng giáo sĩ. Vì thế, Thánh Công Đồng Vatican II đã nói: “Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những nơi và hoàn cảnh, mà nếu không có họ, Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian...”.[6] Ngược lại, nếu người tín hữu Chúa Kitô “thỏa hiệp” với thế gian, chấp nhận những lối sống đi ngược với mọi giá trị của Tin Mừng, thì họ đã chối Chúa Kitô cách hữu hiệu trước mặt người đời. Nói khác đi, nếu người tín hữu Công Giáo cũng ăn gian, nói dối, cờ bạc, ly dị, phá thai, nói hành, lăng mạ người khác, hay mê tín dị đoan tôn thờ của cải vật chất hơn những giá trị tinh thần, và chấp nhận những lối sống vô luân, phi nhân bản, thì chắc chắn không thể rao giảng hữu hiệu Tin Mừng công bình, bác ái, thánh thiện, yêu thương và tha thứ của Đức Giêsu Kitô cho ai được, vì không ai có thể cho người khác cái chính mình không có. Cũng vậy, không ai có thể thuyết phục người khác tin và làm những điều chính mình không tin và không thực hành trong đời sống. Nhiệm vụ ngôn sứ của người Giáo dân được mong đợi cụ thể trong hai lãnh vực chính sau đây:

a. Trong lãnh vực xã hội trần thế

Những môi trường hoạt động chính của người Giáo dân là các môi trường xã hội, chính trị, kinh tế, thương mại, công nghiệp, văn học, nghệ thuật, giáo dục, truyền thông,v.v… Như mọi công dân sống trong cộng đồng xã hội, người Giáo dân tham gia vào các môi trường trên vì nhu cầu sinh sống, vì nghề nghiệp chọn lựa hay chuyên môn đòi hỏi sự dấn thân hoạt động của họ. Chính ở những môi trường này, họ có cơ hội tốt để thi hành sứ vụ ngôn sứ và chứng nhân của mình trước tha nhân. Trong mục đích này, người Giáo dân đặc biệt được mời gọi và mong đợi dùng hiểu biết và khả năng chuyên môn của mình để cải tạo thế giới, lành mạnh hóa xã hội, chống lại mọi khuynh hướng tha hóa, lối sống phi luân, suy tôn vật chất làm băng hoại tinh thần con người trong mọi môi trường xã hội ngày nay. Cụ thể, họ có bổn phận phải tận dụng những phương tiện truyền thông hữu hiệu như: sách báo, truyền thanh, truyền hình, website, facebook, twitter,… để chống lại những ảnh hưởng khốc hại của “văn hóa sự chết” (culture of death) đang xâm nhập mọi lãnh vực sống hiện nay ở khắp mọi nơi. Họ phải có can đảm lên tiếng chống lại những tệ trạng xã hội, chủ nghĩa hưởng thụ và tôn thờ vật chất (consumerism &materialism) vô luân như phim ảnh, sách báo khiêu dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ em cho những kẻ vô đạo hành nghề mãi dâm. Phải chống lại mọi hình thức khuyến khích bạo động, ly dị và hôn nhân đồng tính (gay or lesbian marriage), một suy thoái nghiêm trọng về giá trị và mục đích của hôn nhân đang được cổ võ và hợp thức hóa ở nhiều nơi trên thế giới.

Mặt khác, để góp phần tích cực cải tạo xã hội, với tư cách công dân, người Giáo dân có quyền và có bổn phận tham gia các sinh hoạt chính trị để ủng hộ các chính khách hay chính đảng có lập trường công chính, bênh vực cho chân lý, cho những giá trị tinh thần phù hợp với Tin Mừng cũng như quyền căn bản của con người. Nhưng Giáo dân không được phép thành lập bất cứ tổ chức chính trị nào với danh xưng Công Giáo, nghĩa là không được nhân danh Giáo Hội Công Giáo để làm chính trị. Ngay cả các Đoàn thể, Hiệp hội và Phong trào,… “không một sáng kiến nào được lấy danh nghĩa Công Giáo nếu không có sự ưng thuận của giáo quyền hợp pháp”.[7]

b. Trong phạm vi Giáo Hội

Giáo dân được mời gọi cũng như có bổn phận xây dựng Giáo Hội bằng những đóng góp tích cực và thích đáng, để làm cho Giáo Hội ngày thêm vững mạnh về lượng, nhất là về phẩm chất thánh thiện theo gương Chúa Kitô.

Cụ thể, Giáo dân hãy can đảm sống đức tin Công Giáo không những trong lãnh vực tinh thần bằng việc chu toàn mọi bổn phận thiêng liêng như cầu nguyện, tham dự việc cử hành bí tích nhất là bí tích Thánh Thể (Eucharist) là đỉnh cao (climax) của phụng vụ thánh (sacred liturgy) và đời sống của Giáo Hội. Việc siêng năng tham dự Thánh lễ và rước Mình, Máu Chúa Kitô là phương thế hữu hiệu nhất để được trở nên giống Chúa Kitô là khuôn mẫu tuyệt vời của mọi sự thánh thiện, hoàn hảo.

Nhưng bổn phận và trách nhiệm của người Giáo dân không chỉ giới hạn vào việc chu toàn những bổn phận thiêng liêng này, mà còn đòi hỏi tích cực tham gia vào việc xây dựng và phục vụ tích cực cho Giáo Hội hoàn vũ cũng như Giáo Hội địa phương trong những công việc thích hợp với vai trò và khả năng chuyên môn của họ.

Cụ thể, Giáo dân phải cộng tác chặt chẽ với hàng giáo phẩm trong mọi công việc cần sự tiếp tay góp sức của họ như giúp việc quản trị và điều hành giáo xứ trong vai trò và trách nhiệm của các Hội Đồng Giáo xứ (Pastoral Council), các Đoàn thể. Nhưng cần nói rõ là, theo Giáo Luật,[8] Giáo dân phục vụ trong những Hội Đồng này chỉ đảm trách vai trò tư vấn (consultation) mà thôi, nghĩa là dùng hiểu biết và khả năng chuyên môn của mình để đưa ra những khuyến cáo, đề nghị cho Linh mục chánh xứ (pastor) hay Quản nhiệm (administrator) những phương thức tốt đẹp nhằm xây dựng, quản lý và phát triển giáo xứ, mưu ích lợi chung cho cộng đồng dân Chúa ở địa phương, nhưng không có quyền quyết định hay ra lệnh cho ai thi hành.

Hiện nay, Giáo dân đang có mặt trong nhiều lãnh vực hoạt động của Giáo Hội. Thí dụ trong lãnh vực giáo dục, có nhiều Giáo dân đang đảm trách giảng dạy ở các Đại Học, Chủng viện Công Giáo từ Roma cho đến địa phương. Nhiều Giáo dân cũng đang làm việc trong các Cơ quan trung ương của Tòa thánh và các Giáo phận trên toàn thế giới, góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo, giáo dục, hành chánh quản trị, và truyền thông của Giáo Hội.

Trong lãnh vực phụng vụ, Giáo dân được phép đọc sách thánh và làm thừa tác viên Thánh Thể, tức những thừa tác vụ (ministries) mà họ không được giao phó trước Công Đồng Vatican II. Đây là vinh dự đặc biệt của Giáo dân tham gia vào đời sống của Giáo Hội ngày nay.

3.- Địa vị vương giả hay sứ vụ vương đế của Giáo dân

Bí Tích Rửa Tội không những cho người tín hữu được tham dự vào sứ vụ ngôn sứ, tư tế và còn cả địa vị vương đế của Chúa Kitô nữa.

Thật vậy, Chúa Giêsu đến để cứu chuộc và dẫn đưa nhân loại vào “Nước Thiên Chúa”, là “Vương Quốc” của bình an, thánh thiện, công bình, yêu thương và tha thứ. Do đó, mọi tín hữu, qua Phép Rửa, đều được mời gọi và có bổn phận hoạt động tích cực để mở mang “Nước Thiên Chúa” ở khắp nơi trên trần thế này. Nghĩa là phải tích cực hoạt động để đẩy lui bóng tối của sự dữ, sự tội, bằng ánh sáng Chúa Kitô. Với tinh thần làm men, làm muối và ánh sáng, người Giáo dân, khi tham gia sinh hoạt và làm việc với người khác, phải cố gắng nêu cao những giá trị và đặc tính của “Nước Thiên Chúa” trước những thách đố của thời đại, của xã hội hưởng thụ vật chất, của “văn hóa sự chết” nhằm chối bỏ Thiên Chúa để tôn thờ tiền bạc và vui thú bất chính, dửng dưng trước sự đau khổ, nghèo đói của đồng loại, đánh mất mọi ý thức đúng đắn về tội lỗi và tội ác (sins & crimes). Tóm lại, họ phải có can đảm chống lại những nếp sống vô luân, những bất công xã hội, những vi phạm quyền sống của con người, những gương xấu xô đẩy con người vào con đường trụy lạc, làm băng hoại gia đình và xã hội từ gốc rễ.

Tóm lại, trong một thế giới gian tà và tội ác, sống xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu là sống xứng đáng với địa vị vương giả của mình, tức là góp sức đem “Nước Thiên Chúa” đến những nơi có bất công, tranh chấp, hận thù, gian ác, và nhơ uế.

Với địa vị vương giả, người tín hữu được mời gọi và có bổn phận mở mang “Vương Quốc” của Chúa Kitô Vua trên trần thế này trong mọi môi trường sống và hoạt động, vì “Chúa cũng muốn nhờ cả Giáo dân để mở mang nước Người, nước của chân lý và sự sống, của ân sủng và thánh thiện, của công lý, tình yêu và hòa bình”.[9]

4.- Tương quan với hàng giáo phẩm

Trước hết, cần biết qua tại sao phải gọi các Giám mục, Linh mục là “cha”. Giáo Hội cho phép dùng danh xưng này vì như lời Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô như sau: “Trong Đức Kitô Giêsu, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cr 4:15). Nghĩa là do tác vụ Giáo Hội trao, Giám mục, Linh mục sinh con cách thiêng liêng cho Chúa Kitô qua việc rao giảng Tin Mừng và làm Phép Rửa. Đây là vai trò người cha thiêng liêng (spiritual fatherhood) của hàng giáo sĩ. Đó chính là lý do tại sao Thánh Phaolô gọi Timothe là “người con tôi đã sinh ra trong đức tin” (1Tim 1:2).

Thánh Công Đồng Vatican II, trong Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội, xác định vai trò của “Các linh mục phải săn sóc các tín hữu như những người cha trong Chúa Kitô vì đã sinh họ cách thiêng liêng qua Phép Rửa và giáo huấn”.[10] Đây là tình thiêng liêng giữa giáo sĩ (Giám mục, Linh mục) và Giáo dân trong đức tin, không có liên quan gì đến văn hóa của một dân tộc nào và tuyệt nhiên không phải là hình thức “thần thánh hóa giáo sĩ” hay xúc phạm (blasphemy) đến “Thiên Chúa là CHA” trên trời như có người lầm tưởng và muốn thay đổi. Lời Chúa trong Tin Mừng Mat 23:8-9 chỉ có nghĩa là không được dành cho ai dưới đất sự tôn thờ, tôn kính duy nhất (latria) được dành riêng cho “Thiên Chúa là CHA”, Đấng tạo dựng mọi loài, mọi vật vô hình và hữu hình, chứ không áp dụng cho những người thay mặt Chúa để tác tạo con người về mặt thể lý và thiêng liêng như các bậc làm cha mẹ trong gia đình và trong Giáo Hội.

Trong tương quan với hàng giáo phẩm và để thi hành bổn phận góp sức xây dựng, bảo vệ và phát triển Giáo Hội từ trung ương đến địa phương, người Giáo dân cần lưu ý giáo huấn của Giáo Hội: “… như con cái Thiên Chúa và như anh em trong Chúa Kitô, họ (Giáo dân) cũng sẽ trình bày với các vị ấy (hàng giáo phẩm) những nhu cầu và khát vọng của mình một cách tự do và tín cẩn. Nhờ sự hiểu biết, khả năng chuyên môn và uy tín của họ, họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ của mình về những việc liên quan đến lợi ích của Giáo Hội. Họ nên thực hiện điều đó, nếu cần, nhờ các cơ quan đã được Giáo Hội thiết lập nhằm mục đích ấy, nhưng luôn luôn với lòng chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những người thay mặt Chúa Kitô vì nhiệm vụ thánh của các ngài”.[11]

Mọi người trong Giáo Hội phải hiểu rõ, là Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng các Tông Đồ không phải là một cơ chế chính trị, xã hội hay văn hóa, nhưng là một Bí Tích Cứu Độ, có mặt và hoạt động trong trần gian với sứ mạng hoàn toàn siêu nhiên, dù có phương tiện nhân sự là hàng giáo phẩm, giáo sĩ, phương tiện vật chất là các cơ sở thờ phượng, giáo dục, bác ái ở khắp nơi trên thế giới cũng như cần đến nhiều khoản tài chánh để chi phí cho những nhu cầu cần thiết. Vì không phải là một cơ chế chính trị hay xã hội, nên không thể áp dụng bất cứ đường lối, phương thức nào của các đoàn thể chính trị, xã hội vào các sinh hoạt của Giáo Hội. Mọi sinh hoạt trong Giáo Hội được hướng dẫn bằng tinh thần vâng phục các Bề Trên, thay mặt và nhân danh Chúa Kitô (in persona christi), dưới sự hướng dẫn, soi sáng, nâng đỡ của Chúa Thánh Thần. Cụ thể, các Giám mục hiệp thông và vâng phục Đức Thánh Cha, người kế vị Thánh Phêrô trong sứ mạng “chăn dắt chiên con, chiên mẹ của Thầy”, các Linh mục hiệp thông, vâng phục và cộng tác với các Giám mục để thi hành thừa tác vụ (ministry) được trao phó. Phó tế phụ giúp Linh mục và Giám mục. Tu sĩ nam nữ vâng phục các Bề trên liên hệ của mình.

Giáo dân vâng phục hàng giáo phẩm theo lời dạy sau đây của Thánh Công Đồng Vaticnô II: Như mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng lời của người Kitô hữu, Giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận những điều các chủ chăn có nhiệm vụ thánh, đại diện Chúa Kitô, đã quyết định với tư cách những thầy dạy và những nhà lãnh đạo trong Giáo Hội. Làm thế, họ đã theo gương Chúa Kitô, Đấng đã vâng lời cho đến chết, để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Giáo dân đừng quên dùng lời cầu nguyện phó dâng các vị lãnh đạo của mình cho Thiên Chúa, để các ngài hoan hỉ mà không than phiền thi hành nhiệm vụ chăm sóc chúng ta như những người sẽ phải trả lẽ (x. Dth 13,17).[12]

Vâng phục theo tinh thần trên không có nghĩa Giáo dân không được quyền phát biểu đóng góp điều gì cho Giáo Hội, và chỉ biết cúi đầu vâng nghe. Nhưng trước khi nói đến phạm vi và giới hạn của việc phát biểu đó, thì cần nhấn mạnh điều quan trọng này:

Trong Giáo Hội Công Giáo, mọi tín hữu phải vâng phục “Quyền Giáo Huấn” (Magisterium) của Giáo Hội. Không có vấn đề dân chủ để cho phép một thành phần nào trong Giáo Hội được quyền thách đố (challenge), đặt vấn đề hay bác bỏ điều gì được dạy dỗ bởi thẩm quyền này, đặc biệt trong hai lãnh vực “tín lý” (dogma) và “luân lý” (morals), bởi lẽ Đức Giáo Hoàng và các Giám mục hiệp thông với ngài được ơn bất khả ngộ (không thể sai lầm = infallibility) của Chúa Thánh Thần khi dạy dỗ tín hữu, đặc biệt trong hai lãnh vực này. Vậy khi các Linh mục và Giám mục hiệp thông với Đức Thánh Cha để giảng dạy những gì về đức tin, về giáo lý, luân lý, Kinh Thánh, phụng vụ thì các tín hữu phải vâng phục thi hành. Không có vấn đề không đồng ý kiến (disagreement) ở đây. Cũng không ai được phép từ chối tuân theo hay phê bình những gì liên quan đến kỷ luật bí tích, thư quy (canon)Kinh Thánh, Giáo Luật (canon law), phụng vụ thánh (sacred liturgy). Không thể đòi chia sẻ quyền giảng dạy chân lý của Giáo Hội để đưa ra những lý thuyết, những tư tưởng canh tân không phù hợp với Giáo lý của Giáo Hội.

Cụ thể không thể lấy cớ góp ý xây dựng Giáo Hội bằng những lý thuyết về tâm sinh lý và y học để đòi cho phép phá thai (abortion), ly dị (divorce) và hôn nhân đồng tính (same sex marriage). Không thể bất đồng với Giáo Hội về luật độc thân (celibacy) của hàng giáo sĩ, hay đòi cho nữ giới được làm Linh mục. Cũng không thể đối đầu với Quyền Giáo Huấn của Giáo Hội bằng phương thức diễn đàn để phê bình hay đề nghị những cải đổi liên quan đến tín lý, giáo lý, luân lý, Kinh Thánh, Bí tích,... thí dụ, không thể viện lý do hội nhập văn hóa (inculturation) để đòi đem các bài đọc về văn hóa, đạo đức của dân tộc như sách Huấn Ca, ca dao, tục ngữ để thay thế hay đọc xen kẽ với các bài Sách Thánh đang được đọc trong các Thánh Lễ. Cũng không thể lấy lý do “hội nhập văn hóa”để xin cho dùng “bánh tráng và rượu đế” thay cho rượu nho và bánh không men (unleavened bread) được dùng thống nhất trong phụng vụ của Giáo Hội Công Giáo. “Đem Chúa Kitô về với các dân tộc Á Châu” không có nghĩa là phải Việt Nam hóa hết mọi hình thức phụng tự, nghi lễ, kể cả nội dung tín lý, giáo lý đang áp dụng chung cho mọi dân tộc, mọi văn hóa thế giới. Điều quan trọng cần duy trì là cốt lõi niềm tin chứ không phải hình thức biểu lộ.

Cũng trong tinh thần này, không nên phê bình rồi đề nghị dùng cụm từ “gia nhập giai cấp Linh mục hay Giám mục” dựa theo nguyên ngữ của các từ “ordo và ordinatio” để thay thế cho danh xưng “chịu chức Linh mục hoặc Giám mục” đã được dùng trong phụng vụ và nghi thức của Giáo Hội, vì nói như vậy là chối bỏ “Chức Thánh = Holy Orders” của hàng giáo sĩ theo giáo lý và tín lý của Giáo Hội. Nên biết rằng, từ ngữ được dùng trong phụng vụ hay bí tích là phải được hiểu theo ý của Giáo Hội chứ không phải theo hiểu biết và cắt nghĩa của các nhà ngữ học (linguists). Vẫn biết, qua Bí tích Rửa Tội, mọi tín hữu đều được tham dự vào chức Linh mục của Chúa Kitô là Tư tế (Priest), Ngôn sứ (Prophet) và Quân vương (King), nhưng Giáo Hội phân biệt rõ thể thức tham dự này của người Giáo dân và của hàng giáo sĩ thừa tác (ordained ministers) như đã được trình bầy ở phần trên của bài. Tôi phải đặc biệt nhắc lại điều này vì có người hiểu lầm rằng, từ “Ordo” trong tiếng Latin mà Giáo Hội dùng để chỉ chức thánh của hàng giáo sĩ Công Giáo chỉ có nghĩa là “bậc, là giới, là giai cấp”, và từ “ordinatio” chỉ có nghĩa là “gia nhập” hay “xáp nhập” vào “ordo” đó. Bởi vậy, theo nguyên ngữ (original meaning) thì không có gì là “chức thánh” hay “chịu chức”, cũng như từ ngữ “Sacramentum” thì cũng chẳng có gì là “bí tích” cả; nhưng vì người ta dịch nghĩa như vậy nên trở thành quen thôi. Lập luận này hoàn toàn sai giáo lý của Giáo Hội, vì Giáo Hội không căn cứ vào từ ngữ, mà chỉ dùng từ ngữ để chuyên chở niềm xác tín của mình vào một thực thể thiêng liêng không thể chứng minh và cắt nghĩa được bằng ngôn ngữ hay lý luận của con người.

Thực thể đó là “Ơn thánh” (gratia) và “Quyền thánh” (sacra potestas) mà Giáo Hội tin là được Chúa ban cho các thừa tác viên có chức thánh (ordained ministers) qua việc đặt tay của Giám mục, và lời nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần trong Nghi thức truyền chức Phó tế, Linh mục hay Giám mục của Giáo Hội. Đây là một nghi lễ phụng vụ thiêng liêng đòi hỏi đức tin để chấp nhận chứ không phải là một hình thức lễ nghi của xã hội loài người như: lễ mãn khóa, lễ nhậm chức, lễ ra nhập một đoàn thể hay đảng phái chính trị,v.v… Nếu hiểu như vậy thì chẳng còn gì là thánh thiêng (sacred) trong các nghi thức phụng vụ của Giáo Hội nữa, và tất cả chỉ còn là “bùa phép” (magic) mê tín giả tạo núp dưới những từ ngữ dịch sai như ordo, ordinatio, sacramentum,v.v… mà thôi! Đây là một nguy cơ của việc sử dụng sai vai trò ngôn sứ trong Giáo Hội và tự hào am hiểu tiếng Latin để sửa sai Giáo Hội về những thuật ngữ được dùng trong phụng vụ thánh, trong các Bí tích (sacraments) và sách giáo lý của Giáo Hội. Đành rằng, Việt ngữ không có đủ khả năng tương đương để dịch từ tiếng Latin hay các ngôn ngữ Tây phương khác, nhưng khi dịch “Ordo” là “Chức Thánh”, “Ordinatio”là “Truyền chức” hay “chịu Chức thánh”, “Sacramentum” là “Bí Tích”, thì cách dịch này là đúng với ý của Giáo Hội về nội dung mới của các từ ngữ ấy, mặc dù nguyên ngữ không hẳn có đủ nghĩa đó. Cũng chính vì chỉ hiểu các từ Latin theo nguyên ngữ, nên có ý kiến cho rằng: vì Ordo có nghĩa là “bậc, là hàng, là giai cấp” nên nếu nói Phó tế, Linh mục, Giám mục có Chức thánh thì các “bậc độc thân, bậc góa bụa, cô trinh nữ” cũng đều có chức thánh cả, vì cùng là ordo như nhau và “do một nghi thức trong Giáo luật mà tác thành”!

Điều này hoàn toàn không đúng, vì trước hết qua Phép Rửa, tuy Giáo dân và hàng giáo sĩ cùng chia sẻ chức Linh mục duy nhất của Chúa Kitô, nhưng khác nhau về “cấp độ và yếu tính” (degree and essence) như đã phân tích ở phần trên. Và như Thánh Công Đồng Vatican II định nghĩa, danh từ “Giáo dân = laity” có nghĩa là “tất cả những Kitô hữu không có chức thánh hoặc bậc tu trì được Giáo Hội công nhận”.[13] Như vậy, chỉ có những người được chọn để lãnh chức Phó Tế, Linh mục và Giám mục mới có Chức Thánh (Holy Orders) mà thôi. Đây không phải là sự tranh giành hay độc quyền về “Chức Thánh”, mà chỉ là sự phân biệt về cách thức tham dự vào chức Linh mục của Chúa Giêsu theo giáo lý của Giáo Hội.[14] Nói cách khác, khi nêu ra những điều này, tôi không có ý chỉ trích các tác giả có tư tưởng không đúng về Bí tích, mà chỉ muốn nhân đây trình bày cho rõ những gì Giáo Hội dạy về tín lý, giáo lý, phụng vụ, bí tích và Nghi thức (Rites) mà thôi.

Vậy người Giáo dân có thể đóng góp gì để xây dựng Giáo Hội ngoài những điều nên tránh trên đây?

Ta hãy đọc lại lời dạy của Thánh Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Tín lý về Giáo Hội về việc này: “Họ (Giáo dân) cũng sẽ trình bày với các vị ấy (hàng giáo phẩm) những nhu cầu và khát vọng của mình một cách tự do và tín cẩn. Nhờ khả năng chuyên môn và uy tín của họ, họ có thể và đôi khi còn có bổn phận phải bày tỏ cảm nghĩ của mình về những việc liên quan đến lợi ích của Giáo Hội… nhưng luôn với lòng chân thành, can đảm, khôn ngoan, kính trọng và yêu mến những người thay mặt Chúa Kitô vì nhiệm vụ thánh của các ngài”.[15]

Như vậy, khi phải bày tỏ điều gì với hàng giáo phẩm, Giáo dân nên làm với lòng thực tâm yêu mến Giáo Hội, và chỉ vì thiện chí muốn xây dựng cho Giáo Hội ngày một thêm trở nên giống Chúa Kitô là Đầu của Thân thể Nhiệm mầu là chính Giáo Hội, mà mọi tín hữu là những chi thể lớn nhỏ. Cụ thể, Giáo dân có thể và còn có bổn phận trình bày cho các vị lãnh đạo Giáo Hội địa phương những thao thức về mục vụ, những khao khát được học hỏi về Kinh Thánh, tín lý, giáo lý, luân lý và phụng vụ để biết sống và hành Đạo cách tốt đẹp và hữu hiệu hơn trong hoàn cảnh thế giới ngày nay. Cũng trong mục đích ấy, Giáo dân có quyền nêu ra những thắc mắc của mình trong các lãnh vực này, hầu mong được hiểu rõ và hiểu đúng để thực hành trong đời sống. Ngoài ra, Giáo dân cũng có thể góp ý hoặc đề nghị những phương pháp sư phạm giúp giảng dạy giáo lý cách hiệu quả và cập nhật hơn cũng như góp ý về việc kiến thiết, xây dựng Giáo xứ, kể cả phương thức gây quỹ (fundraising) để giúp tài trợ những nhu cầu cần thiết. Nhưng cần phân biệt rõ là, góp ý xây dựng (suggest constructively) thì khác với chỉ trích (criticize) và tạo gương xấu (scandal) có hại cho uy tín của Giáo Hội. Khi muốn sửa sai điều gì liên quan đến cá nhân, tập thể, thì chúng ta cần nhớ lại lời Chúa sau đây về cách sửa lỗi anh em (fraternal correction):

“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa để mọi công việc được giải quyết căn cứ vào lời hai hay ba nhân chứng. Nếu nó không nghe họ thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe thì hãy kể nó như một người ngoại hay một kẻ thu thuế” (Mt 18:15-18).

Như vậy, khi thấy có sự sai trái nào trong Giáo Hội, trong cách hành xử của một hay nhiều giáo sĩ, hoặc tai tiếng về đời tư của ai, mà đã vội rỉ tai loan truyền cho người khác biết, rồi viết thư nặc danh, viết báo, lên internet công khai đả kích hay nói xiên xéo, bóng gió về sự sai trái đó cho công chúng biết, thì có phù hợp với lời Chúa trên đây không?

Chúng ta nên hiểu rằng, Giáo Hội của Chúa trên trần gian này không phải đã là nơi qui tụ toàn các thánh nam, nữ, tức là những người không còn tì vết nào đáng chê trách nữa. Trái lại, phải thành thật nhìn nhận rằng, Giáo Hội chỉ là nơi mời gọi những người tội lỗi muốn được cứu rỗi, muốn nên thánh, nhưng còn đang trên tiến trình hoàn thiện và chưa đạt đến đích ấy. Do đó, chúng ta không nên hoảng hốt hay bất mãn khi thấy một số hay nhiều phần tử trong Giáo Hội chưa tốt lành như ta mong muốn. Vậy ta hãy nên khoan dung nhìn nhận sự kiện này như Chúa đã và đang khoan dung, nhân từ, nhẫn nại với những khiếm khuyết, lầm lỗi, và cả tội lỗi của mỗi người trong chúng ta. Chắc chắn Chúa không muốn chúng ta ném đá bất cứ ai còn khuyết điểm và tội lỗi. Chúa mong muốn chúng ta luôn cố gắng thăng tiến và giúp người khác nhận ra lầm lỗi và sửa đổi, để được tha thứ và nên thánh. Vả lại, chúng ta đã dám tự nhận mình là người hoàn hảo chưa? Nếu chưa, thì chúng ta nên khoan dung, nhẫn nại với những ai đang còn khuyết điểm và bị tai tiếng, thay vì vô tình “ném đá” họ bằng những phản ứng nông nổi, thiếu suy nghĩ núp dưới danh nghĩa muốn “lành mạnh hóa Giáo Hội”.

Mặt khác, để giúp Giáo Hội nhìn ra những khuyết điểm trong phương thức quản trị, mục vụ và đào tạo giáo sĩ, tu sĩ để phục vụ tốt và hữu hiệu hơn cho Dân Chúa, thì không nên chỉ bới móc những khuyết điểm theo chủ quan của mình bằng những phê bình gay gắt như sau:

“Chức linh mục được mặc nhiên coi là chức thánh, con người linh mục được mặc nhiên coi là con người thánh, dù có nhiều linh mục chẳng thánh một chút nào… Còn cách nào đề cao các linh mục hơn như thế? Về phương diện này, các chế độ độc tài hẳn phải thua xa…!”. Hoặc: “Linh mục và Giáo dân cũng là người như nhau. Trí tuệ, đạo đức, uy tín và ảnh hưởng, chưa chắc ai hơn ai...”. Đây là một vài điển hình của thiện chí muốn góp ý xây dựng hay đả phá Giáo Hội?

Đừng vội hiểu lầm là tôi muốn bao che, bưng bít những điều không tốt đẹp nơi người này, việc nọ trong Giáo Hội. Cũng không phải là muốn ngăn cản Giáo dân thi hành chức năng ngôn sứ của mình. Ngược lại, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều là, xin những ai có thiện chí muốn đóng góp gì vào việc xây dựng, phát triển và bảo vệ Giáo Hội, thì xin làm với tinh thần Tin Mừng và trong khuôn khổ những giáo huấn của Giáo Hội về vai trò và trách nhiệm của mọi thành phần Dân Chúa trong Hội Thánh.

Chúng ta phải phân biệt rõ: góp ý xây dựng khác với chỉ trích, đả phá. Điều này áp dụng chung cho mọi sinh hoạt đúng đắn của mọi tổ chức, đoàn thể xã hội, chính trị và đặc biệt là tôn giáo. Không một đoàn thể, tổ chức nào có thể phát triển và tồn tại được nếu các thành viên chỉ chú trọng vào việc bới xấu nhau, đả kích cá nhân đưa đến phương hại uy tín chung của tập thể.

Nhưng nếu thấy có gương xấu (scandal) thực sự trong đời sống của một hay nhiều người trong Giáo Hội địa phương, nếu có sự “lạm dụng Toà giảng” (pulpit) để công kích cá nhân hay phổ biến những điều ngoài phạm vi chia sẻ lời Chúa, hoặc thấy những sai lệch “fantaisie” (phóng túng) trong phụng vụ (thí dụ: cho Giáo dân đứng quanh bàn thờ để cùng giơ tay trên lễ vật với chủ tế và cùng đọc chung Lời truyền phép!; mời đôi tân hôn lên đồng tế quanh bàn thờ sau khi chứng hôn; rửa tội hay chứng hôn tại tư gia; dâng lễ ngoài bãi biển hay nơi giải trí công cộng,v.v…), hoặc trong cung cách hành xử của linh mục, tu sĩ nào đó, thì Giáo dân có bổn phận trước tiên là phải can đảm và thẳng thắn bày tỏ quan tâm của mình cách khôn ngoan, kính trọng và kín đáo với các đối tượng liên hệ để xin điều chỉnh, thay đổi. Nếu phương cách này tỏ ra vô hiệu quả, thì bước tiếp có thể làm là trình cho Bề Trên liên hệ trong Giáo phận biết về mối quan tâm của mình. Không ai cấm Giáo dân làm việc này. Không phải vâng phục mà câm nín, làm ngơ trước những sự kiện khách quan là gương xấu, là sai trái, cần được phê bình, sửa chữa. Chỉ xin một điều là, đừng bày tỏ quan tâm của mình vì bực tức, muốn trả thù và công khai chỉ trích, bêu xấu, mà hậu quả nhiên hậu là làm phương hại cho uy tín chung của Giáo Hội, là điều nên tránh mà thôi.

KẾT LUẬN

Giáo dân có vai trò và trách nhiệm xây dựng Giáo Hội cùng với hàng giáo sĩ.

Giáo dân vâng phục các vị chủ chăn nhận lãnh năng quyền dạy dỗ, thánh hóa và cai trị xuất phát từ Đức Giêsu Kitô, qua vị Đại Diện duy nhất của Chúa trên trần thế là Đức Thánh Cha, xuống các Giám mục, Linh mục hiệp thông và cộng tác với ngài trong Giáo Hội. Như thế, vâng phục các chủ chăn liên hệ (Linh mục, Giám mục) là vâng phục chính Chúa Giêsu mà các ngài nhân danh (in persona Christi) để giảng dạy, thánh hóa và cai trị. Sự vâng phục và kính trọng này không làm mất danh dự, địa vị và trách nhiệm của Giáo dân trong Giáo Hội, mà ngược lại, còn chứng tỏ đức tin trưởng thành và đúng đắn của người tín hữu Chúa Kitô nữa, vì như lời Thánh Công Đồng Vatican II đã dạy, người Kitô hữu khi vâng phục các chủ chăn trong Giáo Hội “đã theo gương Chúa Kitô, Đấng đã vâng lời cho đến chết để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái Thiên Chúa cho tất cả mọi người”.[16] Tuy nhiên, Giáo Hội cũng mong đợi người Giáo dân can đảm và khôn ngoan thi hành trách nhiệm của mình, xuất phát từ Bí tích Rửa Tội qua vai trò ngôn sứ, tư tế và vương đế như đã trình bày trong bài này.

Các vị chủ chăn được kêu gọi không những “phải nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của Giáo dân trong Giáo Hội”, mà còn “nên sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của họ”được trình bày nữa.[17] Nhưng Giáo dân cũng phải kính trọng các chủ chăn của mình, ngay cả khi phải trình bày với các ngài những ưu tư xây dựng của mình về một vấn đề nào có liên quan đến lợi ích chung của Giáo Hội, của Giáo xứ hay Cộng đoàn. Tóm lại, phải có sự tương kính giữa mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo Hội. Tôn trọng lẫn nhau vì vai trò và địa vị của mình cho mục đích xây dựng và phát triển Giáo Hội của Chúa, là phương tiện cứu rỗi cho mọi người, mọi dân tộc ở mọi thời đại. Tôn trọng để cùng giúp nhau chu toàn bổn phận và trách nhiệm của mình trong Giáo Hội.

Hàng giáo phẩm, Giáo sĩ, Tu sĩ và Giáo dân đều có chung một sứ mạng là hoạt động tích cực để mở mang “Nước Chúa” trên trần thế, hầu cho nhiều người được hưởng Ơn Cứu độ của Chúa Kitô. Tất cả đều có chung một khát vọng là được nên thánh như Cha trên trời là Đấng chí Thánh, mặc dù khác nhau về địa vị và phương thức thi hành sứ mạng của mình trong Giáo Hội. Sự khác biệt này không làm thương tổn đến địa vị của một thành phần nào trong Giáo Hội, mà chỉ nói lên tính đa dạng của ơn gọi phục vụ mà thôi. Mong mọi người ý thức điều quan trọng này để có thái độ sống thích hợp hầu tránh gương xấu về nguy cơ tranh chấp quyền bính trong Giáo Hội.

 Lm . FX. Ngô Tôn Huấn

[1] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium, no. 8.

[2] Ibid., no. 14.

[3] cf. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, no. 1536.

[4] cf. The Rites of the Catholic Church, 1964.

[5] cf. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium, IV, no. 31.

[6] cf. Ibid., no. 33.

[7] x. Công Đồng Vatican II, Sắc lệnh Apostolicam Actuositatem, V, no. 24.

[8] cf. Bộ Giáo Luật, 1983, cans. 511-14 & 37.

[9] Công Đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium, no. 36.

[10] cf. Ibid., no. 28.

[11] cf. Ibid., IV, no. 37.

[12] Ibid., IV, no. 37.

[13] Ibid., no. 31.

[14] cf. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, nn. 1536, 1551.

[15] Ibid., no. 37.

[16] Ibid., IV, no. 37.

[17] Ibid., IV, no. 37.

Theo http://conggiao.info/giao-dan-co-bon-pha...oi-d-35264
Bài 37 CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI (1)


CHƯƠNG II : CỘNG ĐỒNG NHÂN LOẠI
Bài 37

CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI (1)

Lời Chúa : “Đức Chúa phán với ông Cain : “Aben, em ngươi đâu rồi”
... Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta” (St 4,9).

Ý chính : 1. Tính xã hội của con người. (St 4,1.2-10)

2. Phát huy tính xã hội. (Cv 2,44-46)

3. Bổn phận người Kitô hữu đối với xã hội. (Mc 10,42-45)


Quy chiếu : sách GL.HTCG 1992 số 1878-1896

Tâm tình : Vui vẻ, niềm nở với mọi người.
I. ỔN ĐỊNH.
1. Đón tiếp.
2. Thánh hóa.

3. Giới thiệu bài mới :

Con người luôn có tính xã hội, sống với, và sống cùng người khác. Không ai có
thể sống cho ra người nếu không sống trong xã hội. Mối liên hệ giữa con người và xã
hội ngày càng trở nên phong phú, chặt chẽ hơn. Đời sống của người Kitô hữu không
thể tách rời khỏi những sinh hoạt xã hội. Hơn thế nữa, đức tin phải là men, là muối, là
ánh sáng cho mọi sinh hoạt của con người trong xã hội. Vì thế, sau khi hiểu biết về
phẩm giá con người, chúng ta tìm hiểu về cộng đồng nhân loại mà đề tài đầu tiên là
“Con người và xã hội”.

II. TỪ CUỘC SỐNG.
Tại thành phố Berlin bên Đức, trường Đại học thể thao Frangosiches được gọi là
“ngôi trường không biên giới”. Trường qui tụ các sinh viên của hơn 80 quốc gia. Đối với các sinh viên theo học tại đó thì những giờ giải lao thật là những giây phút tuyệt vời nhất : Từng nhóm nhỏ sinh viên thuộc các quốc gia, chủng tộc khác nhau, tụ tập bên nhau ca hát, nhảy múa, trao đổi việc học hành, chuyện riêng tư... 

Bạn Sonia tâm sự :  “Ở trong môi trường như thế này, bạn sẽ hiểu biết thêm được nhiều ngôn ngữ và các nền văn hóa trên thế giới. Mỗi người là một bản sắc riêng biệt. Do đó tha hồ mà học hỏi lẫn nhau”. 

Còn Will, một chàng trai da đen gốc Congo lại có một nhận xét khác : “Tôi cảm thấy dễ chịu và thoải mái như ở nhà của mình. Đâu đâu cũng vang
lên tiếng cười, tiếng nô đùa...”

Như vậy, chính khi sống với người khác, con người phát triển nhân cách và
trưởng thành. Tại sao vậy ? Mời các em lên gặp Chúa để được Người soi sáng, dạy
bảo.

III. LÊN TỚI CHÚA.

A. Công bố Lời Chúa.
Lời Chúa trong sách Sáng thế (St 4,1.2-10)

“Con người ăn ở với bà Eva, vợ mình. Bà thụ thai và sinh ra ông Cain. Bà nói :
“Nhờ Đức Chúa, tôi đã được một người.” Bà lại sinh ra ông Aben, em ông. Ông
Aben làm nghề chăn chiên, còn ông Cain làm nghề cày cấy đất đai. Sau một thời
gian, ông Cain lấy hoa màu của đất đai làm lễ vật dâng lên Đức Chúa. Ông Aben
cũng dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng. Đức Chúa đoái
nhìn đến ông Aben và lễ vật của ông, nhưng ông Cain giận lắm, sa sầm nét mặt. Đức Chúa phán với ông Cain : “Tại sao ngươi giận dữ ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt ?
Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngưoi sẽ ngẩng mặt lên không ? Nếu ngươi hành
động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi ; nhưng ngươi
sẽ phải thống trị nó.” Ông Cain nói với em là ông Aben : “Chúng mình ra ngoài đồng
đi !” Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì ông Cain xông đến giết ông Aben, em
mình. Đức Chúa phán với ông Cain : “Aben em ngươi đâu rồi ?” Ông Cain thưa :
“Con không biết. Con là người giữ em con hay sao ?” Đức Chúa phán : “Ngươi đã
làm gì vậy ? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta !”
- Đó là Lời Chúa.

+ Tạ ơn Chúa (thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).

B. Dẫn giải nội dung giáo lý.

1. Tính xã hội của con người. (St 4,1.2-10)
Đoạn Kinh Thánh vừa tuyên đọc cho chúng ta thấy rõ ngay từ khi tạo dựng,
Thiên Chúa đã không đặt con người vào một nơi riêng lẻ, nhưng đặt nó vào trong
khung cảnh cộng đồng mà ta gọi là gia đình, ngõ hầu tạo nên sự liên kết hỗ tương
giữa người với người, nghĩa là có mối dây ràng buộc với nhau, có quan tâm, trách
nhiệm đến nhau. Lời Chúa hỏi Cain : “Aben em ngươi đâu rồi ?” đã nói lên trách
nhiệm liên đới giữa người với người. Trước đó, Ađam cũng không tìm được sự
“đương đối” hòa điệu, sự an vui với loài vật dù ông làm chủ vật đó ; trái lại, ông chỉ
“vui sướng” khi gặp được Eva, một con người khác (x.St 2,23-24).
Trong cuộc sống, không ai có thể nói tôi sống mà không cần đến ai, hay không ai
cần đến mình. Người ta đã thấy khi bắt gặp một “dã nhân” trong một khu rừng, người
ta không hề thấy nơi anh chút gì là tính người. Từ tập quán, ngôn ngữ, thói quen đều
như một chú vượn (vì anh sống với bầy vượn). Đến khi đưa anh trở về tiếp cận cuộc
sống xã hội, tập cho anh từng bước đi, tập nói, trò chuyện... Qua một thời gian giao
tiếp với người, được hội nhập vào đời sống xã hội, anh mới dần trở thành một con
người thực sự, biết ăn, biết nói, biết đi, biết suy nghĩ, và những thói quen của một con
người.
Đọc trong Kinh Thánh Tân ước, những người bị mắc bệnh phong cùi đều bị khai
trừ khỏi cuộc sống cộng đồng Do thái. Họ sống bên lề xã hội không chỉ vì tính hay
lây của bệnh nhưng chính vì bị kết tội ô uế, tội lỗi. Trong câu chuyện Chúa Giêsu
chữa bệnh cho 10 người phong cùi (x. Lc 17,12-19), chúng ta thấy nỗi đau khổ nhất
của họ là phải sống xa cách mọi người, tách biệt khỏi mọi sinh hoạt xã hội, họ như
mất quyền làm người. Và chính Chúa Giêsu đã đưa họ trở về với cộng đồng xã hội.
“Anh hãy đi trình diện Thầy tư tế” (Lc 17,14). Trình diện với các tư tế để chứng tỏ
mình được lành bệnh và do đó được trở về nhà, được hội nhập đời sống gia đình, xã
hội (x. Lv 14,1-32).
Kinh Thánh cũng xác định rõ ràng “lòng yêu mến Thiên Chúa không thể tách rời
khỏi tình yêu anh em” (Rm 13,9). Hơn thế nữa, khi cầu nguyện với Chúa Cha “xin
cho mọi người nên một... như Chúng ta là một” (Ga 17,21-22), Chúa Giêsu đã cho
thấy “tính xã hội” của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mô hình của tính xã hội nơi
con người với con người.

Khi thành lập Hội Thánh, Chúa Giêsu đã qui tụ những kẻ tin Người thành một
cộng đoàn theo khuôn mẫu của mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Công đồng Vaticanô
II đã xác nhận tính cách xã hội của Hội Thánh khi nói : “Thiên Chúa không muốn
thánh hóa và cứu rỗi loài người cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng Người muốn qui
tụ họ thành một dân tộc để họ nhận biết chính Người trong chân lý và phụng sự
Người trong thánh thiện” (Hc.HT 9).
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa mà Thiên Chúa là cộng đoàn Ba Ngôi vị.
Vì thế, tự bản chất con người có tính xã hội. Con người cần được sống trong xã hội.
Nhờ sự trao đổi, đối thoại với người khác và nhờ sự phục vụ lẫn nhau, con người phát
triển khả năng của mình, hoàn thiện nhân bản và đức tin của mình.

Tóm lại, vì con người được dựng nên theo hình ảnh cộng đoàn Ba Ngôi Thiên
Chúa, nên tự bản chất, con người có tính xã hội.

2. Phát huy tính xã hội. (Cv 2,44-46)
Con người tự bản chất đã có tính xã hội. Do đó, muốn thăng tiến bản thân theo
đúng ơn gọi làm người và làm Kitô hữu, chúng ta phải sống thế nào ? Muốn biết,
chúng ta hãy nhìn vào đời sống của Chúa Giêsu, Đấng đã sống khoảng 33 năm trong
trần thế. (mời đứng, nếu là một tiết riêng).

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 2,51-52) :
“Sau đó, Chúa Giêsu đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng
phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn
Chúa Giêsu thì ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương
mến”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa.
(thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).

Dù là Thiên Chúa quyền năng, Ngôi Lời Thiên Chúa đã không chọn một phương
thức nào khác nhưng đã chọn cuộc sống làm người, sống giữa cộng đoàn dân tộc Do
thái để được làm người và phục vụ con người. Nguyên điều này đã cho thấy ý nghĩa
và giá trị của cuộc sống chung mà ta gọi là xã hội.

Trở lại câu chuyện ngôi trường “không biên giới”, ta thấy một vấn đề nền tảng :
con người cá nhân và tập thể liên đới trong việc học biết sống với nhau. Ngắm nhìn
một cái rìu bằng đá của người nguyên thủy, hay một máy bào liên hợp hiện đại, ta
thấy một mối liên hệ mật thiết, một gạch nối liền hiện tại với quá khứ : con người
hiện tại và con người cổ xưa gặp nhau ở ý thức sáng tạo để phục vụ cho nhau. Con
người cổ xưa sống giữa hoang dã của muôn loài, đã chống chọi những điều kiện thiên
nhiên khắc nghiệt, những va chạm với loài thú dữ, với người khác... Để sống còn và
phát triển, con người phải liên kết với nhau thành bộ tộc, thành làng xóm...

Cuộc sống chung giữa người với người làm nên tình liên đới “không ai là một
hòn đảo” (St. Exupéry). Vì nếu không được nuôi dưỡng và lớn lên trong cộng đồng
tập thể, con người không thể hình thành cuộc sống văn minh. Nếu không có sự liên
đới giữa người với người, chúng ta không thể phát triển về mặt nhân cách. Trong thực
tế, con người đã sống và phát triển nhờ những cộng đoàn nền tảng sau :
a) Gia đình :
Đây là môi trường đầu tiên và tốt đẹp để con người hòa nhập đời sống cộng đồng
một cách đúng đắn và phong phú. Các phần tử trong gia đình có mối liên hệ mật thiết
với nhau, cùng chia sẻ với nhau tình thương và trách nhiệm, công việc, những ước
mong vì lý tưởng... Nền giáo dục gia đình ảnh hưởng rất lớn cho mỗi người. Bài học
sống cộng đồng và hội nhập xã hội đầu tiên chính là gia đình và bài học này có tính
quyết định.

b) Các môi trường tập thể :
Cùng với môi trường gia đình, con người còn được phát triển về văn hóa và hình
thành nhân cách trong các môi trường học đường, bạn bè, đoàn thể, những tổ chức
hiệp hội, sinh hoạt giáo xứ v.v... Đây là những tập thể giáo dục đích thực quan tâm tới
sự phát triển con người toàn diện. Báo Tuổi Trẻ trong năm 97 có đăng tin một ngôi
trường mang danh hiệu là trường “Hoà Bình”. Ở cách kinh đô Giêrusalem 50 km, tại
làng Neve Shalom, một ngôi trường được thành lập với 126 học sinh Israel và
Palestine cùng theo học. Học sinh hai dân tộc đang đối nghịch này cùng học một lớp,
cùng chơi đùa bên nhau. Từ lúc sáu tuổi, các em đã học đọc, học viết tiếng Ảrập và
Hê-brơ. Người ta tin chắc rằng, trong môi trường giáo dục này, sẽ dần hình thành
những con người không đối kháng, không sống trong thù hận, mà biết sống liên đới
với nhau, biết khám phá ra con người mình trong tập thể. Nhờ thế, con người có điều
kiện để phát huy tính xã hội...
Mỗi đoàn thể, tổ chức có những mục tiêu sinh hoạt, kỹ luật riêng, nhưng đều
nhắm tới việc phục vụ và phát triển con người toàn diện, nhất là những cộng đồng
thấm nhuần Tin Mừng.
Đàng khác, các cộng đoàn mà con người tham dự đều có những cấp bậc cao thấp
khác nhau. Thí dụ : cộng đoàn giáo phận cao hơn giáo xứ, giáo họ nhưng đều phục vụ
và giúp con người phát triển nên các cộng đoàn cấp cao không được lấn át cấp dưới.
Trái lại, phải hỗ trợ và bổ túc để những cộng đoàn cấp dưới và các cá nhân dễ phát
huy sáng kiến và chu toàn trách nhiệm của mình.

3. Bổn phận người Kitô hữu đối với xã hội. (Mc 10,42-45)
Được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, một Thiên Chúa tình yêu (x. 1 Ga
4,8), con người thể hiện trọn vẹn chính mình và trở nên “người” hơn khi sống với và
sống cho người khác. Chúa Giêsu đã là mẫu gương cho chúng ta trong đời sống xã
hội (nếu là tiết riêng thì mời đứng :)

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mác-cô (Mc 10,42-45).
“Đức Giê-su gọi các ông lại và nói :“Anh em biết : những người được coi là thủ
lãnh các dân thì áp đặt trên họ quyền bá chủ, những người lớn thì áp đặt trên họ
quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy : ai muốn làm lớn
giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em ; ai muốn làm đầu anh em thì phải
làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ,
nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
- Đó là Lời Chúa.
+ Lạy Chúa Kitô, ngợi khen Chúa.
(thinh lặng giây lát rồi mời ngồi).

Khi đó, Giacôbê và Gioan đến xin được chia sẻ quyền bính trong vương quốc
của Chúa, các môn đệ khác đã ghen tức nên Chúa gọi các ông lại và chỉ cho các ông
một thái độ sống trong cộng đoàn xã hội : “Ai muốn làm lớn phải làm người phục vụ
; ai muốn làm đầu cộng đoàn thì hãy làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,43-44). Chúa còn
lấy chính mình làm mẫu gương sống cho các ông : “Con Người đến không phải để
được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc
muôn người”. (Mc 10,45). Quả thật, dù là Thiên Chúa quyền năng, Chúa Giêsu đã trở
nên người bạn và người đầy tớ mọi người : Người đã chia sớt nỗi đau xót của những
người nghèo khổ : bệnh nhân (x. Mt 9,20-22) ; phong cùi (x. Mt 8,1-4) ; bà góa mất
con (x. Lc 7,11-15) ; người chị mất em (x. Ga 11,17-44)... Người đã đứng về phía
người xấu số để bênh vực họ (x. Mt 9,10 ; Lc 7,36-48 ; 13,10-17) ; Người đã cúi
xuống rửa chân, một hành vi của người đầy tớ, cho các Tông Đồ (x. Ga 13,4-17).
Người đã dọn bữa và hầu bàn (x. Ga 21,9-13) và nhất là Người đã hiến mình chết
thay cho các tội nhân (x. Ga 19,17-37 ; Dt 9,15).

Thánh Phaolô triển khai giáo lý của Chúa trên đây : Thiên Chúa muốn chúng ta
chu toàn sứ mệnh mình, ai lãnh nhận sứ mệnh nào, hãy chu toàn sứ mệnh ấy trong
tình hiệp thông và hiệp nhất với nhau như các chi thể trong một thân thể duy nhất,
hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành ; thương mến nhau với tình huynh đệ,
coi người khác trọng hơn mình ; nhiệt thành không trễ nải, lấy tinh thần sốt sắng mà
phục vụ Chúa ; Hãy chia sẻ với các thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp
đãi khách đến nhà (x. Rm 12,3-13).

Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã thể hiện tình liên đới đối với mọi người, nhất là
những người nghèo khổ. Mẹ đã vớt lên khỏi vực thẳm tuyệt vọng những con người
hấp hối đau khổ bên lề xã hội để trong giây phút cuối đời, họ được cảm nghiệm tình
người và tình yêu của Thiên Chúa, họ được sống những giây phút làm người đúng
nghĩa của nó. Mẹ đã đón về cộng đoàn những em nhỏ bị vứt bỏ bên lề đường, những
em thiếu nhi lang thang đầu đường xó chợ để chăm sóc, vỗ về, yêu thương....
Vì thế, các Kitô hữu phải biết tích cực hoán cải nội tâm, cổ võ công bằng bác ái,
sống hài hòa với mọi người, xây dựng một nền văn minh tình thương theo mẫu mực
Ba Ngôi Thiên Chúa, hầu góp phần xây dựng các sinh hoạt và điều kiện sống trong
các cộng đoàn xã hội dưới ánh sáng Tin Mừng.

C. Hướng ý cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian hòa nhập vào cộng đồng nhân loại. Chúa
đã sống, hiến dâng với tất cả tình yêu thương. Xin cho mọi người biết góp phần xây
dựng xã hội thành một gia đình yêu thương theo khuôn mẫu Chúa Ba Ngôi.

IV. TRỞ VỀ CUỘC SỐNG.

1. Bài học :
“Đức Chúa phán với ông Cain : “Aben, em ngươi đâu rồi” ... Từ dưới
đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta” (St 4,9).

211.H. Vì sao con người có tính xã hội ? (GLCG.331)
T. Vì con người được dựng nên theo hình ảnh cộng đoàn Ba Ngôi Thiên Chúa,
nên tự bản chất con người có tính xã hội.

212. H. Ta phải sống thế nào để
thăng tiến bản thân theo đúng ơn gọi của mình ? (GLCG.332)
T. Ta phải sống liên đới với mọi người trong xã hội, gặp gỡ nhau, đối thoại với
nhau và phục vụ lẫn nhau.

213. H. Thiên Chúa muốn ta sống
trong xã hội như thế nào ? @ (GLCG.333)
T. Thiên Chúa muốn ta sống hài hòa với mọi người, xây dựng một nền văn
minh tình thương theo mẫu mực Ba Ngôi Thiên Chúa.

213. H.Các tổ chức xã hội phải nhắm tới điều gì ? (GLCG.334)
T. Các tổ chức xã hội phải nhắm tới việc phục vụ và phát triển con người toàn
diện.

213. H. Muốn cho xã hội phát triển
tốt đẹp, các tổ chức cấp cao cần phải hành động như thế nào ? (GLCG.335)
T. Các tổ chức cấp cao cần bảo trợ và bổ túc những đoàn thể cấp thấp hơn để
những đoàn thể này và các cá nhân dễ phát huy sáng kiến và chu toàn trách
nhiệm của mình.

213. H. Người Ki-tô hữu có bổn
phận nào đối với xã hội ? @ (GLCG.336)
T. Người Ki-tô hữu cần tích cực hoán cải nội tâm và cổ võ công bằng bác ái,
đồng thời góp phần đổi mới các định chế và điều kiện sống trong xã hội dưới ánh
sáng Tin Mừng.

2. Sinh hoạt : tìm trong tập Sinh hoạt giáo lý cấp III.

3. Gợi ý sống đạo :
Là một thành phần trong xã hội, em tôn trọng luật đi đường, giữ vệ sinh công
cộng.

4. Bài làm ở nhà :
Tìm và ghi 1 Lời Chúa nói đến việc Chúa Giêsu phục vụ người nghèo.

Smiling-face-with-halo4
MÙA CHAY 2023

Ê-phê-sô 6: 10-17 +

Cuộc chiến đấu thiêng liêng


(10) Sau cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. (11) Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. (12) Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. (13) Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối.


(14) Vậy hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, (15) chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; (16) hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. (17) Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa

[Image: e6afd0a80b0b80ac33d92e9eaeb13bbb.jpg]

[Image: 8b223544b2c5917ae6d0d77bf5495471.jpg]
Chế ngự dục tính để thăng hoa

Chế ngự dục tính để thăng hoa là các bài nghiên cứu về tình dục của con người từ khi còn nhỏ cho tới trưởng thành. Để nhờ hiểu biết qua các bài nghiên cứu này, một tâm hồn yêu Chúa có thể tìm ra cách thế hữu hiệu giúp ích cho mình kềm hãm bản năng tính dục, xa lìa các cám dỗ mạnh mẽ về xác thịt của ác thần, nhờ đó có thể giữ cho đền thờ nội tâm và thể xác của mình trở nên sạch sẽ trước Nhan Thánh Chúa, trở nên thăng hoa trong đời sống nhân đức, gặt hái nhiều hoa quả thiêng liêng dâng lên Thiên Chúa khi thực hành sống Đạo với Hai Giới Răn trọng nhất là Mến Chúa và yêu thương tha nhân. 

Tài liệu nghiên cứu được chia sẻ bởi Orthodox Chính Thống Giáo.

 %%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%

Tội lỗi của xác thịt và hậu quả của chúng.

[Image: 337286027_599114465466642_68710332353560...e=6423391D]

Không thể bỏ qua một tội lỗi thầm kín như tự thỏa mãn (thủ dâm), mà một số người mắc phải từ khi còn nhỏ. Với tất cả sự không tự nhiên của nó, nó sẽ không quá nguy hiểm nếu không có biên giới bên ngoài kiểm soát nó. Vì thế, sau khi đã thành thói quen, nó sẽ tự tìm đến mình ngay cả khi không có nhu cầu vật chất nào đối với nó. Khi thói quen này đã trở nên mạnh mẽ, mặt khó khăn nhất của nó là một người cảm thấy mình nằm trong quyền lực của một thế lực chí mạng nào đó mà anh ta không thể đối đầu. Nó tạo ra cảm giác không chắc chắn, khuynh hướng u sầu và thờ ơ, suy giảm năng lượng, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của một người.

Tại sao Kinh Thánh kêu gọi phải kiên trì đấu tranh với dục vọng xác thịt? — Bởi vì, một mặt, tội gian dâm làm kiệt quệ thể lực và sức khỏe của một người. Sứ đồ Phao-lô viết: “..Kẻ gian dâm phạm tội với chính thân thể mình. Trong đời sống tình dục ngoài hôn nhân, cơ thể bị hao mòn nhanh hơn vì đời sống tình dục không gắn liền với tình yêu đòi hỏi nhiều sức mạnh  (hao tốn năng lượng thể chất  & tinh thần) hơn nhiều so với quan hệ vợ chồng bình thường trong hôn nhân.

Chúng ta nên thêm vào đó cơ hội tiếp xúc với bất kỳ bệnh hoa liễu khủng khiếp nào hoặc - thậm chí còn nguy hiểm hơn - AIDS, không thể chữa khỏi.

Nhưng cái chính là những người đã buông mình vào đam mê dâm đãng thì lý tưởng sống giảm sút. Những ước mơ lao động quên mình vì lợi ích xã hội và một cuộc sống hạnh phúc bên người thân dần phai nhạt; những lý tưởng của tuổi trẻ bốc hơi. Người trở nên hoài nghi và tham vọng. Ý thức của anh ta ngày càng chứa đầy những hình ảnh khiêu dâm bẩn thỉu. Anh ấy xem mỗi người phụ nữ như một món đồ chơi cho đàn ông. Những suy nghĩ bẩn thỉu xâm chiếm bộ não mờ nhạt của anh ta, và trong tim anh ta chỉ có một ham muốn duy nhất - thỏa mãn dục vọng của mình.

Ân điển của Đức Chúa Trời giảm đi đối với người đã phó mình cho sự ăn chơi trác táng, và vì điều này mà niềm tin của người ấy vào Đức Chúa Trời trở nên yếu ớt và khuynh hướng tâm linh của người ấy đi xuống. Anh ta không còn nghe thấy tiếng lương tâm của mình mà qua đó Chúa đang kêu gọi anh ta đến con đường ăn năn. Lạnh lùng, u ám và thịnh nộ hình thành trong tâm hồn anh. Đây được gọi là cái chết thuộc linh, sau đó không còn chỗ nào để rơi nữa.

Vì những tội nhân thâm căn cố đế không thể chuyển sang con đường sửa đổi, nên Đức Chúa Trời trừng phạt họ bằng sự phán xét thánh thiện của Ngài. “Thánh Linh của Ta sẽ không tranh đấu với con người mãi mãi, vì con người là phàm nhân,” — Đức Chúa Trời phán trên loài người cổ đại và tiêu diệt loài người bằng nước Đại Hồng Thủy (Sáng Thế Ký 6:1-5). Sau đó, một điều khủng khiếp tương tự đã xảy ra với các thành phố Sô-đôm và Gô-mô-rơ vì tội ăn chơi trác táng phổ biến  (kê dâm = đồng tính nam) trong cư dân của họ: "Sau đó, Đức Giê-hô-va giáng mưa lưu huỳnh đang cháy xuống Sô-đôm và Gô-mô-rơ - từ Đức Giê-hô-va từ trên trời. và toàn bộ đồng bằng, bao gồm tất cả những người sống trong các thành phố – và cả cây cối trong đất” (Sáng thế ký 19:24-25). Sứ đồ Phao-lô đã bày tỏ luật sống bất di bất dịch: “Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt mọi kẻ ngoại tình và mọi kẻ gian dâm” (Hê-bơ-rơ 13:4). Biết bao đế chế và nền văn minh vĩ đại đã bị diệt vong; bao nhiêu dân tộc đắm chìm trong nhục dục đã biến mất không để lại dấu vết!

Vì vậy, trong bối cảnh tạo lập quan hệ tính dục đúng đắn giữa vợ chồng, cần phải nói rằng tội quan hệ tình dục trước hôn nhân hoặc ngoài hôn nhân ảnh hưởng rất nặng nề đến các quan hệ đó. Sự lăng nhăng tàn phá con người, nếu không phải về thể xác thì luôn về tinh thần. Nó đưa chúng ta đến vấn đề chuyển hướng sức mạnh của chúng ta, để tránh phạm tội và được hoàn thiện về mặt đạo đức.

%%%

Độc thân, Hôn nhân hay “tự do yêu đương”... — Chọn con đường nào?
của Giám mục Alexander (Mileant);
Được dịch bởi Valeriy Bulgakov và Natalia Makeeva; Được chỉnh sửa bởi Fr. Serguey Kissilev


Giới thiệu

Vấn đề về giới tính.

Con người ngày nay hơn bao giờ hết phải đối mặt với áp lực tình dục không lành mạnh. Vấn đề tình dục luôn làm khổ loài người. Và bây giờ họ đang hành hạ nó bằng một sức mạnh thậm chí còn bất khuất hơn. Đó là lý do tại sao điều quan trọng là phải giúp các Cơ đốc nhân hiểu được lĩnh vực này để tránh một thảm họa thuộc linh. Chỉ có một cách duy nhất để làm chủ cuộc chơi của những sức mạnh tiềm thức của chúng ta - đó là soi sáng chúng trong sự bình tĩnh và tỉnh táo, để hiểu được những động lực tiềm ẩn của chúng dưới ánh sáng của Cơ đốc giáo. Trước hết cần xác định một thực tế là không phải mọi thứ trong con người đều là tự nhiên, vì mọi thứ trụy lạc cũng phát sinh một cách “tự nhiên”, trở thành nguyên nhân của những căn bệnh hiểm nghèo, đau đớn.


Trong sự mù quáng của mình, chúng ta không thể nhận ra ngay điều gì có thể được thừa nhận là "tự nhiên" và điều gì, mặc dù được trải nghiệm là "tự nhiên", trên thực tế, là biểu hiện của sự lệch lạc và trật tự tâm linh không lành mạnh. Nhiều đau khổ dày vò con người vì không làm chủ được cuộc đấu tranh giữa ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác, đúng lúc, bắt đầu từ rất sớm...

%%%

Hãy chuyển hướng lành mạnh cho tình dục...

Một hệ thống phân cấp quyền lực.

Năng lượng của giới tính.

Tất nhiên, nếu có một cơ quan nhất định và một số chức năng nhất định hiện diện trong đó - người ta cho rằng cơ quan sau nên được hài lòng. Tuy nhiên, cần phải ghi nhớ rằng cơ quan hoặc chức năng này càng quan trọng thì sự biểu hiện và phát triển của nó càng phức tạp. Điều này thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực giới tính, một trong những lĩnh vực trọng tâm của chúng ta.

Một lượng lớn và có thể là phần đáng kể nhất của năng lượng giới tính, nếu có thể không xử dụng vào những ham muốn tình dục - sẽ giúp một người thoát khỏi sự thỏa mãn về thể chất, để đi vào các lĩnh vực khác cao quý hơn của con người chúng ta. Sự kiêng khem hoàn toàn dựa trên khái niệm này. Nó giải phóng năng lượng của giới tính để sử dụng một cách sáng tạo trong những biểu hiện cao hơn của đời sống tâm linh. Cái mà họ gọi là sự thăng hoa (chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác) trong tâm lý học hiện đại dựa trên khái niệm rằng ham muốn tình dục có thể được biến thành năng lượng sáng tạo và do đó làm suy yếu nhu cầu của các cơ quan sinh dục. Nghịch lý của lĩnh vực giới tính nằm ở chỗ, sự kiêng khem tuyệt đối (không thỏa mãn nhu cầu tình dục) hoàn toàn không tàn phá cuộc sống của con người, mà ngược lại, trở thành điều kiện tiên quyết cho sự nở hoa thực sự của đời sống tinh thần và sáng tạo.

%%%

Ý nghĩa của việc kiêng khem.

Tất cả những gì đã nói không chỉ dựa trên sự dạy dỗ của Cơ đốc giáo mà còn dựa trên kiến thức hiện đại về con người và dựa trên sự thật của tâm lý học. Thiên Chúa Giáo không chỉ thiết lập nguyên tắc một vợ một chồng, kiên quyết lên án chế độ đa thê. Nó không chỉ làm cho mối quan hệ nam nữ trở nên nhân bản hơn và nâng cao nó lên. Nó cũng đã nâng cao ý tưởng về sự độc thân tự nguyện. Chúa Giê-su Christ đã nói như sau về điều đó: "Vì có những người hoạn vì nước thiên đàng mà tự biến mình thành hoạn"; và nói thêm: "Ai có thể chấp nhận nó, hãy để anh ta chấp nhận nó!" nghĩa là, bất cứ ai có thể nâng mình lên ý tưởng sống độc thân vì đức hạnh, thì hãy đi theo con đường này (Ma-thi-ơ 19:12). Đồng thời, ngay từ đầu Kitô giáo đã lên án bất kỳ sự thiếu tôn trọng nào đối với hôn nhân và thánh hóa hôn nhân (phép lạ ở Cana xứ Galilê, Gioan 2:1-11) trong bí tích hôn nhân. Do đó, nguyên tắc độc thân trong Cơ đốc giáo không đối lập với hôn nhân, mà là một cách song song để tiến tới Thiên Chúa. Nhờ đời sống hôn nhân cũng như độc thân, con người có thể đến với Thiên Chúa. Sự trong sạch về thể xác — dù trong một cuộc hôn nhân lành mạnh của tín đồ đấng Christ hay trong cuộc sống độc thân — là điều kiện cần thiết để tăng trưởng về mặt đạo đức cũng như là nguồn sức mạnh thiêng liêng.

%%%

Các giai đoạn chính trong sự phát triển tình dục.

Những biểu hiện đầu tiên của chuyển động tình dục có thể được nhận thấy từ rất sớm. Trước khi đạt được sự trưởng thành về giới tính (ở tuổi 11-13 với trẻ em gái và 12-14 tuổi với trẻ trai), đời sống giới tính được thể hiện trong cái có thể gọi là khuynh hướng thờ ơ. Mặc dù các cơ quan thể chất chưa phát triển, nhưng cơ thể đã có một đặc tính "khiêu dâm" nhất định và có thể trải nghiệm hưng phấn tình dục. Vùng sinh dục đóng vai trò quan trọng nhất trong quá trình chín muồi về giới tính. Đó là khu vực đặt các cơ quan sinh dục. Cũng có thể có nguy cơ phát triển sớm tâm lý tình dục. Đôi khi xảy ra trường hợp trẻ em 9 tuổi tìm kiếm các hình ảnh khiêu dâm và quan sát hành vi của người lớn với sự tò mò không lành mạnh.

Trong những năm tiếp theo, sự phát triển giới tính của trẻ trai mạnh mẽ hơn, chiếm lĩnh thể xác và tâm hồn. Sự phát triển của lĩnh vực tình dục tiến bộ với tốc độ nhanh đến mức quan điểm tâm linh của một thiếu niên có thể thay đổi hoàn toàn. Ở đây chúng ta thấy sự phân chia ý thức thành hai cực.

Một bên là tình dục bao trùm khía cạnh thể xác của tình dục, và những thay đổi tâm linh liên quan đến nó. Ở cực bên kia là Eros, nghĩa là tìm kiếm tình yêu khiến tâm lý thiếu niên chuyển động. Ở giai đoạn này, toàn bộ tâm hồn sáng lên với những giấc mơ thơ mộng về một người thân yêu. Eros và tình dục tự thể hiện như một biểu hiện của tình dục trong một con người, nhưng sự chia rẽ của chúng, và đôi khi là lực đẩy qua lại của chúng, cho thấy rõ ràng quan niệm về tình dục như một năng lượng tinh thần-thể xác. Tình dục ở đàn ông giống như ngọn lửa đang cháy sâu bên trong - trong chuyển động tình dục cũng như trong những biểu hiện nhỏ nhất của Eros. Điều quan trọng là phải xem xét rằng hai biểu hiện giới tính khác nhau này là của một và cùng một nguồn. Ở đây chúng ta thấy một ví dụ về tính toàn vẹn của bản chất chúng ta: nhu cầu kết hợp tình dục và sự hiệp thông của tình yêu chắc chắn cùng tồn tại trong con người. Đó là lý do tại sao ngay cả những người hư hỏng nhất, ngay cả những người đã hoàn toàn chìm đắm trong sự gian dâm, thỉnh thoảng cũng trải qua một khao khát tình yêu dày vò.

Do đó, quan niệm duy nhất về tình dục trong thời kỳ thanh niên trưởng thành bị phân cực, và xuất hiện sự chia rẽ giữa tình dục và Eros. Bây giờ chúng ta sẽ xem xét vấn đề này kỹ lưỡng hơn.

%%%

(continue...)
Sự phát triển của nhận thức tình dục.

Sự trưởng thành về tình dục định vị năng lượng tình dục trong các cơ quan của cơ thể, và từ thời điểm này trở đi, bộ phận cơ thể đi lên hàng đầu. Thông qua nhận thức tình dục này được tạo ra. Cái mà trước đây chúng ta gọi là tình dục bao hàm sự phát triển thể chất của các cơ quan sinh dục, cũng như nhận thức về các chuyển động tình dục của một người. Hai mặt của tình dục có mối liên hệ mật thiết với nhau, nhưng nhận thức về tình dục có thể mờ nhạt và không rõ ràng. Do một số đặc điểm sinh lý và giải phẫu của cơ thể đàn ông, các chàng trai thường có nhận thức về tình dục rõ ràng và sinh động hơn. Đó là lý do tại sao công việc của trí tưởng tượng ở các bé trai năng động và sống động hơn nhiều trong lĩnh vực tình dục. Nếu chúng ta cũng xem xét các cuộc nói chuyện mà họ có thể thường có, thì nguy cơ "làm vấy bẩn" trí tưởng tượng của họ trở nên dễ giải thích nhất. Nhưng cho dù công việc của trí tưởng tượng tình dục có thể mơ hồ hay rõ ràng đến đâu, thì bản thân sự chín muồi về tình dục cũng gây ra những thay đổi sâu sắc trong cơ thể trẻ.

Mặt tinh thần của sự thay đổi này nằm ở chỗ những cậu bé gần đây đã cống hiến rất nhiều cho các hoạt động xã hội khác nhau (bắt chước người lớn hơn, rời bỏ gia đình để đến với bạn bè nam nữ, có xu hướng tham gia vào các cuộc phiêu lưu, được mê “anh hùng” v.v.), nay thu mình lại, bắt đầu xa lánh xã hội. Lĩnh vực tiềm thức quyến rũ một tâm hồn trẻ thơ giờ đây trở thành tâm điểm của các hoạt động tinh thần của nó. Ý thức không thể đối phó với trò chơi của sức mạnh tiềm thức đang phát triển mạnh mẽ trong một người trẻ tuổi. Điều này trở thành nguồn gốc của những mâu thuẫn thường xuyên: tự phụ, mơ mộng, cáu kỉnh, say mê khoa học viễn tưởng. Rất thường thanh thiếu niên thậm chí không biết những gì họ muốn ...

Quan sát:

Con trai ở độ tuổi chuyển tiếp thường buồn bã, thoải mái, như thể "phân tán". Nhưng trái lại, nó không phải là như vậy với các cô gái. Theo bản năng, họ biết rằng họ sẽ phải lập gia đình và sinh con. Họ không được phép thư giãn. Con trai bị "phân tán." Các cô gái là "kỷ luật tự giác."

Làm thế nào để chúng ta biết rằng độ tuổi chuyển tiếp đã bắt đầu với một cô gái? – Chúng ta có thể đánh giá về điều này ngay cả khi nhìn cô ấy về nhà. Chúng ta hãy giả sử rằng một người bạn học đã gọi cho cô ấy. Cô ấy lấy áo khoác và chạy đi - cô ấy vẫn còn là một đứa trẻ. Và ở đây, chúng ta có một cô gái trẻ khác đã được gọi để đi ra ngoài "xã hội"... "xã hội" thực sự không có ở đó, nhưng cô ấy muốn đi chơi (đến một bữa tiệc khiêu vũ hoặc đi xem phim). Bạn có nghĩ rằng cô ấy sẽ đứng lên và đi về phía trước? – Không, cô ấy phải chuẩn bị, làm việc nghiêm túc với chính mình. Trước hết, cô ấy ngồi xuống, nghiên cứu kỹ lưỡng về bản thân và... hóa trang thành một "chiến binh". Giống như bất kỳ màu tượng trưng nào, phần trang điểm này có một ý nghĩa có thể được diễn đạt bằng các từ sau. Các cô gái, xin đừng xúc phạm, nhưng tôi sẽ nói những lời này được viết trên khuôn mặt của bạn khi bạn bù đắp cho một dịp như vậy. Dù sao thì ai đó cũng phải nói với bạn điều này. Ý nghĩa của việc trang điểm như vậy là: "Tôi đang tìm kiếm... Tìm kiếm một đối tác..."

Trong khi một cô gái trang điểm như vậy, một sự thay đổi nhất định xảy ra trong tâm hồn cô ấy. Linh hồn có một điểm chú ý (một điểm tập trung), có thể di chuyển trong cơ thể... Chúng ta có thể di chuyển nó một cách tự nguyện, nhưng hầu hết thời gian nó chỉ đi lang thang. Trong khi cô gái chuẩn bị "xuất binh", điểm tập trung này từ từ di chuyển từ đầu (nếu nó đã ở đó) xuống... thấp hơn... thấp hơn... thậm chí thấp hơn nữa... Biểu hiện của mắt thay đổi, một ánh sáng đặc biệt phát ra từ chúng (như từ mắt của một con thú vào ban đêm). Điểm tập trung đi xuống dưới, bên dưới cơ hoành. Từ dưới đó, từ trong sâu, xuất hiện một đám mây, được gọi là "duyên nữ". Cô gái đã sửa đám mây này... Và chỉ bây giờ cô ấy sẽ đứng dậy và rời đi.

Cô ấy đi như một chiếc xe ủi đất. Cô ấy gặp anh ấy - thoải mái, phân tán, trên đôi chân cong. Chuyện gì sẽ xảy ra? Vâng, cô ấy sẽ "hạ gục anh ta." Các chàng trai, hãy nhớ rằng các cô gái thường "hạ gục bạn" không phải vì họ thích bạn: thực ra họ chỉ quan tâm đến việc nó được thực hiện như thế nào.

Bạn thấy đấy, bức tranh bên ngoài về sự thay đổi tâm lý trong độ tuổi chuyển tiếp ở con trai và con gái là khác nhau. Nhưng bản chất của chúng là như nhau: dục vọng chiếm lấy tâm trí và biến nó thành kẻ phục vụ cho chính nó.

Ví dụ, một người đàn ông đã yêu. Không phải nói rằng anh ấy thực sự yêu, bởi vì một người đàn ông yêu bằng cả tâm hồn. Không, anh ấy say mê; chỉ có phần say mê trong tâm hồn anh ta phấn khích, phần tạo ra trong tâm trí anh ta hình ảnh của một người thân yêu. Nhưng hình ảnh này là lừa đảo. Nếu một người đàn ông si mê tiếp xúc thân mật với người mình yêu và đam mê được thỏa mãn- thì ngay sau đó,  tâm trí anh ta bắt đầu tưởng tượng ra một hình ảnh khác về người mình yêu gần đây. Hình ảnh thứ hai này sẽ là hình ảnh thật hay lừa đảo? ĐÚNG VẬY? – Không, nó lại lừa dối: con lắc đã lắc sang một phía khác, từ ảo ảnh này sang ảo ảnh khác. (và đây có lẽ là nguyên nhân gây ra tội ngoại tình của đàn ông, thường bị mang tiếng xấu là không chung thủy.)

(continue...) 

[Image: 337411150_761567682156963_72390245982848...e=64231BB1]
Sự cần thiết của tình yêu.

[Image: 337013342_1687662715000868_3499246803755...e=6424CE11]


Sự phát triển về giới tính diễn ra theo cách mô tả ở trên trong ba bốn năm đầu tiên. Sau đó, nó có một đặc tính bình tĩnh hơn và không còn là nguồn gốc của các chuyển động mâu thuẫn nữa. Nhưng trong ba đến bốn năm phát triển tình dục đó, nhu cầu về tình yêu tăng lên và Eros (cảm xúc tình yêu/ thần tình yêu/ nhục cảm) trở nên trưởng thành. Đôi khi hai lĩnh vực đó (tình dục và Eros) không khác nhau lắm (mặc dù cách thức của chúng rất đa dạng). Nhưng đôi khi chúng khác nhau đáng kể và thậm chí có vẻ gây khó chịu cho nhau. Cùng với trí tưởng tượng thuần túy về tình dục, trong vương quốc của Eros, được nuôi dưỡng bằng âm nhạc, phim ảnh, nghệ thuật hoặc tiểu thuyết, trí tưởng tượng trở thành một thế lực mạnh mẽ. Khi đó, Eros bộc lộ bản thân qua sự trầm ngâm của tuổi trẻ hoặc sự mơ màng u sầu.

Con gái muốn được “thích”, bắt đầu quan tâm đến ngoại hình, tìm cách ở cùng với con trai, nói chung là trở thành “cô bé”, yêu đương, ghen tuông, v.v… Con trai cố tỏ ra già dặn hơn, bắt chước. những "anh hùng" khác nhau và cũng yêu nhau.
Nhìn chung, động thái của Eros trong giai đoạn đầu này là sợ hãi, nhút nhát, dường như đang tìm chướng ngại vật để nấp sau lưng, để che giấu những tâm tư thầm kín của mình với người lạ; chúng có vẻ hài hước, nhưng đồng thời cũng cảm động ở sự tươi mới và chủ nghĩa lý tưởng của chúng.

Những cảm xúc lãng mạn này sở hữu một sức mạnh sáng tạo tuyệt vời. Họ là cội nguồn của đôi cánh mạnh mẽ nâng tâm hồn vào thế giới lý tưởng. Vladimir Solovyov đã viết một bài luận xuất sắc về chủ đề này có tựa đề "Ý nghĩa của tình yêu". Sau "Lễ" của Plato, đây là một trong những tác phẩm tuyệt vời nhất trong văn học thế giới dành riêng cho triết lý của Eros.

Giá trị của giới tính chủ yếu nằm ở sự khao khát tình yêu trở thành nguồn “ngọn lửa” lấp đầy trái tim mỗi người. Tình dục chỉ là biểu hiện mà những chuyển động bên trong tạo ra trong lĩnh vực cơ thể. Vì thể xác là công cụ của linh hồn nên tính dục chỉ chuyển tải và diễn tả tình yêu đang cháy bỏng trong tâm hồn; cơ thể giống như một nhạc cụ thông qua âm thanh của nó chuyển tải giai điệu do nhạc sĩ chơi.

%%%

(continue...)
Quy luật diễn đạt kép

[Image: 337124763_216267617651092_47782115959241...e=64236FAA]


Để hiểu rõ hơn về mối tương quan giữa tình dục và Eros - sự khác biệt về thời gian và sự thống nhất sâu sắc bên trong của chúng - chúng ta nên làm quen với quy luật "biểu hiện kép của cảm xúc". Quy luật này bao gồm một thực tế là tất cả các chuyển động, cảm giác và tất cả các kích động sâu sắc xuất phát từ sâu thẳm con người đều tìm kiếm một biểu hiện kép - thể xác và tâm linh. Bất kỳ cảm giác nào, chẳng hạn như sợ hãi, có thể là một ví dụ về cách diễn đạt kép này. Sợ hãi thể hiện ở một số thay đổi cơ thể (nhịp tim, ngất, xanh xao, run tay chân, yếu giọng, v.v.). Đồng thời phát sinh một làn sóng tâm linh, gây ra những cảm giác sợ hãi nhất định (căng thẳng, kinh hoàng, trầm cảm gây suy giảm trí nhớ và ý chí, trạng thái vô cảm). "Làn sóng" tâm linh này tìm cách thể hiện trong công việc của trí tưởng tượng (điều này được chú ý rõ ràng bởi câu tục ngữ "sợ hãi có đôi mắt to"), và thông qua trí tưởng tượng, nó ảnh hưởng đến tất cả các cấu trúc tâm linh.

Bản chất của luật nói trên không chỉ là xác định sự biểu hiện kép của cảm xúc. Nó cũng chỉ ra rằng một biểu hiện (ví dụ: biểu hiện thể chất) không thay thế biểu thức kia (tinh thần-tâm linh), và cũng không thể thay thế biểu thức sau. Luật có đầy đủ quyền lực khi một biểu hiện (ví dụ, một cảm giác vật lý) bị hạn chế hoặc đàn áp. Trong trường hợp này, năng lượng của nó không biến mất trong một biểu hiện khác (ví dụ: biểu hiện tinh thần-tâm linh); và việc triệt tiêu một biểu thức sẽ quyết định việc triệt tiêu biểu thức kia. Freud có vinh dự phát hiện ra rằng tiềm thức của chúng ta đang ẩn chứa trong chính nó một số phức hợp tương tự - những ham muốn và cảm xúc đã từng được di chuyển vào sâu thẳm con người chúng ta.

Nhìn vào lĩnh vực giới tính dưới ánh sáng của quy luật biểu hiện kép, chúng ta có thể dễ dàng hiểu rằng trong những điều kiện bình thường, tính dục và Eros phải phát triển đồng thời, làm phong phú lẫn nhau, thay vì ép buộc lẫn nhau. Sự "chia rẽ" hay phân chia giữa tính dục và Eros, mà chúng ta đã nói ở trên, và có thể được gán cho một giai đoạn trưởng thành bệnh hoạn, bắt nguồn từ tính tất yếu của chúng và việc không thể loại bỏ một trong hai biểu hiện khỏi đời sống của giới tính. . Tuy nhiên, sự khác biệt giữa tính dục và Eros, mặc dù rất tự nhiên đối với tuổi trẻ, nhưng bản thân nó lại là một nhược điểm,

BỞI VÌ CHỈ CÓ TRONG GIA ĐÌNH VÀ ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN NAM NỮ, THÌ SỰ TOÀN VẸN TRONG LĨNH VỰC NÀY MỚI CÓ THỂ ĐƯỢC KHÔI PHỤC.

(continue...)

Sức mạnh cao quý của tình yêu.

[Image: 337046150_1494523387748840_7323761258738...e=642578DB]



Khi trái tim con người bừng cháy ngọn lửa yêu thương, thì toàn bộ con người được soi sáng bởi ánh hào quang của nó. Tất cả những thứ xa lạ lùi lại phía sau, và một linh hồn có thể hoàn toàn, đôi khi thậm chí ngây ngất, đắm chìm trong sự chiêm ngưỡng người mình yêu. Ngay cả những người khô khan và nhàm chán nhất khi yêu cũng thay đổi, tâm hồn họ dịu lại và trở nên tươi sáng, như được chắp cánh. Đối với người khác, người được yêu dường như không đẹp hơn người khác, nhưng đối với người yêu, người đó là duy nhất, không thể so sánh và không thể thay thế. Đây là sự lý tưởng hóa thường được mô tả trong văn học. Nghĩa là qua lớp vỏ bọc bên ngoài, dưới ánh sáng của tình yêu, chỉ riêng chúng ta mới nhìn thấy khía cạnh lý tưởng của người mình yêu mà người khác không thể nhìn thấy. Nó hiện diện trong mỗi con người, như một hình ảnh của Thiên Chúa, không gây chú ý, và rất thường bị đè nén bởi lớp vỏ bên ngoài, bởi vẻ bề ngoài hay “tính cách”, luôn là cái gì đó thứ yếu, và không đại diện cho “bản chất”.

Tất cả sức mạnh của tình yêu nằm ở chỗ, nhờ tình yêu, chúng ta như thể chạm vào vẻ đẹp bên trong của con người. Chúng ta không thể rời xa người đó – chúng ta muốn được ở bên người thân mãi mãi. Một linh hồn đã trải qua những cảm giác đó dù chỉ một lần sẽ lưu giữ những ký ức về sức mạnh biến đổi và sáng tạo của họ trong suốt quãng đời còn lại.

Chính trong những cơn yêu đương cuồng nhiệt mà một linh hồn trải qua nhu cầu sâu sắc phải thoát ra khỏi ranh giới nhân cách của chính mình (từ bỏ chính mình: giảm bớt những thói xấu, hy sinh yêu thương tha thứ nhiều hơn ) để được hợp nhất với người mình yêu. Nhu cầu về tình yêu chứng tỏ rằng không thể lui vào chính mình - tất cả các giới hạn tự nhiên của cá nhân đều bị vượt qua trong tình yêu, và lớp vỏ của nó bị xé toạc. Đó là lý do tại sao trong những cuộc tình vội vã, con người bắt đầu bị chính mình đè nặng: lui vào chính mình, dưới ánh sáng của tình yêu, có nghĩa là tự kết án mình trong sự cô đơn, thấy mình trong một sự trống rỗng siêu hình. Đó là lý do tại sao tâm hồn chúng ta không ngừng tìm kiếm một ai đó để yêu thương để tìm một điểm dừng chân và một mục đích tồn tại.

Sức mạnh của trí tưởng tượng thơ mộng vốn rất đặc trưng cho tình yêu tuổi trẻ, qua đó chúng ta lý tưởng hóa người mình yêu, không phải là một trò chơi tưởng tượng nào đó. Ngược lại, nó bộc lộ một sự khao khát sâu sắc về một cuộc sống thiêng liêng và tuyệt đối.

Tình yêu thương dành cho mẹ, chị gái và vợ của một người - dù những loại tình yêu này có thể khác nhau như thế nào - dù sao cũng thể hiện một khía cạnh của đời sống tinh thần. Con người được thiết kế theo quy luật "lưỡng hình giới tính", nghĩa là một người thuộc về giới tính nam hoặc nữ. Sự lưỡng hình này mượn nhu cầu tự nhiên về tình yêu từ sâu thẳm tinh thần. Chính trong lĩnh vực tình yêu phụ thuộc vào giới tính này, Eros có ý nghĩa quan trọng nhất, tình dục chỉ là sự phiên mã cơ thể của cái sau.

%%%


(continue ...) 
Ý nghĩa của gia đình.

[Image: 337683428_2444063669095087_4792107026318...e=6423B186]


Sự phân chia giữa tình dục và Eros, vốn rất đặc trưng cho giai đoạn trưởng thành, chỉ là một trạng thái chuyển tiếp. Giới tính trong một con người nằm sâu hơn bên ngoài vỏ bọc thể chất của anh ta/cô ta; đó là một phẩm chất không thể thay đổi trong bản chất của anh ấy / cô ấy. Sự trưởng thành về mặt tình dục chỉ tạm thời phân cực ham muốn thể chất và tinh thần. Sự phân cực và phân kỳ này của tình dục và Eros thuộc về giai đoạn chuyển tiếp và yêu cầu khôi phục lại sự toàn vẹn ban đầu. Do đó, phái tính chỉ có thể tìm thấy biểu hiện thực sự của nó trong đời sống hôn nhân. Ngoài hôn nhân, một biểu hiện bình thường về giới tính là không thể.

Việc thỏa mãn ham muốn tình dục ngoài cảm hứng có được trong tình yêu và hoàn thành trong hôn nhân là vi phạm quy luật toàn vẹn, vốn có trong bản chất của chúng ta. Đương nhiên, hôn nhân có thể dẫn đến những khó khăn mới. Nhưng nếu chúng ta đang tìm kiếm một giải pháp cho những vấn đề nảy sinh từ sâu thẳm giới tính, chúng ta phải thừa nhận rằng không thể tìm thấy nó ngoài hôn nhân.

Hôn nhân là sự viên mãn của sự hiệp nhất.

Những người bước vào hôn nhân đã trong sáng và trong trắng trước khi kết hôn, lần đầu tiên trong hôn nhân sẽ biết được bí ẩn của sự kết hợp thể xác. Bởi thế mới nảy sinh trong tâm hồn họ một thái độ cẩn thận và cẩn thận đối với thân xác của người khác. Kinh nghiệm sống cho thấy rằng chính nhờ sự gần gũi về thể xác trong hôn nhân mà tình yêu thương nhau sâu sắc, trong sáng và vui vẻ, một cảm giác dịu dàng của sự hiệp nhất nảy nở trong hai tâm hồn. Chính ở đây, trong sự kết hợp được Chúa ban phước này, người ta có thể học hỏi thông qua kinh nghiệm sự thật của chế độ một vợ một chồng (mỗi lần kết hôn với một người) và tất cả sự giả dối của "tình yêu tự do".

Sự gần gũi về mặt tình dục không những không thể tách rời khỏi những cách thống nhất khác mà còn tạo nên một tổng thể hoàn chỉnh của mọi quan hệ hỗ tương. Khi tình yêu nảy nở giữa vợ và chồng, nó được phản ánh trong tất cả cuộc sống của họ và sở hữu mọi thứ. Sự bất hòa nhỏ nhất tại thời điểm này được trải nghiệm rất đau đớn; bất cẩn, thờ ơ, thô lỗ, buộc tội đều có thể mang lại bất bình và lo lắng. Đạo Đấng Christ giúp một cặp vợ chồng tìm cách loại bỏ sự bất hòa trong mối quan hệ của họ. Nhờ thực hành đời sống Kitô hữu trong những điều kiện mới của hôn nhân, hai người trưởng thành về thiêng liêng và hoàn thiện chính mình. Gia đình là trường học lớn về lòng đạo đức.

Khi những dấu hiệu đầu tiên của việc mang thai xuất hiện, mối quan hệ của vợ chồng trở nên bền chặt hơn nhờ tình yêu của họ dành cho đứa con đang chờ đợi - thịt từ thịt của họ. Sự thuần khiết trong tình yêu lẫn nhau của họ không chỉ tăng lên nhờ sự thân mật về thể xác, mà còn nuôi dưỡng tình yêu sau này, và không có gì ấm áp hơn sự dịu dàng sâu sắc nảy nở trong hôn nhân; ý nghĩa bên trong của nó là ở cảm giác cấp tính được lấp đầy với nhau. Cảm giác về cái “tôi” của chính mình như một cá nhân riêng biệt biến mất. Vợ chồng trải nghiệm bản thân như một phần của một cái gì đó tổng thể - một người không muốn trải nghiệm bất cứ điều gì mà không có người kia, có mong muốn được nhìn thấy mọi thứ cùng nhau, làm mọi thứ cùng nhau, ở bên nhau trong mọi việc. Đó là một lý tưởng mà một cặp vợ chồng nên khao khát.

Không nên có những “lĩnh vực hoạt động” khác biệt trong một gia đình cũng như không có bất kỳ sự ngắt kết nối nào về thể chất hay tinh thần: ở đây điều này vang vọng ở điều khác, mọi thứ đều được kết nối nội tại và mật thiết. Theo kế hoạch của Đấng Tạo Hóa, gia đình là cách duy nhất để bí ẩn về giới tính được hiện thực hóa trong chúng ta. Không được có đời sống tình dục ngoài hôn nhân; một cuộc sống như vậy sẽ không đúng, nó sẽ chỉ làm sai lệch bản chất của chúng ta và phá vỡ sự hài hòa của cuộc sống. Vì lẽ đó, cách giữ trinh tiết trước hôn nhân không chỉ là đòi hỏi của luân lý, mà còn do chính bản tính con người quy định. Đời sống tình dục trước hôn nhân luôn là một chiều. Do đó, đó là một biểu hiện lệch lạc về giới tính có nguy cơ tàn phá tâm hồn và bóp méo cấu trúc bên trong của nó.

(continue...)
Ý nghĩa của sự tự nguyện độc thân.

[Image: 337021669_533282462285525_33239258514290...e=6424AAB1]


Để xem xét thấu đáo vấn đề giới tính, cần phải đề cập đến tình trạng độc thân tự nguyện. Cơ đốc giáo dạy rằng độc thân tự nguyện có nghĩa là tiết chế có ý thức đời sống tình dục vì mục đích trong sạch về đạo đức và hoàn thiện về tinh thần. Nó có nghĩa là gia đình là một hình thức thấp hơn của cuộc sống? Những người tìm kiếm sự hoàn hảo về tâm linh có nên giữ trinh tiết cho đến hết đời không?

Sự trong trắng của các trinh nữ và tu sĩ không hạ thấp giới tính của họ, nhưng trái lại, cho thấy sự thánh thiện tiềm ẩn của giới tính vẫn bị khép kín do sự băng hoại luân lý của bản chất con người. Ý nghĩa của đời sống độc thân tự nguyện không phải là cuộc chiến chống lại giới tính, mà là cuộc chiến chống lại tội lỗi đang hiện diện trong xác thịt của chúng ta. Trong sạch và tiết chế đời sống tình dục không phải là mục đích, mà là một phương tiện trong trận chiến này. Trong cuộc sống độc thân tự nguyện, người ta tìm cách tốt nhất để vượt qua đam mê của mình. Nhiệm vụ này, có giá trị đối với tất cả mọi người, được giải quyết ở đây bằng cách từ chối mọi thứ thuộc về thế giới này, không phải vì ác cảm với nó, mà vì tội lỗi dễ dàng xâm nhập vào chúng ta qua xác thịt và thế giới của chúng ta. Người phấn đấu cho sự hoàn hảo về tinh thần, trong cuộc đấu tranh khổ hạnh của mình, phải tiến hành một trận chiến khốc liệt chống lại thế giới bên trong chính mình. Anh ta sẽ coi những ham muốn vô độ của xác thịt là chướng ngại vật trên đường đến với Đức Chúa Trời.

Chúng ta cũng hãy lưu ý rằng việc duy trì hôn nhân cũng đặt ra nhiệm vụ đấu tranh với tội lỗi, chỉ ở đây các phương tiện khác nhau được áp dụng. Ý nghĩa của đời sống độc thân tự nguyện bao gồm chiến công đóng đinh xác thịt của một người - không phải vì khinh thường hôn nhân, mà vì mục đích đạt được sự chiến thắng của tinh thần con người đối với xác thịt. Nhiệm vụ tương tự vẫn còn trong hôn nhân, nhưng theo một cách khác. Hôn nhân không chỉ là đời sống tình dục; đó là một con đường tâm linh lâu dài và phức tạp, trong đó có chỗ dành cho sự trong trắng và kiêng khem. Nếu sinh hoạt tình dục chiếm vị trí chủ yếu, gia đình đó có nguy cơ rơi vào tình trạng tình dục thái quá. Chính tình dục thái quá này đang xâm nhập vào xã hội, gây chia rẽ và xé nát, làm vẩn đục tuổi trẻ, làm lu mờ hình ảnh gia đình như một cuộc sống chung.

Do đó, gia đình dẫn đến việc khôi phục lại cuộc sống lành mạnh mà Thiên Chúa đã ban cho con người vào thời điểm sáng tạo. Còn con đường độc thân tự nguyện dẫn đến chiến thắng tội lỗi nhờ việc dập tắt những đam mê xác thịt. Đó là lý do tại sao con đường tu viện không dành cho tất cả mọi người, mà chỉ dành cho những người không có hứng thú với cuộc sống gia đình với những lo lắng và vấn đề của nó hoặc những người đã thử cuộc sống gia đình, sau khi mất đi, tìm kiếm thêm tâm linh trong cuộc sống của họ.

%%%
(continue ...)
Nguồn cơn cám dỗ

[Image: 337239862_532679175676847_33971134406154...e=642530CF]


Nguồn gốc của những sai lệch khác nhau so với trật tự hợp lý không chỉ là tội lỗi của chúng ta, mà còn là ma quỷ - những linh hồn sa ngã vô hình này đóng vai trò tích cực nhất trong tội lỗi của chúng ta. Cả Kinh thánh và văn học giáo phụ (xem cuốn sách của chúng tôi "Trước ngưỡng cửa của địa ngục bốc lửa") đều nói chi tiết về hoạt động gây tử vong của chúng trong cuộc sống con người. Ma quỷ ảnh hưởng đến con người thông qua suy nghĩ và cảm xúc. Trong suốt hàng ngàn năm dành cho hoạt động phá hoại, chúng đã tự hoàn thiện mình trong "nghệ thuật" cám dỗ. Ảnh hưởng của họ đối với mọi người giống như thôi miên, say sưa hoặc doping (mê đắm hoặc như bị say thuốc) , khi một người nhìn mọi thứ không đúng như bản chất của chúng mà đi theo một cách sai lệch: điều gì có hại và nguy hiểm được coi là đỉnh cao của hạnh phúc, và điều gì thực sự có thể mang lại cho anh ta hạnh phúc , anh ấy thấy là nhàm chán và không cần thiết. 

Vì sự siêng năng của "con quỷ dâm dục", như các giáo phụ của Giáo hội gọi là con quỷ đốt cháy lòng ham muốn trong con người, niềm đam mê dâm đãng này đôi khi có những hình thức quái dị và kinh tởm nhất. Các Giáo phụ khẳng định rằng "con quỷ gian dâm" là một trong những linh hồn mạnh nhất. Rõ ràng là sức mạnh của nó hội tụ lại từ năng lượng tình dục của chúng ta, thứ nằm ở chính nền tảng bản chất của chúng ta. Ai mà không quen với tình huống dường như mỗi tế bào của chúng ta đều đòi hỏi sự thỏa mãn về tình dục?

Theo những lời tiên đoán của các Đức Thánh Cha, một trong những dấu hiệu đặc trưng của ngày tận thế đang đến gần sẽ là sự thống trị phổ biến và khủng khiếp của thói ăn chơi trác táng, sự phóng đãng xác thịt ghê tởm và sự phóng đãng không kiềm chế ( sự lan tràn của phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính, tình dục lệch lạc, ấu dâm...v...v...) . Nhận ra rằng kết cục của chúng đã gần kề, lũ quỷ dốc hết sức lực để khơi dậy lòng ham muốn trong con người, bởi vì qua đam mê này, việc xa lánh một người khỏi Chúa sẽ dễ dàng hơn, bởi chính vì đam mê xác thịt mà chúng ta đánh mất hình ảnh thần thánh của mình.

%%%

(continue...)
Sự sùng bái gian dâm

[Image: 337158978_1150992646298519_6208965245719...e=6425C36A]


Những lời tiên đoán của các Đức Thánh Cha về những ngày cuối cùng bắt đầu trở thành hiện thực trước mắt chúng ta. Dường như chưa bao giờ trong lịch sử loài người lại có áp lực phổ biến về tình dục trong mọi lĩnh vực của cuộc sống như ngày nay. Tất cả những thành tựu của văn hóa và kỹ thuật đều được sử dụng cho mục đích này: văn học, nghệ thuật, tạp chí, báo chí, truyền hình, phim ảnh, âm nhạc, quảng cáo, thời trang, Internet, trò chơi máy tính, giáo dục giới tính trong trường học... Đồng thời, sự hoang dã quan điểm cho rằng kiêng khem là có hại và thỏa mãn dục vọng là tốt đang được áp đặt ngày càng dai dẳng. Các điều kiện hiện đại của một "sự sùng bái tình dục" lan rộng, kêu gọi thoát khỏi ách thống trị của thời Trung cổ và tôn thờ "tình yêu tự do", đặc biệt khó khăn đối với những người trẻ nghèo. Chế độ hôn nhân một vợ một chồng xuất hiện như một “dấu tích của quá khứ”; cuộc sống gia đình thông thường và nghĩa vụ gia đình - như "định kiến"; sự cần thiết phải kiềm chế những ham muốn xác thịt - như một "điều nguy hiểm" làm tổn thương tâm lý của một người; khiêm tốn và bẽn lẽn — như một "mặc cảm tự ti". "Chúng ta đã bước vào một kỷ nguyên mới của nhân loại tự do", do đó: "Không định kiến!", "Gần gũi với thiên nhiên hơn!", "Xoá bỏ sự xấu hổ!"

Một ngành công nghiệp khổng lồ về nội dung khiêu dâm và bán khiêu dâm đã phát triển xung quanh vấn đề tình dục. Nó tiếp tục phát triển, tràn ngập trái tim của những người trẻ tuổi và thanh thiếu niên với bụi bẩn và buộc họ phải có những hành vi điên cuồng.

Một người liên tục tiếp xúc với lũ kích thích tình dục. Hãy giả sử rằng một người đàn ông Cơ đốc đã thức dậy vào buổi sáng, cầu nguyện và đọc Kinh thánh. Anh đang trong tâm trạng nhẹ nhàng, tâm hồn đang hướng về Chúa. Nhưng sau đó anh ta bật nhạc hoặc TV lên và trong một khoảnh khắc, tai và mắt anh ta tràn ngập những giai điệu và hình ảnh gợi dục. Anh ta đang rời khỏi nhà và từ mọi hướng đang nhìn anh ta những quảng cáo có phụ nữ bán khỏa thân, hoặc anh ta nhìn thấy những cô gái ăn mặc phản cảm... Nói một cách dễ hiểu, bạn nhìn đâu cũng có những kích thích khơi dậy dục vọng xác thịt. Qua cửa sổ tâm hồn - tai và mắt - một cơn lũ cám dỗ không thể kiểm soát được đang ập vào. Nó đặt anh ta trước tình thế tiến thoái lưỡng nan: đầu hàng trước những ham muốn thấp hèn của mình hay đấu tranh chống lại chúng trong một cuộc chiến trường kỳ và mệt mỏi nhất.

Chống lại sự bại hoại về thể xác và tinh thần này, Kinh thánh kêu gọi chúng ta đấu tranh với dục vọng xác thịt và giữ mình trong sạch khỏi những hành vi dâm đãng.

"Tôi đã viết cho bạn trong bức thư của tôi - Sứ đồ Phao-lô nói với các Cơ đốc nhân - không được kết giao với những người vô luân về tình dục... đừng để bị lừa dối: những kẻ vô luân về tình dục, những kẻ thờ thần tượng, những kẻ ngoại tình, những gái mại dâm nam hay những kẻ phạm tội đồng tính luyến ái... sẽ không được thừa kế Vương quốc của Đức Chúa Trời... Thân thể không phải dành cho sự gian dâm, nhưng dành cho Chúa... Anh em không biết rằng thân thể mình là chi thể của chính Đấng Christ sao? ? Đừng bao giờ! Anh em không biết rằng kẻ nào kết hiệp với một kỹ nữ là một với cô ta về thể xác sao? Vì có lời chép rằng: Hai người sẽ trở thành một xương một thịt. Còn ai kết hợp với Chúa thì nên một với Người về tinh thần.

Mọi tội lỗi khác mà người ta phạm đều ở ngoài thân xác, nhưng ai phạm tội gian dâm là phạm đến chính thân xác mình. Anh em không biết rằng thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần, Ðấng ở trong anh em, Ðấng anh em đã lãnh nhận từ Đức Chúa Trời?

Bạn không phải là của riêng bạn; bạn đã được mua bằng một giá. hãy lấy thân thể mình mà tôn vinh Đức Chúa Trời” (1 Cô-rinh-tô 5:9-11; 6:9-20).

%%%

(continue...)
Lời khuyên về cuộc đấu tranh với ham muốn tình dục

[Image: 337113363_203344879003248_79356621218018...e=64246327]


Yếu tố quan trọng nhất trong cuộc đấu tranh chống lại bất kỳ đam mê nào  - là sự tập trung tinh thần hướng về Chúa. Khi trái tim chúng ta cháy bỏng tình yêu với Chúa thì những thú vui xác thịt dường như không đáng kể và nhàm chán đối với chúng ta. Do đó, cần phải sưởi ấm tâm hồn chúng ta bằng tình yêu đối với Thiên Chúa bằng mọi cách. Điều này có thể được thực hiện thông qua việc đọc các tác phẩm văn học tâm linh, cầu nguyện chân thành, suy ngẫm về Chúa, tham dự các buổi lễ trong nhà thờ, thường xuyên xưng tội và rước lễ, làm việc thiện... Nếu chúng ta mạnh mẽ về mặt tinh thần, tất cả những mũi tên rực lửa do ma quỷ gửi đến sẽ bị dội ngược, bắn ra từ chúng ta như từ một tảng đá.

Nhưng vừa thả lỏng là địch tấn công ngay. Đó là lý do tại sao: "Hãy tiết độ và cảnh giác. Kẻ thù của anh em là ma quỷ rình mò như sư tử rống rình mồi" (1 Pr 5:8).

Dưới đây là một số lời khuyên về việc chống lại ham muốn tình dục:

Luôn luôn cần phải giữ cho tâm trí bận rộn với những suy nghĩ ngoan đạo và hữu ích: về Chúa, cầu nguyện, làm việc trí óc, những việc tốt cần làm. Cám dỗ nào cũng bắt nguồn từ tâm. Những cám dỗ nắm bắt con người theo cách sau: đầu tiên là một ý tưởng bẩn thỉu (đôi khi do thị giác hoặc thính giác gây ra), sau đó là sự mê hoặc (sự bắt giữ) vượt qua ý chí, và cuối cùng là sự sa ngã.

Sẽ dễ dàng hơn để ngăn chặn một sự cám dỗ ở giai đoạn đầu tiên khi một ý tưởng quyến rũ chưa trở thành một ham muốn dâm đãng. Một ý tưởng lang thang vô ích có thể dễ dàng biến thành một ý tưởng tội lỗi. Do đó: “Hãy nghĩ về điều tốt, đừng nghĩ về điều xấu,” — Thánh Ephraim người Syria khuyên.

Bảo vệ bản thân khỏi những cám dỗ. Mắt và tai là cửa của tâm hồn. Do đó, cần phải kiểm soát chúng để một thứ gì đó quyến rũ không thể xâm nhập vào linh hồn thông qua chúng. Không xem ảnh hoặc phim quyến rũ, không nghe nhạc khiêu dâm và bạo lực, không chiêm ngưỡng vẻ đẹp của người khác giới, nam hoặc nữ... hãy thật ý thức về những gì bạn đọc.

Tội lỗi là truyền nhiễm. Những người mà chúng ta giao tiếp có ảnh hưởng lớn đến chúng ta. “Bạn bè xấu làm hư tính nết tốt” (1 Cô-rinh-tô 15:33). Vì vậy, hãy tránh xã hội hư hỏng, nơi bạn có thể bị gương xấu dẫn dắt; đừng nghe những trò đùa hoài nghi; dũng cảm ngăn chặn một người kể chuyện yêu cầu anh ta đàng hoàng, hoặc rời khỏi chỗ đang nói chuyện thô tục mà không do dự nếu ai đó bắt đầu kể những điều như vậy, và tốt nhất là tránh đến những nơi mà bạn nghĩ rằng mình có thể nghe thấy những câu chuyện dâm ô tục tĩu.

Một cơ thể khỏe mạnh góp phần vào sự khỏe mạnh của tâm hồn. Do đó, cần phải có một cuộc sống tiết chế và tích cực. Người ta nên quan sát việc nhịn ăn - đặc biệt là Thứ Tư và Thứ Sáu; ăn uống đơn giản, vừa phải, không uống rượu bia, kích thích; mặc quần áo đơn giản và khiêm tốn; ngủ trên giường chắc chắn; ngủ điều độ và dậy sớm; tắm hoặc rửa bằng nước mát; đi bộ và vất vả về thể chất  (làm việc tay chân gì khiến ta mệt để thải bớt năng lượng: chạy bộ, chơi thể thao, dọn dẹp phòng ốc nơi ta ở, sắp xếp đồ dùng ngăn nắp v..v.... Những quy tắc vệ sinh cơ bản này và lối sống có mục đích giúp xoa dịu những đam mê xác thịt hỗn loạn.

Đừng bao giờ đùa giỡn với những cám dỗ, bởi vì điều này đã có nghĩa là bạn đã ngã giữa đường. Những điệu nhảy quyến rũ, trò chơi với những nụ hôn, những cuộc gặp gỡ bí mật, tán tỉnh "vì mục đích thể thao"  (hẹn hò ở gym, park v..v...)  là những trò chơi nguy hiểm rất dễ trượt ngã và sa ngã thực sự.



Đừng cho phép bất kỳ thỏa hiệp hay nhượng bộ nào khi đấu tranh chống lại những cám dỗ. Hãy nghiêm khắc và tàn nhẫn với chính mình. Khi một người không kịp thời xua đuổi một ý tưởng quyến rũ của dục tình, anh ta bắt đầu ấp ủ nó trong trí tưởng tượng của mình và rồi nó nhanh chóng chiếm lấy trái tim anh ta và nô dịch ý chí của anh ta. Sau đó, một sự sụp đổ của từ cám dỗ trở thành phạm tội dâm dục (một mình hay với người khác) là gần như không thể tránh khỏi.


Tuy nhiên, đừng đầu hàng ngay cả khi bạn cảm thấy rằng quyền lực đang phản bội bạn và tội lỗi đang bắt đầu chiến thắng. Vẫn còn một công cụ tuyệt vời để hỗ trợ bạn—hãy cầu nguyện hết lòng. Khi sức người không đủ thì Ơn Chúa đến trợ giúp. Chúa đủ mạnh để giải cứu bạn ngay cả khi bạn ở bên bờ vực thẳm. Hãy kêu cầu Chúa từ sâu thẳm trái tim bạn: "Lạy Chúa, xin thương xót con!" hoặc "Lạy Chúa, xin giải cứu con, kẻ có tội và đừng để con phạm tội!"

%%%

(continue...)
Ý nghĩa của sám hối và xưng tội (Bí Tích Giao Hòa/ Giải Tội).

[Image: 337148910_601899391518172_10523220789290...e=64257F30]


Đức tin Cơ đốc mang lại cho một người những phương tiện mạnh mẽ để đấu tranh chống lại tội lỗi và phục hồi khỏi dục vọng. Đó là sự ăn năn và xưng tội trước một vị linh mục, người cha thiêng liêng của một cá nhân. (Tiết lộ những vấn đề tâm linh của một người cho một nhà trị liệu có kinh nghiệm hoặc thậm chí là một người thân cận được tâm lý học hiện đại thừa nhận là hữu ích). Đây là một thực tế cực kỳ quan trọng từ quan điểm vệ sinh tinh thần và sự phát triển đạo đức của một người. Thật không đúng khi nghĩ rằng sự mất trong sạch là không thể cứu vãn được. Tội lỗi, dù nặng nề đến đâu, không được trở thành một số phận xấu xa, qua đó chúng ta phải chịu số phận trượt dài ngày càng xa hơn. Có nhiều bạn trẻ thất vọng và ngừng đấu tranh với những khuynh hướng xấu vì họ đã mất hy vọng cải thiện. Các Cha Thánh lưu ý luật sau: trước khi sa ngã, ma quỷ thuyết phục một người rằng Chúa rất nhân từ và Ngài sẽ tha thứ cho anh ta tội lỗi "nhỏ" này, và sau khi phạm tội, ma quỷ thuyết phục anh ta rằng tội lỗi của anh ta thật khủng khiếp và đó là vô ích để đối mặt với ham muốn hoặc niềm đam mê của mình. Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng ân sủng của Chúa Kitô có thể chữa lành ngay cả những thói quen tội lỗi thâm căn cố đế nhất. Chỉ cần mở lòng với Chúa những nơi thầm kín trong tâm hồn bệnh tật của bạn và cầu xin sự tha thứ và giúp đỡ.

Những tội lỗi sau đây có liên quan đến ham muốn: chấp nhận những ý tưởng bẩn thỉu, tận hưởng những giấc mơ khiêu gợi, nhìn người khác với sự thèm muốn, phơi bày cơ thể một cách trơ tráo, hành vi quyến rũ và thách thức, trò chuyện khiếm nhã, những câu chuyện dâm ô và câu chuyện cười tục tĩu, những nụ hôn khiêu gợi, ôm hôn và khiêu vũ khiếm nhã , thưởng thức âm nhạc khiêu khích, xem các chương trình quyến rũ, ảnh hoặc nội dung khiêu dâm, tự thỏa mãn, gian dâm, ngoại tình, trác táng, các biến dạng tình dục khác nhau và đồng tính luyến ái. Tội lỗi cuối cùng này là nặng nề nhất và ghê tởm nhất trong tất cả.

Ở đây chúng ta phải nhắc nhở những người cám dỗ tội lỗi còn nhiều hơn những người chịu khuất phục trước sự cám dỗ. Vì vậy, các cô gái và phụ nữ (ngay cả thanh thiếu niên, nam giới ngày hôm nay) cần phải nên cư xử khiêm tốn và biết xấu hổ. Họ nên tránh việc để lộ cơ thể cũng như tránh mọi hành vi khiếm nhã. “Khốn cho kẻ mà chúng (cám dỗ) đến” — Đức Chúa Trời chúng ta phán vậy (Ma-thi-ơ 18:7).

%%%

(continue ...)
Thập giá của sự tiết dục (abstinence)

[Image: 337540942_590421099683689_24562191250696...e=64259BC5]


Mỗi người đều có thập giá của mình và khi vác nó, anh ta đạt được thiên đường. Thập tự giá bao gồm những đau khổ khác nhau, được tạo ra bởi sự mất cân bằng trong bản chất của chúng ta do tội nguyên tổ gây ra. Không ai có thể tránh khỏi những đau khổ do giới tính gây ra, nhưng mọi người đều có thể và phải hướng chúng đến sự tử tế và đôi bên cùng có lợi. Ngay cả trong gia đình ổn định nhất cũng cần phải điều chỉnh và kiềm chế những ham muốn tình dục hỗn loạn.

Những đau khổ do không thể thỏa mãn những ham muốn tình dục là gay gắt nhất trong tình trạng độc thân bắt buộc, tức là khi không thể tạo dựng một gia đình cho dù người ta có mong muốn điều đó mạnh mẽ đến đâu. Do điều kiện xã hội, người đàn ông có lợi thế hơn: nếu một cô gái từ chối lời cầu hôn của anh ta, anh ta có thể cố gắng tìm một người khác để kết hôn. Một cô gái bị tước quyền chủ động đầu tiên này (cô ấy không thể cầu hôn một người đàn ông tốt lắm!). Do đó, một cô gái có nhiều khả năng vẫn độc thân, vì cô ấy không yêu những người cầu hôn cô ấy hoặc vì người đàn ông mà cô ấy quan tâm không quan tâm đến cô ấy, hoặc vì một số lý do khác.

Sự độc thân gây ra bởi mong muốn hoàn thiện đạo đức giống như một cái thang mà người ta leo lên cấp bậc cao nhất. Sự thăng hoa của năng lượng tình dục chắc chắn được tích lũy trong cơ thể, mặc dù không phải là điều dễ dàng thực hiện, nhưng chỉ có thể đạt được thông qua con đường dẫn thẳng lên trên này. Sau đó, một "sự biến đổi của Eros" thực sự diễn ra, khi thập tự giá của những ham muốn tình dục đối lập trở thành cuộc đấu tranh với "con người cũ" trong chính mình. Tất cả sự căng thẳng ở đây được dồn vào một hướng tự do của ý chí của một người đối với Thiên đường, nơi thu hút năng lượng tâm linh của Chúa cho một người.

Nhưng trinh tiết không tự nguyện mà linh hồn không sẵn sàng tham gia sẽ chỉ dẫn đến đau khổ mới. Nó không làm suy yếu áp lực của tình dục, trái lại, nó củng cố nó, bởi vì linh hồn khao khát sự gần gũi thân mật và cảm thấy thiếu nó. Kiểu độc thân này không buộc người ta phải nhìn nhận việc chung sống bất hợp pháp theo một cách mới, hay nó không biện minh cho các mối quan hệ thông thường?

Nhưng cần phải nhớ rằng chỉ trong hôn nhân, sự thỏa mãn ham muốn tình dục mới không mang lại bất kỳ sự dối trá hay bất hòa nào. Ngược lại, các mối quan hệ bất hợp pháp luôn chứa đầy sự dối trá và hủy hoại sức khỏe tinh thần của một người.

%%%

(continue...)
Phần kết luận.

[Image: 337562319_1011197566520381_3162600333419...e=6424CB57]


Tình dục là một lực lượng sáng tạo trong một người. Là một chức năng của cơ thể và tinh thần, nó không đồng nhất với tính dục. Tiết chế tình dục hoàn toàn không giết chết năng lượng tình dục, mà biến nó thành các dạng tinh thần cao hơn. Nhưng sự kiêng khem , tiết dục (tự nguyện, hoặc bắt buộc) cho rằng những nỗ lực tinh thần được thực hiện, đến lượt chúng trở thành nguồn sức mạnh mới, đặt nền móng cho sự nở rộ những phẩm chất sáng tạo ở một người. Đó là lý do tại sao con đường dẫn đến sự hoàn thiện tâm linh mở ra trong sự trinh nguyên.

Sự chia rẽ trong bản năng tính dục, dẫn đến sự tách biệt giữa tình dục và trải nghiệm cảm xúc Eros (khát khao tình yêu) là điều hoàn toàn tự nhiên ở tuổi dậy thì. Tuy nhiên, do bản chất tội lỗi của chúng ta, nó thường trở thành nguồn gốc của xung đột nội tâm, thường rất khó giải quyết nếu không có sự hướng dẫn tâm linh đúng đắn.

Ở tuổi trẻ, tình dục hoành hành và xáo trộn tâm hồn, đôi khi đưa những xung năng tình dục lên hàng đầu một cách mãnh liệt, đôi khi biến thành Eros "xa cách" và chủ nghĩa lãng mạn. Sự "bất ổn" về tình dục của giới trẻ này, thứ tạo ra sự mất cân bằng và mâu thuẫn trong tâm hồn đang tìm kiếm, có thể dằn vặt. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải biết rằng "lỗi lầm của tuổi trẻ" có thể sửa chữa được, nếu chúng được rửa sạch bằng nước mắt ăn năn.

Tình dục có thể gây ra những bệnh tật về cảm xúc và thể xác hoặc trở thành nguồn gốc của bi kịch trong cuộc đời của một người. Tuy nhiên, trong vòng trinh tiết tự nguyện  (của tu sĩ, hay người đời tự nguyện ở độc thân vì một mục đích cao cả giúp ích cho gia đình, xã hội, hay hội thánh của Chúa Ki-tô) thì nó có thể là nguồn khoái cảm cao hơn, mở ra cơ hội phát triển lớn cho tâm hồn. Nó có thể trở thành sự khởi đầu của sự cứu rỗi và sự chuyển hóa năng lực sáng tạo của một người.

Hiện nay vấn đề tình dục được main stream media, thông tin dòng chính đặt lên hàng đầu nên phần lớn những gì từng là “bí mật” bị phơi bày một cách trơ trẽn. Những điều thân mật nhất được thảo luận cởi mở ngay cả với trẻ em mà không ngại ngùng với những từ như tình dục, bao cao su, cực khoái, v.v. Thuật ngữ phổ biến "tình yêu tự do" hoàn toàn không có nghĩa là tình yêu, mà chỉ là sự gian dâm. Nhân loại, bắt đầu giải quyết vấn đề tình dục và tình yêu ngoài sự dạy dỗ của Cơ đốc giáo, đang mắc phải những sai lầm chết người. Cùng với việc thô tục hóa các mối quan hệ thân mật, sự xấu xa và trác táng được nhân lên (trào lưu dâm đãng, đồng tính, hôn nhân đồng tính, biện minh và đề cao khoái lạc nhục thể lên trên hết bằng những mỹ từ hoa mỹ ...v..v...) khiến cho các gia đình đổ vỡ, từ đó dẫn đến sự tan rã của xã hội.

Giáo hội dạy rằng một mặt, trinh tiết và độc thân, và mặt khác, hôn nhân đều phục vụ cho sự cứu rỗi của chúng ta, cả hai đều mở ra không gian cho khả năng sáng tạo của chúng ta. Chỉ cần chúng ta cầm chắc bánh lái và hướng con thuyền đời mình về với Chúa. Chúng ta chỉ cần hiểu sự thật và tính tất yếu của việc vác thập giá cho mỗi người.

Bằng cách kiên nhẫn vác thập giá, dù trên con đường độc thân hay hôn nhân, con người lớn lên về mặt đạo đức, và đây là nhiệm vụ chính của cuộc sống trần thế này.

*** *** *** 
Pages: 1 2